TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 30

 

CHƯƠNG MƯỜI: TẠP KHOA THANH ĐỨC

TRONG PHẦN 2 CHƯƠNG X

(chánh truyện có mười chín vị, phụ có sáu vị)

1. Truyện ngài Hảo Trực trụ chùa Đại An Quốc ở Thượng Đô, thời Tiền Đường.

Thích Hảo Trực, họ Đinh, người ở xứ Gia Cự, thuộc Cối Kê. Thuở nhỏ, Sư đã chẳng thích việc đời. Rượu thịt, các thứ tanh nồng Sư vốn chẳng hề ăn uống.

Nhân đó Sư đến Đại Sư Tạng ở núi Hàng Ổ xin xuất gia. Đến đầu niên hiệu Nguyên Hòa (806), Sư thọ giới cụ túc tại chùa Thiên Trúc. Trăm thứ kinh luật luận sớ sao, Sư đều ham thích đượm nhuần điều cốt lõi. Một hôm, mang giày gai, cầm tích trượng tìm đếm thiền môn ở Hồng Châu, thấu đạt được tâm yếu, trừ hư giữ thật. Sư trở về lại chùa Đại Khánh trong bổn quận, mọi người đến thưa hỏi điều ích lợi, Sư dẫn dắt chỉ dạy hơn hai mươi năm. Vì các danh tăng ở Giang tả hay coi trọng các nho sĩ, nên những vị có tiếng tăm phần nhiều hay giao du với Sư, thường luôn vui vẻ làm thơ, câu từ đều ngơ ngác. Phàm làm việc xét hỏi Hộ Nhung ở đất Việt nhập cảnh nương gá tiếng tăm thật mà tạo cửa nhà, chẳng riêng dẫn dụ, mà cũng khéo xã giao với người.

Vào niên hiệu Thái Hòa (827 – 836) Sư đến Ngũ Đài, trên đường ra Kinh Ấp, chỉ đi một đêm. Hộ Nhung trước là Khích chí Vinh và Tống Thường Xuân là hai Nội thị rất đam mê mùi vị đạo của Sư, chăm chăm từ xa thỉnh mời. Đến đầu niên hiệu Khai Thành (836), Sư lại đến Kinh Quốc, hai quý nhân cùng hợp sức xướng hòa, thỉnh Sư đến Đại phương trượng của chùa An Quốc để Sư trụ ở đó. Các bậc vương cơ long tượng, không ai chẳng khâm phục kính trọng, vô cớ thỉnh Sư sung làm cung phụng Đại Đức, đó chẳng phải là điều tốt, nhưng, tùy tục tình mà nhận.

Cuối cùng Sư than chưa từng thiếu bỏ. Đến ngày 2 tháng 10 niên hiệu Khai Thành thứ (839), Sư dặn dò đệ tử xong, an nhiên thị tịch, thọ năm mươi sáu tuổi, ba mươi hai hạ lạp. Khích Chí Vinh và Tống Thường Xuân trích xuất của cải tạm phương tiện an táng ở phía đông Sản Thủy. Mọi người đều buồn thương kính tiếc. Sau, môn nhân là giám gia đón rước về an táng tại chùa Nam Hoa ở Sùng Sơn, xây tháp thờ.

Đến niên hiệu Hội Xương thứ (8), Khởi Cư Xá Nhân là Vi Huyền làm văn bia ghi về cuộc đời Sư.

2. Truyện ngài Quảng Tu ở chùa Thiền Lâm núi Thiên Thai, thời Tiền Đường.

Thích Quảng Tu, họ Lưu, người ở xứ Hạ Côn, thuộc Đông Dương. Tánh Sư vốn thuần chất trong sáng, sớm dự vào môn tịch của Đại Sư Vân Thúy, nghiên cùng giáo tích, người học nhóm họp rất đông. Thường ngày Sư trì tụng các kinh Pháp Hoa, Duy-ma, Kim Quang Minh, Phạm Võng, Tứ Phần Giới Bổn, sáu thời hành đạo không hề phế bỏ, càng lâu năm càng dốc chí. Cứ mỗi năm, Sư hành pháp sám hối bốn mươi chín ngày. Đến năm thứ Sư chứng đắc Tùy tự ý tam-muội.

