Phật Thuyết
ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM
THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC KINH GIẢI DIỄN NGHĨA

QUYỂN 3

Hòa thượng Tịnh Không chủ giảng
Diệu Âm Phổ Hạnh kính ghi và đúc kết
Phật lịch 2567 -2023

 

BỒ TÁT TU TRÌ ĐỆ TAM THẬP

Từ phẩm hai mươi tám đến phẩm ba mươi hai của kinh này đều nói về diệu đức của Bồ Tát ở cõi Tây phương Cực Lạc. Phẩm này đặc biệt chú trọng đến diệu hạnh tự giác, giác tha của hàng Bồ Tát.

Hai phẩm ba mươi mốt và ba mươi hai giảng về công đức và diệu quả của Bồ Tát ở cõi Cực Lạc. Phật thuyết ra pháp nầy là muốn chúng sinh trong mười phương sinh tâm hâm mộ, cầu sinh Tây phương được thân cận các thượng thiện nhân để tu tập, viên mãn thành tựu những công đức như vậy.

KINH VĂN: 

Phục thứ A Nan! Bỉ Phật sát trung, nhất thiết Bồ Tát thiền định, trí tuệ, thần thông oai đức, vô bất viên mãn. Chư Phật mật tạng, cứu cánh minh liễu, điều phục chư căn, thân tâm nhu nhuyễn, thâm nhập chánh tuệ, vô phục dư tập. Y Phật sở hành, thất giác, thánh đạo, tu hành Ngũ Nhãn, chiếu Chân đạt Tục. Nhục nhãn giản trạch, thiên nhãn thông đạt, pháp nhãn thanh tịnh, tuệ nhãn kiến chân, Phật nhãn cụ túc, giác liễu pháp tánh.

VIỆT DỊCH: 

Lại nầy A Nan! Thiền định, trí tuệ, thần thông, oai đức của tất cả Bồ Tát trong cõi Phật kia đều viên mãn. Họ hiểu rốt ráo mật tạng của chư Phật, điều phục các căn, thân tâm nhu nhuyến, thâm nhập chánh tuệ, không còn sót các tập khí. Thực hành theo lời Phật dạy, hành Thất Giác, Thánh Ðạo, tu hành ngũ nhãn, rõ biết Chân Đế, đạt cả Tục Đế. Nhục nhãn phân biệt, chọn lựa; thiên nhãn thông đạt; pháp nhãn thanh tịnh, tuệ nhãn thấy Chân; Phật nhãn đầy đủ, biết rõ pháp tánh. 

GIẢNG:

Phàm những ai sinh về thế giới Cực Lạc đều là Bồ tát. Tứ độ, tam bối, cửu phẩm đều là Bồ tát. Nhờ oai thần bổn nguyện lực của Phật A Di Đà gia trì, không những họ là Bồ tát mà còn là A Duy Việt Trí Bồ tát. Nếu chỉ dựa vào sức tự lực tu hành, đến A Duy Việt Trí Bồ Tát phải trải qua vô lượng kiếp, thật không phải dễ dàng! Gặp được pháp môn Tịnh Độ, đầy đủ tín nguyện hạnh, có thể thành tựu ngay trong một đời.

Phẩm này nói đến đại hạnh của Bồ tát ở Tây phương Cực Lạc, gồm ba đại hạnh chính là: Hạnh đức tự lợi, hạnh đức lợi tha và hạnh đức viên mãn.

Đoạn kinh văn trên nói đến hạnh đức tự lợi của các Bồ tát.

Bỉ Phật sát trung, nhất thiết Bồ Tát, thiền định, trí tuệ, thần thông oai đức, vô bất viên mãn” ( Trong cõi Phật ấy, tất cả Bồ Tát, thiền định, trí tuệ, thần thông oai đức đều viên mãn). “Thiền Ðịnh” là Độ thứ năm trong Lục Ðộ, “Trí Tuệ” là Độ thứ sáu. Trong Lục Ðộ, hai Độ nầy đóng vai trò quan trọng nhất nên được nêu lên hàng đầu. Hơn nữa, Ðịnh, Tuệ phải đẳng trì, phải song hành mới đạt đến hiệu quả cứu cánh.

Sách Hội Sớ viết: “Nếu chỉ có Ðịnh mà không Tuệ thì khác gì Nhị Thừa trầm trệ nơi Không. Có Tuệ không  Ðịnh chẳng khác nào ngoại đạo nghĩ tưởng xằng bậy. Do đó, kinh luôn nói Ðịnh đi đôi với Tuệ”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không:

“Có Định không Tuệ” là chỉ bậc A La Hán, Bích Chi Phật của Tiểu Thừa. “Trầm trệ nơi Không”, chữ “Không” ở đây là “Thiên chân Niết Bàn”, là Niết Bàn của Tiểu Thừa, chưa phải cứu cánh.

“Thần thông” ở đây là chỉ Lục Thông. Chữ “Oai” (威) là oai thần, oai thế dũng mãnh, không lường biết nổi. Chữ “Ðức” (德 dé) là công đức như bản Ngụy dịch ghi: “Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức bất khả tư nghị” (Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức chẳng thể nghĩ bàn). Các Bồ Tát trong cõi Cực Lạc đều thành tựu viên mãn tất cả các thứ Thiền Ðịnh, thần thông, trí tuệ như trên nên kinh nói: “Vô bất viên mãn” (đều viên mãn).

“Chư Phật mật tạng” (Mật tạng của chư Phật). Sách Nhị Giáo Luận, quyển thượng giảng chữ “mật tạng” (密 藏 mì zàng ) như sau: “Những lời giảng của Pháp Thân Phật gọi là ‘mật tạng’, ý nói (đó là) những lời nói sâu xa, bí mật, chân thật”;

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: Chữ “mật tạng” ở đây có nghĩa là thâm mật, uyên áo, thâm sâu, sự tướng quá ư huyền diệu.

– Pháp Thân Phật thuyết pháp ra sao?

– Có thể nói toàn bộ hiện tượng đại tự nhiên chính là Pháp Thân Phật đang thuyết pháp. Nó có sắc tướng, ta có thể nhìn thấy. Nó có âm thanh, ta có thể nghe thấy. Nó có mùi hương ta có thể ngửi được, tiếp xúc được v.v.

Sách Tăng Sử Lược bảo:

“Mật tạng là pháp đà-ra-ni. Pháp ấy bí mật, chẳng phải là cảnh giới của Nhị Thừa, chỉ có chư Phật, Bồ Tát mới có thể dạo bước trong đó thôi”: “Đà-ra-ni” là tiếng Phạn, dịch thành ý Trung văn là “chú”, “tổng trì”; đây là mật pháp “Phi Nhị Thừa cảnh giới, chư Phật Bồ tát sở năng du lữ dã” (không phải là cảnh giới của Nhị Thừa, chỉ có chư Phật, Bồ Tát mới có thể dạo bước trong đó thôi). Ý nói phải tu tập đạt đến trình độ minh tâm kiến tánh, đại triệt đại ngộ mới có thể du nhập vào cảnh giới này.

“Chư Phật mật tạng, cứu cánh minh liễu” (Hiểu rõ rốt ráo mật tạng của chư Phật). Ý nói: Đối với những mật ý uyên áo, thâm sâu vượt ngoài ngôn ngữ, trong các giáo pháp khó suy tưởng nổi và các đà-ra-ni của Pháp Thân Như Lai, các Đại Sĩ cõi Tây phương Cực Lạc đều có thể lãnh hội một cách rốt ráo, thông suốt trọn vẹn.

“Điều phục chư căn” (Điều phục các căn): Chữ “điều phục” được sách Thám Huyền Ký giảng như sau: “Điều (調 tiáo ) là điều hòa, ‘phục’ (伏 fú ) là chế phục; nghĩa là điều hòa, kiềm chế nghiệp thân, khẩu, ý, dẹp yên, trừ diệt các ác hạnh”.

“Chư căn” là sáu căn: Tai, mắt v.v. “Ðiều phục chư căn” là chế ngự thân tâm, xa lìa trần cấu, tà ác.

“Thân tâm nhu nhuyến”: Chữ “Nhu nhuyến” ở đây có nghĩa là tâm nhu hòa, tùy thuận đạo. Nếu chẳng được như vậy, chính là tâm ương ngạnh thì rất khó lòng giáo hóa chúng sinh. Kinh Pháp Hoa nói: “Chúng sinh ký tín phục, chất trực, ý nhu nhuyến” (Chúng sinh đã tin phục, chất trực, ý nhu hòa).

“Thâm nhập chánh tuệ”: Chữ “Chánh tuệ” (正 慧) là trí tuệ chân chánh. Chữ“chánh” là không tà, lìa điên đảo là “Chánh”. Khế chân nhập thật cũng là “chánh”. Vậy thì, lìa tâm phân biệt hư vọng, soi tỏ trí tuệ nơi bổn tâm thì gọi là “chánh tuệ”.

“Vô phục dư tập” (không còn sót các tập khí”: Chữ “Dư tập” (餘 習 yú xí ) là những thói quen (tập quán) còn sót lại sau khi phiền não đã đoạn thì gọi là “dư tập”.

– Phiền não là gì?

– Là chấp trước, là “kiến hoặc” (thấy sai), là “tham, sân, si, mạn, nghi”.

A La Hán đều đã đoạn hết “kiến hoặc” (tham, sân, si, mạn, nghi) nhưng chưa đoạn được tập khí. Bích Chi Phật đoạn được tập khí “kiến hoặc”, nhưng vẫn còn Trần sa phiền não”. “Trần sa phiền não” chính là “phân biệt”, nhẹ hơn “chấp trước”. Chỉ có chấp trước là nghiêm trọng nhất tạo thành luân hồi lục đạo.

“Dư tập” còn gọi là “tàn tập” (殘 習cán xí ), có chỗ gọi là

“tập khí” (習 氣). Nhị Thừa không đoạn trừ nổi dư tập, chỉ Phật mới đoạn sạch hết tất cả những tập khí vô minh phiền não.

Ðại Trí Ðộ Luận nói:  

“A La Hán, Bích Chi Phật tuy phá được Tam Độc (tham, sân, si), nhưng khí phận chưa hết. Ví như hương đặt trong đồ đựng, dẫu bỏ hương đi, mùi thơm vẫn còn. Lại giống như lấy cỏ cây làm củi, khói lửa hết rồi, than tro vẫn còn vì sức lửa còn yếu. 

Ðức Phật vĩnh viễn đoạn sạch ba độc, ví như ngọn lửa lúc kiếp tận thiêu sạch cả núi Tu Di, tất cả cõi đất đều cháy sạch, không có khói, chẳng còn than. Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất còn dư tập là nóng giận, ngài Nan Ðà còn dư tập là dâm dục, ngài Tất Lăng Già Bà Tha còn dư tập là kiêu mạn. Ví như người bị trói lúc mới được tháo ra, đi đứng còn khó khăn”. Hòa Thượng Tịnh Không giải thích như sau:

“Khí phận chưa hết”, đây chính là tập khí chưa đoạn.

“Ví như hương tại khí trung” (Ví như hương đặt trong đồ đựng): Chữ “khí” là khí cụ, là lư hương. Đốt hương nhất định phải cắm vào lư hương. Hương tuy tàn, đốt xong biến thành tro, độ ấm không còn , nhưng dư khí vẫn còn tồn tại. Nếu ngửi trên lư hương vẫn thấy còn mùi hương. Dùng mùi hương để ví cho tập khí.

“Đức Phật vĩnh viễn đoạn sạch ba độc”: Chữ “Phật” ở đây nhằm chỉ Pháp Thân Đại Sĩ đã chuyển thức thành trí. Trong kinh Hoa Nghiêm nói bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ, họ đã vĩnh viễn đoạn tận Kiến Tư phiền não.

