LUẬN THÀNH DUY THỨC
Hộ Pháp Bồ-tát tạo
Đường Tam tạng pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 10

 

Mười một chướng này đều thâu vào trong hai chướng.

Trong phiền não chướng, các chủng tử thuộc kiến sở đoạn thì khi vào địa vị kiến đạo của Cực hỷ địa mới bắt đầu đoạn trừ. Còn về hiện hành thì địa tiền đã khắc phục. Các chủng tử thuộc tu sở đoạn thì khi Kim cương dụ định hiện tiền đều đoạn dứt một lần rất nhanh chóng. Về hiện hành cũng đã khắc phục trước khi vào Sơ địa. Từ Sơ địa trở lên có thể dẹp hết một cách nhanh chóng khiến vĩnh viễn không hiện hành như A-la-hán. Do sức cố ý trong bảy địa đầu tuy có tạm thời khởi nhưng không phải là lỗi. Từ địa thứ tám trở lên loại phiền não thuộc tu đạo đoạn hoàn toàn không còn hiện hành.

Trong sở tri chướng, các chủng tử thuộc kiến đạo đoạn, khi vào kiến đạo vị ở Cực hỷ địa bắt đầu đoạn trừ. Còn hiện hành của sở tri chướng thuộc kiến đạo đoạn thì đã khắc phục trước khi vào Sơ địa. Các chủng tử thuộc tu đạo đoạn, trong mười địa lần lượt đoạn dứt, đến khi Kim cương dụ định hiện tiền thì vĩnh viễn đoạn hết. Còn hiện hành sở tri chướng thuộc tu đạo đoạn thì trước khi vào Sơ địa đã lần lần khắc phục, cho đến địa thứ mười mới vĩnh viễn dứt hết. Từ địa thứ tám trở lên, câu sinh sở tri chướng tương ưng với thức thứ sáu không còn hiện hành, vì tâm quán vô lậu và quả thường liên tục trái với nó. Nhưng câu sinh sở tri chướng tương ưng thức thứ bảy vẫn còn hiện hành, phải có trí quả pháp không, hiện khởi mới dẹp được. Năm chuyển thức trước dù chưa đươch chuyển y, nhưng do sức quán vô lậu đè bẹp làm cho sở tri chướng nơi năm thức này không thể khởi được.

Tuy trong mười địa vị tu đạo đều không đoạn diệt chủng tử phiền não chướng nhưng tính thô trọng của chúng cũng đoạn diệt dần. Do đó nói rằng hai chướng thô trọng, mỗi mỗi đều có ba địa vị đoạn trừ. Tuy trong các địa vị đều đoạn thô trọng nhưng có ba địa vị rõ rệt nên thiên nói về ba địa vị.

– Đoạn chủng tử tiệm đốn của hai chướng như thế nào?

Chủng tử phiền não chướng tương ưng với thức thứ bảy, khi hàng Tam thừa sắp được quả vô học, chỉ một sát-na là đoạn hết chướng này trong ba cõi. Còn chủng tử sở tri chướng, khi sắp thành Phật, trong một sát-na là dứt hết tất cả. Vì chúng lặng lẽ vận khởi tự nhiên bên trong không có thô tế.

Chủng tử phiền não chướng tương ưng thức thứ sáu, nếu thuộc loại kiến đạo đoạn thì trong Chân kiến đạo của kiến đạo vị Tam thừa dứt hết một lần. Nếu thuộc loại tu đạo đoạn thì tùy thích ứng mỗi loại, Nhị thừa, ba cõi, chín địa, mỗi mỗi lần lượt chín phẩm đoạn riêng biệt. Lại có một loại Nhị thừa, ba cõi, chín địa họp làm một nhóm chín phẩm đoạn riêng biệt. Bồ-tát thì phải đến Kim cương dụ định, trong một sát-na đoạn hết phiền não ba cõi một lần.

Chủng tử sở tri chướng thuộc kiến đạo đoạn, khi vào sơ tâm của Sơ địa là đoạn hết một lần. Nếu thuộc loại tu đạo đoạn, thì sau ở trong tu đạo vị của mười địa lần lượt đoạn cho đến khi khởi Kim cương dụ định thì trong một sát-na đoạn dứt hết. Vì sở tri chướng duyên cảnh thô tế bên trong thân và ngoài thân mà sinh khởi và có nhiều phẩm loại sai khác.

Nhị thừa độn căn nên khi lần lượt đoạn chướng phải khởi vô gián đạo, giải thoát đạo riêng biệt, còn gia hành đạo và thắng tiến đạo thì hoặc khởi chung hoặc khởi riêng.

Bồ-tát lợi căn, ở địa vị đoạn dần dần sở tri chướng, không phải khởi riêng vô gián đạo, giải thoát đạo, mà ngay trong từng sát-na có thể đoạn hoặc chứng quả, nên bốn vị gia hạnh v.v…trước sau tương vọng, dung thông đều đủ.

Mười Chân như là:

1. Biến hành Chân như. Tức Chân như do hai không hiển lộ, không một pháp nào là không có.

2. Tối thắng Chân như. Tức Chân như đủ vô biên đức, là tối thắng so với tất cả pháp.

3. Thắng lưu Chân như. Tức Chân như này lưu xuất giáo pháp tối thắng hơn cả.

4. Vô nhiếp thụ Chân như. Tức Chân như không bị lệ thuộc, chẳng phải làm chỗ nương tựa thủ đắc cho ngã chấp v.v…

5. Loại vô biệt Chân như. Tức Chân như không có loại sai khác. Chẳng phải như loại mắt, tai v.v…

6. Vô nhiễm tịnh Chân như. Tức Chân như tính vốn không nhiễm, nên không thể nói sau đó trở thành thanh tịnh.

7. Pháp vô biệt Chân như. Tức Chân như tuy có nhiều giáo pháp được an lập nhưng không sai khác.

8. Bất tăng giảm Chân như. Tức Chân như lìa chấp tăng giảm, vì không theo nhiễm tịnh mà có tăng giảm. Chân như này cũng gọi là chỗ nương tự tại cho thân tướng cõi nước. Nghĩa là chứng được Chân như này thì có thể tự tại hiện ra thân tướng cõi nước.

9. Trí tự tại sở y Chân như. Tức chứng được Chân như này thì được trí hiểu biết tự tại vô ngại.

10. Nghiệp tự tại sở y Chân như. Tức chứng được Chân như này thì được tự tại với tất cả thần thông, tác nghiệp, tổng trì, định môn.

Tuy tính của Chân như vốn thật không sai biệt, nhưng theo đức tính thù thắng khác nhau mà giả lập ra mười thứ. Tuy trong Sơ địa cũng đã đạt được tất cả, nhưng mười thắng hạnh để có thể chứng đạt Chân như còn chưa viên mãn. Vì thế để được viên mãn nên lập tiếp theo.

Như vậy Bồ-tát ở trong mười địa dũng mãnh tu hành mười thứ thắng hạnh, dứt mười trọng chướng, chứng mười Chân như thì chứng được hai thứ chuyển y.

