Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

CHÂN THẬT CÔNG ĐỨC ĐỆ TAM THẬP NHẤT

 Phẩm này tiếp nối phẩm trước, tiếp tục nói về những diệu đức tự lợi, lợi tha của bậc Bồ Tát cõi Cực Lạc, gồm ba phân đoạn:

1. – Tiên dĩ dụ minh: Trước tiên Phật dùng thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa.

2. – Minh chân thật công đức: Tức là trình bày công đức của Thật Tướng.

3. – Mông Phật tán thán: Bồ tát cõi Tây phương Cực Lạc được tất cả chư Phật mười phương khen ngợi.

KINH VĂN: 

Kỳ trí hoằng thâm, thí như cự hải. Bồ Đề cao quảng, dụ nhược Tu Di. Tự thân oai quang, siêu ư nhật nguyệt. Kỳ tâm khiết bạch, do như Tuyết Sơn. Nhẫn nhục như địa, nhất thiết bình đẳng. Thanh tịnh như thủy, tẩy chư trần cấu. Xí thịnh như hỏa, thiêu phiền não tân. Bất trước như phong, vô chư chướng ngại. Pháp âm lôi chấn, giác vị giác cố. Vũ cam lộ pháp, nhuận chúng sinh cố. Khoáng nhược hư không, đại từ đẳng cố. Như tịnh liên hoa, ly nhiễm ô cố. Như Ni-câu thụ, phú ấm đại cố. Như kim cang xử, phá tà chấp cố. Như Thiết Vi sơn, chúng ma ngoại đạo bất năng động cố.

VIỆT DỊCH:

Trí họ sâu rộng ví như biển cả. Bồ Ðề cao rộng ví như Tu Di. Tự thân sáng chói vượt xa mặt trời, mặt trăng. Tâm họ trong trắng ví như núi Tuyết. Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng. Thanh tịnh như nước, rửa các trần cấu. Hừng hực như lửa, đốt củi phiền não. Không chấp trước như gió, không gì chướng ngại. Pháp âm như sấm vang, thức tỉnh kẻ chưa giác. Mưa pháp cam lộ, nhuần thấm chúng sinh. Rộng dường hư không, đại từ bình đẳng. Như hoa sen thanh sạch, xa lìa nhiễm ô. Như cây Ni-câu che khắp rộng rãi. Như chùy kim cang, phá tan tà chấp. Như núi Thiết Vi, chúng ma ngoại đạo chẳng thể lay chuyển. 

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên chính là phần đoạn thứ nhất: Dùng các thí dụ để minh thị hạnh đức tự lợi, lợi tha của Bồ Tát cõi Cực Lạc.

“Kỳ trí hoằng thâm, thí như cự hải” (Trí họ sâu rộng ví như biển cả): Dùng biển cả để ví trí tuệ của Bồ Tát cõi Cực Lạc rộng sâu vô cùng. Chữ “hoằng” là rộng lớn, như kinh Hoa Nghiêm nói: “Đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như hải” (Xin nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển).

“Bồ Đề cao quảng, dụ nhược Tu Di” (Bồ Đề cao rộng, ví như núi Tu Di): Dùng núi Tu Di để ví với quả vị Bồ Ðề cao tột của Bồ Tát. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Núi Tu Di chính là trung tâm của một thế giới. Tu Di (Sumeru) dịch sang tiếng Hán là núi Diệu Cao.

Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa giảng: “Hán dịch là Diệu Cao sơn. Do bốn thứ báu hợp thành nên gọi là Diệu. Cao hơn các ngọn núi khác nên gọi là Cao, hay còn dịch là Diệu Quang Sơn vì bốn thứ báu màu sắc, quang minh khác nhau chiếu ngời thế giới”.

Núi Tu Di còn được dịch là An Minh Sơn, Chữ “Minh” ở đây đã hàm ý “diệu quang”, lại còn kiêm cả nghĩa thanh tịnh, vô cấu. Chữ “An” là định, là bất động. Vì thế, bản Tống dịch ghi: “Kiên cố bất động như Tu Di sơn

“Tự thân oai quang, siêu ư nhật nguyệt” (Tự thân sáng chói, vượt xa mặt trời, mặt trăng):“Oai quang” là ánh sáng oai đức, là ánh sáng trí tuệ. Bản Ngụy dịch của Khương Tăng Khải ghi: “Tuệ quang minh tịnh, siêu du nhật nguyệt” (Tuệ quang sáng sạch vượt xa mặt trời, mặt trăng).

Hội Sớ giảng: “Siêu du nhật nguyệt’ là ý nói: Mặt trời, mặt trăng có lúc tròn, khuyết, chớ tuệ quang chẳng vậy. Mặt trời, mặt trăng có lúc hiện, có khi biến mất; tuệ quang thường sáng tỏ. Mặt trời, mặt trăng chẳng soi được nội tâm; tuệ quang soi thấu. Mặt trời, mặt trăng chẳng chiếu khắp; tuệ quang chiếu trọn khắp”. Cho nên, kinh nói: “Tự thân oai quang, siêu ư nhật nguyệt” (Oai quang nơi tự thân vượt xa mặt trời, mặt trăng). Đọc đến đây, chúng ta liên tưởng đến ánh sáng trí tuệ là hiển lộ từ nội tâm, không phải từ bên ngoài. Ý nghĩa này vô cùng quan trọng, nên gọi là tự thân oai quang.

Năng lượng của nhật, nguyệt quá lớn, nếu địa cầu này không có mặt trời thì tất cả sinh vật trên trái đất không thể sinh tồn. Cho nên, ánh sáng mặt trời là sinh mệnh của địa cầu. Tự thân chúng ta cũng có ánh sáng, còn thù thắng hơn ánh sáng của mặt trời, nhưng hiện nay ánh sáng nầy không phát ra được! Nó đã biến chất thành vô minh, do tự tâm ta có chướng ngại! Chướng ngại của tự tâm làm chướng ngại oai quang của tự thân. Trong kinh Phật nói rất hay:’Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Nhật, nguyệt bên ngoài và oai quang của tự thân cũng là do tâm tưởng sinh. Tâm tưởng quả thật là không thể nghĩ bàn!

“Kỳ tâm khiết bạch, do như Tuyết Sơn” (Tâm họ trong trắng ví như núi Tuyết): Chữ “Tuyết Sơn” (núi Tuyết) chính là Ðại Tuyết Sơn (Himalaya). Trong Nam Thiệm Bộ Châu, núi này cao nhất, dù Ðông hay Hạ đều có tuyết phủ nên gọi là Tuyết Sơn. Tuyết Sơn trắng sạch, tinh khiết được ví như giới đức và định thanh tịnh. Ngài Cảnh Hưng bảo: “Định tinh mãn đức, như Tuyết Sơn dã” (Định thanh tịnh, đức viên mãn như núi Tuyết). Ý nói: Tu thiền định có thể giúp ta khôi phục tâm thanh tịnh, không có nhiễm ô, nên dùng núi Tuyết để biểu trưng cho ý nghĩa này.

Sách Hội Sớ cũng bảo: “Ðem giới đức ví với Tuyết Sơn vì giới đức thanh tịnh như Ðại Tuyết sơn thường trắng sạch, chiếu soi chúng sinh khiến họ được thanh lương”.

Tịnh Ảnh Sớ lại giảng: “(Lấy) Tuyết Sơn để hiển thị Định thanh tịnh. Các đức đều tịnh nên gọi là bình đẳng thanh tịnh, nhất như”.

Tâm Bồ Tát vốn tịnh nên tâm họ trắng sạch như núi Tuyết. Tâm Bồ tát nhất như nên giống như núi Tuyết bất động. Tâm Bồ tát bình đẳng nên cả ba thứ (thanh tịnh, bình đẳng, nhất như) không sai biệt, chỉ một màu trắng tinh thuần.

“Nhẫn nhục như địa, nhất thiết bình đẳng” (Nhẫn nhục như đất, tất cả bình đẳng): Dùng cõi đất để ví tâm nhẫn nhục, bình đẳng. Bình đẳng chính là lìa các phân biệt.

Vãng Sinh Luận Chú giảng về tâm nghiệp vô phân biệt như sau: “Như đất mang chở, nặng nhẹ không khác”. Ðại địa nâng đỡ vạn vật, dù vật nặng hay nhẹ vẫn mang đỡ như nhau, chẳng hề chọn lựa, chẳng hề phân biệt. Do vậy, kinh dùng cõi đất để ví cho đức nhẫn nhục của Bồ Tát, xa lìa hết thảy phân biệt ta – người, ân – oán, trái – thuận v.v.

“Thanh tịnh như thủy, tẩy chư trần cấu” (Thanh tịnh như nước, rửa sạch trần cấu): Tâm Bồ Tát thanh tịnh y như nước sạch, tẩy tất cả trần lao cấu nhiễm.

“Xí thịnh như hỏa, thiêu phiền não tân” (Hừng hực như lửa, đốt củi phiền não): Trí tuệ ví như lửa, phiền não ví như củi. Trí tuệ của Bồ Tát sắc bén, mạnh mẽ, rực cháy như lửa; trừ diệt phiền não như lửa đốt củi. Nói rõ hơn: Trí tuệ có thể hóa giải phiền não, chuyển phiền não thành trí tuệ, chuyển tri thức thành trí tuệ. Bồ tát cõi Cực Lạc có năng lực nầy.

“Bất trước như phong, vô chư chướng ngại” (Không chấp trước như gió, không gì chướng ngại): Tánh của gió là lưu chuyển, chẳng trụ vào đâu, cũng không vướng mắc. Cho nên, Bồ Tát tâm  không chấp trước nhập vào các thế giới một cách ung dung tự tại như gió thổi trên không.

“Pháp âm lôi chấn, giác vị giác cố” (Pháp âm như sấm, thức tỉnh kẻ chưa giác): Kinh nói: “Phật ngữ phạm lôi chấn”. Tiếng sấm rền vang xa, rúng động thế gian, được ví như pháp âm của Phật, Bồ Tát có khả năng giác ngộ quần mê. Chữ “Giác vị giác” là giác ngộ kẻ chưa giác, khiến họ được tỉnh giác.

“Vũ cam lộ pháp, nhuận chúng sinh cố” (Mưa pháp cam lộ, thấm nhuần chúng sinh): Dùng cam lộ để ví cho giáo pháp của đức Phật. Cam lộ có thể giúp cho con người cải tử hoàn sinh. Giáo pháp của đức Phật có thể khiến chúng sinh vĩnh ly sinh tử, đắc đại Niết Bàn; vì vậy gọi là “pháp cam lộ”. “Vũ” (雨) giống như trời mưa tuôn thấm nhuần cả ba căn nên kinh nói: “Nhuận chúng sinh” (Nhuần thấm chúng sinh).  Ba căn là: Đại căn, trung căn và tiểu căn. Đại căn như cây lớn, trung căn như cây nhỏ, tiểu căn như cỏ rạ, dây leo…, ngầm biểu trưng cho ba căn tánh khác nhau của con người là: Thượng căn, Trung căn và Hạ căn.

Kinh Pháp Hoa có câu: “Ngã vi Thế Tôn, vô năng cập giả, an ổn chúng sinh, cố hiện ư thế. Vị đại chúng thuyết cam lộ tịnh pháp. Kỳ pháp nhất vị, giải thoát Niết Bàn” (Ta làm Thế Tôn, không ai có thể bằng nổi. Vì an ổn chúng sinh nên hiện trong đời. Vì đại chúng nói tịnh pháp cam lộ. Pháp ấy một vị, giải thoát Niết Bàn).

Phật Ðịa Luận ghi: “(So) với các pháp thế gian tà kiến, kém cỏi của các ngoại đạo, giáo pháp của Như Lai là chân thật nhất, thù thắng, thanh tịnh giống như đề-hồ, cũng giống như cam lộ, khiến cho (chúng sinh) đắc Niết Bàn”. “Đề hồ” là thượng vị tốt nhất trong sữa. “Cam lộ” là thức uống ngon nhất của cõi trời. “Pháp vị” là thượng vị trong các thượng vị. Câu trên ý nói: Mưa pháp cam lộ thấm nhuần tất cả chúng sinh.

