Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

THỌ LẠC VÔ CỰC ĐỆ TAM THẬP NHỊ

Phẩm nầy nói đến tuổi thọ và niềm vui sướng vô cực ở thế giới Tây phương Cực Lạc. Trước hết, kinh nói đến chúng hội thù thắng nơi cõi ấy, kế đến miêu tả những vi diệu trong cõi Cực Lạc để khuyên chúng sinh nhất định phải cầu vãng sinh.

KINH VĂN:

Phật cáo Di Lặc Bồ Tát, chư thiên nhân đẳng: – Vô Lượng Thọ quốc, Thanh Văn, Bồ Tát, công đức trí tuệ, bất khả xưng thuyết. Hựu kỳ quốc độ vi diệu an lạc, thanh tịnh nhược thử. Hà bất lực vi thiện, niệm đạo chi tự nhiên?

VIỆT DỊCH:

Phật bảo Di Lặc Bồ Tát (và) các hàng trời người rằng: 

– Công đức trí tuệ của Thanh Văn, Bồ Tát ở cõi Phật Vô Lượng Thọ, chẳng thể nói kể. Lại nữa, cõi nước ấy vi diệu, an lạc, thanh tịnh như vậy, sao không ra sức hành thiện, niệm đạo tự nhiên?

GIẢNG:

Đây là đoạn mở đầu của phẩm kinh này, đức Phật giới thiệu về thế giới Tây phương Cực Lạc y chánh trang nghiêm. Kinh văn phía sau là quảng thuyết, tức là nói rõ ràng tường tận.

Phật cáo Di Lặc Bồ tát (Phật bảo Di Lặc Bồ tát) ngụ ý: Từ phẩm này trở đi, ngài Di Lặc là đương cơ chính, A Nan chỉ đóng vai phụ.

Trong phẩm thứ bốn mươi tám, Phật bảo ngài Di Lặc: “Ngã kim như lý tuyên thuyết như thị quảng đại vi diệu pháp môn, nhất thiết chư Phật chi sở xưng tán, phó chúc nhữ đẳng, tác đại thủ hộ” (Ta nay đúng như lý tuyên nói pháp môn vi diệu rộng lớn như thế này, được hết thảy chư Phật khen ngợi, phó chúc các ông thực hiện sự thủ hộ lớn lao). Như vậy Di Lặc Bồ Tát tương lai giáng sinh ắt sẽ tuân lời phó chúc của Phật mà diễn thuyết kinh này.

Chư thiên nhân đẳng(các hàng trời người). Theo Hòa Thượng Tịnh Không, chỗ này ý nghĩa rất sâu, hoàn toàn nói đến cõi Phàm Thánh đồng cư. Chúng ta niệm Phật là vãng sinh vào cõi này. Đến thế giới Cực Lạc, thân phận chúng ta là thiên nhân. Thân phận này bây giờ chúng ta có thể tranh thủ bằng cách phải nắm chắc và thực hành cho được ba nền móng căn bản là: Đệ tử quy, Cảm ứng thiên và Thập thiện nghiệp đạo.

Nếu không vãng sinh thế giới Cực Lạc, tương lai cũng không mất thân người, sẽ không đọa vào ba đường ác. Nếu thân phận trời thì cao hơn một bậc, phải là thượng phẩm thập thiện mới được sinh thiên. Trung phẩm Thập thiện là nhân đạo: Hạ phẩm thập thiện là A Tu La và La sát. Cho nên, đặc biệt dùng thiện nhân, không nói Thanh Văn, Duyên Giác. Bởi Thanh Văn, Duyên Giác niệm Phật là vãng sinh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư. Cõi Thật Báo Trang Nghiêm là cõi của Pháp Thân Đại Sĩ.

Công đức trí tuệ bất khả xưng thuyết(Công đức trí tuệ chẳng thể nói kể): Tất cả Thanh Văn, Bồ Tát, thiên, nhân v.v…vãng sinh đến thế giới Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, như đại nguyện thứ hai mươi của Đức Phật A Di Đà. Ở đây, kinh chỉ đề cập đến Thanh Văn, Bồ tát là đã bao gồm cả thiên, nhân.

Hựu kỳ quốc độ vi diệu, an lạc(Lại nữa, cõi nước ấy vi diệu, an lạc): Đây là nói hoàn cảnh cư trú, sinh hoạt, học tập ở thế giới Cực Lạc đã đạt đến tận thiện, tận mỹ không tìm thấy một khuyết điểm nào, nên nói “thanh tịnh nhược thử” (thanh tịnh như thế)

Sách Hội Sớ giảng: “Trang nghiêm siêu tuyệt nên bảo là ‘vi diệu’. Không có khổ não nên bảo là ‘an lạc’. Tướng vô lậu, tướng vô tướng nên bảo là thanh tịnh”. Ý nói tất cả sự tướng cõi Cực Lạc đều là diệu tướng vô lậu. Hơn nữa, Thật Tướng chẳng phải là vô tướng, cũng chẳng phải là bất tướng nên mọi thứ hiện ra đều là Thật Tướng. Do mọi tướng hiện hữu trong cõi Cực Lạc đều là tướng vô lậu, tướng Thật Tướng nên Phật bảo là “thanh tịnh”.

Hòa thượng Tịnh Không bổ túc thêm phần giảng giải trên như sau: Trong Phật pháp, chữ “lậu” là đại danh từ của phiền não, bao gồm: Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não và Vô Minh phiền não (phần trước đã nói qua). Câu “Thật Tướng chẳng phải là vô tướng, cũng chẳng phải là bất tướng” hàm nghĩa: “Vô tướng” là Thể, chính là Thường Tịch Quang. “Vô bất tướng” là chỉ cho ba cõi: Cõi Thật Báo, cõi Phương Tiện và cõi Đồng Cư. Ba cõi này đều có tướng. Nhưng phải biết: Tướng tức là vô tướng. Thấy được điều này chính là thấy được Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế, cũng tức là thấy được Thật Tướng cứu cánh.

Hà bất lực vi thiện, niệm đạo chi tự nhiên(Sao không ra sức hành thiện, niệm đạo tự nhiên). Thiện này chính là niệm Phật vãng sinh về Tây Phương Cực Lạc, đây mới là chân thiện. Nếu không vãng sinh Cực Lạc thì ngay đời này nhất định phải tùy nghiệp lưu chuyển, trôi lăn trong luân hồi, lục đạo!

Phía trước đã nói qua. Khi mới thành lập Tịnh Tông Học Hội, Hòa thượng Tịnh Không đã viết một bài duyên khởi, trong đó quy định: Khóa tụng buổi sáng là đọc phẩm thứ sáu (tức là bốn mươi tám nguyện của đức Phật A Di Đà), khóa tối là đọc từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy của Kinh Vô Lượng Thọ.

Từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy của Kinh Vô Lượng Thọ là hành kinh, trong đây dạy chúng ta nên thực hành như thế nào. Sau khi “hành” rồi phải “chứng”. – Chứng như thế nào? Trong lúc hành, chứng minh đạo lý và phương pháp trong kinh dạy. Đấy là bốn loại: Giáo, Lý, Hành, Quả. Mà chúng ta phải quyết tâm thực hành cho bằng được. “Giáo” là phải tin; “Lý” là phải giải; hiểu được nghĩa lý của kinh thì phải “Hành”; có thực hành mới đạt đến chứng “Quả”. Chứng quả trong Tịnh Tông là được vãng sinh. Quả này vô cùng thù thắng, chỉ trong một đời có thể đạt đến cứu cánh viên mãn, thành Phật. Hiểu được vấn đề này, chúng ta phải đặc biệt tôn trọng, nỗ lực đoạn ác tu thiện, đoạn trừ tất cả những khuyết điểm, tập khí, quyết chí trong tâm chỉ có Phật A Di Đà và thế giới Tây Phương Cực Lạc thì nhất định thành tựu.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Sao chẳng tận hết sức hành thiện để cầu sinh, nên bảo là ‘lực vi thiện’ (gắng sức hành thiện). Niệm đạo thì tự nhiên vãng sinh nên bảo là tự nhiên”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Việc thiện lớn nhất trong các điều thiện, không gì bằng niệm Phật. Niệm một câu Phật hiệu là niệm tất cả điều thiện của thế và xuất thế gian, là niệm viên mãn nhất. Bản thân công phu thuần thục thì tự nhiên vãng sinh, Phật A Di Đà tự nhiên tiếp dẫn.

Sách Hội Sớ giảng: “Hai chữ ‘hà bất’ (sao không) là lời khích lệ, dẫn đến hai nghĩa; Có hai điều thiện: Thứ nhất là xưng danh niệm Phật, đây chính là điều thiện căn bản. Thứ hai là rộng làm các điều thiện (đây là trợ thiện) hồi hướng vãng sinh.

Niệm gồm hai nghĩa: Niệm là năng niệm, đạo là điều được niệm (tức “sở niệm”)

Đạo cũng có hai thứ:

– Thứ nhất là Di Đà bổn nguyện, đây là tha lực đại đạo; chẳng cậy vào tự lực để tu thiện, hễ siêu việt liền chứng nhập ngay nên gọi là tự nhiên.

– Thứ hai là đạo được chứng bởi Tam thừa là vô vi tự nhiên, tánh không tạo tác nên cũng gọi là tự nhiên.

Tuy có hai nghĩa nhưng chủ yếu là nghĩa thứ nhất”.

Hòa thượng Tịnh Không giải thích: Sinh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc là siêu việt. Siêu việt này không phải do năng lực của chúng ta mà do sức nguyện lực của Phật A Di Đà gia trì. Đến thế giới Cực Lạc, cho dù ở cõi Phàm Thánh Đồng Cư, mọi sự đãi ngộ đều giống như cõi Thật Báo, quả là không thể nghĩ bàn! Cho nên ý nghĩa của “tự nhiên” này rất thâm sâu.

“Đạo được chứng bởi tam thừa vô vi tự nhiên, tánh chẳng tạo tác nên cũng gọi là tự nhiên”: Tam thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa. Đạo mà họ chứng được là “vô vi tự nhiên”. Trong Bách Pháp Minh Môn Luận có nêu ra sáu pháp vô vi. Trong sáu pháp vô vi này có “vô vi tự nhiên” mà Tam thừa chứng được, tánh nó không thuộc về tạo tác,cũng không có dấu vết nào của tạo tác, nên cũng gọi là “Tự Nhiên”. Tuy nhiên, vô vi  của Tam thừa chỉ là “tương tợ vô vi” như trước đây chúng ta đã từng học qua. Chỉ có “Chân Như vô vi”, chính là Thường Tịch Quang mới đích thực là “vô vi tự nhiên”.

Như trên, chúng ta thấy: Tịnh Ảnh Sớ lấy “vi thiện cầu sinh” (làm thiện để cầu vãng sinh) để giảng chữ “lực vi thiện” (gắng sức làm thiện). Lấy “tự nhiên vãng sinh” là ý nghĩa của “niệm tự nhiên”. Nói như vậy là nói vắn tắt. Ý ngài Tịnh Ảnh là dùng công đức của việc thiện để hồi hướng Tịnh Độ, tận lực cầu vãng sinh thì gọi là “lực vi thiện”. Giảng như vậy rất hay. (Đây là lời tán thán của cụ Hoàng Niệm Tổ).

Tiếp đó, ngài Tịnh Ảnh nói: Tự nhiên vãng sinh là “niệm đạo tự nhiên”. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ, cách giải thích của Hội Sớ tường tận và hay hơn, chỉ thẳng: Xưng danh niệm Phật là cội gốc của tu thiện, đó mới là chánh hạnh. “Rộng làm các điều thiện, hồi hướng cầu được vãng sinh” cũng là hành thiện, nhưng chỉ là trợ hạnh. Nêu lên cả chánh hạnh lẫn trợ hạnh, chánh trợ phân minh chính là ưu điểm của Hội Sớ.

Nên nhớ, Hội Sớ là do chư vị Tổ sư Tịnh Tông Nhật Bản ngày xưa trước tác. Kinh Vô Lượng Thọ có duyên rất sâu với người Nhật. Những Pháp sư Nhật Bản hầu như đều là học trò của ngài Thiện Đạo. Ngài Thiện Đạo là Tổ sư thứ hai của Tịnh Tông, vào thời nhà Đường. Ở Nhật có rất nhiều chùa Thiện Đạo, nhìn thấy chùa Thiện Đạo là biết ngay đó là của Tịnh Tông. Tượng của Trí Giả đại sư cũng có rất nhiều ở Nhật, đây là Thiên Thai Tông.

Lần này tôi (Hòa thượng Tịnh Không) đến Nhật giảng Kinh Vô Lượng Thọ. Tôi nói với pháp sư Khai Lâm ở đây, cố gắng hợp tác với pháp sư Nhật Bản sưu tập chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của các bậc Cổ Đức từ trong tạng Kinh, sau đó in thành một bộ chuyên tập về Kinh Vô Lượng Thọ. Hình như có hơn ba mươi loại chú giải Kinh Vô Lượng Thọ, điều này giúp rất lớn cho Tịnh Tông Nhật Bản. Hy vọng mọi người cố gắng nghiên cứu, học tập bộ Kinh này, sau đó tất cả nghiên cứu đều quy về bản hội tập này.

Chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ cũng là hội tập, bao gồm một trăm chín mươi ba loại tư liệu. Chúng ta đọc bộ chú giải nầy đồng nghĩa với việc đọc một trăm chín mươi ba loại sách khác nhau. Trong bộ chú giải nầy có dẫn chứng chín loại trước tác của Tổ sư người Nhật và Hàn Quốc. (Pháp sư Nguyên Hiểu là người Hàn Quốc).

“Hội Sớ trực chỉ xưng danh niệm Phật, vi thiện chi căn bản” (Hội Sớ chỉ thẳng, xưng danh niệm Phật là gốc thiện). Câu này rất quan trọng, hoàn toàn tương ưng với nghĩa trong kinh.