Vào niên hiệu Khai Thành thứ 3 (838) có Sa-môn Viên Tải – người Nhật Bổn tìm đến thưa hỏi pháp. Thứ Sử Thai Châu là Vi Hành mời Sư giảng Luận Chỉ Quán tại Quận Trai. Đến ngày 16 tháng 2 năm Quý Hợi (83), nhằm niên hiệu Hội Xương thứ 3, Sư thị tịch tại chùa Thiền Lâm, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi hai hạ lạp, đón rước giác linh đến đạo tràng Kim Địa, phú pháp cho môn nhân vật ngoại. Đến niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), môn nhân là Lương Vấn đào phần mộ để hỏa thiêu, thâu nhặt Xá-lợi hơn ngàn viên, xây tháp tôn trí phụng thờ.

Kế nữa, có Ngài Thích Cao Nhàn trụ chùa Khai Nguyên ở Hồ Châu. Sư vốn người xứ Ô Trình. Từ tuổi búi tóc Sư đã vượt trội hơn người, lộ bày dị tài. Đến lúc thọ pháp về sau, lại có chí bền bỉ, khổ học nhọc thân không hề biếng nhác. Sau, Sư đến Trường An, tới các chùa Tiến Phước, Tây Minh nương tựa học tập kinh luật, khắc cần tinh tấn giảng suốt.

Đến lúc Vua Tuyên Tông trùng hưng Phật pháp (87) ban chiếu mời Sư vào đối ngự tiền thảo thánh, vua ban tặng pháp y sắc tía. Sư bèn tới dự tẩy sám giới đàn, gọi là “Thập Vọng Đại Đức”. Tánh tình tiết tháo Sư thẳng thắn khó cong. Về già, Sư nghĩ muốn trở về quê cũ. Cuối cùng, Sư thị tịch tại Bổn tự. Đệ tử là vua Giám Tông ban sắc hiệu là “Vô Thượng Đại Sư”, cũng được bút pháp của Sư. Ngài thường hay đem sợi gai trắng ở Tráp Xuyên viết chữ chân thảo, cho người làm pháp học.

3. Truyện ngài Nguyên Biểu người nước Cao Ly, thời Tiền Đường.

Thích Nguyên Biểu, người ở Tam Hàn. Vào niên hiệu Thiên Bảo (72 – 76), Sư đến Trung Hoa, sau đó mới sang Tây Vức chiêm lễ các Thánh Tích, gặp được Bồ-tát Tâm Vương chỉ bày cho Linh Phù ở núi Chi-Đề, bèn mang bộ kinh Hoa Nghiêm tám mươi quyển, tìm hỏi Hoắc Đồng để đảnh lễ Bồ-tát Thiên Quan. Sư đến động đá Chi-Đề làm nhà ở đó.

Trước kia ở núi nầy không cho người ở. Nếu ở sẽ có sấm sét, thú dữ trùng độc, chẳng những thế mà còn có lắm quỷ mị làm mê loạn người. Từng có vị tăng chưa đắc Đạo đến ơ nghỉ tại đó qua đêm, bị thần núi xua đuổi, sáng hôm sau chỉ thấy thân bị ném xuống núi cách mấy dặm. Sư mang kinh đến dừng ở chỉ uống nước khe suối ăn cây lá, sau không biết chỗ ra. Bấy giờ, gặp lúc Pháp nạn Hội Xương tra xét phá hủy. Ngài đem kinh sắp vào hòm gỗ Hoa Lư cất giấu trong hang đá. Đến năm Bính Dần, nhằm niên hiệu Đại Trung thứ nhất, thời vua Tuyên Tông, có Thiền sư Tuệ Bình ở chùa Bảo Phước, vốn biết việc trước, bèn dẫn các hàng tín sĩ vào thỉnh Kinh ra Viện Cam Lộ Đô Úy, giấy mực bản kinh vẫn như mới viết. Nay hiện cất giữ tại chùa Tăng ở Phước Châu.

