LUẬN THÀNH DUY THỨC
Hộ Pháp Bồ-tát tạo
Đường Tam tạng pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 5

Ý nhiễm ô, tức thức Mạt-na, này tương ưng với thụ nào?

Có người cho rằng nó chỉ tương ưng với hỷ thụ, vì nó hằng âm thầm chấp ngã bên trong mà nó yêu thích.

Có người bảo không phải như vậy, vì nếu chấp nhận hỷ thụ thì đến trời Hữu đỉnh vẫn còn, thế là trái với Thánh giáo. Phải nói rằng thức Mạt-na này tương ưng với bốn thụ. Nghĩa là khi sinh cõi ác thì nó tương ưng với ưu thụ, vì duyên với quả báo khổ, do nghiệp bất thiện dẫn sinh. Sinh cõi người và cõi trời Dục giới sơ thiền , nhị thiền thì tương ưng với hỷ thụ, vì duyên với cõi có hỷ là quả báo của thiện nghiệp. Khi sinh ở cõi trời Tam thiền thì tương ưng với lạc thụ, vì duyên với cõi có lạc là quả báo cuat thiện nghiệp. Khi sinh ở Tứ thiền cho đến Hữu đỉnh thì tương ưng với xả thụ, vì duyên với cõi chỉ có xả là quả báo của thiện nghiệp.

Có người cho thuyết trên không đúng, vì Mạt-na từ vô thủy đến nay cứ một mực duyên Tàng thức bên trong chấp ngã, hằng không chuyển dịch, nên không tương ưng với các thụ. Lại nữa thức Mạt-na này nếu với Tàng thức có nghĩa gì khác thì bản luận đã nói riêng, cho nên nếu có tương ưng với bốn thụ thì luận cũng đã nói. Nay Luận đã không nói, vậy nhất định Mạt-na với Tàng thức chỉ tương ưng với xả thụ. Cho nên biết rằng tương ưng với Mạt-na chỉ có xả thụ.

Khi ở địa vị chưa chuyển y thì nó tương ưng với tâm sở như đã nói ở trước. Còn khi đã chuyển y thì chỉ có hai mươi mốt tâm sở cùng nó khởi. Đó là năm biến hành, năm biệt cảnh và mười một thiện. Giống như thức thứ tám, khi ở địa vị chuyển y thì chỉ có xả thụ cùng khởi, vì nó hằng bình đẳng đối với cảnh sở duyên.

Mạt-na và tâm sở của nó thuộc tính gì?

Thuộc hữu phú vô ký. Mạt-na tương ưng bốn phiền não là pháp nhiễm ô, chướng ngại Thánh đạo, che lấp tự tâm, nên gọi hữu phú, và nó không phải thiện hay bất thiện, nên gọi vô ký. Giống như các phiền não ở hai cõi trên, bị định lực làm ẩn tàng nên thuộc vô ký. Mạt-na làm chỗ nương cho các nhiễm pháp tương ưng nhưng rất vi tế và để mặc tự nhiên cho các nhiễm pháp sinh khởi nên chúng cũng thuộc vô ký. Nhưng khi đã chuyển y thì chỉ có tính thiện.

Mạt-na và tâm sở của nó thuộc địa nào trong chín địa?

Tùy nó sinh vào địa nào thì thuộc về địa đó. Nghĩa là sinh cõi Dục thì hiện hành Mạt-na và tâm sở tương ưng với nó thuộc vào cõi Dục. Cho đến khi sinh đến trời Hữu đỉnh cũng vậy. Vì Mạt-na hằng duyên với Tàng thức ở tại địa đó, chấp Tàng thức đó làm nội ngã, chứ không duyên Tàng thức ở địa khác. Nếu khởi Dị thục Tàng thức sinh vào địa khác, và khi Dị thục Tàng thức đó hiện tiền ở địa kia thì gọi là sinh ở địa kia. Nhiễm ô Mạt-na cũng duyên Tàng thức ở địa kia chấp làm ngã, tức hệ thuộc địa kia, tức là chỗ buộc ràng của nó, hoặc bị hệ thuộc theo các phiền não ở địa kia nên cũng gọi là chỗ bị buộc ràng. Nếu đã chuyển y tức không còn buộc ràng lệ thuộc nữa.

Mạt-na nhiễm ô này tương tục từ vô thủy, vậy đến địa vị nào thì dứt hẳn, hoặc tạm dứt?

Ở địa vị A-la-hán, Diệt tận định và Xuất thế đạo thì không còn nữa.

A-la-hán là chỉ cho quả vị vô học trong ba thừa. Ở địa vị này cả chủng tử lẫn hiện hành của nhiễm ô ý đều dứt hẳn, cho nên nói không có. Ở địa vị hữu học khi nhập Diệt định và Xuất thế đạo đều có thể tạm thời đè bẹp và diệt nhiễm ô ý, cho nên cũng nói không có. Nghĩa là nhiễm ô ý từ vô thủy đến nay, một loại sinh khởi rất vi tế, dùng các hữu lậu đạo không thể đè bẹp đoạn dứt được, phải dùng Thánh đạo của ba thừa mới đè bẹp và đoạn dứt được.

Trí chân vô ngã trái với ngã chấp. Cho nên khi hậu đắc trí vô lậu hiện tiền thì cái đẳng lưu của trí chân vô ngã cũng trái với các nhiễm ô của ý. Trí chân vô ngã và hậu đắc trí đều là vô lậu, nên gọi Xuất thế đạo.

Diệt định đã là đẳng lưu của Thánh đạo, rất tịch tĩnh cho nên ở diệt định cũng nói là không có. Do chưa vĩnh viễn dứt hẳn chủng tử này nên khi ra khỏi Diệt tận định và Xuất thế đạo thì chúng lại hiện hành, cho đến khi nào dứt hẳn.

Nhưng các phiền não tương ưng với nhiễm ô ý này là loại phiền não câu sinh, chẳng phải do kiến đạo đoạn trừ. Vì là nhiễm ô nên chẳng phải phi sở đoạn. Vì rất vi tế nên bao nhiêu chủng tử của nó cùng với phiền não hạ hạ phẩm của cõi trời Hữu đỉnh khi đoạn thì nhất thời đồng loạt đoạn một cách nhanh chóng vì thế lực chúng ngang nhau. Khi Kim cương dụ định hiện tiền, chủng tử này lập tức đoạn dứt mà thành A-la-hán. Cho nên ở địa vị Vô học vĩnh viễn không khởi nhiễm trở lại.

Hàng Vô học nhị thừa hồi hướng theo Đại thừa, từ lúc sơ phát tâm Bồ-đề cho đến khi chưa thành Phật, tuy thật là Bồ-tát nhưng cũng gọi là A-la-hán, vì có ba nghĩa ứng cúng, sát tặc và vô sinh như nhau nên không nói riêng.

Có người cho rằng Mạt-na chỉ có phiền não chướng, vì Thánh giáo đều nói ở ba địa vị A-la-hán, Diệt định và Xuất thế đạo đều không có Mạt-na. Lại nói bốn hoặc thường tương ưng. Lại nói chỗ nương tạp nhiễm cho thức thứ sáu.

Có người cho thuyết nói trên là trái với giáo lý, vì kinh nói Xuất thế có Mạt-na. vì ý thức khi không ô nhiễm cũng giống như khi có ô nhiễm phải có chỗ nương câu sinh riêng. Luận nói Tàng thức nhất định hằng cùng một thức cùng khởi, đó là Mạt-na. Còn khi ý thức khởi thì có hai thức cùng khởi, đó là ý thức và Mạt-na. Khi một trong năm thức khởi thì có ba thức cùng khởi. Cho đến có khi cả năm thức đồng khởi thì có bảy thức cùng khởi. Nếu ở trong Diệt định không có thức thứ bảy , bấy giờ Tàng thức chỉ khởi một mình không có thức khác cùng khởi. Như vậy không phải luôn luôn nhất định Tàng thức có một thức cùng khởi. Khi ở địa vị Thánh đạo, nếu không có thức thứ bảy, bấy giờ Tàng thức chỉ cùng khởi với một thức thứ sáu. Như vậy làm sao có thể nói nếu khi ý thức khởi thì bấy giờ Tàng thức nhất định có hai thức cùng khởi.