Cũng theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Đến câu “đạo chi tự nhiên”, sách Hội Sớ càng giảng hay hơn nữa. Sách nêu ra hai nghĩa:

– Một là “Dĩ tha lực trực siêu vi tự nhiên” (Dùng tha lực để vượt thẳng (khỏi tam giới), cho nên là tự nhiên).

– Hai là “Dĩ vô vi vô tác vi tự nhiên” (Do vô vi vô tác nên là tự nhiên), nhưng nghĩa thứ nhất là chính yếu. Thuyết này cực hay, vì điểm mầu nhiệm của Tịnh Tông thật đúng như sách Yếu Giải nhận định: “Từ sự trì đạt được lý trì”, chỉ cần thật thà niệm Phật thì tự nhiên đạt được những điều như “vô tác, vô vi” v.v…

Cư sĩ Lưu Tố Vân ở Đông Bắc, là chuyên tu Kinh Vô Lượng Thọ suốt mười năm. Đây là người hiện thân thuyết pháp, vì chúng ta làm tác chứng chuyển. Khi bà đang tu học, chẳng có ai hay biết, chúng tôi (Hòa thượng Tịnh Không) cũng không quen bà. Sau mười năm, bà tu học thành tựu, chúng tôi mới nghe danh bà.

Chúng tôi tìm đến liên lạc bà, bà kể cho chúng tôi nghe về nhân duyên bà học Phật là từ bộ băng đĩa giảng Kinh Vô Lượng Thọ, do người bạn tặng. Không biết là đĩa hay băng ghi hình; có thể là băng ghi hình. Băng ghi hình đó là mười mấy năm về trước, tôi giảng ở thư viện Hoa Tạng Cảnh Mỹ, Đài Loan.

Bà nói với tôi, mỗi ngày con nghe một đĩa, mỗi đĩa là một tiếng đồng hồ, con nghe đi nghe lại mười lần cho một đĩa mỗi ngày; tức là mười tiếng đồng hồ trong một ngày, bà chỉ nghe duy nhất có một băng đĩa. Sau khi nghe hết toàn bộ Kinh Vô Lượng Thọ, bà tiếp tục nghe lại từ đầu. Cứ thế mà huân tu suốt mười năm nghe Kinh như vậy. Ngoài việc nghe Kinh, bà niệm Phật không hề tạp loạn, quả thật là rất chuyên tâm.

Bà nói với tôi: Con chỉ tiếp thu được một câu, đó là “nhất môn thâm nhập, trường thời huân tu”, và con y giáo phụng hành. Chuyên tu mười năm như vậy, chắc chắn bà được tam-muội. Được niệm Phật tam-muội, nhất định là có chỗ ngộ, nhất định có chút thần thông.

Hiện nay, có rất nhiều người mời bà giảng kinh, mời bà đến khai thị. Đặc biệt khi đối diện đại chúng để giải đáp vấn đề, bà không hề khiếp sợ, không ai làm khó được bà. Việc này nếu người không có chỗ ngộ sẽ không làm được. Có người mời bà giảng kinh Địa Tạng hoặc giảng các kinh khác, bà giảng rất trôi chảy, tuy chưa học bà giảng cũng rất thông, rõ ràng “một kinh thông thì tất cả các kinh đều thông”.

Có người hỏi bà học như thế nào mà thành tựu? Bà trả lời rất đơn giản, chỉ có sáu chữ: Thật thà, nghe lời và hành trì.

– Nghe lời ai?

– Nghe lời trong kinh Phật dạy! Thử hỏi:

– Khi nào bà vãng sinh?

– Bà có thể vãng sinh bất cứ lúc nào!

Đây là sự thật, muốn đi thì đi!

– Vậy sao bà chưa đi?

– Vẫn còn một vài người có duyên cần bà giúp họ được độ!

Nếu hỏi bà:

– Ngày nay thế giới gặp thiên tai, có liên quan gì đến bà?

– Không có liên quan! Một người có thể vãng sinh bất cứ lúc nào thì còn âu lo thiên tai gì nữa! Không còn!

Đây là tấm gương tốt nhất để chúng ta noi theo, “vô vi vô tác” là tự nhiên ở đây.

Trở lại, cả hai thuyết của Tịnh Ảnh Sớ và sách Hội Sớ đã nêu trên, đều là lập luận dựa trên bản Nguỵ dịch (Câu kinh trước câu “niệm đạo chi tự nhiên”  chỉ thấy trong bản Nguỵ dịch) trong hai bản Ngô dịch và Hán dịch, tiếp ngay sau câu “niệm đạo tự nhiên”  là cả một đoạn văn dài thuật chi tiết về công đức của Bồ Tát cõi Cực Lạc và cõi nước tự nhiên thù thắng. Hội bản chọn lấy, ghép thành phẩm này. Do đó, trong Hội bản này, ngay sau chữ “niệm đạo chi tự nhiên”, ta còn thấy có “bát kiến tự nhiên”, chứng minh hai chữ “tự nhiên” này có ý nghĩa rất quan trọng. “Bát kiến tự nhiên” nầy là tám chữ “tự nhiên” như: “tự nhiên nghiêm chỉnh”, “tự nhiên vô vi”, “tự nhiên bảo thủ”, “tự nhiên trung tự nhiên tướng”, “tự nhiên nhi hữu căn bản”, “tự nhiên quang sắc tham hồi”, “tự nhiên sở khiên tùy”, đủ thấy hai chữ “tự nhiên” rất trọng yếu.

Ở đây, “tự nhiên” chẳng có nghĩa là tự nhiên không do nhân gì như ngoại đạo thường nói, mà “tự nhiên” có nghĩa là “pháp vốn như vậy”. Ý nghĩa câu nầy là gì? Hòa  thượng Tịnh Không giải thích: Là trong tự tánh vốn có, khi gặp duyên thì nó tự nhiên hiện hành. Ý nghĩa này rất sâu!

Hiền Thủ quốc sư từng chứng minh việc này. Ông rất thông minh, khi hoàng đế nghe Kinh Pháp Hoa đến chỗ này không hiểu, rất khó lý giải! Quốc sư bèn yêu cầu Hoàng đế xây một tiểu đình bát giác trước đại điện. Tiểu đình lập tức xây xong. Đình có tám mặt, mỗi mặt đặt một tấm kính. Hai tấm kính đối diện nhau. Phía trên cũng có một tấm kính, ở dưới đặt một tấm kính. Mời Hoàng đế vào đứng giữa xem,ông liền trực nhận ra bốn phương, tám hướng đều là chính mình, trùng trùng vô tận, ông đã hiểu được, đấy là “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn như vậy). Đối trước tấm kính, nhìn thấy tướng mình hiện ra trùng trùng vô tận, đây không phải do nhân tạo, cũng không phải là vô nhân (không có nguyên nhân). Do vậy, mà Phật pháp gọi là “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn như vậy) để thay thế chữ “tự nhiên” mà ngoại đạo nói. Cho nên “tự nhiên” ở đây là “pháp nhĩ như thị”.

Chữ “tự” (自zì) là tự nhiên; chữ “nhiên” (然 rán) là “thanh tịnh bổn nhiên” (vốn sẵn thanh tịnh như vậy) như trong Kinh Lăng Nghiêm nói. “Thanh tịnh bổn nhiên” có nghĩa: Nó không sinh, không diệt là bổn nhiên; nó vốn đầy đủ là bổn nhiên; nó như như bất động là bổn nhiên; nó năng sinh vạn pháp cũng là bổn nhiên. Do vậy mà khi kiến tánh, đại sư Huệ Năng đã nói năm câu: Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, nào ngờ tự tánh vốn không sinh diệt v.v…đều hiển thị “pháp nhĩ như thị” (pháp vốn như vậy). Thế nên, chữ “tự nhiên” đích thật cũng bao hàm ý nghĩa “tự tánh bổn nhiên”, “tự tánh bổn nhiên” chính là Chân Như, Thật Tướng. Như vậy “niệm đạo chi tự nhiên” chính là trì danh niệm Phật, cũng chính là niệm Thật Tướng như sách Di Đà Yếu Giải giảng:

“Thật Tướng vô nhị, diệc vô bất nhị. Thị cố cử thể tác y tác chánh, tác pháp tác báo, tác tự tác tha, nãi chí năng thuyết sở thuyết, năng độ sở độ, năng tín sở tín, năng nguyện sở nguyện, năng trì sở trì, năng sinh sở sinh, năng tán sở tán, vô phi thật tướng chánh ấn chi sở ấn dã”. (Thật tướng vô nhị mà cũng vô bất nhị. Vì thế, toàn thể làm y báo, chánh báo, làm pháp thân, làm báo thân, làm tự làm tha cho đến người nói, pháp được nói, kẻ độ, người được độ, người tin, vị Phật được tin, người phát nguyện, điều phát nguyện, người trì danh, danh hiệu được trì, người vãng sinh, cõi được vãng sinh, người khen ngợi, vị Phật được khen ngợi, không gì chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào). Công đức của Phật hiệu quả là đại viên mãn, siêu việt chẳng thể nghĩ bàn!

Mấy năm trước, cư sĩ Hoàng Trung Xướng ở Thẩm Quyến, hơn ba mươi tuổi nghe Hòa thượng Tịnh Không giảng Niệm Phật được vãng sinh, anh muốn thử xem bèn bế quan niệm Phật, đọc Kinh Vô Lượng Thọ, đọc Kinh Di Đà với hy vọng trong vòng ba năm được hiệu quả. Quả nhiên như nguyện, đúng hai năm mười tháng anh biết trước giờ vãng sinh. Đây là thật không phải giả.

Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng sinh truyện, hầu như một nửa đều là niệm Phật ba năm vãng sinh, nên có rất nhiều người hoài nghi. Đã từng có một pháp sư đến hỏi tôi (tức Hòa thượng Tịnh Không) điều này: – Phải chăng họ niệm Phật ba năm thì hết thọ mạng? Tôi nghĩ, điều này không hợp lý! Họ đã thành tựu niệm Phật, tuy thọ mạng vẫn còn, nhưng họ muốn vãng sinh sớm.

Câu “Thật tướng vô nhị diệc vô bất nhị” có nghĩa là: “Nhị” “bất nhị” đều buông bỏ hết, đây gọi là Thật Tướng, cũng chính là chân tướng. “Vô nhị” là nói về Thể; “vô bất nhị” là nói về tướng, nói về tác dụng. Thể là không tịch thì tướng và tác dụng cũng là không tịch, cho nên đừng khởi tâm phân biệt, chấp trước nó. “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, nếu biết được tất cả pháp đều là hư vọng thì sẽ thấy được Thật Tướng. Vì sao vậy? – Vì tâm ở trong tất cả pháp không còn khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước. Đây là Đệ Nhất Nghĩa Đế của Trung Đạo. Bên dưới nêu ra ví dụ:

“Cử thể tác y tác chánh, tác pháp tác báo” (Toàn thể làm y báo, chánh báo, làm pháp thân, làm báo thân). Chữ Thể  ở đây là tự tánh, là Chân như. Tự tánh trở thành y báo chánh báo. Chánh báo là bản thân ta, không phải người khác. Y báo là hoàn cảnh và tất cả mọi người, mọi sự, mọi vật chung quanh ta. Như lúc ta nằm mộng, trong mộng nhất định có chính ta. Ta là chánh báo; ngoài bản thân ra, toàn bộ cảnh mộng đều là y báo. Sau khi tỉnh mộng, y báo, chánh báo đều không còn, mới biết cả y báo, chánh báo đều là giả! Chỉ có bản thể, hiện thể của y báo là thật, là vĩnh hằng bất biến.

Thế nên, “Cử thể tác y tác chánh, tác pháp tác báo”: “Pháp” là pháp thân, “báo” là báo thân, “tác tự tác tha” đều là tự tánh. Đến đây, chúng ta có thể lĩnh hội được biến pháp giới, hư không giới với ta là một thể. Cho đến “năng thuyết, sở thuyết, năng độ sở độ” v.v…đều không rời tự tánh. Tất cả “không gì là chẳng được chánh ấn Thật tướng in vào”.

Vì vậy, sách Hội Sớ xem đạo vô vi vô tác là đạo tự nhiên, hoàn toàn trở về tự tánh; xem tha lực pháp môn chính là nương tựa Phật A Di Đà và thế giới Tây Phương Cực Lạc, hễ siêu việt liền chứng nhập ngay, đó là tự nhiên. Giảng như vậy đều nói lên ý chỉ chính yếu của Trung Đạo. So ra, tuy lời văn có khác với lời giảng của Yếu Giải, nhưng ý chỉ tương đồng.

Nương theo tín nguyện trì danh, nương vào tha lực đại đạo, liền được vãng sinh Cực Lạc. Trì danh chính là niệm Thật Tướng, niệm Vô Lượng Giác, niệm tự tánh của chính mình, là “nhất siêu trực nhập diệu trang nghiêm” (siêu việt liền chứng nhập ngay con đường Trang Nghiêm). Con đường như vậy, pháp tánh của nó vốn sẵn tự nhiên.

KINH VĂN:

Xuất nhập cúng dường, quán kinh hành đạo, hỉ nhạo cửu tập, tài mãnh trí tuệ. Tâm bất trung hồi, ý vô giải thời. Ngoại nhược trì hoãn, nội độc sử cấp. Dung dung hư không, thích đắc kỳ trung. Trung biểu tương ứng, tự nhiên nghiêm chỉnh. Kiểm liễm đoan trực, thân tâm khiết tịnh. Vô hữu ái tham, chí nguyện an định, vô tăng khuyết giảm. Cầu đạo hòa chánh, bất ngộ khuynh tà, tùy kinh ước lệnh, bất cảm sa điệt, nhược ư thằng mặc. Hàm vi đạo mộ, khoáng vô tha niệm, vô hữu ưu tư.

