LUẬN ĐẠI TÔNG ĐỊA HUYỀN VĂN BẢN
Tác giả: Bồ tát Mã Minh.
Hán dịch: Đời Trần, Đại sư Chân Đế.
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ (2013).

 

QUYỂN 4

* Thứ 7: Phần Đại Quyết Trạch đại hải bộ tạng đạo lộ.

Như vậy là đã nói về Phần Đại Quyết Trạch độc nhất sơn vương ma ha sơn vương. Tiếp theo là nói về Phần Đại Quyết Trạch đại hải bộ tạng đạo lộ. Tướng ấy là thế nào?

* Kệ viết:

Trong Đại Hải Bộ Tạng

Gồm có mười loại pháp

Là năm loại phi không

Và năm loại vô thường.

* Luận nói: Trong phần đạo lộ của Đại Hải Bộ Tạng này kiến lập bao nhiêu pháp để làm lượng của bộ tạng? Đó gọi là kiến lập thể của mười loại pháp, dùng làm phần lượng Đại Hải Bộ Tạng. Trong Khế kinh Ma Ha Diễn Địa giảng nói như vầy: “Trong phần hành đạo của Tạng Câu Câu Hải, chỉ có mười pháp không có pháp khác”. Cho đến nói rộng. Như kệ viết: “Trong Đại Hải Bộ Tạng, Gồm có mười loại pháp”. Vì nghĩa nào nên có mười? Nên biết là có năm loại phi không và năm loại vô thường đều sai biệt. Như kệ viết: “Là năm loại phi không, Và năm loại vô thường”. Mười loại pháp ấy về danh tự hình tướng của chúng là như thế nào?

* Kệ viết:

Lìa ngại và có thật

Tánh lửa, ánh sáng nay

Gồm lý sâu xuất hưng

Đại Long Vương Địa Tạng.

Năm loại danh như thế

Xưng phi không, bất cộng

Khởi, trì, biến hoại phẩm

Cùng đại lực vô minh.

Như vậy năm loại danh

Gọi vô thường bất cộng

Đều có một thứ nhất

Do thỉnh cầu khí lực.

Lập môn thật vốn thâu

Như pháp nên quán xét.

* Luận nói: Thế nào gọi là năm loại phi không quyết định trụ pháp? Đó là: (1) Phi không quyết định trụ pháp lìa chướng ngại. (2) Phi không quyết định trụ pháp có thật. (3) Phi không quyết định trụ pháp tánh lửa. (4) Phi không quyết định trụ pháp của ánh sáng hiện tại. (5) Phi không quyết định trụ pháp của lý sâu xuất hưng. Đấy gọi là năm loại phi không. Như kệ viết: “Lìa ngại và có thật, Tánh lửa ánh sáng nay, Gồm lý sâu xuất hưng, Đại Long Vương Địa Tạng”. Năm tên gọi như vậy là năm loại phi không quyết định trụ pháp, danh tự sai biệt không cùng chuyển đổi khác. Như kệ viết: “Năm loại danh như thế, Xưng phi không bất cộng”.

Thế nào gọi là năm loại vô thường hư giả chuyển pháp? Đó là: (1) Vô thường hư giả chuyển pháp động khởi. (2) Vô thường hư giả chuyển pháp chỉ trì. (3) Vô thường hư giả chuyển pháp dịch biến. (4) Vô thường hư giả chuyển pháp tán hoại. (5) Vô thường hư giả chuyển pháp đại lực. Đấy gọi là năm loại vô thường. Như kệ viết: “Khởi trì biến hoại phẩm, Cùng đại lực vô minh”. Năm tên gọi như vậy là năm loại vô thường hư giả chuyển pháp, danh tự sai biệt không cùng chuyển đổi khác. Như kệ viết: “Như vậy năm loại danh, Gọi vô thường bất cộng”. Lý sâu và đại lực, hai pháp như vậy là theo khí lực để lập môn, không phải là nhận lấy thật thể. Nên quán xét kỹ. Như kệ viết: “Đều có một thứ nhất, Do thỉnh cầu khí lực, Lập môn thật vốn thâu, Như pháp nên quán xét”.