Kế nữa, có Ngài Thích Toàn Thanh ở Cối Kê, Sư người ở xứ Việt, chăm cày bừa đất giới, phân nhiên đổ nhã. Đối với giáo pháp mật tạng cấm chú, Sư có khả năng bắt tội quỷ thần. Bấy giờ, có người phụ nữ trong nhà Thị Tăng Vương mắc bịnh tà khí, nói năng điên cuồng trái ngược, hoặc khóc hoặc cười, như vậy suốt mười năm, thỉnh Sư đến trị bịnh. Sư bèn buộc cỏ làm hình người cao hơn cả thước, mặc y phục năm mầu mà đặt trước đàn, và trì cấm chú giây lâu. Người phụ nữ ấy cầu xin tha mạng. Sư bèn dặn rằng: “Khoảng đến ngày Xuân đến trước đền thờ Võ mà nương gá. Nếu Sư không thấy giết tức thả đi xa”. Sư lại lấy một cái vò nhỏ dùng roi xua Sô-linh vào đó mà có tiếng kêu u u, và dùng Lục Ất Phong bít miệng vò lại, lấy đất bùn đỏ viết phù ấn lên trên, đem chôn dưới rừng dâu, bảo người nhà không được đụng đến. Người phụ nữ ấy được lành bịnh. Qua năm năm sau, gặp lúc Lưu Hán Hoàng và Đổng Xương cách sông cùng vượt thành hãm người, cho đó là nơi hầm hố cất giấu các vật, bèn đào xới, đập vỡ cái vò thấy một con quạ khoang đột nhiên bay ra đậu trên cành cây dâu mà nói tiếng người rằng: “Nay mới được thấy ánh sáng mặt trời!” Lúc đó thì Sư đã thị tịch rồi.

4. Truyện ngài Đầu-đà trụ chùa Long Hưng ở Trấn Châu thời Tiền Đường:

Thích Đầu-đà, Ngài vốn con nhà Ma-gia ở Hạ Dã, nhưng khí độ Sư ôn nhuận như khuôn phép của Trưởng giả. Cha của Sư bảo Sư giữ mài, giữa đêm khuya xót thương sự khốn khổ cực nhọc của loài bò lừa, nên tự mình thay thế, thả cho nó ăn cỏ uống nước, sau đó chúng nằm hết, cha mẹ Sư biết thế nên bảo Sư cũng thôi việc ấy, và Sư cũng xin xuất gia, bèn cạo tóc, thọ giới cụ túc, hành trì hạnh không tức giận. Sư chỉ thâu nhặt các vật phẩm phấn tảo may thành y để đắp mặc, nặng đến mấy cân. Sư sử dụng y ấy suốt ba mươi năm không hề thay đổi. Hạnh kham khổ tiết chế của Sư chẳng thể có người thường nào sánh ví được. Dân chúng ở Chân Định vô cùng kính trọng, mà Sư chẳng nhận thọ sự cúng thí của mọi người, nên họ tôn xưng Sư là”Đầu-đà Thượng Nhân”.

Liên hệ thử bàn:

Y phẩn tảo là một trong bốn thánh chủng, hễ người tu luyện thì nguyện thành hạnh ấy, cớ sao ít người kham nhận như thế. Sự cao đẹp ấy phải là người mạnh mẽ mới có thể làm được.