Tôi (Hòa Thượng Tịnh Không) thường nói với các đồng học bên cạnh tôi: Suốt đời Ngài Hạ Liên Cư đã cống hiến lớn nhất cho Phật pháp, cho xã hội, cho chúng sinh bản hội tập kinh Vô Lượng Thọ này. Trong đây, ông đã hoàn chỉnh rất hay tất cả những gì đức Thế Tôn còn tại thế, đã giới thiệu về thế giới Tây phương Cực Lạc, khiến người thế gian khi xem tập sách này liền sinh tâm hoan hỉ. Học trò ông là Hoàng Niệm Tổ, phụng Thầy viết chú giải này.

– Chú giải này là gì?

– Là thế, xuất thế gian, là kinh sách xuất thế gian, là tập đại thành của điển tịch Thánh hiền, là Chú Sớ của các bậc Tổ Sư xưa nay. Đây là tập đại thành rất có ý nghĩa. Đọc bộ kinh này đồng nghĩ đọc toàn bộ năm loại nguyên bản dịch. Xem bản chú giải nầy là nắm được cơ bản toàn bộ sưu tập của các bậc đại đức cổ kim trong ngoài. Đây không phải là việc đơn giản, là khó trong các điều khó.

Ngày nay, chúng ta học tập bộ kinh này, chính là học tập Phật pháp viên mãn nhất mà đức Phật đã thuyết trong bốn mươi chín năm. Kinh này, và trong chú giải nầy, pháp gì cũng có như : Kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm, kinh A Hàm, kinh Phương Đẳng v.v. có Thiền tông, có Giáo môn, có Hiển giáo, có Mật giáo … tất cả đều bao hàm trong đây.

Bộ kinh điển nầy là đại viên mãn trong giáo hóa của đức Thế Tôn. Có bộ kinh nầy là đủ. Đây chính là “đề hồ”, “cam lộ”, nhất định phải nắm bắt được điều nầy.

Người trẻ tuổi, tốt nhất  là nên nỗ lực học thuộc kinh nầy, vì học thuộc mới có thể thật sự làm được không gián đoạn. Ở mọi lúc, mọi nơi, có thời gian là đọc kinh, học kinh, chớ để thời gian trôi qua vô ích. Có cơ hội nghe giảng, nên cố gắng nghe. Vì sao? – Vì không nghe thì không hiểu, nghe xong sẽ hiểu.

 “Khoáng nhược hư không, đại từ đẳng cố” (Rộng như hư không, đại từ bình đẳng): Dùng hư không để sánh ví tâm đại từ bình đẳng của Bồ Tát cõi Cực Lạc. Như hư không quả thật là bao la không ngằn mé nên bảo là “khoáng” (曠 kuàng). Từ bi của thế gian là tâm thương người. Đức Phật không nói “yêu” mà nói ‘từ”. Nguyên nhân là gì? – Trong “yêu” ‘tình” liền sinh ra chướng ngại, nhiễm ô!

Nếu đem “tình” đổi thành trí tuệ; yêu thương nầy gọi là từ bi.

Cho nên, từ bi được kiến lập trên cơ sở trí tuệ; yêu thương kiến lập trên cơ sở tình thân, đây là có phân biệt! Nói một cách đơn giản: Trong yêu thương có tình cảm; trong từ bi có lý trí. Lý trí và tình cảm  không giống nhau. Xử lý theo tình cảm luôn xảy ra tệ hại, phiền phức! Trong Phật pháp “trí” “hành” đều quan trọng như nhau. Trí tuệ và từ bi nhất định phải hợp nhất mới mang lại kết quả chân thật.

Bản Ngụy dịch ghi: “Khoáng như hư không, ư nhất thiết hữu, vô hữu trước cố”. Ý nói ví như hư không, nên không chấp trước đối với tất cả “có”. Vì sao? – Phàm những gì có tướng đều là hư vọng! Chỉ cần là pháp hữu vi đều là vô thường, không thật, chớ nên để vào tâm mà sinh chướng ngại!

Sách Hành Sự Sao Tư Trì Ký viết: “Vô sở trước giả, ly trần nhiễm cố” (Không chấp trước gì mới lìa trần nhiễm): – “Trần” là gì? – Là cảnh giới bên ngoài, là lục trần: Sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Năm “trần” trước bao hàm tất cả hiện tượng vật chất thế gian. Riêng “pháp trần” bao hàm cả vật chất lẫn tinh thần. Có thể nói, tất cả pháp do ý thức vin vào mà có thì gọi là “pháp trần”. “Pháp trần” còn gọi là “pháp xứ” (một trong mười hai xứ), hay “pháp giới” (trong mười tám giới). Trong tương quan với “căn cảnh” thì “pháp trần” gọi là “pháp cảnh”. Tất cả những thứ này không có trong tự tánh thanh tịnh. Chẳng những tự tánh không có lục trần, mà lục căn, lục thức cũng không có. “Thức” là vọng tâm không phải chân tâm. Chân tâm thì không sinh không diệt, vĩnh hằng bất biến, đó là thật. “Nhiễm” là nhiễm ô. Tham, sân, si, mạn, nghi v.v. là nhiễm ô. Mắt thấy sắc, thuận ý mình liền khởi tâm tham; không thuận ý mình liền sinh tâm chán ghét, ấy đều là ô nhiễm. Thế nên, không chấp trước như hư không mới xa lìa trần nhiễm.

 “Như tịnh liên hoa, ly nhiễm ô cố” (Như hoa sen thanh sạch, xa lìa nhiễm ô): Hoa sen mọc lên từ bùn nhưng không nhiễm mùi bùn. Dùng hình ảnh sen mọc trong bùn để biểu trưng Bồ tát không rời bỏ chúng sinh. Hoa sen vượt khỏi mặt nước rồi mới nở, ví như tâm Bồ Tát thanh tịnh ly cấu. Trong Đại thừa dùng hoa sen làm biểu pháp rất nhiều. Hoa sen mọc từ bùn, đất bùn tượng trưng cho lục đạo; lục đạo là nhiễm ô. Cành sen mọc trong nước, nước tượng trưng cho thanh tịnh, cho tứ thánh pháp giới (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật). Hoa nở vượt trên mặt nước biểu trưng Bồ tát vượt mười pháp giới (lục đạo và tứ thánh) đến pháp giới Nhất Chân.

“Như Ni Câu thụ, phú ấm đại cố” (Như cây Ni Câu, che khắp rộng rãi): “Ni-Câu” (Nigrodha) là tiếng Phạn, là tên một loài cây. Trung Hoa không có loại cây này, thường dịch là Vô Tiết thụ (cây không có đốt), hay còn gọi là Tung Quảng thụ (cây to rộng).

Sách Tuệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười lăm giảng: “Cây nầy thẳng thớm, không có mấu đốt, tròn trịa đáng yêu, mọc cao đến hơn ba trượng mới trổ cành lá. Hạt của nó bé xíu như hạt cây liễu. Trung Hoa không có loại cây nầy”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không, loại cây nầy chưa từng nghe qua trên địa cầu chúng ta có loại cây như vậy, có thể ở thế giới Cực Lạc có.

Kinh Tội Phước Báo Ứng bảo: “Cây Ni Câu Ðà cao hai mươi dặm, cành mọc phân bố đều đặn xoay tròn (quanh thân cây), bóng rợp đến sáu mươi dặm. Cây nầy có hạt nhiều đến vài muôn hộc” (mỗi hộc là tám đấu Trung Quốc).

Kinh A Duy Việt Trí Già bảo: “Năng ấm ngũ bách xa” (Cây Ni Câu) có thể tỏa bóng che rợp năm trăm cỗ xe). Vì vậy, kinh nói “phú ấm đại cố” (che khắp rộng rãi). Dùng hình ảnh nầy để ví Bồ Tát rộng làm bóng mát che chở khắp chúng sinh.

“Như kim cang xử, phá tà chấp cố” (Như chùy kim cang, phá tan tà chấp): “Kim cang xử”, tiếng Phạn là Phạt Triết La (Vajra); nguyên là một thứ binh khí của Ấn Ðộ. Mật tông dùng nó làm pháp khí để biểu thị trí tuệ kiên cố, bén nhạy.

Ðại Nhật Kinh Sớ, quyển một chép: “Phạt-triết-la là kim cang trí ấn của Như Lai”. Sách còn viết: “Ví như Ðế Thích tay cầm kim cang phá quân Tu La, nay các vị Chấp Kim Cang cũng giống như vậy”.

Sách Nhân Vương Kinh Tụng Niệm Nghi Quỹ, quyển thượng bảo: “Thủ trì kim cang xử giả, biểu khởi chánh trí, do như kim cang” (Tay cầm chày kim cang để biểu thị phát khởi Chánh Trí giống như kim cang).

Sách Chư Bộ Yếu Mục nói: “Chẳng cầm kim cang xử niệm tụng thì không cách chi thành tựu. ‘Kim cang xử’ nghĩa là Bồ Ðề tâm, phá hoại cả hai thái cực Ðoạn và Thường, khế hợp Trung Ðạo. Chính giữa kim cang xử là mười sáu tòa Bồ Tát tượng trưng cho mười sáu thứ ‘Không’ hợp thành Trung Ðạo. Mỗi đầu xử đều có năm nhánh, biểu thị Ngũ Trí của Phật, đồng thời biểu thị mười Ba La Mật phá tan mười thứ phiền não, thành tựu mười thứ Chân Như, chứng ngay lên Thập Ðịa”.

“Kim cang” có nghĩa là kiên định, bất hoại. Chày kim cang là Pháp vật, là biểu pháp quan trọng nhất trong Mật tông, cũng biểu trưng cho tâm Bồ Bề.

– Tâm Bồ Đề là gì? – Là tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Nếu không tương ưng với mười chữ này, tâm Bồ Đề không thể phát khởi.

“Chẳng cầm kim cang xử niệm tụng thì không cách chi thành tựu”: Ý nói, phải dùng trí tuệ chân thật, tâm chân thành khẩn thiết, mới thật sự là cầm chày kim cang thì mới có cảm ứng; không phải chỉ có trên hình thức đọc tụng.

Trước đây, tôi (Hòa Thượng Tịnh Không) ở Đài Trung học kinh giáo với Thầy Lý. Thầy cho tôi bốn chữ: “chí thành cảm thông”. Thầy nói: Kinh Đại thừa quá khó! Muốn hoằng pháp lợi sinh, nếu không có trí tuệ chân thật, không có đức năng chân thật, lấy gì để giúp người? Thầy nêu ra ví dụ: Trí tuệ thế gian, như bộ Tứ Khố Toàn Thư, có thể thông đạt được chăng? – Không thể! Tức là không thông pháp thế gian! Nói đến Phật pháp, có thể thông hết bộ Đại Tạng Kinh chăng? Cũng không thể! Học suốt đời cũng không thông được! Vậy thì phải làm sao? Thầy nói, cổ nhân có một phương pháp, đó là “chí thành cảm thông”, sẽ có cảm ứng. Dùng tâm chân thành khẩn thiết tất sẽ linh. – “Thành” là gì? – Là trong tâm không có tạp niệm; một niệm không sinh là “thành”; không tà tư, không tạp niệm, tâm thanh tịnh là “thành”; tâm bình đẳng là “thành”; tâm giác là “chí thành”.

“Chấp kim cang xử” (cầm chày kim cang), dụng ý là nhắc nhở chúng ta phải chú trọng đến tinh thần hơn là hình thức. Tuy nhiên khi làm Phật sự, hình thức cũng có ưu điểm tượng trưng. “Kim cang xử” có thể phá hoại cả hai thái cực Đoạn và Thường, bởi đó là Nhị biên, tà kiến.

*Chấp Đoạn là sao? -Có người chấp tất cả pháp là Không, Vô thường, vì động vật có sinh lão bệnh tử, thực vật có sinh trụ dị diệt, khoáng vật có thành trụ hoại không, thân tâm con người qua một đời thì dứt hết, chẳng có chi là tội phước, luân hồi, đây là “Đoạn Kiến”.