Như vậy là đã nói về Môn kiến lập danh tự không đồng. Tiếp theo là nói về Môn nghĩa lý đã giảng giải có sai biệt. Như thế, năm loại phi không quyết định trụ pháp, mỗi loại đều có bao nhiêu số? Đó gọi là mỗi mỗi đều có hai loại.

Những gì gọi là hai loại lìa chướng ngại? Một là giữ thân lìa chướng ngại. Hai là biến chuyển lìa chướng ngại. Nói giữ thân lìa chướng ngại: Là thân không có chướng ngại nên luôn luôn quyết định, không để hoại mất. Nói biến chuyển lìa chướng ngại: Là kiến lập vạn hữu khiến được tự tại. Đấy gọi là hai loại lìa chướng ngại.

Những gì gọi là hai loại có thật? Một là giữ thân có thật. Hai là biến chuyển có thật. Nói giữ thân có thật: Là thân thường bình đẳng, luôn luôn quyết định không để hoại mất. Nói biến chuyển có thật: Là kiến lập sai biệt khiến được an trụ. Đấy gọi là hai loại có thật.

Những gì gọi là hai loại tánh lửa? Một là giữ thân nơi tánh lửa. Hai là biến chuyển nơi tánh lửa. Nói giữ thân nơi tánh lửa: Là thân đức tạng luôn luôn quyết định không để hoại mất. Nói biến chuyển nơi tánh lửa: Là trần lụy cùng chuyển tùy thuận thành tựu. Đấy gọi là hai loại tánh lửa.

Những gì gọi là hai loại ánh sáng hiện tại? Một là giữ thân nơi ánh sáng hiện tại. Hai là biến chuyển nơi ánh sáng hiện tại. Nói giữ thân nơi ánh sáng hiện tại: Là mở đầu với thân rực sáng luôn luôn quyết định không để hoại mất. Nói biến chuyển nơi ánh sáng hiện tại: Là tùy thuận lưu chuyển không bị ngăn ngại. Đấy gọi là hai loại ánh sáng hiện tại.

Những gì gọi là hai loại lý sâu? Một là giữ thân nơi lý sâu. Hai là biến chuyển nơi lý sâu. Nói giữ thân nơi lý sâu: Là trong sự lìa dứt, thân luôn luôn quyết định không để hoại mất. Nói biến chuyển nơi lý sâu: Là trong các pháp vô vi có được tự tại. Đấy gọi là hai loại lý sâu.

Như trước đã nói, nghiệp dụng của năm loại vô thường có sai biệt, mỗi mỗi đều như thế nào? Đó gọi là như thứ lớp xuất sinh tất cả vô lượng vô biên biển lỗi lầm lớn, đều trọn đủ. Trụ giữ tất cả vô lượng vô biên biển lỗi lầm lớn, đều trọn đủ. Biến đổi hết thảy lượng vô biên biển công đức lớn, đều trọn đủ. Hoại diệt hết thảy vô lượng vô biên biển công đức lớn, đều trọn đủ. Thân tự tại trong sự ngăn che, chẳng phải công đức, chẳng phải lỗi lầm. Đều trọn đủ. Năm pháp như vậy, tự thể và phẩm loại mỗi mỗi đều sai biệt. Nên quán xét kỹ.

Như vậy là đã nói về Môn nghĩa lý đã giảng giải có sai biệt. Tiếp theo là nói về Môn dựa vào phần vị quyết định an lập. Như trước đã nói về năm mươi mốt loại phần vị chân kim cang, hiện bày khắp nơi bao nhiêu xứ?

* Kệ viết:

Như vậy năm mươi mốt

Khắp nơi năm loại xứ

Hành giả đại thông sáng

Hay khéo quyết trạch biết.

* Luận nói: Như trước đã nói, năm mươi mốt phần vị trong năm loại xứ như biến ly ngại v.v…, không nơi nào là không đến, không chốn nào là không thông. Do nghĩa này mà phần vị của đại kim cang có năm loại, nên biết. Như kệ viết: “Như vậy năm mươi mốt, Khắp nơi năm loại xứ”. Vị địa như vậy hàng lợi căn có thể nhận biết, không phải là cảnh giới của hàng độn căn. Vì sao? Vì đấy lá rất sâu xa, là hết sức nhanh nhạy, là vô cùng bí mật. Như kệ viết: “Hành giả đại thông sáng, Hay khéo quyết trạch biết”.

