NGUYỆT TINH MA NI THỦ NHÃN
Nguyệt Tinh Ma Ni Thủ (Tay cầm vành mặt trăng):
Tay thứ bảy trong tám tay thuộc Kim Cương Bộ của Mật Pháp, là Pháp Điều Phục.
Câu thứ 28 trong Chú Đại Bi là:”Độ lô độ lô” dịch nghĩa là sự trong sạch của ánh sáng tức Nguyệt Tinh Ma Ni Thủ Nhãn trong tướng tay Đại Bi.
– Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni: Bản dịch của Tam Tạng BẤT KHÔNG Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ tư trong Kinh Văn:
“Nếu muốn trị bệnh Nhiệt Độc mà cầu sự mát mẻ thì nên cầu nơi tay Nguyệt Tinh Ma Ni”.
– Đại Bi Tâm Đà La Ni Kinh: Bản dịch của Tây Thiên Trúc GIÀ PHẠM ĐẠT MA Pháp Sư ở Đời Đường, là tướng tay thứ chín:
“Nếu người nào vì bệnh nhiệt độc, cầu được mát mẻ thì nên cầu nơi bàn tay cầm Nguyệt Tinh Ma Ni”
– Thiên Quang Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Bí Mật Pháp Kinh: Tướng tay Ấn thứ chín là:
Nếu muốn tiêu trừ tất cả nhiệt não nên tu pháp Nguyệt Tinh Ma Ni. Tướng NGUYỆT TINH QUÁN TỰ TẠI….chỉ có tay phải mở lòng bàn tay cầm Thủy Pha Lê, tay trái duỗi 5 ngón làm thế xoa thân, vẽ tượng xong.
Tướng Ấn đó như tay ấn của tượng.
9) Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Kinh nói rằng: “Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi Tay cầm châu Nguyệt-Tinh Ma-Ni.”
Thần-chú rằng: Độ Lô Độ Lô [28]
𑖝𑗜𑖨𑗜 𑖝𑗜𑖨𑗜
TURU TURU
TURU (Nhanh chóng vượt thoát)
TURU TURU: Nhanh chóng vượt thoát sự khổ não của sinh tử
“Ðộ Lô Ðộ Lô” cũng là tiếng Phạn, dịch ra là “độ hải”. Ðộ hải là gì? Tức là qua khỏi biển khổ sinh tử. Còn có lối dịch khác nữa nghĩa là “minh tịnh”, quang minh mà thanh tịnh. Còn có lối dịch khác nghĩa là “đến bờ “, tức là qua khỏi biển khổ sinh tử, đến được bờ kia. Bạn có trí huệ quang minh thì đắc được bổn thể thanh tịnh, đến được bờ Niết Bàn bên kia. “Ðộ Lô Ðộ Lô” tức là ý nghĩa này.
“Minh nhi năng quyết”. Minh là quang minh, tức bạn có trí huệ; tất cả pháp môn bạn đều biết rõ thì quyết định được sinh tử. “Ðịnh nhi năng tịnh”. Ðịnh là định lực, bạn có định lực thì mới sinh về thế giới Cực Lạc thanh tịnh. Ðây là Thủ Nhãn gì? Ðây là Nguyệt Tinh Ma Ni Thủ, tức là Ðà La Ni mà Bồ Tát Nguyệt Quang nói ra. Nguyệt Tinh Ðà La Ni Thủ hay khiến cho tất cả mọi người đều được mát mẻ.
Kệ:
Man binh dũng mãnh chiến vô địch
Khổng tước hùng uy trấn quần si
Bồ tát hào lệnh tuần thiên hạ
Hộ thiện trừ ác độ chúng mê
Dịch:
Binh dũng mãnh giao tranh khó ai đối địch
Chim công oai hùng trấn áp yêu tinh
Lệnh Bồ Tát truyền xem xét dưới trên
Giữ điều thiện, giúp kẻ mê trừ ác.
