DƯƠNG CHI THỦ NHÃN

 

 Dương Chi Thủ (Tay cầm nhành Dương Liễu):

Tay thứ tám trong tám tay thuộc Như Lai Bộ của Mật Pháp, là Pháp Tức Tai.

Câu thứ 35 trong Chú Đại Bi là:”Mục đế lệ” dịch nghĩa là Giải thoát tức Dương Chi Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.

Đại Bi xuất tướng: Mục Đế Lệ

Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ tám trong Kinh Văn:

“Nếu muốn trừ mọi thứ bệnh nạn trên thân thì cầu nơi tay Dương Liễu Chi” .

Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ 12:

“Nếu người nào vì mọi loại bệnh trên thân thì nên cầu nơi bàn tay cầm cành Dương Liễu”.

Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ 12 là:

Nếu muốn tiêu trừ mọi bệnh trên thân nên tu pháp thuốc của nhành dương liễu. Tướng DƯỢC VƯƠNG QUÁN TỰ TẠI…. chỉ có tay phải cầm nhành dương liễu, tay trái đặt trên vú hiển chưởng, vẽ tượng xong.

Tướng Ấn đó là  tay phải co cánh tay, buông các ngón rũ xuống. Tụng chân ngôn xong, xoa trên thân thể.

Dược Vương Quán Tự Tại Bồ Tát

12) Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp 

Kinh nói rằng: “Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi Tay cầm cành Dương-Liễu”.

Thần-chú rằng: Mục Ðế Lệ [35]

𑖦𑗜𑖎𑖿𑖝𑖸
MUKTE

MUKTE: Giải thoát

Mục Ðế Lệ” tức là Dương Chi Thủ Nhãn của Phật. Dương Chi Thủ Nhãn là gì? Tức là Bồ Tát Quán Thế Âm tay cầm nhành dương liễu. Bạn thấy Bồ Tát Quán Thế Âm một tay cầm nhành dương liễu, một tay cầm bình tịnh thủy, nhành dương liễu nhúng nước tịnh bình để rưới khắp tất cả chúng sinh. Nhúng nước tịnh bình khác với nước thường như thế nào ? Nước tịnh bình gọi là nước cam lồ, nước cam lồ mà rưới lên tất cả chúng sinh thì khiến cho chúng sinh đắc được rất nhiều lợi ích, có thể giải trừ đói khát, được sự mát mẻ.

Mục Ðế Lệ” cũng là tiếng Phạn, dịch ra nghĩa là “giải thoát”. Giải thoát cái gì? Giải thoát tất cả khổ nạn, giải thoát tất cả bệnh tật, giải thoát tất cả việc bất như ý. Cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm dùng nhành dương liễu để giải thoát mọi bệnh tật của chúng sinh, giải thoát những hoạn nạn của chúng sinh, giải thoát những việc bất như ý của chúng sinh.

Thủ Nhãn này, bên trong có vẻ giống như chẳng quan trọng lắm, song nếu bạn tu thành công thì nhành dương liễu này chẳng những giải thoát được bệnh tật, hoạn nạn, việc bất như ý mà cũng có thể hàng phục được thiên ma, khống chế các ngoại đạo. Tất cả thiên ma ngoại đạo mà đắc được nước cam lồ của bạn thì họ tự nhiên sẽ hồi tâm hướng thiện, cũng đều y giáo phụng hành. Cho nên Thủ Nhãn này nói ra thì vô cùng vô tận, cũng không thể nghĩ bàn.

Nước cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm chẳng những giải trừ được hoạn nạn mà còn chữa khỏi tất cả bệnh tật và giải thoát tất cả những việc bất như ý. Thậm chí lúc bạn sắp chết, nếu bạn đắc được nước cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm thì có thể sống lại. Tất cả cây khô, nếu dùng nước cam lồ rưới lên thì có thể sống lại.

