TRUYỆN THẦN TĂNG

Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 9

 

176. Thần tăng Kim Cang Tiên

Sa-môn Kim Cang Tiên, ngài người xứ Tây Vực. Ngài đến trú tại chùa Hạp sơn xa vắng, rất tài giỏi Phạm âm, khảy lưỡi, lạy động tích trượng vào các vật, không vật gì chẳng ứng nghiệm. Ngài khéo giam tà ủy mỵ, bó buộc muỗi lằn, động tích trượng một tiếng với nhóm sấm sét chấn động.

Một ngày nọ, tại chùa Hạp sơn có Lý phác mang búa chặt đốn cây lớn để xẻ làm thuyền. Bỗng nhiên lên núi thấy một tảng đá lớn, trên mặt có một lỗ hang, thấy một con nhện rất lớn, chân rộng hơn cả trượng, có bốn con rắn quấn cỏ lấp hang ấy mà đi. Bỗng chốc nghe trong rừng cây có tiếng rống mạnh dữ, các người thợ lo sợ nương theo cây mà xem xét, quả nhiên thấy con rắn Hổ chỉ cầu, lớn đến vài mươi trượng cong vây quanh hang nhện. Đầu của nó khắp cả Đông tây, bỗng nhiên đầu ở phía Tây nhảy cẩng lên hút nhiều cỏ trong hang ấy mà bay ra nhả đổ ra ngoài hết, sau đó lại đầu phía Đông họa mắt nó há mồm lớn, hút lấy con nhện. Con nhện theo ra, dùng chân bắt lấy miệng hang, ép chất độc đó cháy như lửa thiêu đốt cổ họng và khử trừ mặt của rắn hổ, rắn hổ lờ đờ rồi sống lại, ngẩn đầu hút lấy, nhện không thấy lại càng sửa độc hại rắn. Rắn bèn lật đá mà chết. Con nhện men theo đó nếm thử ruột của rắn hổ. Bên trong gãy mất hai chiếc răng đều kéo ra theo tơ mà bỏ vào trong túi, nhảy đạp ra khỏi hang mà đi.

Lý Phác ngờ lạ trở về lại chùa Lạp sơn nói lại cùng ngài. Ngài bèn cầu Lý Phác chỉ nghiệm ở hang rồi lắc vòng tích trượng mà chú nguyện. Con nhện liền ra trước mặt ngài nghiêm chỉnh như Thần thánh. Đến lúc ngài đưa tích trượng xúc chạm đến nó, con nhện bèn ngã chết bên cạnh hang. Đến tối, ngài mộng thấy một ông già bưng xấp lụa đến trước mặt ngài, thưa rằng:

– Tôi là con nhện đây, lại hay dệt được lụa này.

Kính lạy ngài và nói tiếp:

– Nguyện muốn làm y phước điền.

Nói xong bèn biến mất. Ngài tỉnh giấc thì xấp vải đã ở bên cạnh mình, nó tinh diệu kỹ xảo khác hẳn sợi tơ của người thường làm. Ngài dùng đó để may y, bụi dơ không dính bám.

Sau vài năm ngài muốn sang Phiên ngung rồi lên thuyền vượt biển trở về Thiên Trúc và ở tại bờ đầm Kim tỏa nơi Hạp sơn, chấn động tích trượng hô lớn mà chú nguyện vào nước, bỗng chốc nước mở thấy tới đáy, ngài dùng bình tắm trương ra, trong bùn có một con cá thu dài độ ba tấc nhảy vào trong bình. Ngài nói cùng chúng Tăng rằng:

– Đây là rồng. Tôi sắp đến cửa biển lấy thuốc nấu làm cao xoa chân thì được qua biển như đi trên đất bằng phẳng. Đêm đó có một người già mặc áo trắng mang khạp chuyển quang đến chùa, có người nhà truyền kinh nói rằng:

– Biết ngài ưa thích rượu, trong khạp này một bên để rượu ngon, một bên để rượu nồng độc. Khạp ấy là của vua Tuệ đế từng dùng với đam ngưu tướng quân, nay có trăm lượng vàng rồng phụng dâng ông hãy vì mang rượu độc này đưa đến vị Tăng ấy, vị Tăng ấy không sao lấy con ta làm cao, hận ấy thống đau suốt cả cốt tủy, chỉ vì không biết tính làm sao.

Truyền kinh mừng nhận lấy vàng và rượu, được phép của chuyển quan đi đến chỗ ngài. Ngài bưng lấy chén muốn đưa vào miệng, bỗng nhiên có đứa bé độ vài tuổi nhảy ra đến tay che bịt lại, bảo rằng:

– Rượu ấy là chỗ rồng tương lai làm độc hại ngài đó.

Ngài kinh hãi hỏi truyền kinh. Truyền kinh bèn không dám che dấu. Ngài mới hỏi đến bé rằng:

– Ngươi là người gì mà lại cứu giúp vậy?

Đứa bé đáp:

– Con là nhện năm xưa đây. Nay đã lìa khỏi ác nghiệp mà thác sinh làm người đã được bảy năm. Hồn tôi có phần linh hiển so với người thường, biết ngài có nạn nên xuất hồn bay đến để cứu hộ.

Nói xong liền ẩn mất. Chúng Tăng nghe nói vậy rồi thì đều cùng nhau lễ bái, cầu xin ngài thả con rồng ấy. Ngài bất đắc dĩ bèn tha cho nó. Sau đó, quả thật ngài nương thuyền trở về Thiên Trúc.

177. Thần tăng Hoài Tín

Thích Hoài Tín, ngài ở tận Quảng lăng, không có kỳ tích gì đặc biệt. Năm Hội Xương thứ 3 (83), đời tiền Đường, vua Vũ Tông vì Triệu

Quy Chân bài hủy Phật giáo, muốn tiêu diệt giáo pháp. Ở Hoài nam có từ khách Lưu Ẩn Chi bạc du Tứ minh. Trong đêm thuyền ghé nghỉ mộng thấy như đang trôi nổi giữa biển. Xoay đầu nhìn lại thấy một ngôi tháp ở Đông đô. Đó là tháp ở chùa Tây linh, Hoài nam. Tháp đó cao vút không ít so với tháp Vĩnh ninh của Hồ Thái Hậu. Ở tầng thứ ba của tháp, thấy Tín Bằng Lăng cùng Ẩn Chi giao đàm, Thả nói:

– Tạm đưa tháp qua Đông hải, khoảng một tuần thì hoàn trả lại.

Vài ngày sau, Ẩn Chi trở về Dương châu liền đến tham yết ngài.

Ngài hỏi:

– Có nhớ lúc gặp nhau trên biển chăng?

Ẩn Chi hoát nhiên tỉnh ngộ. Sau đó vài ngày, lửa trời thiêu đốt tháp cháy rụi hết, mưa trắng nghiêng tưới mát. Bên cạnh có ngôi nhà cỏ tranh không tổn hại gì. Do đó mà quán xét, mọi người ở Đông hải đều có thấy tháp Vĩnh ninh.

178. Thần tăng Trí Quảng

Thích Trí Quảng, ngài dòng họ Thôi, không biết là người ở xứ nào, oai đức hoàn bị, căn đạo bền bỉ, hóa hành rộng lớn thanh nhã, đặc hiển kỳ tích. Phàm trăm loại bệnh nhân tìm đến ngài, thì ngài hoặc dùng phiến trúc hay gậy chỉ vào chỗ đau, đánh một cái, tức khắc không bệnh gì cũng lành. Hoặc người bị co quắp liền khỏi, người quê liền chạy đi được. Từ đó về sau càng thêm thần nghiệm. Khi gặp người bệnh thì hoặc đánh hoặc quát mắng liền khỏi. Hoặc bảo đốt giấy tiền nhặc tán để uống. Hoặc gặp người bệnh rất thống não, vấn giấy thấm nước dán vào cũng lành. Ngài từng ẩn độn dưới sông ngòi hồ chủ nguyện nuôi dưỡng cá, trải qua một đêm thì cá ấy lớn dài vài thước trở lên. Có đến ức vạn con đều nổi lên trên mặt nước mà chết, nhờ nép theo dòng nước mà cả mười ngàn con cá sinh lên cung trời Đao-lợi.

Đầu niên hiệu Hàm Thông, thời tiền Đường, ngài đến núi Cửu tòa, bỗng gặp một con trăn lớn đến nuốt chẩn người, ngài quăng tích trượng bay lại làm trụ chống ngăn miệng nó rồi ngài ngồi trong miệng nó kiết già nhập định. Thần đến xin tạ tội ngài chẳng đoái hoài, đến lúc ngài xuất định thì con trăn đã hóa thành đá. Kế tiếp sấm sét chấn động mưa lớn làm cát xoáy trào thành đất, Sơn thần dời núi tám phương đều râm mát chiếu sáng lại. Đến năm Càn Phù thứ 3 (876) ngài thị tịch.

179. Thần tăng Tùng Gián

Thích Tùng Gián, ngài dòng họ Trương, người xứ Nam dương, theo đến ở Quảng lăng, làm họ Thổ trước. Ngài thân cao tám thước, mắt mày kỳ khôi, qua khỏi độ tuổi tráng niên, bỗng nhiên ngộ chân lý, bèn xả bỏ vợ con cắt tóc xuất gia. Từ đó tinh nghiên thiền quán tâm cảnh rõ ràng, chưa đến mười năm mà các bậc Tuệ đức lão thành thảy đều kính phục. Đến lúc ngài đến kinh đô Lạc dương, dừng ở tại chùa kinh ái, với tuổi tác đức hạnh của ngài đều đã trở thành nơi quy hướng của cả tăng sĩ lẫn đạo sĩ. Mỗi lần phó trai ứng cúng, ngài đến đối diện tôn giả Tân-đầu-lô mà thọ trai. Ngài được cả trời người kính phục khâm phục như thế.

Vua Võ Tông (81-860) đời tiền Đường kế thừa vương vị đổi niên hiệu Hội Xương (81-…), mến mộ hình nghi ngự phượng tham hạt, lạnh nhạt với giáo nghĩa điểm hắc giáng long, bèn phá hủy tất cả tháp miếu khắp trong nước nhà, buộc các hàng Sa-môn hoàn tục. Ban đầu, ngài bèn mặc áo thô gai chít khăn mỏ quạ tiềm ẩn nơi dòng suối của Hoàng Phủ Mai hành riêng biệt nghiệp. Sau ngài lên sườn núi giữa cây cao sầm uất mài bằng mặt đá lớn. Những ngày mùa hạ, ngài thường nhập định ở trong hoặc chuyên việc vá may nhỏ nhiệm. Bỗng một ngày nọ, mây đổ mưa tuôn sấm chớp nổ vang bên cạnh đá mọi người chạy vào trong rừng, ngài vẫn điềm nhiên ngồi kiết già như không nghe biết gì mọi người đến hỏi ngài từ từ bảo:

– Ổ súc sinh mà thôi.

Đến đầu niên hiệu Đại Trung (860), vua Tuyên Tông (860-87) đời tiền Đường, phục hưng Phật giáo, ngài trở về Đông đô ở chỗ cũ. Các người con của ngài từ Quảng lăng tìm đến hầu thăm, gặp ngài ở ngay cửa huyện, do oai nghi dung mạo nghiêm trang nên không nhận biết ra ngài. Mới lễ bái và hỏi chỗ ngài ở, ngài chỉ và bảo:

– Ở gần đầu đông. Các người con đi rồi ngài liền đóng cửa không bước ra, vì ngài đã cắt tiệt lưới dây luyến ái.

Trong tháng năm năm Bính Tuất (866) thuộc niên hiệu Hàm Thông (860-87), bỗng nhiên ngài đến khắp các nhà tín chủ và đều bảo rằng:

– Hãy khéo tu phước nghiệp, đầu mùa thu năm nay bần đạo sẽ đi xa nên nay đến cúng từ biệt.