“Ví như ngọn lửa, lúc kiếp tận, thiêu sạch núi Tu Di, tất cả cõi đất đều cháy sạch, không có khói, chẳng còn than”: Cảnh giới nầy thật khó tưởng tượng! Nhưng, ngày nay chúng ta không còn khó hiểu. Bởi vì sao? – Vì khi đạn hạt nhân, bom nguyên tử nổ tung, đích thật là đốt cháy sạch sẽ, bởi nhiệt độ của nó quá cao đến mấy nghìn độ, đến sắt, thép cũng không còn lưu dấu vết. Điều nầy gần giống với lửa “thiêu sạch núi Tu Di”. Lửa “Thiêu sạch núi Tu Di”, chính là tinh cầu nầy hủy diệt, đến cặn bã cũng không còn.

“Cõi đất đều cháy sạch, không có khói, chẳng có than”: Đây

là đốt hết toàn bộ. Ý này biểu trưng cho tập khí cũng không còn. Nếu ngọn lửa còn lưu lại một ít cặn bã chưa đốt hết, đó gọi là “dư tập”.

Bên dưới nêu ra vài ví dụ, như đức Thế Tôn thường nói trong kinh điển. Những câu chuyện nầy, trong Pháp Uyển Châu Lâm, kinh Luật Dị Tướng đều có. “Như Ngài Xá Lợi Phất còn dư tập là nóng giận”. Thật sự mà nói, đây đều là Bồ tát thị hiện! Vì sao vậy? – Vì các đệ tử Phật đều là Cổ Phật tái lai, làm gì có dư tập! Ấy chẳng qua là họ thị hiện làm A La Hán, thị hiện những tập khí nầy, đó chẳng phải là thật! “Nóng giận” của Ngài Xá Lợi Phất ở đây là “nóng giận” của “dư tập”, Nan Đà còn dư tập là dâm dục, Ngài Tất Lăng Già Tha còn dư tập là kiêu mạn”. Tất cả đều là thị hiện của hàng Nhị Thừa.

“Ví như người bị trói, lúc mới được tháo ra, đi đứng còn khó khăn”. Ý nói người phạm tội bị xiềng xích tay chân trong thời gian quá lâu, nay được mãn hạn thả ra, họ đi đứng vẫn không dễ dàng; hàm nghĩa “tập khí” còn sót lại phải trải qua một thời gian mới hồi phục được.

Bậc Đại sĩ cõi Cực Lạc “vô phục dư tập” (chẳng còn sót các tập khí) tức là đã đoạn dứt “dư tập” của Kiến Tư phiền não, và “dư tập” của Trần Sa phiền não, đạt đến chỗ thực hành của Phật hạnh. Tuy tập khí vô thỉ vô minh họ vẫn còn, nhưng điều nầy không chướng ngại; chỉ có Kiến Tư phiền não, dư tập của Kiến Tư phiền não là chướng ngại, dẫn đến ngộ nhận cho một số người, tạo thành kết quả không tốt!

Bản Ngụy dịch nói: Các Đại Sĩ cõi Cực Lạc “cứu cánh nhất thiết Bồ Tát sở hạnh, cụ túc thành tựu vô lượng công đức” (rốt ráo tất cả sở hạnh của Bồ Tát, thành tựu đầy đủ vô lượng công đức).

“Y Phật sở hành, Thất Giác, Thánh Đạo” (Thực hành theo lời Phật dạy, hành Thất Giác, Thánh Đạo): “Thất Giác” trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo, còn gọi là Thất Giác Chi, Thất Giác Phần hay Thất Bồ Đề Phần.

“Giác” có hai nghĩa: “Giác liễu” và “giác sát”.

*“Giác liễu”: Chữ “liễu” là thấu suốt; chữ “giác” là trí tuệ chân thật. Dùng trí tuệ chân thật để thấu suốt vấn đề gọi là “giác liễu”. 

*“Giác sát”: Chữ “sát” là quán sát; dùng trí tuệ chân thật để quán sát, thấu triệt vấn đề gọi là “giác sát”.

Giác pháp chia thành bảy loại gọi là Chi hoặc Phần. Bảy loại  là: Trạch Pháp, Tinh Tấn, Hỉ, Khinh An, Niệm, Ðịnh, Hành Xả (hành xả chính là buông bỏ).

Theo Hòa Thượng Tịnh Không:

“Giác” có nghĩa là Phật, tiếng Ấn Độ gọi là Phật Đà Da. Thể của giác là tánh; tánh khởi tác dụng chính là giác. Từ trên thể mà nói là “giác tánh”; trên tác dụng mà nói là “giác chi”. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Phật tánh chính là “giác”. Khi “giác” khởi tác dụng thì vô lượng vô biên, đem nó quy nạp lại thành bảy loại lớn, đó là Thất Giác Chi hay Thất Bồ Đề Phần. Ý nghĩa của bảy giác pháp này như sau:

1. – Trạch pháp giác chi: “Dĩ trí tuệ giản trạch pháp chi chân ngụy” (Dùng trí tuệ phân biệt, nhận định pháp là chân hay ngụy): Điều này rất quan trọng nên đặt ở hàng đầu. Bất luận là pháp thế gian hay xuất thế gian, phải có năng lực phân biệt đó là thật hay giả, là chánh hay tà, mới có thể hành chánh đạo, không rơi vào sai lầm. Trong đây, chọn lựa pháp môn tu hành cũng là việc tối ư quan trọng, đời này có thành tựu được hay chăng, then chốt ở chỗ này.

2. – Tinh tấn giác chi: Giác này cũng cần có trí tuệ; không có trí tuệ không thể tinh tấn. Dùng tâm dũng mãnh, lìa tà hành, hành chân pháp.

– Tiêu chuẩn của chánh, tà ở đâu?

– Ở Đệ tử quy, Cảm ứng thiên, Thập thiện nghiệp.

– Chân pháp là gì ?

– Câu “A Di Đà Phật” là chân pháp; là chân thật trong các điều chân thật. Tất cả những gì trở ngại ta niệm Phật, chướng ngại tâm thanh tịnh, bình đẳng, giác của ta đều là tà pháp, phải luôn ghi nhớ.

3. – Hỉ giác chi: – Hoan hỉ này từ đâu mà có? – Từ “giác” mà có! Không phải từ bên ngoài, mà từ trí tuệ sinh ra. – “Giác” từ đâu mà có? – Từ tâm bình đẳng mà có! – Bình đẳng từ đâu mà có? – Từ tâm thanh tịnh mà có! – Tâm thanh tịnh từ đâu mà có? Từ chỗ xa lìa tà hạnh mà có!

4. – Khinh an giác chi: “Đoạn trừ thân tâm thô trọng, sử thân tâm khinh lợi an thích” (Đoạn trừ những điều thô trọng nơi thân tâm, khiến thân tâm được nhẹ nhàng, thư thái): – Thô trọng là gì? Là áp lực thân tâm! Mấu chốt trong việc tu học là phải thật sự buông xả những ưu tư, vướng mắc, phiền não, tập khí mới đạt đến thân tâm an định, thư thái nhẹ nhàng. Từ “pháp hỉ” đến “khinh an”, chúng ta có thể nhận ra được công phu học Phật của chính mình.

5. – Niệm giác chi: “Thường minh ký Định Tuệ nhi bất vong, sử chi quân đẳng” (Thường nhớ rõ Định Tuệ chẳng quên mất, luôn giữ cho Định Tuệ được cân bằng): Ý này nói rõ Định, Tuệ nhất thể, tương tức tương dung, không phải hai. Thông thường, khi dụng công, hoặc tham thiền hay niệm Phật, trì chú, cho đến nghiên cứu giáo nghĩa, đều có hiện tượng này. Nếu Định nhiều, Tuệ ít, dễ bị hôn trầm; Nếu Tuệ nhiều Định ít, sẽ cảm thấy tâm trôi nổi, thân tâm bất an, ý niệm rất nhiều. Cho nên, Định Tuệ phải quân bình, mới có thể được tam-muội, trí tuệ hiện tiền.

6. – Định giác chi: Khiến tâm trụ vào một cảnh giới, không tán loạn. Điều nầy trong kinh đức Phật thường nói: “Chế tâm nhất xứ vô sự bất biện”. Trong Tịnh Độ, trụ tâm vào câu “A Di Đà Phật” là quan trong hơn bất cứ điều gì. Thường xuyên để Phật A Di Đà trong tâm, niệm Phật vãng sinh mới nắm phần chắc.

7. – Hành xả giác chi: “Xả chư vọng mậu, xả nhất thiết pháp, bình tâm thản hoài, cánh bất truy ức (Bỏ các lầm lẫn, bỏ tất cả pháp, giữ tâm bình thản, không để ý tưởng rong ruổi): Chữ “hành xả” chính là buông bỏ, đây là nguyên tắc chỉ đạo tu hành cao nhất. – Buông bỏ những gì? – Buông bỏ hư vọng! Kinh Bát Nhã nói: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”; không xả bỏ hư vọng làm sao thấy được chân thật! Chân thật là gì? – Là tự tánh! Minh tâm kiến tánh là mục tiêu sau cùng của Phật giáo Đại thừa.

Phật pháp là kiến lập đối với pháp thế gian; pháp thế gian không còn thì làm gì có Phật pháp! Cho nên, Phật pháp cũng không phải thật. Trước khi chưa kiến tánh thì Phật pháp rất hữu ích, chúng ta cần phải nương tựa. Nhưng, khi kiến tánh rồi, phải lập tức buông bỏ, nếu không buông bỏ thì không thể kiến tánh. Vấn đề nầy chúng ta đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong bộ sách nầy. Kinh Kim Cang dạy rất hay: “Pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp” (Pháp còn phải xả, huống là không phải pháp). Chữ “Pháp” ở đây là Phật pháp. Sách Hội Sớ giảng : “Thất Giác Chi” là:

1. – Trạch pháp giác phần: “Trí tuệ quán chư pháp thời, thiện năng giản biệt chân ngụy. Bất mậu thủ chư hư ngụy pháp, cố danh trạch pháp” (Lúc trí tuệ quán sát các pháp, khéo có thể phân biệt là chân hay ngụy; chẳng chọn lầm các pháp hư ngụy nên gọi là “trạch pháp” (chọn lựa pháp).

2. – Tinh tấn giác phần: “Tinh tấn tu chư đạo pháp thời, thiện năng giác liễu, bất mậu hành ư vô ích chi khổ hạnh, thường cần hành tại chân pháp trung, cố danh tinh tấn” (Lúc tinh tấn tu các đạo pháp thì khéo hiểu rõ, chẳng thực hành lầm các khổ hạnh vô ích, thường siêng hành chân pháp nên gọi là “tinh tấn”). Trước khi đắc quả Vô Thượng Bồ Đề, đức Phật đã từng thị hiện khép mình vào mọi hình thức tu khổ hạnh. Sau sáu năm chiến đấu một cách phi thường, Ngài đã nhận định lối tu khổ hạnh thái quá, bất cập, quả thật là vô ích, không giúp con người đạt đến giác ngộ giải thoát, Tuy nhiên, khổ hạnh ở mức độ có trí tuệ, có nhận thức chính xác của Trung Đạo vẫn được Phật pháp xem trọng là có lợi ích, vì nó giúp ta buông bỏ ngã chấp, tham đắm tự thân, ý tưởng kiêu mạn v.v.giúp ta đạt đến thành tựu trí tuệ chân thật.

3. – Hỉ giác phần: “Nhược tâm đắc pháp hỉ, thiện năng giác liễu thử hỉ, bất y điên đảo chi pháp nhi sinh hoan hỉ, trụ chân pháp hỉ, cố danh hỉ” (Nếu tâm được pháp hỉ thì khéo hiểu rõ niềm vui ấy, chẳng sinh lòng vui theo pháp điên đảo, trụ vào pháp hỉ chân thật nên gọi là Hỉ). Nên nhớ: Hoan hỉ ở đây là thọ dụng, thật sự có được lợi ích.