Có sáu địa vị chuyển y:

1. Tổn lực ích năng chuyển. Tức là ở hai địa vị đầu do tu tập thắng giải và có tâm tàm quý làm suy tổn thế lực chủng tử tạp nhiễm trong bản thức, tăng thêm công năng chủng tử thanh tịnh trong bản thức. Tuy chưa đoạn dứt hết chủng tử hai chướng thật chứng chuyển y nhưng dần dần khắc phục được các hiện hành nên cũng gọi là chuyển.

2. Thông đạt chuyển. Tức ở địa vị thông đạt, do sức kiến đạo thông đạt Chân như, dứt được phần thô trọng của hai chướng phân biệt, chứng được một phần chân thật chuyển y.

3. Tu tập chuyển. Tức ở địa vị tu tập, do thường tu tập mười thắng hạnh của mười địa, dần dần đoạn phần thô trọng của hai chướng câu sinh, lần lượt chứng được chuyển y chân thật. Theo Nhiếp Đại Thừa Luận nói thì Thông đạt chuyển ở sáu địa đầu, ở đây do quán hữu tướng, quán vô tướng mà thông đạt chân tục xen tạp hiện tiền khiến chân, phi chân hoặc hiện hoặc không hiện. Còn nói Tu tập chuyển là ở bốn địa sau chỉ thuần quán vô tướng, thời gian dài hiện tiền dũng mãnh tu tập, đoạn trừ các tàn dư của thô trọng, phần nhiều làm cho phi chân không hiển hiện.

4. Quả viên mãn chuyển. Tức ở địa vị cứu cánh do ba đại kiếp A-tăng-xí-da tu tập vô biên thắng hạnh khó làm, cho đến khi Kim cương dụ định hiện tiền thì vĩnh viễn dứt sạch tất cả thô trọng từ xưa nay, nhanh chóng chứng Phật quả, viên mãn chuyển y, lợi lạc vị lai đến vô cùng tận.

5. Hạ liệt chuyển. Tức hàng Nhị thừa vì chuyên cầu tự lợi, chán khổ ưa tịch diệt, chỉ có thể thông đạt sinh không chân như, đoạn chủng tử phiền não chướng, chứng chân trạch diệt vô vi, không kham nổi những việc thù thắng hơn nên gọi hạ liệt chuyển.

6. Quảng đại chuyển. Tức hàng Đại thừa, vì lợi tha mà hướng đến đại Bồ-đề, không chán sinh tử ưa đắm Niết-bàn, đủ sức thông đạt hai không Chân như, đoạn dứt cả hai chủng tử phiền não chướng và sở tri chướng, nhanh chóng chứng vô thượng Bồ-đề Niết-bàn. Có sức kham năng các việc thù thắng như vậy nên gọi là quảng đại chuyển.

Trong đây ý nói quảng đại chuyển y là do xả bỏ hai thô trọng mà chứng được.

Nghĩa sai khác của chuyển y lược nói có bốn thứ:

1. Năng chuyển đạo. Ở đây lại có hai thứ:

a. Đạo năng phục. Tức khắc phục thế lực tùy miên của hai chướng, khiến không dẫn khởi hai chướng hiện hành. Đây thông cả hai đạo hữu lậu và vô lậu, ba trí gia hành, căn bản và hậu đắc. Tùy chỗ thích ứng mà dần dần hay nhanh chóng khắc phục chúng.

b. Đạo năng đoạn. Tức có thể vĩnh viễn dứt trừ tùy miên hai chướng. Đạo này không phải là hữu lậu gia hành, vì hữu lậu đã từng tu tập là do chấp tướng dẫn khởi, chưa dứt mất tướng cho nên dùng gia hành để đi đến cầu chứng là chưa được.

Có người cho rằng trí căn bản vô phân biệt trực tiếp chứng chân lý do hai không hiển lộ. Vì không cảnh tướng nên có thể dứt tùy miên. Trí hậu đắc thì không được vậy.

Có người cho rằng trí hậu đắc vô phân biệt, tuy không trực tiếp chứng chân lý hai không, không đủ sức dứt được tùy miên mê lý, nhưng với tướng an lập và phi an lập chứng đạt rõ ràng không điên đảo, cũng có thể vĩnh viễn dứt được mê sự tùy miên. Vì vậy Luận Du-già nói: Trong Tu đạo vị có xuất thế đoạn đạo, có thế xuất thế đoạn đạo. Không phải chỉ thuần thế gian đạo có thể vĩnh viễn trừ được tùy miên. Vì đó là đường lối đã từng tập quen do sự chấp tướng dẫn phát. Do đó các tùy miên mê lý thuộc kiến đạo đoạn hay tu đạo đoạn chỉ có trí căn bản vô phân biệt trực tiếp chứng chân lý mới đoạn được. Ngoài ra các tùy miên mê sự thuộc tu đạo đoạn thì cả trí căn bản và trí hậu đắc đều đoạn được.

2. Sở chuyển y. Ở đây cũng có hai:

a. Chỗ dựa của sự duy trì chủng tử. Đây là thức căn bản. Thức này gìn giữ chủng tử các pháp nhiễm tịnh và làm chỗ nương tựa chung cho các pháp nhiễm tịnh. Nhờ Thánh đạo chuyển khiến bỏ nhiễm được tịnh. Các pháp y tha khởi khác tuy cũng làm chỗ nương nhưng không duy trì được chủng tử nên ở đây không nói.

b. Chỗ dựa của sự mê ngộ. Đây tức là Chân như. Chân như làm căn bản cho mê ngộ, các pháp nhiễm tịnh dựa vào đó mà sinh khởi. Nhờ Thánh đạo chuyển khiến bỏ nhiếm được tịnh. Các pháp khác cũng làm chỗ nương cho mê ngộ nhưng không phải căn bản nên ở đây không nói.

3. Sở chuyển xả. Ở đây cũng có hai:

a. Sở đoạn xả. Tức bị đoạn trừ. Đó là chủng tử hai chướng. Khi chân vô gián đạo hiện tiền thì vì chướng bị đối trị trái với vô gián đạo nên liền bị vĩnh viễn đoạn trừ, nên nói là đoạn xả. Chủng tử kia đoạn nên không hiện hành vọng chấp ngã pháp trở lại, chỗ chấp ngã pháp không còn đối với vọng tình, nên cũng nói là xả. Do đó gọi là xả Biến kế sở chấp.

b. Sở khí xả. Tức bị vất bỏ. Nghĩa là loại bỏ các chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu yếu kém. Khi Kim cương dụ định hiện tiền dẫn phát bản thức cực kỳ tròn sáng thanh tịnh không còn làm chỗ nương cho chúng vì đã vĩnh viễn loại bỏ. Chủng tử kia đã bị vất bỏ rồi thì hiện hành của pháp hữu lậu và pháp vô lậu yếu kém hoàn toàn không sinh khởi. Đã vĩnh viễn không sinh nên cũng nói là xả. Do đó gọi là xả bỏ pháp sinh tử yêu kém.

Có người cho rằng khi Kim cương dụ định hiện tiền, các chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu yếu kém đều bị vất bỏ vì đồng thời bỏ hết chủng tử của hai chướng.

Có người cho rằng bấy giờ vẫn chưa bỏ chúng vì không trái với vô gián đạo, vì Bồ-tát phải không có pháp sinh tử, và ở địa vị này phải không có thức bị huân tập, vì trụ vô gián đạo phải gọi là Phật và như thế giải thoát đạo sau trở thành vô dụng. Do đó phải biết rằng các chủng tử hữu lậu tàn dư, phải đợi đến khi giải thoát đạo khởi lên mới bỏ hết được, vì tịnh thức thứ tám không phải chỗ nương của chúng.