Cây cối vốn là vô tình được nước cam lồ thấm nhuần còn có thể sinh trưởng đơm hoa kết trái, hà huống nếu tất cả chúng sinh được nước cam lồ, càng lợi ích vô cùng vô tận.

Kệ:

Bế mục trừng tâm tụng chân ngôn
Nhất niệm bất sanh diệu thông huyền
Tam muội gia trì trí quang hiện
Chư Phật xưng tán thiện nữ nam

Dịch:

Tụng đọc chú thần lắng tâm, nhắm mắt
Thông suốt cơ huyền một niệm chẳng sinh
Tam muội gia trì trí tuệ quang minh
Chư Phật ngợi khen thiện nam thiện nữ.

Chơn-ngôn rằng: Án– Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà, hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.

𑖌𑖼_ 𑖭𑗜𑖭𑖰𑖟𑖿𑖠𑖰 𑖎𑖨𑖰, 𑖪𑖨𑖿𑖠𑖡𑖯𑖽 𑖭𑖦𑗜𑖎𑖿𑖝𑖯𑖧𑖸 𑖪𑖕𑖿𑖨, 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖤𑖡𑖿𑖠 , 𑖮𑖡 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿
OṂ_ SUSIDDHI  KARI, VARDHANĀṂ  SAMUKTĀYE VAJRA, VAJRA  BANDHA,  HANA HANA HŪṂ  PHAṬ

OṂ (Quy mệnh) SUSIDDHI  KARI (tác diệu thành tựu) VARDHANĀṂ SAMUKTĀYE (tăng trưởng thiện giải thoát) VAJRA BANDHA (Kim Cương Phộc) HANA HANA (thiêu đốt , đốt cháy) HŪṂ (Hộ khắp) PHAṬ (phá bại)

Dương Liễu là một loại cây mọc cạnh bờ ao hay bờ nước tắm rửa nên lá liểu hay sanh ra nước mát mẻ. Do đó Dương Liễu biểu thị cho loại thuốc lá mát mẻ (lương dược) dùng để trừ nhiệt ác.

Quán Thế Âm Bồ Tát dùng bản nguyện Từ Bi xông ướp Thụ Vương (cây vua) nên cầm nhành Dương Liễu tẩy rửa các bệnh trên thân của chúng sanh khiến cho họ mạnh khoẻ.

Bệnh thường có ba loại bệnh là: bệnh do nghiệp báo, bệnh do bốn Đại chẳng hòa, bệnh do Quỷ Thần gây ra.

Khi bị Tỳ Xá Na Uy Quỷ gây bệnh thì Quán Thế Âm Bồ Tát dùng nước sạch rửa cành Dương Liễu vẩy lên thân, trừ tất cả các bệnh nhiệt (nóng bức, sốt) khiến cho thân được mát mẻ.

-SAO ghi: “Dùng Nhành Dương Liểu chú 108 biến hoa với nước đem tắm rửa thân thể thì trừ được 444 bệnh (KHẨU ghi là trừ 404 bệnh)

-TẬP KINH ghi : Tất cả bệnh Quỷ đều dùng Dương Liễu màu xanh.

Muốn thành tựu pháp này – Hành Giả lấy ba nhành Dương Liểu đặt trước Bản Tôn , tác tưởng niệm Chú 108 biến, sau đó hòa hợp với nước sạch trong. Nấu nước xong vẩy lên thân thể thì trừ được các bệnh.

Như KINH nói: 4800 bệnh của Thế Gian, không có gì không trị  được.

Kệ tụng:

Dương chi thủ nhãn độ quần manh
Phiền nhiệt bệnh khổ đắc thanh lương
Khô mộc phùng xuân trọng mậu thịnh
Tử nhi bất vong thọ vĩnh xương.