5. Truyện ngài Toàn Thử ở núi Nam Nhạc thời Tiền Đường:

Thích Toàn Thử, Ngài vốn người ở Dư Hàng, Sư đến Kính Sơn, đảnh lễ Đại Sư Pháp Tế xin xuất gia. Sư bẩm chất mạnh mẽ, lại chịu được sự đói lạnh. Các chỗ tham tầm đều cùng khắp, Sư bèn đến ẩn cư ở Hành Nhạc, cất am tranh để ở, ăn cây cỏ uống nước suối, kết bện cỏ mềm làm áo mặc, suốt năm không thay đổi. Có người tặng Sư bài thơ rằng:

“Sau trước ở hang có mấy người
Truyền được Như Lai Pháp Ấn chân
Hôm qua Chúc Dung nhìn xuống thấy
Áo cỏ bèn là thân núi Tuyết”.

Đó là do Thái Thường Tôn Ác Phấn Tướng Nam Thiên cảm tác, có nói rõ trong truyện “Các bậc cao tăng ở Nam Nhạc”.

Liên hệ thử bàn:

Áo cỏ ở Nam Nhạc, ở phương Nam với những người tuổi tráng niên có thể chưa biết, đến lúc già suy dời về ở U Sóc, có thể nhận chịu chăng? Nếu nhận chịu được tức là Thắng Sĩ thượng thượng căn.

6. Truyện ngài Tuệ Mộc trụ viện Minh Tâm ở Việt Châu thời Tiền Dường:

Thích Tuệ Mộc, họ Chúc, gia đình nhiều đời là người xứ Kỵ Dương, lấy làm họ thay. Thuở nhỏ Sư sống trong gia đình có khuôn phép nghiêm minh, được dạy răn chỉ bảo học theo kinh Nho, chứa nhóm thành tiết tháo tài giỏi. Sư đến yết kiến Thiền Sư Khế Chân ở chùa Giác Trí, tức thụy hiệu là Đại Quán, nhờ trì tụng Diệu Pháp, mà Sư được khai ngộ.

Năm sau, Sư được xuất gia, bèn đến Hồng Tỉnh đảnh lễ Thiền Sư Quán Âm mà đốn rõ khế tâm. Niên hiệu Hàm Thông thứ 7 (866), Sư trở về quê cũ. Ấp tể Vi Công bèn phát khởi tín tâm, xây dựng viện Thê Chân. Thiền khách khắp bốn phương không nơi xa nào chẳng tìm đến. Liêm Sứ Bùi Diên Lỗ thỉnh Sư, nhân xây dựng tịnh Xá ở phường Giám Thủy đã hoàn thành, lấy tên phường đặt để bảng hiệu, thế rồi tuy Sư ở đó nhưng hay đổi dời. Sư hứa thuận sự thỉnh mời của Minh Châu Duyện là Tề Triệu mà đến trụ ở núi Ngọc Tứ, sau đó không lâu Sư thị tịch, thọ tám mươi tám tuổi, bốn mươi lăm hạ lạp. Lúc đó là ngày mùng 3 tháng 7 niên hiệu Càn Ninh thứ (89).

7. Truyện ngài Vong Danh trụ trong lò nung ngói gạch ở phía Nam U Châu thời Tiền Đường:

Thích Vong Danh, hành trạng của Sư thật cao vợi. Sư ở riêng một mình tại nhà bếp phía Nam Yên Thành. Vào niên hiệu Thiên Hựu (90 – 907), khắp vùng U Kế mất mùa, người chết đói đầy đường. Nhân đi khất thực, vẳng nghe trong vết xe có tiếng khóc oa oa, Sư thương xót bèn bồng ẳm đem về, đó là một đứa bé gái của người đói khổ bỏ rơi. Sư đi xi sữa cho bú và nuôi dưỡng. Lên bảy tuổi, Sư dẫn vào trong thành, xin kiếm vải lụa mầu sắc may cho áo mặc. Đến tuổi cập kê, nhan sắc bé gái xinh đẹp khác hẳn phàm tục. Hoặc có người chê bai dèm pha, nhưng Sư vẫn không để ý. Vừa lúc gặp Yên Soái Lưu nhân Cung theo bắt oan, đưa Sư vào trong lò nung. Có một tên lính thấy có đứa bé gái đứng hầu bên cạnh, bèn tấu trình với Yên Soái. Lưu Nhân Cung đến nơi trông thấy bèn hỏi về nguyên do, Sư trả lời đúng như thật. Lưu Nhân Cung thưa: “Đệ tử muốn thâu nhận bé gái có được chăng?” Sư bảo: “Vâng!” Xét biết Sư không có ý keo lẫn nên tự dẫn đứa bé lên ngựa trở về phủ. Đứa bé gái vốn là con của Chân Xử. Lưu Nhân Cung càng mến thương nó, chẳng bảo xếp ở ngôi vị dưới, càng kính vị tăng ấy, cho rằng Sư là người đã chứng đắc quả vị, nên xây dựng riêng ngôi tinh Xá để Sư ở. Một tuần, Lưu Nhân Cung hai lần đến tham yết. Đến lúc Sư bị bịnh mà thị tịch, môn nhân vào nói cho bé gái ấy biết. Đang lúc ngồi một mình nghe thế, bé gái liền buồn khóc thương mà qua đời! Lưu Nhân Cung vì xây tháp lập bia ghi lại đạo hạnh của Sư.

