LUẬN THÀNH DUY THỨC
Hộ Pháp Bồ-tát tạo
Đường Tam tạng pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 8

Như vậy bốn duyên dựa vào mười lăm chỗ nghĩa khác nhau, nên thành lập có mười nhân.

Dựa mười lăm chỗ lập mười nhân như thế nào?

1. Ngữ y xứ. Nghĩa là dựa trên pháp, danh, tưởng mà khởi lên tính của ngôn ngữ. Tức là dựa từ nơi đây mà lập ra Tùy thuyết nhân. Nghĩa là dựa vào ngôn ngữ rồi tùy chỗ thấy, nghe v.v…mà nói ra các nghĩa. Đây tức là năng thuyết làm nhân cho sở thuyết.

Có luận thuyết cho rằng cái này gọi là danh, tưởng và kiến. Bởi do tên gọi mà chấp lấy tướng đó rồi theo đó khởi lên ngôn thuyết. Nếu theo luận thuyết đó thì làm rõ nhân này gọi là Ngữ y xứ.

2. Lĩnh thụ xứ. Là tính quan sát sự đối đãi của năng thụ sở thụ. Tức dựa vào đó mà lập ra Quan đãi nhân. Nghĩa là quan sát sự đối đãi của cái này đối với cái kia làm cho sinh ra, hoặc trụ lại, hoặc thành tựu, hoặc đạt được như thế nào. Cái này là Quan đãi nhân của cái kia.

3. Tập khí y xứ. Là chủng tử của nội thức và ngoại cảnh trong giai đoạn chưa thành thục. Tức y nơi đây mà lập ra Khiên dẫn nhân. Nghĩa là các chủng tử chưa thành thục này có thể dẫn đến các tự quả xa về sau, gọi là Khiên dẫn nhân.

4. Hữu nhuận chủng tử y xứ. Là chủng tử trong ngoài đã thành thục. Tức y nơi đây mà lập ra Sinh khởi nhân. Nghĩa là chủng tử đã thành thục có thể sinh ra tự quả gần của chúng.

5. Vô gián diệt y xứ. Là Đẳng vô gián duyên của tâm và tâm sở.

6. Cảnh giới y xứ. Là Sở duyên duyên của tâm và tâm sở.

7. Căn y xứ. Là sáu căn, chỗ nương của tâm và tâm sở.

8. Tác dụng y xứ. Là các tác dụng của tác nghiệp và các dụng cụ tác nghiệp. Trừ chủng tử, các trợ duyên hiện tại đều là Tác dụng y xứ.

9. Sĩ dụng y xứ. Là các tác dụng về tác nghiệp của người tạo ra. Trừ chủng tử, tất cả trợ duyên hiện tại đều là Sĩ dụng xứ.

10. Chân thật kiến y xứ. Là vô lậu kiến, trừ việc dẫn sinh tự chủng, tất cả khả năng khác giúp dẫn đến sự chứng đạt pháp vô lậu đều thuộc y xứ này.

Dựa chung vào sáu thứ y xứ làm Nhiếp thụ nhân, năm thứ là hữu lậu pháp, đủ sáu thứ là vô lậu.

11. Tùy thuận y xứ. Là các hành vô ký, thiện, nhiễm, hoặc chủng tử, hoặc hiện hành đều có khả năng tùy thuận dẫn phát các pháp đồng loại vượt trội hơn. Tức dựa vào đó mà lập ra Dẫn phát nhân. Nghĩa là nó có thể dẫn khởi các thắng hạnh đông loại và dẫn đạt đến pháp vô vi.

12.Sai biệt công năng y xứ. Là các pháp hữu vi, mỗi mỗi đối với tự quả có thế lực có thể khởi các chứng ngộ sai biệt. Tức dựa vào đó mà lập ra Định dị nhân. Nghĩa là nó có khả năng sinh các quả ở cõi mình và có khả năng chứng các quả vị của Thừa giáo của mình.

13. Hòa hợp y xứ. Là từ Lĩnh thụ y xứ cho đễn Sai biệt công năng y xứ, các y xứ này có sức hòa hợp trong các kết quả sinh, trụ, thành và đắc. Tức dựa vào đó mà lập ra Đồng sự nhân. Nghĩa là từ Quan đãi nhân cho đến Định dị nhân đều đồng một sự nghiệp sinh, trụ, thành, đắc.

14. Chướng ngại y xứ. Là ở đó có pháp chướng ngại đối với sự sinh, trụ, thành, đắc. Tức dựa vào đó mà lập ra Tương vi nhân. Nghĩa là có thể làm nhân chướng ngại việc sinh, trụ, thành, đắc.

15. Bất chướng ngại y xứ. Là ở đó không có sự làm chướng ngại đối với sinh, trụ, thành, đắc. Tức dựa vào đó mà lập ra Bất tương vi nhân. Nghĩa là không làm trơ ngại đối với sự sinh, trụ, thành, đắc.

Mười nhân như vậy bao gồm trong hai nhân: một là năng sinh, hai là phương tiện.

Bồ-tát địa trong Luận Du-già có nói chủng tử khiên dẫn, chủng tử sinh khởi gọi là Năng sinh nhân. Còn các nhân khác gọi là Phương tiện nhân.

Ở đây thì nói rằng các chủng tử nhân duyên là Khiên dẫn, Sinh khởi, Dẫn phát, Định dị, Đồng sự và Bất tương vi khi ở địa vị chưa thành thục gọi là chủng tử khiên dẫn, thành thục rồi gọi là chủng tử sinh khởi. Vì các chủng tử nhân duyên trong sáu nhân đều thuộc trong hai địa vị này.

Lìa hiện khởi là Năng sinh nhân, như trong bốn nhân tuy có sinh tự chủng tử nhưng hay gián đoạn, nên ở đây lược không nói.

Hoặc trực tiếp sinh quả cũng lập tên là chủng tử, như nói hạt giống ngũ cốc hiện hành v.v…Các nhân còn lại như nhân thứ hai, thứ năm, thứ chín cùng các pháp không phải nhân duyên trong sáu nhân đều là chủng tử của sinh thục nhân duyên, nên gọi chung là Phương tiện nhân. Không phải hai thứ này chỉ thuộc hai nhân đó, mà ngoài ra trong bốn nhân cũng có chủng tử nhân duyên. Không phải chỉ tám tên kia là các nhân còn lại, vì trong hai nhân kia cũng có một phần không phải chủng tử nhân duyên.

Ở địa vị còn có Tầm v.v…thì nói Sinh khởi nhân là Năng sinh nhân, ngoài ra là Phương tiện nhân. Văn ở đây có ý nói trong sáu nhân hoặc hiện hành, hoặc chủng tử nếu là nhân duyên đều được gọi là Sinh khởi nhân, vì có thể trực tiếp sinh quả cùng loại. Các nhân còn lại đều thuộc Phương tiện nhân. Không phải Sinh khởi nhân ở đây chỉ thuộc nhân kia, vì trong năm nhân còn lại cũng có nhân duyên. Không phải chỉ chín tên kia là các nhân còn lại, vì trong Sinh khởi nhân cũng có phần không phải nhân duyên.

Hoặc theo Bồ-tát địa trong Luận Du-già có nói chủng tử Khiên dẫn và Sinh khởi tức là hai nhân kia, số nhân còn lại là tám. Tuy trong hai nhân có phần không phải Năng sinh nhân, nhưng vì có chủng tử nhân duyên rõ rệt hơn nên nói nó là Năng sinh nhân. Và tuy trong các nhân khác có phần không phải Phương tiện nhân, nhưng vì nó có sức tăng trưởng nhiều và rõ rệt hơn cả nên nói nó là Phương tiện nhân.

Ở trong địa vị có Tầm v.v…nói Sinh khởi nhân tức là Năng sinh nhân, các nhân khác còn lại là Phương tiện nhân. Sinh khởi tức là Sinh khởi nhân kia, , các nhân khác tức chín nhân còn lại.

Tuy trong Sinh khởi nhân có phần không phải chủng tử nhân duyên, nhưng nó rất gần và rõ rệt đối với quả được sinh nên gọi nó là chủng tử nhân duyên.

Tuy trong Khiên dẫn nhân cũng có chủng tử nhân duyên, nhưng vì nó cách xa và ẩn kín hơn đối với quả được sinh nên không nói. Ngoài ra các nhân thuộc Phương tiện nhân, chiếu theo trên thì biết.

– Bốn duyên nói trên dựa vào đâu thành lập, làm sao gồm thâu mười nhân và hai nhân?

– Luận nói nhân duyên dựa vào chủng tử mà thành lập. Dựa vào tính vô gián diệt lập Đẳng vô gián duyên. Dựa vào cảnh giới lập Sở duyên duyên. Dựa vào các điều còn lại ngoài ba duyên trên lập Tăng thượng duyên.Trong đây nói chủng tử tức chỉ cho chủng tử nhân duyên của ba, bốn, mười một, mười hai, mười ba, mười lăm trong sáu y xứ. Tuy hiện hành của bốn y xứ cũng có nhân duyên, nhưng vì hay gián đoạn, nên đây không nói. Hoặc chúng cũng có thể trực tiếp sinh tự quả như lúa thóc, nên cũng gọi chủng tử. Hoặc nói chủng tử chỉ thuộc y xứ thứ tư, tùy theo thân hay sơ, ẩn hay hiện mà chọn lấy hoặc bỏ như trước đã nói.