Luận Hiển Dương nói Mạt-na hằng cùng tương ưng bốn phiền não, hoặc chuyển ngược hành vi ỷ thị cao cử tương ưng với Mạt-na thành hành vi bình đẳng. Cho nên biết rằng Mạt-na thông cả nhiễm và không nhiễm. Nếu do Luận này nói ở địa vị A-la-hán không có nhiễm ô ý mà bảo không có thức thứ bảy thì cũng phải do Luận này nói ở địa vị A-la-hán xả bỏ A-lại-da là xả bỏ luôn thức thứ tám. Nhưng đây đã không được thì kia làm sao được.

Lại các Luận nói chuyển thức thứ bảy thì được trí bình đẳng. Trí này cũng như các trí khác chắc chắn phải có tịnh thức tương ưng để làm chỗ nương. Nếu không có thức này thì trí kia cũng không có, vì không thể lìa sở y mà có năng y. Không thể nói trí bình đẳng kia y chỉ nơi sáu chuyển thức, vì Luận chấp nhận trí bình đẳng tính hằng hành của chư Phật như trí viên kính.

Lại ở địa vị Vô học, nếu không có thức thứ bảy, thì thức thứ tám kia không có Câu hữu y. Nhưng thức thứ tám có Câu hữu y này như tính của các thức khác.

Lại như khi chưa chứng Bổ-đặc-già-la vô ngã thì ngã chấp kia vẫn thường hiện hành, vậy thì khi chưa chứng pháp vô ngã, ngã chấp kia phải thường hiện hành. Thức Mạt-na này nếu không có kia thì nương nơi thức nào? Không thể nương thức thứ tám, vì ở thức thứ tám không có tuệ tâm sở.

Do đó hãy tin rằng ở địa vị Nhị thừa thánh đạo, Diệt định và Vô học, thức thứ bảy này vẫn thường hiện hành, vì ở địa vị đó chưa chứng đắc pháp vô ngã.

Lại trong các Luận lấy năm đồng pháp chứng minh có thức thứ bảy làm chỗ nương cho thức thứ sáu. Lúc Thánh đạo khởi và ở địa vị vô học, nếu không có thức thứ bảy làm chỗ nương cho thức thứ sáu thì chỗ lập tôn lập nhân đều bị lỗi. Hoặc có thể năm thức cũng không có chỗ nương, nhưng năm thức đã hằng có chỗ nương thì thức thứ sáu cũng phải như vậy. Cho nên quyết định có Mạt-na ý không nhiễm ô hằng khởi hiện hành. Nói kia không có, là y nơi nhiễm ô mà nói. Như nói ở bốn địa vị không có A-lại-da chứ không phải nói không có thức thứ tám. Đây cũng vậy.

Mạt-na ý này có ba thứ sai biệt:

  1. Tương ưng với ngã kiến Bổ-đặc-già-la.
  2. Tương ưng với pháp ngã kiến.
  3. Tương ưng với trí Bình đẳng tính.

Thứ nhất Mạt-na tương tục trong tất cả loài Dị sinh, trong địa vị Nhị thừa hữu học, trong một hạng Bồ-tát đang ở địa vị tâm hữu lậu từ Thất địa trở lại, trong các địa vị đó thức Mạt-na thường duyên thức A-lại-da, khởi ngã kiến Bổ-đặc-già-la. Thứ đến Mạt-na tương tục trong tất cả các loài Dị sinh, Thanh văn, Duyên giác và tất cả Bồtát còn ở địa vị quả trí của pháp không không hiện tiền. Ở các địa vị này Mạt-na thường duyên thức Dị thục mà khởi pháp chấp. Sau cùng Mạt-na tương tục trong tất cả Như Lai và Bồ-tát ở địa vị kiến đạo và tu đạo có quả trí của pháp không hiện tiền. Ở các địa vị này thức Mạtna thường duyên với thức vô cấu Dị thục mà khởi trí Bình đẳng tính.

Khi ở địa vị có Bổ-đặc-già-la ngã kiến khởi lên thì cũng có pháp ngã kiến hiện tiền.Vì ngã chấp chắc chắn nương pháp chấp mà khởi. Như đêm tối lầm thấy cây trơ trụi không nhánh lá tưởng là người. Ngã kiến, pháp kiến tuy tác dụng khác nhau nhưng không trái nhau, cùng nương một tuệ tâm sở. Ví như nhãn thức v.v…thể là một nhưng có nhiều tác dụng thấy màu xanh, màu vàng v.v…mà không trái nhau.

Nhị thừa hữu học và khi có Thánh đạo hoặc Diệt định hiện tiền, Bồ-tát đốn ngộ ở địa vị tu đạo và hữu học tiệm ngộ khi quả trí của sinh không hiện tiền, thì chỉ khởi pháp chấp, vì ở địa vị này ngã chấp đã bị đè bẹp. Nhị thừa vô học và các vị tiệm ngộ, khi quả trí của pháp không không hiện tiền, thì cũng chỉ khởi pháp chấp, vì ở địa vị này ngã chấp đã dứt sạch.

Tất cả Bồ-tát từ địa thứ tám trở lên, ngã chấp đều vĩnh viễn không hiện hành, vì hoặc đã vĩnh viễn dứt sạch, hoặc vĩnh viễn đè bẹp. Khi quả trí của pháp không không hiện tiền, vẫn còn khởi pháp chấp, vì không trái với pháp chấp. Như khế kinh nói từ địa thứ tám trở lên, tất cả phiền não không còn hiện hành, chỉ còn sở y sở tri chướng. Sở tri chướng ở đây là hiện hành sở tri chứ không phải chủng tử sở tri. Nếu không như vậy thì phiền não cũng phải còn.

Mạt-na tương ưng với pháp chấp, đối với Nhị thừa tuy gọi là không ô nhiễm, nhưng đối với Bồ-tát cũng bị gọi là ô nhiễm, vì làm chướng ngại trí của Bồ-tát. Do đó cũng gọi Mạt-na ở Bồ-tát địa là hữu phú vô ký. Còn đối với Nhị thừa thì gọi nó là vô phú vô ký, vì nó không chướng ngại trí của Nhị thừa.

Mạt-na thuộc Dị thục sinh, vì từ thức Dị thục hằng thời sinh khởi, nên gọi Dị thục sinh, mà không phải là Dị thục quả. Tên Dị thục sinh này được dùng chỉ chung tất cả các tâm tâm sở không phải chân Dị thục. Cũng như Tăng thượng duyên là chỉ cho những gì không thuộc Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên thì đều thuộc Tăng thượng duyên cả.

Làm sao biết được thức thứ bảy này có tự thể riêng ngoài nhãn thức v.v…?

Lấy Thánh giáo và chính lý mà biết. Như nhiều nơi trong các kinh đức Phật đã nói ba nghĩa khác nhau của tâm, ý và thức. Tập họp khởi lên là tâm. Suy tư lượng đạc là ý. Phân biệt rõ là thức. Đó là ba nghĩa riêng biệt. Ba nghĩa này tuy chung cho cả tám thức, nhưng tùy mỗi thức có sự hiển thị rõ hơn. Thức thứ tám gọi là tâm, vì nó tập họp chủng tử các pháp và khởi lên các pháp. Thức thư bảy gọi là ý, vì nó duyên Tàng thức, hằng thẩm xét suy lường chấp làm ngã. Còn sáu thức kia gọi là thức, vì nó phân biệt hiểu rõ theo sáu cảnh thô động gián đoạn chuyển biến khác nhau. Như bài tụng trong Kinh Nhập Lăng-già nói:

Tàng thức gọi là tâm,

Tính suy lường là ý,

Hiểu rõ tướng các cảnh,

 Gọi chung đó là thức.

Lại nhiều nơi trong kinh Đại thừa có nói đặc biệt đến thức thứ bảy, nên đây nói có thức thứ bảy riêng. Các kinh Đại thừa là kinh chí giáo. Trước đã nói rộng nên đây không lặp lại. Kinh Giải Thoát cũng nói có thức thứ bảy riêng. Như bài tụng nói:

Nhiễm ô ý thường có,

Các hoặc cùng sinh diệt.

 Nếu giải thoát các hoặc,

Chẳng phải đã, sẽ có.

Kinh ấy tự giải thích nghĩa bài tụng rằng có nhiễm ô ý từ vô thủy đến nay, hằng cùng sinh diệt với bốn phiền não là ngã kiến, ngã ái và ngã mạn, ngã si. Khi có đạo đối trị dứt sạch phiền não thì ý này từ đó được giải thoát. Bấy giờ phiền não tương ưng với ý này không phải chỉ trong hiện tại không có mà cả đến quá khứ và vị lai cũng không có, vì quá khứ, vị lai là không tự tính. Các Thánh giáo như vậy trong các bộ đều có, sợ dài dòng nên không thuật hết.