VIỆT DỊCH:

Ra vào cúng dường, quán kinh hành đạo, vui thích học tập lâu dài. Tâm không thoái chuyển nửa chừng, ý không giải đãi. Ngoài hiện an nhàn, trong luôn tinh tấn. Tâm chan hòa như hư không, khế hợp Trung Đạo. Trong, ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh, đoan nghiêm chánh trực, thân tâm khiết tịnh, không có tham ái, chí nguyện an định, không tăng không giảm. Cầu đạo hòa chánh, không lầm khuynh tà, tuân lời Phật dạy, không dám sai sảy, như giữ thừng mực. Đều vì mộ đạo, tâm rỗng như hư không, trọn không có niệm khác, không có lo nghĩ.

GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên nói về công đức thù thắng của thánh chúng trong pháp hội cõi Tây Phương Cực Lạc. Chữ xuất nhập cúng dườngtrích từ hai bản Hán dịch và Ngô dịch. Nguyên văn còn có đoạn: “Câu tương tùy phi hành, phiên bối xuất nhập, cúng dường vô cực” (Đều theo nhau bay đi, lần lượt ra vào, cúng dường vô cực). Ý nói: Các Bồ Tát, A La Hán cõi Cực Lạc tùy ý bay đến khắp mười phương thế giới chư Phật phổ biến cúng dường để tu phước. Lúc trở về, cúng dường thầy mình, chính là A Di Đà Phật, đây gọi là “xuất nhập cúng dường” (ra vào cúng dường).

Cúng dường là tu phước; nghe kinh là tu Tuệ. Mỗi vị Phật đều giảng kinh dạy học; sau khi cúng dường xong là nghe kinh. Thử hỏi: – Vô lượng vô biên chư Phật làm sao đi hết? – Họ phân thân đi! Vãng sinh đến thế giới Cực Lạc đều có năng lực này. Có bao nhiêu vị Phật thì phân thân họ cũng có bấy nhiêu, cùng một lúc xuất hiện trước mỗi vị Phật, riêng bản thân họ vẫn hiện diện trong giảng đường của Phật A Di Đà, điều này thật quá ư vi diệu!

Quán kinh hành đạolà tu Tuệ. “Bỉ độ thánh chúng ư thử phước tuệ nhị chủng trang nghiêm, tất giai hỉ lạc nhi nguyện cửu tập” (Thánh chúng cõi ấy đối với hai thứ phước tuệ trang nghiêm đều vui thích nên nguyện cửu tập). Chữ “cửu tập”là học tập lâu dài (trường thời huân tu), trong đây có niềm vui thật sự, càng học càng vui, pháp hỉ sung mãn. Không phải càng học càng mệt, càng học càng phiền, như vậy là chưa khế nhập, chưa nếm được pháp vị. Khế nhập rồi mới thấy niềm vui này thật vô cùng, đây là phước tuệ song tu.

Hỉ nhạo cửu tập(Vui thích học tập lâu dài)

Ở thế giới Cực Lạc, việc tu phước tu tuệ rất viên mãn. Chư Phật Như Lai, kể cả A Di Đà Phật đều thuyết pháp không gián đoạn, nên Thánh chúng ở đây  đều rất hoan hỉ, được huân tu lâu dài.

Tài mãnh trí tuệ: Chữ “tài mãnh” ở đây nên hiểu như trong phẩm Pháp Tạng Nhân Địa có ghi: “Cao tài dũng triết, dữ thế siêu dị” (Trí tuệ sáng suốt, trỗi lạ hơn đời). Chữ “tài” là tài năng hay trí tuệ; chữ “triết” là hiểu rõ minh bạch. Vì vậy, “tài mãnh trí tuệ” có thể tạm dịch là “trí tuệ tài năng bén nhạy, vượt trỗi hơn đời”.

Tâm bất trung hồi”: “Hồi” (廻  huí) là  thoái lui. “Trung hồi” là đang giữa đường tu bỗng dưng thoái chuyển. Sở dĩ thoái chuyển là do tín tâm không vững, gặp duyên liền thoái thất. Thánh chúng cõi Cực Lạc trí tuệ sáng suốt, đoạn nghi sinh tín, kiên cố chẳng lay động như núi Kim Cang nên “tâm bất trung hồi” (tâm chẳng lui sụt giữa chừng) luôn thẳng tiến về phía trước.

“Ý vô giải thời” (ý không lúc nào biếng nhác): Chữ “Giải” ( 懈 xiè) là biếng nhác, giải đãi. Biếng nhác là do nguyện chẳng sâu, tâm không khẩn thiết nên không ra sức hành trì.

Ngoại nhược trì hoãn, nội độc sử cấp” (Ngoài hiện an nhàn, trong luôn tinh tấn). Chữ “trì” (遲 chí) là chậm chạp, an nhàn,

“hoãn” (緩) là thong thả. “Trì hoãn” biểu thị sự an nhàn, không khẩn trương. “Sử cấp”: (駛 shǐ) là nhanh chóng, “cấp” (急 jí) là gấp rút, cấp tốc. “Ngoại nhược trì hoãn, nội độc sử cấp”: Ý nói vẻ ngoài thong dong, nhàn hạ tựa hồ vô sự, nhưng trong nội tâm luôn tinh tấn chẳng ngơi; niệm niệm tiếp nối, tâm tâm không gián đoạn, không để lỡ một sát- na nào mà chẳng nhớ nghĩ đến công đức Phật A Di Đà.

Dung dung hư không, thích đắc kỳ trung” (Tâm chan hòa như hư không, khế hợp Trung Đạo): Chữ “dung dung” (容容 róng róng) là hòa đồng, không lập dị, như trong bộ Tả Hùng Truyện đời Hậu Hán có câu: “Dung dung đa hậu phước” (Hòa đồng nhiều phước về sau). Câu “dung dung hư không” chỉ tâm Bồ Tát Cõi Cực Lạc chan hòa như hư không. Do hư không không có bờ mé nên tự tâm cũng không có bờ mé. Hư không chẳng có một vật nên tự tâm cũng chẳng có một vật. Do hư không rỗng không nên sum la vạn tượng, mười phương cõi nước đều nương vào hư không mà sinh. Hư không tạo dựng vạn vật, đây chính là ngài Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh năng sinh vạn pháp”. Do không có một vật (bổn vô nhất vật) nên không rơi vào “hữu biên”. Do dung chứa vạn vật (vốn tự đầy đủ) nên không rơi vào “không biên”. Chẳng có một vật mà lại dung chứa muôn vật, nên chiếu được cả Không lẫn Hữu. Chứa được vạn vật mà không hề có một vật nào cả, nên cả Không lẫn Hữu đều mất, thung dung Trung Đạo, nên nói “thích đắc kỳ trung” (khế hội Trung Đạo). Chữ “thích” (適) là thích hợp, vừa khớp, chữ “đắc” (得) hàm ý khế hội, chữ “trung” (中 zhòng) ở đây chỉ Trung Đạo. Như Kinh Kim Cang dạy: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” (Hãy nên không trụ vào đâu mà sinh cái tâm mình). Vô trụ chính là sinh tâm, sinh tâm chính là vô trụ (tâm nầy chính là chân tâm), đấy là nghĩa Trung Đạo.

Trung biểu tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh” (Trong ngoài tương ưng, tự nhiên nghiêm chỉnh): Chữ “trung” (中 zhòng) là chỉ nội tâm, chữ “biểu” (表 biǎo) là những gì biểu hiện ra bên ngoài.Tâm Bồ Tát khế hợp Trung Đạo : Vừa đạt được tự tâm, vừa biểu hiện ra bên ngoài. Cả trong lẫn ngoài đều như một, tự nhiên tương ưng, không cần phải an bày, tạo tác nên “tự nhiên nghiêm chỉnh”.

Hãy xem! Gà, vịt ấp trứng: Trứng gà thì ấp ra gà, trứng vịt thì ấp ra vịt. Đó là tự nhiên, “tự nhiên nghiêm chỉnh”, không thể phá hoại được.

Con người ngày nay bắt đầu phá hoại, tự tạo ra “gen” chính là phá hoại tự nhiên. Vấn đề nầy rất nghiêm trọng! Kết quả về sau nhất định xuất hiện quả báo bất thiện. Đấy chính là trái với tự nhiên! Đại tự nhiên là tốt đẹp nhất. Bốn chữ “tự nhiên nghiêm chỉnh” này rất vi diệu nói không cùng tận!

Từ câu “tự nhiên nghiêm chỉnh“cho đến câu “vô hữu ưu tư” là cả một đoạn dài; trong đây, những diệu đức của Bồ Tát cõi Cực Lạc được nêu ra, toàn là do “thích đắc kỳ trung” (khế hợp Trung Đạo) mà thành.

Người bây giờ luôn nghĩ cách phá hoại tự nhiên. Họ phát hiện “gen” là muốn thay đổi sinh thái tự nhiên. Bắt đầu từ “gen động vật” đến “gen thực vật” đưa đến biến chất trong động vật và hoa quả v.v…khiến con người ăn vào phải mắc bệnh lạ, sức khoẻ không tốt! Người xưa xem việc này là thiếu đức, không việc nào thiếu đức bằng việc này!

“Tự nhiên nghiêm chỉnh”: Chữ “nghiêm chỉnh” (嚴整 yán zhěng) là nghiêm túc, chỉnh tề. Chữ này diễn tả oai nghi của Bồ tát cõi Cực Lạc.

Kiểm liễm đoan trực(đoan nghiêm chánh trực) là biểu lộ của oai nghi “nghiêm chỉnh”. Chữ “Kiểm” (檢 jiăn) là kềm giữ chẳng để phân tán; chữ “liễm” (斂 liăn) là thúc liễm, thu gom lại. Như vậy, chữ “kiểm liễm”  chính là như kinh nói: “Nhĩ mục khẩu tỵ giai đương tự đoan” (tai, mắt, miệng, lưỡi thảy đều tự đoan chánh). Gìn giữ cái nghe, kềm chế cái nhìn…để tuyệt các ý ngoại duyên. Ý nầy cũng giống như Bồ tát Đại Thế Chí nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”.

Lại nữa, chữ “đoan” (端 duān) là đoan chánh, chữ “trực” ( 直 zhí) là chẳng cong quẹo, là chánh trực, cũng chính là trên đề kinh Vô Lượng Thọ nói: “thanh, tịnh, bình đẳng, giác”. Vì thế, chữ “đoan trực” có nghĩa là: Ngoài lộ vẻ uy nghi nơi thân trang nghiêm; bên trong thì tâm ý chánh trực. Cả thân lẫn tâm đều đoan nghiêm.

Thân tâm khiết tịnh, vô hữu ái tham”: Có “ái” là có tham thân, liền bị ô nhiễm, cho nên người tu phải hạ thủ công phu từ chỗ nầy. Do khế hội Trung Đạo nên sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Soi suốt khách trần (khách trần là vạn pháp), tự nhiên ly ái, không còn tham nhiễm, thân tâm tự nhiên khiết tịnh.

Chí nguyện an định, vô tăng khuyết giảm(chí nguyện an định, không tăng không giảm): Chữ “an” (安 ān) gồm có các nghĩa: Tịch tĩnh, định, ngưng lặng, yên ổn, vui vẻ, tốt lành, không mong cầu. Trong đây, “vô sở cầu” (tức không mong cầu) thì sẽ  “an”; “có sở cầu” sẽ bất an. Chữ “định” (定 dìng) là quyết định, kiên định, không hề lay động, biến đổi. Thánh chúng cõi Cực Lạc đã phát thệ nguyện thì tự nhiên kiên định, không hề chợt tăng, chợt giảm, chợt có, chợt không, đúng như kinh nói: “Túng sử thân chỉ chư khổ trung, như thị nguyện tâm vĩnh bất thoái” (dẫu cho thân ở trong các khổ, nguyện tâm như thế chẳng thoái thất). Đấy chính là khuôn thước của “chí nguyện an định, vô tăng khuyết giảm”.

“Cầu đạo hòa chánh, bất ngộ khuynh tà” (cầu đạo hòa chánh, chẳng lầm lạc khuynh tà): Chữ “hòa” (和) bao gồm các nghĩa: Điều hòa, hài hòa, ôn hòa, bình ổn, hòa kính, hòa hợp, vui vẻ, tương ưng. Chữ “chánh” (正) là như một. “Chánh” gồm các nghĩa:

Đúng đắn, không thiên lệch, thường, ngưng dứt, hạnh không lệch lạc, không tà vạy, thẳng thắn, chẳng khuất khúc. Theo Hòa thượng Tịnh Không, chữ “chánh” ở đây là năng nhất, nhất tâm chánh niệm. Hai niệm, ba niệm v.v…thì ắt sẽ loạn; nếu loạn thì không chánh. “Cầu đạo hòa chánh” là nói về tâm thái của việc học tập phải chuẩn xác mới có thể đạt được chánh đạo. Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Thánh chúng cõi Cực Lạc hòa bình, trung chánh, vì cầu vô thượng đạo nên chẳng bị những điều nghiêng lệch, tà vạy gây lầm lẫn.

Chữ “khuynh” (傾 qīng) là nghiêng lệch, chữ “tà” (邪 xié) là tà ác, tà ngoại.

Thánh chúng cõi Cực Lạc “bất vi khuynh tà sở ngộ giả” (chẳng bị những thứ khuynh tà làm lầm lạc) vì họ “tùy kinh ước lịnh, bất cảm sa điệt, nhược ư thằng mặc” (tuân theo lời Phật dạy, chẳng dám sai sảy, như giữ thừng mực). Chữ “ước” (約) là quy ước, ước thúc, chữ “lịnh” (令) là mệnh lệnh, giáo lệnh; “bất cảm sa điệt”, chữ “sa” (蹉 cuō) là sa đà, sa ngã, vấp ngã, mất; chữ “điệt” (跌 diē) là ngã. “Bất cảm sa điệt” là không dám sai sảy, quên mất lời Phật dạy.