[Tay cầm cành dương liễu rưới nước cam-lồ làm cho các hạt giống nảy mần lên cây.
Người bệnh khổ vì sốt nặng cũng được mát mẽ.
Như cây khô héo gặp mùa xuân có cơ hội sống lại.
Chết mà không mất, thọ mạng được dài lâu.
]

Chết mà không mất, thọ mạng được dài lâu là chỉ cho “ CHƠN TÂM BỔN TÁNH” của mình không sanh không diệt, mười pháp giới, dù là Phật hay sút sanh, dù là CỰC-LẠC hay TA-BÀ… cũng có cùng một CHƠN TÂM này. Vì “CHƠN TÂM” vô ngã (NHÂN VÔ NGÃ, PHÁP VÔ NGÃ) nên hễ duyên với pháp lành thì thành Phật, thành Bồ-tát, THÀNH CỰC-LẠC… Còn duyên với pháp ác thì thành ngạ qủi, thành súc sanh, THÀNH TA-BÀ…

NẾU CÕI CỰC-LẠC DO  “DUY TÂM” SỞ HIỆN, THÌ PHẢI CÓ ĐỦ CHÁNH BÁO (PHẬT VÀ NHÂN-DÂN CỦA NGÀI) , Y BÁO ( ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, CÂY, CHIM …ĐỀU THUYẾT PHÁP. CHIM LÀ Y BÁO VÌ DO PHẬT DI-ĐÀ BIẾN HÓA RA ).

NẾU KHÔNG CÓ ĐỦ  “Y BÁO VÀ CHÁNH BÁO”  MÀ NÓI TỊNH ĐỘ Ở TRONG TÂM, CỰC-LẠC Ở TẠI ĐÂY, TÂM TỊNH LÀ TỊNH ĐỘ… CẦN GÌ PHẢI CẦU SANH VỀ TỊNH ĐỘ LÀM GÌ..ĐỀU LÀ CẢNH “NGOAN KHÔNG” , ĐỀU LÀ “TÂM VỌNG TƯỞNG”, CHỨ KHÔNG  PHẢI LÀ “CHƠN TÂM SỞ HIỆN NHƯ TRONG KINH HOA NGHIÊM, LĂNG NGHIÊM, DUY MA CẬT… ĐÃ NÓI.”

XIN ĐẶT Ở ĐÂY MỘT NGHI VẤN? MONG ĐỢI CÁC BẬC THIỆN-TRI-THỨC KHAI THỊ CHO RÕ.

CHÁNH BÁO : “Xá-Lợi-Phất!  Ðức Phật đó và nhân-dân của Ngài sống lâu vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ kiếp, nên hiệu là A-Di-Ðà.”

Y BÁO: “Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự-nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.” 

Phật Thuyết Kinh A-Di-Ðà

Kệ tụng Việt dịch:
Phổ độ chúng sinh một cành dương
Não phiền nóng bõng hóa thanh lương.
Xuân đến cây khô đơm lộc biếc
Chết mà không mất lại miên trường.

 

Dương-Chi Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Mười Hai

Mục Ðế Lệ [35]
𑖦𑗜𑖎𑖿𑖝𑖸
MUKTE

Án– Tô tất địa, ca rị phạ rị, đa nẩm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra bạn đà, hạ nẳng hạ nẳng, hồng phấn tra.
𑖌𑖼_ 𑖭𑗜𑖭𑖰𑖟𑖿𑖠𑖰 𑖎𑖨𑖰, 𑖪𑖨𑖿𑖠𑖡𑖯𑖽 𑖭𑖦𑗜𑖎𑖿𑖝𑖯𑖧𑖸 𑖪𑖕𑖿𑖨, 𑖪𑖕𑖿𑖨 𑖤𑖡𑖿𑖠 , 𑖮𑖡 𑖮𑖳𑖽 𑖣𑖘𑖿
OṂ_ SUSIDDHI  KARI, VARDHANĀṂ  SAMUKTĀYE VAJRA, VAJRA  BANDHA ,  HANA  HŪṂ  PHAṬ