4. – Trừ giác phần (tức là Khinh An giác chi): “Nhược đoạn trừ chư Kiến phiền não chi thời, thiện năng giác liễu, trừ chư hư ngụy. Bất tổn chân chánh thiện căn, cố danh trừ” (Nếu lúc trừ được các Kiến Hoặc phiền não, khéo hiểu rõ, trừ khử các hư ngụy, chẳng tổn hại thiện căn chân chánh, nên gọi là Trừ): “Chư Kiến” ở đây là Kiến Hoặc. “Phiền não” Tư Hoặc. Nếu suy rộng ra thì phạm vi phiền não rất lớn, gồm có: Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền nãoVô minh phiền não. Nhưng, trước nhất là phải đoạn trừ Kiến Hoặc, vì đó là nguyên nhân đưa đến luân hồi lục đạo, Chữ “Trừ” “Xả” đều có nghĩa là buông bỏ.

5. – Xả giác phần (tức là Hành Xả giác chi) “Nhược xả sở kiến niệm trước chi cảnh thời, thiện năng giác liễu, xả chi cảnh hư ngụy bất thật, vĩnh bất truy ức, thị vi xả” (Nếu lúc xả những cảnh mà mình nghĩ nhớ hay thấy biết, khéo hiểu rõ, cảnh bị xả là cảnh hư ngụy chẳng thật, vĩnh viễn chẳng nghĩ nhớ tới nữa nên gọi là Xả): Có thể thấy trong “xả giác” này, quan trọng nhất chính là không còn hồi ức, đó mới thật sự là buông xả. Nếu vẫn thường nghĩ đến chuyện quá khứ, tức là chưa buông xả. Nên nhớ, thiện, ác nhị biên đều phải xả, vĩnh viễn không nghĩ tới. Nhưng, về mặt sự, nhất định vẫn phải đoạn ác tu thiện, vẫn phải nỗ lực thực hành. Sau khi hoàn tất công việc, bất luận là thiện hay ác đều không nên nghĩ tới nữa, đây gọi là “xả giác phần”. Duy trì mãi tâm thanh tịnh của chính mình, được vậy thì việc thiện đã làm mới có công đức, bằng không chỉ là phước đức của thế gian. Phần phân biệt giữa công đức và phước đức, trước đây chúng ta đã nhiều lần học qua.

6. – Ðịnh giác phần: “Nhược phát chư thiền định chi thời, thiện năng giác liễu chư thiền hư giả, bất sinh kiến ái vọng tưởng, thị vi định” (Nếu lúc phát khởi các Thiền Định, khéo hiểu rõ, các Thiền Ðịnh là hư giả, chẳng sinh vọng tưởng kiến giải, yêu mến, nên gọi là Ðịnh): “Phát chư thiền định” chính là thiền định hiện tiền. Lúc này, bản năng tự tánh đã phát hiện, không gian duy thứ không còn nữa. Bản năng nầy chính là sáu căn khởi tác dụng thành sáu loại thần thông.

Định công càng sâu thì cảnh giới thấy, nghe v.v. càng rộng. Chứng Sơ quả Tu Đà Hoàn của Tiểu Thừa liền được một ít Thiên Nhãn Thông Thiên Nhĩ Thông. Đến Nhị Quả Tư Đà Hàm, khôi phục thêm một ít Túc Mạng Thông Tha Tâm Thông. Túc Mạng Thông là biết được kiếp quá khứ. Túc Mạng Thông của A La Hán có thể biết rõ được năm trăm đời quá khứ. Tha Tâm Thông là biết được khởi tâm động niệm của người khác. Từ Tam Quả A Na Hàm trở lên là có thể biến hóa.

Trong Phật pháp nói “tứ thiền bát định” là thiền định thế gian, không phải xuất thế gian, cũng không phải Phật pháp. Tuy nhiên,  thiền định xuất thế gian vẫn lấy thiền định của thế gian làm cơ sở. Nếu chưa đạt đến thiền định này thì thiền định xuất thế gian cũng không thể sinh khởi.

Nên nhớ: Thiền định là phương pháp chớ không phải mục đích. Cho nên, phải giác ngộ “chư thiền là hư ngụy”. Tám vạn bốn ngàn pháp môn đều là tu thiền định, chỉ là phương cách khác nhau, xa rời thiền định thì không phải là Phật pháp. Phật pháp là: Nhân Giới được Định, nhân Định khai Tuệ. Tuệ là mục tiêu sau cùng. Sức Định càng sâu thì Tuệ càng lớn. Nhập vào thiền định thâm sâu, sâu sâu đến cùng tột chính là tự tánh bổn Định.

Thiền Định, dù tốt đến đâu cũng không được lưu luyến, đây chính là “bất sinh kiến ái vọng tưởng” (chẳng sinh vọng tưởng kiến giải, yêu thích). Nên ghi nhớ lời Phật dạy: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”. Ngay cả cõi Thật Báo Trang Nghiêm cũng là hư vọng. Đoạn tận tập khí vô thỉ vô minh thì cõi Thật Báo cũng không còn, nên nó cũng không thật, chỉ có cõi Thường Tịch Quang hay tự tánh là chân thật.

7. – Niệm giác phần: “Nhược tu xuất thế đọa thời, thiện năng giác liễu, thường sử Định Tuệ quân bình” (Nếu lúc tu đạo xuất thế, khéo hiểu rõ, thường giữ cho Ðịnh và Tuệ cân bằng). Câu này vô cùng quan trọng! Người tu hành ở mọi lúc mọi nơi phải giữ tâm quân bình giữa Định và Tuệ, tức duy trì tâm bình thường, không nghiêng bên này, lệch bên kia thì tu học mới có kết quả, nâng cao cảnh giới của chính mình.

“Nếu tâm chìm đắm, bèn nghĩ cách dùng ba giác phần Trạch Pháp, Tinh Tấn và Hỉ để quan sát”: Có nghĩa là khi ta dụng công cảm thấy hôn trầm, tinh thần không phấn chấn, lúc này phải dùng trí tuệ để lựa chọn phương pháp hầu giúp ta phấn chấn, giúp ta đạt được “pháp hỉ”. “Pháp hỉ” rất quan trọng! Ngạn ngữ có câu “Nhân phùng hỉ sự, tinh thần sảng” (người gặp việc vui, tâm hồn sảng khoái). Học Phật phải học đến pháp hỉ.

Ở thế giới Cực Lạc, pháp hỉ không bao giờ dứt. Pháp hỉ khiến ta không cần ẩm thực, không cần ngủ nghỉ, miên viễn tinh tấn dõng mãnh. Trong Phật pháp, nếu bảo tôi (Hòa Thượng Tịnh Không) tham thiền, tôi không có căn tánh đó, nên ngồi lâu không được! Bảo tôi niệm Phật, tôi chẳng thể niệm lâu trong Niệm Phật Đường! Bảo tôi nghiên cứu kinh điển, việc này thì được, ngày đêm không ngủ cũng chẳng sao! Đây chính là căn tánh mỗi người một khác, phải chọn lựa pháp môn phù hợp với căn tánh mình thì mới được pháp hỉ. Chỉ cần có pháp hỉ, mọi việc sẽ rất dễ dàng.

“Nếu tâm chao động, bèn dùng ba giác phần Trừ, Xả, Ðịnh để nhiếp tâm”: Đây cũng là vấn đề người tu hành thường hay mắc phải, bởi tâm không Định được! Ở Niệm Phật Đường, chúng ta thấy có người niệm Phật được một lúc là ngủ gục, thậm chí còn ngáy, có người đứng mà ngủ! Lại có người nói, bình thường họ không có tạp niệm, nhưng khi nhiếp tâm niệm Phật thì tạp niệm lại khởi lên quá nhiều! Thật tế không phải vậy, mà lúc bình thường họ không phát giác được tạp niệm, đến khi định tâm mới thấy tâm mình rất loạn! Phải dùng phương pháp để khống chế vọng tưởng tạp niệm thì công phu mới đắc lực. Nếu khống chế không được thì vĩnh viễn không tiến bộ! Cũng có thể rơi vào đường tà mà bản thân mình không hay biết. Nhân tố căn bản của vọng niệm là tập khí phiền não, trong đây quan trọng nhất là không buông bỏ được dục niệm. “Vì thế, Niệm giác phần thường khiến cho Ðịnh và Tuệ được tròn đủ, giữ cho Niệm đúng mức, thích đáng, đấy gọi là Niệm.

Bảy thứ này gọi chung là Giác Phần, là một phần để đạt đến Bồ Ðề”.

Chữ “Thánh Ðạo” chỉ Bát Thánh Ðạo, còn gọi là Bát Chánh Đạo gồm có: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh. Sách Sớ Sao nói:

– MộtChánh Kiến. Kinh Tạp Tập nói: ‘Nhược giác chi thời, sở đắc chân giác, dĩ Tuệ an lập, đế lý phân minh, vô hữu mậu ngộ cố’ (Như lúc giác chi, dùng Tuệ để an lập cái chân giác mình đã đắc, đế lý phân minh, không có lầm lạc).

Chỗ này bắt đầu nói với chúng ta về Giác Chi (tức là Thất Giác Chi). Phải biết vận dụng Thất Giác Chi từng giờ từng phút, trong đây quan trọng nhất là “Giác”; trong Đại thừa thường nói là “lìa tâm ý thức: Sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi tâm động niệm, không phân biệt, không chấp trước. Điều nầy quá thâm sâu, không dễ làm được. Phải bắt đầu từ không chấp trước. kế đến là không phân biệt, sau cùng là không khởi tâm động niệm, được “đế lý phân minh” thì “không còn lầm lạc”.

– HaiChánh Tư Duy: Lúc thấy lý bèn tư duy, suy lường tương ứng với tâm vô lậu để tăng trưởng nhập Niết Bàn.

– BaChánh Ngữ: Chẳng những tâm không suy nghĩ sai quấy mà còn dùng trí vô lậu gìn giữ bốn nghiệp nơi miệng, trụ nơi bốn thứ thiện ngữ: Đây là dùng chân trí mà tu khẩu nghiệp, lấy giới vô lậu làm thể.

– BốnChánh Nghiệp: Dùng trí vô lậu trừ hết thảy tà nghiệp và ba thứ nghiệp nơi thân để thân nghiệp được thanh tịnh.

– Năm Chánh Mạng: Dùng trí vô lậu trừ hết tất cả năm thứ tà mạng nơi tam nghiệp.

Năm thứ tà mạng (Ngũ tà mạng): Chữ “tà mạng”, theo sách Từ Điển Phật Học Hán Việt của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam: Tỳ kheo làm các việc không đúng với đạo pháp để mưu sinh thì gọi là “tà mạng”. Có năm loại: 

1. – Trá hiện dị tướng: Đối với người thế tục, trá hiện tướng kỳ dị đặc biệt để cầu lợi dưỡng.

2. – Tự thuyết công năng: Tự khoe công đức, tài cán của mình để cầu lợi dưỡng.

3. – Chiêm tướng cát hung: Xem bói, xem tướng, nói điều lành dữ của người để cầu lợi dưỡng.

4. – Cao thanh hiện uy: Nói năng huênh hoang, cố tỏ uy thế để cầu lợi dưỡng.

5. – Thuyết sở đắc lợi dĩ động nhân tâm: Ở nơi kia được lợi thì đem đến khoe ở đây; ở đây được lợi thì đến khoe ở nơi kia để cầu lợi dưỡng (Luận Trí Độ, quyển 19)

– SáuChánh Tinh Tấn: Dùng trí vô lậu để siêng năng tu hành tinh tấn, thẳng tiến đạo Niết Bàn.

– BảyChánh Niệm: Dùng trí vô lậu để nghĩ nhớ chánh đạo pháp và trợ đạo pháp, tâm chẳng lay động.