Đến ngày rằm tháng bảy, đang lúc sáng sớm ngài tẩy rửa tay chân, đốt hương xưng niệm danh hiệu Đức Từ Thị Như Lai, nghiêng phía hữu mà nằm, gọi các vị đệ tử như Huyền Chương… vào răn dạy:

– Sinh làm người khó được, các đường xấu ác dễ trầm luân chỉ có quy mạng Thích Tôn gắng tinh tu phạm hạnh, thắng hội Long hoa sẽ cùng gặp lại. Đời này đã đến bờ bến, nên cùng từ biệt các ông.

Ngày đó, ngài không bệnh tật gì, an nhiên thị tịch hưởng thọ hơn tám mươi tuổi.

Các đệ tử Huyền Chương… vâng phụng di chỉ đưa nhục thể ngài vào rừng Thi-đà ngoài cửa Kiến xuân cấp thí cho các loài chim thú. Ba ngày sau trở lại xem dung mạo ngài vẫn như lúc sống, không vật gì dám lại gần, bèn lại dùng bột bánh rải lên. Trải qua một đêm thì có vết chân của chồn chó và chỉ ăn bột bánh, da dẻ ngài vẫn y nguyên. Khi đó mới theo pháp ở Thiên Trúc cử hành lễ trà-tỳ, song thu nhặt hài cốt còn lại xây dựng một ngôi tháp màu trắng ở bên cạnh đường đi, quanh năm dâng cúng hương hoa.

180. Thần tăng Phổ Văn

Thích Phổ Văn, ngài là con thứ ba của Huy Tông đời tiền Đường. Ngài sinh ra mà có tướng cát tường, mặt mày phong cốt thanh chân như họa vẽ, tánh không ưa thích cay nồng. Vua Huy Tông rất mến yêu nhưng ngài không có ý sửa trị việc đời, vua tính trăm kế ung đúc luyện đạo mà không xoay chuyển.

Đến năm Trung Hòa thứ nhất (881), thiên hạ tạo loạn vua Huy Tông chạy đến đất Thục, các hàng thân vương tôn thất thảy đều trốn mất, ngài bèn cắt tóc vượt tìm đến tham yết Thạch Sương gia. Thạch Sương gia tiếp đón vô cùng thán phục, nói với ngài rằng:

– Ông nương nguyện lực sinh trong nhà vua chúa lại thoát thân theo ta, thật là hoa sen trong lửa. Tối đến ngài vào thất hỏi Tổ sư về việc biệt truyền, Thạch Sương gia bảo rằng:

– Đợi điểm đầu núi tức sẽ nói cùng ông.

Ngài nhân đó khế ngộ nương tựa vài năm mới xin tham quan khắp các danh sơn. Thạch Sương gia bảo:

– Gặp càn thì dừng, gặp trần thì ở.

Từ đó ngài đi xa qua Chiêu Võ đến đại Càn, xa trông thấy đỉnh núi quả nhiên thanh tú bèn hỏi một cụ già rằng:

– Tại đó có người ở chăng.

Cụ già bảo:

– Có Trần Tự bấy lâu nay ẩn cư tại đó.

Nhân đó ngài ngộ được lời của thầy liền phát cỏ đi đến chân núi. Trần tự chỉ một lần gặp liền chia tòa ngài cùng ngồi. Nhân sinh ra quả để trồng nguyện cầu đấu hộc. Trần tự bảo:

– Đâu có đấu hộc, chỉ do một hộp, ngài bèn vào núi phá vỡ đất gieo trồng. Sau, mọi người ở cửa hang cùng nói với nhau rằng:

– Ngày trước có vị Tăng vào núi đến nay chẳng ra hẳn là bị hổ ăn thịt rồi.

Bèn cùng nhau vào xem xét thấy một mái nhà tranh với vài hành giả, chỉ một tiếng hô trăm tiếng vâng dạ mà chung quang sườn núi rau quả xanh bít. Bởi cày trồng rau là do thần núi gieo rắc, hành giả là hổ. Trần tự biết sự ưu việt của ngài bèn nói:

– Tôi ở đây thường bị nhiều nỗi khỏ bởi ác thú độc trùng, ngài lại thì đều lặn hết. Đạo đức của ngài tôi không thể kịp, duyên tôi gieo trồng ấy thuộc về ngài.

Thế rồi tiếng tăm đạo đức vang xa, các hàng kẻ tăng người tục cùng nhau tụ hội, bèn trở thành một ngôi chùa lớn.

Bỗng nhiên có một ông già đến quỳ lạy cầu xin rằng:

– Tôi là thuộc loài rồng, nhà ở tại núi này để lo việc cấp mưa. Do không chuyên chú nên bị trời trách phạt tôi chết. Xin ngài ban ân cứu hộ.

Ngài bảo:

– Ông đắc tội với thượng đế, ta làm sao có thể dốc lực. Tuy nhiên ông có thể cải đổi thân hình khác mà lại thì có thể.

Bỗng chốc ông già hóa làm con rắn nhỏ, ngài dùng tích trượng dẫn vào Tịnh bình. Giây lâu sau, sấm gió cắp xốc giường ngồi, núi non lay động. Ngài vẫn an nhiên ngồi đến sáng, trời trong mưa tạnh, con rắn từ trong bình bò ra, lát sau hiện lại hình ông già đến cảm tạ, thưa rằng:

– Nếu không nhờ pháp lực của ngài thì máu thịt tanh hôi khắp cả vùng đất này. Không biết lấy gì để đáp đền ân đức, nay trong núi này vốn không có nước biết lấy gì để an ổn chúng Tăng, tôi sẽ dẫn nước đến kính dâng ngài và cả đạo tràng vậy.

Liền ở trên hang cao cùng nguồn, mổ thành hang đá nước suối tuôn trào trong veo, lúc đầu chỉ là dòng nhỏ sau tràn lớn bèn thành hồ. Nay ở lưng chừng núi còn gọi là Long hồ, tức phát xuất từ đó. Lúc đông lạnh không đóng băng, giữa nắng nóng chẳng khô kiệt. Dòng nước ấy tuôn chảy bốn hướng tưới tẩm cho vài trăm khoảng ruộng, cả nước bèn cho là thành nhân, bèn tạo dựng nhà thờ ở trên quanh năm hưởng sự cúng tế. Nay gặp tiết thượng nguyên là ngày hạ sinh của ngài, rồng hẳn đến chầu tạ có ứng hiện mây khí tốt lành.

Ở bên phải của viện, cách mười lăm dặm có miếu của tùy nghĩa Ninh Âu Dương thái thú, tức nay là Phước Thiện vương. Miếu đó dựng lập đến nay là đã hơn hai trăm bảy mươi năm. Vị thần thờ ở đó rất linh hiển, ban giáng họa phước khắp cả nước này. Dân chúng kinh sợ cúng tế muôn sinh không này trống. Ngài thấy vậy mà xót thương. Một ngày nọ, ngài cầm roi gậy đến dưới đền thờ nói kệ thấy ý, lại ban cho lời ước hẹn rằng:

– Nếu có thể ăn chay trì giới không giết hại, thì cò thể gần gũi.

Đêm đó trong thôn xóm có ông gìa mộng thấy thần bảo rằng:

– Ngày nay ta thọ giới pháp của Thiền sư, không còn hưởng dụng máu huyết nữa. Nên cúng tế ta như cúng dường các vị Tỳ-kheo là đủ.

Việc cải đổi cúng tế máu thịt thay vì chay tịnh từ đó đến nay vẫn tuân theo như thế, người thần đều an. Thần hiển linh dị hộ độ trì núi ấy, người nói rằng:

– Ngài đã cùng với thần dùng đạo lực để so kém hơn thấp. Bên cạnh miếu có cây tùng lớn vóc dáng xen trời, ngài đưa tay đè xuống quét đất ba vòng, mà Thần chỉ quét đất hai vòng, bèn khuất phục mà theo ngài.

Một ngày nọ, ngài nhóm họp đồ chúng, bảo rằng:

– Ta sắp đến nơi khác, mọi việc tại viện đều giao phó cho hai vị Thông, Giáo.

Bèn nói kệ rằng:

Ta lánh đời khó cầu xuất gia
Thầy tổ chỉ bày chỗ nghỉ thôi
Ba mươi năm rừng sâu nhân chúng
Đời người chẳng muổn xem thường giao
Ngày nay tỏ rõ nói cùng cả
Ta nháy mắt thời đều lắng nghe.

Chúng tăng trong chùa buồn thương cố thỉnh vì Phật pháp mà trụ lại ở đời. Ngài bảo:

– Các ngươi há không biết ý chỉ của Tổ sư Đạt-ma mang một chiếc giầy trở về trời Tây, khắp hóa toàn thân thoát bỏ? Cố sao lấy sự khứ lai sinh diệt mà trông nhìn ta.

Thế rồi ngài cỡi hổ lúc sáng sớm đến Tín châu ứng cúng. Đến đó, vào trong phòng Tăng nhóm tập trai cúng dường. Ngài đến vị trưởng giả lại xin thêm một phần cho hàng giả, ông trưởng giả bảo rằng ngài dến một mình nên không chấp thuận sự cầu xin của ngài, bèn tìm một chén nước phun và gậy hóa thành hổ cỡi cao mà đi đến chùa Khai nguyên mà Tăng chúng ở hồ Long hồ đến đó tìm ngài, ngài phú chúc rằng:

– Ta không trở về trong núi, ở đó đã có Thiền sư Thông rồi.

Nên tại chùa Long hồ không có tháp của Tổ sư Khai Sơn, chỉ có ngài cỡi hổ. Đó là chứng tích xưa nay.

Lại có Thiền sư Thủy Chiếu tự tả chân tượng của ngài, đến nay vẫn còn, ban sắc Thụy hiệu là Viên Giác Thiền sư. Phàm những ai cầu đảo gì đều cảm ứng như hưởng. Và trước viện có cây sam nơi tòa ngài ngồi, đến thời gian này thường trổ hoa lạ.

181. Thần tăng Hoài Tuấn

Thích Hoài Tuấn không biết ngài là người xứ nào, vừa quả quyết mà lại ngông cuồng. Ngài ngược biết mọi việc ở tương lai và nó ứng cảm như thần.

Khoảng niên hiệu Càn Ninh (89-898) đời tiền Đường, chẳng rõ từ đâu, ngài đến Ba đông, ngài lại có tài năng tự nhiên về bút Pháp viết chữ thảo, hoặc trên vách tường Chùa quán, tiệm, chợ viết lên những lời trong kinh Phật, những bài pháp của đạo giáo, cho đến những ngôn từ thi ca quê kịch thô bỉ, không lời nào mà ngọn bút của ngài không viết được. Đồng thời ngài chỉ nói A Duy mà thôi. Dân chúng trong làng cho là Thần thánh nên tiếp đãi. Thứ sử Vu Công lo sợ đó là cuồng hoặc chúng, bèn bắt giam tù ngục cật vấn nạn ngài, ngài liền cùng thi từ nói rõ tình trạng, từ ý toàn tại Đông tây của Mân xuyên, chương cú hay đẹp. Tướng châu lấy làm kì dị mà thả ngài ra. Ngài lại nói rõ ý chỉ đó là nghe ở trong biển, nghe làm cái chén để vượt qua dòng sông. Lữ hành trải qua chỉ một chiếc thuyền mà đến tham yết. Ngài biện rõ mọi chuyện cát hung trên dưới đỉnh núi, mọi chuyện lận đận của việc buôn bán kinh cầu, các người khách đến khẩn cầu, ngài chỉ viết năm, ba hàng trọn không nói rõ mà sau mọi việc xảy ra có nhiều ứng nghiệm.

Bấy giờ, kinh Nam đại Hiệu Chu Sùng Tân đến tham yết ngài, ngài viết thư rằng:

– Giao phó Hoành đô khám xét ngươi.