Lại, xứ cũng là hai tức phần vị cũng là hai. Nên nhận biết. Vì thế tập hợp đủ có mười mà thôi. Nhưng nay đã nói là biến chuyển chẳng phải là thân, kiến lập phần vị riêng gồm có bao nhiêu số? Thân chữ có sai biệt tướng ấy là thế nào?

* Kệ viết:

Kiến lập riêng số vị

Gồm có mười loại vị

Dần dần cùng tận khác

Không động và cùng diệt.

Vị một không một có

Trí, trí đoạn, trí địa

Cùng gặp gồm bỏ lập

Biên biên chuyển một hợp.

Đầy đủ mười vị này

Môn giới lượng viên mãn.

* Luận nói: Kiến lập riêng về phần vị gồm có mười loại. Những gì là mười loại? Đó là: (1) Phần vị dần dần hoàn toàn không vượt quá. (2) Phần vị rốt ráo khắp nơi hết không hết. (3) Phần vị không động trong tất cả đời. (4) Phần vị cả hai cùng lập các pháp cùng diệt. (5) Phần vị nếu một không tức nên một . (6) Phần vị chủ thể đoạn, đối tượng đoạn đều là trí. (7) Phần vị lực huân tập cùng đối cùng gặp. (8) Phần vị thuận theo xứ trừ chướng ngại để lập vị. (9) Phần vị chân vọng đạt được biên có không. (10) Phần vị các pháp một loại một hợp. Đấy gọi là mười loại phần vị. Như kệ viết: “Kiến lập riêng số vị, Gồm có mười loại vị, Dần dần cùng tận khác, Không động và cùng diệt, Vị một không một có, Trí trí đoạn trí địa, Cùng gặp gồm bỏ lập, Biên biên chuyển một hợp”. Tùy có một phần vị riêng để kiến lập phần vị chung, tất phải đầy đủ tất cả phần vị riêng mới có thể kiến lập phần vị chung lớn chăng? Tất phải đầy đủ riêng chung thì mới được thành tựu. Như kệ viết: “Đầy đủ mười vị này, Môn giới lượng viên mãn”. Như vậy, mười loại phần vị của tướng riêng hiện có khắp bao nhiêu xứ? Hiện có khắp năm xứ. Đó là chuyển thâu trong năm loại xứ, đều gồm đủ năm mươi mốt phần vị kim cang, trải qua các phần vị cũng có mười loại phần vị của tướng riêng. Phần vị của tướng chung lớn gồm có bao nhiêu số? Hiện có khắp bao nhiêu xứ?

* Kệ viết:

Vị chung có ba loại

Đó là thượng trung hạ

Chỉ khắp năm loại xứ

Nên biết chẳng vị khác.

* Luận nói: Phần vị của thể nơi đại tánh tổng địa căn bản gồm có ba loại. Những gì là ba loại? Một là phần vị hướng lên cao chuyển biến lên cao hơn nữa. Hai là phần vị tự nhiên an trụ trong khoảng giữa. Ba là phần vị luôn hướng chuyển biến xuống dưới thấp. Đấy gọi là ba loại. Như kệ viết: “Vị chung có ba loại, Đó là thượng trung hạ”. Như vậy, ba loại vị chung tùy theo vị riêng có mà có, chỉ chuyển khắp trong năm xứ không phải là những phần vị khác. Nên quán xét kỹ. Như kệ viết: “Chỉ khắp năm loại xứ, Nên biết chẳng vị khác”.

Như vậy là đã nói về Môn dựa vào phần vị quyết định an lập. Tiếp theo là nói về Môn dựa vào phần vị để biết số pháp đủ thiếu. Như trước đã nói về hai loại giữ thân và biến chuyển của mười loại pháp căn bản, thì thế phần vị kim cang là tận hay bất tận? Nghĩa là nếu ở trong phần vị giữ thân, thì chỉ có năm loại đủ đức, năm loại không có gì khác. Nếu ở trong phần vị biến chuyển, thì mười pháp đầy đủ không thiếu mất. Do nghĩa này nên hai môn riêng chung có không cũng rõ.

Như vậy là đã nói về Môn dựa vào phần vị để biết số pháp đủ thiếu. Tiếp theo là nói về Môn đối xét công đức và lỗi lầm để hiện bày tông chỉ. Tướng ấy là thế nào?