“Nhược ư thằng mặc” (như giữ thừng mực) là chỉ cho tâm con người thật thà, trung thực, biết nghe lời và thật sự thực hành. Người như vậy chắc chắn sẽ thành công. Thế giới Cực Lạc đều hội tụ như vậy, tất cả thánh chúng đều thật thà, nghe lời, thực hành theo lời Phật dạy. Chữ “thằng mặc” là như khi thợ mộc, dụng công thao tác, dùng sợi dây (thằng) nhúng mực (là “mặc”) rồi căng ra, búng dây đánh dấu, sau đó, cứ theo dấu ấy mà làm, chẳng dám sai chạy chút nào, nên không bị lệch lạc, hư hao, cong vẹo.

Câu trên ngầm nói đến tà môn ngoại đạo rất nhiều, nhất là xã hội hiện nay, muôn hình vạn trạng. Do vậy, người cầu đạo rất dễ lạc đường tà, chính bản thân họ không hề hay biết, đến khi tỉnh ra thì đã quá muộn! Cho nên, đối với việc cầu đạo phải hết sức thận trọng.

Trong phẩm “Cần Tu Kiên trì” thứ bốn mươi sáu của kinh Vô Lượng Thọ có câu như “Tùy thuận ngã giáo, đương hiếu ư Phật” (Tùy thuận theo lời dạy của ta là hiếu với Phật), “vô đắc vi vọng, tăng giảm kinh pháp” (chẳng được làm xằng, tăng giảm kinh pháp) cũng mang cùng ý nghĩa như vậy. Đó chính là “ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết” (Rời một chữ trong kinh là đồng với ma nói). Những hành nhân trong đời phải nên lấy thánh ngôn này làm chỗ y cứ.

Hiện nay, trở ngại lớn nhất trong việc học Phật là tâm thái con người có vấn đề! Đó chính là không cung kính đối với Phật! Thật ra, Phật cũng không yêu cầu chúng ta phải cung kính Phật. Bởi nếu Phật có yêu cầu này thì hóa ra Phật là phàm phu chớ nào phải Phật. Thế nhưng, nên biết: Cung kính là tánh đức. Chúng ta muốn minh tâm kiến tánh, nhất định phải dùng tánh đức, tánh đức là chân tâm; không cung kính là vọng tâm; vọng tâm thì không thể thấy chân tánh. Tổ sư Ấn Quang nói: “Một phần thành kính được một phần lợi ích, mười phần cung kính được mười phần lợi ích” cũng là ý này.

Ngày nay, nhiều người đọc sách, đọc không hiểu liền thay đổi chữ! Cho rằng chữ này không thỏa đáng, liền thay đổi nghĩa theo cách suy nghĩ của họ. Nếu mỗi người, ai cũng sửa một chút thì quyển sách này sẽ loạn, đâu còn là sách đó nữa! Thích sửa sách của cổ nhân, thích phê bình mọi thứ của cổ nhân thì không thể hiểu sâu được! Đây là khó khăn nhất trong việc hoằng dương Phật pháp Đại thừa và văn hóa truyền thống hiện nay.

Hàm vi đạo mộ, khoáng vô tha niệm, vô hữu ưu tư” (Đều vì mộ đạo, tâm thênh thang, trọn không có niệm khác, chẳng có lo nghĩ): Câu thứ nhất ý nói những điều mong cầu trong tâm đều là lẽ đạo tột cùng, cầu minh tâm kiến tánh, cầu tìm bản lai diện mục của chính mình. Câu thứ hai ý nói: Tâm thênh thang không còn vọng niệm. Câu thứ ba là tín tâm kiên định, trí tuệ rõ suốt không nghi nơi pháp, không còn có ý tưởng lo nghĩ.

Nếu hiểu theo quan điểm của Tịnh Tông thì “khoáng vô tha niệm”  chính là buông bỏ vạn duyên, “hàm vi đạo mộ” (đều vì mộ đạo) là chỉ đề cao nhất niệm, chính là “nhất niệm đơn đề”, cầu sinh Tịnh Độ. Ngoài ý nghĩ này ra, không còn có ý niệm nào khác. “Vô hữu ưu tư” (không còn lo nghĩ), chính là “nhất thanh Phật hiệu, vạn lự tề tiêu”, ngay trong một tiếng niệm Phật, muôn mối lo nghĩ đều tiêu tan, linh quang độc diệu, thoát khỏi căn trần, chỉ còn mỗi cái chân tánh đã hết sạch phiền não,  đâu còn cái chi là vui buồn nữa. Vì thế, kinh nói: “vô hữu ưu tư”. Quả thật là đúng như vậy.

KINH VĂN:

Tự nhiên vô vi, hư không vô lập. Đạm an vô dục, tác đắc thiện nguyện. Tận tâm cầu sách, hàm ai từ mẫn, lễ nghĩa đô hợp. Bao la biểu lý, quá độ giải thoát.

VIỆT DỊCH:

Tự nhiên vô vi, hư không chẳng lập. Ðạm bạc, an tịnh, vô dục, làm được thiện nguyện. Tận tâm tìm cầu, xót thương từ mẫn, đều hợp lễ nghĩa. Sự lý viên dung, vượt khỏi sinh tử, tiến đến giải thoát.

GIẢNG:

Hai chữ “tự nhiên”  xuyên suốt cả đoạn kinh nầy, ấy bởi “thích đắc kỳ trung” (khế hội Trung Đạo) nên tự nhiên như thế.

Tự nhiên vô vi” là không do tạo tác mà tự nhiên an trụ trong pháp vô vi. Đó là vô vi chân thật. Nếu do tạo tác thì đã trở thành hữu vi rồi.

– Cái gì là tạo tác?

– Khởi tâm động niệm là tạo tác! Phân biệt, chấp trước là tạo tác! Dùng bộ não suy nghĩ phải nên làm thế này, thế kia là tạo tác! Đó là pháp hữu vi không phải vô vi. Vô vi mới là tự nhiên.

Hư không vô lập”: Chữ “hư không” ngụ ý tâm như hư không, rỗng rang vô hạn, ly cấu vô nhiễm, chẳng chút bụi trần. Chữ “vô lập” là không lập một pháp nào cả. Đây là “nhất pháp bất lập”.

– “Nhất pháp bất lập” là gì?

– Là “thuật nhi bất tác” như Khổng Phu Tử nói: Tất cả pháp mà ông truyền dạy, đều là những thứ của cổ nhân, hoàn toàn không có chút nào do ông sáng tạo. Xét nghĩ: Ngày nay chúng ta cũng không nên sửa đổi, bài bác ý của cổ nhân mà phải tôn kính, không nên đề cao cái mới của mình!

“Đạm an vô dục”: Chữ “đạm” (淡 dàn) là đạm bạc, chữ “an” (安 ān) là an tịnh. Chữ “đạm an” còn dùng để mô tả trạng thái nước tràn đầy êm đềm tuôn chảy. Bài phú của Tống Ngọc trong bộ Văn Tuyển có câu: “Hội đạm an nhi tịnh nhập” có nghĩa là sóng nước êm đềm tuôn chảy, tựa hồ tiếp nối nhau không dứt, được ví như tâm viên mãn bình đẳng lìa khỏi Đoạn, Thường.

Sách Đại Thừa Nghĩa Chương giảng chữ “dục” (欲 yù) trong

“vô dục” như sau: “Nhiễm ái trần cảnh gọi là Dục”. Sách còn bảo “Ư duyên dục thụ, xưng dục” (Từ nơi duyên muốn thụ dụng, gọi là dục): “Duyên” ở đây là phan duyên: Phan duyên tài, sắc, danh, thực, thùy, rồi muốn thọ dụng chúng, tức là muốn khống chế, muốn chiếm hữu, đấy là “dục”.

Câu Xá Luận bảo: “Dục vị hy cầu, sở tác sự nghiệp” (Dục là mong cầu làm ra sự nghiệp). Đây cũng  là một loại dục vọng. Theo Hòa thượng Tịnh Không: Nếu mong cầu sự nghiệp vì bản thân, tương lai phần lớn là đọa tại tam đồ! Vì sao vậy? – Vì ý nghĩ của họ đều là tham, sân, si! Nếu sự nghiệp của họ vì người khác, vì xã hội, vì quốc gia dân tộc, vì chúng sinh thì quá tốt, tương lai phần lớn là họ đến thiện đạo. Vì thế, Thánh hiền tương lai là vãng sinh thiện đạo. Nên nhớ! Thiện đạo cũng chưa ra khỏi lục đạo luân hồi.

Những điều như “xả chư ái trước” (bỏ các chấp trước ái kiến) và “diệc vô hy cầu, bất hy cầu tưởng” (cũng chẳng có ý tưởng mong cầu hay chẳng mong cầu) được nói trong kinh nầy đều là “vô dục” cả.

Ba câu “Tự nhiên vô vi, hư không vô lập, đạm an vô dục” vừa giảng ở trên, đều thể hiện “Thật Tế lý địa” không nhiễm mảy trần, nhưng trong vạn hạnh chẳng bỏ một pháp nào (chữ “thật tế”  là chỉ cho chân tâm, bản tánh. Chữ “lý địa” là năng sinh vạn pháp), cho nên kinh dạy: tác đắc thiện nguyện, tận tâm cầu sách” (làm được thiện nguyện, tận tâm tìm cầu). Con người nhất định phải phát thiện nguyện, phải quyết tâm thực tiễn được thiện nguyện đó. “Tận tâm cầu sách”  là hy vọng thiện nguyện đó có thể thành tựu, hiển thị rõ ràng diệu nghĩa sự lý vô ngại, viên dung tự tại.

Trong phẩm thứ hai “Đức Tuân Phổ Hiền”  có nói, các đại Bồ tát trong cõi Cực Lạc “nhập không, vô tướng, vô nguyện pháp môn”, đây là “vô trụ”,  nhưng các Bồ tát đó vẫn “hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức, cụ túc vô lượng hạnh nguyện” (đều cùng tuân tu đức hạnh của Phổ Hiền đại sĩ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện). Điều này thật tương đồng với sự kiện các Bồ tát do vô vi, vô nguyện, vô lập, vô dục mà “tác đắc thiện nguyện, tận tâm cầu sách” (làm được thiện nguyện, tận tâm tìm cầu) được nói ở đây.

Lại nữa, trong phẩm thứ năm “Chí tâm tinh tấn” có câu: “Kết đắc đại nguyện, tinh cần cầu sách” (Kết thành đại nguyện, siêng gắng tìm cầu) cho thấy, Thánh chúng cõi Tây Phương Cực Lạc đều tôn kính học theo đức Phật A Di Đà, tu tập chuyên cần, trụ Chân Thật Tuệ để cầu thành tựu Vô Thượng Bồ Đề; thành tựu vô lượng trí tuệ, vô lượng đức năng, vô lượng tướng hảo.

Hàm ai từ mẫn” (xót thương từ mẫn): Chữ “hàm ai” (含哀 hán āi) là xót thương, chỉ cho tâm đại bi. Chữ “từ mẫn” (慈愍 cí mǐn) chỉ cho tâm đại từ. Do đại từ bi nên dẫu biết rõ thật sự không có chúng sinh để độ, nhưng hạnh nguyện độ sinh vẫn chẳng cùng tận. Cho nên, “tâm thường đế trụ độ thế chi đạo” (tâm thường  trụ chắc nơi đạo độ thế), “dục chửng quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi” (muốn cứu vớt  quần manh, ban cho cái lợi chân thật). Cái đại nguyện được kết thành ấy tự nhiên khế lý, khế cơ, chiếu chân, đạt tục. Do khế lý chiếu chân, nên đại nguyện đó lấy Thật Tướng làm Thể, liễu nghĩa rốt ráo, lực dụng vô lượng. Do khế cơ và thấu hiểu thế gian nên khéo phù hợp cơ nghi.

Mấy câu trên rất hay! Bồ tát khởi tâm động niệm, nói năng tạo tác: Trên thì tương ưng với lý mà chư Phật đã chứng; dưới thì tương ưng với căn cơ của đại chúng hiện tiền.

Lễ nghĩa đô hợp(Đều hợp lễ nghĩa): “Lễ nghĩa” chính là “ngũ thường” của đạo đức thế gian gồm: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Năm chữ này chẳng những biểu trưng cho đạo đức xã hội đương thời hay thời cổ Ấn Độ mà còn chỉ chung tất cả các chuẩn mực, quy luật đạo đức của xã hội trong các thời đại mai sau. Năm chữ nầy nếu không còn sẽ trở thành tham, sân, si, mạn, nghi: Bất nhân trở thành tham; bất nghĩa trở thành sân nhuế; vô lễ trở thành ngạo mạn; vô trí trở thành ngu si; vô tín trở thành hoài nghi. Cũng có thể nói “nhân, lễ, nghĩa, trí,tín” tương đương với năm giới trong nhà Phật: Không sát sinh là nhân; không trộm cắp là nghĩa; không tà dâm là lễ; không uống rượu là trí; không vọng ngữ là tín.

Đại nguyện đã phát phải phù hợp với đạo đức của xã hội mới được người đương thời chấp nhận. Có như vậy mới có thể hoằng dương giáo pháp, lợi khắp quần sinh.

Bao la biểu lý(tạm dịch: sự lý viên dung). Chữ “bao” (包 bāo) là bao hàm, chứa đựng. Ngài Gia Tường giảng: “La (羅luó) là thâu nhiếp”. Như vậy, “bao la” là bao dung, hàm nhiếp. Chữ “biểu” (表 biǎo) là chỉ sự tướng bên ngoài. Chữ “lý” (裏lǐ) chỉ lý thể bên trong tức là sự tánh, pháp tánh. “Bao la biểu lý” có nghĩa là sự lẫn lý đều viên mãn, Chân lẫn Tục cùng chiếu, hoàn toàn hiểu rõ không có chướng ngại, nhiếp khắp muôn loài, thượng trí hạ ngu đều được độ thoát, thế và xuất thế gian đều dung thông vô ngại.