Trên đây đã dẫn Thánh giáo, giờ sẽ làm rõ chính lý. Nghĩa là khế kinh nói bất cộng vô minh, vi tế hằng hiện hành, che lấp chân thật. Nếu không có thức thứ bảy này thì kia cũng không có. Nghĩa là hàng Dị sinh, trong tất cả phần vị hằng khởi mê lý bất cộng vô minh làm che lấp nghĩa chân thật, che mắt tuệ của bậc Thánh, như kệ tụng nói:

Tâm chân nghĩa sẽ sinh,

Thường hay làm chướng ngại,

Đồng hành trong mọi phần,

Là bất cộng vô minh.

Cho nên khế kinh nói loài Dị sinh hằng ở trong đêm dài bị vô minh che mờ, say mê buộc tâm chưa hể tỉnh thức. Nếu nói ở địa vị Dị sinh có khi tạm không khởi vô minh này, tức trái với nghĩa kinh. Vì nếu cùng ở địa vị loại Dị sinh mà sự mê lý vô minh có lúc hiện hành lúc không hiện hành là không đúng lý.

Nếu nói bất cộng vô minh này dựa nơi thức thứ sáu thì không được, vì thức thứ sáu có gián đoạn mà vô minh thì hằng ô nhiễm. Nếu chấp nhận có Mạt-na thì không có lỗi này.

Nhiễm ô ý hằng tương ưng với bốn phiền não đều cùng khởi với vô minh, sao gọi là bất cộng được?

– Có ý kiến cho rằng Mạt-na tương ưng với ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, ba thứ này không phải căn bản phiền não nên gọi là bất cộng, nào có lỗi gì?

– Có ý kiến cho rằng kia nói trái với giáo lý, vì trong các tùy phiền não không hề có nói đến ba thứ này. Ba thứ này ở trong sáu mươi phiền não. Nơi nơi đều nói Mạt-na nhiễm ô hằng tương ưng với bốn phiền não, cho nên phải nói rằng trong bốn phiền não vô minh là chủ, cho nên tuy nói cùng khởi với ba thứ kia cũng được gọi vô minh là bất cộng. Vì từ vô thủy thường hôn mê bên trong, chưa từng thức tỉnh đều do có si, tức vô minh, tăng mạnh.

Hỏi: Vậy si này cũng khởi cùng với kiến, mạn, ái thì phải gọi là tương ưng?

Đáp: Nếu khi khởi lên, thứ nào làm chủ thì cũng gọi là bất cộng, như vô minh chẳng hạn cũng không có lỗi.

– Có ý kiến cho rằng cái nghĩa “si” này gọi là bất cộng vì chỉ có ở thức Mạt-na này, các thức khác không có, như ý nghĩa mười tám pháp bất cộng của Phật.

Hỏi: Nếu vậy các phiền não chỉ tương ưng với các thức khác mà không có trong thức Mạt-na này, cũng gọi chúng là bất cộng sao?

Đáp: Dựa vào nghĩa vượt trội mà lập tên bất cộng, chứ không phải cùng không có mà gọi bất cộng. Nghĩa là thức thứ bảy tương ưng vô minh, từ vô thủy hằng hiện hành, làm chướng ngại trí chứng chân nghĩa. Đó là tác dụng vượt trội mà ở các thức khác không có, chỉ riêng thức này có nên gọi bất cộng.

Hỏi: Đã vậy ba thứ cùng khởi với nó cũng phải gọi bất cộng?

Đáp: Không, vô minh là chủ, nên được riêng gọi bất cộng. Hoặc nếu nhận ba thứ kia là chủ thì cúng được gọi là bất cộng. Nay đối với các thứ si khác nên chỉ nói cái si tương ưng với Mạt-na này là bất cộng vô minh.

Bất cộng vô minh nói chung có hai thứ: một là hằng hành bất cộng, thứ này không có ở các thức khác; hai là độc hành bất cộng, thứ này không có ở thức Mạt-na, chỉ có ở thức thứ sáu. Cho nên Dugià nói vô minh có hai: nếu tương ưng với tham v.v… đồng khởi gọi là tương ưng vô minh; không cùng tham v.v… đồng khởi là độc hành vô minh. Nếu chủ là độc hành vô minh thì chỉ kiến đạo đoạn trừ. Như khế kinh nói các Thánh bậc hữu học đã vĩnh viễn đoạn trừ bất cộng vô minh nên không tạo nghiệp mới. Còn nếu chủ không phải là độc hành vô minh thì do tu đạo đoạn trừ, vì nó cùng phẫn v.v…tương ưng cho nên đều do kiến đạo tu đạo đoạn trừ.

Hằng hành bất cộng vô minh thì không có đối với các bộ phái Tiểu thừa, còn độc hành bất cộng vô minh thì ở cả Đại thừa, Tiểu thừa đều có.

Lại khế kinh nói nhãn duyên sắc sinh nhã thức, nói rộng cho đến ý duyên pháp sinh ý thức. Nếu không có thức Mạt-na này thì ý kia không có. Nghĩa là như năm thức ăt phải có nhãn v.v… làm câu hữu tăng thượng riêng. Ý thức đã thuộc trong sáu thức vậy lý phải có chỗ sở y như vậy. Nếu thức Mạt-na này không có thì chỗ nương của ý thức kia đâu có. Không thể nói sắc là chỗ nương cho ý thức vì ý không phải sắc. Nếu ý thức nương nơi sắc thì giống như năm thức chứ không có hai thứ phân biệt là tùy niệm và kế đạt.

Cũng không thể nói năm thức không có câu hữu y. Năm thức với năm căn sinh khởi cùng lúc như mầm và hạt như bóng và hình. Lại nữa thức và căn đã phải đồng cảnh thì như tâm và tâm sở quyết định cùng khởi. Do đó nghĩa lý ý thú đã đạt. như nhãn thức v.v… phải có chỗ nương riêng, và có tên theo chỗ nương đó. Đẳng vô gián duyên không ở trong chỗ nương của Tăng thượng. Do đó sáu thức tùy theo mỗi thức thuộc về một căn.

Lại khế kinh nói tư lường là ý. Nếu không có thức Mạt-na này thì không có ý tư lường. Nghĩa là nếu khi ý thức hiện tiền, đẳng vô gián ý đã diệt không còn tồn tại, vì quá khứ, vị lai là phi hữu, cho nên cái tác dụng tư lường kia nhất định không thành. Đã vậy sao kinh gọi tư lường là ý? Nếu cho đó là giả nói cũng không đúng. Nếu không có tư lường thật sự thì tư lường giả dựa vào đâu mà có? Nếu bảo hiện tại từng có tư lường vậy thì lúc đó phải gọi là thức, đâu gọi là ý được?

Cho nên biết rằng riêng có thức Mạt-na thứ bảy, hằng xét nét tư lường, chính đó gọi là ý. Cái đã diệt dựa vào đó, giả gọi cái đó là ý.

Lại khế kinh nói Vô tưởng và Diệt định nếu không có nhiễm ô ý này thì hai định không khác nhau. Nghĩa là hai định này đều diệt sáu thức và các tâm sở của nó. Số tâm thể được diệt để thành hai định giống nhau. Nếu không có việc nhiễm ô ý có trong định này mà không có trong định kia thì hai định nào có khác gì nhau. Nếu bảo khi tu gia hành nương nơi ba cõi chín địa, thân căn hai bên khác nhau nên hai định khác nhau cũng không đúng lý, vì nguyên nhân làm cho khác nhau là do có sự tồn tại của thức Mạt-na. Nếu không có thức Mạt-na thì cũng không có nguyên nhân làm cho hai định khác nhau. Cho nên nhất định phải có riêng Mạt-na ý này.

Lại khế kinh nói loài hữu tình ở cõi trời Vô tưởng, suốt một đời diệt hết không còn tâm vương, tâm sở. Nếu không có thức Mạt-na này thì các hữu tình kia sẽ không ô nhiễm . Nghĩa là các hữu tình kia trong thời gian lâu không có sáu chuyển thức. Nếu không có Mạt-na này thì ngã chấp cũng không. Không có ở một nơi nào có loài hữu tình đủ mọi điều ràng buộc mà trong một đời hoàn toàn không có ngã chấp. Nếu ở cõi kia không có ngã chấp thì giống như cõi Niết-bàn, sao bị Thánh Hiền chê trách?