*Chấp Thường là sao? – Cho rằng tất cả pháp đều vĩnh hằng, bất diệt, đây gọi là “Thường Kiến”. “Đoạn Kiến” “Thường Kiến” đều là cái thấy sai lầm, thiên lệch, kiến giải của họ không viên mãn.

Bồ Tát chánh tri, chánh kiến gọi là “diệu khế Trung Đạo”. “Chính giữa kim cang xử là mười sáu tòa Bồ tát tượng trưng cho mười sáu thứ “Không” hợp thành Trung Đạo: “Mười sáu thứ Không nầy là tên pháp số của Phật Giáo gồm có:

  1. – Nội không
  2. – Ngoại không
  3. – Nội ngoại không
  4. – Không Không (ngay cả “không” cũng  không thể chấp, nếu chấp trước sẽ đọa vào trong cái “không” nên gọi là không không
  5. – Đại không
  6. – Thắng nghĩa không
  7. – Hữu vi không
  8. – Vô vi không
  9. – Tất cánh không
  10. – Vô tế không
  11. – Tán không
  12. – Bản tính không
  13. – Tự tính không
  14. – Nhất thiết pháp không
  15. – Vô tính không
  16. – Vô tính tự tính không.

Mười sáu thứ “Không” này có trong Kinh Đại Bát Nhã, ở đây Hòa Thượng Tịnh Không không giải thích từng phần vì phải mất rất nhiều thời gian, chúng ta có thể tham khảo Kinh Đại Bát Nhã, trong đó giải thích rất tường tận. Đức Thế Tôn suốt hai mươi hai năm giảng về những đạo lý này. Nói dọc, nói ngang cũng không ngoài “Tất cả pháp vô sở hữu, tất cánh không, vô sở  đắc”. Dụng ý của Phật là gì?

– Là muốn dạy chúng ta phải nhìn thấu, buông bỏ vạn duyên, tuyệt đối không nên khởi tâm đông niệm, chấp trước, phân biệt.

Không chấp trước hồi phục tâm thanh tịnh, không phân biệt hồi phục tâm bình đẳng, không khởi tâm động niệm khôi phục tự tánh giác. Rất đơn giản như vậy. Thanh tịnh, bình đẳng, giác là bình thường; không khôi phục thanh tịnh, bình đẳng, giác là trạng thái không bình thường.

“Mỗi đầu xử đều có năm nhánh, biểu thị Ngũ Trí của Phật”: “Ngũ Phật” là danh từ Pháp số. Trong thế giới thai tạng có “Ngũ Phật”. 

– “Thai tạng” là gì?

– “Thai tạng” có hai nghĩa:

-Nghĩa thứ nhất là che lấp, ẩn dấu như thai nhi thu mình trong bụng mẹ, như phiền não ẩn dấu trong tâm khiến trí tuệ chưa thể hiển bày, nên gọi là “thai tạng”.

Nghĩa thứ hai là chứa chấp như thai nhi được cưu mang trong bụng mẹ. Về lý thể, tâm chúng sinh tuy bị phiền não biến chất khiến trí tuệ, đức năng chân thật trong tự tánh chẳng thể hiển bày, nhưng đức năng trí tuệ đó vẫn còn tiềm ẩn, chẳng bao giờ mất nên gọi là “thai tạng”.

Chữ “chứa chấp” ở đây có hai ý nghĩa: chấp trì và sinh ra.

Đức Phật, tâm đại từ bi luôn yêu thương và nuôi nấng chúng sinh như con trong thai mẹ nên gọi là “thai tạng”. Nói rõ hơn, cái lý “thai tạng” vốn đủ trong chúng sinh. Từ “thai tạng” đại bi của đức Phật nẩy sinh thành những pháp môn giáo hóa khác.

Trong “Kim cang giới” cũng có “Ngũ Phật”, “Ngũ trí Như Lai”.

– Kim cang giới là gì?

– Là trí tuệ nội chứng của Phật! Thể của nó rất bền vững, có tác dụng phá tan tất cả phiền não. “Kim cang giới” cũng giống như “Chứng Tự Chứng Phần” trong “Tứ Phần” của A Lại Da. Phần nầy là trí tuệ Bát Nhã vốn có trong tự tánh, nó có thể chuyển “bát thức” thành “Tứ Trí”. Đây là ý nghĩa rõ ràng hơn một chút về “thai tạng” “kim cang”.

“Ngũ Trí Như Lai”, trong Bồ Đề Tâm Luận nói:

1. – Đông phương A Súc Như Lai. “A súc” là tiếng Phạn, nghĩa là bất động. A Súc Như Lai do thành Đại Viên Cảnh Trí cũng gọi là Kim Cang Trí.

2. – Nam phương Bảo Sinh Như Lai: do thành Bình Đẳng Tánh Trí cũng gọi là Quán Đảnh Trí.

3. – Tây phương A Di Đà Phật: do thành Diệu Quan Sát Trí, cũng gọi là Liên Hoa Trí, Pháp Luân Trí.

4. – Bắc phương Bất Không Thành Tựu Như Lai: Do Thành Sở Tác Trí, cũng gọi là Yết Ma Trí (“yết ma” là tác pháp, trong tác pháp quan trọng nhất là trì giới, giữ quy cũ)

5. – Trung phương Tỳ Lô Giá Na Như Lai: do thành Pháp

Giới Trí. Trong Mật tông gọi là Đại Nhật Như Lai, trong Hiển giáo gọi là Tỳ Lô Giá Na Phật.

Ngoài biểu trưng cho Ngũ Trí của Phật, “kim cang xử” còn biểu thị “mười Ba La Mật” (tức Thập Độ) có công năng “phá tan mười thứ phiền não, thành tựu mười thứ Chân Như, chứng ngay Thập Địa”.

Theo Duy Thức Luận, quyển chín: “Mười Ba La Mật” chính là mười thắng hạnh của hàng Bồ tát Thập Địa gồm có: 1. – Thí Ba La Mật 2.- Giới Ba La Mật 3. – Nhẫn Ba La Mật 4. – Tinh Tấn Ba La Mật 5. – Tĩnh lự Ba La Mật 6. – Bát Nhã Ba La Mật 7. – Phương tiện thiện xảo Ba La Mật 8. – Nguyện Ba La Mật 9. – Lực Ba La Mật 10. – Trí Ba La Mật. 

Mười thứ phiền não chính là “Kiến tư phiền não”, còn gọi là “Kiến Tư Hoặc”. Trong Kiến Tư Hoặc Kiến Hoặc Tư Hoặc.

“Hoặc” là mê hoặc. “Kiến Hoặc” là cái thấy sai lầm, đem các vọng kiến, phân biệt, tà vạy để đo lường đạo lý, đưa đến sự mê hoặc xằng bậy, như Ngã Kiến, Biên Kiến v.v. “Tư Hoặc” là suy nghĩ sai lầm là đem tình cảm mê chấp tham, sân, si mà suy nghĩ về các sự vật trong thế gian. Hai thứ mê hoặc nầy là nguyên nhân khiến chúng sinh phải trôi lăn sinh tử trong ba cõi.

Muốn dứt bỏ hai sự việc trên, trước hết phải dứt bỏ Kiến Hoặc, sau mới dứt bỏ Tư Hoặc. Dứt bỏ được Kiến Hoặc gọi là Kiến Đạo; dứt bỏ được Tư Hoặc gọi là Tu Đạo; dứt bỏ được cả hai thứ mê hoặc đó gọi là Vô Học Đạo. Tông Thiên Thai quy kết tất cả mê hoặc hư vọng thành ba thứ: Kiến Tư, Trần Sa Vô Minh. Kiến Tư là chướng ngại của Niết Bàn; Trần Sa là chướng ngại của Bồ Đề; Vô Minh là chướng ngại của Thật Tướng Trung Đạo.

“Mười thứ Chân Như”: Đây là Chân Như của Viên Giáo được nói trong kinh Pháp Hoa. Chỉ có Phật và Bồ tát Thập Địa mới có thể đạt đến cùng tận thật tướng của các pháp. Chân Như là “Viên Thành Thật Tánh”. Trong giáo lý Đại thừa nói, tất cả pháp có ba loại tánh: Y tha khởi tánh, biến kế chấp tánh viên thành Thật tánh. Trong ba loại tánh này, chỉ có “Viên thành thật tánh” là thật. “Y tha khởi tánh” là hiện tượng chúng duyên hòa hợp mà sinh khởi, không có tự thể. “Biến kế sở chấp tánh” cũng không có tự thể, nó sinh ra từ trong khái niệm trừu tượng. Ví dụ: Thời gian và không gian là biến kế sở chấp tánh. Trong Bách Pháp có hai mươi bốn pháp bất tương ưng, đều là “Biến kế sở chấp”, từ phân biệt chấp trước mà sinh ra. “Viên thành thật tánh”: Chữ “viên” là viên mãn; chữ ‘thành” là thành tựu; chữ “thật tánh” là không phải giả.

– Thật tánh là gì?

– Là bản thể của tất cả mọi hiện tượng, là Chân Như, chân tâm, pháp tánh, tự tánh v.v. nó không có hiện tượng, nó không là gì cả, nhưng nó năng hiện.

– Chân Như chỉ có một, sao lại nói thành mười thứ Chân Như? – Bởi Chân Như thật tánh tuy không có sai biệt, nhưng tùy Thắng đức mà giả lập ra mười loại đức của Chân như. “Đức” ở đây là Chân Như khởi tác dụng, đức dụng của Chân Như có mười loại, nhưng Thể của Chân Như chỉ có một.

– Đức dụng nầy từ đâu hiển lộ?

– Từ chúng sinh có “cảm”, Chân Như liền có “ứng”. Trong “ứng” có tác dụng không đồng vì hằng thuận chúng sinh mà tùy hỉ công đức.

Kinh Lăng Nghiêm nói: “Tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng”

Bây giờ chúng ta biết: Động vật có cảm ứng, thực vật có cảm ứng, khoáng vật cũng có cảm ứng; ngay đến một hạt bụi, một nguyên tử, một lượng tử thảy đều có cảm ứng. – Vì sao vậy? -Vì nó đều có cơ thể! -Sao biết nó có cơ thể? -Vì nó đều từ Chân Như biến hiện ra! – Chân Như ở đâu? – Chân Như ở trong vạn pháp. Về mặt Chân Như mà nói: Pháp pháp đều như vậy!

Mười Chân Như mà Bồ tát Thập Địa chứng được là:

1. – Biến hành chân như. “Vị thử chân như nhị không sở hiện, vô hữu nhất pháp nhi bất tại cố”. Chân Như này do hai “Không” mà hiện ở khắp các pháp nên gọi là “Biến hành chân như”. “Nhị không” ở đây là Nhân Không và Pháp Không.

2. – Tối thắng chân như. “Vị thử chân như cụ vô biên đức, ư nhất thiết pháp tối vi thắng cố”. Chân như nầy có đủ công đức vô biên, vượt trội hơn tất cả các pháp khác nên gọi là “tối thắng”

3. – Thắng lưu Chân Như. “Vị thử Chân Như sở lưu giáo pháp, ư dư giáo pháp cực vi tối thắng”. Giáo pháp mà Chân Như nầy lưu chuyển rất thù thắng nên gọi là “thắng lưu”.

– Giáo pháp hiển lộ từ Chân Như là gì?

– Là giáo pháp Đại thừa.

Trong Phật pháp có “Thật”, “Quyền”. Đức Phật nương vào Nhị Đế để thuyết pháp. Nếu Phật nương vào Chân Đế, đó chính là “Thật”. Nếu nương vào Tục Đế, đó chính là “Quyền”.

Kinh Pháp Hoa nói: “Đức Như Lai xuất hiện ở đời, chỉ vì mục đích duy nhất là nói pháp Nhất Thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện thuyết”.

“Pháp Nhất Thừa” chính là ‘Thắng lưu Chân Như”. Từ Chân Như hiển lộ pháp Nhất Thừa. Nhị Thừa và Tam Thừa chỉ là “dư giáo”, là Phật phương tiện nói.

– Ngày nay, pháp mà chúng ta học, phải chăng từ Chân Như hiển lộ?

– Đúng vậy! – Vì sao?

– Vì pháp nầy dạy chúng ta một đời thành Phật, đó chính là lưu xuất từ tự tánh.