Sau Sùng Tân vào triều cống nhân vương Sủy Nam dò xét, bèn bị bắt trói tại Nam Phủ, cuối cùng bị giết chết. Áp Nha Tôn đạo năng đến thăm ngài, ngài viết chữ giao phó chùa Trúc lâm. Năm đó vật vã, xây mồ an tán ở nền chùa Trúc lâm cổ xưa. Hoàng Phủ Huyễn Tri Châu, ngài mới họa vẽ một người mang cùm bên cạnh có một người nữ, tầm lấy vợ ở nhà người, người nữ sai tố tụng bèn bị giam cầm thân vào phủ vậy. Có Mục Chiên Tự, thuộc chủng tộc Ba tư, thuở thơ ấu rất ham thích dược thuật, theo phụ thân đến tham yết ngài, ngài họa vẽ một vị đạo sĩ cỡi mây, nâng giắt một bầu hồ, viết rằng: “Chỉ huy sứ Cao Mỗ Điệp Nha, nâng đẩy mục sinh sau dùng y thuật có hiệu nghiệm. Nam bình vương Cao Tùng Hổi sai Sử Mục Chiêu Tự bỏ đạo theo Nho, giản nhiếp phủ Nha, nâng đẩy Thuộc Vương Súy đánh kinh Châu, ngài viết thơ đưa dâng Nam Bình Vương rằng:

Dấu ngựa dần vào lối Dương châu Thân quyến phải nên rửa mắt nhìn.

Năm đó dòng họ Cao dốc lòng thành thật ở Hoài nam, bèn mở vòng vây lớn. Ngoài ra những vết tích kỳ lạ phần nhiều cùng loại như thế.

Bỗng một ngày nọ, ở trước sân, ngài viết trên ngọn lá chuối rằng:

– Ngày nay đã trả nghiệp oan trái.

Khắp châu huyện lại không dò xét đến cùng, mọi người qua lại thấy kỳ lạ, không ai chẳng để ý, bỗng có một người đến giết hại ngài, thân đầu lìa nhau. Quan thứ sử vì thế lo việc cử hành lễ trà-tỳ./.

182. Thần tăng Tân Thất Sư

Tân Thất Sư, ngài người xứ Thiểm tây, Tân là họ của ngài. Từ bé thơ, ngài rất cẩn trọng nghiêm túc, chưa từng làm việc gì cẩu thả khinh thường. Song thân ngài đều lấy làm lạ mà vô cùng thương mến. Năm lên mười tuổi, ngài rất ham thích Phật pháp, thường ngày xem đọc sách Phật, lại có khả năng tự học thông Phạm ngữ chẳng do thầy dạy dỗ.

Sau, thân phụ ngài làm Thiểm tây quận thú, trước là ở phía Nam quận có làm bảy cái lò nung ngói. Kịp đến lúc thân phụ ngài qua đời, ngài thương buồn sinh hư hỏng. Một ngày nọ phát cuồng bỏ chạy trốn. Có thằng bé trong nhà men theo vết chân ngài mà sang phía Nam quận, thấy ngài an nhiên đoan tọa trong một cái lò nung ngói, từ thân ngài có ánh sáng khác lạ tỏa chiếu nhưng luyện sắc màu vàng ráng. Thằng bé ấy vô cùng kinh ngạc, kế tiếp đến một lò khác, lại thấy ngài an tọa trong đó, suốt cả bảy lò đều có bảy ngài an nhiên đoan tọa ở trong. Do đó, dân chúng ở Thiểm tây gọi ngài là Tân Thất Sư*.

183. Thần tăng Đạo Giản

Thiền sư Đạo Giản, ngài trú tại Thất của Tiên Vân Cư từ lâu và là bậc đệ nhất tòa trong môn đường. Vừa lúc Tiên Vân Cư sắp thị tịch, vị chủ Sư thỉnh hỏi Thiền sư Nam có thể tiếp nối sự nghiệp chăng? Tiên Vân Cư bảo:

– Trong môn đường có đạo giản!

Ý của vị chư sư cho là khiến ngài lựa chọn người xứng đáng, nên nói thêm:

– Vị đệ nhị tòa cũng được.

Vả lại sắm sửa đủ lể để cầu thỉnh, nếu ngài khiêm nhường từ chối thì kiên quyết thỉnh vị Đệ nhị tào. ngài đã kính vân phụ thọ ký lược chẳng miễn từ, liền tự cù đạo cụ vào phương trượng, nhiếp chúng, giảng phát, các vụ chủ sự…, chẳng thỏa lòng ước muốn ban đầu, nên không tuân theo quy thức. Ngài thấy rõ tình trạng như thế, bèn trốn bỏ đi. Đêm đó thần cây An lạc gào khóc. Đến sáng sớm, vị chư sư…cả thảy Đại chúng vội chạy đến trang trại trồng lúa, sám hối lỗi quá, ai cầu thỉnh ngài trở về bổn viện. Đại chúng liên tiêp nghe giữa không trung có tiếng xướng tụng là:

– Hòa thượng xin hãy trở lại!

184. Thần tăng Khế Thử

Thích Khế Thử, không rõ ngài là dòng tộc gì. Có thuyết nói ngài có thuyết nói Tây ninh, Thân hình ốm yếu, tráng dẹp bụng lớn, nói năng chẳng thường ngủ nằm tùy chỗ. Ngài thương dùng gậy mang đẫy vải vào đất Ly (nước Lỗ), đến các quán chợ, thấy vật thì xin, đến chỗ tương giấm cá muối, liền nhận lấy bỏ vào miệng, phần ít thì bỏ vào đây, nên ngài có tên gọi là Trường Đinh Tử Bố Đại Sự.

Vậy ngài thường nằm trong tuyết mà trên thân không có tuyết. Mọi người lấy đó làm kỳ lạ. Ngài lại thường đến chỗ người thì mếu máo cầu xin, đến quán tiệm thì báu vật. Trong túi đẫy lúc nào cũng có một vật đầy đủ cung cấp thân. Ngài chỉ bày mọi sự tất xấu của người thảy dều hiện tướng bày điềm. Như trời nắng hạn thì ngài kéo cao guốc gỗ vào chợ hay lên trên cầu dựng đầu gối mà ngủ, trời mưa lớn thì mang giày cỏ vào chỗ ẩm thấp, mọi người lấy đó mà nghiệm biết.

Khoảng niên hiệu Thiên Phục (901-90), đời tiền Đường, ngài thị tịch tại làng Phụng xuyên, dân chúng trong làng xóm cùng nhau làm lễ an táng. Sau, ở những châu huyện khác lại thấy ngài cũng mang đảy vải mà đi. Ở vùng Giáng chiết có nhiều người đắp họa hình tượng ngài.

185. Thần tăng A Túc

Ngài A Túc, không biết từ đâu lại, bản chất như ngu si dơ bẩn, tinh thần chẳng có gì tỏ ra mẩn tuệ. Bấy giờ, phàm nói điều gì thảy đều là biết trước, tuy sống bất định nhưng thường cư ngụ tại Văn hương. Mông lung qua lại tranh đường yết lễ. Ở núi non Đàn thệ từng chẳng đoái hoài. Mọi người hoặc lo hoặc bệnh, mà nhận được phương hướng của ngài thì ứng nghiệm mau như thần tốc.

Bấy giờ, tại Thiểm châu có một nhà giáo có tên là Trương Trăn, của cải chất chứa cả ngàn vạn, chỉ có được một đứa con trai độ mười bảy tuổi, từ thuở mới sinh đã ngu dốt lẩn thẩn, tay chân co quắp, nói năng lúng túng, chỉ ưa thích ăn uống, miệng như khe suối lỗ hỏng, cha mẹ vô cùng mến thương, hết phương cấp dưỡng, tìm thầy cầu thuốc, xa chẳng ngàn dặm. Suốt mười mấy năm, sau đó gia nghiệp gần hết sạch. Có người bảo rằng:

– Ngài A Túc là bậc Hiền thánh là chư Phật hiện ở đời, sao chẳng đến khẩn cầu, may thay dứt trừ bệnh ấy?

Trương Trăn cùng với vợ tìm đến Văn hương, khấn đầu rơi lệ khẩn cầu ngài cứu giúp. Giây lâu, ngài nói cùng Trương Trăn:

– Oan nghiệp nhà ngươi chưa hết, còn phải cả mười năm. Ta thương xót nhà ngươi kính cẩn chí thành nên dứt trừ cho.

Liền bảo chọn ngày đến trên dòng sông, thiết đặt trai hội rất lớn, mời chúng đông nhiều để xem độ thoát. Và bảo ngày đó cũng đem người con trai ấy đến đạo tràng.

Mọi người thời bấy giờ gọi đó là thần thông mà người đến xem như bức tường chắn đứng trong tư thế kính cẩn. Ngài bảo ba, bốn người mạnh mẽ, kéo đứa con ấy ném xuống dưới dòng sông. Trương Trăn cùng mọi người cả hội chẳng ai lường biết việc làm của ngài. Ngài xoay lại nói với Trương Trăn rằng:

– Ta vì nhà ngươi mà trừ tai họa.

Giây lâu, đứa con ấy từ dưới dòng, cách ngoài mười bước nổi lên đứng trên mặt nước, chỏ tay nói với cha mẹ nó rằng:

– Ta cùng nhà ngươi có duyên nghiệp cừu oán từ nhiều đời trước. May gặp được Thánh giả vội cởi mở cho. Không vậy thì ngày kết thúc hẳn chưa đến.

Nó đứng thẳng thân hô cao, đều chẳng ngu si, bỗng chốc trầm mình xuống nước, không biết đi đâu.

186. Thần tăng Duy Tỉnh

Thích Duy Tỉnh, ngài người xứ Ngô môn. Năm ba mươi tuổi, vào chùa Quốc ninh, đi rảo các phòng tăng, xướng rằng:

– Cần người xuất gia xin lưu lại.

Xuống đến viện kinh Tạng, thấy đại đức Tuệ Chánh là bậc Xà-lê của hai chúng, ngài liền quỳ lạy thành khẩn xin dung nạp chấp trì. Ngài Tuệ Chánh chấp thuận cho xuống tóc thay đổi pháp phục, đến Thiên thai thọ giới Cụ túc.

Ngài từng đến chùa Thiền lâm dùng cháo lúc sáng sớm mà có nhiều hổ báo theo sau ngài đến cửa chùa, hổ ngồi giữa đất như dò xét chờ hầu, ngài ra thì lại đi theo. Trời sáng tỏ thấy dấu vết rất nhiều, ngài sợ mọi người biết nên dùng bừa xóa tan dấu chân hổ, bỗng dưng sau lưng ngài bị mụt nhọt sưng, nằm ngủ đau nhứt, có phấn chim chậm bôi vào vết thẹo nên chẳng bao lâu thì lành hẳn. Ngài lại tính liệu thời tiết băng tuyết nên chuẩn bị gạo thóc nửa đấu, mỗi ngày dùng xoang bỏ thêm rau vào nấu ăn. Ngài để gạo thóc vùi vào trong đất, quá thời kỳ dùng mà gạo vẫn thường đầy chẳng hết. Ngài bèn đắp nó lại mà nói rằng:

– Ta bị vật này biết, thật phi lý.

Hơn bảy mươi tuổi, ngài mới thị tịch.

187. Thần tăng Tề Châu Tăng

Sử Luận lúc ở tại Tề châu, đi săn thú, đến biên giới một huyện nọ vào dừng nghỉ trong một An nhã, cảm nghe có mùi thơm của đào khác thường, bèn hỏi vị Tăng ở đó. Ngài không kịp dấu bèn nói:

– Gần đây có người cúng thí cho hai quả.

Nhân đó, ngài đến Án kinh lấy ra dâng tặng sử luận. Đang lúc đói bụng, nên Sử Luận ăn hết, hạt nó lớn như trứng gà. Tiện đó Sử Luận hỏi về nguồn gốc của quả đào. Ngài cười bảo:

– Nảy giờ thật là nói bậy. Giống Đào này cách đây hơn mười dặm, đang đi trên đường nguy hiểm, bần đạo gặp một vị hành cước thấy nó, cảm thấy khác lạ, nhân đó bèn lấy vài quả.

Sử Luận nói:

– Xin bỏ kỵ, theo cùng Hòa thượng đồng đi.