Nếu cho rằng nửa đầu và nửa kiếp sau mới có nên không bị lỗi trên, vậy thời gian dài ở khoảng giữa không có ngã chấp thì như Niết-bàn, vậy là có lỗi.

Nếu nói quá khứ và vị lai có ngã chấp nên không bị lỗi ấy, nhưng chúng không phải hiện thường, không, nên có lỗi.

Sở đắc là không có thì năng đắc cũng không có. Dị thục vô tưởng là pháp bất tương ưng, trước đã bác bỏ.

Tàng thức không có thì huân tập cũng không có. Còn nói các pháp khác không phải Tàng thức mà chịu sự huân tập thì điều đó phi lý đã biện rõ rồi.

Cho nên phải có riêng thức Mạt-na nhiễm ô hằng chấp ngã ở trời Vô tưởng. Vì vậy Thánh Hiền đồng chê cõi trời Vô tưởng đó.

Lại khế kinh nói loài Dị sinh trong lúc có tâm thiện, nhiễm hoặc vô ký đều luôn luôn mang cái ngã chấp. Nếu không có thức Mạt-na này thì ngã chấp ấy cũng không. Nghĩa là loài Dị sinh trong khi tâm có đủ ba tính thiện, ác, vô ký, tuy bên ngoài khởi các nghiệp mà bên trong hằng chấp ngã. Do chấp ngã nên khiến sáu thức dù khởi bố thí v.v…cũng không mất tướng. Nên Du-già nói Mạt-na nhiễm ô là chỗ nương của sáu thức. Mạt-na nhiễm ô chưa diệt thì tướng liễu biệt ràng buộc không được giải thoát. Mạt-na diệt rồi thì tướng ràng buộc giải thoát. Nói tướng ràng buộc nghĩa là đối với cảnh tướng không hiểu được nó là như huyễn, do đó bị kiến phần tướng phần câu thúc không được tự tại, nên gọi là tướng phược. Y như nghĩa này có bài tụng như sau:

Nhiễm ô ý như vậy,

Là chỗ nương của thức.

Ý này khi chưa diệt,

Thức bị buộc khó thoát.

Lại trong lúc tâm thiện hoặc vô phú vô ký, nếu không có ngã chấp thì các tâm ấy không phải là hữu lậu, vì trong tương tục các phiền não của sáu thức không cùng khởi với các tâm thiện v.v… kia. Nếu bảo do duyên của quá khứ, vị lai trói buộc thì không có lý như vậy. Cũng chẳng phải do hoặc nghiệp của người khác mà làm cho người này thành hữu lậu, cũng như không thể do người khác giải thoát mà làm cho người này thành vô lậu.

Lại không thể nói có riêng một tùy miên là pháp bất tương ưng tương tục khởi, do các tâm thiện v.v… này mà thành pháp hữu lậu, pháp tùy miên đó là không thật có, đã giải quyết xong rồi.

Cũng không thể nói từ chủng tử hữu lậu sinh các tâm thiện v.v… kia cho nên chúng thành hữu lậu, vì các chủng tử kia trước đã không có nhân để thành hữu lậu, cho nên chẳng phải do chủng tử hữu lậu mà chúng thành hữu lậu. Chớ nói tâm vô lậu hữu học cũng thành hữu lậu. Tuy do phiền não dẫn khởi các nghiệp bố thí v.v… nhưng không cùng khởi cho nên không phải chính nhân hữu lậu. Vì nói hữu lậu là biểu thị việc cùng sinh khởi.

Lại nghiệp vô ký không do phiền não dẫn phát, làm sao nó thành hữu lậu?

Nhưng các hữu lậu là do tự thân hiện hành phiền não, cùng sinh cùng diệt, tăng ích cho nhau mới thành hữu lậu, do đó huân thành chủng tử pháp hữu lậu, rồi sau đó hiện khởi. Đó là nghĩa của hữu lậu. Nơi loài Dị sinh đã như vậy, ở hàng hữu học cũng vậy. Hữu lậu ở hàng vô học tuy không cùng khởi với thức thứ bảy hữu lậu nhưng từ chủng tử hữu lậu trước kia khởi lên nên thành hữu lậu. như vậy đối với lý cũng không trái.

Do có Mạt-na hằng khởi ngã chấp, khiến các pháp thiện v.v… thành hữu lậu. Nếu không có Mạt-na này thì hữu lậu kia quyết không có. Cho nên biết có riêng một thức thứ bảy này.

Có rất nhiều lý lẽ chứng minh có thức Mạt-na. Đây theo nghĩa Đại thừa lược thuật sáu nghĩa đó, người có trí nên theo đó tin học.

Nhưng có kinh trong đó chỉ nói sáu thức, nên biết đó là kinh nói theo lý tùy chuyển. Hoặc theo chỗ nương của sáu căn mà nói sáu thức nhưng thức loại thật sự có tám thứ riêng biệt.

Như vậy trên đây đã nói thức năng biến thứ hai. Còn thức năng biến thứ ba tướng trạng như gì?

Tụng nói:

8. Thức năng biến thứ ba,

Có sáu thứ khác nhau.

Liễu cảnh là tính tướng,

Thiện, bất thiện, vô ký.

Luận nói tiếp theo thức tư lường năng biến sẽ nói rõ tướng của thức liễu cảnh năng biến. Thức này nói chung có sáu thứ khác nhau. Tùy theo chủng loại khác nhau của sáu căn và cảnh, có nhãn thức cho đến ý thức, tùy theo căn mà đặt tên.

Căn có năm nghĩa: y căn, phát căn, thuộc căn, trợ căn và như căn. Tuy thể của sáu thức đều nương nơi Mạt-na mà sinh khởi, nhưng thức thứ sáu theo chỗ nương riêng của nó là Mạt-na đặt tên là ý thức. Như thể của năm thức không bị lỗi lẫn lộn nên nương nơi ý gọi là ý thức. Đây là nói rõ sáu thức là nương sáu căn mà đặt tên, còn tâm là thứ tám, ý là thứ bảy không theo lệ này.

Hoặc cũng gọi là sắc thức cho đến pháp thức là tùy theo cảnh đặt tên thuận với nghĩa của thức. Nghĩa là liễu biệt đối với sáu cảnh gọi là thức. Sắc v.v…năm thức chỉ liễu biệt sắc v.v… còn pháp thức thì liễu biệt tất cả pháp. Hoặc vì liễu biệt pháp nên gọi pháp thức. Cho nên tên gọi sáu thức không bị lỗi xen lộn. Sau đây là theo cảnh mà đặt tên sáu thức. Đó là dựa vào năm sắc căn khi chưa được tự tại mà nói. Nếu khi được tự tại thì các căn dùng chung lẫn nhau. Một căn phát sinh thức duyên được tất cả các cảnh, nhưng có thể tùy theo căn mà không lộn xộn.

Luận Trang Nghiêm nói năm căn của Như Lai mỗi mỗi đều duyên năm cảnh. Đây là nói dựa vào cảnh đồng loại thô hiển mà nói.

Kinh Phật Địa nói: Trí thành sở tác quyết trạch tâm hành sai biệt của hữu tình để khởi lên ba nghiệp giáo hóa bốn ký v.v…Nếu không duyên được cùng khắp thì không có khả năng này.

Nhưng căn sở y và cảnh sở duyên của sáu chuyển thức thô hiển rất dễ thấy, nên ở đây không nói. Trước đây tùy theo nghĩa thuận tiện đã nói về sở y, còn về nghĩa của cảnh sở duyên, thuận tiện sẽ nói.

Tiếp đến nói ý nghĩa của “Liễu cảnh là tính tướng” là làm rõ tự tính và hành tướng của sáu thức. Sáu thức lấy sự liễu biệt cảnh làm tự tính, cũng lại dùng sự liễu biệt cảnh làm hành tướng. Do đó câu tụng giải thích chung cả hai tên. Khả năng liễu biệt cảnh gọi là thức. Như khế kinh nói: Gì là nhãn thức? Nhãn thức nghĩa là cái thức nương nơi nhãn căn liễu biệt các sắc. Nói rộng cho đến gì là ý thức? Đó là cái thức nương nơi ý căn liễu biệt các pháp.