“Quá độ giải thoátchữ “quá độ” (過度 guō dù), bản Ngô dịch ghi tựa đề kinh Vô Lượng Thọ là “Quá Độ Nhân Đạo Kinh”. “Quá độ” có nghĩa là tự mình thoát khỏi sinh tử cũng khiến người khác thoát sinh tử. “Giải thoát” (解脫) là cởi bỏ những trói buộc của

Hoặc nghiệp, thoát khỏi cái khổ của tam nghiệp. Sách Duy Thức Thuật Ký nói: “Giải là lìa trói, thoát là tự tại”. Lại nói: “Giải thoát, thể của nó là viên tịch. Các hữu tình do bị phiền não chướng ngại, trói buộc, nên luôn ở trong sinh tử. Chứng được viên tịch rồi thì xa lìa được những trói buộc đó nên gọi là giải thoát”.

Tóm lại, đại nguyện của thánh chúng cõi Cực Lạc, không những tự mình thoát ly sinh tử, mà còn khiến cho hết thảy hữu tình cùng thoát sinh tử, vĩnh viễn được giải thoát nên nói “quá độ giải thoát”. 

KINH VĂN:

“Tự nhiên bảo thủ, chân chân khiết bạch. Chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Nhất đán khai đạt minh triệt, tự nhiên trung tự nhiên tướng, tự nhiên chi hữu căn bản, tự nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng. Uất Đơn thành thất bảo, hoành lãm thành vạn vật. Quang tinh minh câu xuất, thiện hảo thù vô tỷ, trước ư vô thượng hạ, đỗng đạt vô biên tế”.

VIỆT DỊCH:

“Tự nhiên không thay đổi, chân thật tuyệt đối, thanh tịnh. Chí nguyện vô thượng, tịnh định an lạc. Một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt tướng tự nhiên trong tự nhiên, tự nhiên tự có căn bản, tự nhiên quang sắc xen nhau, chuyển biến tối thắng. Uất Ðơn thành thất bảo, hư không thành vạn vật, quang tinh minh cùng xuất hiện, tốt lành thật khôn sánh, soi tỏ không trên dưới, thông suốt không bờ mé”.

GIẢNG:                                        

Đoạn kinh văn trên hiển thị diệu dụng của tự tánh. Tự nhiên bảo thủ, chân chân khiết bạch”

Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ: “Tự nhiên bảo thủ” có thể tạm dịch là “tự nhiên chẳng thay đổi”, như nhà thiền thường nói là “bảo nhậm”. Chữ “nhậm” (任 rèn) là nhậm vận  (任 運 rèn yùn) là tùy ý, cũng có nghĩa là tự nhiên, không cần suy nghĩ về nó: “muốn đi thì đi, muốn ngồi thì ngồi”. Chữ “bảo” (保 bǎo) là giữ vững, niệm niệm chẳng sai khác.

Theo Hòa thượng Tịnh Không, phiền phức của chúng ta hiện nay là niệm niệm khác nhau, suốt ngày cứ nghĩ Đông nghĩ Tây, tạp niệm đầy dẫy. Hiện tượng này là lục đạo luân hồi. Nếu có thể khởi tâm động niệm đều là Phật A Di Đà, đó chính là “tự nhiên bảo thủ” (tự nhiên chẳng thay đổi). Điều nầy cần công phu. Công phu thấp nhất trong Tịnh tông là niệm Phật phải đạt đến “công phu thành khối”, “thành khối” chính là “tự nhiên bảo thủ”.

“Chân chân khiết bạch”. Chữ “chân” (真 zhèn), theo sách chú giải của cụ Hoàng, là Nhất chân pháp giới, là thể tánh Chân Như, là chân tâm diệu minh, đồng nghĩa với chữ “chân” trong “Chân Thật Tế” được nói đến trong kinh nầy. Ở đây, kinh nói “chân chân” (tạm dịch là: chân thật tuyệt đối) hàm ý: Đây chẳng phải là “chân” do so với “vọng” mà là lẽ chân thật tuyệt đối, dứt bặt mọi đối đãi, là lẽ chân thật trong Chân Đế.

Chữ “khiết” (潔 jié) là vô cấu, chữ “bạch” (白 bái) là vô nhiễm, như Lục Tổ Huệ Năng nói: “Nào ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh”, cũng như Tổ Bách Trượng dạy: “Tâm tánh vô nhiễm vốn tự nhiên thành”. Cái “bảo nhậm” mà ta giữ ở đây chính là cái chân tâm tuyệt đãi vô nhiễm vốn tịnh này (“tuyệt đãi” ở đây là dứt tuyệt mọi đối đãi).

– Chúng ta ngày nay dùng phương pháp gì để “bảo nhậm” chân tâm có hiệu quả?

– Chỉ duy nhất dùng một câu Phật hiệu, niệm đến cùng, không xen tạp là “bảo nhậm” rồi!

Chí nguyện vô thượng: Chữ “vô thượng” là như Vãng Sinh Luận chú giải nói: “vô thượng là đạo này cùng tột lý, cùng tận tánh, không còn có gì hơn được nổi”. Phật pháp Đại Thừa nói được rất thấu triệt nên gọi là “cùng tột lý”. Chữ “lý” ở đây là lý tánh. Bởi Bồ tát nương theo pháp Đại Thừa để tu hành, mục tiêu cuối cùng là minh tâm kiến tánh, đó chính là “cùng lý tận tánh”, cho nên “không có gì hơn được nổi”. Đây gọi là đại viên mãn, rốt ráo viên mãn.

Sách Bảo Kính Tam Muội của nhà Thiền nói: “Tiềm hành mật dụng, như ngu như lỗ, đản năng tương tục, danh chủ trung chủ” (Ngầm hành thầm dùng, như ngu, như ngốc, chỉ cốt sao giữ được liên tục, gọi đó là chủ trong chủ). Ý nghĩa câu này rất sâu sắc.

Theo Hòa thượng Tịnh Không, “tiềm hành mật dụng”: Chữ “tiềm” và chữ “mật” ở đây đều có nghĩa là “sâu”. Đây chính là bí quyết tham cứu của Thiền tông. Bí quyết này nói rõ ra là “chế tâm nhất xứ” mà Thế Tôn thường dạy. Mọi người đều hiểu rồi, phải đem tâm tập trung hoàn toàn nơi chân tâm vô nhiễm bổn tịnh, phải bảo thủ, định tâm từ chỗ này, đây gọi là “tiềm hành mật dụng” (ngầm hành thầm dụng). Biểu hiện bên ngoài như ngu ngu, đần đần, ngốc nghếch, không có suy nghĩ, nhưng trên thực tế thì thông minh tuyệt đỉnh, siêu việt hẳn trí tuệ thông minh thông thường, đây gọi là “đại trí như ngu”, phải là người thật sự có đại trí tuệ mới có thể làm được. Dùng công phu tuyệt diệu nầy gọi là “chủ ở trong chủ”.

– Chủ là gì?

– Là Chân Như tự tánh! Một câu A Di Đà Phật nầy là chân như tự tánh, hoàn toàn tương ưng với chân như tự tánh của bản tâm. Đây là sự thù thắng của Tịnh Tông. Trong Kinh Đại Tập nói, trì danh niệm Phật chính là “vô thượng thâm diệu thiền” , đây mới thật sự là “chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện”, không việc gì mà không thể thành tựu. Lại nói:

“Thử chánh bất đọa pháp thân số, Tỳ Lô đảnh thượng hành tẩu” (chẳng đọa vào Pháp Thân số, đi trên đảnh Tỳ Lô), là chuyện cùng tột trong nhà Thiền, là Thượng Thượng phẩm nơi cõi Tịch Quang trong Tịnh Tông. Lấy đó làm chí nguyện nên bảo là “chí nguyện vô thượng”.

Theo Hòa thượng Tịnh Không: Những lời trên đây là thuật ngữ trong Thiền tông. “Bất đọa Pháp Thân số trung”. – Pháp thân mà cũng có số sao? – Có! Trong Kinh Hoa Nghiêm nói: Có bốn mươi mốt ngôi vị Pháp Thân Đại Sĩ, chẳng phải là có số sao? “Bất đọa Pháp Thân số trung” chính là siêu việt rồi. Họ không cần trải qua bốn mươi mốt ngôi vị của Pháp Thân đại sĩ, từng cấp bậc đi lên mà trong thoáng chốc họ thông qua hết.

– Thông đến tuyệt đỉnh là gì?

– Là Diệu Giác Như Lai! Vậy là siêu tuyệt! Đây chính là “nhất môn trực siêu” trực tiếp đến được.

“Tịnh định an lạc”: Tịnh định giả kỳ tâm thanh tịnh, tịch nhiên bất động dã. An lạc giả, an nhiên tự tại, nhậm vận thường lạc dã” (Tịnh định là tâm thanh tịnh, vắng lặng, bất động. An lạc là an nhiên tự tại, tùy ý thường vui)

Nhất đán khai đạt minh triệt, tự nhiên trung tự nhiên tướng”. Chữ “nhất đán” (một ngày nào đó) nghĩa là chỉ trong một sát-na nào đó. Bởi “vô thượng” là nơi chẳng thể đi đến (đó là minh tâm kiến tánh) nên không thể tính được hành trình, không thể nói nổi kỳ hạn, chỉ trong vô tâm tam-muội (như lời dạy của Cao Phong thiền sư) đột nhiên sờ phải, va nhằm, mò đúng cái chốt hướng thượng, trong sát-na tương ưng, thấu suốt nguồn tâm, khế nhập lý nhất tâm, nên nói “nhất đán khai đạt minh triệt” (một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt).

Hòa thượng Tịnh Không giải thích: “Chỉ trong vô tâm tam – muội”, điều nầy thật ý vị! – Muốn đạt đến “vô thượng” kia, chỉ trong “vô tâm tam-muội”, đây là ý gì? – Ý nói: Không khởi tâm, không động niệm gọi là “vô tâm tam- muội”.

Thật sự, không khởi tâm, không động niệm thì vũ trụ pháp giới này không còn nữa, cả thân chúng ta cũng không còn. Nhưng, bản tâm thì rõ ràng sáng tỏ. Đó chính là cảnh giới của Thường Tịch Quang. Còn nhìn thấy có hiện tượng tồn tại là còn có khởi tâm vọng niệm. Giống như chúng ta xem hình ảnh trên màn hình, đây là lúc nó đang động. Nếu nó định lại thì hình ảnh sẽ không còn nữa, chỉ còn lại một màn hình trống không. Đây chính là tự tánh hiện tiền. Nhưng sau khi tự tánh hiện tiền: Động bất động cũng chỉ là một. Vì sao? – Vì thấu triệt rồi, trong tâm không còn chấp trước, không còn trụ ở Nhị biên, tác dụng đó chính là diệu dụng. Diệu dụng thì “tịnh định an lạc”.

Chữ “tịnh định”: “tịnh” là chân tâm, là “tự tánh vốn tự thanh tịnh”, “định” chính là tự tánh bổn định, “tự tánh vốn không dao động”. Chúng ta tu là tu những thứ này, chính là tìm lại chân tâm. Mỗi ngày chúng ta có được bao nhiêu  giây phút “tịnh định” là có được bấy nhiêu giây phút an lạc; mới hiểu ra: Chư Phật, Bồ tát…giáo hóa chúng sinh vì sao không biết mệt; không gì khác hơn là tâm các Ngài “tịnh định” nên “an lạc” tràn đầy. Ngày nay, tâm chúng ta bất an do vọng tưởng, chấp trước quá nhiều đưa đến thân không an thì bệnh tật cũng lắm!

“Nhất đán khai đạt minh triệt” (Một mai khai ngộ). Đây là “Sát-na tương ứng” , là việc mà chúng ta không thể nghĩ tưởng đến được! Không biết tại sát- na nào! Vả lại, cơ duyên mỗi người một khác, ý niệm cũng không tương đồng. Chúng ta xem trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, có hơn một ngàn bảy trăm điển hình khai ngộ, tuyệt đối không có hai người nào khai ngộ giống nhau.

“Khai đạt minh triệt” là “thấu suốt nguồn tâm, khế nhập lý nhất tâm”, là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh.

Chữ “khai” (開 kāi) là tâm khai ngộ. Chữ “đạt” (薘 dá) là liễu đạt: “liễu” là hiểu rõ, “đạt” là thông đạt; chữ “minh” (明 míng) là minh bạch. Như Tín Tâm Minh nói: “Minh bạch thấu suốt”. chữ “triệt” (徹 chè) là thấu triệt, triệt ngộ. – Sở ngộ được gì? – Là ngộ được “tự nhiên trung tự nhiên tướng” (tướng tự nhiên trong tự nhiên) không có chút chi tạo tác.

Chúng ta quan sát bên trong trứng gà, chỉ có lòng trắng và lòng đỏ, ngoài ra không có thứ nào khác. Vì sao ấp ra lại là gà con, có đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân; trong đó cũng có lục phủ, ngũ tạng? – Làm sao có thể biến hiện được như thế? Ngay cả nhà khoa học cũng không làm được! Đó là tự nhiên trung, tự nhiên tướng” (tướng tự nhiên trong tự nhiên). Như kẻ cuồng trong Kinh Lăng Nghiêm mê mờ tưởng đầu mình mất, cuống cuồng đi tìm là chẳng tự nhiên. Đến khi hết cuồng thì hết cuồng đó chính là Bồ Đề, đầu mình vẫn y đó, chẳng phải là “tự nhiên” hay sao? Đây chính là “tướng tự nhiên trong tự nhiên”.

Lại như cổ đức khi chứng ngộ bảo: “Sư cô vốn là đàn bà”, lại nói “sớm biết đèn là lửa, cơm đã chín mấy dạo”. Đây là những lời nói của Thiền tông khi khai ngộ. Tỳ kheo ni là đàn bà, đèn tức là lửa, vậy “cơm chín” là gì? – “Chín” là khai ngộ! “Cơm đã chín mấy dạo”, ý nói: Vốn đã giác ngộ rồi, không phải bây giờ mới ngộ. Vì sao vậy? – Vì căn bản là không có mê ngộ! Mê chính là quên đầu nhận bóng, như Diễn Nhã Đạt Đa trong kinh Lăng Nghiêm mê đầu nhận ảnh. Cho nên, thật sự vốn là như vậy. Tất cả pháp vốn là như vậy.