Nên biết rằng nói vô gián diệt y xứ và cảnh giới y xứ là để hiển thị chung y xứ của hai duyên, không phải chỉ có năm và sáu. Ngoài ra trong các y xứ khác cũng có nghĩa của hai duyên đó. Hoặc chỉ có năm và sáu, các y xứ khác tuy có nhưng ít và ẩn kín nên không nói.

Luận nói nhân duyên thuộc Năng sinh nhân. Tăng thượng duyên thuộc Phương tiện nhân. Còn trung gian hai duyên thuộc Nhiếp thụ nhân. Tuy trong Phương tiện nhân có đủ ba duyên sau nhưng Tăng thượng duyên nhiều hơn nên nói thiên về Tăng thượng duyên.

Các nhân khác cũng có ttrung gian hai duyên, nhưng nó thuộc về nhiếp thụ rõ hơn nên thiên nói về Nhiếp thụ. Năng sinh nhân ban đầu tiến thoái như trước đã nói.

– Có nhân duyên ắt phải có quả. Có bao nhiêu quả, và dựa vào đâu mà có?

– Quả có năm thứ:

1. Quả Dị thục. Là các pháp bất thiện và hữu lậu thiện chiêu cảm tự tương tục và Dị thục sinh vô ký.

2. Quả Đẳng lưu. Là quả đồng loại do thiện v.v…dẫn phát, hoặc hậu quả tùy chuyển theo nghiệp tương tự trước.

3. Quả Ly hệ. Là pháp thiện vô vi do vô lậu đạo đoạn chướng chứng được.

4. Sĩ dụng quả. Là kết quả do người làm nhờ các dụng cụ mà làm thành.

5.Quả Tang thượng. Là quả đạt được ngoài bốn loại nói trên.

Luận Du-già v.v… nói: Do tập khí y xứ được quả Dị thục. Do tùy thuận y xứ được quả Đẳng lưu. Do chân kiến đạo y xứ được quả Ly hệ. Do sĩ dụng y xứ được quả Sĩ dụng. Do các y xứ còn lại được quả Tăng thượng.

Nói tập khí y xứ là chỉ tất cả công năng của các y xứ chiêu cảm quả Dị thục. Nói tùy thuận y xứ là chỉ rõ tất cả công năng của các y xứ dẫn đến quả Đẳng lưu. Nói chân kiến đạo y xứ là chỉ rõ tất cả công năng của các y xứ làm cho chứng được quả Ly hệ. Nói sĩ dụng y xứ là chỉ rõ tất cả công năng của các y xứ chiêu cảm được quả Sĩ dụng. Nói các y xứ khác còn lại là chỉ rõ tất cả công năng của các y xứ đưa đến quả Tăng thượng. Nếu không như vậy sẽ quá rộng hoặc quá hẹp.

Hoặc nói tập khí là chỉ thuộc tập khí y xứ thứ ba. Tuy Dị thục nhân, các y xứ khác cũng có, và ở đây cũng có một phần không phải Dị thục nhân, mà Dị thục nhân cách Dị thục quả rất xa. Tập khí cũng vậy cho nên nói thiên về nó.

Nói tùy thuận thì chỉ thuộc y xứ thứ mười một. Tuy Đẳng lưu quả cũng chứng đắc ở các y xứ khác, và ở đây cũng có chứng đắc không phải quả Đẳng lưu, nhưng vì ở đây nhân chiêu cảm mạnh rõ rệt hơn, nên nói thiên về nó.

Nói chân kiến đạo là chỉ rõ chân kiến đạo y xứ thứ mười. Tuy các y xứ khác cũng chứng được quả Ly hệ, và ở đây cũng có thể chứng đắc quả Phi ly hệ, nhưng tướng chứng Ly hệ rõ hơn nên thiên nói về nó.

Nói sĩ dụng xứ là chỉ rõ sĩ dụng y xứ thứ chín. Tuy ở các y xứ khác cúng có chứng đắc quả Sĩ dụng, và ở đây cũng có thể chiêu cảm quả Tăng thượng, nhưng danh tướng nó rõ rệt nên thiên nói về nó.

Nói các y xứ khác còn lại là chỉ thuộc mười một y xứ khác. Tuy mười ở một y xứ này cũng chứng đắc các quả khác, và chiêu cảm quả Tăng thượng thì các y xứ khác cũng có khả năng làm được như vậy, nhưng mười một xứ này phần nhiều là chiêu cảm quả Tăng thượng. Còn các y xứ kia đã làm rõ rồi, cho nên ở đây chỉ thiên nói về nó.

Như vậy tức là nói trong năm quả này, nếu là quả Dị thục thì do năm nhân là Khiên dẫn nhân, Sinh khởi nhân, Định dị nhân, Đồng sự nhân, Bất tương vi nhân và một duyên là Tăng thượng duyên mà đạt được. Nếu là quả Đẳng lưu thì do Khiên dẫn nhân, Sinh khởi nhân, Nhiếp thụ nhân, Dẫn phát nhân, Định dị nhân, Đồng sự nhân, Bất tương vi nhân và hai duyên là duyên đầu tiên và duyên sau cùng mà đạt được. Nếu là quả Ly hệ thì do Nhiếp thụ nhân, Dẫn phát nhân, Định dị nhân, Đồng sự nhân, Bất tương vi nhân và một duyên là Tăng thượng duyên mà đạt được. Nếu là quả Sĩ dụng thì có ý kiên cho rằng do Quán đãi nhân, Nhiếp thụ nhân, Đồng sự nhân, Bất tương vi nhân và một duyên là Tăng thượng duyên mà đạt được. Có ý kiến cho rằng do Khiên dẫn nhân, Sinh khởi nhân, Nhiếp thụ nhân, Dẫn phát nhân, Định dị nhân, Đồng sự nhân, Bất tương vi nhân và, trừ Sở duyên duyên, còn ba duyên mà đạt được. Nếu là quả Tăng thượng thì mười nhân bốn duyên đều có thể đạt được.

Đã bàn luận xong bên lề, giờ đây sẽ đi vào chính luận.

Chủng tử trong bản thức đủ làm ba duyên sinh hiện hành phân biệt, trừ Đẳng vô gián duyên. Nghĩa là chủng tử thân sinh hiện hành là Nhân duyên, và lại là Sở duyên duyên cho Năng duyên. Nếu chủng tử này có sức trợ giúp hoặc không làm chướng ngại, thì đó là Tăng thượng duyên. Việc sinh hiện hành thanh tịnh cũng như vậy.

Hiện hành phân biệt lần lượt chuyển tương vọng nhau, cũng đủ làm ba duyên cho nhau, trừ Nhân duyên. Nghĩa là loài hữu tình, tự tha lần lượt chuyển, đủ làm hai duyên, trừ Đẳng vô gián duyên.

Nhóm tám thức lần lượt tương vọng, nhất định có Tăng thượng duyên, quyết không có Đẳng vô gián duyên. Còn Sở duyên duyên thì hoặc có hoặc không.

Thức thứ tám đối với bảy thức trước thì có. Bảy thức trước đối với thức thứ tám thì không. Bảy thức trước không phải là bản chất cho thức thứ tám nương nhờ. Thức thứ bảy đối với sáu thức trước thì năm thức trước nó không làm Sở duyên duyên cho một thức nào. Còn sáu thức thì không một thức nào làm Sở duyên duyên cho thức thứ bảy. Thức thứ sáu không làm Sở duyên duyên cho năm thức trước. ngược lại năm thức trước làm Sở duyên duyên cho thức thứ sáu. Vì năm thức trước chỉ gá vào tướng phần của thức thứ tám mà thôi.

Các thức tự loại niệm trước đối với niệm sau, nếu là thức thứ sáu thì đủ ba duyên, còn ngoài ra thì trừ Sở duyên thủ hiện cảnh. Nếu chấp nhận kiến phần năm thức niệm sau duyên tướng phần năm thức niệm trước thì năm thức và thức thứ bảy niệm trước đối niệm sau cũng có ba duyên. Bảy thức trước đối với thức thứ tám sở duyên có năng huân thành chủng tử kiến phần và tướng phần nơi thức thứ tám.

Các tâm, tâm sở đồng nhóm khác thể lần lượt chuyển, tương vọng nhau chỉ có Tăng thượng duyên, vì các pháp tương ưng đồng chất không duyên với nhau. Hoặc dựa vào kiến phần mà nói thì kiến phần với kiến phần không duyên nhau. Nếu dựa vào tướng phần mà nói thì có nghĩa duyên với nhau, nghĩa là các tướng phần đắp đổi làm chất cho nhau mà khởi, như chủng tử trong bản thức làm chất cho tâm sở Xúc chẳng hạn. Nếu không như vậy thì ở cõi Vô sắc sẽ không có cảnh. Giả sử ở cõi Vô sắc có biến ra sắc cũng nhất định duyên chủng tử chứ không phải kiến phần vì không đồng chất. Tướng phần đồng thể là hai duyên của kiến phần và làm Tăng thượng duyên cho kiến phần. Kiến phần và tự chứng phần tương vọng nhau cũng vậy. Còn lại hai lần lượt chuyển đều có hai duyên. Trong đây không dựa vào tướng phần chủng tử mà nói, chỉ nói tướng phần hiện hành làm duyên cho nhau.