Kinh kia chỉ nói chỗ nương riêng của sáu thức với kiến phần và cảnh sở duyên của chúng khi ở địa vị chưa chuyển y. Còn khi ở địa vị đã chuyển y thì căn sở y và cảnh sở liễu biệt của sáu thức chung thông như trước đã nói.

– Sáu chuyển thức này thuộc tính nào?

Thuộc tính thiện, bất thiện và câu phi. Câu phi tức vô ký. Chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện gọi là câu phi. Cái gì thuận và lợi ích cho đời này và đời sau là thiện. Quả báo vui ở cõi người cõi trời thuận ích cho đời này nhưng không thuận ích cho đời sau nên không gọi là thiện. Cái gì có thể làm trái nghịch và tổn hại cho đời này và đời sau thì gọi là bất thiện. Quả khổ ở cõi ác tuy ở đời này trái nghịch và tổn hại, nhưng không làm tổn hại đời sau, nên không phải bất thiện. Nghĩa ở lưng chừng giữa thiện và bất thiện, giữa ích lợi và tổn hại không thể ghi nhận rõ ràng gọi là vô ký.

Sáu chuyển thức này nếu tương ưng với mười một pháp như tín v.v… thì thuộc tính thiện, nếu tương ưng với mười pháp như vô tàm v.v… thì thuộc tính bất thiện. Còn không tương ưng với cả hai thứ trên thì thuộc tính vô ký.

Có ý kiến cho rằng ba tính của sáu thức không khởi đồng thời. Vì sáu thức đồng chuyển hướng ra ngoài và ba tính trái nhau. Năm thức ắt phải do ý thức dắt dẫn, đồng thời sinh khởi, và đồng cảnh mới thành thiện hoặc nhiễm. Nếu cho ba tính cùng hiện hành với năm thức thì lúc bấy giờ ý thức phải thông cả ba tính, vậy là trái chính lý. Cho nên quyết định ba tính không thể cùng khởi một lần.

Luận Du-già v.v… có nói: Tàng thức một lúc cùng các chuyển thức tương ưng cả ba tính nhất thời khởi lên. Nói nhất thời ở đây là dựa theo nghĩa đa niệm. Như nói “nhất tâm” không có nghĩa chỉ trong một lần sinh diệt, nên không có lỗi mâu thuẫn nhau.

Có ý kiến cho rằng sáu thức đều có đủ ba tính, vì năm thức hoặc đột xuất, hoặc đẳng lưu hoặc nhiều hoặc ít cùng khởi. Năm thức và ý thức tuy cùng sinh khởi nhưng tính thiện ác không hẳn như nhau. Câu nạn vấn trước, đến đây thành vô hiệu. Cho nên Luận Du-già nói: Nếu vì duyên nghe tiếng mà xuất định, đó là do tương ưng với định cho nên ý thức cùng chuyển sinh nhĩ thức. Chẳng phải chỉ ý thức tương ưng với định mà có thể nghe nhận được âm thanh kia. Nếu không sẽ không nhận được âm thanh và không xuất định. Cũng không phải khi nhận âm thanh là xuất định ngay. Sau nhi nhận được âm thanh, nếu muốn mới xuất định. Khi ở trong định, nhĩ thức chợt nghe âm thanh, lẽ ra là phi thiện, nhưng vì khi chưa chuyển y mà chợt nghe nên tâm đó là vô ký. Do đó chứng minh được rằng ngũ câu ý thức không nhất định là đồng tính thiện với năm thức. Các chỗ khác chỉ nói ngũ câu ý thức cũng duyên năm cảnh như năm thức nhưng không nói đồng tính với nhau.

Luận Tạp Tập nói: Trong địa vị đẳng dẫn , không có năm thức. Đó là dựa theo đa phần mà nói.

Nếu trong năm thức có ba tính đồng khởi, tùy theo ý thức chú trọng cảnh nào sẽ đồng tính với cảnh đó, còn cảnh nào không chú trọng thì thành tính vô ký. Cho nên sáu chuyển thức có đầy đủ ba tính. Khi được địa vị tự tại thì tất cả thuộc tính thiện. Sắc, tâm của Phật thuộc Đạo đế, đã vĩnh viễn diệt trừ các chủng tử hý luận.

– Sáu thức tương ưng với bao nhiêu tâm sở?

Tụng nói:

9. Đó là tâm biến hành,

Biệt cảnh, thiện, phiền não,

Tùy phiền não, bất định.

Đều tương ưng ba thụ.

Luận nói: Sáu chuyển thức này đều cùng tương ưng với sáu vị tâm sở. Đó là biến hành v.v… thường nương tâm khởi và tương ưng với tâm, hệ thuộc vào tâm, nên gọi là tâm sở. Như vật gì thuộc về ta gọi là ngã sở.

Tâm đối với cảnh sở duyên chỉ nhận lấy tướng chung. Còn tâm sở cũng ở cảnh ấy thì nhận tướng riêng giúp cho việc đạt thành của tâm nên gọi tâm sở. Như thầy trò người thợ vẽ tạo dáng và tô màu. Cho nên Luận Du-già nói: Thức có khả năng liễu biệt tướng chung của sự vật.

Tác ý có khả năng liễu biệt các tướng chưa liễu biệt. Tức các tâm sở nhận biết các tướng riêng.

Xúc có khả năng nhận biết các cảnh thích ý.

Thụ có khả năng nhận biết các tướng tiếp nhận.

Tưởng có khả năng nhận biết tướng nhân của sự nói năng.

Tư có khả năng nhận biết các tướng chính nhân.

Cho nên tác ý v.v… gọi là tâm sở pháp. Ở đây biểu thị tâm sở cũng duyên cả tướng chung. Những chỗ khác còn nói “dục” cũng có khả năng liễu biệt các tướng vui thích. “thắng giải” cũng có khả năng liễu biệt tướng của các việc đã quyết định, “niệm” cũng có khả năng liễu biệt tướng của các việc đã tập quen, “định, tuệ” cũng có khả năng liễu biệt tướng của các việc được mất. Do đó đối với cảnh thiện, nhiễm v.v…khởi lên, các tâm sở đều nhận biết được cả tướng riêng.

Tuy danh nghĩa các tâm sở không khác, nhưng có sáu vị chủng loại khác nhau. Đó là Biến hành 5, Biệt cảnh 5, Thiện 11, Phiền não 6, Tùy phiền não 20, Bất định 4. Như vậy hợp sáu vị có 51 tâm sở.

Trong tất cả tâm đều có, nên gọi là tâm sở Biến hành. Duyên mỗi cảnh riêng biệt mà sinh khởi gọi là tâm sở Biệt cảnh. Chỉ có thiện tâm mới sinh khởi gọi là tâm sở Thiện. Tính thuộc về phiền não căn bản nên gọi tâm sở phiền não. Chỉ là tính đẳng lưu của phiền não căn bản gọi là tâm sở Tùy phiền não. Thiện hay nhiễm không nhất định, không rõ ràng nên gọi tâm sở Bất định.

Nhưng Luận Du-già hợp sáu vị lại làm năm, vì Phiền não và Tùy phiền não chung lại đều là nhiễm.

Lại dùng bốn thứ “nhất thiết” để biện minh năm vị sai biệt. Bốn nhất thiết là nhất thiết tính, nhất thiết địa, nhất thiết thời và nhất thiết câu. Trong năm vị, Biến hành đủ cả bốn nhất thiết, Biệt cảnh chỉ có hai nhất thiết đầu. Thiện chỉ có một, đó là nhất thiết địa. Nhiễm thì bốn nhất thiết đều không có. Bất định chỉ có một là nhất thiết tính. Do đó nói năm vị có chủng loại khác nhau.

Sáu chuyển thức này dễ thoát không nhất định nên có thể tương ưng với ba thụ, vì sáu thức đều có thể lãnh thụ tướng thuận, nghịch hoặc câu phi. Khi lãnh thụ tướng của cảnh thuận thì thân tâm vui thích, gọi là lạc thụ. Lãnh thụ tướng của cảnh trái nghịch bức bách thân tâm, gọi là khổ thụ. Lãnh thụ tướng của cảnh trung dung, đối với thân tâm không khổ cũng không vui gọi là bất khổ lạc thụ.

Như vậy ba thụ hoặc mỗi thứ chia hai: tương ưng với năm thức gọi là thân thụ, vì nương riêng nơi thân; tương ưng với ý thức gọi là tâm thụ, vì chỉ nương nơi tâm.