* Kệ viết:

Khởi tánh chỉ và nay

Biến không hoại cùng thật

Lực long như thứ đối

Có giống chọn lấy nhiều.

* Luận nói: Hình tướng đối xét để đối trị chướng ngại soi chiếu nơi chốn bị che lấp, như thứ lớp ấy là động khởi vô thường. Tánh lửa trụ pháp nơi chỉ trì vô thường. Ánh sáng hiện tại trụ pháp nơi biến dịch vô thường. Lìa chướng ngại trụ pháp nơi tán hoại vô thường. Có thật trụ pháp nơi đại lực vô thường. Xuất hưng long vương, lấy đó để xét. Như kệ viết: “Khởi tánh chỉ và nay, Biến không hoại cùng thật, Lực long như thứ đối”. Đối xét như vậy hoàn toàn là chuyển chăng? Cùng lượng chuyển chăng? Cùng lượng nên biết. Như kệ viết: “Có giống chọn lấy nhiều”.

Như vậy là đã nói về Môn đối xét công đức và lỗi lầm để hiện bày tông chỉ. Tiếp theo là nói về Môn thuận theo thứ lớp giải thích riêng để nói rộng. Lại môn lìa chướng ngại, an bày hình tướng hiển thị như thế nào? Chủ bạn đối trị chướng ngại nên như thế nào?

* Kệ viết:

Trong thể thân lìa ngại

Có năm mươi mốt vị

Trong năm mươi mốt vị

Có ba loại tướng chung.

Trong ba loại tướng chung

Có mười loại tướng riêng

Trong năm mươi mốt đầu

Mỗi mỗi đều có đều.

Đầy đủ mười số gốc

Đầu tiên chủ sau bạn

Tiếp đầu chủ sau bạn

Thứ lớp nên quán xét.

* Luận nói: Theo trong vị lìa chướng ngại, có năm mươi mốt loại phần vị kim cang. Căn cứ trong phần vị này, có ba loại phần vị của tướng chung căn bản. Theo trong tướng chung ấy, có mười loại phần vị tướng riêng. Như kệ viết: “Trong thể thân lìa ngại, Có năm mươi mốt vị, Trong năm mươi mốt vị, Có ba loại tướng chung, Trong ba loại tướng chung, Có mười loại tướng riêng”. Trong các vị kim cang thì mỗi mỗi phần vị đều có đủ số căn bản. Như kệ viết: “Trong năm mươi mốt đầu, Mỗi mỗi đều có đều, Đầy đủ mười số gốc”. Chủ bạn đều có hai. Những gì là hai chủ? Một là chủ của chủ. Hai là chủ của bạn. Những gì là hai bạn? Một là bạn của bạn. Hai là bạn của chủ. Nói chủ của chủ: Là lìa chướng ngại. Nói chủ của bạn: Là chuyển biến thứ hai. Nói bạn của bạn: Là trừ năm pháp căn bản còn lại là quyến thuộc. Nói bạn của chủ: Là trừ pháp lìa chướng ngại kia, còn lại là bốn pháp. Như kệ viết: “Đầu tiên chủ sau bạn, Tiếp đầu chủ sau bạn, Thứ lớp nên quán xét”.

Trong vị kim cang của ba loại tướng chung, thế nào là an lập? Nghĩa là tín tâm ban đầu dùng làm khởi đầu, địa Uất đà về sau lấy đó làm sau cùng, theo thứ lớp dần chuyển. Vì thế kiến lập phần vị hướng lên cao, từ trên cao chuyển đi. Địa Uất đà về sau lấy đó làm khởi đầu, tín tâm thứ nhất dùng làm sau cùng, theo thứ lớp dần chuyển. Do đó kiến lập phần vị hướng xuống dưới, từ dưới chuyển đi. Hai môn trên dưới từng phần vị mỗi mỗi đều lìa hai biên, theo trung đạo để quyết định an lập. Vì thế kiến lập phần vị an trụ tự nhiên trong khoảng giữa. Do nghĩa này nên mười loại tướng riêng chỉ có nơi môn trên dưới không có ở giữa. Lại, dựa vào môn trên để kiến lập mười phần vị. Hình tướng như thế nào?