– Có bao nhiêu pháp Đại Thừa lưu xuất từ tự tánh?

– Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là “Thắng lưu”! Đều giúp chúng ta minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật.

– Vì sao Phật phải hiển lộ ra nhiều pháp môn như vậy?

– Vì căn tánh chúng sinh bất đồng! Thiện căn, phước đức, nhân duyên mỗi người không giống nhau.

4. – Vô Nhiếp Thọ Chân Như. “Vị thử chân như, vô sở hệ thuộc, phi ngã chấp đẳng sở y thủ cố”. Chân Như nầy không bị lệ thuộc, không phải là cái mà ta giữ lấy; cũng chính là nói Chân Như không thuộc bất cứ một pháp nào, cũng không tách rời bất cứ một pháp nào, nó là bản thể của tất cả pháp. – Pháp bất thiện thì sao? – Cũng từ Chân Như hiển lộ ra! Nói cách khác, tất cả: Tịnh pháp, nhiễm pháp, thiện pháp, ác pháp đều y Chân Như làm thể.

– Vì sao có nhiễm, tịnh, thiện, ác?

– Do mê, ngộ không giống nhau! Đó là thức “năng biến” không tương đồng, đã làm lệch lạc pháp “năng hiện, sở hiện” của Chân Như. Đó chính là pháp hữu vi, do tâm thức sở biến.

5. – Vô Biệt Chân Như. “Vị thử chân như loại vô sai biệt, phi như nhãn đẳng loại hữu dị cố”. Chân Như này không có các loại sai biệt, không phải là có dị loại như loại mắt, v.v. nên gọi là “vô biệt”. Chữ “đẳng” trong “nhãn đẳng” là chỉ lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Các căn sai khác nên cảnh giới cũng sai khác, nhưng Chân Như thì không sai biệt. Sáu căn, sáu trần, sáu thức đều từ Chân Như làm Thể; nên Chân Như ở trong vô lượng phẩm loại đều không có sai biệt. Giống như chúng ta xem màn hình ti vi: màn hình không có sai biệt, nhưng hiện tướng trên màn hình thì có sai biệt. Nhưng, nếu không có màn hình thì tướng không thể hiện ra.

6. – Vô nhiễm tịnh chân như. “Vị thử chân như bản tánh vô nhiễm, diệc bất khả thuyết hậu phương tịnh”. Bản tánh của Chân Như này là vô nhiễm, không phải là về sau mới thanh tịnh. Ý rằng không thể nói: Trước nhiễm sau mới tịnh. Vì sao vậy? – Vì căn bản, Chân Như không có nhiễm!

Khi Ngài Huệ Năng kiến tánh, câu đầu tiên Ngài nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”. “Thanh tịnh” này không phải đối với nhiễm tịnh mà nói; nhiễm tịnh không liên quan gì đến tự tánh.

– Nhiễm, tịnh từ đâu mà có?

– Từ trong hiện tượng mà có!

Giống như chúng ta xem ti vi: Hiện tượng trong Ti-vi có thiện, có ác, có nhiễm, có tịnh, nhưng màn hình thì không có thiện, ác, nhiễm, tịnh chi cả. Phải hiểu minh bạch sự việc nầy, mới biết: Chân Như là chân thật, là vĩnh viễn bất biến.

– Hiện nay chúng ta có cần đoạn ác tu thiện chăng?

– Rất cần!

– Vì sao vậy?

– Vì chúng ta hoàn toàn ở trong “nhiễm”! Đây là kỹ xảo giúp ta buông bỏ khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước; là pháp phương tiện trong tu học, giúp chúng ta nâng cao cảnh giới: Buông bỏ Kiến Tư chứng A La Hán; buông bỏ Trần Sa chứng Bồ tát; buông bỏ khởi tâm động niệm liền đại triệt đại ngộ, kiến tánh thành Phật, nhập vào cảnh giới “vô nhiễm tịnh Chân Như”, thấy rõ “Chân Như” không có nhiễm, tịnh.

7. – Pháp vô biệt chân như. “Vị thử chân như, tuy đa giáo pháp, chủng chủng an lập nhi vô dị cố”. Loại Chân Như nầy, đa số pháp là an lập, không có biệt dị, nên gọi là pháp vô biệt. – Pháp nầy là gì? – Là Phật pháp, là giáo pháp của Như Lai, ngàn kinh vạn luận, tám vạn bốn ngàn pháp môn, vô lượng pháp môn. Giáo pháp tuy nhiều, bao gồm chủng chủng không tương đồng, nhưng Chân Như là nguyên lý, nguyên tắc vẫn không hề sai khác.

8. – Bất tăng giảm chân như. “Vị thử chân như ly tăng giảm chấp”. Loại Chân Như nầy xa lìa chấp trước tăng giảm nên gọi là bất tăng giảm. “Chấp” là chấp trước. Chân Như không có tăng, giảm; không có sinh diệt, không tịnh không nhiễm, không đoạn không thường; đây là nói theo thể tánh. Nếu nói theo tướng và tác dụng thì nó có tăng giảm.

9. – Trí tự tại sở y chân như. “Vị nhược đắc thử chân như dĩ, ư vô ngại giải đắc tự tại cố”. Hàng Bồ tát nếu chứng được loại Chân Như nầy, sẽ được vô ngại giải, đắc tự tại nên có tên như vậy. “Giải” là trí tuệ; “Vô ngại” là không có chướng ngại. Thông thường trong các tôn giáo khen ngợi “thần” là “toàn tri toàn năng”. Nhưng, thật ra “thần” vẫn có chỗ không biết; chỉ có người kiến tánh mới thật sự là “vô sở bất tri, vô sở bất năng”. Ở đây nói “nếu được Chân Như nầy”, có nghĩa là được minh tâm kiến tánh, được trí tuệ vô ngại, tự tại đối với tất cả pháp, hoàn toàn minh bạch, đó chính là khôi phục được bản năng tự tánh của chính mình.

10. – Nghiệp tự tại đẳng sở y Chân Như: “Vị nhược đắc thử Chân Như dĩ, phổ ư nhất thiết thần thông tác nghiệp, tổng trì định môn, giai tự tại cố”. Câu “nhất thiết thần thông” ở đây là chỉ “Tam minh, lục thông”. “Tác nghiệp” là sự nghiệp giáo hóa chúng sinh. “Tổng trì” là nắm bắt được cương lĩnh, nguyên tắc chung. – Cương lĩnh và nguyên tắc chung nầy là gì? – Là nhìn thấu, buông xả, không nhiễm chút bụi trần. Đây là được đại tự tại. Thật quá ư tuyệt vời!

“Chứng ngay lên Thập Địa”: “Thập Địa” ở đây là mười Địa của Bồ tát Đại Thừa chứng, như kinh Hoa Nghiêm đã thuyết minh, gồm có:

1. – Hoan hỉ địa: Do thấy được đạo nên sinh tâm hoan hỉ.

2. – Ly cấu địa: Do tu đạo mà được “ly cấu”, tức là buông bỏ.

3. – Phát quang địa: Nhờ buông bỏ mới được khai trí tuệ, tức là bản giác trí tuệ quang minh phát quang.

4. – Diệm tuệ địa: Ánh sáng có ngọn lửa lớn xuất hiện, biểu trưng cho đại trí tuệ phát sáng. Đến lúc này, quang minh xí thạnh tức trí tuệ quang minh đã đạt đến tột cùng, đã giác ngộ viên mãn, thiêu hủy hết tất cả tình kiến, mầm mống của phiền não. Trong kinh nói: “minh cực giác mãn”.

5. – Nan thắng địa: Do “Diệm Tuệ Địa” ở phía trước đã phá trừ tất cả tình kiến, tất cả đồng và dị, nên thông đạt tất cả pháp, tức là các cảnh giới của Phật mà không ai có thể thắng được, nên có tên như vậy.

6. – Hiện Tiền địa: Giai đoạn này, tánh đức của chân tâm hiện tiền. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Chân như vô vi, tánh trong sáng hiển hiện rõ rệt, gọi là Hiện Tiền Địa”.

7.- Viễn Hành địa: Trong kinh nói, tận cùng biên tế của Chân Như, vượt xa, rất xa thế gian và hữu tướng hành của Nhị Thừa nên gọi là Viễn Hành Địa.

– Chân Như có biên tế chăng?

– Không có!

Cổ nhân nói hai câu rất có đạo lý: “Kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội”. Dùng hai câu này để hình dung Chân Như thì rất tương ưng.

8. – Bất Động địa là “vốn không dao động”. Bồ tát ở địa vị nầy được bốn đức như sau:

– Thứ nhất là “Bất động”, không bị ngũ cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc) và Tam độc (tham, sân, si) làm dao động; không bị ma phiền não quấy động tâm tư.

– Thứ hai là “Bất đọa”: Không bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; không sa đọa vì phạm “Tứ trọng cấm” và vì ấm ma.

– Thứ ba là “Bất thoái”, không bị tụt xuống hai địa vị Tiểu Thừa là Thanh Văn và Duyên Giác; không bị thiên ma làm lùi bước trên con đường đi đến đạo quả cứu cánh Giác ngộ.

– Thứ tư là “Bất tán”: Không bị tám lạc khởi dị kiến, tà phong mà làm tà mạng; không bị tử ma làm cho tán lạc.

9. – Thiện Tuệ địa: Đến Địa nầy đã đắc được vi diệu “Tứ vô ngại giải” (còn gọi là Tứ Vô ngại biện, Tứ Vô ngại trí, bao gồm: Pháp vô ngại, Nghĩa vô ngại, Từ vô ngại và Nhạo thuyết vô ngại), diễn thuyết tất cả pháp ở mười phương. Đây là “năng sinh vạn pháp”.

10. – Pháp Vân địa: Trí tuệ của Bồ tát ở bậc này như đám mây lành tưới mưa cam lộ xuống khắp tất cả. Chữ “Vân” là bóng mây. Tâm từ bi của Bồ tát lợi ích chúng sinh nhưng không có khởi tâm động niệm (“bổn tịch bất động”). Đây là khởi tác dụng, cảm ứng đạo giao với tất cả chúng sinh khắp biến pháp giới, hư không giới. Chúng sinh có “cảm” lập tức liền “ứng”. Đến “Pháp vân địa” mới thật sự làm đến được “chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”.

Tóm lại, “kim cang xử” là biểu tượng của Kim Cang Chánh Trí, đẩy lui ma quân, đoạn phiền não, đắc thành tựu. Ðấy chính là ý nghĩa “phá tà chấp” được nói trong kinh đây.

“Như Thiết Vi sơn, chúng ma ngoại đạo bất năng động cố” (Như núi Thiết Vi, chúng ma ngoại đạo chẳng thể lay chuyển).

Theo sách chú giải của cụ Hoàng: Một tiểu thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, bên ngoài có tám núi, tám biển. Dãy núi ngoài cùng được gọi là núi Thiết Vi (Cakravāda), hay còn gọi là Kim Cang Vi sơn. Do sắt có tánh chất kiên cố nên gọi là kim cang. Kim cang phá hoại tất cả nhưng không thứ nào phá tan được nó. Vì vậy, kim cang được dùng để ví đức tánh bất hoại, “chúng ma ngoại đạo” không thể phá hoại.

Chữ “chúng ma” xin xem lại lời giải thích chữ “phiền não” trong phẩm mười một.

“Ngoại đạo” là những đạo được thành lập không xuất phát từ lời Phật dạy. Do thực hành những điều không thuộc về chân lý tối cực, trái với tự tánh nên gọi là ngoại đạo. Ngoài ra, trong kinh Đại Thừa, đức Phật thường nói: “Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp không có tâm”; cầu tự nội tâm là Phật đạo, cầu pháp từ ngoài tâm, đó là ngoại đạo. Cho nên, kinh Phật được gọi là nội điển, từ trong tâm tánh mà hiển lộ ra, khác hẳn với học vấn ghi nhớ của thế gian. Chúng ta đọc nhiều, nghe nhiều đều từ bên ngoài vào, bên trong là “ngộ”. Khai ngộ là “nội”. Phật pháp đáng quý nhất là khai ngộ. – Làm thế nào khai ngộ? – Tâm thanh tịnh sẽ khai ngộ.