4. Sở chuyển đắc. Ở đây lại có hai là sở hiển đắc và sở sinh đắc.

a- Sở hiển đắc là Đại Niết-bàn. Niết-bàn tuy xưa nay tự tính thanh tịnh, nhưng do khách trần chướng ngại che lấp khiến không hiển lộ. Khi chân Thánh đạo phát sinh, dứt hết các chướng khiến chân tướng hiển lộ gọi là được Niết-bàn. Đây là y Chân như lìa tướng mà nói, còn thể tức là pháp giới thanh tịnh.

Niết-bàn, lược nói có bốn nghĩa:

– Niết-bàn bản lai tự tính thanh tịnh. Tức là lý Chân như của tất cả pháp tướng. Tuy có khách trần ô nhiễm mà tính vốn thanh tịnh, đủ vô số vô lượng công đức vi diệu, không sinh không diệt vắng lặng như hư không. Tính ấy tất cả hữu tình đều có bình đẳng, với tất cả các pháp chẳng một chẳng khác, lìa tất cả tướng, tất cả phân biệt, tuyệt đường suy nghĩ, dứt lối nói phô, chỉ bậc chân Thánh tự chứng bên trong. Tính vốn vắng lặng nên gọi là Niết-bàn.

– Niết-bàn hữu dư y. Tức Chân như ra khỏi phiền não chướng. Tuy còn các khổ vi tế chưa diệt, nhưng chướng đã diệt hẳn nên gọi là Niết-bàn.

– Niết bàn vô dư y. Tức Chân như ra khỏi khổ sinh tử, phiền não sạch không, thân dư thừa cũng hết, các khổ hoàn toàn vắng lặng nên gọi là Niết-bàn.

– Niết-bàn không trụ xứ. Tức Chân như ra khỏi sở tri chướng, thường được đại bi và Bát-nhã phụ trợ. Do dó không trụ sinh tử không trụ Niết-bàn, lợi lạc hữu tình cùng tột đời vị lai. Tuy có diệu dụng nhưng thường tĩnh lặng nên gọi là Niết-bàn.

Tất cả hữu tình đều có. Nhị thừa vô học có ba thứ đầu. Chỉ Thế Tôn có đủ cả bốn.

Hỏi: Vì sao đấng Thiện Thệ còn có Hữu dư y?

Đáp: Tuy không thật có Hữu dư y mà hiện tựa như có. Hoặc không còn chỗ nương của khổ nói là Vô dư y, chẳng phải chỗ nương của khổ còn tồn tại mà nói Hữu dư y. Cho nên có thể nói Thế Tôn đủ cả bốn.

Hỏi: Nếu Thanh văn v.v…có Vô dư y, tại sao có chỗ nói không có? Lại có chỗ nói các vị ấy đều không có Niết-bàn, vậy lẽ nào Hữu dư y cũng không có sao?

Đáp: Hàng Thanh văn v.v…lúc còn có thân, còn trong quán trí còn có sở tri chướng. Chỗ nương của khổ chưa hết, tính viên tịch chưa hiển lộ nên nói không Niết-bàn, chứ không phải thật sự các vị ấy không hết phiền não chướng, không hiển lộ chân lý Hữu dư Niết-bàn.

Lại lúc bấy giờ chưa chứng Vô dư y viên tịch nên cũng nói các vị ấy không có Vô dư y, chứ không phải sau khi hết báo thân và quán trí, không còn chỗ cho khổ nương mà không có Vô dư y Niết-bàn.

Hoặc nói Nhị thừa không có Niết-bàn tức nói không có Niếtbàn Vô trụ xứ, chứ không phải không có ba thứ Niết-bàn ở trước.

Lại nói các vị ấy không có Vô dư y là nói hàng Nhị thừa bất định tính. Các vị này vừa chứng đắc Hữu dư Niết-bàn, liền quyết định hồi tâm cầu vô thượng giác. Do định lực và nguyện lực các vị để thân lâu dài lại thế gian, không phải như hạng liền nhập Vô dư y.

Nghĩa là có một loại Nhị thừa quá yêu thích viên tịch, chứng đắc sinh không quán, trực chứng Chân như, vĩnh viễn diệt hết các chiêu cảm sinh phiền não chướng, hiển lộ chân lý Hữu dư Niết-bàn. Vì đã hết các khả năng chiêu cảm sinh phiền não nên thân hậu hữu Dị thục không do đâu sinh trở lại. Chỗ nương của hiện khổ tự nhiên diệt, các pháp hữu vi đã không còn chỗ nương cũng nhanh chóng xả bỏ một lần, hiển lộ chân lý Vô dư Niết-bàn. Bấy giờ Nhị thừa tuy không có báo thân và trí quán, nhưng trước đã chứng nên có thể nói Nhị thừa có Vô dư y Niết-bàn.

Trong địa vị Vô dư y Niết-bàn này chỉ có Chân như thanh tịnh, vắng lặng lìa tướng, tịch diệt an lạc. Do đó nói Nhị thừa với Phật không khác. Có điều là Nhị thừa không có tâm Bồ-đề và sự nghiệp lợi tha nên lại nói Nhị thừa khác với Phật.

Hỏi: Các sở tri chướng đã không chiêu cảm thụ sinh, sao dứt sở tri chướng lại được Niết-bàn Vô trụ xứ?

Đáp: Vì sở tri chướng che lấp Chân như pháp không, khiến không phát sinh đại bi Bát-nhã làm lợi lạc hữu tình đến tận đời vị lai, cho nên khi đoạn sở tri chướng thì hiển lộ lý pháp không. Đó là lý Niết-bàn Vô trụ xứ, là không trụ lại ở hai bên sinh tử cũng như Niết-bàn.

Hỏi: Nếu sở tri chướng cũng chướng ngại Niết-bàn, sao đoạn sở tri chướng lại không được Trạch diệt?

Đáp: Trạch diệt là lìa trói buộc, sở tri chướng chẳng phải trói buộc.

Hỏi: Đã chẳng phải trói buộc thì khi đoạn chúng đâu được Niết-bàn?

Đáp: Không phải các Niết-bàn đều thuộc Trạch diệt. Nếu không như vậy thì tính tịnh Niết-bàn lẽ ra là không phải Niết-bàn. Cái gì có khả năng trói buộc hữu tình ở trong sinh tử thì đoạn cái đó mới được nói là Trạch diệt vô vi. Các sở tri chướng không chiêu cảm sinh tử, không phải như phiền não có thể trói buộc hữu tình, cho nên khi đoạn chúng không gọi là Trạch diệt được. Nhưng nhờ đoạn chúng mà hiển lộ lý pháp không. Tướng của lý này vắng lặng nên gọi là Niết-bàn. Niết-bàn này chẳng phải lấy Trạch diệt làm tính.

Cho nên bốn viên tịch Niết-bàn này, trong các vô vi, cái đầu và cái sau là Chân như vô vi, hai cái giữa thuộc Trạch diệt vô vi.