Nhóm tám thức thanh tịnh tự và tha lần lượt chuyển đều có sở duyên , vì chúng có duyên năng biến. Chỉ trừ kiến phần không phải là Sở duyên duyên của tướng phần, vì tướng phần theo lý không có tác dụng năng duyên.

Đã nói hiện hành phân biệt duyên chủng tử và hiện hành mới sinh khởi thì đúng ra chủng tử cũng duyên hiện hành và chủng tử mới sinh khởi được. Vậy hiện hành đối với chủng tử và chủng tử đối với chủng tử làm mấy duyên?

Chủng tử chắc chắn không do hai duyên trong mà khởi, vì phải chờ tâm, tâm sở khởi lập lên. Nếu hiện hành đối với chính chủng tử của mình thì có đủ hai duyên, còn nếu không phải chính chủng tử của mình thì chỉ có Tăng thượng duyên. Dựa vào sự làm duyên cho nhau mà sinh khởi trong nội thức mà giáo lý phân biệt nhân quả được thành. Nếu chấp là có ngoại duyên thì cũng vô dụng, huống hồ còn trái với giáo lý, sao chấp làm chi?

Trong bài tụng nói “phân biệt” là chỉ chung cho tâm, tâm sở trong ba cõi, nhưng tùy theo nghĩa nào nổi trội hơn nên có nhiều cách nói hiển thị hoặc nói là hai, là ba, là bốn, là năm v.v…như trong Luận đã nói rộng về nghĩa phân biệt.

– Nếu có nội thức không có ngoại duyên thì do đâu hữu tình bị sinh tử tiếp nối?

Tụng nói:

19. Do tập khí các nghiệp,

Cùng tập khí hai thủ.

Dị thục đã hết thì

Sinh thân Dị thục sau.

Luận nói: Các nghiệp có nghiệp phúc, chẳng phải phúc và bất động, tức hữu lậu thiện, bất thiện và tư nghiệp. Các quyến thuộc của nghiệp cũng được gọi tên là nghiệp, vì đồng chiêu cảm hai quả Dị thục là Dẫn và Mãn. Nghiệp này tuy vừa khởi không bao lâu liền diệt, không có nghĩa là có khả năng chiêu cảm quả Dị thục tương lai, nhưng vì nó huân tập vào bản thức thành chủng tử công năng của chính nó, Công năng đó được gọi là tập khí, tức khí phần của nghiệp huân tập thành kết hợp với nghiệp đã qua và hiện tại, nên gọi tập khí. Cứ như thế tập khí lần lượt chuyển, tiếp tục cho đến khi chín muồi thì chiêu cảm quả Dị thục. Đây là một thứ Tăng thượng duyên rất tốt cho quả báo tương lai.

Chấp thủ tướng phần và kiến phần, danh và sắc, tâm và tâm sở, cội gốc và nhánh nhóc, những chấp thủ ấy đều gồm trong hai thủ. Chúng huân thành các công năng trên bản thức đã sinh ra chúng, và được gọi là tập khí hai thủ. Đây chỉ rõ các chủng tử nhân duyên của tâm Dị thục quả và các tâm sở tương ưng với chúng trong đời sau. Trong tụng có nói chữ “Cùng” tức chủng tử nghiệp và chủng tử hai thủ cùng nhau làm duyên xa và gần tương trợ nhau, nhưng nghiệp chiêu sinh rõ rệt hơn nên tụng nói trước.

Nói Dị thục trước, tức quả Dị thục do nghiệp các đời trước của đời trước chiêu cảm.

Nói Dị thục khác, tức quả Dị thục do nghiệp sẽ chiêu cảm ở các đời sau của đời sau.

Tuy sự thụ quả của hai thủ là vô cùng, nhưng sự thụ quả của tập khí nghiệp thì có khi hết. Do tính của quả Dị thục khác nên khó chiêu cảm, còn Đẳng lưu và Tăng thượng thì tính đồng nên dễ chiêu cảm. Do chủng tử các nghiệp chiêu cảm đến đời khác đã chín muồi, mà sự thụ dụng quả Dị thục của thân đời trước đã hết, nên sinh ra quả Dị thục của thân khác và đời khác. Do đó có sinh tử luân hồi vô cùng tận, cần gì phải nhờ ngoại duyên mới tiếp nối được?

Bài tụng này ý nói do nghiệp và hai thủ nên sinh tử luân hồi đều không lìa thức, vì tâm và tâm sở là tính của chúng.

– Lại nữa sinh tử tiếp nối là do các tập khí. Tập khí nói chung có ba thứ:

1. Danh ngôn tập khí. Đó là các pháp hữu vi do mỗi chủng tử riêng biệt đích thân sinh ra.

Danh ngôn có hai:

– Biểu nghĩa danh ngôn, tức những âm thanh phát ra khác nhau diễn tả ý nghĩa.

– Hiển danh ngôn, tức tâm tâm sở có khả năng hiểu biết cảnh.

Tùy theo hai thứ danh ngôn này huân thành chủng tử tạo ra nhân duyên các pháp khác nhau.

2. Ngã chấp tập khí. Đó là chủng tử hư vọng chấp ngã và ngã sở. Tùy theo hai thứ ngã chấp đó huân thành chủng tử khiến hữu tình sinh phân biệt mình và người.

3. Hữu chi tập khí. Đó là chủng tử nghiệp Dị thục, chiêu cảm sinh trong ba cõi.

Hữu chi có hai:

– Hữu lậu thiện, tức nghiệp chiêu cảm các quả báo đáng yêu thích.

– Các nghiệp bất thiện, tức nghiệp chiêu cảm các quả báo không yêu thích.

Tùy theo hai chi đó huân thành chủng tử khiến đưa đến quả Dị thục thiện ác khác nhau.

Nên biết rằng ngã chấp tập khí và hữu chi tập khí là Tăng thượng duyên đối với quả khác nhau.

Tụng này nói “nghiệp tập khí” thì phải biết đó là hữu chi tập khí. Nói “tập khí hai thủ” thì phải biết đó là hai thứ tập khí ngã chấp và danh ngôn.

Do chấp thủ ngã, ngã sở, và chấp thủ danh ngôn mà huân tập thành, nên đều nói là thủ. Còn trong tụng nói chữ “Cùng”, như trước đã giải thích.

– Lại nữa, sinh tử tiếp nối là do Hoặc, Nghiệp và Khổ. Các phiền não phát nghiệp và nhuận sinh gọi là Hoặc. Các nghiệp có khả năng chiêu cảm thân đời sau gọi là Nghiệp. Từ nghiệp sinh ra các khổ gọi là Khổ. Chủng tử của Hoặc, Nghiệp, Khổ đều gọi là tập khí. Hai tập khí trước làm Tăng thượng duyên cho quả báo khổ sinh tử, vì nó giúp cho sự phát sinh các khổ. Còn tập khí thứ ba là nhân duyên đích thân trực tiếp sinh ra khổ. Tụng nói về ba tập khí nên biết như đây. Hoặc và Khổ gọi là thủ, tức năng thủ và sở thủ. Thủ có nghĩa là đắm trước, còn nghiệp thì không được gọi là thủ. Chữ “Cùng” v.v… nghĩa trong các câu khác giống như trước đã giải thích.

Nên biết Hoặc, Nghiệp, Khổ này là bao gồm chung mười hai hữu chi. Nghĩa là từ vô minh đến lão tử, như Luận đã giải thích nhiều.

Nhưng mười hai chi, lược nói có bốn loại:

1. Năng dẫn chi. Đó là vô minh và hành, có khả năng dẫn đến chủng tử của năm quả . Trong đây vô minh chỉ giữ vai trò phát khởi nghiệp thiện ác chính thức chiêu cảm đời sau. Nghiệp thiện ác được phát khởi đó tức là hành. Do đó tất cả nghiệp thuận hiện thụ trợ giúp cho biệt báo tương lai đều không phải hành chi.

2. Sở dẫn chi. Đó là năm thứ chủng thức ở trong bản thức, đích thân sinh ra quả Dị thục tương lai, do hai chi đầu dẫn phát. Trong đây chủng tử thức chính là nhân của bản thức. Trừ ba nhân sau, các nhân còn lại đều thuộc chủng tử của danh sắc. Ba nhân sau, như thứ tự của tên gọi tức ba chủng tử sau. Hoặc chủng tử danh sắc thì gồm chung bcar năm nhân. Trong đó tùy sự nổi trội hơn mà lập bốn thứ kia. Lục nhập với thức, chung riêng cũng vậy.