– Tám Chánh Ðịnh: Dùng trí vô lậu tương ứng để chánh trụ nơi lý, quyết định không dời.

(Những đạo nầy) đều gọi là Chánh, vì chẳng ngả theo tà vạy nên gọi là Chánh. Do có thể đạt đến Niết Bàn nên gọi là Ðạo.

Trong phẩm Ly Thế Gian của kinh Hoa Nghiêm, Bát Chánh Ðạo được gọi là Bát Chánh Câu Bồ Tát Ðạo. Chánh Kiến là xa lìa hết thảy các tà kiến. Chánh Tư Duy là bỏ tâm vọng phân biệt, tùy thuận Nhất Thiết Trí… cho đến Chánh Ðịnh là khéo nhập tam-muội. Cứ lấy những kinh văn này làm chứng thì (Bát Chánh Đạo) chẳng phải là rất sâu xa ư?”

Ý nói: Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo v.v. nói rộng ra là Ba

Mươi bảy Pháp Trợ Đạo, tuy là pháp Tiểu thừa, nhưng thông cả Đại Thừa.

Trí Độ Luận bảo:

“Ba mươi bảy phẩm không gì chẳng nhiếp nên vô lượng đạo phẩm cũng thuộc vào đấy”.

Kinh Tịnh Danh nói: “Đạo phẩm thị Pháp Thân nhân” (Ðạo phẩm là nhân của Pháp Thân).

Kinh Niết Bàn cũng dạy: “Nhược nhân năng quán Bát Chánh Đạo, tức kiến Phật Tánh, danh đắc Đề Hồ” (Nếu người nào quán được Bát Chánh Ðạo thì thấy được Phật Tánh, đáng được gọi là Ðề Hồ).

Di Ðà Sớ Sao viết: “Ðạo phẩm tuy chỉ một, nhưng do quán trí là Ðại Thừa hay Tiểu Thừa mà thành ra không nhất định”. Nay kinh nầy nói: “Y Phật sở hành, thất giác thánh đạo” (Thực hành Thất Giác, Thánh Ðạo mà đức Phật đã hành) là có ý nói: Bồ Tát cõi Cực Lạc dùng Quán Trí của Phật để thâm nhập các đạo phẩm. Theo chú giải của cụ Hoàng:

“Tu hành ngũ nhãn”: Phật có ngũ nhãn. Bồ Tát chí cầu Phật đức (phẩm đức của Phật) mà Phật đức thì vô lượng, nên kinh chỉ tạm nêu ngũ nhãn để đại diện cho tất cả những đức khác. Ngũ nhãn nầy có thể “chiếu Chân, đạt Tục” (biết rõ Chân Đế, đạt cả Tục Đế).

Do thấy được Chân Không và Thật Tánh Bất Không trong Như Lai Tạng nên bảo là “chiếu Chân”; lại còn thấy được vô số hình sắc của các thế giới, căn tánh của chúng sinh và việc họ chết đây sinh kia trong những thế giới ấy nên bảo là “đạt Tục”. Do “chiếu Chân” nên hạnh tự giác viên mãn, thông đạt cứu cánh. Do “đạt Tục” nên thuận theo căn cơ, thiện bày cách giáo hóa, độ sinh vô lượng.

Pháp Tịnh Ðộ cũng là pháp “chiếu Chân đạt Tục” đến mức tột cùng nhất. “Chiếu chân” để hiển lộ Chân Ðế, “đạt Tục” nhằm tỏ rõ Tục Ðế; nêu lên cả hai Đế để hiển thị Trung Ðế. Tam Ðế viên dung chẳng thể nghĩ bàn! Lại do “chiếu Chân” nên đúng như thật, “đạt Tục” nên rộng độ. Do vậy thâu trọn vạn loại, rốt ráo độ thoát.

“Tam Đế” là do Thiên Thai đặt ra, gồm: Không Đế, Giả Đế Trung Đế. Trong Trung Quán Luận của Long Thọ Bồ tát có câu: “Nhân duyên sở sinh pháp, ngã thuyết tức thị không, diệc vi thị giả danh, diệc thị Trung Đạo nghĩa” (Pháp do nhân duyên sinh, ta bảo tức là Không, cũng vì giả danh đó, cũng là nghĩa Trung Đạo).

Ngũ Nhãn gồm có:

1. –“Nhục Nhãn giản trạch” (Mắt thịt phân biệt, chọn lựa): Đây là mắt của nhục thân, chỉ thấy được sắc tướng hiện tiền nên bảo là “giản trạch” (phân biệt, chọn lựa).

2. – “Thiên Nhãn thông đạt”: Đây là mắt của chư thiên ở Sắc

Giới. Ðại Trí Ðộ Luận nói: “Thiên nhãn thấy được chúng sinh, các vật thuộc tự địa và hạ địa. Các sắc dù xa hay gần, dù thô hay tế, không thứ gì chẳng thấy rõ”.

“Tự địa”: Cõi chúng ta đang sống, đối với chư thiên Sắc giới thì Sắc giới là “tự địa”.

“Hạ địa”: là những cõi thấp hơn cõi chúng ta đang sống, chẳng hạn như Dục Giới là “hạ địa” của Sắc giới.

Tịnh Ảnh Sớ ghi: “Tất cả Thiền Ðịnh gọi là thiên trụ. Do Thiền đắc nhãn nên gọi là Thiên Nhãn, có thể thấy được chúng sinh chết đây sinh kia”. Như vậy, Thiên Nhãn có cả hai nghĩa như trên vừa nói.

Lại có hai thứ Thiên Nhãn: Một là Thiên Nhãn có được do quả báo, hai là do tu chứng. Thiên Nhãn như trong Tịnh Ảnh Sớ đã giảng chính là do tu chứng mà có. Chư thiên sinh trong Sắc giới tự nhiên có được Thiên Nhãn; đó là do quả báo mà có, chẳng cần phải tu chứng.

Theo Trí Ðộ Luận: “Nhục Nhãn thấy gần chẳng thấy xa, chỉ thấy (vật ở) trước (mắt) không thấy được phía sau lưng; chỉ thấy bên ngoài chẳng thấy nổi bên trong; chỉ thấy được ban ngày, chẳng thấy được ban đêm; chỉ thấy phía trên chẳng thấy phía dưới. Do vì những điều ấy nên cầu Thiên Nhãn. Ðắc Thiên Nhãn thì xa gần đều thấy cả, trước, sau, trong, ngoài, trên, dưới đều thấy vô ngại”, nên gọi là “thông đạt”.

Nên nhớ, Thiên Nhãn trong uế độ chẳng thể thấy vượt khỏi tam thiên đại thiên thế giới; còn Thiên Nhãn của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc thấy thông suốt cả mười phương hằng sa thế giới và những chúng sinh chết đây sinh kia trong những thế giới đó.

3. –Pháp Nhãn thanh tịnh”: Đây là mắt pháp, chỉ trí tuệ của Bồ tát, không những chỉ thiên về Không mà còn xem tất cả mọi pháp theo cách nhìn Trung Đạo (tức Hữu tức Không) để độ chúng sinh.

Ngài Vọng Tây giảng chữ “Pháp Nhãn” như sau: “Duyên vào Tục Ðế Trí, chiếu soi được pháp thì gọi là Pháp Nhãn”.

Ngài Cảnh Hưng bảo: “Pháp Nhãn lấy Hữu Trí làm Thể, thấy được tâm dục tánh của chúng sinh và các Phật pháp nên gọi là Pháp Nhãn”.

Sách Tiên Chú nói: “Thấy thông suốt các pháp duyên sinh sai biệt một cách phân minh nên gọi là Pháp Nhãn”.

Bản Ngụy dịch ghi: “Pháp Nhãn quán sát, cứu cánh chư đạo” (Pháp nhãn quán sát rốt ráo các đạo).

Nay kinh này nói: “Pháp Nhãn thanh tịnh” cũng giống như sách Tam Tạng Pháp Số bảo: “Pháp Nhãn: Bồ Tát vì độ sinh nên dùng Pháp Nhãn thanh tịnh xem khắp tất cả các pháp, pháp nào đáng biết, đáng hành, tức là: Do hành pháp ấy sẽ chứng đạo ấy; cũng biết hết các môn phương tiện (thích ứng với) tất cả chúng sinh khiến họ tu, chứng”. Pháp Nhãn của Bồ Tát cõi Cực Lạc cũng giống như vậy nên kinh nói “Pháp Nhãn thanh tịnh”.

4. –Tuệ Nhãn kiến Chân”(Tuệ nhãn thấy chân): Đây là mắt Tuệ soi tỏ cái lý Chân Không vô tướng của hàng Nhị Thừa.

Sư Vọng Tây giảng “Tuệ Nhãn duyên vào Chân Ðế Trí, soi thấu tỏ Không lý (Chân Không), nên gọi là Tuệ Nhãn”.

Ngài Cảnh Hưng bảo: “Tuệ nhãn lấy Không Trí làm Thể, chiếu lý Chân Không”.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương nói: “Tuệ nhãn: Xem thấy tỏ tường là Tuệ; do tuệ thấy thông suốt nên gọi là Tuệ Nhãn”.

Ngài Tịnh Ảnh giảng chữ “kiến Chân” (thấy Chân) là: “Thấy được Chân Không nên gọi là kiến Chân”.

Trí Ðộ Luận nói: “Tuệ Nhãn có thể thấy được lý Không nơi tướng và thấy được Chân Không”. Lại nói: “Vì Thật Tướng nên cầu

Tuệ Nhãn. Do đắc Tuệ Nhãn nên chẳng thấy chúng sinh, diệt sạch dị tướng, xa lìa các chấp trước, chẳng thọ tất cả pháp, trí tuệ tự diệt bên trong nên gọi là Tuệ Nhãn”.

Kinh Tư Ích chép:

“Tuệ Nhãn vi kiến hà pháp? 

Đáp ngôn: Nhược hữu sở kiến, bất danh Tuệ Nhãn! Tuệ Nhãn, bất kiến hữu vi pháp, bất kiến vô vi pháp. Sở dĩ giả hà? Hữu vi pháp giai hư vọng, phân biệt, vô hư vọng phân biệt thị danh Tuệ Nhãn. Vô vi pháp không vô sở hữu, quá chư nhãn đạo. Thị cố Tuệ Nhãn diệc bất kiến vô vi pháp” 

(Tuệ Nhãn là thấy được pháp nào?

Ðáp: Nếu còn có cái để thấy thì chẳng gọi là Tuệ Nhãn. Tuệ nhãn chẳng thấy pháp hữu vi, chẳng thấy pháp vô vi, vì sao vậy? Pháp hữu vi đều là hư vọng phân biệt; không hư vọng phân biệt thì gọi là Tuệ Nhãn. Pháp vô vi là không, vô sở hữu, vượt ngoài sự lãnh hội của mắt. Vì vậy, Tuệ Nhãn cũng chẳng thấy pháp vô vi).

Theo cụ Hoàng Niệm Tổ: Những kinh, luận vừa được dẫn trên đây để giải thích “Tuệ Nhãn kiến Chân” thì cách giải thích của kinh Tư Ích và Ðại Luận là tinh diệu nhất vì Tuệ Nhãn thấy rõ ràng nhưng không chấp có gì để thấy, chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô vi thì mới gọi là “kiến Chân”.

Câu “trí tuệ tự diệt bên trong”, ý nghĩa giống hệt câu “vô trí diệc vô đắc” (chẳng có trí, cũng chẳng có gì để đắc) của Tâm Kinh; đấy mới là chân thật hiểu rõ Phật tánh.

5. “Phật Nhãn cụ túc” (Phật Nhãn đầy đủ):“Phật Nhãn” là con mắt của Phật, tức là con mắt thấy hiểu thông suốt Thật Tướng của các pháp.