Hỏi: Nếu chỉ đoạn sự trói buộc của phiền não là được Trạch diệt thì Bất động diệt vô vi và Thụ tưởng diệt vô vi, hai thứ đó thuộc thứ nào trong bốn thứ?

Đáp: Hai thứ này không thuộc Trạch diệt vô vi, vì chỉ tạm thời lìa trói buộc. Chỉ khi nào diệt rốt ráo mới gọi là Trạch diệt vô vi, vì có phi trạch diệt và phi vĩnh diệt.

Hoặc Niết-bàn vô trụ xứ cũng thuộc trong Trạch diệt vô vi, vì do sức chân thật lựa chọn diệt được sở tri chướng mà chứng đắc.

Trạch diệt có hai:

– Được do đoạn dứt trói buộc, tức được do dứt các phiền não chiêu cảm sự thụ sinh.

– Được do đoạn chướng, tức chứng đắc do đoạn trừ sở tri chướng.

Cho nên bốn thứ viên tịch Niết-bàn, trong các vô vi, cái đầu là Chân như vô vi, ba cái sau đều là Trạch diệt vô vi. Bất động diệt và Thụ tưởng diệt hai thứ chỉ tạm thời phục diệt nên thuộc Phi trạch diệt, chỉ khi nào diệt rốt ráo mới thuộc Trạch diệt.

Hỏi: Đã nói sở tri chướng cũng chướng ngại Niết-bàn, sao chỉ nói là chướng ngại Bồ-đề?

Đáp: Nói phiền não chướng chỉ chướng Niết-bàn đâu phải chúng không chướng Bồ-đề. Nên biết rằng trong Thánh giáo thường dựa vào cái dụng vượt trội mà nói. Sự thật thì lý thông cả quả của hai chướng.

Như vậy nói trong bốn Niết-bàn chỉ ba thứ sau là do sở hiển mà được.

b- Sở sinh đắc. Tức là Đại Bồ-đề. Bồ-đề xưa nay vốn có chủng tử năng sinh, nhưng vì sở tri chướng ngăn ngại không sinh được. Do sức Thánh đạo khiến chủng tử ấy sinh khởi gọi là được Bồ-đề. Sau khi khởi lên rồi tương tục cho đến tận đời vị vị lai. Đó là tâm phẩm tương ưng với bốn trí.

Thế nào là tâm phẩm tương ưng với bốn trí?

1. Tâm phẩm tương ưng với trí Đại viên kính. Nghĩa là tâm phẩm này lìa các phân biệt. Hành tướng sở duyên rất vi tế khó biết, không dối không ngu tất cả cảnh tướng, tính tướng thanh tịnh lìa các tạp nhiễm, làm chỗ nương cho hiện hành, là chỗ duy trì cho chủng tử của các công đức thuần tịnh viên mãn, có thể hiện sinh ảnh tượng của thân, quốc độ, và trí không gián đoạn cùng tận vị lai như tấm gương tròn lớn hiện các sắc tượng.

2. Tâm phẩm tương ưng với trí Bình đẳng tính. Nghĩa là quán tất cả pháp tự tha hữu tình đều bình đẳng. Tâm từ bi quảng đại sánh bằng sông Hằng, tùy các hữu tình ưa thích mà thị hiện các ảnh tượng khác nhau của thụ dụng thân cũng như quốc độ. Trí này là chỗ nương riêng của trí Diệu quan sát, là chỗ kiến lập của Niết-bàn vô trụ xứ, một vị thuần nhất tương tục cho đến cùng tận vị lai.

3. Tâm phẩm tương ưng với trí Diệu quán sát. Nghĩa là tâm phẩm này khéo quán sát tướng riêng và tướng chung của các pháp, tùy chuyển không ngăn ngại, gồm thâu pháp môn tổng trì quán vô lượng, phát sinh công đức quý báu. Trong đại chúng hội có thể tự tại hiện vô biên tác dụng sai biệt, mưa xuống cơn mưa đại pháp, đoạn dứt tất cả nghi ngờ khiến hữu tình đều được lợi lạc.

4.Tâm phẩm tương ưng với trí Thành sở tác. Nghĩa là tâm phẩm này vì muốn lợi lạc các hữu tình, nên thị hiện khắp mười phương các thứ ba nghiệp biến hóa, thành tựu các việc nên làm của sức bản nguyện.

Như vậy tâm phẩm tương ưng với bốn trí, tuy mỗi tâm phẩm đều có hai mươi hai pháp đủ cả chủng tử hiện hành câu sinh, năng biến, sở biến, nhưng trong đó công dụng của trí mạnh hơn nên dùng tên gọi là trí để làm rõ nghĩa. Vì vậy bốn trí phẩm này gồm thâu tất cả công đức hữu vi của Phật địa.

Bốn trí phẩm này chuyển các thức hữu lậu thứ tám, thứ bảy, thứ sáu, năm thức và các phẩm tương ưng, theo thứ tự chứng đắc.

Trí tuy chẳng phải thức, nhưng nương thức chuyển, thức là chủ nên nói chuyển thức thành trí. Lại trong địa vị hữu lậu thì trí yếu thức mạnh, trong địa vị vô lậu thì trí mạnh thức yếu. Để khuyến khích hữu tình nương trí bỏ thức nên nói chuyển tám thức thành bốn trí này.

Tâm phẩm tương ưng trí Đại viên kính: Có người cho rằng Bồtát khi Kim cương dụ định hiện tiền thì trí này mới hiện khởi, cùng lúc đó xả bỏ các chủng tử của thức Dị thục cùng các chủng tử sở tri chướng rất vi tế. Nếu trí Đại viên kính bấy giờ chưa hiện khởi thì không có thức để duy trì chủng tử thanh tịnh.

Có người cho rằng phẩm này phải đến khi giải thoát đạo thành Phật mới bắt đầu hiện khởi, vì chủng tử trong Dị thục thức kia khi Kim cương dụ định hiện tiền chưa nhanh chóng xả bỏ được, do chủng tử đó không trái với vô gián đạo, vì không phải chướng ngại pháp hữu lậu và vô lậu yếu kém mà chỉ trái với Phật quả.

Kim cương dụ định không có thức sở huân, vô lậu không tăng thì phải thành Phật.

Do đó phẩm này từ khi mới thành Phật đến tần cùng vị lai tương tục không dứt, duy trì chủng tử vô lậu không để mất.

Tâm phẩm tương ưng với trí Bình đẳng: Bồ-tát khi ở địa vị kiến đạo mới bắt đầu hiện tiền, vì trái với hai chấp nên mới được khởi. Sau trong mười địa vì chấp chưa dứt cho nên các địa vị hữu lậu có gián đoạn. Từ sau Pháp vân địa thì cùng tịnh thức thứ tám nương nhau tương tục cho đến tận cùng vị lai.

Tâm phẩm tương ưng với trí Diệu quan sát:

– Quán sinh không. Tức Nhị thừa ở địa vị kiến đạo, trí quán sinh không bắt đầu khởi. Từ đó lần lượt chuyển đến địa vị vô học, cuối cùng hoặc đến giải hành địa của Bồ- tát, hoặc tiến lên bậc trên. Nếu khi không phải tâm hữu lậu hoặc khi vô tâm, trí quán này đều hiện khởi được.