Sách Tư Trì Ký nói: “Gọi là ngoại đạo vì chẳng nhận lấy sự giáo hóa của Phật, riêng hành tà pháp”.

Thiên Thai Tịnh Danh Sớ (là kinh Duy Ma Cật) nói: “Pháp ngoại vọng kế, tư xưng ngoại đạo” (Hiểu sai lầm ra ngoài giáo pháp thì gọi là ngoại đạo). Chữ “Pháp” ở đây là Phật pháp.

Sách Viên Giác Kinh Tập Chú nói: “Tâm hạnh không đúng với Lý nên gọi là ngoại đạo”.

Sách Câu Xá Huyền Nghĩa nói: “Học sai trái với Chân Lý, rong ruổi theo vọng tình của mình, chẳng biết xoay về giác ngộ bên trong thì gọi là ngoại đạo”. Từ xưa đến nay biết bao nhiêu người học Phật “bất phản nội giác” (chẳng biết xoay về giác ngộ bên trong), kết quả biến thành ngoại đạo lúc nào không hay! Chúng ta phải ghi nhớ đến lời Phật dạy: “Phật pháp vô nhân thuyết, tuy trí mạc năng giải”. Hai câu nầy rất quan trọng! Khi mới học Phật, chưa có năng lực phân biệt đúng, sai, tà, chánh, phải nương tựa thầy để chỉ đường cho chúng ta, việc nầy rất quan trọng! Ngạn ngữ có câu: “Thầy hay dạy được trò giỏi”. Chúng ta phải chọn thầy, chọn bậc minh sư, chọn pháp môn phù hợp với căn tánh của chính mình. Điều nầy cần phải có trí tuệ. Nếu bản thân không có năng lực chọn lựa, nên gần thiện tri thức để hướng dẫn, chỉ bày cho ta.

Kinh Ðại Trang Nghiêm Pháp Môn cũng nói: “Văn Thù Sư Lợi vấn Kim Sắc Nữ, thùy thị ngoại đạo. Nữ ngôn: – Ư tha tà thuyết, tùy thuận nhẫn thọ, thị danh ngoại đạo” (Văn Thù Sư Lợi hỏi Kim Sắc Nữ: ‘Ai là ngoại đạo?’ Cô ta bảo: – Tùy thuận, nhẫn thọ tà thuyết của kẻ khác thì gọi là ngoại đạo): Đây là người không có trí tuệ để chọn lựa, cứ nghe theo một cách tùy tiện!

Các kinh nói chẳng đồng nhất về số lượng các ngoại đạo: Kinh Ðại Nhật liệt kê ba mươi thứ, kinh Niết Bàn lại bảo có chín mươi lăm thứ. Kinh Hoa Nghiêm và Ðại Trí Ðộ Luận đều bảo có chín mươi sáu thứ. Ðấy là vì kinh và luận trên dùng quan điểm Ðại Thừa bài xích Tiểu Thừa, tức là: Trong chín mươi sáu thứ được kể, có cả Thanh Văn đạo.

Bách Luận ghi: “Thuận theo đạo Thanh Văn đều là tà”. Thanh Văn tuy thuộc trong chánh giáo của Như Lai, nhưng so với Đại thừa thì đó là quyền pháp nên cũng bị tính gộp vào chín mươi lăm thứ ngoại đạo thành ra có đến chín mươi sáu thứ.

KINH VĂN:

Kỳ tâm chánh trực, thiện xảo quyết định. Luận pháp vô yếm, cầu pháp bất quyện. Giới nhược lưu ly, nội ngoại minh khiết. Kỳ sở ngôn thuyết, linh chúng duyệt phục. Kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu tuệ nhật, phá si ám. Thuần tịnh ôn hòa, tịch định minh sát; vi đại đạo sư, điều phục tự tha, dẫn đạo quần sinh, xả chư ái trước. Vĩnh ly tam cấu, du hí thần thông.

VIỆT VĂN:

Tâm họ chánh trực, khéo giỏi quyết định, luận pháp không chán, cầu pháp không nhọc. Giới tợ lưu ly, trong ngoài sáng sạch. Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui, tin phục. Ðánh trống pháp, lập pháp tràng, sáng tuệ nhật, phá si ám. Thuần tịnh ôn hòa, tịch định minh sát; làm đại đạo sư, điều phục cả mình lẫn người, dẫn dắt quần sinh bỏ các ái trước. Xa hẳn ba cấu, ung dung tự tại.

GIẢNG:

Phần kinh văn trên giảng rõ công đức chân thật của các Bồ Tát ở Tây Phương Cực Lạc. Ðó là đức tự giác, giác tha, hoằng pháp lợi sinh.

“Kỳ tâm chánh trực” (tâm họ chánh trực): “Chánh” (正) là chẳng tà, Trực (直 zhí) là chẳng cong vạy. Kinh Tịnh Danh dạy: “Trực tâm thị đạo tràng” (Trực tâm là đạo tràng).

Sách Vãng sinh Luận Chú ghi: “Chánh trực là ngay thẳng. Do chánh trực nên sinh tâm thương xót tất cả chúng sinh”.

Phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa có câu: “Ư chư Bồ Tát trung, chánh trực xả phương tiện, đản thuyết vô thượng đạo” (Đối với chư Bồ Tát, chánh trực xả bỏ pháp phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng).

Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng câu trên như sau: “Ngũ thừa còn cong quẹo nên chưa phải là Trực. Thông giáo, Biệt giáo còn thiên lệch nên chẳng phải là Chánh. Nay bỏ cả sự thiên lệch lẫn cong quẹo ấy, chỉ nói một đạo Nhất Thừa chánh trực”.

Có nhiều cách hiểu “Ngũ thừa”, nhưng “Ngũ thừa” được dùng trong sách Văn Cú có nghĩa là: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa.

Câu “kỳ tâm chánh trực” (tâm họ chánh trực) hàm nghĩa tâm Bồ Tát đã xa lìa các giáo pháp lệch lạc, cong vạy, chỉ thuần là Nhất Thừa viên pháp, như cỗ xe lớn, ngay ngắn, được trâu trắng kéo chạy vùn vụt như gió.

“Thiện xảo quyết định”:

Phật Ðịa Luận giảng chữ “thiện xảo” như sau: “Xứng thuận cơ nghi nên gọi là thiện xảo”.

Sách Pháp Hoa Văn Cú cũng bảo: “Hiển lộ thiện quyền phương tiện, tỏ rõ phương tiện tinh vi”. Câu đầu nói đến đức giác tha, khéo quán căn cơ để dạy pháp thích hợp, đây tức là hành quyền phương tiện. Câu sau nói về tự giác: Khéo nhập quán hạnh đến mức tinh vi.

Theo Hòa thượng Tịnh Không, chữ “phương” trong “phương tiện” là phương pháp; chữ “tiện” là tiện nghi. “Phương tiện” là phương pháp xảo diệu, thích hợp nhất. Thế nên, phương tiện không phải là pháp cố định mà là pháp tùy cơ ứng biến, dùng phương cách thích đáng khiến người khác hoan hỉ tiếp nhận. Khi họ minh bạch rồi có thể hành trì. Riêng đối với chính mình thì “quán hành tinh vi”. “Quán hành tinh vi” là tăng trưởng lòng tin kiên định cho chính mình, từ đó sinh ra phương tiện giác ngộ thiện xảo, tùy cơ ứng duyên.

Kinh Hoa Nghiêm có nói đến mười trí thiện xảo như sau:

1. – “Liễu đạt thậm thâm Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp rất sâu): Đây là mục tiêu tu học đầu tiên của chúng ta, phải thấu hiểu, thông đạt Phật pháp. Vì Phật pháp rất thâm sâu không có cảnh dừng.

2. – “Xuất sinh quảng đại Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo xuất sinh Phật pháp rộng lớn): Từ Phật pháp “thậm thâm” đến “quảng đại”. Đây là nói rõ Phật pháp sâu rộng không có biên tế. – “Phật pháp” là gì?

– “Pháp” là vũ trụ; thông thường chúng ta nói; tất cả vạn sự vạn vật trong biến pháp giới, hư không giới; “lý sự, tánh tướng, nhân quả”; sáu chữ nầy đều bao hàm hết, “pháp” chỉ là một đại danh từ. “Phật” là giác, là thông đạt thấu triệt, không lầm chánh giác. Tóm lại, “Phật pháp” là thấu triệt hoàn toàn tánh tướng, lý sự, nhân quả của vạn sự vạn vật trong vũ trụ. Đây quả thật là điều không phải dễ! Nhưng, đức Phật có phương tiện thiện xảo chỉ dạy chúng ta: Phải chọn một pháp trong tất cả pháp, phải thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, chắc chắn sẽ thành tựu.

3. – “Tuyên thuyết chủng chủng Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo tuyên nói các thứ Phật pháp): Đây là dạy học, giảng kinh thuyết pháp, mục đích là giúp chúng sinh kiến lập tín tâm, kiến lập nguyện tâm. Nguyện nầy ở Tịnh Độ, chính là nguyện vãng sinh thế giới Tây Phương Cực Lạc.

4. – “Chứng nhập bình đẳng Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo chứng nhập Phật pháp bình đẳng): Đây là chân công phu, là hưởng thụ chân thật.

5. – “Liễu minh sai biệt Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo hiểu rõ Phật pháp sai biệt): Phía trước đã đạt được “bình đẳng”, kế đến là “sai biệt trí”. “Bình đẳng trí” “căn bản trí”, nói cách khác: Tâm bình đẳng là căn bản trí, trong Tịnh Tông gọi là nhất tâm bất loạn. “Nhất tâm” là Định, “bất loạn” là Tuệ. Định Tuệ song tu. Từ “căn bản trí” phát ra “hậu đắc trí”. “Hậu đắc trí” “vô sở bất tri”, thấu triệt tất cả pháp tướng sai biệt, tác dụng sai biệt, đó chính là “vô sở bất tri”. Chúng sinh căn tánh khác nhau; thiện căn, phước đức không tương đồng, nên giáo hóa chúng sinh không phải chỉ có một phương pháp mà vô biên phương tiện, vô lượng pháp môn, nên nói “thiện xảo hiểu rõ Phật pháp sai biệt”.

6. – “Giải ngộ vô sai biệt Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo giải ngộ Phật pháp không sai biệt): Phía trước là “sai biệt”, ở đây là “vô sai biệt”. “Vô sai biệt” trong “sai biệt”, mới là viên mãn.

-“Sai biệt” là gì?

– Là giả tướng! “Vô sai biệt” mới là Thật.

“Vô sai biệt” ở đâu?

-Ở trong “sai biệt”! Như phía trước chúng ta đã nói qua: Dùng vàng làm đồ trang sức, đồ trang sức có sai biệt nhưng vàng không sai biệt. Vàng chính là đồ trang sức; đồ trang sức chính là vàng; vàng và đồ trang sức là một chẳng phải hai. Nếu thông đạt sự việc nầy sẽ không còn khởi tâm phân biệt, chấp trước, trở về tự tánh bổn định.

7. – “Thâm nhập trang nghiêm Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo thâm nhập trang nghiêm Phật pháp): “Thâm nhập trang nghiêm Phật pháp” là tự nhiên đầy đủ cả hai loại “tự thọ dụng” “tha thọ dụng”. Bây giờ chúng ta đã hiểu, thế giới Cực Lạc cũng là tự nhiên thành tựu, không cần ai thiết kế, không cần ai kiến tạo, tất cả đều tâm tưởng sự thành.

8. – “Nhất phương tiện nhập Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo một phương tiện nhập Phật pháp): Đây là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”, chỉ cần một phương tiện là đủ. Thông thường mọi người rất hâm mộ đa tài, đa nghệ, quảng học đa văn, nhưng họ không biết thông đạt đó thật sự không có lợi ích! Chỉ có thâm nhập một môn mới đạt đến tinh vi. “Tinh vi” ở đây là minh tâm kiến tánh, mới giải quyết được mọi vấn đề.

