PHỦ VIỆT THỦ NHÃN

 

Phủ Việt Thủ (Tay cầm cây búa lớn):

Tay thứ sáu trong tám tay của Như Lai Bộ của Mật Pháp, là Pháp Tức Tai.

Câu thứ 64 trong Chú Đại Bi là: ”Tất Ra Tăng A Mục Khê Da” dịch nghĩa là thành tựu Phước Đức c  tức Việt Phủ Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.

Đại Bi xuất tướng câu 64: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da

– Thiên Thủ Thiên  Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 12 trong Kinh Văn:

“Nếu muốn ở tất cả thời, tất cả nơi xa lìa Quan nạn thì nên cầu nơi tay Việt Phủ (Cây Búa lớn )”.

Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 16:

“Nếu người nào vì tất cả Thời Xứ khéo lìa nạn quan quyền thì nên cầu nơi bàn tay cầm cây búa”.

Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ 16 là:

Nếu muốn lìa nạn của quan quyền nên tu pháp Phủ việt (cây búa lớn) ,tượng TRẤN NẠN QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT …..xong tay phải cầm phủ việt , tay trái nắm quyền đặt ở eo,vẽ tượng xong.

Tướng ấn đó là co tay phải như thế cầm búa, dùng ấn chuyển hồi.

Trấn Nạn Quán Tự Tại Bồ Tát

16) Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp

Kinh nói rằng: “Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi Tay cầm cây Phủ-Việt.

Thần-chú rằng: Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]

𑖫𑖿𑖨𑖱 𑖭𑖰𑖽𑖮 𑖦𑗜𑖏𑖯𑖧
ŚRĪ  SIṂHA  MUKHĀYA

ŚRĪ (Cát Tường) SIṂHA (Sư Tử) MUKHĀYA (Diện mạo, khuôn mặt)

ŚRĪ  SIṂHA  MUKHĀYA: Khuôn mặt sư tử cát tường biểu thị cho Tâm ái Hộ làm Đại Y Vương trừ các bệnh khổ não cho tất cả chúng sinh

Tất Ra Tăng A Mục Khê Da” là tiếng Phạn. Ý nghĩa của câu Chú này phải chia ra để dịch. “Tất Ra Tăng”, nghĩa là “thành tựu, ái hộ”, ái hộ tất cả chúng sinh.

A Mục Khê Da”, dịch ra nghĩa là “bất không, bất xả”. Bất không tức là có (hữu), Song có ở đây là diệu hữu. Bất xả tức là không bỏ một pháp nào; không bỏ pháp nào mà phải học tất cả các pháp. Cho nên nói :”Phật sự môn trung bất xả nhất pháp, chân như lý thượng bất lập nhất trần”, tức là ý nghĩa này. Còn có một ý nghĩa nữa gọi là “ái chúng hòa hợp”, ái hộ tất cả chúng sinh, hòa hợp với nhau. Thủ Nhãn này là “Việt Phủ Thủ Nhãn”.

“Việt Phủ Thủ Nhãn”, hay lìa khỏi tất cả hoạn nạn trong hoàng cung. Bạn tu pháp này thì không bị vương pháp câu thúc, mọi thời mọi nơi đều lìa khỏi hoạn nạn hoàng cung, chẳng có tai nạn ngục tù. Tai nạn ngục tù tức là phạm pháp bị ở tù. Có phải tu pháp này thì phạm pháp cũng không ngồi tù chăng ? Không phải, căn bản thì bạn sẽ không phạm pháp. Vì bạn tu pháp này thì bạn minh bạch Phật pháp, bạn đâu có phạm pháp. Cho nên bạn không phạm pháp thì đương nhiên chẳng có hoạn nạn hoàng cung. Vậy có người không phạm pháp cũng có hoạn nạn hoàng cung, đó là vì chẳng tu “Việt Phủ Thủ Nhãn” này.

Kệ:

Hóa hiện Dược Vương đại bồ tát
Trừ ôn diệt dịch cứu hằng sa
Phổ lệnh hữu tình li tật khổ
Cam lộ biến sái hàm thức nha

Dịch:

Hóa hiện thân Dược Vương đại bồ tát
Diệt trừ ôn dịch cứu độ hằng sa
Khiến chúng sinh hữu tình tật khổ rời xa
Giọt cam lộ rưới trên mầm tâm thức.

Chơn-ngôn rằng: Án– vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.