– Quán pháp không.Tức Bồ-tát ở địa vị kiến đạo mới khởi.Từ đó lần lượt chuyển đến bậc trên. Nếu khi không phải tâm hữu lậu, khi có trí quả sinh không, hoặc khi vô tâm đều có thể hiện khởi.

Tâm phẩm tương ưng với trí Thành sở tác: Có người cho rằng Bồtát ở trong địa vị tu đạo, nhờ trí hậu đắc dắt dẫn mà bắt đầu khởi được.

Có người cho rằng khi thành Phật trí này mới bắt đầu khởi, vì khi ở trong mười địa thì mắt v.v…nương thức Dị thục biến hiện không phải vô lậu. Hữu lậu là bất cộng, đồng căn đồng cảnh duyên mà phát sinh thức vô lậu là lý không tương ứng. Thức vô lậu và căn hữu lậu, hai thứ này đối với cảnh sáng tối khác nhau. Do đó, trí phẩm này phải đến khi thành Phật, nương nơi năm căn vô lậu mới được hiện khởi, nhưng thường gián đoạn vì phải chờ có tác ý mới khởi được.

Tính của bốn thứ trí này tuy đều vốn có nhưng phải huân phát mới mới hiện hành được. Trong địa vị tu nhân có tăng dần. Phật quả viên mãn thì không tăng không giảm ttotj cùng đến tận vị lai. Có điều bấy giờ là từ chủng tử phát sinh và không huân thành chủng tử nữa, chứ không phải đức của Phật trước khi thành hơn sau khi thành.

Về tâm phẩm tương ưng với trí Đại viên kính, có người cho rằng nó chỉ duyên Chân như làm cảnh. Đây là trí vô phân biệt, không phải trí hậu đắc, hành tướng và sở duyên của nó không thể biết được.

Có người cho rằng phẩm này duyên tất cả pháp. Luận Trang Nghiêm nói: Trí Đại viên kính không ngu mê đối với tất cả các cảnh. Kinh Phật Địa nói: Trong trí Đại viên kính của Như Lai hiện đủ các ảnh tượng căn, trần, thức. Lại nữa trí này duyên chủng tử vô lậu và các ảnh tượng như hiện thân, quốc độ v.v… nhưng vì hành tướng và sở duyên của nó vi tế nên nói không thể biết được. Như A-lại-da cũng duyên tục đế. Duyên Chân như là trí vô phân biệt, duyên các cảnh khác là trí hậu đắc. Hai trí này thể là một, tùy dụng mà chia làm hai. Hiểu rõ tục đế chứng được Chân như nên gọi là hậu đắc. Ba trí khác cũng vậy, thể thì một mà dụng thì hai, chuẩn theo đây mà biết.

Về tâm phẩm tương ưng với trí Bình đẳng tính, có người cho rằng trí này chỉ duyên với tịnh thức thứ tám, như nhiễm thức thứ bảy duyên tàng thức vậy.

Có người cho rằng trí này chỉ duyên Chân như làm cảnh, vì duyên tính bình đẳng của tất cả pháp.

Có người cho rằng trí này duyên cả chân lẫn tục làm cảnh. Kinh Phật Địa nói: Trí Bình đẳng tính chứng được mười thứ tính bình đẳng. Luận Trang Nghiêm nói: Duyên các hữu tình tự tha bình đẳng. Tùy chỗ thắng giải của hữu tình mà thị hiện vô biên ảnh tượng Phật. Do đó trí phẩm này duyên cả chân và tục, thuộc hai trí đều không trái lý.

Tâm phẩm tương ưng với trí Diệu quan sát, là duyên tự tướng cộng tướng của tất cả các pháp đều không ngăn ngại và thuộc về hai trí.

Về tâm phẩm tương ưng với trí Thành sở tác, có người cho rằng nó chỉ duyên năm thứ hiện cảnh. Luận Trang Nghiêm nói: Năm căn của Như Lai đều mỗi mỗi đều đối năm cảnh mà chuyển.

Có người cho rằng trí phẩm này cũng duyên khắp các pháp trong ba đời, không sai chính lý. Kinh Phật Địa nói: Trí Thành sở tác khởi làm các việc biến hóa nơi ba nghiệp, quyết trạch tâm hành sai khác của hữu tình, lãnh thụ các nghĩa quá khứ hiện tại. Nếu trí này không khắp duyên thì không có khả năng như vậy. Nhưng tâm phẩm này, tùy sức ý lạc mà duyên một pháp hoặc hai hoặc nhiều. Lại trong Luận Trang Nghiêm nói là năm căn của Như Lai duyên nơi năm cảnh, chứ không nói chỉ duyên năm cảnh nên không trái nhau.

Trí này tùy theo tác ý phát sinh, duyên cảnh sự tướng, khởi sự nghiệp hóa tha, nên chỉ thuộc trí hậu đắc.

Bốn tâm phẩm này đều có thể duyên khắp tất cả pháp nhưng về dụng có khác nhau.

Trí Đại viên kính thì hiện tự thụ dụng thân và tướng tịnh độ, duy trì chủng tử vô lậu. Trí Bình đẳng tính thì hiện tha thụ dụng thân và tướng tịnh độ. Trí Thành sự tác thì có thể biến hiện hóa thân và cõi nước. Trí Diệu quan sát thì quán sát công năng và lỗi lầm của tự và tha, mưa xuống cơn mưa đại pháp, phá các lưới nghi, lợi lạc hữu tình. Có nhiều pháp môn sai biệt như vậy.

Bốn tâm phẩm này gọi tên là Sở sinh đắc.

Sở sinh đắc này gọi chung là Bồ-đề, cùng với Niết-bàn trước đó gọi là Sở chuyển đắc. Tuy nghĩa của chuyển y nói chung có bốn thứ, nhưng nay chỉ lấy hai sở chuyển đắc, vì tụng nói “chứng được chuyển y”.

Tu tập vị này nói có khả năng chứng đắc chứ không nói đã chứng đắc, vì còn ở trong địa vị tu nhân.

Sau cùng, tướng của Cứu cánh vị như thế nào?

Tụng nói:

30. Đây là cõi vô lậu,

Bất tư nghị, thiện, thường,

Thân giải thoát an lạc,

Pháp thân Đại Mâu-ni.

Luận nói: Nên biết rằng quả chuyển y đạt được của Tu tập vị trước đó là tướng trạng của Cứu cánh vị này. Chữ “Đây” trong bài tụng là chỉ hai quả chuyển y trước đó, hai quả này thuộc cảnh giới cứu cánh vô lậu. Các lậu vĩnh viễn sạch hết, vô lậu theo đó tăng lên, tính thanh tịnh tròn sáng nên gọi vô lậu. Chữ “cõi” có nghĩa là cảnh giới , hay kho tàng, trong đó chứa đựng vô biên hy hữu đại công đức. Hoặc chữ “cõi” này cũng có nghĩa là nhân có khả năng phát sinh các sự lợi lạc cho năm thừa thế gian và xuất thế gian.

Hỏi: Pháp giới thanh tịnh có thể chỉ thuộc vô lậu, còn bốn trí tâm phẩm tại sao chỉ thuộc vô lậu?