9. – “Vô lượng phương tiện nhập Phật pháp thiện xảo trí” (Trí thiện xảo vô lượng phương tiện nhập Phật pháp): Nhờ thâm nhập một môn, được đại triệt đại ngộ nên “vô sư trí”, “tự nhiên trí” hiển bày, phát ra “vô lượng phương tiện nhập Phật pháp” có thể tự độ lẫn độ tha.

10. – “Tri vô biên Phật pháp vô sai biệt thiện xảo trí” (Trí thiện xảo biết vô biên Phật pháp không sai biệt): Điều nầy trong Giáo môn gọi là đại khai viên giải, trong Thiền tông gọi là minh tâm kiến tánh, trong Tịnh Độ gọi là Lý nhất tâm bất loạn.

Tóm lại, mười loại trí thiện xảo đều bắt nguồn từ “thâm nhập tinh vi”. “Thâm nhập tinh vi” chính là “thâm nhập một môn, huân tu lâu dài”. Chưa “thâm nhập tinh vi” vào một pháp môn, chưa thấu triệt tận nguồn gốc của tâm, chưa gọi là thành tựu. Phật pháp giống như một quả cầu. Mỗi điểm trên mặt quả cầu là một pháp. Vô số điểm trên mặt cầu là vô số pháp, vô số phương tiện, vô lượng pháp môn. Tất cả đều thông qua tâm vòng tròn. Thông qua tâm vòng tròn là thấu triệt nguồn gốc của tâm, tức là “thâm nhập tinh vi”, là xuyên suốt tất cả. Vì sao vậy? – Vì mọi điểm đều không rời tâm vòng tròn! Chưa đạt đến tâm vòng tròn (hay tâm của quả cầu) là chỉ biết có một điểm, ngoài ra đều không biết! Đạt đến tâm vòng tròn là biết tất cả.

Cũng thế, tâm của vạn pháp là tự tánh; chỉ cần thấy tánh (kiến tánh) là biết tất cả vạn pháp.

Cũng có thể nói:  Từ “Căn Bản Trí” (tức tâm vòng tròn) khởi tác dụng là “Sai Biệt Trí”, có thể thấu suốt các trí thiện xảo như: Xuất sinh, ngôn thuyết, chứng nhập v.v…

“Quyết định” có nghĩa là việc đã nhất định, không thay đổi nữa.

Sách Thắng Man Bảo Quật nói: “Quyết định là tín”. Câu nói nầy rất hay! Người ngày nay không có tín tâm, tâm họ trôi nổi không có quyết định, lập trường không vững vàng, không biết phải nên làm gì, không có năng lực tùy cơ ứng biến!  “Thiện xảo” là tùy cơ ứng biến, “quyết định” là chân thật bất biến. Chỉ cần có “Thiện xảo quyết định”  mới giải quyết được mọi vấn đề khó khăn trước mắt.  “Thiện xảo quyết định” cũng có nghĩa là “tùy cơ ứng duyên” nhưng thảy đều chân thật.

“Luận pháp vô yểm, cầu pháp bất quyện” (Luận pháp chẳng chán, cầu pháp chẳng nhọc): Câu trước nói về giác tha, câu sau nói đến tự giác. Câu “Luận pháp vô yểm” (Luận pháp không chán), ý nói: Phật pháp mà ta học được cũng thích chia sẻ với mọi người mà không chán.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Chuyên thích cầu pháp, tâm không chán đủ là phương tiện tự lợi… Thường muốn rộng nói, chí không mệt mỏi chính là lợi tha”: Câu “Chuyên thích cầu pháp”: Đây chính là đã nếm được pháp vị nên sinh tâm yêu thích học Phật, “Tâm không chán đủ” là chí nguyện học Phật không bao giờ nhàm mõi.

Con người hiện nay xem trọng thời gian là để tranh thủ kiếm tiền, tranh giành địa vị, danh lợi. Người hiếu học Phật pháp, tranh thủ từng giây từng phút để học Phật, xem như đây là “phương tiện tự lợi” chân thật nhất của đời mình. Những gì họ tiếp thu được từ Phật pháp cũng “thường muốn rộng nói” chia sẻ lợi ích chân thật với mọi người “chí không mệt mỏi”, đây chính là bền chí với tâm nguyện lợi tha.

Sách Hội Sớ bảo: “Bồ Tát cầu pháp là để lợi người nên đắc được pháp nào cũng vì họ mà nói. Vì tất cả chúng sinh (thuyết pháp) trải vô lượng kiếp chẳng hề chán mỏi”.

“Giới nhược lưu ly” (Giới tợ lưu ly): “Giới” là giới luật, tức là môn đầu tiên trong “Tam vô lậu học”: Giới, Ðịnh, Tuệ. Phụng trì giới luật trong sạch, tinh khiết để tự trang nghiêm. Trì giới khiết tịnh khác nào ngọc lưu ly. Kinh Phạm Võng nói: “Giới như minh nhật nguyệt, diệc như anh lạc châu” (Giới như nhật, nguyệt sáng, cũng như hạt châu trong chuỗi ngọc). Vì vậy, kinh nói: “Giới nhược lưu ly”.

“Nội ngoại minh khiết” (Trong ngoài sáng sạch): Chữ “nội” là tâm ý, ý nghiệp thanh tịnh; khởi tâm, động niệm đều lìa khỏi cấu nhiễm. Chữ “ngoại” là chỉ oai nghi, oai nghi đầy đủ đó là tánh đức thể hiện ra bên ngoài. Trong, ngoài đều thanh khiết nên nói ra điều gì cũng khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỉ, kính phục thật sự. Do vậy mà kinh nói: “Kỳ sở ngôn thuyết, linh chúng duyệt phục” (Lời lẽ nói ra khiến mọi người vui, tin phục).

“Kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu tuệ nhật, phá si ám” (Đánh trống pháp, lập pháp tràng, sáng tuệ nhật, phá si ám). Sách Hội Sớ giảng như sau: “Pháp âm vang dội khác nào tiếng trống. Oai đức dẹp tà khác nào thắng tràng. Tuệ nhật chiếu mê khác nào mặt trời sáng ngời”.

Chữ: “Pháp cổ” (Trống pháp) là ví pháp âm của Bồ Tát vang xa cảnh tỉnh mọi người.

Chữ “pháp tràng” là ví oai đức của Bồ Tát dẹp tan tà ác, như Gia Tường Sớ viết: “Kiến lập là dáng vẻ chiến thắng ví như thuyết pháp hàng ma đắc thắng vậy”. Ðem “tuệ nhật” (mặt trời trí tuệ) ví cho trí tuệ Bồ Tát chiếu phá si ám, lay tỉnh quần mê.

Chữ “thắng tràng”: “Tràng” (幢 zhuàng) là một loại cờ hiệu, có hình ống dài, chung quanh có kết tủa, thường được treo lên cao để báo hiệu; loại dẹp gọi là “phan”. Ở Ấn Độ thời xưa, khi đánh thắng trận, vua chúa hay cho dựng tràng màu sắc rực rỡ, trên treo các thứ bảo vật gọi là “thắng tràng”.

Tịnh Ảnh Sớ lại dùng ba tuệ “Văn, Tư, Tu” để giải thích như sau: “Kích pháp cổ là Văn Tuệ pháp. Do tiếng trống vang xa nên nói là ‘kích pháp cổ’ (đánh trống pháp). ‘Kiến pháp tràng’ (dựng pháp tràng) là Tư Tuệ pháp. ‘Kiến’ (建 jiàn) là thành lập, nghĩa lý được phô bày là Tràng (幢). “Diệu tuệ nhật’ (chiếu rực mặt trời trí tuệ) là trừ si ám. Ðó chính là Tu Tuệ pháp khai hóa chúng sinh”.

Theo Hòa thượng Tịnh Không: Có thể hiểu “kích pháp cổ” là giảng kinh dạy học. “Pháp tràng” là đạo tràng để truyền pháp, là trung tâm học tập. “Kiến pháp tràng” là thành lập các cơ sở như thư viện, trường học, chùa chiền v.v…để truyền trao chánh pháp.

“Kích pháp cổ” là nghiêng nặng về dạy học. “Kiến pháp tràng” là nghiêng về kiến thiết vật thể. Ngày nay, “kích pháp cổ, kiến pháp tràng” không phải trong tự viện. Vì sao vậy? -Vì ảnh hưởng không lớn! Trong chùa, thử hỏi mỗi ngày có được bao nhiêu người đến nghe, học tập? -Cao lắm cũng chỉ vài trăm người! Cho nên, “kiến pháp tràng” ngày nay phải như truyền hình vệ tinh, mạng internet, phát sóng đi trên toàn thế giới, mọi người đều có thể xem, nghe. Như vậy, mới có hiệu quả lớn, mang lợi ích đến cho nhiều người.

“Kích pháp cổ” (đánh trống pháp), phải đào tạo một số người chân tu có khả năng giảng dạy Phật pháp để tuyên dương giáo lý Phật Đà. Nếu có được tiết mục truyền hình nầy, có giảng kinh của các tôn giáo, có truyền thống văn hóa giáo dục, bất luận thời gian nào, mọi người đều có thể xem, nghe thì lợi lạc xiết bao! Tôi (Hòa thượng

Tịnh Không) tin chắc xã hội động loạn này, trong thời gian vài năm có thể hóa giải, khôi phục lại bình thường, xã hội an định, hài hòa, không phải không làm được! Đấy chính là “diệu tuệ nhật, phá si ám”, dùng trí tuệ sáng như nhật, nguyệt, phá trừ bóng tối vô minh của chúng sinh.

“Thuần tịnh ôn hòa”:  Chữ “Thuần” (淳 chún) là thuần hậu, người xưa gọi là chân thật, thật thà. “Tịnh” (浄 jìng) là thanh khiết. “Thuần tịnh” là nội tâm thanh tịnh, thuần hậu. “Ôn” (温 wèn) là tốt đẹp; “Hòa” (和 hé) là hài hòa. Như vậy, “thuần tịnh ôn hòa” chính là tâm thanh tịnh, thật thà, biểu hiện ra bên ngoài là đức tính ôn hòa.

 “Tịch định minh sát”: “Tịch định” là thanh tịnh; “minh sát” (明 察 míng chá) là trí tuệ quán sát, chiếu soi. Nếu dùng Phật pháp mà nói: “minh” là căn bản trí; “sát” là hậu đắc trí. “Minh” là chiếu kiến: “vô sở bất tri, vô sở bất năng”, nhưng “minh sát” là đến từ “tịch định”.

Sách Tông Kính Lục viết: “Lấy nhất tâm làm tông, chiếu vạn pháp như tấm gương”. Ý nói: “Tịch định” có tính chất như tấm gương, có công năng chiếu soi tất cả, chẳng bỏ sót mảy mai nào nên bảo là “minh sát”. Cũng có thể nói :Tịch định minh sát” chính là tịch mà thường chiếu, như trong kinh Phật dạy: “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”.

“Vi đại đạo sư” (làm đại đạo sư):

Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “đạo sư” như sau: “Dùng trí tuệ để khai hóa người khác thì gọi là đại đạo sư”.

Sách Hội Sớ bảo: “Vì kẻ lạc đường mà chỉ ra con đường đúng nên gọi là đạo sư”. Như bậc đại sĩ Phổ Hiền, mười đại nguyện vương dẫn dắt về Cực Lạc, thật là pháp tối cực viên đốn phổ lợi quần sinh trong cửu giới cũng gọi là Đại đạo sư.

“Điều phục tự tha” (Điều phục cả mình lẫn người): “Ðiều” (調 tiáo) là điều hòa, điều thuận. “Điều phục tự tha” là chế phục được tâm mình và tâm người; Phục (伏 fù) là hàng phục, chế phục những phiền não, tập khí; hàng phục tham, sân, si, mạn, nghi v.v…

Kinh Kim Cang nói: “Đương vân hà trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?” (Nên trụ như thế nào, nên hàng phục tâm như thế nào?) .

Nếu giảng rộng ra thì khai hiển bổn tâm chính là “điều”; hàng phục tâm sai trái chính là “phục”. Đã là bậc đại đạo sư thì ắt phải điều phục được tâm mình lẫn tâm người, tự thân nhập đạo, cũng khiến cho tất cả chúng sinh nhập đạo; tự tâm đại giác, cũng khiến cho tất cả chúng sinh đi vào con đường giác ngộ. Đây gọi là đấng đại đạo sư.