* Kệ viết:

Tín năm sự đã qua

Đến phần vị sau sau

Là một sự cuối cùng

Chuyển biến trong một vị.

Trị chướng là một diệt

Trị chướng tức chẳng cùng

Dùng trí đoạn trừ trí

Trên dưới cùng soi chiếu.

Xưa không mà nay có

Trị chướng tự biện biệt

Nên một chuyển không khác

Thứ lớp nên quán xét.

* Luận nói: Dựa nơi môn hướng lên cao, từ trên cao chuyển đi, thấy có mười phần vị sai biệt. Hình tướng ấy như thế nào? Nghĩa là dùng năm loại phi không trụ pháp, đối trị năm loại hư giả chuyển pháp. Như thứ lớp ấy không có vượt quá mà dần dần chuyển, nên kiến lập phần vị là hoàn toàn không vượt quá thứ lớp. Như kệ viết: “Tín năm sự đã qua, Đến phần vị sau sau”. Nên dùng năm sự đối trị năm sự, tùy theo đối tượng ứng hợp ấy là một thứ cuối cùng. Tức kiến lập phần vị cứu cánh hiện có khắp nơi là hết không hết. Như kệ viết: “Là một sự cuối cùng”. Nên dùng năm sự đối trị năm sự, là không thêm không bớt, không lớn không nhỏ, một vị bình đẳng là trung đạo thật tướng. Thế nên kiến lập phần vị bất động trong tất cả đời. Như kệ viết: “Chuyển biến trong một vị”. Vì dùng năm sự đối trị năm sự, tùy theo lúc chướng ngại diệt thì thể của trí tuệ ấy cũng tức liền diệt. Nên kiến lập phần vị cả hai được lập các pháp cùng diệt. Như kệ viết: “Trị chướng là một diệt”. Tức dùng năm sự đối trị năm sự, đối trị khởi thì không có chướng ngại. Chướng ngại dấy lên thì không có đối trị. Do đó không thể thân cận, không thể cùng hành, không thể đạt đến. Nếu kiến lập phần vị một không tức nên một có. Như kệ viết: “Trị chướng tức chẳng cùng”. Nên dùng năm sự đối trị năm sự. Đối trị do khí lực hơn hẳn, là biến đổi tất cả chướng ngại để đối trị quyến thuộc. Cũng dùng lực hơn hẳn để đoạn trừ quyến thuộc. Kiến lập phần vị chủ thể đoạn, đối tượng đoạn đều là trí. Như kệ viết: “Dùng trí đoạn trừ trí”. Vì thế dùng năm sự đối trị năm sự, tùy theo đối tượng ứng hợp để phần vị trên phần vị dưới hỗ tương soi chiếu thông tỏ. Tùy theo đối tượng ứng hợp để đoạn trừ chướng ngại, nên kiến lập phần vị cùng đối cùng gặp của lực huân tập. Như kệ viết: “Trên dưới cùng soi chiếu”. Tức dùng năm sự đối trị năm sự, tùy theo chỗ đoạn trừ chướng ngại là hư vọng không có gốc, nên an lập vị địa cũng không có gốc. Kiến lập phần vị là tùy theo xứ đoạn trừ chướng ngại để lập phần vị. Như kệ viết: “Xưa không mà nay có”. Nên dùng năm sự đối trị năm sự. Đối trị đều là sáng sạch còn chướng ngại đều là tối tăm. Sự việc đối trị đoạn trừ kia đều đã hoàn thành, thì dụng của chướng ngại che lấp ấy đều đã dứt bỏ đầy đủ. Kiến lập phần vị chân vọng là đạt được biên có không. Như kệ viết: “Trị chướng tự biện biệt”. Nên dùng năm sự đối trị năm sự. Hai pháp đối trị và chướng ngại là không hai, không khác, chỉ là một vị bình đẳng, một thể một tánh, một nghiệp một dụng. Kiến lập phần vị các pháp là một loại một hội. Như kệ viết: “Nên một chuyển không khác”. Cho nên các phần vị như thế như kệ đã giải thích, chuyên tâm quán xét thì lý ấy sáng rõ gốc ngọn hiện đủ. Như kệ viết: “Thứ lớp nên quán xét”. Đấy gọi là dựa nơi môn lìa chướng ngại an lập các phần vị chung riêng để hiển thị phần trên có sai biệt. Tiếp theo là dựa nơi môn dưới để kiến lập mười môn. Hình tướng như thế nào?