Ngài bất đắc dĩ mà dẫn Sử Luận ra đi hướng Bắc chống gậy đi trong hoang mạc trải qua năm dặm, đến một dòng nước, ngài bảo:

– Sợ rằng trung thừa không thể vượt qua đây!

Sử Luận quyết chí vượt qua, bèn y theo ngài cởi áo chở nó nổi vượt qua bờ bên kia. Lại đi về phía Tây bắc, vượt qua thêm hai dòng nước, leo lên núi vượt qua khe suối vài dặm, đến một chỗ có dòng suối dữ dội, đá nước quái lạ chẳng phải cảnh ở cõi người. Ở đó có vài trăm cây đào, cành nhánh xà quét đất, cao độ vài ba thước, mùi thơm của đào ác cả mùi hôi. Sử Luận cùng ngài mỗi người ăn một ngọn lá mà bụng đã no vậy. Sử Luận cỡi áo muốn dùng hết sức lực để lấy. Ngài bảo:

– Đây là cảnh linh không thể lấy nhiều, bần đạo thường nghe các bậc trưởng lão nói ngày xưa có người cũng từng đến đây. Ôm láy năm, sáu quả bèn mê lại không ra được.

Sử Luận cũng nghi ngài là bậc phi thường, nên chỉ lấy hai quả mà trở về. Ngài tha thiết răn dặn Sử Luận chớ nói với mọi người. Sử Luận về đến Châu, sai sứ đến với ngài thì ngài đã thị tịch.

188. Thần tăng Hiện Tử

Sự tích Hòa thượng Hiện Tử ở Kinh tiệu rất là đặc biệt, ngài cư trú không nơi nào nhất định, tự ẩn tâm ở động sơn, hỗn tục tại Mân xuyên, chẳng tích chứa các thứ đạo cụ, chẳng vâng giữ luật nghi, dù mùa Đông hay mùa Hạ cũng chỉ biết tiếp nạp. Thường ngày, ngài ven theo bờ sông, bắt nhặt tôm, hến ăn cho no bụng, chiều tối đến dừng nghĩ trong đống tiền giấy ở miếu Bạch mã, Đông sơn. Từ đo dân chúng gọi ngài là Hiện Tử*.

Thần sư Tĩnh ở chùa Hoa Nghiêm nghe vậy, muốn quyết rõ là giả hay thật. Đầu tiên tìm ẩn vào trong đống tiền giấy. Đến đêm khuya thì ngài trở về, Thiền sư Tĩnh nắm lấy trụ hỏi:

– Thế nào là ý nghĩa của Tổ sư Đạt-ma từ Tây Trúc lại?

Ngài vội đáp:

– Mâm đài rượu trước Thần.

Thiền sư Tĩnh buông tay ra, bảo:

– Chẳng dối cùng ta đồng căn sinh. Sau, Thiền sư Tĩnh đáp lại chiếu mời của vua Trang Tông (923–926), đời hậu Đường, vào Trường an, thì ngài đã đến trước đó. Mỗi ngày ca xướng tự vỗ, cho đến giã vờ cuồng ngông. Ngài đi lại trên bùn tuyết, đều không có dấu vết sau đó, không biết ngài thế nào.

189. Thần tăng Khấu Băng Cổ Phật

Ngài Thấu Băng Tháo Quan Cổ Phật, ban đầu đến tham yết ngài Tuyết Phong. Ngài Tuyết Phong bảo:

– Ngày sau ông hẳn làm thầy của bậc Đế vương.

Sau, ngài từ Nga hồ trở về Ôn lãnh, lập am ở trên đỉnh núi Tướng quân, có hai con hổ theo hầu bên cạnh, có thần nhân hiến cúng đấy dựng lập viện Thụy nham, các học giả đua nhau nhóm tụ. Ngài thường nói cùng chúng Tăng rằng:

– Ngày xưa, các bậc Thánh hiền tu hành phải cậy nhờ tiết chế khổ hạnh. Tôi nay mùa Hạ thì chỉ một chiếc áo bông, mùa Đông gõ băng mà tắm, nên người đời gọi tôi là Khấu Băng Cổ Phật!

Sau, ngài trú tại Linh diệu.

Đến năm Thiên thánh thứ 3 (928), ngài đáp lại lời mời của Môn vương (Môn Tông, Lý tự Nguyên, đời hậu Đường) mà đến ở trong nội đường. Mân Vương Kính bái thưa rằng:

– Cảm ơn ngài từ xa giáng lâm.

Và ban tặng trà vật. Tiếp đó, ngài giất chiếc đẩy, hỏi:

– Đại vương biết cái gì chăng?

Đáp:

– Không biết.

Ngài bảo:

– Nhân vương pháp vương mỗi tự chiếu rõ.

Ngài dừng ở khoảng mười ngày, lấy cớ có bệnh nên cáo từ.

Đến ngày mồng hai tháng chạp, ngài tắm rửa rồi lên Pháp đường bảo cùng chúng Tăng mà thị tịch. Nhà vua cùng với kẻ Tăng người tục sắm đủ củi hương cử hành lễ trà-tỳ. Ánh sáng chiếu tốt lành chiếu soi khắp cả núi, thâu nhặt xá-lợi, xây dựng bảo tháp ngay giữa viện Thụy nham để cúng dường, ban sắc thụy hiệu là Diệu ứng pháp uy từ tế thiền sư. Từ đó đến nay, mọi người xa gần đến cầu đảo gì đều được cảm ứng linh dị chẳng phải một lần.

190. Thần tăng Toàn Tể

Thích Toàn Tể, ngài dòng họ Trầm, người xứ Tiền đường. Thời gian còn tấm bé bồng ẵm, ngài đã chẳng vui thích cá thịt tanh nồng. Thân mẫu ngài nhiều lần phô bày việc thiện, nên khuyên ngài đến Đại sư Pháp Tế ở Kinh sơn, cầu xin xuống tóc xuất gia. Kịp đến lúc ngài tu pháp Thiền quán, dong dõng cao kính, chẳng xen tạp phong trần. Ngài kính mộ mười hai pháp hạnh Đầu-đà dùng để tự tiết chế trong công hạnh tu hành. Ngạn ngữ nói rằng:

– Chủ Đạo ấy.

Đến lúc du phương tham vấn, ngài được Thiền sư Thạch Sương ẩn chứng thầm gia hộ bảo nhận. Ngài vào núi Thiên thai nơi đỉnh núi u tối để giữ trọn ý chí.

Y Nham và Hàn Sơn Tử ẩn cư nơi ngọn núi cao vót đối diện. Tại đó đều có lắm thứ ly mỵ mộc quái tụ tập thành đàn. Tại chỗ ngài ở, hơn hai mươi năm, tiếng chim xấu ác bặt dứt, Sơn Tinh nhường hang. Các đường lối vào ra kinh hành, quỷ thần tự lo tu sửa, hoặc đứng hầu bên cạnh, hoặc thay lấy nước suối, hoặc cúng dường rau quả. Không lúc nào mọi người thấy nghe ngài nói một lời nào. Sau, ngài thị tịch tại viện Trấn quốc.

191. Thần tăng Diên Thọ

Sa-môn Diên Thọ, tự là Xung Huyền. Ở độ tuổi bé thơ, ngài tụng đọc kinh Pháp Hoa, nhìn suất một lược năm hàng, qua sáu tuần thì hoàn tất.

Ngài đến Thiền sư Thúy Nham ở Tứ minh cầu xin xuất gia, ngài thường mặc áo chẳng bông tơ thêu thùa, ăn không thức vị sang trọng. Ngài lại đến tham yết Quốc sư Thiều, bèn được tỏ rõ tâm yếu. Quốc sư Thiều từng nói cùng ngài rằng:

– Ông có duyên với Nguyên Súy, ngày sau hẳn làm được Phật sự lớn. Tiếc rằng ta không còn kịp thấy điều đó!

Đầu tiên ngài đến trú tại Thiên thai chỗ đỉnh núi của ngài trí giả, suốt chín tuần thực tập thiền định, có làm chim yến nhỏ vào làm ổ trong vạt áo. Sau, ngài đến chùa Quốc thanh hành trì sám pháp “Pháp Hoa.” Ban đêm, thấy Thần nhân mang kích đi vào, ngài quở trách Thần rằng:

– Có sao tự tiện vào đây như thế?

Thần đáp:

– Từ lâu tích chứa thiện nghiệp mới được vào tới đây!

Nửa đêm, ngài đi nhiễu quanh tượng, thấy Bồ-tát Phổ Hiền phía trước, trong tay nắm cành hoa sen. Ngài liền lên đỉnh núi của ngài Trí giả, làm hai phương án: Một là suốt một đời tu tập thiền định; hai là tụng kinh Vạn Thiện trang nghiêm tịnh độ. Rồi âm thầm chuyên tâm cầu khẩn bèn được tụng kinh Vạn Thiện, cho đến bảy lược như thế. Từ đó, ngài một lòng chuyên tu tịnh nghiệp, chấn tích đến đỉnh Kim hoa thiên trụ, tụng kinh suốt ba năm. Trong lúc thiền quán, ngài được Bồ-tát Quan Thế Âm rưới nước Cam lồ vào trong miệng ngài, bèn được thành tựu Biện tài. Ban đầu, ngài diễn giảng Pháp tại Tuyết đậu.

Đến năm Kiến Long thứ nhất (960), đời Bắc Tống, Trung ý Vương thỉnh ngài đến trú tại chùa Linh ẩn. Năm sau, ngài dời sang chùa Vĩnh minh, thời khóa hằng ngày có đến một trăm lẻ tám sự việc, ngài chưa từng tạm phế bỏ. Các hàng học giả đến tham vấn, ngài lấy việc “Chỉ tâm làm tông, chứng ngộ mới thôi.” Chiều tối ngài đến một ngọn núi riêng để hành đạo niệm Phật, mọi người bên cạnh phòng nghe tiếng loa bối nhạc trời. Trung ý Vương tán thán rằng: “Từ xưa, những người cầu sinh Tây phương chưa có ai chuyên tâm công phu như vậy!

Bèn vì ngài mà dựng lập bảo điện Tây phương hương nghiêm để thành tựu chí nguyện của ngài. Ngài trú tại chùa Vĩnh Minh mười lăm năm, đệ tử có đến một ngàn bảy trăm vị, ngài từng cùng chúng Tăng thọ giới Bồ-tát. Ban đêm cúng thí cho quỷ ăn, ban ngày phóng thả sinh mạng, thảy đều hồi hướng Trang nghiêm tịnh độ. Người thời bấy giờ gọi ngài là Từ Thị hạ sinh.

Đến năm Khai Bảo thứ 8 (976), đời Bắc Tống, vào lúc sáng sớm ngày 26 tháng 2, ngài dậy đốt hương, bảo cùng Tăng chúng rồi ngồi kiết già mà thị tịch.

192. Thần tăng Toàn Thanh

Thích Toàn Thanh, ngài người đất Việt, ngài thành tựu pháp mật tạng cấm chú, hay yểm hặc quỷ thần.

Bấy giờ có người phụ nữ trong nhà Thị Tăng Vương bị mắc bệnh tà khí, nói năng ngông cuồng ngược ngạo, hoặc khóc hoặc cười bất thường, như vậy cả vài năm, trong nhà mời ngài trị liệu. Ngài bèn bện cỏ làm hình người cao lớn hơn một thước, dùng lụa năm màu làm áo mặc, an trí ở tại đàn tràng. Ngài gia trì chú giây lâu, người phụ nữ nói:

– Xin tha mạng!

Ngài bèn ghi dặn rõ rằng:

– Khoảng đến ngày xuân năm đến, ở trước Võ Từ sẽ cùng phụ giúp cho. Như sư Không bị giết hại thì thả nó đi xa.

Ngài dùng một cái phểu, lấy roi đánh đuổi cỏ, linh nhập vào trong phểu, mà có tiếng u u như hươu kêu, phong bít miệng lại, dùng bùn đất làm dấu 6 chữ ất, dùng mực đỏ viết phù ấn lên trên rồi đem chôn dưới rừng cây dâu. Ngài răn bảo người nhà không được đá đụng đến. Người phụ nữ ấy bệnh liền lành hẳn.