“Dẫn đạo quần sinh, xả chư ái trước” (Dẫn dắt quần sinh, xả bỏ các tình ái, chấp trước). “Trước” (著 zhù) là chấp trước, nhiễm trước. “Ái” (愛 ài) là dục vọng, ái dục. Cổ đức có câu: “Ái bất trọng bất sinh Ta Bà; niệm bất nhất bất sinh Tịnh độ”  (Ái chẳng nặng chẳng sinh Ta Bà; niệm chẳng nhất chẳng sinh Tịnh độ).

Chúng sinh nhiễm chấp khó xả, nhưng Bồ Tát có diệu đức, chính là giảng kinh Vô Lượng Thọ nầy, có thể khiến chúng sinh vĩnh lìa được ái nhiễm, nên kinh bảo: “Vĩnh ly tam cấu” (Vĩnh viễn lìa khỏi ba cấu – ba cấu là tham, sân, si).

Bồ Tát cũng có thể khiến cho chúng sinh “du hí thần thông”.

“Du” (遊 yóu) là thông suốt, vượt qua giống như dòng nước chảy, “hí” (戲 xì) là an nhàn, thong thả. Như vậy, “du hí thần thông” là được ung dung, tự tại.

Tóm lại, ý của đoạn kinh trên là:

– Bồ Tát cõi Cực Lạc nhất tâm chánh trực, an trụ trong pháp Nhất Thừa, lại có đầy đủ phương tiện thiện xảo, chính là dùng bốn chữ “A Di Đà Phật”, có thể giúp chúng sinh vững vàng xa lìa thế giới Ta Bà đến cõi Tây phương Cực Lạc thành Phật, lại siêng gắng cầu pháp, còn giảng rộng khắp chúng sinh giáo pháp Nhất Thừa không hề nhàm mõi. Bồ Tát giới đức thanh tịnh nên những gì họ nói ra đều khiến cho người nghe sinh tâm hoan hỉ, tin phục. Ðấy chính là đánh trống pháp, giương cao pháp tràng, phóng ánh sáng trí tuệ lớn lao, phổ biến rộng khắp diệu pháp, phá trừ vô minh si ám của chúng sinh.

– Bồ Tát cõi Cực Lạc nội tâm thuần tịnh; dáng vẻ, phong cách ôn hòa, không chỉ nội tâm thanh tịnh mà còn thể hiện bên ngoài, trong ngoài như một. Bồ Tát “tịch định minh sát”, Ðịnh – Tuệ đẳng trì, tịch chiếu đồng thời. Vì thế, các Ngài luôn là bậc đại đạo sư cho chúng sinh, tự giác, giác tha, khiến khắp chúng sinh thảy đều thuận theo Phật pháp, hàng phục tâm sai quấy, buông bỏ mọi tham ái, chấp trước,vĩnh viễn dứt ba độc, khai hiển bản tánh, an trụ thần thông tự tại vô ngại.

KINH VĂN: 

Nhân duyên nguyện lực, phát sinh thiện căn, tồi phục nhất thiết ma quân, tôn trọng phụng sự chư Phật. Vi thế minh đăng, tối thắng phước điền, thù thắng cát tường, kham thọ cúng dường. Hách dịch hoan hỉ, hùng mãnh vô úy . Thân sắc tướng hảo, công đức biện tài, cụ túc trang nghiêm, vô dữ đẳng giả.

VIỆT DỊCH:

Nhân duyên nguyện lực, phát sinh thiện căn, dẹp tan tất cả ma quân, tôn trọng, cúng dường chư Phật. Làm đèn sáng cho thế gian, (làm) ruộng phước tối thắng, Đức cao tột bực, đáng được cúng dường. Rạng rỡ, hoan hỉ, hùng mãnh, vô úy. Thân sắc, tướng hảo, công đức biện tài đầy đủ trang nghiêm không ai sánh nổi.

GIẢNG:

Ðoạn kinh này giảng rộng về công đức chân thật của Bồ Tát. “Nhân duyên nguyện lực”.  Chữ “nhân duyên” được bản Ngụy dịch ghi là “nhân lực, duyên lực”.

Ngài Tịnh Ảnh giảng: “Nhân lực, duyên lực là môn thứ nhất để dựa vào đó mà khởi tu. Hết thảy hạnh lành đã tu trong quá khứ sinh ra điều lành trong hiện tại thì gọi là ‘nhân lực’. Gần thiện tri thức, lắng nghe chánh pháp là duyên lực”.

Ngài Vọng Tây bảo: “Căn lành từ những đời trước gọi là nhân lực. Thân cận thiện tri thức là duyên lực. Do nhân duyên hòa hợp nên có thể khởi hạnh”.

Hai thuyết trên tương đồng, nhưng sách Hội Sớ lại giảng hơi khác. Sách viết: “Nhân lực là Bồ Ðề tâm, đây chính là cái nhân gốc của Phật đạo, xuyên suốt thập phương tam thế khiến cho chúng ma kinh hãi lớn lao. Duyên lực là rộng cầu tri thức, những điều lành của đại chúng. Duyên này có đại oai lực chuyển phàm nhập thánh”.

Xét về văn tự, thuyết này khác với hai thuyết trên, nhưng thật chẳng mâu thuẫn nhau: Ngài Tịnh Ảnh lấy điều thiện từ quá khứ làm cái nhân cho hiện tại; trong khi sách Hội Sớ xem tâm Bồ Ðề hiện tại là cái nhân để thành Phật. Thật ra, nếu không có hành thiện trong nhiều kiếp quá khứ thì không thể nào phát khởi tâm Bồ Ðề trong hiện tại. Hơn nữa, nếu không thể phát khởi tâm Bồ Ðề thì không có cái nhân thành Phật. Cho nên, hai thuyết trên có thể bổ sung lẫn nhau.Nhưng thuyết của sách Hội Sớ gần với ý chỉ của  kinh Vô Lượng Thọ hơn, vì phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm chính là tông chỉ của kinh này.

Tịnh Ảnh Sớ giảng “nguyện lực” như sau: “Nguyện để khởi hạnh thì gọi là nguyện lực”. Ngài Vọng Tây bảo: “Cầu Bồ Ðề Tâm là nguyện lực”.

Sách Hội Sớ lại bảo: “Nguyện lực là Tứ Hoằng Thệ Nguyện để nghiêm tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh”.

Tổng hợp cả ba thuyết trên thì dùng Tứ Hoằng Thệ Nguyện để trang nghiêm cõi nước, thành tựu chúng sinh, chí cầu tâm Bồ Ðề vốn có, lại từ nguyện khởi hiện hành nên gọi là “nguyện lực”.

Tứ Hoằng Thệ Nguyện vô cùng quan trọng, là cương lĩnh chung của hoằng nguyện trong nhà Phật:

-Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.

– Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.

– Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.

– Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”

Nếu nói tường tận về bốn nguyện này, thật sự mà nói chỉ có hai nguyện: Nguyện đầu là “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ”; ba nguyện sau gộp lại thành một nguyện. Không có ba nguyện sau thì nguyện đầu chỉ là giả. Vì muốn độ chúng sinh nên mới đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo. Cho thấy: đoạn phiền não, học pháp môn, thành Phật đạo không phải vì mình. Ý nghĩa này rất sâu, nếu vì mình thì hoàn toàn không có “Tứ Hoằng Thệ Nguyện”, nhất định sẽ không cầu được! Vì sao vậy? – Nếu vì mình, chính là đã bị phiền não dẫn đầu, làm sao có thành tựu! Muốn thành tựu phải lấy chúng sinh là mục tiêu hàng đầu. Chư Phật, Bồ tát có thể tu thành Phật đạo cũng dựa vào yếu tố động lực nầy.

Nhân duyên hòa hợp như vậy, lại đầy đủ nguyện lực thì tự nhiên “xuất sinh thiện căn”. Ngài La Thập giảng chữ “thiện căn” như sau: “Tâm thiện kiên cố sâu chẳng thể nhổ trốc nên gọi là Căn”.

Tỳ Bà Sa Luận bảo: “Thiện căn là không tham, không sân, không si. Tất cả thiện pháp đều từ ba điều ấy mà sinh”.

Sách Di Ðà Yếu Giải nói: “Bồ Ðề chánh đạo gọi là thiện căn, tức là cái nhân gần”. “Bồ Ðề chánh đạo” chính là “phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Ðấy chính là cái nhân gần để thành tựu Bồ Ðề.

Nhân (因 yīn) là nguyên nhân, hạt giống. Ý nói: “Phát Bồ Ðề tâm, nhất hướng chuyên niệm” là hạt giống để thành tựu quả Bồ Ðề nên gọi là “thiện căn”.

Kinh Ðại Bi cũng dạy: “Nhất xưng Phật danh, dĩ thị thiện căn, nhập Niết Bàn giới, bất khả tư nghị” (Một phen xưng danh hiệu Phật, dùng thiện căn ấy để nhập Niết Bàn giới chẳng thể cùng tận). Từ chỗ nầy, chúng ta thấy rõ thiện căn niệm Phật chính là nguyên nhân gần. Từ nhân được quả; quả có đầy đủ chủng tử lại trở thành cái nhân thù thắng. Cứ triển chuyển, xoay vần như thế nên thiện căn vô tận. Bồ Tát có đầy đủ những diệu đức như sau:

– “Tồi phục nhất thiết ma quân” (Dẹp tan tất cả ma quân): “Tồi phục” là phá trừ và hàng phục (xem lại lời giải thích về chữ “Ma” ở phần trước). Trí Ðộ Luận bảo: “Ðoạt tuệ mạng, phá hoại gốc thiện đạo pháp công đức nên gọi là Ma”. Loại quỷ thần này có đại thần lực, có khả năng gây chướng nạn cho người tu pháp xuất thế. Quân lính của ma, được gọi chung là ma quân.

– “Tôn trọng, phụng sự chư Phật”: Trong phẩm bốn mươi mốt của kinh này có nói kẻ vãng sinh về biên địa ở trong hoa sen, nhưng hoa sen không nở, họ không thấy được Phật nên nói: “ư liên hoa trung, bất đắc xuất hiện” (ở trong hoa sen, chẳng được xuất hiện), “ư ngũ bách tuế trung, bất kiến Tam Bảo, bất đắc cúng dường phụng sự chư Phật” (trong năm trăm năm, chẳng thấy Tam Bảo, chẳng được cúng dường, phụng sự chư Phật). Vì vậy, chẳng thể do chút thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được thấy Phật và phụng sự chư Phật. Nay các Bồ Tát được phụng sự chư Phật chính là do có nhiều thiện căn, phước đức, nhân duyên vậy.

“Vi thế minh đăng” (Làm đèn sáng soi thế gian): Trí tuệ của Bồ Tát ví như đèn sáng, chiếu soi, phá trừ tất cả mê muội, si ám  của chúng sinh, khiến họ hiểu rõ chánh đạo.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Tự cụ trí tuệ, năng sinh vật giải”  (Tự đủ trí tuệ, khiến cho chúng sinh khai giải chánh đạo): Chữ “Vật” ở đây là chỉ cho tất cả chúng sinh, bao hàm mười pháp giới, cây cỏ, hoa lá, sơn hà, đại địa. Những thiên địa, vạn vật nầy nhờ ánh sáng trí tuệ của Phật, Bồ tát chiếu soi mà khai phát tín giải, nên gọi là: “Vi thế minh đăng” (Làm đèn sáng soi thế gian).

Sách Hội Sớ giảng: “Soi tỏ thế gian mê ám nên bảo là đèn soi sáng thế gian”.

“Tối thắng phước điền” ((phước điền tối thắng):  Chữ “Ðiền” (田 tián) là mảnh ruộng, hàm nghĩa sinh trưởng. “Phước điền” là ruộng phước. Cúng dường bậc đức hạnh đầy đủ sẽ được phước báo. Gieo phước thì tạo được phước, đó gọi là gieo trồng phước điền. Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói, có ba loại phước điền:

1. Báo ân phước điền đó là cha mẹ, sư trưởng.

2. Công đức phước điền là Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo.

3. Bần cùng phước điền là những người bần cùng, khốn khổ.

Cúng dường ba hạng người trên đều có thể sinh phước nên gọi là phước điền.