Tập Luận nói thức cũng là năng dẫn, vì chủng tử nghiệp ở trong thức gọi là thức chi. Còn chủng tử Dị thục thức thì thuộc danh sắc chi. Kinh nói: Thức chi thông cả năng dẫn sở dẫn. Vì nghiệp chủng và thức chủng đều gọi là thức. Thức là chỗ danh sắc nương, không phải thuộc danh sắc.

Năm thức do nghiệp huân tập phát sinh, tuy thật sự là đồng thời mà chủ bạn, chung riêng, hơn kém, nhân quả khác nhau. Cho nên trong các Thánh giáo giả nói là trước sau. Hoặc dựa vào phần vị đương lai hiện khởi mà có thứ tự nên nói có trước sau. Do đó thức v.v… cũng nói hiện hành, nhưng lúc ở trong nhân thì quyết định không có nghĩa hiện hành. Cũng do đó mà nói sinh dẫn đồng thời, nhưng khi đã nhuận sinh hoặc chưa nhuận sinh, chắc chắn không thể nói như thế.

3. Năng sinh chi. Đó là ái, thủ, hữu, tương lai gần là sinh và lão tử. Nghĩa là do mê quả Dị thục bên trong, phát sinh nghiệp chiêu cảm các nghiệp hậu hữu, làm duyên dẫn phát chủng tử năm quả của đương lai sinh lão tử. Rồi lại dựa vào cái mê quả Tăng thượng bên ngoài, và duyên cảnh giới thụ mà phát khởi tham ái, duyên tham ái lại sinh bốn thủ là dục v.v…Ái và thủ hợp lại làm tốt tươi nảy nở chủng tử nghiệp năng dẫn và nhân sở dẫn, rồi chuyển gọi là hữu chi, vì cùng khởi lên quả hậu hữu gần nhất.

Có chỗ chỉ nói nghiệp chủng tử là hữu, vì chính nó có khả năng chiêu cảm quả Dị thục.

Lại có chỗ chỉ nói năm thứ chủng tử là hữu, vì chính nó sinh ra chủng tử thức v.v… trong tương lai.

4. Sở sinh chi. Đó là sinh và lão tử, vì là thứ được sinh gần nhất bởi ái, thủ và hữu. Nghĩa là ở giữa giai đoạn trung hữu đến bản hữu chưa bị suy biến thì đều thuộc về sinh hữu. Các giai đoạn suy biến đều gọi là lão. Thân hoại mạng chung gọi là tử. Lão không nhất định phải ghép chung với tử thành một chi lão tử.

Bệnh sao không phải là một chi? Vì không phổ biến cũng không nhất định nên không lập. Lão tuy không nhất định nhưng phổ biến, nên lập thành một chi với tử. Vì trong các giới thú các loài sinh, trừ kẻ chết non, những kẻ sắp mạng chung đều có hành tướng suy hủ tức lão hóa.

Hỏi: Danh sắc không biến khắp sao lập thành một chi?

Đáp: Vì nó nhất định có, nên lập chi, vì các loài sinh thai, sinh trứng, sinh nơi ảm thấp, khi sáu căn chưa đầy đủ vẫn có danh sắc. Lại chi danh sắc cũng là thứ có biến khắp. Loài hóa sinh có sắc, lúc mới thụ sinh tuy đủ năm căn mà chưa có tác dụng thì chưa gọi là lục nhập chi được. Lại khi mới sinh cõi Vô sắc, tuy chắc chắn có ý căn nhưng không rõ ràng , chưa gọi là ý xứ được.

Do đó Luận nói mười hai hữu chi, tất cả hoặc một phần, vẫn có ở hai cõi trên.

Hỏi: Nếu vậy “ái” không phải có khắp các cõi, sao lập riêng một chi? Vì kẻ sinh cõi ác không ưa nơi đó chăng?

Đáp: Vì ái nhất định có nên lập thành một chi. Người không cầu gì cả thì không có, muốn cầu sinh cõi thiện thì nhất định có ái. Hàng Thánh giả Bất hoàn khi nhuận sinh, tuy không khởi ái, nhưng như có thủ chi, thì nhất định có chủng tử ái. Lại ái cũng biến khắp, như kẻ sinh cõi ác cũng yêu thích cái ngã và cảnh hiện tại của nó. Dựa vào sự không mong muốn làm thân sinh nơi cõi ác mà kinh nói ở đó không có ái, chứ không phải ở đó hoàn toàn không.

Hỏi: Vì sao ở “sở sinh chi” chỉ lập sinh và lão tử, còn ở “ sở dẫn chi” lập riêng thành năm chi là thức v.v…?

Đáp: Vì ngay ở nhân vị khó biết được tướng sai biệt của chúng, nên dựa vào quả vị tương lai mà lập năm chi. Nghĩa là khi tiếp tục sinh tướng thức của nhân hiển rõ nên lập thức chi. Tiếp đó khi các căn chưa đầy đủ mà tướng danh sắc tăng rõ. Đến khi các căn đầy đủ thì tướng lục nhập rõ ràng thịnh mãn. Rồi từ đó phát xúc, nhân xúc khởi thụ. Bấy giờ mới gọi là thụ quả hoàn toàn. Dựa vào quả này mà lập thành năm nhân.

Ở quả vị có tướng sai biệt dễ rõ, nên lập chung làm hai chi để làm rõ ba khổ. Nhưng quả được sinh, nếu ở vị lai thì vì muốn khiến loài hữu tình sinh tâm nhàm chán, nên nói hai chi sinh và lão tử. Nếu đến hiện tại thì vì muốn khiến loài hữu tình biết rõ phần vị tương lai, nên nói năm chi là thức v.v…

Hỏi: Tại sao về phát nghiệp thì lập chung một chi vô minh, còn trong nhuận nghiệp vị thì lập riêng ái và thủ?

Đáp: Tuy các phiền não đều có thể phát nhuận, nhưng trong phát nghiệp vị thì sức vô minh tăng mạnh, do có đủ mười một thứ vượt trội. Đó là sở duyên v.v…như trong kinh đã nói rộng rãi. Còn trong nhuận nghiệp vị thì có ái lực tăng hơn. Ái ví như nước có sức thấm ướt. Phải tưới ướt mới nảy mầm của “hữu” , và dựa vào ái lúc đầu, ái lúc sau mà chia hai là ái và thủ. Để không phát sinh nghĩa trùng lặp nên chỉ có một chi “vô minh”. Tuy trong chi “thủ” thâu gồm các phiền não, nhưng ái mạnh nên nói ái.

Các chi duyên khởi đều y nơi tự địa. Nhưng cũng có sự phát sinh ra hành y nơi vô minh ở tha địa, như vô minh ở hạ địa phát sinh chi hành ở cõi trên. Không như vậy thì kẻ lúc mới dẹp được ô nhiễm ở hạ địa khởi định ở thượng địa, không phải là khởi “hành” đó sao? Vì vô minh ở thượng địa kia khi đó còn chưa khởi.

Người từ thượng địa sinh hạ địa, hay từ hạ địa sinh thượng địa thì duyên thụ nào mà khởi ái? Ái kia cũng duyên với thụ ở nơi sắp sinh, hoặc duyên với thụ hiện hành hay thụ chủng tử đều không trái lý.

Mười hai chi ấy, trong đó mười chi là nhân và hai chi là quả, nhất định không đồng thời. Trong mười chi nhân, bảy chi và ái, thủ, hữu thì hoặc đồng thời hoặc không đồng thời. Nếu hai chi, ba chi và bảy chi thì mỗi mỗi đều đồng thời.

Như vậy mười hai chi tạo thành một lớp nhân quả đủ nói rõ tính cách luân hồi và lìa chấp đoạn thường. Giả sử có lập hai lớp nhân quả cũng thật vô dụng. Nếu lập hơn đây sẽ thành vô cùng.

– Mười hai chi này phân biệt theo nghĩa môn thì có chín thật ba giả. Vì sáu chi đã được nhuận hợp nên gọi là “hữu”. Tức năm chi là thức v.v…mà có ba tướng là sinh v.v… khác nhau.

– Năm chi là cùng một sự. Nghĩa là vô minh, thức, xúc, thụ, ái là cùng một sự, còn các chi khác không cùng.

– Ba chi là nhiễm vì tính của chúng là phiền não. Bảy chi kia chỉ không nhiễm vì là quả Dị thục. Trong bảy phần vị có thể khởi nhiễm cho nên giả nói thông cả hai, còn bao nhiêu là thông cả hai thứ.

-Vô minh, ái và thủ là tướng riêng không xen lẫn các chi khác, ngoài ra các chi khác là tướng xen tạp.

– Sáu chi chỉ là phi sắc, các chi kia thông cả sắc và phi sắc. Nghĩa là vô minh, thức, xúc, thụ, ái, thủ là phi sắc, còn lại thông cả hai thứ.

– Tất cả mười hai chi là hữu lậu nên chỉ thuộc về hữu, vì vô lậu vô vi không phải là hữu chi.

– Vô minh, ái, thủ chỉ thông tính bất thiện và hữu phú vô ký. Hành chỉ có tính thiện ác. Hữu thông thiện, ác và vô phú vô ký. Ngoài ra bảy chi là vô phú vô ký. Trong bảy phần vị đó cũng có khởi thiện nhiễm.