Trải qua năm năm sau, gặp lúc Lưu Hán Công cùng Đổng Xướng, tuy cách dòng sông mà cùng trì hãm Việt Thành. Có người cho đó là giáo tạng, bèn đào bới đập vỡ cái phểu, thấy một con quạ nhô đầu ra, bỗng nhiên bay lên đậu ở trên cành cây dâu mà nói tiếng người rằng:

– Ngày nay mới thấy được ánh sáng mặt trời! Lúc ấy, ngài đã thị tịch rồi.

193. Thần tăng Tự Tân

Thích Tự Tân, ngài dòng họ Tôn, người xứ Lâm truy. Ngài tự tìm minh sư, chưa từng lười biếng phế bỏ. Nghe Thiền sư ứng hoằng hóa ở Chung lăng, bèn đến tham vấn, theo trưởng lão Vân Cư qua lại chốn tích ẩn cư trong núi Quảng đức. Vừa lúc Lưỡng Triết Văn Mục Vương thuộc dòng họ Tiền, dẫn sứ sĩ thân chinh uyển lăng, vào nơi chùa núi Quảng đức. Chư Tăng đều chạy trốn, chỉ một mình ngài vẫn an nhiên.

Mục Vương hỏi:

– Tại sao ngài không trốn lánh?

Ngài bảo:

– Các phía Đông, Tây thảy đều là giặc, bảo lão Tăng trốn lánh ở xứ nào?

Mục Vương kinh hãi sự bươi móc thẳng thắn của ngài, bèn xoay mác trở về, thấy Võ Túc Vương hỏi đến, thì nói không thể khuất phục mà càng thêm cao hạnh. Bèn tạo lập viện Ứng Thụy để ngài an trú, đề xưng hiệu là Quảng Hiện Đại Sư.

Ban đầu, ngài thường vào núi Tuyên thành hái cây thuốc, đi xuyên qua một hang động sâu. Lúc đầu thì mờ tối, dần dần thấy được mặt nhật rõ ràng, đi chỉ vài dặm, bên cạnh động có một hang riêng, có khe nước chảy bồng bềnh. Nơi góc cong dưới một cây Tùng lớn có một thảo am, ở đó có một vị Tăng, lông mày trắng như tuyết, đang ôm che áo nạp toạ thiền. Bên cạnh có một chiếc khánh và đồ lửa, ngài đánh khánh, vị tăng bèn mở mắt, kinh hãi bảo:

– Y! Sư có duyên sự gì mà đến đây?

Bèn bày hành chỉ và mời ngồi, lấy đá đánh lửa nấu nước trà, hương vị rất dễ mến. Trời sắp tối, vị Tăng ấy nhường am để ngài dừng nghỉ qua đêm, ngài ngoảy nhìn vị Tăng leo lên trên chóp cây tùng vào trong ổ chim lớn. Nghe tiếng tụng niệm kinh Pháp Hoa tiếng rất trong trẻo, giây lát lại nghe tiếng than trách rằng:

– Chủng loại súc sinh lông cánh này sao khổ sợ loài người khủng bố. Hãy mau trở về rừng rậm, không nên ra ngoài kêu la!.

Ngài lén nhìn thì thấy hổ báo chuôi tai mà đi. Đến sáng sớm hôm sau, ngài nói với vị tăng ấy rằng:

– Xin nguyện được ở đây lo việc hầu hạ khăn giày của ngài!

Vị Tăng ấy bảo:

– Từ đây trăm ngày cỏ cây bốn bề đều khô tuyệt không có khói lửa như ở cõi người, chẳng phải chỗ ngài dừng ở!

Lại hỏi ngài rằng:

– Có đói chăng?

Rồi cùng dẫn đến bên bờ khe suối, có lúa hơn cả trăm bông, nhặt lấy hạt gạo và lựa ba hạt kê vàng, chọn hái ít rau ở đồng trống để chung lại nấu mà ăn. Sau đó bảo ngài trở về, đưa ra đến cửa Động, vị Tăng ấy bảo:

– Sự gặp gỡ này chẳng phải là ngẫu nhiên! Với các thứ ăn uống rau cháo nước trà, bình sinh ngài chẳng thiếu.

Ngài bèn tuân theo đường trở về bổn viện, thì thời gian đã trải qua hơn một tháng trời. Ngài bảo những người cùng đồng hảo tâm trở lại tìm thì dấu vết hang động đều mất dạng không còn.

Sau, tại Triết trung, thỉnh ngài làm chủ chùa Bảo tháp. Trong niên hiệu Thiên Phước (93-9), đời Hậu Tấn, Ngũ Đại, ngài thị tịch tại chùa Bảo tháp, hưởng thọ hơn tám mươi tuổi. Đến nay di ảnh của ngài, trong một viện nhỏ trước Vịnh Lãnh Thủy hiện đang còn.

194. Thần tăng Pháp Bổn

Thích Pháp Bổn, không biết ngài là người ở xứ nào, ngài thuần long giữ pháp, đi đứng tường tự, nói năng có lắm điều lạ lùng cảm kích.

Trong niên hiệu Thiên Phước (93-9), đời Hậu Tấn, Ngũ Đại, ngài đến Thiền viện Tương Châu, cúng một vị Tăng đồng qua mùa Hạ, sớm tối cùng ở một nơi, tâm địa giống nhau. Ngài nói với vị Tăng ấy rằng:

– Bần đạo trụ trì chùa Trúc lâm ở trong núi thuộc phía Tây Tương châu. Tại trước chùa có một trụ đá. Ngày sau, lúc nhàn rỗi xin thỉnh ngài đến thăm.

Vị Tăng ấy tung niệm lời ấy. Nhân sang đó tìm thăm, kịp đến trong thôn dưới chân núi, vị Tăng ấy vào dừng nghỉ qua đêm trong một Lan-nhã hỏi chư Tăng ở đó rằng:

– Ở đây cách chùa Trúc lâm khoảng bao xa?

Vị Tăng ở đó đưa tay chỉ vào bên cạnh đỉnh núi trơ trọi, bảo:

– Chùa Trúc lâm ở phía ấy. Các bậc lão túc ngày xưa tương truyền với nhau rằng: Đó là chỗ xưa kia các vị thánh hiền an trú. Nay chỉ còn có tên gọi mà thôi các phòng viện không còn nữa!

Vị Tăng ấy liền nghi ngờ, đợi đến sáng liền đi. Đã đến trong rừng trúc rậm, quả thật thấy có một trụ đá, song mịt mờ chẳng rõ biết ven bờ.

Đương lúc trước kia sắp từ biệt ngài có bảo rằng:

– Chỉ gõ vào trụ đá thì sẽ thấy người ra đón.

Vị Tăng ấy liền dùng cành cây nhỏ gõ vào trụ đá vài tiếng, tự nhiên gió mây bốn bề nổi dậy, trong khoảng một thước chẳng thể nhìn thấy. Bỗng chốc mắt tai mở bừng, thấy lâu đài cao vút, thân mình đứng rụt lại dưới Tam môn. Ngài từ trong đi ra, thấy được rất vui mừng, hỏi việc xưa ở trong Nam, ngài bèn dẫn vị Tăng ấy đi qua mấy lớp cửa lên trên điện kính tham yết các bậc Tôn túc. Vị Tôn túc ấy hỏi về nguyên do. Ngài đáp:

– Năm trước tại Tương châu cùng vị Tăng ấy sống qua mùa Hạ, có hẹn cùng đến đây thăm, nên đến Sơn môn.

Vị Tôn túc ấy bảo:

– Sau khi trai phạn xong thì xin mời ra, ở đây không có tòa vị.

Thọ trai xong, ngài đưa vị Tăng ấy đến Tam môn thì cùng nhau từ biệt. Thế rồi trời đất mịt mờ, vị Tăng ấy chẳng biết đi đến đâu, trong khoảnh khắc thì đã đến trong rừng trúc đứng bên cạnh trụ đá. Ngoài ra chẳng thấy gì nữa cả.

Vị Tăng ấy liền biết các bậc Thánh hiền ở trong cõi đời ẩn hiện khó lường, kim yếu của Đức Như Lai riêng hay hóa hiện.

195. Thần tăng Điểm Điểm

Sư Điểm Điểm, không biết ngài là người ở xứ nào. Tuy cắt tóc nhuộm y mà thường như phong cuồng. Có ai mời ngài trai thực, chẳng xen lẫn rượu thịt. Mỗi ngày lúc trời sắp tối, ngài liền mua giấy gai màu vàng màu trắng và bút mực bỏ vào tay áo rồi trở về thất chỗ ngài ở. Tuy có cửa ngoài mà không tường vách ở bốn phía, sau khi vào liền đóng cánh cửa người không thể đến được. Có vị Tăng trẻ nhỏ ở gần men theo vết chân ngài mà dò xét. Thấy ngài cầm đèn ngông ngáo, bày giấy bút ra trước mặt, quở trách viết lớn. Chẳng hiểu ngài viết loại văn tự gì, thường thường chỉ giây lát, như quyết đoán đặt để. Giây lâu, từ giữa khoảng tối sáng nhìn kĩ vào đó trong nhấp nháy như có người ngan ngát, hình trạng như Tào Sử, áo xiêm đều chẳng phải như phục sức của người đời. Người trông nhìn kinh sợ mà thoái lui. Hỏi ngài về nguyên cớ thì ngài tức giận mà chẳng đáp. Ngài sống ở đó vài năm. Dân chúng đều cho ngài là Thần dị. Sau, không biết ngài thế nào.

196. Thần tăng Hạnh Tuân

Thích Hạnh Tuân, ngài là con thứ hai của Mân Vương, thuộc dòng họ Vương ở Phước châu.

Niên hiệu Khai Vận (9-97), đời Hậu Tấn, Ngũ Đại, dáng mạo ngài như người hơn bảy mươi tuổi, nhưng sức lực chẳng suy kém. Có người hỏi về tuổi tác, ngài chỉ im lặng. Ngài đến Lãng trung trú tại Thiền viện Quang Quốc. Đồ chúng trong viện đều dựa trên pháp luật mà chung sống, mọi người ngại lo ngài không có khả năng kham nhận. Có người nhà Họ Lý Thiết trai cúng dường, lần lượt ăn uống, bỗng nhiên ngài sầm sập chạy ra cửa, kêu gọi đứt khoản, như có điều oán trách, ngài bảo với người họ Lý rằng:

– Đêm nay có nạn lửa cháy từ phía Đông Nam đến suốt cả Tây Bắc. Mọi người ở gần chung quanh đều nên bảo họ lo dự phòng.

Quả nhiên đêm đó lửa bốc cháy hết không sót lại vật gì. Mọi người hỏi ngài về nguyên do. Ngài bảo:

– Hôm qua có một người nữ mặc áo màu hồng cầm đuốc ngang qua, ta đây ân hận là đuổi theo mà không kịp!

Thêm nữa, ngài đến nhà Triệu Pháp Tào, chỉ dưới gốc cây đào và bảo:

– Ở dưới đó có tiền.

Nhưng không nói số lượng là bao nhiêu. Triệu Pháp Tào liền kêu người đến phá xem, vừa mới xúc đất bày cái mai thì có khách đến, vì các đứa trẻ trong nhà mà lấy cho. Hàn huyên trong chốc lát, cả thảy đều biến thành bình xanh.

Hoặc ngài đi qua gõ mã phần mộ của người thì biết rõ mọi sự cát hung của nhà người ấy. Đến như lúc thấy nghe tiếng gió nhạc hay chim thú, ngài dự báo tai họa, sau hẳn y như lời ngài nói. Nên khắp nơi châu huyện thôn xóm xa gần đều lấy lời dự báo của ngài dùng làm thực khẩu.

Sau, ngài thị tịch tại núi Ngọc tấn an, chư Tăng chung cùng cử hành lễ trà-tỳ.