Ngài Cảnh Hưng giảng chữ “cụ túc” (đầy đủ) như sau: “Do Nhất Thiết Chủng Trí làm Thể nên không pháp gì chẳng chiếu thấu.

Bởi thế, nói là cụ túc”.

Sách Pháp Hoa Văn Cú giảng: “Phật nhãn viên thông, bổn thắng kiêm liệt, bốn loại nhãn kia thuộc trong Phật nhãn, đều gọi là Phật nhãn”. Ý nói: Phật nhãn vốn là vô thượng thù thắng, nên bảo là “bổn thắng”, nhưng Phật nhãn cũng hàm chứa cả những loại mắt kém hơn nên bảo là “kiêm liệt”. Những loại mắt kém hơn tức là bốn loại mắt còn lại. “Bổn thắng” thì thấy được Phật tánh, còn “kiêm liệt” là có đủ công dụng của bốn loại mắt kia, nên có thể chiếu soi tất cả pháp thuộc cả Chân Ðế lẫn Tục Ðế. Theo sách chú giải của cụ Hoàng:

Nếu có kẻ ngờ rằng: Phật đã xả nhục thân sao lại còn có Nhục Nhãn? Xin mượn lời đáp của Trí Ðộ Luận như sau: “Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn, Phật Nhãn tuy thù thắng nhưng chẳng thấy chúng sinh pháp. Muốn thấy chúng sinh thì chỉ đành phải dùng Nhục Nhãn”.

Ngài Nghĩa Tịch bảo: “Có nhục nhãn thì biết được chướng nội sắc” (Xin xem lại lời giải thích về chướng nội, chướng ngoại ở quyển trước). Vì hóa độ chúng sinh, hiện có tướng Phật nên phải có cả Nhục Nhãn.

“Giác liễu pháp tánh” (hiểu rõ pháp tánh)

Tịnh Ảnh Sớ giảng như sau: “Phật nhãn thấy được bất không thật tánh trong Như Lai Tạng một cách chân thật nên gọi là liễu pháp tánh”. Ngài Cảnh Hưng bảo: “Tương ứng với Nhất Thiết Chủng Trí, hiểu rõ Trung Ðạo Ðệ Nhất Nghĩa nên gọi là liễu pháp tánh”. Ngài lại bảo: “Cũng thấy Phật tánh nên bảo là giác pháp tánh”.

Tóm lại, Phật Nhãn thấu suốt được pháp tánh nên sách Pháp Hoa Văn Cú mới bảo Phật Nhãn “bổn thắng”, các thứ nhãn khác không sánh bằng. Nói như vậy là để hiển thị năng lực thấu triệt của Phật Nhãn; còn bảo “Phật Nhãn cụ túc” là để hiển thị tánh viên dung của Phật Nhãn có đầy đủ các công năng của những con mắt khác.

Nếu có ai vặn hỏi rằng: Trong các kinh khác, Tuệ Nhãn được kể là con mắt thứ ba, Pháp Nhãn là con mắt thứ tư; sao kinh này lại nói ngược lại?

Ngài Nghĩa Tịch và Vọng Tây cùng giảng như sau:

– Kinh nầy nói về nhãn cảnh của Pháp Nhãn. Hai thứ nhãn trên (Tuệ Nhãn và Pháp Nhãn) đều thuộc về Tục Ðế, nhưng Tuệ Nhãn bắt đầu thấy được Chân Ðế. Do Chân cao hơn Tục nên kinh nầy xếp Pháp Nhãn thứ ba, Tuệ Nhãn thứ tư.

– Nếu bàn về thứ tự khởi tu thì trước hết phải thấu đạt Chân rồi mới có thể dẫn dắt kẻ tục, nên các kinh khác xếp Pháp Nhãn vào vị trí thứ tư như sách Hoa Nghiêm Diễn Nghĩa Sao đã viết: “Ðể trưởng dưỡng chúng sinh thì trước hết phải tu Nhục Nhãn. Nhục Nhãn thấy được sự thô, chẳng thấy được những gì vi tế. Kế đó, tu Thiên Nhãn. Thiên Nhãn thấy được sắc nhưng chưa thấy được chân cảnh nên phải tu Tuệ Nhãn. Tuệ Nhãn thấy Lý nhưng chưa thấy được Sự, nên phải tu Pháp Nhãn. Pháp Nhãn chưa viên dung nên phải tu Phật Nhãn”.

Trí Ðộ Luận nói: “Bồ Tát Ma Ha Tát lúc sơ phát tâm dùng Nhục Nhãn thấy chúng sinh trong thế giới chịu khổ nạn, tâm sinh từ bi nên cầu Tuệ Nhãn để cứu vớt. Ðạt được Tuệ Nhãn rồi lại thấy chúng sinh có các tâm tưởng bất đồng, làm cách nào khiến chúng sinh chứng đắc được thật pháp này? Vì vậy cầu Pháp Nhãn để dẫn dắt chúng sinh”.

Tóm lại, thấu đạt Chân rồi mới có thể dẫn dắt Tục; đó là thứ tự được dùng trong các kinh khác. Còn trong kinh nầy lại xem Chân thù thắng hơn Tục, nên xếp Tuệ Nhãn vào cấp độ thứ tư. Do đó, trật tự của Pháp NhãnTuệ Nhãn trong kinh này khác hẳn những kinh khác.

KINH VĂN: 

Biện tài tổng trì, tự tại vô ngại. Thiện giải thế gian vô biên phương tiện. Sở ngôn thành đế, thâm nhập nghĩa vị. Độ chư hữu tình, diễn thuyết chánh pháp. Vô tướng, vô vi, vô phược, vô thoát, vô chư phân biệt, viễn ly điên đảo. Ư sở thọ dụng, giai vô nhiếp thủ, biến du Phật sát, vô ái, vô yếm, diệc vô hi cầu, bất hi cầu tưởng, diệc vô bỉ ngã vi oán chi tưởng. Hà dĩ cố? Bỉ chư Bồ Tát, ư nhất thiết chúng sinh, hữu đại từ bi lợi ích tâm cố, xả ly nhất thiết chấp trước, thành tựu vô lượng công đức. Dĩ vô ngại tuệ, giải pháp Như Như, thiện tri Tập Diệt âm thanh phương tiện, bất hân thế ngữ, nhạo tại chánh luận.

VIỆT DỊCH: 

Biện tài tổng trì tự tại vô ngại. Khéo hiểu vô biên phương tiện thế gian, nói đúng Chân Đế, hiểu sâu nghĩa lý. Cứu độ các hữu tình, diễn nói chánh pháp. Vô tướng, vô vi, không trói buộc, không giải thoát, không các phân biệt, xa lìa điên đảo. Với các thọ dụng, đều chẳng chấp lấy, dạo khắp cõi Phật, không ưa, không chán, cũng không có ý mong cầu hay không mong cầu, cũng không có ý ta – người thù ghét. Vì sao vậy? Các Bồ Tát đó đối với tất cả chúng sinh, có tâm đại từ bi lợi ích, xa lìa tất cả chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng vô ngại tuệ, hiểu pháp Như Như, khéo biết âm thanh, phương tiện Tập, Diệt, không thích lời lẽ thế gian, thích luận chánh pháp.

GIẢNG: 

Ðoạn kinh trên nói về hạnh lợi tha của các Bồ tát cõi Cực Lạc , gồm ba điều chính: Diễn thuyết diệu pháp, dạo trong các cõi Phật và phổ lợi chúng sinh. Ba điều nầy dung nhiếp lẫn nhau. Từ “biện tài tổng trì” cho đến “viễn ly điên đảo” nói về tánh đức trí tuệ và biện tài của Bồ Tát ở cõi Cực Lạc. Chữ “biện tài tổng trì” được bản Ngụy dịch ghi là “cụ chư biện tài” (đủ các biện tài). Như vậy, “tổng trì” có nghĩa là đầy đủ các thứ. “Biện tài tổng trì” là đầy đủ các thứ biện tài. “Tổng trì” còn có nghĩa là đà-ra-ni, nên có thể hiểu các Bồ tát cõi Cực Lạc đã đắc biện tài đà-ra-ni.

Kinh nói “biện tài tổng trì, tự tại vô ngại”, cũng hàm ý Bồ Tát cõi Tây phương Cực Lạc đã đắc “biện tài vô ngại”, nói gọn là Vô Ngại Biện. Vô Ngại Biện có thể chia thành bốn hay chín loại:

– “Bốn loại biện tài” là “Tứ Vô Ngại Biện” còn gọi là Tứ Vô Ngại Trí, Tứ Vô Ngại Giải. Ðó là trí tuệ biện tài xét về mặt thuyết pháp của Bồ Tát. Nếu từ phương diện ý nghiệp mà nói thì gọi là Giải (解) hay là Trí (智 zhì). Nếu từ phương diện khẩu nghiệp thì gọi là Biện (辯 biàn).

Kinh Niết Bàn giảng về Tứ Vô Ngại Biện như sau: “Bồ Tát có thể đạt được bốn vô ngại như sau: Pháp Vô Ngại, Nghĩa Vô Ngại, Từ Vô Ngại, Nhạo Thuyết Vô Ngại”.

– “Chín loại biện tài”: Theo kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã, chín biện tài này là: Vô sai biện, vô tận biện, tương tục biện, bất đoạn biện, bất khiếp nhược biện, bất kinh bố biện, bất cộng dư biện, vô biên tế biện, nhất thiết thiên nhân sở ái trọng biện.

“Thiện giải thế gian vô biên phương tiện” (Khéo hiểu vô biên phương tiện của thế gian) là Sai Biệt Trí. Phương tiện là thiện xảo. Do khéo biết căn tánh và ý thích của tất cả chúng sinh, nên khéo tùy thuận cơ nghi, phù hợp với căn cơ của chúng sinh mà thuyết pháp.

“Sở ngôn thành đế, thâm nhập nghĩa vị” (Nói đúng Chân Đế, hiểu sâu nghĩa lý): “Thành đế” (誠 諦 chéng dì) là rất chân thật, rất khế lý, khế cơ. Chính vì vậy, lời pháp của các Ngài khiến ai nấy đều lãnh hội được nghĩa lý thâm sâu của Phật pháp, đều được độ thoát, nên nói “độ chư hữu tình, diễn thuyết chánh pháp”: Chữ “Chánh pháp” là đạo pháp chân chánh. Sách Thắng Man Bảo Quật viết: “Phật đem chánh pháp trao cho chúng sinh”. Chánh pháp như thế “vô tướng, vô vi, vô phược, vô thoát, vô chư phân biệt, viễn ly điên đảo” (vô tướng, vô vi, không trói buộc, không giải thoát, không có các phân biệt, xa lìa điên đảo).

Ngài Tịnh Ảnh bảo “vô tướng” là: “Các pháp đều là không, nên gọi là vô tướng”.

Kinh Niết Bàn cũng dạy: “Niết Bàn danh vi vô tướng, dĩ hà nhân duyên, danh vi vô tướng? Thiện nam tử! Vô thập tướng cố. Hà đẳng vi thập? Sở vị sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sinh, trụ, hoại tướng, nam tướng, nữ tướng. Thị danh thập tướng. Vô như thị tướng, cố danh vô tướng” (Niết Bàn gọi là vô tướng. Do nhân duyên nào lại gọi là vô tướng? Nầy thiện nam tử! Do vì không có mười tướng. Những gì là mười? Chính là sắc tướng, thanh tướng, hương tướng, vị tướng, xúc tướng, sinh tướng, trụ tướng, hoại tướng, nam tướng, nữ tướng. Ðấy là mười tướng. Không có các tướng như thế nên gọi là vô tướng).

Ðối với khái niệm hữu tướng, vô tướng, Mật giáo có hai cách giải như sau:

1. – Nghĩa cạn sơ lược: là các pháp thuộc về Sắc (vật chất) và Tâm (tinh thần) mà chúng sinh thấy được, có sự tướng rõ ràng, hoặc hiện hành ngay nơi tâm dễ biết, dễ cảm nhận thì gọi là hữu tướng. Thể tánh của các pháp vô sắc, vô hình, không có một tướng tồn tại thì gọi là vô tướng.