𑖌𑖼_ 𑖪𑖱𑖨𑖧 𑖪𑖱𑖨𑖧_ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ VĪRAYA VĪRAYA_ SVĀHĀ

OṂ (Quy mệnh) VĪRAYA (đẳng Tinh Tiến) VÌRAYA (Đẳng anh dũng) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)

Trong các nạn thì nạn quan quân là tối phiền não. Phủ Việt (Para’su) là binh khí có sức mạnh để phá nạn quan binh, hoặc Phủ Việt là binh khí phá nát các vật khí tồi phá khác .

Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Bản Nguyện Từ Bi cầm cây búa lớn biểu thị cho ý nghĩa phá nạn.

Muốn thành tựu pháp này, Hành giả đem cây Búa đặt trước Bản Tôn, tác tưởng niệm Chú, hướng cây búa về phía quân địch, rung động cây búa, liền được hòa bình.

Kệ tụng:

Nghiêm hình bức cung khấp quỉ thần
Hàm oan linh ngữ lý nan thân
Nhược dục thoát ly luy tiết khổ
Thả tu phủ việt thủ an thân

[Bị tra tấn làm cho nhận tội, cho đến Qủy Thần cũng kinh sợ than khóc.
Một Người bị gian trong tù, dù vô tội cũng rất khó minh oan.
Nếu muốn thoát khỏi cảnh khổ đau “TÙ NGỤC” oan ức,
Thì nên tu Tay-mắt cầm Cây Phủ-Việt, sẽ được an thân ra khỏi “NHÀ TÙ”.
]

Đại-ý Kệ-tụng nói: “Nếu Qúy-vị vô tội mà bị ở tù, chịu nhiều nỗi khổ mà không thể biện minh được; hoặc là muốn từ đây về sau sẽ không bị gian cầm vô cớ, thì Qúy-vị nên tu Phủ-việt thủ nhãn ấn pháp thì sẽ được như ý nguyện.

Còn như nếu muốn dùng thủ nhãn này, ra khỏi “NHÀ LỬA” trong tam giới, còn gọi là “NHÀ TÙ TRONG BA CÕI”, thì vẫn được như ý nguyện.

Kinh-văn:

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành.

Như tại sao chúng ta phải ra khỏi nhà tù trong tam giới?

Vì ở trong nhà tù tam giới, qủa thật chúng ta đã chịu sự đau khổ  trong trăm, ngàn muôn ức A-TĂNG-KỲ KIẾP không biết khi nào mới ra khỏi được? Thật là buồn thay !!!

Kệ tụng:

Ba cõi không an dường hỏa-trạch
Đâu miền chân-lạc khỏi tang thương?
Người vô thường,
Cảnh vô thường!
Khuyên gọi cùng nhau tỉnh mộng
Quay về bể giác thanh lương.
Khởi lòng bi trí
Nguyện độ mười phương.
Ba tăng-kỳ kiếp tu muôn hạnh.
Bền lòng không thối chuyển
Cầu ngôi vị Pháp-Vương!

BA A-TĂNG-KỲ KIẾP = 3  X  (1027   X  1.280  triệu năm )

A-TĂNG-KỲ =1027  = 10 lũy thừa 27 =  1.000.000.000.000.000.000.000.000.000

KIẾP thì theo thông lệ, nếu trong kinh không nói rõ là tiểu kiếp hay trung kiếp, thì là “ĐẠI KIẾP”.

1 tiểu kiếp = 16 triệu năm = 16.000.000

1 trung kiếp = 20 tiểu kiếp = 320 triệu năm = 320.000.000

1 đại kiếp = 4 trung kiếp = 1.280  triệu năm = 1.280.000.000

Ba tăng kỳ kiếp tu muôn hạnh là chỉ cho Bồ-tát bất thối chuyển, trải qua năm mươi lăm (55) ngôi vị như sau:

1. Thập tín (10)
2. Thập trụ (10)
3. Thập hạnh (10)
4. Thập hồi hướng (10)
5. Tứ gia hạnh (4)

a) Noãn
b) Đảnh
c) Nhẫn
d) Thế đệ nhất

6. Thập địa (10)
7. Đẳng giác (1)

Nếu tính lúc đầu là CÀN HUỆ ĐỊA (1) và sau cùng là DIỆU GIÁC (1) THÌ PHẢI LÀ NĂM MƯƠI BẢY (57) NGÔI VỊ MỚI THÀNH VỊ PHÁP VƯƠNG, TỨC LÀ THÀNH PHẬT.