Tỳ kheo ni là người nữ, đèn tức là lửa, đều là “tướng tự nhiên trong tự nhiên”. “Tự nhiên” là tánh: Tự nhiên thứ nhất trong tự nhiên là “tánh”. Tự nhiên thứ hai là “tướng”. Tánh, tướng là một chẳng phải hai.

– Chân như tự tánh ở đâu?

– Ở ngay nơi sự tướng! Tự tánh ở thân ta, tự tánh ở các vật dụng như bàn, ghế v.v…, tự tánh ngay trong phòng nầy, không có pháp nào chẳng phải là tự tánh.

Lại như lúc chưa ngộ, bảo “núi là núi, sông là sông”. Người ngộ bảo “núi chẳng phải núi, sông chẳng phải sông”. Bậc triệt ngộ bảo “núi vẫn là núi, sông vẫn là sông”. Vì sao vậy? – Vì hằng thuận chúng sinh, không cần phải đi tranh cãi! Mỗi người đều có cái lý của mỗi người; mỗi người chỉ thấy được một khía cạnh, không phải là toàn diện, cũng giống như người mù sờ voi không khác!

Hơn nữa, “tướng tự nhiên” chính là Thật Tướng vốn sẵn của Tự Tánh. Vì vậy, núi, sông, nam, nữ, thời nay, thời xưa v.v…không thứ nào chẳng được chánh ấn Thật Tướng in vào. Ngay nơi tướng chính là Đạo; ngay nơi sự chính là chân, thứ nào cũng đều vốn sẵn thanh tịnh, thứ nào cũng là “tướng tự nhiên trong tự nhiên”. Đây là dùng tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng mà nhìn thấy vũ trụ, pháp giới đều thanh tịnh, bình đẳng. Trong pháp giới này không có Phật, không có chúng sinh. Vì sao vậy? – Vì Phật, chúng sinh đều là giả danh! Nó vốn không có tên, như Lão Tử nói: “Danh khả danh phi thường danh, đạo khả đạo phi thường đạo”. Đây là thật! Tất cả đều quy về nhất chân pháp giới, tự tánh bản nhiên. Do chúng ta mê nên còn khởi tâm phân biệt, chấp trước. Như địa cầu chỉ là địa cầu, nếu có phân chia thì có đánh nhau! Đều là tự làm tự chịu! Không phân chia là “tự nhiên trung tự nhiên tướng” (tướng tự nhiên trong tự nhiên). Chỉ có “tự nhiên” là tướng tốt đẹp, lành mạnh nhất.

Cao Phong thiền sư bảo: “Đi, về vẫn là người xưa, chỗ đi về năm xưa vẫn chỉ là như cũ!”. Vẫn như cũ chẳng phải là tự nhiên hay sao? “Người xưa” chính là Chân Như bản tánh, năng hiện năng biến xưa nay chưa từng thay đổi.

Tự nhiên chi hữu căn bản(Tự nhiên tự có căn bản): Chữ “căn bản” ở đây chính là bản thể, là tự thể căn bản của tất cả pháp.

Kinh Đại Nhật nói: “Nhất thân dữ nhị thân, nãi chí vô lượng thân, đồng nhập bản thể”. (Một thân, hai thân đến  vô lượng thân cùng nhập bản thể). Theo Hòa thượng Tịnh Không: “Một thân” là ta, “hai thân” là người (có ta, có người), cho đến “vô lượng thân” là hình thể, bao gồm tất cả: Con người, sự vật, súc sinh, cây cối, hoa cỏ, núi sông, đất đai v.v…thậm chí nhỏ như hạt bụi, tế bào…đều có hình thể cũng được gọi là thân, tất cả “đồng nhập bản thể”, đều từ bản thể sinh ra, đây là nghĩa “căn bản”. “Bản” còn có nghĩa là bản tâm tức là nguồn cội tự tâm, cũng có nghĩa là bản tánh tức là tánh đức vốn có.

Chữ “hữu” trong câu “tự nhiên chi hữu căn bản” rất thiết yếu. “Hữu” là có, như kẻ cuồng  sẵn có cái đầu, quyết định là có, chẳng từ bên ngoài mà có. Trong Tâm Vương Minh, Phó Đại Sĩ viết: “Thủy trung diêm vị, sắc lý liêu thanh, quyết định thị hữu, bất kiến kỳ hình. Tâm vương diệc nhĩ, thân nội cư đình. Diện môn xuất nhập, ứng vật tùy hình, tự tại vô ngại, sở tác giai thành” (Nước có vị mặn, sắc vẫn trong veo, quyết định là có, nhưng chẳng thấy hình. Tâm vương  cũng vậy, ngụ trong thân thể, ứng dụng ra ngoài, tùy theo tình huống thích ứng, tự tại vô ngại, hoàn thành các việc).

Bốn chữ “quyết định thị hữu” (quyết định là có) đã mở toang mật tạng của chư Phật, nghĩa là tâm vương của con người quyết định là có, giống như vị mặn trong nước. Vị mặn đó chắc chắn là có, nhưng chẳng thấy được hình dáng của vị mặn đó.

Ngài Tào Sơn (Tổ sư tông Tào Động) cũng nói: “Chỉ cần biết có là được, chẳng luận là còn đang ở trong phiền não, vô minh”. Vì sao vậy? – Vì biết được “có”, mới sinh tín tâm, lòng tin là mẹ của công đức. Ngày nay, người niệm Phật rất nhiều, nhưng người vãng sinh chẳng bao nhiêu! – Do nguyên nhân gì? – Do không khẳng định chắc chắn là “có”! Đây là thiếu lòng tin.

Đại sư Ngẫu Ích đưa ra sáu loại “tin”, trong đó cái tin thứ nhất là tin chính mình, tin chính mình chắc chắn là có Phật tánh, có trí tuệ đức tướng Như Lai, chỉ do vọng tưởng, chấp trước ngăn che, nhưng chắc chắn tự tánh không bao giờ mất. Đây là vấn đề quan trọng! Như vậy, muôn phần chẳng thể xem thường chữ “hữu” nầy được.

Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, câu “tự nhiên chi hữu căn bản” (tự nhiên có căn bản) có hai nghĩa:

*– Sum la vạn tượng thể tánh không hai. Ngàn con sông đều là nước (tách nước ra không thể thấy sóng), muôn thứ vật dụng chỉ là vàng. Trong tự nhiên tự có bản thể. Cái bản thể ấy chính là “căn bản”.

*– Chẳng do tạo tác, nhất niệm đốn ngộ nên bảo là tự nhiên. Hiểu rõ vạn pháp đều nằm gọn trong tự tâm, thấy ngay được Chân Như tự tánh. Tự tánh của tự tâm chính là “căn bản” nên bảo là “tự nhiên chi hữu căn bản”.

Kinh Tịnh Danh nói: “Tức thời hoát nhiên, hoàn đắc bản tâm” (Ngay lập tức rỗng rang, đạt được bản tâm). Chữ “hoát nhiên” chính là nhất niệm đốn ngộ, cũng chính là “nhất đán khai đạt minh triệt” (một mai khai ngộ, hiểu rõ, minh bạch, thấu triệt). Cái bản tâm tìm lại được, ấy chính là “tự nhiên trung, tự nhiên tướng, tự nhiên chi hữu căn bản” (tướng tự nhiên trong tự nhiên, tự nhiên tự có căn bản).

Kinh Bồ tát giới còn bảo: “Ngã bổn nguyên tự tánh thanh tịnh, nhược thức tự tâm kiến tánh, giai thành Phật đạo” (Tự tánh của ta vốn thanh tịnh. Nếu hiểu biết tự tâm, thấy được tánh thì đều thành Phật đạo) đủ chứng tỏ câu nói của tổ Tào Sơn: “Chỉ yếu tri hữu tiện thị” (chỉ cần biết “có” là được) chính là tâm ấn mà chư Phật đã truyền cho nhau. Trạm Ngu lão nhân nói: “So với Lục Tổ, Tào Sơn chỉ nắm được cái chuôi nầy”. “Nắm được cái chuôi nầy” là có được thọ dụng. Chỉ cần biết “có”, chữ “có” ở đây là biết có tự tánh, có chân tâm. Chân tâm năng sinh vạn pháp; vạn pháp với ta là một thể, thì đâu còn có tâm phân biệt, chấp trước, pháp giới hài hòa, tự nhiên hài hòa, không chút miễn cưỡng, đó là tự nhiên.

“Tự nhiên quang sắc tham hồi, chuyển biến tối thắng”. (tạm dịch: tự nhiên ánh sáng xen nhập vào nhau, chuyển biến tối thắng).

Theo Hòa thượng Tịnh Không: “quang sắc tham hồi” (ánh sáng xen nhập vào nhau) ngầm nói lên vũ trụ này là nhất thể. Thật sự là như thế! Ánh sáng ở đây là tín hiệu. Nhục thể của hiện tượng vật chất và tín hiệu của hiện tượng tinh thần, cùng vạn sự vạn vật, cả pháp giới đều là ánh sáng đan xen vào nhau chưa bao giờ gián đoạn. Sự liên thông này cũng biểu trưng sự gia trì không bao giờ dứt, bất kể là chúng sinh đang mê hay đã ngộ. Đây là “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi” của chư Phật, Bồ tát đối với chúng sinh.

Chữ “tham” (參 cān) là nhập vào. Chữ “hồi” (廻 huí) là quay trở lại, xoay chuyển, biến hóa không cùng, cũng biểu trưng cho tướng tương tục, nhưng không phải là tương tục thật. Thể của Thật Tướng là chẳng tịch, chẳng chiếu, nhưng lại thường tịch, thường chiếu. Tịch nhưng thường chiếu, chiếu nhưng thường tịch, nên từ Pháp thân lưu xuất Báo thân, Hóa thân; từ Lý thể sinh ra vô lượng tướng dụng vi diệu. Do đó, từ căn bản của tự nhiên ấy tự nhiên sinh ra vô lượng quang minh, sắc tướng xen nhập vào nhau, xoay vần biến hóa, lan khắp mười phương, nên kinh bảo “tối thắng”.

Trong kinh thường dùng bảo châu để ví dụ cho tự tâm. Quán Kinh nói: “Nhất nhất bảo châu hữu bát vạn tứ thiên quang. Nhất nhất quang tác bát vạn tứ thiên dị chủng kim sắc. Nhất nhất kim sắc, biến kỳ bảo độ, các tác dị tướng. Hoặc vi Kim Cang đài, hoặc tác chân châu võng, hoặc tác tạp sắc vân, ư thập phương diện, tùy ý biến hiện, thị tác Phật sự” (Mỗi viên bảo châu có tám vạn bốn ngàn ánh sáng. Mỗi ánh sáng có tám vạn bốn ngàn kim sắc khác nhau. Mỗi kim sắc chiếu khắp cõi báu biến thành các tướng khác nhau: Hoặc biến thành Kim cang đài, hoặc biến thành lưới chân châu, hoặc biến thành mây nhiều màu lan khắp mười phương, tùy ý biến hiện, thực hành Phật sự). Kinh còn nói:

“Vô Lượng Thọ Phật hữu bát vạn tứ thiên tướng, nhất nhất tướng trung các hữu bát vạn tứ thiên tùy hình hảo. Nhất nhất hảo trung phục hữu bát vạn tứ thiên quang minh. Nhất nhất quang minh biến chiếu thập phương thế giới niệm Phật chúng sinh, nhiếp thủ bất xả. Kỳ quang tướng hảo cập dữ hóa Phật, bất khả cụ thuyết” (Vô

Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo. Trong mỗi tùy hình hảo lại có tám vạn bốn ngàn quang minh. Mỗi quang minh chiếu khắp chúng sinh niệm Phật trong mười phương thế giới, nhiếp thủ chẳng bỏ. Quang minh, tướng hảo ấy và các hóa Phật (hiện ra trong các quang minh ấy) chẳng thể nói trọn).

Theo sách chú giải của cụ Hoàng: Những đoạn kinh trên đã mô tả thật rõ ràng quang minh, sắc tướng vi diệu khó nghĩ lường, tùy ý biến hiện (chữ “tùy ý” này, theo Hòa thượng Tịnh Không là “tùy chúng sinh tâm ứng sở tri lượng, chớ không phải là ý của Phật, Bồ tát. Phật, Bồ tát không có ý). Trong quang minh có màu sắc,trong màu sắc lại hiện tướng. Các tướng đẹp mầu nhiệm như lưới châu v.v…đều chỉ từ một sắc biến hiện. Lại như Phật có đủ các tướng hảo, trong mỗi tướng hảo lại phóng quang. Trong quang minh lại có Phật hiện. Đấy đều là những thể hiện cùng tột ý nghĩa của “tham hồi” (xoay chuyển, đan xen vào nhau) trong đoạn kinh này. Còn “thị tác Phật sự” (thực hành Phật sự) và “nhiếp thủ bất xả” chúng sinh niệm Phật trong mười phương thế giới, đấy chính là những sự “tối thắng”.

Tham chiếu những kinh văn được trích dẫn trên, ta thấy các y báo, chánh báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc đều từ căn bản tự nhiên biến hiện ra. Đó chính là, như Vãng Sinh Luận nói: Ba thứ trang nghiêm đều nhập trong một pháp cú. Một pháp cú là thanh tịnh cú, tức là chân thật trí tuệ, vô vi Pháp thân. Vì vậy, “căn bản của tự nhiên” chính là một thanh tịnh cú như Vãng Sinh Luận bảo.