2. – Nghĩa sâu xa, bí mật: Hữu tướng là trụ một cách phân minh vào tướng của từng pháp trong tất cả pháp. Vô tướng là trong một tướng có đủ tất cả tướng, nhưng chẳng giữ lại tướng nào. Tuy đủ tất cả tướng nhưng không hề thấy có một tướng nên gọi là vô tướng, chớ không phải là vô sắc, vô hình.

“Vô vi” là không có nhân duyên tạo tác, đồng nghĩa với “vô tác” (xem lời giải thích chi tiết chữ “vô tác” trong phẩm thứ mười bảy)

“Vô phược, vô thoát” (Không trói buộc, không giải thoát): Chữ “phược” (縛 fù) là trói buộc. Thế nhân thường xem phiền não, vô minh là trói buộc; xem đoạn Hoặc hiển Chân là giải thoát, nhưng chẳng biết vô minh và pháp tánh vốn cùng một Thể. Pháp tánh như nước, vô minh ví như băng, hiện ra tướng trạng khác nhau, nhưng xét đến bản thể thì toàn thể của băng vô minh lại chính là nước pháp tánh.

Sách Pháp Hoa Huyền Nghĩa bảo vô minh và phiền não “như băng là nước, như nước là băng”. Do băng và nước là một nên không trói buộc, không giải thoát.

“Vô chư phân biệt” (Không có các phân biệt) chính là Bất Nhị, là Như Thị. Lý thể của pháp giới là bất nhị, bình đẳng nên bảo là Như. Chư pháp đều Như nên bảo là Như Như.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương nói: “Cái nầy, cái kia đều Như, nên bảo là Như Như. “Như” vốn chẳng hư vọng nên trong kinh còn gọi là Chân Như”. Do cái nầy lẫn cái kia đều Như thì tự nhiên “vô chư phân biệt”.

Kinh Văn Thù Bát Nhã dạy: “Nhược tín nhất thiết pháp tất thị Phật pháp, bất sinh kinh bố, diệc bất nghi hoặc. Như thị nhẫn giả, tốc đắc A Nậu Bồ Đề” (Nếu tin tất cả pháp đều là Phật pháp thì chẳng sinh sợ hãi, cũng chẳng nghi hoặc. Nhẫn được như vậy sẽ mau chóng đắc Vô Thượng Bồ Ðề).

Kinh Ðại Bảo Tích dạy: “Nãi chí chư pháp bổn tánh dữ Phật tánh đẳng, thị cố chư pháp giai thị Phật pháp” (Thậm chí bản tánh của các pháp bình đẳng với Phật tánh, cho nên các pháp đều là Phật pháp). Nếu tin chắc chắn tất cả pháp đều là Phật pháp thì đâu còn phân biệt.

 “Viễn ly điên đảo” (xa lìa điên đảo): Như trên đã giải thích, xét về cội gốc, vạn pháp đều khế hợp Thật Tướng nên không điên đảo.

Trong chú giải kinh Tịnh Danh, ngài La Thập giảng chữ “điên đảo” như sau: “Thấy là có, không, trái nghịch với pháp tướng nên gọi là điên đảo”. Ý nói: Thấy là Có hay thấy là Không đều là chấp trước, đều trái với tướng bình đẳng của chư pháp nên gọi là “điên đảo”.

Bốn câu “vô tướng, vô vi, vô phược vô thoát, vô chư phân biệt, viễn ly điên đảo”, cùng mô tả chánh pháp được giảng bởi chư Bồ tát cõi Cực Lạc.

“Ư sở thọ dụng, giai vô nhiếp thủ, biến du Phật sát, vô ái vô yếm” (Với các thọ dụng, đều chẳng chấp lấy, dạo khắp cõi Phật, không ưa, không chán). Ý nói: Bồ Tát cõi Cực Lạc bình đẳng dạo khắp cõi Phật mười phương. Ðối với các thứ thọ dụng, họ đều không chấp trước; trong cõi thanh tịnh không khởi tâm yêu thích; trong các uế độ không sinh tâm ghét bỏ.

“Diệc vô hi cầu, bất hi cầu tưởng” (Cũng chẳng có ý mong cầu hay không mong cầu): Kinh Kim Cang Tam Muội nói: “Nhập đạo đa đồ, yếu bất xuất nhị chủng: Nhất Lý nhập, nhị hạnh nhập” (Có nhiều đường vào đạo, nhưng cốt yếu không ngoài hai thứ: Một là lý nhập, hai là hạnh nhập).

Có bốn thứ hạnh nhập, điều thứ ba trong ấy là: “Tâm vô sở cầu, thế nhân trường mê, xứ xứ tham cầu, danh chi vi Cầu. Trí giả ngộ Chân, an tâm vô vi, vạn hữu giai không, vô sở hi cầu, thị chân vô cầu. Thuận đạo nhi hành, cố vị chi vô sở cầu hạnh” (Tâm không mong cầu. Người đời mê muội lâu ngày, tham cầu khắp nơi nên gọi là Cầu. Bậc trí ngộ Chân, an tâm vô vi, vạn hữu đều không, không mong cầu gì,ấy là chân vô cầu. Thuận theo đạo mà hành nên gọi là Vô Sở Cầu Hạnh).

Do vậy, “bất hi cầu tưởng” (không có ý mong cầu) chính là Vô Sở Cầu Hạnh, “diệc vô bất hi cầu tưởng” (cũng không có ý tưởng chẳng mong cầu) chính là ngay cả cái “không mong cầu” cũng chẳng có. Chẳng lập một pháp chính là vô cầu một cách chân thật. Chẳng mong cầu lại chính là vô vi. Chẳng “không mong cầu” chính là chẳng chấp vào vô vi, chẳng chấp hữu vi. Chẳng trụ vào vô vi thì mới khế hội Trung Ðạo (đó là lý nhập). Những điều như vậy chính là diệu đức của Bồ tát cõi Cực Lạc vào trong các cõi Phật một cách bình đẳng.

Kế đến là đức tánh độ sinh bình đẳng của các Bồ tát ấy, có lòng đại từ bi, nguyện lợi lạc tất cả chúng sinh hữu tình, chẳng nệ thân sơ, kẻ oán người thân, không phân biệt giữa ta và người, cũng không có ý tưởng kẻ khác là oán thù hay kẻ chống trái ta, xem tất cả đều như con một, bình đẳng phổ độ, nên kinh nói: “Diệc vô bỉ ngã vi oán chi tưởng. Hà dĩ cố? Bỉ chư Bồ Tát ư nhất thiết chúng sinh hữu đại từ bi lợi ích tâm cố” (Cũng không có ý tưởng ta, người, thù ghét. Vì cớ sao? Các Bồ Tát ấy đối với tất cả chúng sinh có tâm đại từ bi lợi ích).

Lại nữa, muốn thuyết pháp độ sinh thì tự mình phải giác ngộ trước, nên nói:

“Xả ly nhất thiết chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dĩ vô ngại tuệ, giải pháp Như Như” (Xa lìa tất cả chấp trước, thành tựu vô lượng công đức, dùng vô ngại tuệ, hiểu pháp Như Như), đây là hạnh tự lợi được viên mãn.

Trong bốn ý vừa nêu trên, ý đầu tiên là xa lìa chấp trước, vì đó chính là mấu chốt để nhập đạo. Trong Kinh đức Phật thường nói: “Tất cả chúng sinh đều có đủ trí tuệ, đức tướng Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng đắc”. Do vậy, xa lìa được vọng tưởng chấp trước liền đầy đủ trí tuệ, đức tướng của Như Lai,  “thành tựu vô lượng công đức”.  

“Dĩ vô ngại tuệ” là dùng trí tuệ thông đạt viên dung của Phật; bản Ngụy dịch ghi là “vô ngại trí”. Kinh Ðại Tập nói:

“Vô ngại trí tuệ vô hữu biên, thiện giải chúng sinh tam thế sự” (Trí tuệ vô ngại chẳng có ngằn mé, khéo hiểu các sự của chúng sinh trong ba đời).

Phẩm Hóa Thành Dụ trong kinh Pháp Hoa có câu: “Như Lai vô ngại trí, tri bỉ Phật diệt độ, cập Thanh Văn Bồ Tát, như kiến kim diệt độ” (Như Lai vô ngại trí biết Phật kia diệt độ và như hiện nay thấy Thanh Văn, Bồ Tát diệt độ).

“Giải pháp Như Như” (hiểu pháp Như Như). Tịnh Ảnh Sớ giảng:

“Giải pháp Như Như là hiểu theo Lý… Giống như hư không nên gọi là Như. Hiểu biết tất cả muôn pháp đều Như thì gọi là Giải Pháp Như Như”

“Như Như” chính là một trong năm pháp được dạy trong kinh Thủ Lăng Nghiêm. Lý Thể của pháp tánh là bất nhị, bình đẳng nên gọi là Như. Pháp nầy lẫn pháp kia đều Như nên bảo là Như Như, tức là Lý Thể khế hợp với Chánh Trí.

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển ba giảng:

“Như Như là lý được khế hội bởi Chánh Trí. Các pháp có cùng một Thể nên gọi là Như. Trong Thể của Nhất Như có đủ cả Phật pháp như số cát sông Hằng trong trần sa cõi nước. Nếu xét theo từng pháp để biện định Như thì Như nghĩa là chẳng phải một. Ðây, kia đều Như nên gọi là Như Như”.

Sách Hội Sớ giảng: “Như Như nghĩa là chẳng một, chẳng khác, chẳng không, chẳng có. Ðấy là tướng của Trung Ðạo Ðệ Nhất Nghĩa Ðế”.

Tổng hợp hai cách giải thích trên, thì Như Như chính là “đây, kia đều như”. Do đây, kia đều Như nên “bất dị” (không khác). Do vì có “đây, kia” cho nên “bất nhất” (chẳng một). Vì thế mới bảo “nghĩa của Như chẳng phải là một”.

Câu “thiện tri tập diệt âm thanh phương tiện (khéo biết âm thanh, phương tiện Tập Diệt) được sách Hội Sớ giảng như sau: “Chữ Tập (習 xí) chính là Tập Ðế (集 諦 jí dì), ý nói kèm cả Khổ. Diệt ( 滅 miè) là Diệt Ðế, ngụ ý tính cả Ðạo. Do nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau nên nói giáo nghĩa Tứ Ðế chính là âm thanh phương tiện”. 

Ý Hội Sớ cho rằng chữ “Tập Diệt” (習 滅) chính là Tập ĐếDiệt Đế trong Tứ Ðế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo), nên mới nói trong Tập có kèm cả Khổ, trong Diệt tính cả Ðạo. Nay nói Tập, Diệt là hàm nghĩa Tứ Ðế. Lại do nhân thuộc trong biển quả; quả tột cùng nguồn nhân, nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau; Tiểu, Ðại, Thiên, Viên đồng quy pháp Nhất Thừa. Vì vậy, khéo biết phương tiện giảng về Tứ Ðế chính là “âm thanh phương tiện”.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Khéo hiểu Tập, Diệt… là giáo giải (hiểu trên phương diện giáo nghĩa). Lời dạy tích tập việc lành gọi là Tập âm thanh. Lời dạy diệt ác gọi là Diệt âm thanh. Bồ Tát đều hiểu rành những việc ấy nên bảo là ‘thiện tri’ (khéo biết). Biết những điều ấy một cách khéo léo nên gọi là phương tiện”.

Gia Tường Sớ lại nói: “Thiện tri Tập Diệt (Khéo biết Tập Diệt) là Từ Vô Ngại”.

Ta có thể hiểu câu “thiện tri tập diệt âm thanh phương tiện” theo cả hai cách giải thích trên.