Cũng như,  một vị TU-ĐÀ-HOÀN  CHỈ CÓ 7 ĐỜI SANH TỬ THÌ THÀNH A-LA-HÁN, KHÔNG CÓ ĐỜI SANH TỬ THỨ 8. VÌ SAO? VÌ KHÔNG BỊ SẮC, THANH, HƯƠNG, VỊ, XÚC VÀ PHÁP CHI PHỐI NỮA, NÊN KHÔNG BỊ THỐI CHUYỂN.

NGƯỜI TRÌ CHÚ LĂNG NGHIÊM, THÌ KHÔNG TRẢI QUA  “BA A-TĂNG-KỲ KIẾP” CŨNG CHỨNG ĐƯỢC PHÁP THÂN, TỨC LÀ THÀNH PHẬT.

Diệu trạm tổng trì bất động tôn,
Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hy hữu.
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.
Bất lịch tăng kỳ hoạch Pháp thân.

NGƯỜI NIỆM PHẬT, THÌ KHI VÃNG SANH SẼ ĐƯỢC THỌ MẠNG BẰNG VỚI PHẬT A-DI-ĐÀ, CHỈ BỎ RA “3 A-TĂNG-KỲ KIẾP” TU MUÔN HẠNH, THÌ ĐƯỢC THÀNH PHẬT. THẬT LÀ VUI THAY!!!

NGƯỜI TU 42 THỦ NHÃN VÀ TRÌ CHÚ ĐẠI BI THÌ KHÔNG THEO THỨ TỰ CHỨNG QUẢ, CÓ THỂ TỪ SƠ-ĐỊA LÊN BÁT-ĐỊA, CŨNG CÓ LUÔN NGÀN TAY NGÀN MẮT.

Kinh-văn:

Lúc đó tôi (Quán Thế Âm Bồ Tát) mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng: “Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.”

( Theo Thủ Nhãn cuối cùng trong Bốn Mươi Hai Thủ Nhãn có tên là Tổng Nhiếp Thiên Tý Thủ Nhãn Ấn Pháp, hễ quý vị tụng Thủ Nhãn này một biến, thì quý vị sẽ có thêm bốn mươi hai cánh tay. Tụng mười biến thì được 420 tay; tụng một trăm biến thì được 4.200 tay. Nếu quý vị tụng một ngàn biến thì sẽ có được 42.000 cánh tay, và cũng có luôn cả 42.000 con mắt.)

Cho nên, Ta thấy rằng không chỉ là ngàn tay ngàn mắt, mà có thể có vô lượng tay mắt để cứu độ vô lượng chúng sanh thoát khổ đau. Tuy phàm phu chúng ta không thấy, như người có ngũ nhãn lục thông thì nhìn thấy, hoặc ma qủy có ngũ thông thì cũng nhìn thấy.

Lại như người “CHỨNG NGŨ NHÃN”, TUY QÚY VỊ THẤY HỌ CHỈ CÓ 2 CON MẮT THƯỜNG THÔI; NHƯ PHẬT, BỒ-TÁT VÀ THÁNH NHÂN, LẠI THẤY HỌ CHỨNG ĐƯỢC NGŨ NHÃN. CŨNG ĐỒNG MỘT ĐẠO LÝ NHƯ TRÊN ĐÃ NÓI.

Tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực,
Duy chứng nãi tri nan khả trắc.
Kính lý khán hình kiến bất nan,
Thủy trung tróc nguyệt tranh niêm đắc.

Kinh sách tham khảo:

– KINH THIÊN THỦ THIÊN NHÃN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT QUẢNG ÐẠI VIÊN MÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ÐÀ LA NI, 
– KINH PHÁP HOA,
– KINH LĂNG NGHIÊM,
– KINH KIM CANG,
– KINH A DI ĐÀ,
– NIỆM PHẬT THẬP YẾU,
– NHỊ KHÓA HIỆP GIẢI,
– CHỨNG ĐẠO CA.

Kệ tụng Việt dịch:

Quỷ khóc thần than bức bách thân
Ngục tù ngậm miệng khó minh oan
Nếu muốn thoát vòng dây trói buộc
Pháp tu phủ việt thủ bình an.

 

Phủ-Việt Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Sáu 

Tất Ra Tăng A Mục Khê Da [64]
𑖫𑖿𑖨𑖱 𑖭𑖰𑖽𑖮 𑖦𑗜𑖏𑖯𑖧
ŚRĪ  SIṂHA  MUKHĀYA

Án– vị ra dã, vị ra dã, tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖪𑖱𑖨𑖧 𑖪𑖱𑖨𑖧_ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ VĪRAYA VĪRAYA_ SVĀHĀ