197. Thần tăng Tăng Giam

Thích Tăng Giam, ngài dòng họ Vương, người xứ Kinh triệu, thường trú tại chùa Tịnh chúng. Râu tóc ngài bạc trắng mà sắc mặt hồng hào tươi nhuận. Mọi người chẳng lường biết được sự tình giả thật của ngài.

Bấy ,giờ có Hoa dương Tiến sĩ Vương Sử Hậu ở Ngụy Thục chẳng đỗ đạt, đi vào chùa với dung mạo buồn tẻ. Tại giữa vườn Tùng Trúc gặp được ngài, ngài bảo:

– Há chẳng là Vương Xử Hậu ư?

Xử Hậu kinh ngạc hỏi:

Chưa từng cùng gặp sao vội kêu tên ư!

Ngài bảo:

– Ngẫu nhiên!

Trong tâm Xử Hậu biết ngài là bậc Kỳ đặc, bèn hỏi rằng:

– Hòa thượng! Dấu vết tự thân của tôi như thế nào ư?.

Ngài bảo:

– Việc tương lai của ông cùng lắm là ở năm sau. Song việc hiện

nay và ngày sau nên biết vậy.

Ý nói là Thục sắp mất, dặn bảo chớ nên tiết lộ. Một ngày nọ, ngài đến kệ sách nhón lấy một quyển đọc xem thì ra các bản Phú cảo (bản thảo văn thơ) của Xử Hậu góp nhặt tích tập. Ngài bảo:

– Xem thử là thật hay hư. Thật chẳng phải tác văn của ông dưới ánh đèn, sao lắm luống dối thế?

Ngài bèn dò tìm mang trong tay áo mà chỉ bảo:

– Đây há chẳng phải là thật bản của Trình Thí ư?

Xử Hậu kinh sợ chẳng ngớt, bèn nói:

– Kẻ hèn tôi sau gặp thêm nhuận sắc, dùng làm chắp vá thêm dưới ánh đèn, thật có lỗi quá vội vàng hấp tấp! ngài từ đâu có được bản ấy vậy?

Ngài bảo:

– Không phải chỉ một bài, mà những gì trong đời ông làm ra thảy đều tích trữ lại cả.

Ngày hôm sau, thăm hỏi rồi ngài dẫn Xử Hậu vào chùa, đến bái yết bàn thờ của Thái Úy Bân Công Đỗ Tông. Đang ngồi dưới hiên nhà phía Tây, bỗng nhiên có vài quan lại ăn mặc sắc phục lẫn lộn từ trong đường củ tiếp nối nhau đi ra, bước xuống tầng cấp bái lại. Ngài bảo:

– Tân Quan ở tại đây, nên vào trong sâu để tham kiến!

Xử Hậu kinh sợ mà làm. Ngài bảo:

– Những người ấy sắp làm các kẻ sai sử của ông, có gì phải sợ ư? Đâu biết Thái Sơn cử ông làm Tư mạng chăng? Bèn dùng nợ củ trang đồ chưa đáp chỉ trước, xin đợi thành đạt, sau ắc thi hành.

Ngài lại dò xét sở bộ của Quan Lục thấy một bản nhân số mùa xuân năm tới đã định, bảo rằng:

– Ông cũng có dự phần trong đó. Đây mới là âm chú Dương Thụ vậy. Xét tên người đời ghi vào u lục. Ấy mới là Dương chú Âm thụ vậy.

Xử Hậu chấn động kinh hãi. Chẳng biết lường xét thế nào, chỉ xin hỏi họ tên của những người đỗ đạt ở mùa Xuân năm tới. Ngài bảo lấy giấy bút, viết một đoạn thơ ngắn rồi phong kín lại, đưa cho Xử Hậu, căn dặn phải nghiêm mật cất giấu, nếu để tiết lộ thì họa đến chẳng kịp trở chân.

Đến ngày Xuân, sau kì thi đã bãi, ngài đến nhà Xử Hậu, để lại chiếc thẻ ghi rằng:

– Không lâu nữa tôi sẽ trở về Tệ Lư, không còn gặp lại nữa!

Sau đó, Xử Hậu đến chùa tìm kiếm ngài, thì ngài đã đến nơi khác,

bèn bóc thư ra xem, ngài chỉ viết bốn câu:

Chu thành cùng thành
Vương thù hai tên
Cùng ở một nơi
Hành trình trăm ngày.

Kịp đến lúc bảng vàng được công bố thì có tám tiến sĩ, trong đó, Vương Thân Ngôn và Vương Xử Hậu là hai người họ Vương, cùng ở một nơi, song chán sự “hành trình trăm ngày” Xử hậu chỉ quen lờn đồng niên, thết bày tiệc rượu, vui theo tánh đến cùng cực, hoang loạn phát lớn, đêm đó bèn chết mất. Năm tháng đều mộng thấy Xử Hậu mặc áo bào lam cầm hất xua điện mà đi. Xét nghiệm về vinh danh của Xử Hậu chỉ được một trăm hai mươi ngày. Rõ ràng năm sinh của ngài là khoảng đầu niên hiệu Thái Hòa (827), đời vua Văn Tông, thành danh trong năm Đại trung (87), đời vua Tuyên Tông; đều thuộc thời tiền Đường. Vương Xử Hậu gặp ngài đã hơn một trăm ba mươi năm.

198. Thần tăng Trí Huy

Thích Trí Huy, ngài dòng họ Cao, người xứ Hàm tần. Từ tuổi bé thơ, ngài đến tịnh xá ở cũng xem là như chính nhà mình. Thiền sư Khuê Phong Ôn lấy mà làm lạ bèn cho xuống tóc. Đến năm hai mươi tuổi, ngài thọ giới Cụ túc.

Ngài theo phụng thờ Thiền sư Cao An Bạch Thủy Bổn nhân suốt mười năm, sau đó trở về Lạc kinh. Ngài thích cảnh núi sông xin đẹp ở Trung Than nên dựng thất tại đó để ở, hiệu là: Ôn Thất Viện thường ngày chuyên làm việc thí nước cấp thuốc, mọi người đều chẳng biết đến chỗ sâu cạn của ngài.

Năm Khai Bình thứ (911), đời Hậu Lương, Ngũ Đại, bỗng nhiên ngài muốn lên núi Khai phong, vội vã đi vào trong sâu, ngồi trên khoảng thạch nham như chỗ từng ngủ. Ngài ngoảy nhìn thấy y ma nạp, chuỗi hạt,… đồng, áo choàng đi mưa, nón lá, cất giấu trong vách đá. Ngài đụng chạm đến, thảy đều hư hoại. Ngài gom mắt giây lâu rồi bảo:

– Đây là các thứ đạo cụ của tôi trong đời trước.

Nhân đó, ngài bèn đến chỗ ấy tạo dựng chùa viện để báo đáp tâm nguyện xưa kia. Vừa mới phát cỏ thì có mây lành tỏa khắp cả ngọn núi, nên ngài bèn đặt tên là “Trung Vân.” Hổ báo dẫn nhau bỏ đi, có ao rồng rất hiểm ác, không thể xâm phạm, ngài đích thân đúc thúc những người làm lấp để làm đường đi, rồng vì thế mà dời đến chỗ khác, chỉ thấy mây sấm kéo đi theo. Vua Minh Tông (926-93), đời hậu Đường; Ngũ Đại nghe thế mà ngợi khen, liền ban tặng biển ngạch là Trường Hưng. Ngài trụ trì tại đó hơn bốn mươi năm.

Tiết Độ Sứ Vương Ngạn Siêu, thời bé nhỏ thường theo ngài chu du, muốn làm Sa-môn. Ngài chăm chú quán xét kỹ càng rồi bảo:

– Ông duyên đời còn sâu nặng, cần nên ủng hộ cho ta.

Sau, Vương Ngạn Siêu quả thật ra trấn nhậm ở Vĩnh hưng, tự thân kính lễ làm đệ tử của ngài.

Mùa hạ năm Hiển Đức thứ 3 (96), đời Hậu Chu, Ngũ Đại, ngài đến Vĩnh hưng, từ biệt Ngạn Siêu và căn dặn nên hộ trì chánh pháp.

Vương Ngạn Siêu khóc, bảo:

– Lẽ nào ngài đành lòng bỏ đệ tử ư?

Ngài cười bảo:

– Xưa kia, hơn ngàn năm đã một lần từ biệt vậy.

Đến ngày 2 tháng 7, ngài viết một bài kệ rồi ngồi kiết già thị tịch, hưởng thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi bốn hạ lạp.

Lúc ban đầu, khi ngài ở tại Trung than, có vị Tỳ-kheo mắc bệnh, Tăng chúng đều gớm nhờm bỏ bê. Vị Tỳ-kheo ấy buồn nói với ngài:

– Tôi bởi nghiệp đời trước nên mắc bệnh bạch lại, sư có thể giúp tôi tắm rửa tẩy trừ ư!

Ngài vì vị Tỳ-kheo ấy mà chữa trị, không tỏ vẻ khó khăn. Chợt nhiên có ánh sáng thần có hương thơm khác lạ, ngài vừa mới ngờ lạ, bỗng không thấy vị Tỳ-kheo ấy nữa, nhìn lại đó ung nhọt cũng đều có mùi hương khác lạ.

199. Thần tăng Cốc Tuyền

Thích Cốc Tuyền, chưa rõ ngài thuộc dòng họ gì, ngài là người xứ Tuyền nam. Thuở nhỏ, ngài thông mẫn nhẫn chịu mọi thứ ô uế, nói năng lớn tiếng chẳng tránh thế tục ghét ganh, ngài bỏ mà xuất gia làm Sa-môn, theo giới luật tùy tâm mà hành.

Ngài đến phía Bắc sông Phần tham yết Thiền sư Chiêu. Thiền sư Chiêu gặp ngài lấy làm lạ, ngài âm thầm được nhận ký biệt. Trở về phương Nam, ngài phóng lãng trong vùng sông Tương. Nghe ngài Từ Minh đang giảng đạo, ngài tự bảo ta nên đến dò xét mà hậu cận. Ngài Từ Minh hỏi rằng:

– Mây trắng ngang miệng hang, đạo nhân từ đâu lại?

Ngài ngoảy nhìn xung quanh, nói:

– Tối lại lửa ở đâu, đất ru mộ người xưa.

Ngài liền làm tiếng hổ gầm gừ. Ngài Từ Minh nắm lấy tọa cụ phẩy quẳng, ngài liền tiếp nhận đứng đẩy thẳng trên giường dây, ngài Từ Minh cũng làm tiếng hổ gầm gừ, ngài bèn cười lớn. Tại trong núi có các ao nơi rồng độc tàng ẩn, chỉ cần chiếc lá rơi xúc chạm đến sóng nước thì mưa gió sấm sét liền ngay, mọi người đi ngang qua đó không dám thở ra hơi, ngài với ngài Từ Minh chiều tối trở về, bấy giờ đang tiết trời thu nắng nóng. Ngài Từ Minh nắm lấy áo, bảo:

– Có thể cùng tắm cho mát.

Ngài Từ Minh kéo tay đi qua. Khi đó, ngài liền cởi bỏ y áo, nhảy vào trong sấm sét theo đó mà đi, có múi tanh thối cuốn thổi trong gió mưa, cây rừng lay động. Ngài Từ Minh ngồi xoạt trong cỏ, trong ý cho rằng ngài đã chết. Bỗng chốc tạnh mưa, chợt nhiên ngài dẫn cổ ra ngoài lán sóng, bảo:

– Họa!

Sau, ngài lên chùa Linh phong ở đỉnh Hành nhạc, trú tại ngọn núi Lại toản, ngài lại dời đến trú tại Ba tiêu. Lúc sắp dời đến ở tại Bảo chân, ngài viết chữ lớn trên tường vách rằng: “Ta ở tại am tối Ba tiêu này chiếm đống mây ụ, quanh co cảnh lạ chưa có dịp trông nhìn, chỉ thấy được ba bốn gốc tùng thấp lơ thơ. Mùa lạnh đến, đất cây khô cằn, đói ăn củ khoai nước lớn màu tía, mà nay bỏ lại ra đi, chẳng biết ai là người đến ở!”