“Bất hân thế ngữ, nhạo tại chánh luận” (không thích lời lẽ thế gian, thích luận chánh pháp): Sách Hội Sớ giảng như sau: “Ý nói lìa lầm lỗi, tức là không ham bàn luận những việc thế gian vô ích, chỉ thích nói liễu nghĩa rốt ráo xuất thế của Ðại Thừa”. Liễu nghĩa Ðệ Nhất Nghĩa Ðế rốt ráo được gọi là “chánh luận”.

KINH VĂN: 

Tri nhất thiết pháp, tất giai không tịch. Sinh thân phiền não, nhị dư câu tận. Ư tam giới trung, bình đẳng cần tu, cứu cánh Nhất Thừa, chí ư bỉ ngạn, quyết đoạn nghi võng, chứng vô sở đắc. Dĩ Phương Tiện Trí, tăng trưởng liễu tri, tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông, đắc Nhất Thừa đạo, bất do tha ngộ.

VIỆT DỊCH: 

Biết tất cả pháp đều là không tịch. Nhị dư: Sinh thân và phiền não đều cùng hết sạch. Trong tam giới, bình đẳng siêng tu Nhất Thừa rốt ráo, đạt đến bờ kia, quyết dứt lưới nghi, chứng vô sở đắc. Dùng Phương Tiện Trí, tăng trưởng liễu tri. Từ đầu đến nay an trụ  thần thông, được đạo Nhất Thừa, chẳng do người khác mà khai ngộ. 

GIẢNG: 

Theo sách chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ:

Ðoạn kinh văn này nói rõ hạnh đức viên mãn của hàng Bồ Tát cõi Cực Lạc.

“Tri nhất thiết pháp tất giai không tịch” (Biết tất cả pháp đều là không tịch): Chữ “Không”ở đây là như phẩm Ðệ Tử của kinh Duy Ma nói: “Chư pháp cứu cánh vô sở hữu, thị Không nghĩa” (Các pháp rốt ráo vô sở hữu, đó là nghĩa của chữ Không), và như sách Ðại Thừa Nghĩa Chương bảo: “Không là xét theo Lý mà đặt tên. Lý vắng lặng nên gọi là Không”.

Sách Hội Sớ lại bảo: “Bát Nhã diệu tuệ chứng tịch diệt bình đẳng nên bảo là ‘tri nhất thiết pháp giai tất tịch diệt” (chữ “không tịch” được bản Ngụy dịch ghi là “tịch diệt”).

Sách Vạn Thiện Ðồng Quy Tập giảng: “Kinh giáo gọi Không là Không vì nó bất khả đắc, vì nó chẳng có thật tánh, đó là cái Không chẳng bị đoạn diệt”.

Tổng hợp các cách giải thích trên, ta có thể hiểu: Bồ Tát cõi Cực Lạc do trí tuệ Bát Nhã mầu nhiệm, nên biết rõ tất cả các pháp đều rốt ráo vô sở hữu, bất khả đắc, bình đẳng không tịch; tuy biết chắc tất cả pháp đều là không, nhưng chẳng đoạn diệt. Cái “không tịch” nầy là Thật Tế lý thể, chứ không phải là Ðoạn Không. Nó là Ðệ Nhất Nghĩa Không, là cái Không chẳng bị đoạn diệt. Khế nhập được Tịch Diệt bình đẳng như thế nên kinh nói: “Tri nhất thiết pháp tất giai không tịch” (Biết tất cả pháp đều là không tịch). 

“Sinh thân phiền não, nhị dư câu tận”: Chữ “sinh thân”chỉ chung: Thân phần đoạn sinh tử và thân biến dịch sinh tử (chữ “sinh thân” ở đây là chỉ thân biến dịch sinh tử của Bồ Tát).

*“Thân “Phần Đoạn Sinh Tử” là thân sinh tử của chúng sinh trong ba cõi, tùy theo nghiệp nhân của mình mà thọ mạng có dài ngắn khác nhau nên gọi là “Phần Ðoạn Sinh Tử”.

*“Thân “Biến Dịch Sinh Tử” là thân không có hình sắc hơn kém, không có thời hạn thọ mạng dài ngắn, mà đang trong quá trình diệt dần mê tưởng, tăng dần chứng ngộ từ thấp đến cao. A La Hán, Bích Chi Phật và Bồ Tát đã đoạn hết chướng hoặc, không còn thọ thân Phần Đoạn trong ba cõi, nhưng lại dùng thân Biến Dịch để trở vào ba cõi tu hạnh Bồ Tát trong suốt thời gian dài mong đạt đến Vô Thượng Bồ Ðề (theo Huệ Quang từ điển).

Theo Hòa thượng Tịnh Không : “Biến dịch sinh tử” cũng có thể hiểu như là sự lão hóa ở con người, biểu hiện rõ ràng nhất là ở người cao niên. Ngoài ra, con người từ lúc mới sinh ra, mỗi niệm cũng đều đang biến dịch, chỉ là chúng ta không nhận biết mà thôi. Mặt khác, cũng cần nên biết: Người ở thế giới Cực Lạc chỉ có một loại là vĩnh hằng bất biến, không có biến dịch sinh tử. Tương lai, trong ba đại A tăng kỳ kiếp, đoạn hết vô thỉ vô minh phiền não, họ sẽ rời cõi Thật Báo, vào cõi Thường Tịch Quang, gọi là Tịch Diệt. Tuy Tịch Diệt nhưng họ vẫn hiện tất cả tướng.     

“Nhị dư” chính là khổ báo nơi sinh thân và tàn dư phiền não. Sinh thân là khổ quả, phiền não là nhân của các Hoặc chướng. Cả hai thứ tàn dư nầy đều hết sạch nên kinh nói: “Sinh thân phiền não, nhị dư câu tận” (Sinh thân phiền não, nhị dư đều hết sạch).

Sách Hội Sớ bảo: “Sinh thân là khổ quả vướng vào thân, đó chính là Khổ Ðế. Phiền não là Kiến Hoặc, Tư Hoặc, đó chính là Tập Ðế”. 

“Nhị dư” chính là tàn dư của KhổTập. Bồ Tát đoạn được chính sử (chính sử là phiền não) và tập khí nên chẳng còn tàn dư, vượt khỏi tam giới, không còn phải do cha mẹ sinh ra mới có thân, đoạn sạch tất cả triền phược thuộc hữu lậu quả nên nói là “câu tận” (đều hết sạch).

Ngài Cảnh Hưng nói: “Sinh thân là báo, phiền não là nhân tạo khổ. Cả hai thứ nhân lẫn quả đều đã hết sạch”.

Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Sinh thân là khổ báo. Phiền não là cái nhân gây Hoặc chướng. Hai thứ tàn dư nầy đều đã diệt sạch”. Ý nói, nhị dư: Một là từ Quả, hai là từ Nhân. Từ Quả tức là sinh tử trong lục đạo, từ Nhân là Kiến Tư phiền não. Hai loại phiền não này đã đoạn hết gọi là “nhị dư câu tận” (hai thứ tàn dư đã diệt sạch)

“Ư tam giới trung, bình đẳng cần tu, cứu cánh Nhất Thừa” (Trong tam giới, bình đẳng siêng tu, Nhất Thừa rốt ráo).

 “Nhất Thừa” là con đường duy nhất để thành Phật, là giáo pháp tối cực viên đốn. “Thừa” (乘 chéng) là cỗ xe, thường được ví với giáo pháp của Phật. Giáo pháp có khả năng chuyên chở hành nhân đến được bờ kia Niết Bàn nên gọi là Nhất Thừa.

Sách Thắng Man Bảo Quật, quyển thượng viết: “Nhất Thừa là đạo cùng tột không hai, nên gọi là Nhất. Vận dụng tự tại thì gọi là Thừa”. Kinh Thắng Man còn dạy: “Nhất Thừa tức thị Đệ Nhất Nghĩa Thừa” (Nhất Thừa chính là Ðệ Nhất Nghĩa Thừa).

Trong kinh Pháp Hoa, đức Phật từng nói: “Duy hữu Nhất  Thừa pháp, vô nhị diệc vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết”. Từ câu nầy chúng ta mới thể hội được tâm đại từ bi của chư Phật Như Lai, muốn giúp chúng sinh đạt đến quả vị cứu cánh thành Phật. Nhưng, chúng sinh vì nghiệp chướng quá nặng, mê lầm quá sâu, nên Phật có giảng Nhất Thừa pháp, họ nghe cũng không hiểu, không thể đoạn nghi sinh tín. Vì thế, Phật phải phương tiện thuyết, đem Nhất Thừa pháp phân thành mấy giai đoạn để học tập.

Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Nhất Thừa chính là trí, tuy có ba nhưng xét đến cùng cực thì chẳng có hai, nên gọi là Nhất Thừa”. “Trí, tuy có ba”: Ý nói, A La Hán chứng Nhất Thiết Trí, Bồ tát chứng Đạo Chủng Trí, Phật chứng Nhất Thiết Chủng Trí. Trong ba Trí nầy, nếu xét đến cùng cực Nhất Thiết Chủng Trí, thì chỉ có duy nhất “Nhất Thừa” mà thôi. Bởi thành Phật mới là thật. Bồ tát, A La Hán tuy phương hướng chính xác nhưng chưa thật đến nhà, vẫn còn trên đường đến bảo sở.

Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Thừa là hành dụng. Hành có khả năng chuyển tải nên gọi là Thừa. Do hóa độ nên có nhiều Thừa, nhưng thật ra (những Thừa ấy) chẳng khác nhau, do vậy mới nói là Nhất. Nhất Thừa ấy được diễn tả cùng tột bằng từ ngữ Cứu Cánh”: Ý nói, chỗ tột cùng của lý Nhất Thừa được gọi là “Cứu cánh Nhất Thừa”. Đức Phật giáo hóa chúng sinh có rất nhiều phương pháp, nhưng tựu trung tất cả pháp đều tùy thuận căn cơ của chúng sinh mà giáo hóa. Pháp không có thay đổi, chỉ do nơi con người có khởi tâm động niệm, phân biệt, chấp trước mà thành ra có sai khác, nên nói “Do hóa độ nên có nhiều thừa”. Tất cả chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh viên mãn Nhất Thừa.

Các Bồ Tát cõi Cực Lạc bi thệ hoằng thâm, tuy trú nơi Cực Lạc nhưng vì thương xót chúng sinh nên vẫn thị hiện trong tam giới sinh tử, trụ bình đẳng tuệ, siêng gắng tu tập mãi cho đến khi đạt đến cứu cánh Niết Bàn, nên nói: “Ư tam giới trung, bình đẳng cần tu, cứu cánh nhất thừa, chí ư bỉ ngạn”. Không những hi vọng bản thân mình thành tựu đạo quả Vô Thượng mà còn cứu độ tất cả chúng sinh đều có thể giống như mình, cầu sinh Cực Lạc, thân cận Phật A Di Đà, đạt đến bờ kia.

Sách Hội Sớ giảng: “Bờ kia là Niết Bàn diệu quả”.

Tịnh Ảnh Sớ nói: “Ðạt đến bờ kia là (đạt đến) Niết Bàn cực quả”. Chữ “Niết Bàn cực quả” chỉ quả tột cùng của Niết Bàn, tức là vô thượng Quả Giác chí cao, rốt ráo thành Phật.

“Quyết đoạn nghi võng” (quyết đoạn lưới nghi) được hiểu theo nhiều cách:

– Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Trừ Vọng hiển Chân gọi là đoạn lưới nghi”.

Sách Hội Sớ cũng giảng giống như vậy: “Ðoạn trừ lưới nghi, trí tuệ tự sinh”.

Cả hai bộ sớ này đặt nặng việc đoạn trừ lưới nghi của chính mình, bởi nghi hoặc là chướng ngại rất lớn của Bồ tát.