* Kệ viết:

Như trước nói mười nghĩa

Tùy hợp với như như

Hoại được thể quy không

Dần dần thứ lớp chuyển.

* Luận nói: Dựa vào môn hướng xuống dưới, từ dưới chuyển đi, thấy có mười phần vị riêng khác, hình tướng như thế nào? Nghĩa là như trước đã nói trong mười loại nghĩa, tùy đối tượng ứng hợp là thuận như như. Hủy hoại chúng để đạt được thể quy về không vốn tồn tại. Như kệ viết: “Như trước nói mười nghĩa, Tùy hợp với như như, Hoại được thể quy không”. Như vậy, các phần vị là một thời chuyển hay là trước sau chuyển? Vì trước sau chuyển không phải là một thời, như kệ viết: “Dần dần thứ lớp chuyển”. Vì thế đối với các pháp còn lại, đều như vậy như vậy, tùy tùy như như, nêu bày chỉ rõ về sự tạo tác. Nên quán xét kỹ về tướng chuyển biến riêng kia. Là gốc tồn tại nên là gốc chủ. Mỗi mỗi thảy đều có hai chuyển như thế. Một thời chuyển và trước sau chuyển có hai nghĩa. Những gì là hai? Một là kiến lập chuyển, là định rõ trước sau. Hai là bản tánh chuyển, là không có trước sau. Đấy gọi là hai chuyển. Như trước đã nói về vô số các môn, đồng danh khác vật. Trụ nơi tư duy nên quán xét.

* Thứ 8: Phần Đại Quyết Trạch thâm lý xuất hưng Địa Tạng Đại Long Vương.

Như thế là đã nói về Phần Đại Quyết Trạch đại hải bộ tạng đạo lộ. Tiếp theo là nói về Phần Đại Quyết Trạch thâm lý xuất hưng Địa Tạng Đại Long Vương. Tướng ấy là thế nào?

* Kệ viết:

Trong Long Vương Địa Tạng

Gồm có hai loại nghĩa

Đó là nghĩa Tạng đức

Cùng với nghĩa Tạng lỗi.

* Luận nói: Theo trong thể của Đại Long Vương Địa Tạng thâm lý xuất hưng tức có hai nghĩa. Những gì là hai? Một là nghĩa kho tàng công đức căn bản. Hai là nghĩa kho tàng lỗi lầm căn bản. Nói nghĩa kho tàng công đức căn bản: Vì Đại Long Vương này làm kho tàng căn bản của bốn loại phi không. Nói nghĩa kho tàng lỗi lầm căn bản: Vì Đại Long Vương này làm kho tàng căn bản của bốn loại vô thường. Như kệ viết: “Trong Long Vương Địa Tạng, Gồm có hai loại nghĩa, Đó là nghĩa Tạng đức, Cùng với nghĩa Tạng lỗi”. Có đủ nghĩa của hai tạng thì Long Vương Địa Tạng cư trú nơi xứ nào? Lý (nơi ở) ấy có bao nhiêu lượng, các hình tướng như dài ngắn lớn nhỏ… là như thế nào?

* Kệ viết:

Ở Án-bà-thi-ni

Lý: Năm mươi mốt lượng

Dài một ngàn do tuần Đầu có Bà-đa-đề.

Tức xuất bốn loại nước

Đuôi có Xá-già-tất

Tức xuất bốn loại gió

Sắc như ngọc pha lê.