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ,“tối thắng phước điền” có nghĩa là trong các thứ phước điền, các Bồ Tát là thù thắng nhất. Theo Hòa thượng Tịnh Không: Từ trong ý nghĩa của câu này thì phước điền tối thắng là người niệm Phật cầu sinh Tịnh Độ, họ chính là phước điền tối thắng. Vì sao vậy? Vì tương lai họ nhất định vãng sinh đến Tây Phương Cực Lạc. Hiện tại, họ chưa đi nhưng vẫn là Bồ tát tiêu chuẩn. Bồ tát chuẩn trong các loại phước điền vẫn là thù thắng nhất, là đại phước điền không phải tiểu phước điền. Điều nầy không ai biết. Tịnh Ảnh Sớ giảng:

“Năng sinh vật thiện, danh thắng phước điền”. Chữ “Vật” là chỉ cho tất cả chúng sinh. Có thể giúp cho tất cả chúng sinh sinh thiện, phát khởi thiện căn, đây gọi là “phước điền tối thắng”.

Đến đây, cụ Hoàng Niệm Tổ đặc biệt nhắc nhở chúng ta, bốn câu sau đây nên đọc một mạch thì dễ thấy trọn nghĩa:

“Vi thế minh đăng, tối thắng phước điền, thù thắng cát tường, kham thọ cúng dường” (Làm đèn sáng cho thế gian, làm ruộng phước tối thắng, là đức cao tột bực, đáng được cúng dường).

“Thù thắng cát tường” chính là ý nghĩa sâu xa trong thánh hiệu của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Chữ “Văn Thù” (Manju) có thể dịch là Thắng, Diệu, Ðệ Nhất. Chữ “Sư Lợi” (Shri) có thể dịch là Ðức, Cát Tường v.v… Kinh Ðại Nhật gọi ngài Văn Thù là Diệu Cát Tường. Ngài là thầy của bảy đức Phật. Nay các Bồ Tát cõi Cực Lạc có đầy đủ trí đức của Văn Thù đại sĩ, thấy rõ được bản tâm, nên họ là “phước điền tối thắng”, xứng đáng kham nhận sự cúng dường của tất cả trời người. Trong Phật pháp: Ngài Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí; ngài Phổ Hiền tượng trưng Hậu Đắc Trí.

“Hách dịch hoan hỉ, hùng mãnh vô úy”. Chữ  “hách” (赫 hè) là sáng chói, chữ “dịch” (奕 jì) là thạnh. “Hách dịch hoan hỉ” ý nói nét mặt rạng rỡ, tươi vui.  Chữ “hùng mãnh”, trong kinh Pháp

Hoa phẩm Thọ Ký có nói: “Ðại hùng mãnh Thế Tôn”. Hai chữ “hùng mãnh” nầy là khen ngợi đức Thế Tôn đã đoạn tận phiền não nên gọi là “hùng”, việc mà người khác không thể làm được mà đức Thế Tôn làm được nên xưng Ngài là đại anh hùng. Chữ “mãnh” là tiến lên, dũng mãnh tinh tấn không khiếp nhược. Giữa đại chúng thuyết pháp không hề luống cuống, sợ hãi, vì trí tuệ đức hạnh của Phật đã viên mãn, thông đạt vô ngại, nên nói là “vô úy” (không khiếp sợ). Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương nói: “Hóa tâm bất khiếp, danh vi vô úy” (việc hóa độ chúng sinh, không hề có tâm khiếp sợ nên gọi là vô úy).

“Thân sắc tướng hảo”: Chữ “Tướng hảo” là ý nói Bồ Tát có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi tùy hình hảo.

“Công đức biện tài” : Ý nói Bồ Tát có đầy đủ chủng chủng công đức, và chủng chủng biện tài vô ngại.

Chữ “cụ túc trang nghiêm, vô dữ đẳng giả” (đầy đủ trang

nghiêm, không ai sánh nổi): Đây là câu tổng kết những lời khen ngợi ở trên: Như Lai dùng phước đức, trí tuệ trang nghiêm tự thân. Các Bồ Tát cõi Cực Lạc cũng có đầy đủ phước đức, trí tuệ trang nghiêm, vượt xa tất cả thế gian. Ðoạn kinh này cực lực tán dương công đức chân thật của Bồ Tát, thật là hi hữu.

KINH VĂN:

Thường vị chư Phật sở cộng xưng tán, cứu cánh Bồ Tát chư Ba La Mật, nhi thường an trụ bất sinh bất diệt chư tam-ma-địa, hành biến đạo tràng, viễn nhị thừa cảnh. A Nan! Ngã kim lược thuyết bỉ Cực Lạc giới sở sinh Bồ Tát chân thật công đức, tất giai như thị. Nhược quảng thuyết giả, bách thiên vạn kiếp bất năng cùng tận.

VIỆT DỊCH:

Thường được chư Phật đồng cùng khen ngợi, Bồ Tát rốt ráo các Ba La Mật, nhưng thường an trụ trong các tam-ma-địa, hành biến đạo tràng, xa lìa cảnh Nhị Thừa. A Nan! Ta nay nói đại lược: Công đức chân thật của các Bồ Tát sinh trong thế giới Cực Lạc kia thảy đều như vậy. Nếu nói rộng ra thì trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể nói hết. 

GIẢNG:

“Thường vị chư Phật sở cộng xưng tán” (Thường được chư Phật đồng cùng khen ngợi). Ðoạn kinh văn trên là ý chính thứ ba: Chư Phật cùng đồng thanh ca ngợi công đức chân thật của Bồ tát ở thế giới Cực Lạc.

“Cứu cánh Bồ Tát, chư Ba La Mật, nhi thường an trụ bất sinh bất diệt chư tam-ma-địa” (Bồ Tát rốt ráo các Ba La Mật, nhưng thường an trụ trong các tam-ma-địa bất sinh bất diệt)

Tam-ma-địa” là thiền định. Có rất nhiều phương pháp để đạt được thiền định.  Phương pháp của chúng ta là “Trì danh niệm Phật”. Bất cứ trong hoàn cảnh nào, phải có trí tuệ, phải duy trì tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi, không sinh tâm thương, ghét, oán hận v.v… Dùng câu A Di Đà Phật, loại bỏ tập khí, phiền não mà tu tam-ma-địa, đây gọi là thật sự biết niệm Phật.

Kinh Ðại Niết Bàn đã dạy: “Niết ngôn bất sinh, Bàn ngôn bất diệt. Bất sinh bất diệt, danh Đại Niết Bàn” (Niết là bất sinh, Bàn là bất diệt. Bất sinh bất diệt gọi là Ðại Niết Bàn).

Kinh Duy Ma dạy: “Pháp bổn bất sinh, kim tắc vô diệt” (Pháp vốn chẳng sinh, nên nay chẳng diệt).

Theo sách chú giải của cụ Hoàng: “Tiểu Thừa dựa vào lý Hữu Dư Niết Bàn để quán bất sinh bất diệt, nên nghiêng về Thiên Không. Ðại Thừa từ Không nhập Giả, nên ngay từ sự tướng hữu vi mà hiển thị lẽ bất sinh bất diệt; ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự chính là chân. Vì vậy nên có thể suốt ngày độ sinh mà suốt ngày chẳng độ, suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch, lại có thể thực hành rốt ráo cả sáu độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v… mà vẫn an trụ trong các tam-muội bất sinh bất diệt, không mất định ý”.

Hòa thượng Tịnh Không giải thích : Đó chính là chỗ khác nhau giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tiểu Thừa “nhập ư bất sinh bất diệt”, họ không làm gì cả. Đại Thừa không như vậy! Đại Thừa biết sinh diệt và kh

ông sinh diệt là một, chẳng phải hai. Sự tướng có thể tùy sinh diệt, nhưng tâm thì không sinh không diệt, đây mới thật sự là không sinh không diệt. “Ngay nơi tướng chính là đạo, ngay nơi sự chính là chân. Vì vậy, nên có thể suốt ngày độ sinh mà suốt ngày chẳng độ, suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch”.

Thử hỏi, lúc Thế Tôn còn tại thế, giảng kinh thuyết pháp, Ngài có khởi tâm động niệm chăng? – Không có! Nếu khởi tâm động niệm, khi gặp vấn đề, Ngài không thể giải đáp! Vì sao? – Vì khởi tâm động niệm là dùng tri thức, dùng tư duy, không phải trí tuệ. Có trí tuệ chân thật mới thấy được nguồn gốc, mới giải quyết được mọi vấn đề. Những văn tự, ngôn ngữ mà Phật thuyết giảng đều phát xuất từ tự tánh, tự nhiên hiển lộ.

“Tuy suốt ngày tiếp xúc vạn duyên mà nhất tâm không tịch”, đây là chân tướng của Phật.

“Lại có thể thực hành rốt ráo cả sáu độ”: “Sáu độ” ở đây chính là Lục độ vạn hạnh, mười nguyện Phổ Hiền; họ thật sự làm đến được rốt ráo, viên mãn. Vì vậy, “mà vẫn an trụ trong các tammuội bất sinh bất diệt, không mất định ý”

“Hành biến đạo tràng”. Đạo tràng là gì? –Theo Hòa thượng Tịnh Không đó chính là nơi dạy học. Đạo tràng nầy không có cố định: Một người cũng giảng, hai người cũng giảng, bất luận khi nào và bất luận nơi đâu đều là đạo tràng, nên gọi là “hành biến đạo tràng”.

“Viễn Nhị Thừa cảnh” (xa lìa cảnh Nhị Thừa): “Nhị Thừa” là A La Hán, Bích Chi Phật.

– Vì sao nói viễn ly Nhị Thừa cảnh?

– Vì đối với người Tiểu Thừa: Người nào họ không thích sẽ không dạy; nếu có ai hỏi, họ mới dạy; không hỏi họ không dạy!

Đức Phật và Bồ tát không như vậy! Không hỏi cũng dạy. Nhà Phật thường nói: “Phật không độ người vô duyên”. “Người vô duyên” là người không tin, Phật có nói họ cũng không hiểu! Phật không dạy hạng người nầy. Nếu họ tin thì có thể nghe hiểu, Phật nhất định sẽ dạy, dù không hỏi Ngài cũng dạy. Đây là tâm đại từ bi đến tột cùng của Như Lai, của Đại Thừa là  “Duy y Nhất Thừa pháp, cứu cánh bỉ ngạn” (chỉ nương theo một pháp Nhất Thừa, rốt ráo đạt đến bờ kia), chính là giúp chúng sinh minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Đây là mục tiêu cao nhất và cũng là sau nhất trong Phật pháp.

Thập Trụ Bà Sa Luận bảo:

“Nếu chìm đắm trong cảnh giới của Thanh Văn, Bích Chi Phật thì gọi là Bồ Tát chết, là mất tất cả lợi ích. Cho dù đọa vào địa ngục cũng không sợ hãi đến thế. Nếu sa vào cảnh giới Nhị Thừa là điều sợ hãi lớn”. Vì sao vậy? – Vì không thể thực hiện nguyện hóa độ chúng sinh, thì làm sao thành Phật! Cho nên, Bồ Tát “viễn Nhị Thừa cảnh”.

Từ chữ “A Nan” trở đi là lời đức Thế Tôn tổng kết công đức chân thật của Bồ Tát cõi Cực Lạc nên nói: Nhược quảng thuyết giả, bách thiên vạn kiếp bất năng cùng tận” (Nếu nói rộng ra thì trăm ngàn vạn kiếp chẳng thể nói trọn hết).

***

Đại Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam_Tuyết Hư Lão Nhân (1889-1986):

Là đệ tử truyền pháp của Đại Sư Ấn Quang (Tổ thứ 13 của Tịnh Tông), một đời chuyên tu, chuyên hoằng pháp môn Tịnh Độ.

Ngài đã nhiều lần tu hành viên mãn pháp Ban Chu Tam Muội. Ngài là Vị Thầy truyền Pháp môn Tịnh Độ và dạy Ân Sư giảng kinh suốt mười năm.