Đáp: Vì thuộc Đạo đế nên chỉ là vô lậu. Nghĩa là công đức và báo thân, quốc độ của Phật đều từ chủng tính vô lậu phát sinh, vì chủng tử pháp hữu lậu đã vĩnh viễn xả bỏ. Duc có thị hiện thân sinh tử và các nghiệp phiền não tương tự như Khổ đế, Tập đế nhưng kỳ thật thuộc vô lậu Đạo đế.

Hỏi: Tập Luận nói: Mười lăm giới chỉ là hữu lậu. Như Lai lẽ nào không có mười lăm giới là năm căn, năm thức và năm ngoại trần sao?

Đáp: Có người cho rằng công đức báo thân, quốc độ của Như Lai sâu xa vi diệu, chẳng phải có chẳng phải không, lìa các phân biệt, dứt các hý luận, không thuộc các môn giới, xứ, nên không trái với lý kia nói.

Có người cho rằng năm căn, năm cảnh của Như Lai là từ diệu định Thủ Lăng- nghiêm phát sinh, chỉ thuộc pháp giới sắc, còn năm thức không phải của Phật tuy cũng nương đây biến hiện mà thô và tế có khác nhau. Cho nên không thuộc vào năm cảnh, mà năm thức của Như Lai cũng không thuộc năm thức giới. Kinh nói: Tâm Phật hằng ở trong định. Luận nói: Tính của năm thức là tán loạn.

Hỏi: Trí Thành sở tác tương ưng với thức nào?

Đáp: Tương ưng với thức thứ sáu, do khởi tác dụng biến hóa.

Hỏi: Tính của nó có gì khác với tính của trí Diệu quan sát?

Đáp: Tính của trí Diệu quan sát là quán tự tướng cộng tướng của các pháp. Còn đây chỉ khởi tác dụng biến hóa nên khác.

Hỏi: Hai trí phẩm này phải không cùng sinh, vì một loại hai thức không cùng khởi?

Đáp: Chấp nhận không cùng khởi không trái lý. Đồng một thể mà dụng thì phân chia, nên cùng khởi cũng không có lỗi.

Hoặc trí Thành sở tác cùng tịnh thức thứ bảy tương ưng. Nương các căn như nhãn v.v…duyên các cảnh như sắc v.v…đó là cái dụng sai biệt của trí Bình đẳng tính. Nghĩa là tịnh thức thứ bảy khởi tướng tha thụ dụng thân và quốc độ là thuộc trí Bình đẳng tính. Còn khởi biến hóa là thuộc trí Thành sự.

Hỏi: Trí Thành sở tác này không thuộc năm thức được sao?

Đáp: Không phải vì chuyển được mà thể của cái này tức là thể của cái kia. Như nói chuyển sinh tử được Niết-bàn không có nghĩa Niết-bàn đồng với sinh tử. Vì vậy không nên hỏi như thế.

Có người cho rằng công đức thân, độ của Như Lai nên gồm trong uẩn, xứ, giới, vì uẩn, xứ, giới cả ba đều thông cả hữu lậu và vô lậu. Tâp Luận nói: Mười lăm giới chỉ là hữu lậu. Đó là dựa vào cảnh thô thiển của Nhị thừa mà nói chứ không phải nói tất cả. Nghĩa là nếu thành tựu được mười tám giới thì chỉ có ba giới sau là thông thuộc vô lậu. Còn như Phật thành tựu mười tám giới thì cả mười tám giới đều vô lậu, nhưng đó không phải là cảnh giới Nhị thừa có thể biết được.

Hoặc có chỗ khác nói công đức của Phật

Không phải là giới v.v…vì không giống như giới v.v… của Nhị thừa trí thấp kém biết được. Lý phải biết như vậy. Vì sao? Vì pháp hữu vi đều thuộc vào uẩn, vì tất cả pháp đều thuộc vào giới và xứ, vì nói mười chính giới là điều Phật ngăn cấm.

Nếu tuyệt hý luận thì cũng không gọi là giới, và cũng không nên nói là giới vô lậu , thiện, thường, an lạc, là thân giải thoát. Lại có nhiều chỗ nói chuyển vô thường uẩn được thường uẩn. Giới, xứ cũng vậy. Chứ đâu nói Như Lai chẳng phải uẩn, xứ, giới. Cho nên nói chẳng phải, đó là mật ý nói.

Lại nói “năm thức tính tán loạn” là nói các trường hợp khác, không phải nói năm thức của Phật. Cho nên trong thân Phật có đủ cả mười tám giới nhưng đều thuần vô lậu.

Lại quả chuyển y này là “không thể nghĩ bàn”, vượt ra ngoài suy tư nghị luận, vi diệu sâu xa, chỉ tự chứng ngộ bên trong, không thể lấy việc thế gian ví dụ được.

Đây là thiện của tính bạch pháp, là pháp giới thanh tịnh xa lìa sinh diệt, cực kỳ an ổn, vì tâm phẩm của bốn trí diệu dụng vô biên, thiện xảo vô cùng. Hai loại quả này đều có tướng thuận ích, trái với pháp bất thiện, nên đều nói là thiện.

Hỏi: Luận nói trong mười hai xứ, chỉ có tám là vô ký. Vậy lẽ nào Như Lai không có năm căn, ba cảnh, tức tám thứ vô ký kia?

Đáp: Trong đây có ba lối giải thích, đã nói rộng như ở trước. Đây chỉ nói về tất cả các pháp thuộc về thân, độ của Như Lai đều thuộc Đạo đế và Diệt đế, cho nên chỉ có thiện mà thôi. Phật nói Diệt đế, Đạo đế chỉ có tính thiện. Cõi Phật v.v…không thuộc Khổ đế, Tập đế. Thức của Phật biến hiện các tướng hữu lậu, bất thiện, vô ký, đó là từ chủng tử vô lậu phát sinh, nên đều thuộc về vô lậu thiện.

Hai quả này đều thường còn vì không có thời kỳ cùng tận, là pháp giới thanh tịnh không sinh không diệt, tính không biến đổi nên gọi là thường. Chỗ nương của tâm phẩm bốn trí là thường, không cùng tận, nên cũng gọi là thường. Bốn trí không phải tự tính thường mà do nhân sinh ra. Sinh thì chắc chắn phải diệt, không có sắc tâm nào là vô thường cả. Nhưng bốn trí phẩm này là do sức bản nguyện hóa độ hữu tình, mà hữu tình thì tận vị lai không có thời kỳ cùng tận.

Hai quả chyển y này đều an lạc, không bức não, là pháp giới thanh tịnh, các tướng đều tĩnh lặng, nên gọi là an lạc. Bốn trí tâm phẩm vĩnh viễn xa lìa não hại, nên gọi an lạc. Tự tính hai quả chuyển y này là không áp bức não hại nên có thể làm cho tất cả hữu tình được an lạc, nên cả hai đều gọi là an lạc.

Nhị thừa chứng đắc hai quả chuyển y này, chỉ vĩnh viễn lìa sự trói buộc của phiền não chướng chứ không có pháp thù thắng, nên chỉ gọi là thân giải thoát.

Đại giác Thế Tôn thành tựu pháp tịch mặc vô thượng, nên gọi là Đại Mâu-ni. Hai quả Đức Mâu-ni chứng đắc vĩnh viễn xa lìa hai chướng, nên cũng gọi là pháp thân. Pháp thân được trang nghiêm vô lượng vô biên đại công đức như mười lực, bốn vô úy v.v…Cái thể có nghĩa là nơi quy tụ nương tựa gọi là thân. Cho nên pháp thân này gồm có năm pháp Chân như và bốn trí làm tính, không phải đơn độc một tịnh pháp giới gọi là pháp thân, vì hai quả chuyển y đều gồm trong pháp thân này.