Uất Đơn thành thất bảo”: Chữ “uất đơn” (Uttarakuru) nói đủ là Uất Đơn La Cứu Lưu, hoặc Uất Đơn Việt, Câu Lô v.v…Đó chính là tên của một trong bốn đại châu ở phương Bắc, dịch nghĩa là Cao Thượng Tác, Thắng Thượng Sinh, Cao Thắng.

Sách Huyền Ứng Âm Nghĩa nói: “Hán dịch là Cao Thượng Tác, nghĩa là cao trỗi hơn các phương khác, cũng có nghĩa là thù thắng hơn cả”. Sách viết thêm: “Câu Lô Châu, Hán dịch là Thượng Thắng hoặc dịch là Thắng Sinh”.

Kinh Khởi Thế Nhân Bổn bảo: Châu nầy “ở dưới trời Tứ Thiên (tức là trong thế gian này). Với ba châu kia, châu này tối thượng, tối thắng, tối diệu”.

Bản Ngô dịch ghi “Uất Đơn chi tự nhiên, tự nhiên thành thất bảo”, (Tự nhiên như trong cõi Uất Đơn, tự nhiên thành thất bảo).

Theo Hoa Nghiêm Sớ Sao, quyển mười ba thì: “Uất Đơn Việt, Hán dịch là Thắng Sinh vì (người sống ở đó) quyết định thọ đến một ngàn tuổi, cơm áo tự nhiên vậy”. Người sống ở châu ấy không cần phải cày bừa, dệt vải, làm lụng mà cơm áo tự nhiên dư dật.

Bản hội tập trích theo bản Hán dịch nên ghi là “Uất Đơn thành thất bảo”, chính là gom cả hai ý của câu văn trong bản Ngô dịch, hàm ý: (cõi Cực Lạc) giống như châu Uất Đơn, tự nhiên sinh ra đầy đủ, tràn ngập các thứ cơm áo, vật dụng; lại còn tự nhiên sinh ra bảy báu thắng thượng.

Hoành lãm thành vạn vật”: Chữ “hoành” (橫 hèng) chỉ không gian, “lãm” (攬 lăn) là nắm giữ, ôm lấy; “vạn vật” là tất cả các vật. Do vậy, “hoành lãm thành vạn vật” có nghĩa là tự nhiên từ mười phương hư không hiện ra vạn vật. Tất cả vạn sự, vạn vật đều sinh ra từ căn bản tự nhiên; mà “căn bản tự nhiên” chính là như kinh Thủ Lăng Nghiêm dạy: “Nguyên thị Bồ Đề diệu tịnh minh thể” (vốn là cái thể mầu nhiệm, sáng sạch của Bồ Đề), tức là vạn vật đều từ trong Đại Quang Minh Tạng xuất hiện. Trong Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, Quốc sư Hiền Thủ nói là “Tự tánh thanh tịnh viên minh thể”.

Trong cõi Cực Lạc cũng giống như thế: Tất cả đều do đại nguyện của đức Phật A Di Đà tạo thành, tất cả đều là cái sẵn có trong tâm thanh tịnh của chúng sinh. Cho nên, kinh nói: “Quốc trung vạn vật, nghiêm tịnh quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, vô năng xưng lượng” (vạn vật trong nước nghiêm tịnh sáng đẹp, hình sắc đẹp đẽ lạ lùng, cùng vi cực diệu không thể tính kể nổi).

Quang tinh minh câu xuất: Chữ “quang” là quang minh, chữ “tinh” (精 jīng) là tinh diệu, chữ “minh” (明 míng) là minh tịnh (sáng sạch), chữ “xuất” là xuất hiện. Tự tâm vốn đủ cả vạn đức, đã sạch bụi vô minh thì tự nhiên trở thành thanh tịnh trang nghiêm, quang minh vi diệu, đẹp đẽ, khiết tịnh, tất cả diệu tướng cùng hiện ra, nên kinh bảo: Quang tinh minh câu xuất, thiện hảo thù vô tỷ(Quang minh sáng sạch cùng xuất hiện, tốt đẹp thật khôn sánh).

Phần trên, kinh nói: “Quang sắc hoảng diệu, tận cực nghiêm lệ” (Quang sắc chói ngời, trang nghiêm, đẹp đẽ đến cùng cực) và “thanh tịnh trang nghiêm, siêu du thập phương” (thanh tịnh trang nghiêm, vượt trỗi (các thế giới trong) mười phương). Do vậy, mười phương thế giới thật chẳng thể sánh nổi những điều đẹp đẽ tốt lành nơi cõi Cực Lạc.

Trước ư vô thượng hạ, đổng đạt vô biên tế” (Soi tỏ không trên dưới, thông suốt không bờ mé). Sách Hội Sớ giảng như sau: “cái Lý được chứng nhận ấy là pháp bình đẳng, chẳng có cao thấp nên gọi là ‘vô thượng hạ’. Theo bề dọc thì sâu xa, theo bề ngang thì rộng rãi, không có biên giới nên gọi là ‘vô biên tế’ (không bờ mé). Ấy là trí Phật chiếu soi vậy. ‘Trước’ (著) zhù) có nghĩa là sáng tỏ, ‘đổng đạt’ là chứng nhập”.

Thế nên, “trước ư vô thượng hạ” là nói đến Lý thể được Bồ tát chứng nhập. Lý thể ấy là Như Như, là “căn bản tự nhiên”. Câu “đỗng đạt vô biên tế” là nói đến Phật trí, là Như Như trí luôn chiếu soi tất cả. Phật trí thông suốt vì từ căn bản ấy phát sinh tướng trí tuệ tự nhiên. Bản thể và công dụng giống hệt nhau: Lý và Trí chẳng hai, Năng và Sở cùng mất; nói theo Hòa Thượng Tịnh Không tức là: “sắc tức là không; không tức là sắc. Sắc chẳng khác không; không chẳng khác sắc”. Đây là cảnh giới viên dung tuyệt đối, ngôn ngữ đạo đoạn tâm hành xứ diệt, dứt bặt mọi đối đãi, ngôn ngữ lẫn tư duy đều không thể diễn tả.

“Vô thượng hạ” cũng có nghĩa là bình đẳng, như kinh Kim

Cang nói: “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ” (Pháp đó bình đẳng, không có cao thấp). Chữ “pháp” ở đây là tất cả pháp. Lại nói: “Tâm, Phật cập chúng sinh, thị tam vô sai biệt” (Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ đó đều không sai biệt). Đây cũng là pháp: Tâm pháp, Phật pháp và Chúng sinh pháp. Tuy ba mà một, tuy một mà ba. Vì sao vậy? – Tâm năng sinh, năng hiện; Phật và chúng sinh là sở sinh, sở hiện. Giác ngộ là Phật, chưa ngộ là chúng sinh. Bất luận là người ngộ hay chưa ngộ, họ đều do tâm sinh, tâm hiện; họ là một chẳng phải hai. Năng sinh, năng hiện là bản thể; sở sinh, sở hiện là hiện tượng. Thể và tướng là một chẳng phải hai, nên gọi là “tam vô sai biệt”.

Chữ “Trước” (著) zhù) là hiển bày, làm sáng tỏ. Sách Hội Sớ giảng: “Trước giả, minh dã” (trước là sáng tỏ). Hội Sớ quả thật là khéo, dùng chữ “minh” (sáng tỏ) để giải thích chữ “trước” (hiển bày), bởi chữ “minh” ở đây chính là “minh tâm kiến tánh” vậy.

Tóm lại, thấu triệt được Lý thể bình đẳng, không trên, không dưới tức là thấy được chân tánh. Điều này thật khó! Đối với người sơ học, nếu nói với họ “đừng chấp trên dưới” thì họ mù ngay! Chuyện gì nữa đây? – Không phân biệt chân, giả, thiện, ác, đúng, sai v.v…thì có khác chi đầu óc người này đang có vấn đề! Cho nên, thông thường Phật không nói, chỉ nói chừng đó thôi! Nên biết, kinh này thuộc Nhất Thừa pháp, còn trên cả Đại Thừa, Phật mới nói hết ra như vậy.

“Đỗng đạt vô biên tế”: Chữ “đỗng” (洞 dòng) là nhìn thấu, rõ ràng, minh bạch. Chữ “đạt” (達 dá) là thông đạt, là “thức tâm đạt bổn” rõ thấu nguồn tâm. Thấu suốt nguồn tâm nên bảo là “đỗng đạt”. Do vậy, Hội Sớ dùng chữ “chứng nhập” để giải thích chữ “đỗng đạt”.

“Vô biên tế” (không bờ mé) là (như không gian) xét theo chiều dọc thì tột cùng cả trên lẫn dưới; xét theo chiều ngang thì cả tám phương đều không cùng tận, chẳng hề có bờ mé. Năng lực chiếu soi của Phật trí cũng là như vậy, nên Hội Sớ giảng: “Ấy là trí Phật chiếu soi”.

Ngài Gia Tường giảng: “Chứng quả chẳng có hình sắc tốt xấu sai khác. ‘Đỗng đạt’ là trí, ‘vô biên tế’ là cảnh Chân Đế”. Ý nói: Quả giác được chứng đó không có những hình tướng sai khác, ấy là “vô thượng hạ”. Trí khế hợp với cảnh Chân Đế nên bảo là “vô biên tế”. Như vậy, ngài Gia Tường cũng đồng quan điểm với sách Hội Sớ. Hòa thượng Tịnh Không giảng rộng thêm: Nếu nói theo ngôn ngữ ngày nay, thì “vô biên tế” tức là tất cả đều trở về con số không. 

-Trở về con số không là hiện tượng gì?

– Là quay về với “nhất niệm” như Bồ tát Di Lặc đã giải thích trước đây.

Hơn nữa, “vạn pháp giai không”, chẳng phải là quy về con số không hay sao? Đã là số không thì làm gì có trên, dưới!

– Đó là tâm của ai vậy?

– Là tâm của Pháp thân Bồ tát!

Cho nên, khi trí nhập vào cảnh giới Chân Đế thì không còn có biên giới như Hội Sớ và Gia Tường Sớ đã giảng qua.

Ngài Tịnh Ảnh giải thích khác hơn, ngài nói: “Chỉ nghĩ nhớ đến đạo, hạnh đức tỏ rõ, chẳng phân biệt là thượng căn hay hạ căn, đều cùng được vãng sinh nên bảo là ‘trước ư vô thượng hạ”. Như đã được vãng sinh cõi ấy rồi thì thấu suốt cùng tột các thần thông không giới hạn nên bảo là “đỗng đạt vô biên tế”. Ý ngài nói: Ba bậc thượng, trung, hạ đều được vãng sinh nên bảo là “vô thượng hạ”. Do thánh chúng cõi Cực Lạc đều có thần thông vô hạn nên bảo là “vô biên tế” (không bờ mé). Cách nói nầy cũng rất có lý! Ngài tôn vinh ân đức vô lượng vô biên của Phật A Di Đà, đồng thời lấy sự để luận sự. Nói rằng: “Chỉ cần niệm đạo” (nghĩ nhớ đến đạo).

– Niệm đạo là gì?

– Là “nhớ Phật niệm Phật hiện tiền tương lai nhất định thấy Phật”. Chỉ cần chí thiết niệm câu A Di Đà Phật và phát nguyện vãng sinh là đã thực hiện được tất cả những lời Phật dạy trong kinh.

– Có người suốt đời niệm Phật nhưng công phu vẫn không có lực là vì sao?

– Vì trong tâm họ không có Phật! Không nhận thức đầy đủ về Phật A Di Đà và thế giới Tây Phương Cực Lạc, vẫn hoài nghi, vẫn chưa buông xả được pháp thế gian!

Chữ “hành đức” là y giáo phụng hành. Xét nghĩ, cả ba thuyết trên chúng ta đều cần nên vận dụng.

KINH VĂN:

“Nghi các cần tinh tấn, nỗ lực tự cầu chi, tất đắc siêu tuyệt khứ, vãng sinh vô lượng thanh tịnh A Di Đà Phật quốc, hoành tiệt ư ngũ thú, ác đạo tự bế tắc. Vô cực chi thắng đạo, dị vãng nhi vô nhân. Kỳ quốc bất nghịch vi, tự nhiên sở khiên tùy. Quyên chí nhược hư không, cần hành cầu đạo đức, khả đắc cực trường sinh, thọ lạc vô hữu cực. Hà vi trước thế sự, nao nao ưu vô thường?” VIỆT DỊCH:

“Ai nấy đều nên siêng năng, tinh tấn, cố gắng tự cầu ắt được siêu tuyệt, vãng sinh cõi thanh tịnh vô lượng của Phật A Di Ðà, chặt ngang năm đường, ác đạo tự đóng lấp. Ðạo thù thắng vô cực dễ đi nhưng không người! Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo. Buông bỏ như hư không, siêng hành cầu đạo đức, có thể được trường sinh cùng cực, vui sướng không chi bằng. Sao lại mê sự đời, mãi lo chuyện vô thường?” GIẢNG:

Đoạn kinh văn trên là lời đức Thế Tôn nhắc nhở đại chúng trong pháp hội phải siêng năng tu tập cầu sinh Cực Lạc.

Trước đó, ngài đã khai thị: Chân tâm thường trụ mọi người đều có, ai cũng có thể thành Phật. Tự tâm vốn thanh tịnh sinh ra muôn pháp. Khi ngộ thì khế hợp ngay với bổn Phật, khi mê thì chìm mất trong sinh tử.

“Nghi các cần tinh tấn, nỗ lực tự cầu chi” (“Ai nấy nên siêng năng, tinh tấn, cố gắng tự cầu): Ngay khi ấy, đức Thế Tôn xót thương, buông lời khuyên dụ từ bi: Đại chúng nên biết “tâm nầy là Phật” thì phải tinh tấn để “tâm này làm Phật”, nên nói: “Nghi các cần tinh tấn” (Ai nấy nên siêng năng, tinh tấn). Chữ “nghi” (宜 yì) có nghĩa là nên. Chữ “các” (各 gè) là mỗi, ai nấy; không những chỉ cho những người trong pháp hội thuở ấy mà còn kiêm luôn những người trong đời sau nghe được pháp này cũng đều phải tuân theo lời Phật dạy: Tin nhận, phụng hành, niệm Phật vãng sinh, nhằm thể hiện phương tiện rốt ráo “tâm này làm Phật”.