Ngài ở tại am Bảo chân là chỗ nguy hiểm sâu cùng của sông Tương, Hành nhạc, ban đêm ngồi dưới ngọn Chúc dung, có con trăn lớn đến cuộn nhiểu quanh, ngài cởi áo đai buộc vào eo bụng nó, đến nửa đêm bèn không thấy nữa, sáng ngày mai, ngài chống gậy cầm roi đi quanh núi để tìm thì áo đai vắt ngang trên cây tùng khô, bởi vì cây tùng ấy chính là yêu quái.

Thêm nữa, từ sau động, ngài mang vác tượng đá cỡ vài trăm cân đến để ở Nam đài. Chúng Tăng kinh hãi chẳng biết tại sao tượng đến đó, và chúng Tăng ở sau động cũng không biết cớ sao tượng ra đi? Bèn truyền miệng với nhau là La-hán bay lại.

Ngài thường qua huyện Hành sơn, thấy kẻ đồ tể mổ thịt, đến đứng bên cạnh tỏ vẻ đáng thương, đưa tay chỉ vào thịt rồi lại chỉ vào miệng. Người mổ thịt hỏi:

– Ông câm ư?

Ngài liền gật đầu, kẻ đồ tể thương tình mà cắt thái cho một miếng lớn bỏ vào trong bồn. Cả chợ mọi người đều cười lớn, mà ngài vẫn tự nhiên.

Ngài tịch ngày mồng 6 tháng 6 năm Gia Hựu thứ 1 (niên hiệu

Gia Hựu trong thời bắc Tống chỉ có tám năm (106-106)), thọ chín mươi hai tuổi, sáu mươi bốn Hạ Lạp. Dân chúng huyện Xâm Lập Tháp, đến nay vẫn còn phụng thờ.

200. Thần tăng Khoáng Sư

Ngài Khoáng Sư là con út của Hải Đàm Thú. Từ bảy, tám tuổi, ngài đã không ưa cá thịt, chỉ thích rau cỏ đồng nội. Mỗi lúc thấy trong nhà bếp nấu nướng các loài lông vảy, ngài đưa tay bốc lấy cát bụi ném vào nồi chảo. Quý điểm chẳng ăn. Ngài tự nói:

– Tháp ở chùa Khai nguyên trong thời nhà Tùy trước kia do người tạo dựng.

Có nhiều sự việc ngài nói, lúc đầu như không rõ nhưng sao đều khế hợp. Tiện xin xuất gia, nhân đó đắp mặc pháp phục. Trên đỉnh đầu có mùi hương thơm, như xông đất trầm thủy, Chiên-đàn. Người thời bấy giờ gọi ngài là Thánh tăng.

Thị ngự sử Hoàng Phủ Chính thỉnh ngài vào phủ thự nhân đó đãi tiệc làm cả hàng trăm cân thịt mà chỉ một thức ăn chay, mâm bàn bày la liệt xen tạp trước mặt, bởi trong ý muốn kiểm nghiệm về ngài là phàm hay Thánh. Ngài vào ngồi trong chiếu chỉ nhón lấy thức chay tịnh mà ăn, ngoài ra thảy đều phảy tay phớt qua. Hoàng Phủ Bộ Khúc, mỗi mỗi đều kinh sợ tán thán.

Ngài tự nói chỉ sống đến năm mười ba tuổi là sẽ quy diệt. Quả thật đến đó ngài thị tịch.

201. Thần tăng Chí Ngôn

Sa-môn Chí Ngôn, ngài tự nói là vốn dòng họ Hứa, người xứ Thọ Xuân. Ngài xuống tóc xuất gia tại viện Thất-câu-chi, chùa Cảnh đức ở Đông kinh, phụng thờ ngài Thanh Toại làm thầy. Ngài Thanh Toại thấy ngài xưa nay tướng mạo khác thường, mắt trong nhìn thẳng chẳng nhấp nháy, trong tâm lấy làm lạ nên trao truyền cho thọ giới Cụ túc. Song, cử chỉ của ngài hiên ngang tự đắc, nói năng vô độ. Ngài hay đi trong xóm chợ, vén quần bước nhanh, cử chỉ họa không, chẳng hề đứng yên lâu. Bấy giờ, ngài hay đi theo những người buôn rượu bán thịt, ăn uống chẳng hề lựa chọn. Mọi người cho ngài là người cuồng. Riêng mình ngài Thanh Toại bảo:

– Ngài khác người thường.

Có người muốn thiết trai cúng dường thì ngài đã biết trước mà đến. Tại Ôn Châu, có Lâm Trọng Phương từ nhà ông ta mang y ma nạp đến để hiến dâng, thuyền vừa cập bến, ngài đã vội lại lấy đi.

Vua Nhân tông (1023-106), đời Bắc Tống mỗi lúc mời ngài vào cung cấm. Ngài đến liền lên tòa ngồi kiết già, thọ trai xong vội đi ra, chưa lúc nào vái chào. Ngài bói âm nghĩ lỗi múa bút viết chữ rất nhanh, ban đầu không thể hiểu gì nhưng sau có lắm ứng nghiệm. Vua Nhân Tông tuổi tác già nua, mà chưa lập người kế vị. Kín sai nội thị đến hỏi ngài, ngài nắm bút chỉ viết mười một chữ Lang. Mọi người chẳng hiểu ngài muốn nói điều gì. Sau, Anh Tông làm Bộc vương là con thứ mười một vào kế vị mọi người mới tỏ ngộ.

Tại viện Phổ tịnh cấp thí nước tắm, chỉ mới đầu đêm chảy hết cả, cửa chưa mở, chỉ mới nghinh thỉnh Phật lại, mà trong nhà tắm nghe có tiếng người, đến xem thì ra ngài đang ở đó. Tại đó thiết trai bày cúng có đủ thứ nem chả. Ngài đều ăn cả, xong rồi đi ra dòng nước cái mửa ra hóa thành bày cá tươi bơi lội mà đi. Có khách đi biển gặp gió sắp chìm đắm, thấy có vị Tăng vội dẫn thuyền đến cứu giúp. Người khách đi biển ấy tới dưới thành đô, gặp ngài. Bỗng nhiên ngài nói với người ấy rằng:

– Nếu không có ta thì nhà ngươi biết làm sao?

Người khách ấy nhớ kĩ lại dáng mạo, ngài chính thực là người dẫn thuyền đến cứu giúp mình.

Đến lúc tịch, ngài làm một bài tụng không ai hiểu gì cả. Thế rồi ngài bảo:

– Ta từ xưa lại thành tựu trốn lánh nhiều đất nước, nay đến nước Nam.

Vua Nhân Tông sai nội thị dựa hình thật để đắp họa tôn tượng của ngài, an trú trong chùa. Đề bảng yết thị là “Hiển Hóa Thiền sư.” Sau, có các thiện nam tín nữ đến lễ bái, trông nhìn bức biển ngạch bóng ngời như có ánh sáng, bèn đến xem thì được xá-lợi.

202. Thần tăng Tông Bổn

Thích Viên Chiếu húy là Tông Bổn, ngài ra đời trong nhà dòng họ Quản, người xứ Thường châu, Vô tích. Ngài tánh tình chất trực, ít duyên tiết, dung mạo đầy đặn to lớn, nói năng không rườm rà.

Năm mười chín tuổi, ngài theo phụng thờ Thiền sư Đạo Thăng ở Vỉnh an, Thừa thiên, Tô châu. Lúc ngài trú tại Thụy quang dân chúng ở đó có người làm nghề giết trâu. Trâu tuông chạy tới nói với ngài như tự than trách, ngài bèn mua và nuôi lấy nó. Lúc ngài trú tại Tịnh từ, năm đó nắng hạn, hồ giếng đều khô kiệt, ở góc phía Tây chùa có một dòng suối tuôn chảy, có một con cá Kim man, nhân đó khơi đào làm giếng và thả con cá vào đó, Tăng chúng trong chùa hơn cả ngàn người cung cấp chẳng thiếu.

Tại nhà họ Trương có người con gái bị chết, về báo mộng cho người mẹ, bảo rằng:

– Con vì tội nghiệp nên làm thân rắn.

Người mẹ thấy con rắn dưới quan tài bèn bắt đem đến chỗ ngài, ngài bèn vì rắn mà giảng pháp và bảo đem về để lại chỗ củ. Bỗng chốc lại có con ve màu đen bay liệng quanh quan tài mà con rắn thì không còn thấy nữa. Người mẹ liền cầu chúc rằng:

– Nếu thật là con gái của ta, nên vào trong lồng, ta sẽ đem ngươi đến chùa Tịnh từ.

Con ve liền theo như lời cầu chúc, ngài lại vì nó nói pháp. Đêm ấy, người mẹ nằm mộng thấy con gái bảo:

– Hai quả báo đều đã được giải thoát.

Các thứ hiển hóa của ngài phần nhiều như thế.

Đến năm Nguyên Phù thứ 2 (1099), đời Bắc Tống, nhằm ngày Giáp Tý tháng 12, lúc gần thị tịch, ngài tắm rửa rồi nằm. Các đệ tử Hoàn Ủng… cầu thỉnh rằng:

– Hòa thượng giáo hóa khắp thiên hạ, ngày nay không thể chẳng để lại kệ.

Ngài gượng dậy ngồi yên, bảo lấy giấy bút viết lớn năm chữ: “Hậu sự giao giữ vinh” quẳng bút quả quyết nằm như ngũ rồi say, đến lay động thì ngài đã tịch. Các đệ tử xây tháp cúng dường toàn thân tại chùa Linh nham, ngài hưởng thọ tám mươi tuổi, năm mươi hai hạ lạp.

203. Thần tăng Ngộ Tân

Thích Ngộ Tân, ngài vốn dòng họ Vương, người xứ Khúc giang, Thiều châu. Dáng mạo phương phi mặt đen, hình trạng như Phạm Tăng. Ngài nương ở viện Phật-đà, xuống tóc xuất gia, do khí tiết xuất chúng biểu lộ khuôn mặt chiếc phục người đời.

Đầu tiên, ngài trú tại Linh nham, thế rồi đến Thúy nham. Xưa kia tại đó có Dâm từ, dân chúng trong vùng cầu cúng rượu thịt, ô uế không ngày nào ngừng nghỉ. Ngài khuyên vị tri sự nên phá hủy đi. Vị Tri sự khước từ cho rằng không dám rước lấy họa. Ngài tức giận bảo:

– Nếu như có tai họa, tôi đây sẽ gánh chịu.

Đích thân ngài phá hủy. Bỗng chốc có con trăn lớn cuộn mình nằm ở trong, đưa đầu ra làm bộ dạng như muốn ăn nuốt, ngài quát mắng nó trốn đi. Rồi ngủ yên không điều gì xảy ra.

Sau đó không lâu, ngài lại lãnh chúng ở Linh nham tạo dựng kinh tạng. Có thái sử hoàng công Đình Kiên vì làm bài ký. Lại có sự nghiệp vì mộ người thân mà tạc đục ghi chép âm vào bia văn, ngài tức giận bảo:

– Lấn hiếp chẳng lánh họa như thế ư.

Nói chưa dứt lời bỗng có ánh sáng linh hiển soi chiếu lật tốc nhà, sấm sét đánh từ cửa vào, bẻ gãy phân nát tấm bia, trong nhìn lại thì đã cháy rụi, mà Tạng ký vẫn an nhiên không tổn hại gì.

Đến lúc về già, ngài trở về trú tại Hoàng long, học giả đua nhau nhóm tụ, ngài cáo bệnh rút lui về trú tại Hối đường. Đến năm Chính Hòa thứ năm (111), đời Bắc Tống, ngày rằm tháng chạp, ngài an nhiên thị tịch. Cáo phó khắp nơi, các hàng đệ tử vì thế khóc gào rơi lệ, cử hành lễ trà-tỳ, thâu nhặc xá-lợi năm sắc.