Lại ba thụ đều thông cả hữu lậu vô lậu, vì khổn thụ cũng do vô lậu khởi. Hoặc ba thụ mỗi thứ chia làm ba là kiến sở đoan, tu sở đoạn và phi sở đoạn. Lại học, vô học và chẳng phải hai là ba. Hoặc chung cả ba thụ lại chia làm bốn là thiện, bất thiện, hữu phú vô ký và vô phú vô ký.

Có ý kiến cho rằng cả ba thụ, mỗi thụ đều chia làm bốn và mặc cho tham, si cùng khởi với năm thức, mặc cho phiền não khởi trong cõi thuần khổ nhưng không phát ác nghiệp, vì là vô ký. Tính vô ký đó đều tương ưng với khổ căn.

Luận Du-già nói: Nếu mặc cho tất cả phiền não sinh thì ba thụ đều có thể hiện hành. Nếu thông với tất cả thức thân thì tương ưng khắp tất cả căn. Không thông tất cả thức thân thì ý địa tương ưng tất cả căn.

Luận Tạp Tập nói: Nếu các phiền não thuộc Dục giới mặc cho phát sinh các ác hành là bất thiện. Ngoài ra đều là hữu phú vô ký. Cho nên biết ba thụ đều có đủ bốn tính.

Hoặc chung tất cả chia ra làm năm là khổ, lạc, ưu, hỷ và xả. Trong ba thứ, khổ và lạc mỗi thứ chia làm hai, vì tướng khổ vui của thân và tâm khác nhau, do không phân biệt và có phân biệt với rất nặng hay rất nhẹ khác nhau. Còn bất khổ bất lạc thì không chia làm hai, vì tướng không khổ không vui không khác nhau, bình đẳng không phân biệt.

Các cảm thụ vui thích tương ưng với năm thức, thường gọi là lạc, còn tương ưng với ý thức, nếu ở Dục giới Sơ thiền và Nhị thiền cận phần thì gọi là hỷ, vì chỉ là cái vui tại tâm. Nếu ở Sơ thiền, Nhị thiền và căn bản định thì gọi là lạc và hỷ, vì có cái vui của thân và tâm. Nếu ở Đệ tam thiền cận phần và căn bản định thì gọi là lạc, vì ở đây có sự an tĩnh rất lớn, không có phân biệt.

Các cảm thụ bức bách tương ưng với năm thức, thường được gọi là khổ, nhưng nếu tương ưng với ý thức thì có ý kiến cho rằng chỉ nên gọi là ưu, vì chỉ bức bách tâm. Do các Thánh giáo gọi đây là ưu căn.

Luận Du-già nói: Các loài hữu tình sinh trong địa ngục, thức Dị thục không gián đoạn, có Dị thục sinh khổ ưu liên tục. Lại nói địa ngục có đủ tầm, tứ, ưu. Một phần quỷ thú bàng sinh cũng vậy. Cho nên biết rằng cái thụ này rất nặng, cái buồn nhỏ còn gọi là ưu, huống chi là bức bách khác dù nhẹ.

Có ý kiến cho rằng ý thức thông cả hai thụ là ưu và khổ. Trong loài người và Trời thường gọi là ưu, vì sự bức bách không quá nặng. Trong loài ngạ quỷ, bàng sinh gọi là ưu và khổ, vì tạp thụ và thuần thụ có nặng có nhẹ. Ở trong Nại-lạc-ca chỉ gọi là khổ, vì thuần thụ khổ rất nặng, không còn phân biệt được nữa.

Luận Du-già nói: Nếu mặc cho phiền não tự nhiên sinh thì ba thụ có thể hiện hành. Nói rộng như trước.

Lại nói câu sinh Tát-ca-da kiến chỉ có tính vô ký. Biên chấp kiến cũng như vậy. Nó thuộc khổ thụ không thuộc ưu căn, vì Luận nói ưu căn chẳng phải vô ký.

Lại Luận Du-già nói: Các căn của hữu tình trong địa ngục, ba thụ căn không thành tựu được hiện hành. Cõi ngạ quỷ bàng sinh thuần khổ cũng vậy. Ba thụ căn là lạc căn, hỷ căn và ưu căn. Vì ở cõi kia ắt có xả thụ hiện hành cho nên không thể nói không có xả thụ. Nếu không biết văn Luận kia chỉ nói xả thụ thì không nên nói cõi kia chắc thành tựu ý căn, vì Luận chấp nhận ở địa ngục sáu thức kia có lúc không có.

Không nên cho Luận kia chỉ nói có xả thụ, mà còn nói cả đến ý căn, vì không có nhân khác. Lại nếu Luận kia y nơi xả thụ mà nói thì tại sao còn nói ở địa ngục nhất định thành tựu tám thụ căn?

Nếu bảo năm thức không tương tục cho nên phải nói ưu căn là thứ tám. Như vậy khi chết, khi sinh, khi chết ngất đâu có ưu căn?

Có người cho khổ căn là căn thứ tám cũng bị bác bỏ như vậy.

Giả sử chấp một hình ở địa ngục là căn thứ tám cũng không đúng lý, vì ở địa ngục thân hình là bất định, vì ở đó do ác nghiệp khiến năm căn luôn thụ khổ. Nếu định thành nhãn căn v.v…thì đối với một hình nào có tác dụng gì? Ở trong đại địa ngục Vô gián không thể có sự mong cầu dâm dục.

Do đó căn thứ tám nói đây quyết định chỉ cho xả căn, vì thức thứ bảy, thứ tám có xả căn tương ưng. Như ở nơi rất vui, ý thức vui thích gọi là lạc, không có hỷ căn. Ở nơi rất khổ, ý thức bị bức bách gọi là khổ, không có ưu căn. Cho nên nói ngoài ra còn ba căn là chỉ cho ưu, hỷ và lạc.

Có nơi khác nói ở địa ngục có cái vui đẳng lưu. Nên biết đó là dựa vào lý tùy chuyển mà nói. Hoặc kia nói chung về chỗ có tạp thụ lẫn lộn. Vì ở đó không có Dị thục lạc, nên gọi là thuần khổ.

Nhưng trong Thánh giáo nói: Cảm thụ lo buồn nơi ý thức gọi là ưu căn. Đây là y theo đa phần mà nói, hoặc y theo lý tùy chuyển mà nói, nên không có lỗi trái nhau.

Luận Du-già nói: Các hữu tình sinh trong địa ngục, thức Dị thục không gián đoạn mà có Dị thục sinh, khổ ưu tương tục. Lại nói: Ở địa ngục có tầm, tứ, ưu cùng khởi. Một phần ngạ quỷ bàng sinh cũng vậy. Đây cũng là y theo lý tùy chuyển mà nói. Lại nói: Khổ căn tương ưng với ý thức. Đó là cùng một loại ưu với các cõi kia mà giả nói là ưu. Hoặc khổ căn kia tổn hại thân tâm, cho nên tuy thuộc khổ căn mà cũng gọi là ưu. Cũng như hỷ ở cận phần định, vì lợi ích thân tâm nên tuy là hỷ căn cũng gọi là lạc.

Luận Hiển Dương v.v… đều hiển bày nghĩa này nhưng ở “vị chí địa” quyết định không có lạc căn. Vì nói ở đó chỉ có mười một căn. Do đó nên biết sự cảm thụ lo buồn ở ý thức mà ở nơi thuần thụ khổ thì cũng thuộc về khổ căn. Các Thánh giáo nói như thế rất nhiều, không thể thuật hết.

Có ý kiến cho rằng sáu thức không tương ưng ba thụ, vì chúng hướng ra bên ngoài duyên cảnh, thường hay trái chống nhau. Ngũ câu ý thức đồng duyên cảnh với năm thức. Năm thức tương ưng ba thụ, nên ý thức cũng vậy. Nói thế là trái chính lý, vì không chắc tương ưng cả ba thụ.

Luận Du-già v.v… nói: Tàng thức một khi cùng chuyển thức tương ưng thì ba thụ đều khởi. Đó là y theo nhiều niệm mà nói. Như nói “nhất tâm” không phải chỉ nói một lần sinh diệt của tâm, nên không có lỗi trái nhau.