Luận Câu Xá giảng chữ “Cần” (勤 qín) như sau: “Cần là siêng, khiến tâm dũng mãnh”. Chữ “Cần” cũng có nghĩa là tinh tấn. Chữ “cầu” (求 qiú) là cầu đạo, cũng chính là cầu sinh Tịnh độ. Phẩm “Chí tâm tinh tấn” trong kinh này có câu: “Nhân hữu chí tâm cầu đạo, tinh tấn bất chỉ, hội đương khắc quả” (Người chí tâm cầu đạo, tinh tấn chẳng ngơi, ắt sẽ đắc quả), nên nói “Nghi các cần tinh tấn” (Ai nấy nên siêng năng, tinh tấn) sẽ “tất đắc siêu tuyệt khứ” (ắt đạt đến chỗ siêu tuyệt).

Chữ “tự” trong câu “nỗ lực tự cầu” rất quan trọng. Những chữ “tự” trong các câu: “nhữ tự đương tri” (ông nên tự biết), “nhữ ưng tự nhiếp” (ông nên tự nhiếp) được ghi trong kinh này cũng đóng vai trò quan trọng như vậy.

Sách Hội Sớ nói: “Vui cầu nơi chính mình; mà ‘chính mình’ đó chính là tự tâm, vì thế nói là tự cầu”. Ý nói: Tịnh Tông tuy là tha lực pháp môn, nhưng tự tâm hành nhân nếu chẳng tinh tấn, đoạn trừ nghi hoặc, sinh lòng chánh tín sâu xa, khẩn thiết nguyện cầu được vãng sinh thì trọn chẳng được vãng sinh, nên nói: “nỗ lực tự cầu chi” (nỗ lực tự cầu lấy).

Tất đắc siêu tuyệt khứ, vãng sinh vô lượng thanh tịnh A Di Đà Phật quốc”: “Tâm nầy là Phật” là tánh đức; “tâm nầy làm Phật” là tu đức. Có công tu đức thì tánh đức mới hiện tiền. Cho nên có câu “nỗ lực tự cầu” thì “tất đắc siêu tuyệt khứ” (ắt đạt đến chỗ siêu tuyệt). Chữ “siêu” (超 chāo) là siêu thoát; chữ “tuyệt” (絕 jué) là diệt sạch, trừ dứt. “Siêu tuyệt” là vượt thoát luân hồi, đoạn dứt sinh tử.

Sách Hội Sớ viết: “Ngay trong một lúc, nhanh chóng vượt khỏi tam giới, đoạn tuyệt các nghiệp buộc ràng trong bao kiếp, nên bảo là ‘siêu tuyệt’. Do đã đoạn tuyệt (nghiệp chướng) nên liền siêu thoát vậy”.

Theo Hòa thượng Tịnh Không: câu “ngay trong một lúc” “nhất niệm” mà Bồ tát Di Lặc đã nói. Trong “nhất niệm” này không có khởi tâm động niệm, tức là đốn siêu. Vì sao vậy? – Vì tam giới không còn! Không còn thấy thập pháp giới nữa. “Đoạn tuyệt các nghiệp ràng buộc trong bao kiếp”, chính là đoạn tuyệt tất cả phiền não, tập khí. Do đã đoạn tuyệt phiền não “nên liền siêu thoát vậy”. Thánh, phàm, trí, ngu, chín phẩm muôn loài đều được “siêu tuyệt”, toàn nhờ vào Di Đà Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, từ quả khởi tu, chỉ trong một đời được thành tựu, đều được vãng sinh về “cõi Phật A Di Đà thanh tịnh vô lượng”.

Hoành tiệt ư ngũ thú, ác đạo tự bế tắc(chặt ngang năm đường, ác đạo tự đóng lấp): Hễ được vãng sinh, đều do nương vào sức gia hộ của Phật A Di Đà bổn nguyện, sẽ chẳng bị đọa vào ba ác đạo nữa, nên kinh nói: “Ác đạo tự bế tắc” (ác đạo tự đóng lấp). Ai nấy đều được Bất Thoái, mãi cho đến khi thành Phật, nên kinh nói: “Hoành tiệt ư ngũ thú” (chặt ngang năm đường). Năm đường (ngũ thú) là ba ác đạo và hai nẽo nhân, thiên. Do A Tu La được tính gộp vào thiên thú, nên “ngũ thú” cũng chính là “lục đạo” (sáu nẽo).

Nhân thú và thiên thú vốn được gọi là “thiện thú” (đường thiện), nhưng vẫn bị xem là “ác thú” là do so sánh với cõi Cực Lạc mà nói.

Tịnh Ảnh Sớ viết: “Ba ác đạo gọi là ‘ác thú’, hai đường thiên, nhân gọi là ‘thiện thú’. Nay đem so sánh với cõi thanh tịnh của Phật A Di Đà thì cả năm đường trong cõi Sa Bà đều gọi là ‘ác thú’. Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh đều là chỗ của kẻ thuần ác hướng đến, nên gọi là ‘ác thú’. Cõi trời, cõi người của Sa Bà là chỗ kẻ tạp ác hướng đến nên cũng gọi là ‘ác thú’.

Nếu tu tập đoạn trừ theo phương pháp ở đây, trước hết đoạn Kiến Hoặc, lìa cái nhân tam đồ, diệt cái quả tam đồ. Sau đó, đoạn

Tư Hoặc, lìa cái nhân sinh trong nhân, thiên, tuyệt quả nhân thiên. Do có đoạn trừ dần dần, nên chẳng gọi là ‘hoành tiệt’ (chặt ngang). Còn nếu được vãng sinh về Tịnh Độ của Phật  A Di Đà, thì bỏ ngay một lúc cả năm đường trong Sa Bà, nên gọi là ‘hoành tiệt”.

Danh từ “kẻ tạp ác” là chỉ cho người ở thế giới Sa Bà, tuy họ cố gắng tu thiện, nhưng vẫn còn tư tưởng ác, hành vi ác xen tạp. Chỉ có “thiện” ở thế giới Cực Lạc mới là thuần thiện vì thánh chúng ở đây đã đoạn dứt tâm bất thiện lẫn hành vi bất thiện, chỉ thuần là một tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác.

Sách Hội Sớ cũng bảo: “Ắt được siêu tuyệt, chẳng phải đoạn trừ theo thứ tự, nên bảo là “hoành tiệt”.

Do vậy, “hoành tiệt” có nghĩa là “hoành xuất”, “hoành siêu” (vượt tam giới theo chiều ngang), đến rất nhanh, khác hẳn các pháp môn khác phải theo thứ tự, dần dần đoạn trừ từng lớp phiền não để thoát khỏi luân hồi sinh tử nên gọi là vượt tam giới theo chiều dọc. Cách nầy rất chậm gọi là “thụ siêu, thụ xuất”.

Sách Gia Tường Sớ nói: “Tu nhân Bồ Đề, dứt ngang sự chuyển vần trong năm đường, nên “ác đạo tự bế tắc”. Chữ “tự” ở đây là tự nhiên.

“Vô cực chi thắng đạo”: Sách Hội Sớ giảng chữ “vô cực” như sau: “Phàm phu sinh về đó liền mau chóng tiến lên quả vị nên bảo là vô cực”. Bản Nguỵ dịch ghi là: “vô cùng cực”. Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Câu ‘thăng đạo vô cực, chương kỳ sở đắc. Đắc đạo sâu rộng nên bảo là vô cùng cực”.

Hòa thượng Tịnh Không giải thích câu “Chương kỳ sở đắc như sau: Chữ “chương” là làm sáng tỏ; “kỳ sở đắc” là quả báo được vãng sinh Tây Phương Cực Lạc.

Như vậy, sách Hội Sớ cho rằng phương tiện khiến phàm phu nhanh chóng chứng được quả vị là phương tiện tột cùng, chẳng thể thấu hiểu nổi, nên phương tiện đó được xưng là “vô cực”. 

Thế thì, theo Hòa thượng Tịnh Không: Người vãng sinh nhiều vô cực, nhanh chóng chứng quả, phương tiện vô cực, được quả địa thắng đức, đều thành Bồ tát Bất Thoái Chuyển, sâu rộng vô cực. Ba loại “vô cực” nầy đã nói lên ân đức của Phật A Di Đà là “cứu cánh vô cực”. Dùng những thứ này để giải thích “vô cực thắng đạo” là rất đầy đủ, bao quát cả mọi phương diện.

“Dị vãng nhi vô nhân” (Dễ đi nhưng không người) được Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: “Tu nhân liền được sinh về, nên gọi là ‘dị vãng’ (dễ đi). Nhưng ít người tu nhân, người vãng sinh không nhiều, nên bảo là ‘vô nhân’ (không người)”. Câu “ít người tu”, rõ ràng là ý chỉ pháp môn Tịnh Độ thật sự là pháp khó tin, nên mọi người không chịu tin!

Ngài Gia Tường bảo: “Chỉ tu mười niệm thành tựu liền được vãng sinh, nhưng ít người thực hành nên mới bảo là dễ đi mà không người”.

Chúng ta thấy, phần trên ngài Gia Tường nói nhiều người được vãng sinh; ở đây lại nói ít người được vãng sinh, tựa hồ như mâu thuẫn, nhưng thật sự hai câu nói trên chẳng hề trái nghịch nhau. Bởi nếu xét theo số người được sinh từ mười phương thế giới mà nói thì quả là rất nhiều; còn nếu chỉ luận theo uế độ nầy, thì người tín nguyện vãng sinh rất ít. Vì thế, Phật bảo là “vô nhân” (không có người)

“Kỳ quốc bất nghịch vi, tự nhiên sở khiên tùy(Cõi ấy chẳng trái nghịch, tự nhiên lôi kéo theo): Câu đầu ý nói cõi Cực Lạc chẳng trái nghịch đối với người được vãng sinh; câu sau được cổ đức giải thích theo hai cách:

*– Ngài Tịnh Ảnh cho rằng: “Cõi ấy chẳng trái nghịch thể hiện ý ‘dị vãng’ (dễ đi). ‘Tự nhiên lôi kéo’ thể hiện ý ‘vô nhân’ (không có người). Chúng sinh cõi Sa Bà mang triền cái từ lâu, nên tự nhiên bị lôi kéo, trói buộc, chẳng thoát được nên “không có người”. Ý nói: cõi Cực Lạc đối với những người vãng sinh không hề trái nghịch mảy mai, nên trước hết bảo là “dễ đi”. Hiềm vì người cõi Sa Bà vốn từ lâu đã bị phiền não ràng buộc che ngăn nên tự nhiên bị lôi kéo, chẳng sinh lòng nhàm chán thì làm sao vãng sinh được, nên kinh nói “không có người”.

“Triền cái”: Chữ “triền” chỉ cho phiền não trói buộc. Chữ “cái” “ngũ cái” hay “ngũ ấm” gồm: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm.

*– Ngài Pháp Trụ bảo: “Tự nhiên sở khiên tùy” (tự nhiên lôi kéo) là nhân viên mãn, quả chín muồi, chẳng nhọc dụng công mà tự nhiên chiêu cảm”.

Ngài Gia Tường nói: “Tu nhân ắt sẽ chiêu cảm quả, nên bị quả ấy lôi kéo”.

Quan điểm của hai vị Pháp Trụ và Gia Tường giống nhau, cùng cho rằng tu nhân đắc quả, tự nhiên do quả ấy sẽ được vãng sinh. Những thuyết trên tuy khác nhau, nhưng đều phù hợp ý kinh.

Quyên chí nhược hư không, cần hành cầu đạo đức

(Buông bỏ như hư không, siêng hành cầu đạo đức): Chữ “quyên” ( 捐 juān) là từ bỏ, ý nói buông bỏ vạn duyên, chán lìa tột bực, không mong cầu chuyện đời, tâm rỗng rang thanh tịnh, không cấu nhiễm chẳng khác nào như hư không nên kinh bảo là “quyên chí nhược hư không”.

“Đạo đức”: Chánh pháp gọi là “đạo”; tâm không mất đạo gọi là “đức”. “Cần hành cầu đạo đức” (siêng năng hành cầu đạo đức) – Chúng ta dùng phương pháp nào để cầu đạo đức? – Dùng nhất tâm chuyên niệm Phật A Di Đà là siêng cầu đạo đức. Đây là “nhất tâm đơn đề”.

“Khả đắc cực trường sinh, thọ lạc vô hữu cực(Có thể được trường sinh, sống lâu, vui vẻ chẳng có cùng cực): Thế gian không có pháp trường sinh, chỉ có vãng sinh Cực Lạc mới có được trường sinh. Kinh dạy: “Quốc trung Thanh văn, thiên, nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng” (Trong cõi nước Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng). Trong cõi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui thấy Phật, nghe pháp, tùy ý tu tập thẳng đến khi thành Phật, nên kinh bảo là “thọ lạc vô hữu cực”.

Hà vi trước thế sự, nao nao ưu vô thường(Sao còn mê sự đời, mãi lo chuyện vô thường?) Cõi Cực Lạc còn có tên là An Lạc, An Dưỡng. Đức Phật cõi ấy hiệu là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang, thù thắng nhiệm mầu như vậy, rất đáng ưa thích, mong cầu. Uế độ Sa Bà thật là đáng nhàm chán! Cớ sao vẫn cứ tham đắm chuyện thế tục, mãi lo chuyện vô thường? Chữ “nao nao” ở đây diễn tả trạng thái giành giật, ồn ào. Người đời tham đắm những thứ mình có, lại muốn luôn giữ mãi, nhưng những thứ ấy thật sự là vô thường nên dù có lo lắng vẫn chẳng làm gì được!