– Tuy mười hai chi thông cả ba cõi nhưng toàn đủ hoặc chỉ có một phần.

– Hành chi của thượng địa có thể dẹp phiền não hạ địa. Tức là vì sáu thứ hành tướng là thô, khổ v.v…nên khởi “hành chi” cầu sinh cõi trên.

– Tất cả mười hai chi không phải chỗ khởi tâm của Thánh giả bậc hữu học, vô học, vì duyên hữu lậu thiện nghiệp là trái với hữu chi, không thuộc hữu chi. Do đó nên biết rằng bậc Thánh không còn tạo các nghiệp chiêu cảm thân hậu hữu, đã không còn mê cầu khổ quả đời sau. Nhưng tu thêm tĩnh lự để trợ giúp nghiệp cũ được sinh về trời Tịnh Cư v.v…như thế cũng không trái lý.

– Có ý kiến cho rằng vô minh chỉ thuộc kiến sở đoạn, phải mê đế lý mới phát sinh hành động. Bậc Thánh ắt không tạo nghiệp hậu hữu. Ái và thủ hai chi chỉ thuộc tu sở đoạn, vì do tham cầu đời sau mà có nhuận sinh. Vì chín thứ tâm khởi lúc mạng chung đều cùng khởi với câu sinh ái. Ngoái ra chín thứ đều thông kiến sở đoạn và tu sở đoạn.

Có ý kiến cho rằng tất cả đều thông cả hai kiến tu đoạn. Vì Luận nói: Quả Dự lưu đã đoạn tất cả, một phần hữu chi chứ không hoàn toàn đoạn hết. Nếu vô minh chi chỉ thuộc kiến sở đoạn thì tại sao nói Dự lưu không hoàn toàn đoạn hết? Nếu ái, thủ, hữu chỉ thuộc tu sở đoạn thì tại sao nói Dự lưu đã đoạn một phần tất cả các chi? Lại nói tất cả phiền não trong toàn một cõi đều có thể kết sinh. Lại nói các hành động đưa đến cõi ác chỉ do phân biệt khởi phiền não phát sinh, không nói nhuận sinh chỉ do tu sở đoạn, cũng không nói các hành động chiêu cảm đời sau đều do kiến sở đoạn phát sinh. Do đó nên biết vô minh, ái, thủ ba chi cũng thông cả kiến tu sở đoạn. Nhưng chính vô minh chi phát sinh “hành” nên chỉ có kiến sở đoạn. Việc nó trợ giúp phát sinh hành nghiệp các thú khác thì không nhất định. Hai chi ái và thủ, nếu chính là nhuận sinh thì chỉ tu sở đoạn, còn việc giúp cho nhuận sinh thì không nhất định.

Lại pháp nhiễm ô tự tính nên đoạn, vì khi khởi đối trị nó sẽ bị đoạn hẳn. Còn tự tính của pháp hữu lậu không nhiễm ô thì không nên đoạn vì không trái với đạo phẩm. Nhưng nói đoạn có hai nghĩa: Một là vì ly phược, nghĩa là đoạn các phiền não duyên theo pháp hữu lậu và xen lộn với pháp hữu lậu. Hai là vì bất sinh, nghĩa là đoạn chỗ nương của pháp hữu lậu khiến vĩnh viễn không khởi.

Dựa vào nghĩa ly phược đoạn mà nói thì hữu lậu thiện và vô phú vô ký chỉ do tu sở đoạn. Dựa vào bất sinh đoạn mà nói thì các ác thú, vô tưởng định v.v… chỉ do kiến sở đoạn. Nói mười hai chi thông cả kiến và tu sở đoạn thì nên hiểu như các cách đoạn đã nói ở trước.

– Mười chi tương ưng với lạc thụ và xả thụ, vì chi thụ không tương ưng với thụ. Trong chi lão tử phần nhiều không có lạc thụ , xả thụ. Chi mười một tương ưng với khổ, vì không tương ưng với thụ. Một phần của chi mười một thuộc hoại khổ.

– Mười hai chi, một phần ít thuộc về khổ, vì trong tất cả chi đều có khổ thụ. Toàn phần mười hai chi đều thuộc về hành khổ, vì các pháp hữu lậu đều là hành khổ. Chi mười một có một phần theo xả thụ, trừ chi lão tử thuộc về hoại khổ. Thật nghĩa là như vậy, nhưng trong các Thánh giáo tùy theo tướng của nó tăng mà nói nên không nhất định.

– Tất cả các chi đều thuộc Khổ đế vì chúng có tính thủ uẩn. Năm chi cũng thuộc về Tập đế, vì nó có tính phiền não.

– Các chi tương vọng nhau nhất định có duyên Tăng thượng. Còn ba duyên kia hoặc có hoặc không, không nhất định. Khế kinh y theo nghĩa nhất định nói chỉ có một duyên. Ái tương vọng với thủ, hữu tương vọng với sinh, có nghĩa là làm nhân duyên cho nhau. Nếu nói thức chi là nghiệp chủng thì hành chi đối với thức cũng có nghĩa làm nhân duyên cho nhau. Các chi khác đối với nhau nhưng không có nghĩa làm nhân duyên cho nhau. Nhưng trong Tập Luận có nói vô minh đối với hành có nghĩa nhân duyên, đó là nói lúc vô minh có nghiệp tập khí. Vì nghiệp ấy tương ưng với vô minh nên giả nói là vô minh, chứ thật ra là hành chủng.

Luận Du-già nói: Các chi đối nhau không có nghĩa nhân duyên, tức là đây y theo ái , thủ hiện hành mà nói chỉ có nghiệp chủng mới có. Vô minh đối với hành, ái đối với thủ, sinh đối với lão tử có hai duyên. Hữu đối với sinh, thụ đối với ái, chỉ có Sở duyên duyên, không có Đẳng vô gián duyên. Các chi khác đối với nhau đều không có hai duyên.

Trong đây là y theo thứ tự lân cận không tạp loạn mà nói nghĩa thật duyên khởi. Khác với đây, các chi đối nhau có làm duyên cho nhau là không nhất định. Người thông tuệ nên suy nghĩ đúng như lý.

– Ba thứ hoặc, nghiệp, khổ gồm trọn mười hai chi. Vô minh, ái, thủ thuộc về hoặc. Hành có một phần thuộc về nghiệp. Bảy chi có một phần thuộc về khổ.

Có chỗ nói nghiệp là hoàn toàn thuộc về hữu, nên biết đó là y theo nghiệp hữu mà nói.

Có chỗ nói thức thuộc về nghiệp, đó là lấy nghiệp chủng làm thức chi mà nói.

Kết quả do hoặc, nghiệp chiêu cảm riêng gọi là khổ, vì chỉ thuộc về Khổ đế, vì sinh ra nhàm chán. Do hoặc, nghiệp, khổ tức mười hai chi nên có khả năng làm cho sinh tử tiếp nối.

Lại nữa, sự sinh tử tiếp nối là do nhân duyên bên trong chứ không đợi duyên bên ngoài cho nên nói duy chỉ có thức.

Nhân nghĩa là hai nghiệp hữu lậu vô lậu chính thức chiêu cảm sinh tử nên gọi là nhân. Duyên là hai chướng phiền não và sở tri trợ giúp việc chiêu cảm sinh tử nên gọi là duyên.

Sở dĩ vì sao? Là vì sinh tử có hai thứ:

1. Phân đoạn sinh tử. Là sự sống chết do các nghiệp hữu lâu thiện và bất thiện, được thế lực của phiền não chướng trợ giúp mà chiêu cảm quả Dị thục thô hiển trong ba cõi. Thân mạng có thọ yểu tùy sức nhân duyên mà có hạn định nên gọi là phân đoạn.

2. Bất tư nghị biến dịch sinh tử. Đó là cái sinh tử do các nghiệp vô lậu có phân biệt, được các thế lực của Sở tri chướng làm trợ duyên giúp chiêu cảm quả Dị thục vi tế thù thắng. Do sức bi nguyện mà thân mạng chuyển đổi không hạn định nên gọi là biến dịch. Đây chính là do định vô lậu làm trợ duyên, giúp chiêu cảm, diệu dụng khó lường nên gọi là bất tư nghị.

Thân biến dịch sinh tử gọi là ý thành thân, hay ý sinh thân, nghĩa là tùy ý nguyện mà thành thân.

Như khế kinh nói: Do lấy thủ làm duyên, nghiệp hữu lậu làm nhân mà tiệp tục có thân sau sinh vào trong ba cõi. Cũng như vậy, do vô minh tập địa làm duyên, nghiệp vô lậu làm nhân mà có ba hạng ý thành thân là A-la-hán, Độc giác và Tự tại Bồ-tát. Các thân đó cũng gọi là biến hóa thân do định lực vô lậu chuyển biến thành khác, như biến hóa vậy.

Hỏi: Như có Luận nói hàng Thanh văn vô học đã vĩnh viễn dứt hẳn thân hậu hữu, làm sao có thể chứng vô thượng Bồ-đề?

Đáp: Y vào biến hóa thân chứng vô thượng giác, không phải y vào thân nghiệp báo nên không trái lý.