Có ý kiến cho rằng sáu thức tương ưng với ba thụ. Trong ba cảnh thuận, nghịch, trung dung đều có cảm thụ. Ý thức không nhất định cùng năm thức đồng cảm thụ, vì khi chuyên chú cảnh nào thì chỉ có một cảm thụ đối với cảnh đó, còn không chuyên chú thì chỉ có xả thụ. Do đó sáu thức là có đủ ba thụ. Khi ở địa vị được tự tại thì chỉ có lạc, hỷ và xả thụ vì chư Phật đã dứt hết mọi ưu khổ.

Trước đã lược nêu sáu vị tâm sở. Nay sẽ làm rõ các tướng sai biệt của chúng.

Hai vị tâm sở đầu tiên tướng trạng như thế nào?

10. Trước: Biến hành là Xúc …

Tiếp: Biệt cảnh là Dục,

Thắng giải, Niệm, Định, Tuệ.

Cảnh sở duyên không đồng.

Luận nói: Trong sáu vị tâm sở , vị đẩu tiên là Biến hành, có năm tâm sở là Xúc v.v… Như trước đã nói.

Nên biết tướng trạng của Biến hành như thế nào? Theo giáo và lý chắn chắn sẽ rõ. Về giáo, như khế kinh nói: Nhãn lấy sắc làm duyên, sinh nhãn thức. Ba thứ hòa hợp là Xúc. Cùng sinh theo Xúc có Thụ, Tưởng, Tư. Cho đến nói rộng thì do Xúc v.v…biến khắp bốn thứ nên gọi là Biến hành.

Lại khế kinh nói: Nếu căn không hoại, cảnh giới hiện tiền, chính lúc Tác ý khởi lên mới phát sinh ra thức. Các kinh khác lại nói: Nếu ở cảnh đó khởi Tác ý thì liễu biệt cảnh đó. Nếu ở cảnh đó có liễu biệt thì chính ở đó có Tác ý. Cho nên hai cái này thường cùng hòa hợp. Cho đến nói rộng. Do đó Tác ý cũng là Biến hành. Các Thánh giáo chứng minh điều này không ít.

Về lý thì khi thức khởi phải có ba sự hòa hợp. Do ba hòa hợp đó mới quyết định sinh ra Xúc, mà ba sự hòa hợp lại phải do Xúc mới có. Nếu không có Xúc thì tâm và tâm sở pháp không thể hòa hợp tiếp xúc một cảnh.

Tác ý có khả năng dẫn tâm hướng đến tự cảnh. Nếu không có nó thì không có tâm.

Thụ có khả năng lãnh nhận cảnh thuận, nghịch, hoặc trung dung, khiến tâm khởi lên tướng vui, buồn, hoặc dửng dưng, vì không khi nào tâm khởi mà không có một trong ba tướng đó.

Tưởng có khả năng an lập ranh giới của tự cảnh. Nếu khi tâm khởi mà không có tưởng này thì sẽ không có khả năng phân biệt ranh giới của cảnh.

Tư có khả năng khiến tâm giữ lấy chính nhân tạo tác các việc thiện ác v.v…Không khi nào tâm khởi mà không theo một nghiệp nào, cho nên phải có nó. Do đó chứng minh biết rằng Xúc v.v… năm pháp, mỗi khi tâm khởi đều có sự hiện hành của chúng, nên gọi là Biến hành. Ngoài ra những gì không thuộc Biến hành sẽ được nói đến.

Tiếp đến là Biệt cảnh. Nghĩa là từ Dục cho đến Tuệ, duyên cảnh đa phần không đồng nhau, trong sáu vị nó được nói tiếp theo vị đầu tiên.

Thế nào là Dục? Là tính mong muốn đối với cảnh vui, làm chỗ nương cho nghiệp siêng năng.

Có ý kiến cho rằng được cảnh vui thích, việc vui thích thì mong muốn thấy muốn nghe. Đối với việc đáng chán thì mong muốn đừng gặp, mong nó xa đi, chứ nào muốn có. Đây chỉ cầu đừng gặp, khi xa điều đó mới thích thú không chán. Cho nên đối với cảnh đáng chán và cảnh dửng dưng chẳng ưa cũng chẳng ghét thì không có Dục. Vậy khi duyên cảnh đáng ưa thích, nếu không mong cầu thì tâm sở Dục không khởi chăng?

Có ý kiến cho rằng cảnh vui nghĩa là cảnh muốn quan sát. Đối với tất cả mọi việc, muốn quan sát tức có mong muốn. Nếu không muốn quan sát, tùy duyên theo cảnh một cách tự nhiên, tức hoàn toàn không có Dục. Vì lẽ đó, Dục không phải tâm sở Biến hành.

Có người cho rằng do sức mong muốn đối với cảnh mà các tâm tâm sở mới thủ cảnh sở duyên. Cho nên kinh nói: Dục là gốc các pháp.

Ý kiến người kia không đúng. Tâm v.v… thủ cảnh là do tác ý, vì các Thánh giáo nói: Tác ý hiện tiền thì sinh thức. Chưa từng có chỗ nào nói do dục sinh ra tâm, tâm sở. Như nói: Ái là căn bản của các pháp, đâu phải tâm, tâm sở đều do ái sinh. Cho nên nói: Dục là gốc của các pháp là ý nói do dục khởi tạo các sự nghiệp. Hoặc nói thiện dục có thể phát sinh chính cần, do đó giúp thành tất cả các việc thiện. Cho nên Luận nói Dục có công dụng làm chỗ nương cho Cần.

Thắng giải là gì? Là tính quyết định đúng đắn đối với cảnh, và có nghiệp dụng không thể bị lay chuyển lôi kéo. Nghĩa là do sức chứng minh của giáo lý hoặc tà hoặc chính đối với cảnh sở thủ, thẩm xét quyết đoán đúng đắn, do đó không bị duyên khác lay chuyển lôi kéo. Cho nên đối với cảnh do dự thì hoàn toàn không có Thắng giải. Khi tâm không thẩm định quyết đoán cũng không có Thắng giải. Vì lẽ đó, Thắng giải không thuộc Biến hành.

Có thuyết nói khi tâm v.v…thủ tự cảnh, không câu chấp chướng ngại thì đều có Thắng giải.

Thuyết của người kia phi lý. Bởi vì sao? Vì không làm chướng ngại đó chính là các pháp, không bị chướng ngại đó chính là các tâm v.v… còn duyên làm cho tâm v.v… phát khởi tốt là căn và tác ý. Nếu do thắng giải mà phát khởi tốt thì nó phải đợi có duyên khác, thế là mắc lỗi vô cùng.

Niệm là gì? Là tính khiến tâm ghi nhớ rõ ràng không quên cảnh đã từng tập quen, và có nghiệp dụng làm chỗ nương cho định. Nghĩa là thường ghi nhớ những cảnh đã tiếp thụ, không để quên mất, nhờ đó dẫn đến định. Còn đối với thể loại cảnh chưa từng tiếp thụ thì hoàn toàn không khởi niệm. Giả sử cảnh đã từng tiếp thụ nhưng không thể nhớ rõ thì niệm cũng không sinh. Cho nên Niệm quyết không thuộc tâm sở Biến hành.

Có thuyết cho rằng khi tâm khởi là có niệm cùng khởi, làm nhân cho sự ghi nhớ về sau. Nói thế không đúng. Vì không phải lúc sau có si, tín v.v…là trước đó cũng có. Nhưng do tâm, tâm sở lúc trước hoặc do thế lực của tưởng đủ để làm nhân cho ghi nhớ lúc sau.

Định là gì? Là tính khiến tâm chuyên chú cảnh sở quán không tán loạn, và có nghiệp dụng làm chỗ nương cho trí. Nghĩa là quán cảnh được, mất, trung dung, do định tâm chuyên chú không tán loạn, nương đó phát sinh trí quyết đoán lựa chọn. Nói tâm chuyên chú là nói tâm muốn dừng trụ nơi nào là có thể dừng trụ, chứ không phải chỉ một cảnh. Nếu không thế thì ở địa vị kiến đạo, quán sát khắp các đế lý, các cảnh trước sau, sẽ không có sức đẳng trì. Nếu không buộc tâm chuyên chú vào cảnh vị thì định không khởi. Cho nên định không phải tâm sở Biến hành.

Có thuyết cho rằng khi ấy cũng vẫn có định khởi, chỉ vì tướng của nó vi tế bí ẩn. Thành thật mà nói thì nếu định có thể khiến tâm v.v… hòa hợp đồng hướng đến một cảnh thì đó là Biến hành. Lý cũng không phải như vậy. Đó là tác dụng của Xúc.