– Gia Tường Sớ lại giảng: “Quyết đoạn lưới nghi là đoạn được mối nghi của chúng sinh”.

Hai thuyết tuy khác, nhưng chẳng mâu thuẫn nhau vì muốn trừ được mối nghi cho chúng sinh thì trước hết chính mình phải không còn nghi ngờ. Hơn nữa, khi mối nghi mình không còn nữa thì chân trí sẽ tự nhiên hiển lộ, ắt sẽ khởi đại hạnh khiến cho tất cả chúng sinh cũng đoạn nghi, chứng Chân. Cho nên, “quyết đoạn nghi võng” gồm đủ cả hai nghĩa: Tự mình đoạn nghi và cũng đoạn nghi cho chúng sinh.

“Chứng vô sở đắc”: “Vô sở đắc” còn gọi là “vô sở hữu” tức là “Không Tuệ”, đây là trí tuệ chân thật, còn gọi là “Vô Phân Biệt Trí”. Thấu hiểu thật tướng của các pháp, bản thể Chân Như không có tướng, tự tâm không còn chấp trước, không còn phân biệt nên nói là “vô sở đắc”. Tâm kinh dạy: “Vô trí diệc vô đắc” (Vô trí cũng vô đắc).

Trí Ðộ Luận giảng: “Do trong Thật Tướng của các pháp chẳng thể có được tướng quyết định nên gọi là vô sở đắc”. Kinh Niết Bàn cũng dạy: “Vô sở đắc giả, tắc danh vi Tuệ. Hữu sở đắc giả, danh vi vô minh” (Vô sở đắc được gọi là Tuệ. Hữu sở đắc gọi là vô minh). Lại nói: “Hữu sở đắc giả, danh sinh tử luân. Nhất thiết phàm phu luân hồi sinh tử, cố hữu sở kiến. Bồ Tát vĩnh đoạn nhất thiết sinh tử, thị cố Bồ Tát danh vô sở hữu” (Hữu sở đắc gọi là sinh tử luân. Tất cả phàm phu sinh tử luân hồi nên có sở kiến. Bồ Tát vĩnh viễn đoạn tất cả sinh tử (Phần đoạn sinh tử và Biến dịch sinh tử) nên Bồ Tát  được gọi là vô sở đắc).

Theo bản sớ giải kinh Nhân Vương của ngài Lương Phần nói: “Tâm vô sở đắc là Vô Phân Biệt Trí”.

Trong Duy Ma Kinh Sớ, ngài Tịnh Ảnh Huệ Viễn lại giảng:

“Bồ Tát phá tan tình, tướng, đạt đến chỗ vô đắc thì gọi là vô sở đắc”.

Theo Hòa Thượng Tịnh Không: ‘Tình, tướng” ở đây là tình chấp; tình chấp buông xuống liền đến “chỗ vô đắc”. 

-“Chỗ vô đắc” là gì?

– Là tất cả pháp bất khả đắc, đây là “chỗ vô đắc” 

Vì sao bất khả đắc?

-Vì tất cả pháp đều không, thể tánh không tịch, vạn pháp như huyễn.

“ Dĩ phương Tiện Trí”: “phương Tiện Trí” còn gọi là “Quyền Trí”. “Quyền” là đối với “Thật” mà nói, trong Phật pháp gọi là “phương tiện thiện xảo”. “Phương tiện thiện xảo” chính là “phương tiện trí”, tức là trí hiểu rõ pháp phương tiện, trí thực hành phương tiện. Quyền TríThật Trí là hai mặt tương đối. Thấu đạt Thật Tướng của các pháp thì gọi là Như Lai Thật Trí. Hiểu rõ các thứ sai biệt là Như Lai Quyền Trí. 

Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển mười chín giảng: “Biết pháp Nhất Thừa chân thật thì gọi là Thật Trí. Biết rõ pháp quyền nghi để hóa độ ba thừa thì gọi là Phương Tiện Trí”. Giải thích nầy rất hay! Pháp Nhất Thừa chân thật, trong kinh Pháp Hoa nói: “Chỉ có Nhất Thừa pháp, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện thuyết”.

Ngoài ra, Thật TríThể, Quyền TríDụng. Bản thể sự thành

Phật của Như Lai là Thật Trí, diệu dụng giáo hóa suốt cả đời Ngài thuộc về Quyền Trí.

Mật giáo lại lấy Tâm Liên Hoa Ðài của Thai Tạng Mạn Ðồ La (tức Liên Hoa Bộ) làm Thật Trí, tám cánh hoa nở (của Liên Hoa Ðài) làm Quyền Trí, cũng hàm nghĩa đức Phật ngồi trên đài sen, biểu hiện Ngài chứng đắc Thật Trí. Hoa sen tám cánh triển khai, biểu thị Ngài dùng Quyền Trí tiếp dẫn chúng sinh.

Từ Thật Trí (cũng là Căn Bản Trí) tiến đến Quyền Trí (tức Sai Biệt Trí), đó chính là “tăng trưởng liễu tri”. Chỗ nầy, ta có thể dùng hình ảnh búp sen hàm tiếu để ví cho “liễu tri”; tám cánh sen nở trọn vẹn để ví cho “tăng trưởng liễu tri”.

Hoa sen tám cánh trong Liên Đài bát diệp của Thai Tạng mạnđồ-la trong Mật Giáo chính là đóa sen nơi tâm của chúng sinh. Do cánh sen khai mở mà hiện rõ đài sen, khác nào Phương Tiện Trí khai minh mới hiển lộ trọn vẹn nguồn tâm.

Theo Huệ Quang từ điển: “Thai tạng mạn-đồ-la: còn gọi là Nhân Mạn Đà La, Lý thú Mạn Đà La, Đại bi Mạn Đà La. Thai Tạng nghĩa là phát sinh ra chư Phật, ý vị cùng tột không gì sánh bằng, trọn khắp đầy đủ. Thai tạng mạn-đà-la phát sinh từ tâm địa bình đẳng của Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Thai Tạng chỉ cho lý tánh sẵn có của chúng sinh. Thai Tạng Giới giống như chủng tử của các thức được thai mẹ cưu mang cho đến khi thành tựu các phương tiện, thể hiện các hạnh lợi tha cứu cánh viên mãn”.

‘Tùng bổn dĩ lai, an trụ thần thông” (Từ đầu đến nay, an trụ trong thần thông)

– Thần thông có cần phải học không?

– Không cần!

– Có cần phải hâm mộ chăng?

– Không cần!

Thần thông là hiện tượng tự nhiên, không ly kỳ chút nào: Lúc mê thì mê mất! Lúc ngộ thì tự nhiên khôi phục lại. Thần thông có lớn, nhỏ tùy theo mức độ giác ngộ ở mỗi người. Bồ tát cõi Cực Lạc đã tự nhiên an trụ trong các thần thông. Các thần thông ấy chẳng phải có từ bên ngoài, mà đúng như kinh Viên Giác nói: “Bổn lai thành Phật” (Vốn đã thành Phật).

Thật Trí lẫn Quyền Trí cùng chiếu tỏ thì tự nhiên an trụ trong thần thông, trọn vẹn diệu đức, nhập vào Thật Tướng, chứng vô sở đắc. Do vô sở đắc nên đắc Nhất Thừa đạo” tức là thành Phật.

“Bất do tha ngộ” (chẳng do cái gì khác mà khai ngộ) được bản Ðường dịch ghi như sau:

“Đắc Nhất Thừa đạo, vô hữu nghi hoặc, ư Phật giáo pháp, bất do tha ngộ” (Đắc đạo Nhất Thừa, chẳng có nghi hoặc. Với giáo pháp của Phật, chẳng do người khác mà khai ngộ).

Bản Ngụy dịch ghi: “Tuệ do tâm xuất”.

Tịnh Ảnh Sớ giải thích: “Chân giải phát trung, danh tuệ tâm xuất”. Ý nói: Sự giải ngộ chân thật phát xuất từ tự tâm, do chính mình giác ngộ mà chứng đắc; đức Phật và Bồ tát chỉ là tăng thượng duyên dẫn dắt chúng ta phương cách tu hành để thành tựu đạo quả cứu cánh giác ngộ. Đọc kinh, nghe kinh cũng là phương cách hướng dẫn mọi người cùng nghe. Vì sao có người nghe kinh được khai ngộ, có người vẫn chưa ngộ? – Có thể thấy: Sự giác ngộ này không phải do thầy giáo ban cho mà tùy nơi tự tâm, căn tánh của mỗi người.

Trong Vô Lượng Thọ Kinh Sớ, ngài Vọng Tây viết: “Lưới nghi đã đoạn, chợt chứng Thật lý. Cái năng chứng trí ấy chẳng phát sinh từ cái gì khác mà chính là tự nơi tâm”.

Hòa Thượng Tịnh Không giải thích:

 “Thật lý” là tâm tánh. “Chợt chứng Thật lý” là minh tâm kiến tánh. “Bỉ năng chứng trí” là năng lực chứng được trí tuệ ấy. Trí tuệ ấy chính là “chứng Tự chứng Phần” trong bốn phần của A Lại Da. “Tự chứng phần” “Thật lý”, là trí tuệ Bát Nhã vốn có trong tự tánh. Tự tánh là “Tự chứng phần”. Phật tánh là “Chứng tự chứng phần”. Hiện tượng tinh thần là “Kiến phần”. Hiện tượng vật chất là “tướng phần”. Đây là “Tứ phần” của A Lại Da. Thấu triệt được “Tứ phần”, chính là hiểu được Thật Tướng của các pháp. Từ đó, tâm không còn chấp trước; chẳng những không chấp trước đối với “Tướng phần” “Kiến phần” cũng không chấp trước.

Không chấp trước “Tướng phần” là phá được “Tứ tướng”: Vô ngã tướng, vô nhân tướng, vô chúng sinh tướng, vô thọ giả tướng. Không chấp trước “Kiến phần” là phá được “Tứ Kiến”, như nửa bộ sau của kinh Kim Cang nói: Vô ngã kiến, vô nhân kiến, vô chúng sinh kiến, vô thọ giả kiến. Phá được “Tứ kiến” là Pháp Thân Bồ tát; phá “Tứ tướng” là Tiểu thừa thánh nhân, đều được xem là có thành tựu.

Hội Sớ viết: “Ðoạn trừ lưới nghi thì trí tuệ tự sinh. ‘Do tâm’ là Vô Sư Tự Nhiên Trí, chẳng cần phải do ai khác mà ngộ”. Ý nói: Trí tuệ phát sinh ấy chính là Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí. Ðã là Vô Sư Trí thì chẳng do người khác mà được ngộ; lại là Tự Nhiên Trí thì chẳng do sự việc nào khác mà sinh.

Tóm lại, căn cứ theo các cách giải thích trên đây của: Tịnh Ảnh Sớ, Ngài Vọng Tây và Hội Sớ, chúng ta có thể hiểu:

Vô Sư Trí, Tự Nhiên Trí, đẳng đẳng diệu trí, bỉnh nhiên tề hiện”. Chữ “bỉnh” là rõ ràng, minh bạch. Vô lượng vô biên trí tuệ cùng hiện, đây là khởi tác dụng. Ngộ do tự tâm, không phải có được từ bên ngoài. “Tùng môn nhập giả, bất thị gia trân”: Vật từ ngoài cửa đem vào đâu phải của báu có sẵn trong nhà ta. Lục Tổ Huệ Năng nói: “Mật tại nhữ biên” (Mật ở tại nơi ngươi). Rõ ràng, mật tạng của chư Phật, trong ta vốn sẵn đủ, hễ ngộ thì nó hiện tiền,”Ngộ” nầy  chẳng phải từ sự việc bên ngoài hay do người khác mang đến mà do chính ta, nên nói: “Đắc Nhất Thừa đạo, bất do tha ngộ” (Đắc đạo Nhất Thừa, chẳng do cái khác mà khai ngộ).