* Luận nói: Nay trong kệ này là nêu rõ về nghĩa gì? Là muốn hiển thị nêu lên sự để hiện bày lý, khai diễn đại dương của pháp gốc. Đại Long Vương này cư trú nơi xứ nào? Nghĩa là cư trú trong Án-bà-thi-ni. Như kệ viết: “Ở Án-bà-thi-ni”. Ra khỏi nước đi vào đất thì cách nhau là bao nhiêu lượng? Nghĩa là từ đáy nước hướng đi vào phần đất thấp, khoảng cách là năm mươi mốt do tuần. Như kệ viết: “Lý: Năm mươi mốt lượng”. Thân của Đại Long Vương kia, dài là bao nhiêu lượng? Một ngàn do tuần không tăng giảm. Như kệ viết: “Dài một ngàn do tuần”. Đại Long Vương ấy ở trên đầu của mình, có lông nhỏ màu trắng trong gọi là Bà-đa-đề. Từ đầu lông này xuất sinh bốn loại nước. Những gì là bốn loại? Đó là: (1) Nước Trung không. Nước này xuất thủy trần, không dùng làm bên trong, có dùng làm bên ngoài, theo đấy mà sinh ra. (2) Nước Phương đẳng. Nước này xuất thủy trần, bốn hướng lượng như nhau không sai trái. (3) Nước Thường thục. Nước này xuất thủy trần, nơi tất cả xứ, nơi tất cả thời luôn luôn ấm áp. (4) Nước Diệu minh. Nước này xuất thủy trần, ánh sáng trắng trong luôn luôn hiện tiền. Đấy gọi là bốn loại nước. Như kệ viết: “Đầu có Bàđa-đề, Tức xuất bốn loại nước”. Cũng từ nơi cuối đuôi của Long vương ấy, có một sợi lông mềm gọi là Xá-già-tất. Cũng từ cuối sợi lông này, phát ra bốn loại gió. Những gì là bốn loại? Đó là: (1) Gió Phát trần. Lúc gió này dấy lên đi qua nhiều trung gian, phát khởi vô lượng vô biên trần (cảnh). (2) Gió Trì trần. Lúc gió này phát ra thì các trần dừng trụ khiến an trụ. (3) Gió Biến trần. Lúc gió này xuất hiện, đi qua nhiều trung gian, thì biến đổi các loại vàng ngọc thành sỏi đá. (4) Gió Hoại trần. Lúc gió này xuất hiện, đi qua nhiều trung gian, hủy hoại hết các thứ vàng ngọc trở thành không có. Đấy gọi là bốn loại gió. Như kệ viết: “Đuôi có Xá-già-tất, Tức xuất bốn loại gió”. Màu sắc nơi thân Long vương kia, ví như pha lê không có sắc nhất định. Như kệ viết: “Sắc như ngọc pha lê”.

Ở Án-bà-thi-ni: Là dụ cho bản tánh nơi vương không trú trong bản xứ. Lý: Năm mươi mốt lượng: Là dụ cho số lượng phẩm nhất định của vị chân kim. Dài một ngàn do tuần: Là dụ cho bản tánh nơi vương có đủ ngàn loại đức. Đầu có Bà-đa-đề: Là dụ cho bản tánh nơi vương, đối với những phẩm tịnh có tạo tác phương tiện. Tức xuất bốn loại nước: Là dụ cho bốn loại phi không trụ pháp. Đuôi có Xá-già-tất: Là dụ cho bản tánh nơi vương, đối với những phẩm nhiễm có tạo tác nghiệp dụng. Tức xuất bốn loại gió: Là dụ cho bốn vô thường. Sắc như ngọc pha lê: Là dụ cho bản tánh nơi vương không thâu tóm nhiễm, tịnh. Như thứ lớp ấy nên xét chọn kỹ. Lại nữa, trung gian cùng cách từ đáy nước của biển lớn và trụ xứ: Là dụ cho năm mươi mốt loại phần vị kim cang đã đầy đủ. Lúc xuất hiện đến biển lớn: Là dụ cho các loại nẻo tạp loạn. Lúc sóng biển ngừng lặng: Là dụ cho lúc khởi tâm thiện. Lúc sóng thường khởi: Là dụ cho lúc tâm ác hưng khởi. Cũng lại trụ tâm, nên quán xét kỹ. Trong Khế kinh Bản Hạnh Thượng Địa Nhất Vị Bình Đẳng Diệu Pháp Vô Biên Nghiệp Dụng Cụ Túc Đại Hải Bảo Luân Diệu Nghiêm Vương Tử đã giảng nói như vầy: “Sinh ra pháp bốn đạo, không gồm thâu bốn đạo, lìa dứt trong tâm. Sinh ra pháp bốn luân, không gồm thâu bốn luân, lìa dứt trong tâm, nhưng lập danh tự. Nói đại lực vô minh: Là tùy theo pháp đã sinh để kiến lập danh tự”. Cho đến nói rộng.

HẾT – QUYỂN 4

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20