Nếu bảo định này khiến trong sát-na tâm không thay đổi cảnh duyên, nên thuộc Biến hành. Cũng không đúng lý, vì trong một sátna tâm tự nó không thay đổi đối với cảnh sở duyên.

Nếu nói do định tâm thủ cảnh sở duyên nên thuộc Biến hành, cũng không đúng lý, vì chính tác ý mới khiến tâm thủ cảnh sở duyên.

Lại có thuyết cho rằng thể của định này chính là tâm. Kinh nói đó là tâm học, vì có tính khiến tâm chuyên vào một cảnh. Dẫn chứng của thuyết ấy cũng không đúng. Phải nói nhờ định nhiếp tâm khiến tâm chuyên vào một cảnh. Định nhiếp vào căn, lực, giác chi, đạo chi v.v…như Niệm, Tuệ v.v… chứ không phải định chính là tâm.

Tuệ là gì? Là tính lựa chọn rạch ròi đối với cảnh sở quán, và có nghiệp dụng trừ nghi. Nghĩa là quán cảnh được, mất, trung dung, do tuệ suy tìm mà được quyết định. Còn đối với cảnh không phải quán sát thì tâm ngu muội không lựa chọn, nên không thuộc Biến hành.

Có thuyết cho rằng lúc bấy giờ vẫn có tuệ khởi, chỉ vì tướng của nó vi tế bí ẩn người ngu đâu biết được. Luận A-tì-đạt-ma gọi đó là Đại địa pháp.

Các bộ A-tì-đạt-ma có nhiều chỗ trái nhau, không nên chấp đó làm định lượng. Chỉ có Xúc v.v… kinh nói là Biến hành thôi, còn mười Đại địa pháp không phải kinh nói, không nên cố chấp.

Nhưng Dục v.v… năm thứ không phải như Xúc v.v… cho nên quyết không phải Biến hành, như Tín, Tham v.v…không phải Biến hành.

Có ý kiến cho rằng năm thứ này tương trợ lẫn nhau, khi một thứ khởi là có bốn thứ kia.

Có ý kiến cho rằng không nhất định như thế. Luận Du-già nói: Năm tâm sở Biệt cảnh này, trong bốn thứ nhất thiết không có hai thứ sau. Lại nói: Năm thứ Biệt cảnh này duyên theo bốn cảnh mà sinh khởi, vì sở duyên hay năng duyên không nhất định cùng khởi. Phải nói năm thứ này tùy lúc khởi lên một. Nghĩa là đối cảnh vui thì khởi tâm mong muốn, đối cảnh quyết định thì khởi thắng giải, đối cảnh đã từng tập qua thì khởi nghĩ nhớ, đối cảnh quán sát thì khởi tâm chuyên chú. Nghĩa là loại người ngu muội vì ngăn chận sự tán loạn tuy chuyên chú cảnh sở duyên nhưng không thể phân biệt lựa chọn. Người đời đều biết hạng người đó có định mà không có tuệ. Vì hạng người đó ở địa vị gia hành có nghe có suy nghĩ chút ít nên nói đẳng trì duyên cảnh sở quán, hoặc dựa vào đa phần mà nói như vậy. Như trường hợp ở cõi trời Hý vong, chuyên chú một cảnh khởi tham, sân v.v…, đó là có định mà không có tuệ. Các loại như vậy rất nhiều.

Hoặc có trường hợp đối cảnh sở quán chỉ khởi tâm giản trạch, nghĩa là chỉ giong ruổi tìm cầu mà không chuyên chú.

Hoặc có khi khởi hai tâm cùng một lúc, như đối cảnh vui và quyết định, khởi dục và thắng giải, hoặc đối cảnh vui đã từng trải qua khởi dục và niệm. Như vậy cho đến đối cảnh sở quán khởi định và tuệ, hợp lại có mười hai trường hợp khởi hai tâm cùng một lúc.

Hoặc có khi khởi ba tâm, như đối cảnh vui, quyết định, đã từng trải qua khởi dục, thắng giải và niệm. Như vậy cho đến trường hợp đối cảnh sở quán khởi niệm, định và tuệ, hợp lại có mười ba tâm.

Hoặc có khi khởi bốn tâm, như đối cảnh sở quán vui, quyết định đã từng trải qua, khởi bốn thứ trước, như vậy cho đến đối cảnh sở quán đã quyết định,từng trải qua, khởi bốn thứ sau, hợp lại có hai mươi tâm.

Hoặc có khi khởi năm tâm, như đối cảnh sở quán vui, quyết định, từng trải qua khởi lên năm thứ. Như vậy là có bốn trường hợp khởi dục v.v… năm tâm. Tính chung và riêng có tất cả ba mươi một trường hợp.

Hoặc có khi tâm thức khởi tác dụng nhưng cả năm đều không khởi. Như lúc không phải bốn cảnh chợt xảy ra nơi tâm và tương ưng với Tàng thức. Loại này rất nhiều không phải một.

Ở thức thứ bảy, thứ tám, tùy từng vị mà năn tâm sở Biệt cảnh hoặc có hoặc không, như trước đã nói. Còn ý thức thứ sáu, ở các vị đều có đủ, dù chuyển y hay chưa chuyển y đều không trở ngại.

Có ý kiến cho rằng ở năm thức trước đều không có năm Biệt cảnh này, vì năm thức đã duyên được cảnh nên không có sự mong muốn, tức dục, vì không thẩm xét quyết định nên không có thắng giải, hằng truy đuổi theo cảnh mới nên không có niệm, vì tự tính tán động nên không có định, vì không có khả năng suy lường lựa chọn nên không có tuệ.

Có ý kiến cho rằng năm thức đều có đủ cả năm Biệt cảnh này. Tuy không có ý muốn mạnh nhưng có cảnh vui yếu ớt, tuy không có thẩm định mạnh nhưng có quyết đoán yếu ớt, tuy không có sức ghi nhớ mạnh nhưng có trạng thái ghi nhớ yếu ớt, tuy không có ý buộc niệm vào một cảnh nhưng có sự chuyên chú yếu ớt. Vì ngăn trở sự đẳng dẫn nên nói tính nó tán động, không phải ngăn trở sự đẳng trì nên nói có định. Tuy đối cảnh sở duyên không thể suy lường nhưng có sự lựa chọn yếu ớt. Do đó Thánh giáo nói: Nhãn thông, nhĩ thông tức là nhãn thức, nhĩ thức tương ưng tính trí. Còn ba thứ nữa chuẩn theo đây nói có tuệ cũng không lỗi.

Khi ở địa vị chưa tự tại thì năm Biệt cảnh này hoặc không có, khi được tự tại thì năm Biệt cảnh nhất định có. Vì ưa quán các cảnh nên không thiếu tâm sở Dục, rõ ràng cảnh duyên nên không thiếu tâm sở Thắng giải, nhớ cảnh đã từng quen nên không thiếu tâm sở Niệm, lại năm thức của Phật duyên suốt ba đời, vì Như Lai không có tâm bất định, vì năm thức đều có trí tác sự.

– Năm Biệt cảnh này tương ưng với thụ nào?

Có ý kiến cho rằng đối với ba thụ, tâm sở Dục trừ khổ và ưu, vì cảm thụ khổ và âu lo không phải hai cảnh đáng ưa muốn. Ngoài ra bốn tâm sở kia thông cả bốn thụ, chỉ trừ khổ thụ, vì ở năm thức không có tính thẩm định.

Có ý kiến cho rằng tất cả tâm sở Biệt cảnh đều tương ưng năm thụ. Luận nói: Ưu căn đối với pháp Vô thượng suy nghĩ hâm mộ lo âu mong cầu chứng đắc, còn đối cảnh thuần thụ khổ thì mong cầu giải thoát. Ở ý thức có khổ căn như trước đã nói.

Luận nói: Tham ái tương ưng với ưu khổ.Tham ái này khởi thì chắc chắn có dục. Khổ căn đã tương ưng với ý thức thì nói cũng tương ưng với Thắng giải v.v…cả bốn nào có lỗi gì?

Lại Biệt cảnh tương ưng với năm thức cũng có bốn trạng thái vi tế, như trước đã nói. Do đó biết Dục v.v… tương ưng với cả năm thụ.

Năm tâm sở Biệt cảnh này còn được phân biệt theo tam tính, tam giới, tam học, suy lý sẽ rõ.

HẾT QUYỂN 5

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10