Kế nữa, có Chúc Dung Phong Thiền, không biết Sư tên là gì. Ngài là người ngay thẳng, chẳng giữ oai nghi, mỗi một cử chỉ đều khéo nêu bày tông yếu. Kẻ tăng người tục quy hướng đông như chợ. Sư từng uống rượu bị ngộ độc, đương lúc ói xuống thối bẩn áo, mà trong cơ thể Sư không hề bị não loạn gì. Thường có một con rắn và một con hổ với tướng trạng làm hộ vệ. Đến lúc Sư thị tịch, trà-tỳ còn lưu lại một mảnh xương lớn hình dạng như dàn Tỳ-Bà. Tăng chúng đốt lửa thiêu lại, khi thiêu, đốt mảnh xương mầu sắc đồng như mầu lửa, song, lửa tắt tro lạnh thì mầu sắc trắng như tuyết. Há chẳng phải được toàn thân phần vững chắc thiết-lợi-la ư? Đến nay, tại Nhạc Trung lưu truyền việc ấy, xây tháp thờ hiệu là “Chúc Dung Phong Đạo”.

8. Truyện ngài Thê Ẩn trụ chùa Khai Nguyên ở Hồng Châu thời Tiền Đường:

Thích Thê Ẩn, tự là Cự Trưng, họ Từ. Thuở nhỏ, Sư khôi ngô khỏe mạnh, thần giải thiên nhiên. Đến tuổi búi tóc, Sư rất ưa thích xuất trần. Cha mẹ không thể phá hoại ý chí của Sư. Sau khi cạo tóc xuất gia, thọ giới về sau, trong thời gian đó, Sư siêng năng cần mẫn chăm học đi sâu vào chỗ sâu xa của tỳ-ni. Lại tánh tình Sư phong nhã, chẳng phải điêu khắc mà được thành dáng vẻ tự nhiên.

Vào niên hiệu Quảng Minh (880 – 881), lánh ổ giặc cướp, Ngài vào núi Chiết Quế ở Lô Sơn, thật mừng trốn được. Nhưng nhiều hoa sớm trăng tối chiếu muộn nơi trời cao, luyện câu thành đối, hợp chương thành tập, thường luôn du kiện trong sáng rõ ràng rãi tan nơi miệng người. Thân Sư thường mặc áo gai rách rưới, khiến người không biết cho đó là gã nhà quê chẳng có khả năng gì, người được Thiền Chỉ quy tông cùng đồng nêu cử. Sư chẳng keo bỏn sẻn lận Pháp, thường cùng Ngài Quán Hưu Xử Mặc Tu Nục làm thơ Đạo, Thẩm Nhan, Tào Tùng, trương Ngưng, Trần Xương Phù đều là kẻ sĩ làm bạn với Sư. Sư vì các vị ấy do ảnh hưởng mà nhạt nhẽo như nước. Sau, bọn giặc cướp tạm yên, Sư vào Kinh Sở, lên Chúc Dung với vết tích cao ngạo. Đến niên hiệu Quang Hóa thứ 3 (900), Sư đến Phiên Ngung, được Thái Úy Từ Ngạn Nhã biết đến. Niên hiệu Đồng Quang thứ 2 (92), Sư ở Cự Lộc thuộc Hồng Tỉnh, Ngụy Trọng Phủ gặp gỡ, dùng văn đạo đối đáp làm quen. Sau, Ngài thị tịch vào niên hiệu Thiên Thành (926 – 930) thời Hậu Đường. Đệ tử sưu tầm thơ của Sư có đến cả trăm bài, giao cho Trọng Phủ làm lời tựa tập thơ, nay hiện lưu hành với tựa đề là “Quế Phong Tập”.