Như vậy pháp thân có ba tướng khác nhau:

1. Tự tính thân. Tức pháp giới chân tịnh của chư Như Lai. Là chỗ nương bình đẳng của thụ dụng thân và biến hóa thân. Thân này lìa các tướng, vắng lặng, tuyệt dứt hý luận, đầy đủ công đức chân thường, không giới hạn. Đó là thật tính bình đẳng của tất cả các pháp.

Tự tính này chính là pháp thân. Là chỗ nương của pháp đại công đức.

2. Thụ dụng thân. Thân này có hai:

a. Tự thụ dụng thân. Tức chư Như Lai trải ba vô số kiếp tu tập vô lượng phúc đức tư lương, khởi vô biên chân thật công đức, và sắc thân rất viên mãn thanh tịnh thường biến khắp, tận vị lai hằng thụ dụng pháp lạc rộng lớn.

b. Tha thụ dụng thân. Tức chư Như Lai do trí bình đẳng thị hiện thân công đức vi diệu thanh tịnh, ở cõi Tịnh độ vì các chúng Bồ-tát ở mười địa hiện thần thông lớn chuyển bánh xe chính pháp, dứt các lưới nghi, khiến chúng thụ dụng pháp lạc Đại thừa.

Hợp hai thứ thân trên gọi là thụ dụng thân.

3. Biến hóa thân. Tức chư Như Lai do trí Thành sự biến hiện vô lượng tùy loại hóa thân, ở cõi tịnh cõi uế vì các Bồ-tát chưa vào mười địa, các hàng Nhị thừa, Dị sinh, xứng hợp cơ nghi hiện thần thông nói pháp khiến đều được lợi lạc.

Lấy năm pháp tính thâu giữ ba thân:

Có thuyết cho rằng hai pháp đầu tiên thuộc tự tính thân. Kinh nói Chân như là pháp thân. Luận nói chuyển bỏ thức A-lại-da được tự tính thân, vì trí Đại viên kính chuyển tàng thức mà chứng được.

Hai trí phẩm giữa thuộc thụ dụng thân, vì nói trí Bình đẳng ở cõi thuần tịnh vì các Bồ-tát mà hiện Phật thân. Và nói trí Diệu quan sát trong chúng đại tập hội hiện thân tự tại thuyết pháp đoạn nghi, chuyển các chuyển thức mà được thụ dụng thân.

Một trí phẩm sau cùng thuộc biến hóa thân, là nói trí Thành sự hiện các thứ biến hóa vô lượng khó nghĩ bàn trong các cõi mười phương.

Lại trí thù thắng gồm đủ ba thân, cho nên biết rằng ba thân đều có thật trí.

Có thuyết cho rằng cái đầu tiên thuộc tự tính thân, vì nói tự tính thân bản tính là thường, pháp thân Phật không sinh diệt, pháp thân do chứng được chứ không phải do sinh nhân mà được, pháp thân chư Phật là cộng hữu, biến khắp tất cả pháp, như hư không, vô tướng vô vi, phi tâm phi sắc. Nhưng nói chuyển bỏ tàng thức mà được có nghĩa là chuyển diệt hai chướng thô trọng trong thức thứ tám mà hiển lộ pháp thân.

Lại trong trí thù thắng có pháp thân tức là pháp thân là chỗ dựa cho bốn trí, là thật tính của bốn trí. Tự tính pháp thân tuy có vô biên công đức chân thật, nhưng là vô vi nên không thể nói đó là sắc hay tâm.

Trong bốn trí công đức chân thật và sắc thân thường biến do trí Đại viên kính khởi thì gồm trong thụ dụng thân, Phật thân do trí Bình đẳng hiện thì thuộc về tha thụ dụng thân, các loại thân tướng tùy loại do trí Thành sự hiện thì thuộc biến hóa thân.

Trí Đại viên kính là Phật thụ dụng thân, vì chuyển các chuyển thức mà được thụ dụng. Tuy chuyển tàng thức cũng được thụ dụng, nhưng vì đã nói chuyển tàng thức hiển pháp thân nên với việc được thụ dụng thân lược không nói nữa.

Lại nói pháp thân không sinh không diệt, chỉ do chứng ngộ được, không phải sắc tâm. Trí Đại viên kính trái với pháp thân, nếu không phải thụ dụng thân thì thuộc thân nào?

Lại thụ dụng thân gồm thâu các công đức hữu vi chân thật riêng của Phật, cho nên bốn trí phẩm thật có sắc tâm đều thuộc thụ dụng thân.

Lại tha thụ dụng thân và biến hóa thân đều là phương tiện thị hiện để hóa tha, nên không thể nói hai thân này lấy thật trí làm thể. Tuy nói hóa thân cũng thuộc trí thù thắng, nhưng tương tự như trí hiện ra hoặc từ trí phát khởi nên giả nói tên là trí chứ thật thể không phải trí. Chỉ nói trí Bình đẳng và trí Thành sở tác là có thể hiện thụ dụng thân và hóa thân đủ ba nghiệp, chứ không nói hai thân tức là hai trí. Cho nên hai trí này thuộc tự thụ dụng thân.

Nhưng biến hóa thân và tha thụ dụng thân tuy không phải chân thực là tâm, tâm sở mà hóa hiện ra tâm, tâm sở pháp. Bởi thần lực của đấng Vô thượng giác khó lường, có thể hóa hiện ra pháp không hình chất. Nếu không như vậy làm sao Như Lai hiện tham, sân v.v… những thứ đã đoạn dứt lâu rồi? Làm sao Thanh văn và các loài bàng sinh biết được tâm Như Lai? Vì là tâm thật của Như Lai thì Đẳng giác Bồ-tát còn không biết được. Do đó kinh nói: Như Lai hóa ra vô lượng loại đều có tâm. Lại nói trí Thành sở tác của Như Lai hóa làm ba nghiệp, lại nói biến hóa có tâm y tha, nghĩa là nương nơi tâm thật của người khác mà hiện ra tướng phần để duyên. Tuy nói biến hóa thân không có căn và tâm, đó là căn cứ thân biến hóa của các thuyết khác, không phải căn cứ thân biến hóa của Như Lai. Lại sắc căn cùng tâm, tâm sở pháp của các người khác biến hóa thì không có tác dụng của căn và tâm nên không nói.

Như vậy ba thân tuy đều đầy đủ vô biên công đức nhưng mỗi thân có khác. Nghĩa là tự tính thân chỉ có chân thật thường lạc ngã tịnh, lìa hết tạp nhiễm, làm chỗ nương cho các thiện pháp, vô vi công đức, không có tướng dụng sai khác của sắc tâm v.v…

Tự thụ dụng thân có đầy đủ vô lượng các thứ công đức chân thật của sắc tâm thù diệu.

Nếu tha thụ dụng thân và biến hóa thân thì chỉ có đủ vô biên công đức tướng biến hóa của sắc tâm tương tự, với tác dụng lợi lạc cho kẻ khác.