Chơn-ngôn rằng: Án– tô tất địa yết-rị, tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖭𑗜𑖭𑖰𑖟𑖿𑖠𑖰 𑖎𑖨𑖰_ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ SUSIDDHI KARI_ SVĀHĀ
OṂ (Quy mệnh) SUSIDDHI KARI (tác Diệu Thành Tựu) SVĀHĀ (viên mãn Cát Tường)
Nguyệt Tinh Ma Ni là nơi cư ngụ của Nguyệt Thiên Tử (Candra Devaputra) là chỗ thành của Thủy Châu cho nên nói là Nguyệt Luân (mặt trăng). Do mặt trăng phóng tỏa ánh sáng mát mẻ giúp cho vạn vật sinh trưởng nên Nguyệt Tinh Ma Ni biểu thị cho ý nghĩa “ Trừ nhiệt độc hiển thanh lương”.
Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahà Sthamapràptàya bodhisatva) hóa làm Nguyệt Thiên Tử cư ngụ tại cung điện Thủy Tinh Châu để giải trừ sự nóng bức cho tất cả chúng sanh, khiến cho họ được mát mẻ .
Như Kinh nói: “Khi bị bệnh nhiệt độc xâm lấn khiến cho sắp chết, hãy chí tâm tụng Chú Đại Bi thì bệnh liền trừ”.
Đây chính là lợi ích của tay cầm Nguyệt Tinh Ma Ni.
-Kinh lại nói: “Như Pháp tụng Chú Đại Bi, lúc đó Nhật Quang Bồ Tát (Sùryaprabha Bodhisatva) Nguyệt Quang Bồ Tát (Candraprabha Bodhisatva) và vô lượng Thần Tiên đều đến chứng, đem lại sự lợi ích rất hiệu nghiệm. Khi ấy TA (Quán Thế Âm Bồ Tát) dùng ngàn mắt trông thấy sẽ dùng ngàn tay hộ trì”.
Đây tức là ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay hộ trì sẽ trừ hết bệnh của thân tâm. Điều này hiển lợi ích chung cho cả hai tay Nhật Nguyệt.
Muốn thành tựu pháp này, Hành giả vẽ mặt trăng trên cái quạt (Thiên phiến) tụng Chú Đại Bi, xong quạt vào người bị nhiệt độc thì người ấy sẽ bình phục.
Kệ tụng:
Nhiệt độc vi hoạn nhật tương tiễn
Triền miên sàng đệ bội thương thảm
Nguyệt tinh ma ni thanh lương tán
Tiêu tai diên thọ lợi kiền khôn.
[Một ít chất độc cũng quấy rối, làm khổ một người mỗi ngày.
Bệnh nằm trên giường còn bi thảm hơn là bị giam cầm.
Nguyệt-tinh Ma-ni Thủ Nhãn là “THUẦN-DƯỢC” trị được bịnh nóng nải, buồn rầu.
Làm cho chúng sanh trong Trời-đất, được Tiêu tai họa, thêm tuổi thọ.]
Ma-ni là tiếng phạn, dịch là châu-bảo, ly-cấu, như-ý. Vì rất qúy nên gọi là châu-bảo; vì trong suốt sáng rỡ nên gọi là ly-cấu, vì tùy sở cầu đều biến hiện nên gọi là như-ý.
Kệ tụng Việt dịch:
Bệnh vì khí nóng ngấm vào thân
Trên giường trăn trở khổ nhân đôi
Ngọc phóng luồng trăng tươi khí lạnh
Xua tan hoạn nạn nhuận đất trời.
Nguyệt-Tinh Ma-Ni Thủ Nhãn Ấn Pháp
Thứ Chín
Độ Lô Độ Lô [28]
𑖝𑗜𑖨𑗜 𑖝𑗜𑖨𑗜
TURU TURU
Án– tô tất địa yết rị, tát-phạ hạ.
𑖌𑖼_ 𑖭𑗜𑖭𑖰𑖟𑖿𑖠𑖰 𑖎𑖨𑖰_ 𑖭𑖿𑖪𑖯𑖮𑖯
OṂ_ SUSIDDHI KARI_ SVĀHĀ