Hỏi: Nếu sở tri chướng làm duyên trợ giúp nghiệp vô lậu có thể chiêu cảm sinh tử thì hàng Nhị thừa định tính không thể vĩnh viễn nhập vô dư Niết-bàn?

Đáp: Đây cũng như hạng Dị sinh bị phiền não buộc ràng.

– Làm sao Đạo đế lại thật sự có thể chiêu cảm quả khổ?

– Ai bảo thật sự có chiêu cảm?

– Nếu không như vậy thì thế nào?

– Do định vô lậu trợ giúp cho nghiệp hữu lậu khiến quả đạt được tiếp tục lâu dài, lần lượt rồi vượt hơn mà giả gọi là chiêu cảm đó thôi. Như vậy khi chiêu cảm là do sở tri chướng làm duyên để trợ lực chứ không phải riêng sở tri chướng có thể chiêu cảm.

Hỏi: Nhưng sở tri chướng không làm chướng ngại giải thoát, vì nó không có tác dụng phát nghiệp nhuận sinh, cần gì nhờ để chiêu cảm khổ báo sinh tử?

Đáp: Vì để tự chứng Bồ-đề lợi lạc quần sinh. Nghĩa là hàng Thanh văn, Độc giác bất định tính và hàng Bồ-tát đắc tự tại đại nguyện đã vĩnh viện đoạn phiền não không còn thụ thân phân đoạn đời sau, nhưng vì sợ phế bỏ hạnh Bồ-tát thời gian lâu, nên dùng nguyện lực vô lậu thắng định, như phép kéo dài tuổi thọ trợ giúp nghiệp nhân hiện tại khiến quả báo hiện thân không dứt. Cứ nhiều lần như vậy do định và nghiệp trợ giúp để tu hành cho đến khi chứng được vô thượng Bồ-đề.

Hỏi: Như vậy các vị ấy đâu cần trợ giúp của sở tri chướng?

Đáp: Vì chưa chứng đầy đủ vô tướng đại bi, nếu không có sở tri chướng chấp Bồ-đề và hữu tình là thật có thì không do đâu phát khởi tâm bi nguyện mãnh liệt. Lại sở tri chướng làm chướng ngại đại Bồ-đề, vì muốn vĩnh viễn đoạn trừ nên nó lưu thân lại lâu dài. Lại sở tri chướng là chỗ nương của pháp hữu lậu, chướng này nếu không thì pháp hữu lậu nhất định không có. Cho nên sở tri chướng có trợ lực lớn đối với thân sống lâu.

Nếu thân lưu lại lâu dài là do định và nguyện lực hữu lậu trợ giúp thì thân ấy thuộc thân phân đoạn sinh tử, vì đó là cảnh sở tri của hàng Nhị thừa và Dị sinh. Nếu do định và nguyện vô lậu trợ giúp thì thân ấy thuộc thân biến dịch sinh tử, vì đó không phải cảnh giới của Nhị thừa và Dị sinh.

Do đó nên biết rằng tính của biến dịch sinh tử là hữu lậu thì thuộc vào Dị thục quả, đối với vô lậu nghiệp thì đó là Tăng thượng quả. Trong Thánh giáo có chỗ nói do vô lậu mà ra khỏi ba cõi. Đó là tùy theo nghiệp vô lậu làm trợ nhân mà nói.

Trong bài tụng nói “Tập khí các nghiệp” tức chủng tử hai nghiệp hữu lậu và vô lậu vừa được nói, còn “tập khí hai thủ” chính là chủng tử hai chướng phiền não và sở tri vừa được nói. Vì cả hai đều là chấp trước. Các văn khác trong tụng đã có giải như trước.

Biến dịch sinh tử tuy không phân chia từng giai đoạn Dị thục trước sau khác nhau, nhưng do định lực trợ giúp chuyển đổi trước sau nên cũng có nghĩa dứt rồi lại sinh. Tuy cũng do hiện hành sinh tử tiếp tục mà chủng tử nhất định là có, nên Tụng chỉ thiên nói về điểm này.

Hoặc để hiển thị nhân và quả chân Dị thục đều không lìa bản thức nên không nói hiện hành.

Dị thục nhân hiện hành không cho quả tức thời, còn các chuyển thức thì gián đoạn, không phải Dị thục.

Trong ba giai đoạn trước giữa và sau của sinh tử luân hồi chỉ do nội thức mà không phải chờ duyên bên ngoài. Sự tương tục của các tịnh pháp cũng giống như vậy. Nghĩa là từ vô thủy đến nay, chủng tử vô lậu vốn nương gá nơi bản thức, do các chuyển thức thường thường huân tập, dần dần phát sinh tăng trưởng cho đến khi cứu cánh thành Phật thì chuyển bỏ chủng tử thức tạp nhiễm xưa nay, bắt đầu khởi chuyển chủng tử thức thanh tịnh, cứ như vậy mà duy trì tất cả chủng tử công đức. Do sức bản nguyện khởi các diệu dụng cho đến vị lai tương tục vô cùng.

Do đó biết rằng chỉ có nội thức.

– Nếu chỉ có thức, tại sao trong kinh nhiều nơi Thế Tôn nói có ba tính?

– Nên biết rằng ba tính cũng không lìa thức. Bởi vì sao?

Tụng nói:

20. Do các thứ Biến kế,

Biến kế nhiều thứ vật.

Biến kế sở chấp này,

Toàn không có tự tính.

21. Tự tính Y tha khởi,

Do duyên phân biệt sinh.

Viên thành thật nơi đó,

Thường xa lìa tính trước.

22. Nên đây cùng Y tha,

Chẳng khác, chẳng không khác.

Như các tính vô thường,

Thấy đây mới thấy kia.

Luận nói: So đo chấp trước cùng khắp, mọi thứ gọi là Biến kế. Phẩm loại của Biến kế rất nhiều, nên nói “các thứ”. Nghĩa là khả năng so đo , hư vọng phân biệt. Tức là do các hư vọng phân biệt chấp trước khắp tất cả mọi vật bị nó chấp trước. Các thứ vọng chấp là uẩn, xứ, giới v.v…cho là ngã, pháp, tự tính, sai biệt. Cái bị vọng chấp tư tính sai biệt này gọi chung là Biến kế sở chấp tự tính. Cái tự tính đó hoàn toàn không có. Đem giáo và lý ra suy xét thì thấy không thể có được.

Hoặc câu tụng đầu nói về thức năng biến kế. Câu thứ hai nói về cảnh sở biến kế. Nửa phần bài tụng sau mới nói rõ Biến kế sở chấp là hoặc ngã, hoặc pháp đều không có tự tính. Trước đã nói rõ là không thể có được.

– Trước hết tự tính của năng biến kế là thế nào?

Có ý kiến cho rằng tám thức và các tâm sở hữu lậu đều là Năng biến kế, vì tự tính nó là hư vọng phân biệt, tất cả hiện ra tương tự như sở thủ năng thủ. Lại nói A-lại-da lấy các chủng tử vọng chấp về tự tính của Biến kế sở chấp làm sở duyên.

Có ý kiến cho rằng tâm phẩm thức thứ sáu, thức thứ bảy chấp ngã pháp đó mới là Năng biến kế. Chỉ nói ý thức là Năng biến kế vì ý và ý thức đều gọi là ý thức, vì kế đạc phân biệt là Năng biến kế, vì chấp ngã pháp ắt là tuệ, vì hai chấp ắt cùng khởi với vô minh, vì không nói vô minh có tính thiện, vì si vô si không tương ưng nhau, vì không thấy người có chấp thủ mà dẫn đến không trí, vì chấp hữu chấp vô không cùng khởi được, vì chưa từng có sự chấp nào mà không phải năng huân. Vì tâm hữu lậu v.v…không chứng được thật lý nên tất cả đều gọi là hư vọng phân biệt. Tuy tựa như tướng sở thủ năng thủ hiện ra nhưng không phải tất cả đều là Năng biến kế. Chớ bảo tâm vô lậu cũng có chấp, nói vậy thì trí hậu đắc của Như Lai cũng có chấp sao?

Kinh nói Phật trí hiện thân và cõi nước v.v…các thứ như ảnh tượng trong gương. Nếu không có cái dụng của duyên thì không phải trí. Tuy nói tàng thức duyên chủng tử của Biến kế nhưng không nói “duy” cho nên không phải chứng minh đúng. Do lý lẽ đó mà chỉ tâm phẩm thứ sáu và thứ bảy là có tính Năng biến kế.

Thức phẩm tuy có hai mà Biến kế thì có hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười v.v…không đồng nhau nên Tụng nói “các thứ”.

– Tiếp đến là Sở biến kế, tự tính như thế nào?

Luận Nhiếp Đại Thừa nói đó là Y tha khởi, là Sở duyên duyên của các tâm Biến kế.

Hỏi: Tính Viên thành thật sao không phải là cảnh sở duyên của Biến kế?

Đáp: Vì chân tính không phải cảnh sở duyên của vọng chấp. Nếu theo nghĩa lần lượt chuyển mà nói thì nó cũng là Sở biến kế. Biến kế sở chấp tuy là cảnh của kia, nhưng không phải là Sở duyên duyên, cho nên không phải là Sở biến kế.