Lại tự tính thân chính thuộc về tự lợi, vì tịch tĩnh an lạc, cũng kiêm lợi tha vì tăng thượng duyên khiến các hữu tình được lợi lạc, lại làm chỗ nương cho thụ dụng thân và biến hóa thân, cho nên thuộc cả hai lợi.

Tự thụ dụng thân chỉ thuộc tự lợi. Tha thụ dụng thân và biến hóa thân thuộc lợi tha, là vì người khác mà thị hiện.

Lại tự tính thân nương cõi pháp tính. Tuy thân và cõi này thể không sai khác, mà thuộc Phật pháp tướng tính thì khác. Phật thân và quốc độ đều chẳng thuộc sắc pháp. Tuy không nói hình lượng lớn nhỏ, nhưng tùy sự tướng, lượng của chúng nhiều vô biên, ví như hư không biến khắp các nơi.

Tự thụ dụng thân trở lại nương cõi thụ dụng. Nghĩa là tịnh thức tương ưng với trí Đại viên kính, do nhân duyên từ xưa vì tự lợi mà tu hành, thành thục cõi Phật thuần tịnh vô lậu, nên từ khi mới thành Phật cho đến tận đời vị lai tương tục biến thành cõi Phật thuần tịnh tròn khắp không biên giới đủ các báu trang nghiêm, tự thụ dụng thân thường nương nơi cõi Phật đó mà trụ. Như lượng của Tịnh độ, thân lượng cũng vậy, các căn tướng tốt vô biên, vì do vô hạn thiện căn dẫn sinh. Công đức trí tuệ đã không phải sắc pháp, nên không thể nói là hình lượng lớn nhỏ, nhưng nương Chân như đã chứng và chỗ nương của thân cũng có thể nói là biến khắp tất cả.

Tha thụ dụng thân cũng nương tự thụ dụng độ. Nghĩa là sức đại từ bi của trí Bình đẳng tính, do nhân duyên vì lợi tha mà từ xưa tu tập thành thục cõi Phật vô lậu thuần tịnh, nên tùy cơ nghi của Bồ-tát trụ ở mười địa mà biến thành Tịnh độ hoặc nhỏ hoặc lớn hoặc kém hoặc hơn, trước sau chuyển đổi. Tha thụ dụng thân nương nơi đó mà trụ. Thân lượng năng y cũng không định hạn.

Nếu biến hóa thân nương biến hóa độ, tức là sức đại từ bi của trí Thành sự, do nhân duyên vì lợi tha mà từ xưa tu hành lợi tha vô lậu thành thục cõi Phật tịnh uế, tùy thích nghi của hữu tình chưa đăng địa mà hóa thành cõi Phật, hoặc tịnh hoặc uế, hoặc lớn hoặc nhỏ, trước sau chuyển đổi, biến hóa thân của Phật nương nơi đó mà trụ. Thân năng y cũng không có định hạn.

Tự tính thân,tự tính độ của tất cả Như Lai đã chứng như nhau nên thể không sai khác. Tự thụ dụng thân và cõi nước sở y, tuy tất cả chư Phật biến hiện không giống nhau nhưng đều vô biên và không chướng ngại nhau. Ngoài ra hai thân độ khác, tùy chỗ Như Lai giáo hóa các hữu tình có chung có không chung.

Chỗ hóa độ có chung thì đồng xứ, đồng thời, chư Phật đều làm thân, độ có tướng trạng tương tự và không chướng ngại nhau, lần lượt làm tăng thượng duyên cho nhau, khiến các hữu tình được hóa độ, tự thức biến hiện, nghĩa là ở mỗi cõi có một Phật thân hiện thần thông thuyết pháp lợi ích.

Ở chỗ hóa độ không chung thì duy chỉ có một Phật biến hiện. Các loài hữu tình từ vô thủy đến nay chủng tính hệ thuộc lẫn nhau, nên hoặc nhiều hữu tình chỉ thuộc một Phật hóa độ, hoặc một hữu tình được nhiều Phật hoa độ. Cho nên chúng sinh được hóa độ có chung và không chung. Nếu không như vậy thì nhiều Phật trụ lâu ở thế gian đều làm công việc mệt nhọc vô ích, vì một Phật cũng có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Các thân độ này hoặc tịnh hoặc uế. Nếu từ thức vô lậu biến hiện thì thân độ ấy đều là thiện vô lậu đồng với thức năng biến. Do nhân duyên vô lậu thuần thiện phát sinh nên thuộc Đạo đế, không phải Khổ đế, Tập đế. Còn là thức của tướng uẩn v.v…thì không nhất thiết đồng như nhau, vì do nhân duyên ba pháp dẫn sinh.

Nếu từ thức hữu lậu biến hiện thì đồng với thức năng biến, đều là hữu lậu. Vì thuần từ nhân duyên hữu lậu phát sinh, nên thuộc Khổ đế, Tập đế, không phải Diệt đế, Đạo đế.

Thức tướng là thiện, ác, vô ký không nhất thiết như nhau, do nhân duyên ba tính dẫn sinh cho nên uẩn v.v…có đồng tính, khác tính. Nếu không như vậy thì không có năm uẩn, mười hai xứ v.v… Nhưng tướng phần v.v…nương thức biến hiện, chẳng phải là thực y tha như thức tính. Nếu không như vậy thì lý duy thức không thành, vì cho rằng cảnh trong thức là thật có.

Hoặc nói kiến phần, tướng phần của thức đều từ duyên sinh, đều là y tha khởi, hư thật giống như thức. Nói “duy” là để trừ ngoại chấp chứ không phải để ngăn nội cảnh. Nếu không như vậy thì Chân như cũng không phải thật.

Hỏi: Nội cảnh và thức đã không phải hư giả, vậy sao chỉ nói “duy thức” mà không nói “duy cảnh”?

Đáp: Thức chỉ có bên trong, cảnh có cả trong lẫn ngoài. Vì sợ lẫn lộn với ngoại cảnh nên chỉ nói duy thức.

Lại hoặc vì người ngu mê chấp nơi cảnh, khởi nghiệp phiền não, chìm đắm trong sinh tử, không biết tự quán tâm siêng cầu ra khỏi. Vì thương xót chúng mà nói Duy thức, khiến tự quán tâm giải thoát sinh tử, chứ không phải nói nội cảnh cũng đều không, như cảnh bên ngoài.

Hoặc tướng phần v.v… đều lấy thức làm tính, do sức huân tập mà tựa như sinh ra nhiều phần.

Chân như cũng là thật tính của thức, cho nên trừ thức tính không có một pháp nào khác. Trong đây nói thức là cũng nói cả tâm sở, vì tâm và tâm sở tương ưng.

Luận này có ba phần thành lập duy thức cho nên gọi là Thành Duy Thức Luận. Cũng gọi luận này là Tịnh Duy Thức để hiển rõ lý duy thức là hết sức trong sáng thanh tịnh.

Bản luận này gọi là Duy thức ba mươi là do ba mươi bài tụng hiển bày lý duy thức đầy đủ không thêm không bớt.

Đã nương Thánh giáo và chính lý,

Phân biệt nghĩa tính tướng duy thức.

Được bao công đức thí quần sinh,

Nguyện cùng sớm lên Vô thượng giác.

HẾT

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10