Ngài trụ thế bảy mươi hai năm, bốn mươi hai Hạ Lạp, bảo tháp dựng lập tại sau Hối đường.

204. Thần tăng Tịnh Phạn

Sa-môn Tịnh Phạn, ngài vốn dòng họ Đát, người xứ Gia hòa. Thân mẫu ngài nằm mộng thấy ánh sáng soi chiếu khắp nhà, có vị thần nhân tợ như Phật, nhân đó mà mang thai ngài. Sau khi sinh ngài, nuôi nấng đến năm mười tuổi, ngài nương tựa chùa Thắng quả xuống tóc xuất gia, ngài theo hai vị Pháp sư Trạm, Khiêm thọ học giáo pháp và được các ngài tận tình truyền trao.

Ban đầu, ngài trú tại viện Vô lượng thọ, giảng kinh Pháp Hoa qua hơn mười lần. Trong niên hiệu Đại quán (1107-1111), đời Bắc Tống, ngài cùng hai mươi bảy vị Tăng kết hội tu sám pháp “Pháp Hoa.” Mỗi kỳ phương tiện chánh tu, trong hai mươi tám ngày thiết lập ba hội. Tin cầu kính cẩn tiên cảm thông đến Đức Bồ-tát Phổ Hiền nên được thọ pháp Yết-ma, gọi tên Tỳ-kheo Tịnh Phạn, âm thanh như động chuông. Bấy giờ, Tể Vương Công ở Trường châu huyện đích thân đến xem xét việc đó và đề bia đá làm văn kỷ.

Ngài lại mộng thấy có người mặc áo màu vàng thỉnh đến Minh phủ thấy được Minh vương, bảo người kiểm tra sổ bộ rồi bảo:

– Tỳ-kheo Tịnh Phạn đã trải qua nhiều kiếp giảng kinh Pháp Hoa!

Rồi sai sứ đưa ngài trở về. Một ngày nọ, đang lúc thiền quán cả chúng đều thấy có Thần nhân mặc áo giáp sắc quỳ trước mặt ngài. Lại ở chỗ khác, trong lúc sám nguyện cầu Vi-đà Thiên tướng điểm kiểm, trong đại chúng có người giới pháp không được nghiêm tịnh, trước do dự định, sau quả thật sám pháp không chu toàn. Bấy giờ có Cô tô Thư ứng công có kẻ tớ bị vua nhiễu não, nên thỉnh ngài trao truyền giới pháp, yêu ma ấy liền biến diệt. Có người dòng họ Cát thỉnh ngài thí giới để cúng tiễn cho chồng, thì thấy người chồng đi nhiều quanh ngài ba vòng mà đi.

Đãi Chế Giả Công thấy ngài hành đạo liền giúp làm Quản nội Pháp chủ, ngài trụ trì tại đó hơn mười năm. Sau khi ngài thị tịch, hành lễ trà-tỳ có xá-lợi năm sắc.

205. Thần tăng Đạo Long

Sa-môn Đạo Long ở Vụ châu, ngài vân du khắp mọi nơi rồi đến ở ngụ tại chùa Năng nhân, Giang châu. Bởi vì không thường nên chỉ gọi là Hòa thượng Phong.

Năm Thiệu Hưng thứ nhất (1131), đời Nam Tống, ngài đến hoằng hóa ở Thụy xương, dừng nghỉ qua đêm tại chùa Thiên hoa. Đêm đó có một gã nam tử đến cúi khóc thưa rằng:

– Đệ tử bất hạnh, lúc sinh tiền tạo nhiều nghiệp ác, hiện tại bị đọa làm thân trâu, có một cái đuôi mọc ở trên đầu, hình trạng xấu xí khác lạ. Xin ngài từ bi vì con mà sám hối để giải thoát nỗi khổ này!

Sáng hôm sau, ngài đến nhà họ Thang ở Nhược sơn. Mọi người trong nhà đều chạy ra đảnh lễ ngài, thưa rằng:

– Hôm qua con trâu mẹ sinh một con nghé rất quái lạ, đuôi mọc ở trên đầu. Sợ rằng, nhà chúng con cùng khốn nên sinh ra tai ương. Xin Hòa thượng xét suốt nhân duyên để tẩy trừ nghiệp trái xưa kia!

Phút chốc, trong nhà dẫn con trâu nghé đến trước ngài. Nó lắc đầu vẫy đuôi, hình trạng như khẩn cầu tha thiết. Ngài quát rằng:

– Ngươi, ngày trước tạo nghiệp, nay khó trốn thoát, tuy phải nhận chịu hình hài ấy nhưng bổn tánh đâu khác. Há không nghe Hòa thượng Quy Sơn dạy chúng rằng: Trong có âm hương trong tàng có căn.” Nếu ngươi thấu hiểu được như thế tức thấy linh quang chiếu suốt mười phương, chư Phật và chúng sinh vốn đồng mật thể. Nếu chưa được vậy ta sẽ vì ngươi nói kệ.

Trâu nghé nhận lời dự ký xong bèn theo ngài trở về chùa, có đến hàng ngàn người trông xem. Trâu nghé thấy người nên cúi đầu mà không ăn, biểu lộ trạng thái như xấu hổ. Đến đêm 30 tết, bỗng nhiên nó chết, ngài mộng thấy nó đến tạ ân, bèn dẫn chúng nhóm lửa mà thiêu đốt.

206. Thần tăng Linh Chi

Luật sư Linh Chi, ngài là người trùng tạo Minh châu, Ngũ đài giới đàn thành, có một ông già thần khí cao vời, mày tóc bạc trắng, đi đến thưa rằng:

– Đệ tử có ba viên ngọc xin kính dâng chúc mừng đàn thành.

Nói xong, bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Nhân đó, ngài đặt ba viên ngọc vào giữa đàn, luôn hiện tướng ánh sáng.

Sau đó, vị đàn chủ cùng Thập sư khai đại giới pháp, trải qua hai ngày đến nửa đêm, có một vị Tăng đăng đàn, bỗng thấy ánh sánh viên ngọc chiếu suốt bên ngoài, bên trong hiển hiện Thiện Tài Đồng tử. Vị Tăng ấy mới kinh hãi kêu chúng đồng dậy chiêm ngưỡng và thảy đều kính lễ. Từ đó, mỗi đêm Tăng chúng càng tỏ vẻ kiền thành khẩn thiết. Và chỗ hiện của viên ngọc, hoặc là Đức Phật thân sắc vàng ròng, hoặc là Bồ-tát Quán Thế Âm thân tướng sáu tay, hoặc là trúc xanh liễu biếc, hoặc là gỗ đá kì lạ, hoặc chim Ca-lăng-tần-già bay múa chung quanh, hoặc là Trưởng giả nguyệt cái, hoặc là rồng thần dâng cúng châu ngọc… thần biến chẳng phải một. Mọi người thấy nghe đều cho là hiếm có.

207. Thần tăng Thường La-hán

Sa-môn Thường La-hán ở Gia châu, người khác lạ vậy. Ngài thích khuyên người thiết trai hội cúng dường các vị La-hán, nên có được tên gọi như thế.

Có bà già họ Dương thích ăn thịt gà, lúc bình sinh giết hại không biết mấy trăm ngàn con gà. Sau khi bà qua đời, người nhà làm sáu bảy trai hội cúng tế Hoàng Lục. Vị đạo sĩ vừa mới bái chương, bỗng nhiên ngài đến, bảo cùng con bà già ấy rằng:

– Ta sẽ vì các ngươi mà sám hối.

Người nhà họ Dương vui mừng thiết tòa thỉnh mời ngài vào. Ngài ngoảy nhìn đứa tớ trong nhà và bảo:

– Ngươi đi đến nhà thứ… ở phía Đông ngã tư, mua một con gà mái lông hoa đốm về đây.

Đứa tớ vâng lời tìm mua được đem về, ngài bảo giết để làm cỗ. Người nhà họ Dương khóc, thưa rằng:

– Tôn giả đến đây mà chẳng có chút gì mến tiếc. Ngày nay bày sự cúng tế, cả nhà trong ngoài từ lâu đã dứt bỏ soạn cỗ tanh nồng. Xin ngài vì thương giúp cho gia đình.

Ngài không hứa khả mà hẳn muốn nấu lấy. Các thức ăn đã nấu chín, thiết đặt tại bàn, ngài ngồi xoạt chân, xé thịt chia đầy mâm và an trí trên chân cửu vị, rồi ăn lấy số còn thừa. Sau khi cúng trai xong, ngài chẳng vái chào mà đi. Đêm đó, người nhà bán gà và trong nhà họ Dương đều mộng thấy bà già đến tạ ân, nói rằng:

– Lúc sinh tiền tạo các tội nghiệp, bị trách phạt làm gà, may nhờ sự ban ân của La-hán sám tạ, nên nay được giải thoát. Từ đó, mọi người trong quận huyện làm việc Phật cầu tiến cúng người mất, thường mong cầu ngài lại để vì trợ giúp cho Minh đồ.

Đến cuối niên hiệu Thiệu Hưng (…-1163), đời Nam Tống, ngài thị tịch. Nhục thân để lâu ngày mà chẳng rã hoại.

208. Thần tăng Đảm Ba

Quốc sư Đảm Ba, ngài còn có tên gọi là Công Gia. Người xứ Cam-lợi-tây-phiên-đột-cam-tư-đát-ma. Thuở nhỏ, ngài theo ngài Đạtma Thất-lợi người xứ Tây Thiên Trúc truyền trao tập học Phạm bỉ và thành tựu được pháp yếu đó.

Trong niên hiệu Trung Thống (1260-126), đời vua Thế tổ, nhà Nguyên, Bát-tư-ba bậc thầy của vua tiến cử ngài. Bấy giờ nhà vua đang lo nắng hạn dữ dội, vua Thế Tổ bảo ngài lập đàn cầu mưa. Ngài đã từng chú nguyện trong thức ăn rồi quăng ném xuống ao rồng, trong khoảng khắc có hoa trái khác lạ xuất hiện trên mặt sóng nước, nhặt lấy đem dâng lên vua. Vua Thế Tổ rất vui mừng.

Xu Mật phó sứ Nguyệt đích mê thất trấn nhậm ở Triều, mà người vợ mắc bệnh kì lạ, ngài dùng pháp trì Sổ Châu Gia Trì vào thân bà ấy liền lành hẳn. Ngài thường vì Nguyệt Đích mê thất nói các điềm mộng khác lạ. Kịp đến lúc trở lại Triều kỳ sau đều có ứng nghiệm.

Trong niên hiệu Nguyên Trinh (129-1297), đời nhà Nguyên, Hải Đô chiếm phạm biên giới Tây Phiên, vua Thành Tông bảo ngài cầu đảo thần Ma-ha Cát Thích. Thế mà ngài nhanh đưa thư quả thật đến. Ngài lại vì vua Thành Tông cầu đảo bệnh rất nhanh lành. Nhà vua ban tặng ngài rất nồng hậu. Lại ban chiếu phân làm ngự tiền hiệu úy vì đó mà dẫn theo. Vua Thành Tông đi tuần ở phương Bắc, bảo ngài dùng xa giá cỡi voi dẫn trước. Đi qua Vân châu, ngài nói cùng các đệ tử rằng:

– Tại xứ này có linh quái khủng bố kinh hãi nương theo kiệu giá, phải nên mật trì thần chú để yểm trừ nó đi.

Sau đó không lâu, gió mưa lớn đến, mọi người đều kinh sợ, chỉ có màn điện không sao. Nhà vua lại ban tặng ngài một cái chén khảm ngọc.

Mùa Hạ năm Đại Đức thứ bảy (1303), đời nhà Nguyên, ngài thị tịch. Đến khoảng niện hiệu Hoàng Khánh (1312-131), đời nhà Nguyên, vua Nhân Tông truy tặng thụy hiệu Đại Giác Phổ Tuệ Quảng Chiếu Vô Thượng Đảm Ba Đế Sư.

 

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9