– Tướng của Biến kế sở chấp như thế nào? Có gì khác với Y tha khởi?

Có ý kiến cho rằng tâm và tâm sở trong ba cõi do hư vọng từ vô thủy huân tập. Tuy thể là một mà sinh ra tựa như hai, đó là kiến phần tướng phần, tức năng thủ sở thủ. Hai phần đó, về tình thì có, về lý thì không. Tướng của chúng gọi là Biến kế sở chấp. Sở y của chúng, thể thì thật mà nương tựa vào duyên sinh, tính là không phải không, nên gọi Y tha khởi, vì do duyên hư vong phân biệt mà sinh ra.

Làm sao biết?

Vì trong các Thánh giáo nói: Hư vọng phân biệt là Y tha khởi. Còn hai thủ thì gọi là Biến kế sở chấp.

Có ý kiến cho rằng tất cả tâm, tâm sở do sức huân tập biến ra hai phần kiến và tướng, hai phần này là do duyên sinh, cũng là Y tha khởi. Biến kế y vào đó vọng chấp nhất định là thật, là có là không, là một là khác, là cùng là không cùng v.v…có hai phân biệt này mới gọi là Biến kế sở chấp. Vì trong các Thánh giáo nói duy lượng, duy nhị, duy chủng chủng, đều gọi là Y tha khởi.

Lại bốn pháp là tướng v.v…, mười một thức v.v… Luận nói đều thuộc Y tha khởi. Nếu không như vậy thì hai phần kiến và tướng của hậu đắc trí vô lậu phải gọi là Biến kế sở chấp. Và Thánh trí phải không duyên kia sinh, hoặc duyên kia nhưng không phải Đạo đế. Nếu không chấp nhận thì hữu lậu cũng vậy.

Lại nếu hai phần kiến tướng là Biến kế sở chấp thì cũng như sừng con thỏ, không phải là Sở duyên duyên, vì thể của Biến kế sở chấp là không thật có.

Lại hai phần kiến tướng không huân thành chủng tử thì các thức sau sinh ra sẽ không có hai phần.

Lại các tập khí thuộc trong tướng phần lẽ nào không phải là pháp thật có, có khả năng làm nhân duyên. Nếu tướng kiến trong nội thức là do duyên sinh không phải Y tha khởi thì thức thể làm chỗ nương cho kiến và tướng cũng như thế, vì nguyên nhân hai bên không khác nhau.

Do lý lẽ đó thể của tâm, tâm sở làm cho các duyên sinh ra, và tướng phần kiến phần, hữu lậu vô lậu đều là Y tha khởi, vì dựa vào các duyên mà được sinh khởi.

Tụng nói “Do duyên phân biệt sinh” , nên biết đó là để chỉ về phần nhiễm của Y tha, còn phần tịnh của Y tha là Viên thành thật.

Hoặc các tâm, tâm sở nhiễm tịnh đều gọi là phân biệt vì có khả năng duyên lự, thì tất cả nhiễm tịnh y tha đều thuộc vào trong Y tha khởi này.

Thật tính của các pháp thành tựu viên mãn do hai không hiển lộ gọi là Viên thành thật, thể tính của nó phổ biến khắp cả, thường còn không hư dối, khác với tự cộng tướng, hư không ngã v.v…

Pháp hữu vi vô lậu, cứu cánh lìa điên đảo, có công dụng thù thắng biến khắp cũng được gọi tên này. Nhưng nay trong Tụng là nói nghĩa đầu chứ không phải nghĩa sau. Đây tức là nói trên Y tha khởi kia thường xa lìa tính Biến kế sở chấp trước đó. Tính của nó là Chân như được hai không làm hiển lộ. Trong Tụng nói “nơi đó” là để nói rõ rằng tính Viên thành thật với tính Y tha khởi là chẳng tức chẳng ly, nói “Thường xa lìa” là làm rõ cái vọng chấp năng thủ sở thủ, tính lý của nó là phi hữu, nói chữ “trước” là biểu thị không có Biến kế, chứ không phải không có Y tha, nói chữ “tính” có nghĩa biểu thị hai không, chứ chẳng phải Viên thành thật, vì tính của Chân như là lìa hữu lìa vô.

Do lý lẽ trên, Viên thành thật này với Y tha khởi kia chẳng phải khác chẳng phải không khác. Khác thì Chân như chẳng phải tính của Y tha khởi kia. Không khác thì tính của Chân như này là vô thường. Y tha kia và Chân như này đều là cảnh tịnh phi tịnh thì căn bản trí và hậu đắc trí không có công dụng khác nhau.

Thế nào là hai tính chẳng phải khác chẳng phải một?

Như trong tính vô thường vô ngã kia v.v…, tính vô thường v.v…khác với các pháp hành v.v…thì các pháp kia chẳng phải vô thường, nếu không khác thì tính vô thường này không phải tướng chung của các pháp kia.

Do thí dụ đó, rõ ràng Viên thành thật này với Y tha khởi kia chẳng phải một, chẳng phải khác. Pháp và pháp tính, lý phải như thế.

Thắng nghĩa và thế tục đối đãi mà có. Không thể không chứng thấy Viên thành thật này mà có thể thấy tính Y tha khởi kia. Vì chưa đạt tới tính Biến kế sở chấp là không, thì không thể biết như thật, tính Y tha khởi là có.

Trí vô phân biệt sau khi chứng Chân như, trí hậu đắc mới có thể liễu đạt tính Y tha khởi là như huyễn.

Tuy từ vô thủy đến nay, tâm, tâm sở pháp đã có thể duyên tướng phần kiến phần của chính mình, nhưng cái chấp ngã pháp thường tương ưng với nó, cho nên không biết được như thật là do các duyên dẫn dắt tâm, tâm sở hư vọng biến hiện ra. Giống như trò ảo thuật, như sóng nắng, như cảnh trong chiêm bao, như ảnh tượng trong gương, như bóng sáng, như tiếng vang trong hang sâu, như mặt trăng dưới nước, đều do biến hóa thành ra chẳng phải thật có mà tựa như có. Y như nghĩa đó, có bài tụng như sau:

Nếu không thấy Chân như,

Không thấy được các hành.

Tất cả như ảo thuật,

Tuy có chẳng thật có.

Trong bài tụng này ý nói ba thứ tự tính đều không lìa tâm, tâm sở pháp. Nghĩa là tâm, tâm sở pháp và các thứ biến hiện đều do duyên sinh, giống như trò ảo thuật, chẳng có mà như có dối gạt người không biết. Tất cả những thứ đó đều gọi là Y tha khởi tính. Người không biết đối với các thứ biến hiện đó vọng chấp ngã pháp, chấp có chấp không, chấp cho là một cho là khác, cho là cùng hoặc không cùng v.v… Giống như hoa đốm trong không trung, tính tướng đều không có. Tất cả các chấp trước đó đều gọi là Biến kế sở chấp.

Các vọng chấp ngã pháp dựa trên Y tha khởi kia đều sạch không, thì cái không đó hiển lộ chân tính của thức và được gọi là Viên thành thật. Vì vậy cho nên ba tính này là không lìa tâm.

Hỏi: Hư không vô vi, trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi thuộc tính nào trong ba tính trên?

Đáp: Đều thuộc cả ba. Tâm, tâm sở biến ra tựa như tướng hư không, tùy tâm sinh nên thuộc tính Y tha khởi. Người không biết vọng chấp tướng đó là thật có, đó là tính Biến kế sở chấp. Nếu từ Chân như giả đặt ra có hư không, trạch diệt, phi trạch diệt, đó là thuộc tính Viên thành thật. Tâm hữu lậu v.v…nhất định thuộc Y tha. Tâm vô lậu v.v…thuộc hai tính. Do duyên sinh nên thuộc Y tha. Do không điên đảo nên thuộc tính Viên thành thật.

Ba tính đó cùng bảy chân như, nhiếp thuộc nhau như thế nào?

Bảy Chân như là:

  1. Lưu chuyển chân như. Nghĩa là thật tính lưu chuyển của pháp hữu vi.
  2. Thật tướng chân như. Tức thật tính được hiển lộ bởi hai vô ngã.
  3. Duy thức chân như. Tức thật tính của pháp nhiễm tịnh là duy thức.
  4. An lập chân như. Tức thật tính của Khổ đế.
  5. Tà hạnh chân như. Tức thật tính của Tập đế.
  6. Thanh tịnh chân như. Tức thật tính của Diệt đế.
  7. Chính hạnh chân như. Tức thật tính của Đạo đế.

Bảy thật tính này thuộc Viên thành thật, vì là cảnh giới của căn bản trí và hậu đắc trí. Tùy sự thuộc vào nhau mà ba thứ trước là lưu chuyển, khổ và tập thuộc vào hai tính, do vọng chấp tạp nhiễm. Bốn thứ còn lại đều thuộc tính Viên thành thật.

Ba tính và sáu pháp thuộc vào nhau như thế nào?

Trong sáu pháp kia có đủ cả ba tính. Sắc, thụ, tưởng, hành, thức và vô vi đều có vọng chấp, duyên sinh và thật lý.

Ba tính và năm sự thuộc vào nhau như thế nào?

Trong các Thánh giáo nói sự thuộc vào đâu không nhất định. Nghĩa là có chỗ nói Y tha khởi thuộc tướng, danh, phân biệt và chính trí. Tính Viên thành thật thuộc Chân như. Biến kế sở chấp không thuộc năm sự.

Đây nói tâm, tâm sở pháp hữu lậu biến hiện ra các tướng tương tự tướng sở thuyên nên gọi là tướng, biến ra các tướng tương tự tướng năng thuyên gọi là danh. Tâm năng biến là phân biệt. Tâm vô lậu xa lìa hý luận gọi chung là chính trí chứ không gọi năng thuyên sở thuyên. Cả bốn sự đều từ duyên sinh nên thuộc Y tha khởi.

Hoặc có chỗ nói Y tha khởi thuộc tướng và phân biệt. Biến kế sở chấp thuộc về danh. Chính trí và Chân như thuộc Viên thành thật. Cũng nói tướng phần của tâm, tâm sở hữu lậu gọi là tướng, ngoài ra gọi là phân biệt. Biến kế sở chấp đều không thật thể cho nên rõ ràng là phi hữu, giả gọi là danh. Hai thứ không điên đảo nên thuộc Viên thành thật.

Hoặc có chỗ nói tính Y tha khởi chỉ thuộc về phân biệt. Biến kế sở chấp thuộc tướng và danh. Chính trí và Chân như thuộc Viên thành thật. Đây nói tướng phần kiến phần của tâm, tâm sở hữu lậu gọi chung là phân biệt, vì tự tính của chúng là hư vọng phân biệt. Biến kế sở chấp năng thuyên, sở thuyên, theo vong tình lập làm hai sự là danh và tướng.

Lại có chỗ nói danh thuộc tính Y tha khởi, nghĩa thuộc tính Biến kế sở chấp. Đây nói tướng phần, kiến phần của tâm, tâm sở hữu lậu do thế lực của danh mà thành Sở biến kế, nên gọi là danh. Biến kế sở chấp là chấp theo danh chứ không có thật thể, nên giả lập là nghĩa.

Trong các Thánh giáo có nói năm sự, tuy văn khác nhau mà không trái nghĩa. Nhưng trong các thuyết trên, nên biết thuyết đầu không tạp loạn, như được nói rộng trong Luận Du- già.

Lại trong Thánh giáo có nói năm tướng vậy với ba tính chúng tùy thuộc như thế nào?

Tướng năng thuyên sở thuyên đều đủ ba tính. Nghĩa là vọng kế sở chấp thuộc tính đầu tiên. Tướng, danh và phân biệt thì tùy thích ứng sở thuyên năng thuyên mà thuộc Y tha khởi. Chân như và chính trí thì tùy sự thích ứng năng thuyên sở thuyên mà thuộc về tính Viên thành thật, vì do trí hậu đắc biến ra tựa như tướng năng thuyên. Hai tướng tùy thuộc lẫn nhau chỉ thuộc về tính đầu tiên, vì vọng chấp nghĩa và danh nên nhất định chúng tùy thuộc lẫn nhau. Tướng chấp trước kia chỉ thuộc Y tha khởi, vì lấy hư vọng phân biệt làm tự tính. Tướng không chấp trước chỉ thuộc Viên thành thật, vì lấy trí vô lậu v.v… làm tự tính.

Lại trong Thánh giáo có nói bốn chân thật, vậy với ba tính chúng tùy thuộc như thế nào?

Hai chân thật là thế gian chân thật và đạo lý chân thật thuộc Y tha khởi vì gồm trong ba sự.

Hai chướng tịnh chân thật thuộc Viên thành thật vì gồm trong hai sự.

Luận Biện Trung Biên nói: Cái chân thật đầu tiên chỉ thuộc tính đầu tiên, vì tất cả đều chấp. Cái chân thật thứ hai thuộc chung cả ba tính, vì đạo lý thông cả có chấp, không chấp, tạp nhiễm hay thanh tịnh. Hai chân thật sau cùng chỉ thuộc tính thứ ba.

Ba tính và Bốn đế thuộc vào nhau như thế nào?

Trong Bốn đế mỗi đế đều đủ ba tính. Như trong Khổ đế, vô thường v.v… bốn thứ đều có đủ ba tính.

Vô thường có ba:

  1. Vô tính vô thường, vì không có tính thường.
  2. Khởi tận vô thường, vì có sinh diệt.
  3. Cấu tịnh vô thường, vì địa vị chuyển biến.

Khổ có ba:

  1. Sở thủ khổ, vì sự chấp thủ dựa vào hai chấp ngã và pháp.
  2. Sự tướng khổ, vì có ba tướng khổ.
  3. Hòa hợp khổ, vì hợp các tướng khổ.

Không có ba:

  1. Vô tính không, vì tính không là chẳng phải có.
  2. Dị tính không, vì tính không, khác với tính vọng chấp.
  3. Tự tính không, vì tự tính được hiển lộ từ hai không.

Vô ngã có ba:

  1. Vô tướng vô ngã, vì không có tướng ngã.
  2. Dị tướng vô ngã, vì khác với tướng ngã của vọng sở chấp.
  3. Tự tướng vô ngã, vì lấy cái vô ngã hiển lộ làm tự tướng.

Tập đế có ba:

  1. Tập khí tập, tức là chấp tập khí của Biến kế sở chấp làm tự tính, chấp tập khí đó giả lập làm tên.
  2. Đẳng khởi tập, tức nghiệp và phiền não.
  3. Vị ly hệ tập, tức Chân như chưa lìa chướng.

Diệt đế có ba:

  1. Tự tính diệt, vì tự tính là không sinh.
  2. Nhị thủ diệt, tức trạch diệt hai thủ không sinh.
  3. Bản tính diệt, tức Chân như.

Đạo đế có ba:

  1. Biến tri đạo, nghĩa là có thể biết tính Biến kế sở chấp.
  2. Vĩnh đoạn đạo, nghĩa là có khả năng đoạn Y tha khởi.
  3. Tác chứng đạo, tức có khả năng chứng Viên thành thật.

Nhưng Biến tri đạo cũng thông cả hai thứ sau. Như trên là giải thích sự tùy thuộc của ba tính với Bốn đế là có bảy lần ba. Nay ở đây theo lý nên biết ba tính phối hợp với Bốn đế là giả thật như thế nào.

Cảnh giới của ba pháp môn giải thoát tùy thuộc với ba tính này như thế nào?

Lý thật thì ba môn đều thông cả ba tính. Còn theo tướng thì mỗi môn thông mỗi tính. Không , vô nguyện, vô tướng, theo thứ lớp nên biết. Duyên theo đó lại sinh ra ba vô sinh nhẫn:

  1. Bản tính vô sinh nhẫn.
  2. Tự nhiên vô sinh nhẫn.
  3. Hoặc khổ vô sinh nhẫn.

Như thứ lớp ba tính này là đối cảnh của ba nhẫn kia.

Ba tính này làm sao thuộc hai đế?

Nên biết thế tục đế đủ cả ba tính này. Thắng nghĩa đế chỉ thuộc tính Viên thành thật.

Thế tục đế có ba: giả thế tục, hành thế tục và hiển liễu thế tục. Theo thứ tự nên biết đây tương ưng với ba tính.

Thắng nghĩa đế có ba:

  1. Nghĩa thắng nghĩa, tức Chân như, nghĩa của thắng.
  2. Đắc thắng nghĩa, tức Niết-bàn, thắng tức nghĩa.
  3. Hành thắng nghĩa, , tức Thánh đạo, thắng là nghĩa.

Không biến đổi, không điên đảo, tùy theo thích ứng, tất cả đều thuộc vào tính Viên thành thật.

Ba tính ấy thuộc trí gì?

Biến kế sở chấp hoàn toàn không phải cảnh duyên của trí. Vì không tự thể, nó không phải Sở duyên duyên. Người phàm phu chấp là có, Thánh giả thấu đạt là không, cho nên cũng có thể gọi là cảnh của trí phàm và thánh.

Trong ba tính đó mấy là giả mấy là thật?

Biến kế sở chấp, lập lên hư vọng nên nói là giả. Lại vì không có thể tướng cho nên là chẳng phải giả chẳng phải thật.

Tính Y tha khởi có thật có giả. Tụ tập phần vị tương tục thì nói là giả có. Tâm, tâm sở và sắc, tùy duyên sinh nên nói là thật có. Nếu không có thật pháp thì giả pháp cũng không. Vì giả là y vào nhân của thật mà ra.

Tính Viên thành thật là thật có, vì không dựa vào duyên khác mà lập ra.

Ba tính này là khác nhau hay không khác nhau?

Nên nói cả hai đều không đúng, vì không có tự thể riêng biệt, nhưng vọng chấp duyên khởi với chân nghĩa thì khác nhau.

Như vậy các nghĩa của ba tính rất nhiều, sợ rườm rà nên chỉ lược nói cương yếu.

HẾT QUYỂN 8

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10