Kế nữa, có Ngài Thích Bảo An, trụ chùa Linh Quang ở Gia Hòa. Ngài họ Hạ, người ở xứ Thường Thục, thuộc Cô Tô. Sư thái sáng lán, tánh hạnh thuần hòa. Đến tuổi tráng niên, gia nghiệp đoanh vậy, Sư bèn nghĩ muốn thoát trần. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư chuyên tu tập Thiền Định thấu đạt chân quyết. Sư không mặc tơ lụa, chỉ chuyên khất thực, ngủ thì chiếu manh. Lúc trước Sư lên Ngũ Đài, người phương Nam không biết, bèn dẫn kẻ tăng người tục cùng mô phỏng kiến trúc của Ngũ Đài mà xây dựng chùa Linh Quang. Nay vẫn hiện còn. Sau khi Phật sự hoàn thành, Sư không bịnh mà thị tịch, thọ một trăm mươi tám tuổi, bảy mươi tám hạ lạp. Nhục thân Sư không rã hoại, môn đồ dùng vải và sơn phết, đồng thời xây biệt viện để thờ. Đến pháp nạn Hội Xương phá hủy chùa, tháp nầy bị thiêu đốt.

9. Truyện ngài Hòa-thượng Kim trụ chùa Huyền Úng ở Hà Đông thời Tiền Đường:

Thích Kim Hòa-thượng, họ Vương, người ở xứ Bình Diêu, thuộc Hà Tây. Chỗ Sư sanh là Thôn Trư Khanh. Thuở nhỏ Sư khôi ngô, tánh tình ngay thẳng, mọi việc làm của Sư lạ lùng chẳng giống như người bình thường. Sư xuất gia tại núi Tung Nham, thân Sư một trượng, eo rộng một vòng. Nói ra việc gì thường kỳ đặc. Sau khi Sư thị tịch mà vẫn như còn sống. Dân chúng trong làng đến cúng tế cầu nguyện thảy đều toại ý. Từ Tây Hà đến Kê Hồ đều kính trọng.

10. Truyện ngài Vô Tác, ở núi Tây Minh thời Hậu Lương:

Thích Vô Tác, tự là Bất Dụng, Sư họ Tư Mã, người ở xứ Cô Tô. Cha của Sư làm Trần Uyển Khâu Huyện Úy, mẹ Sư họ Đái. Lúc mới mang thai, mẹ của Sư mộng thấy có vị Sa-môn lạ tự xưng là họ Từ. trú trì chùa Lưu Thủy, muốn nhờ ở lại đó an cư. Nói xong, ngồi tréo chân kiết già. Cũng trong đêm đó, cha Sư mộng thấy trên bàn viết một chữ rất xứng tâm, tự nói có thể dâng lên Thiên Tử. Đến sáng mỗi người tự kể lại điềm mộng của mình, mẹ Sư nói: “mong cho là hài nhi trong bụng là Sa-môn”. Bèn phát thệ nguyện rằng: “Đến lúc hạ sanh đứa bé, sẽ cho đến chùa Lưu Thủy xuất gia”. Đến lúc sanh, quả nhiên Sư khôi ngô rất dễ thương, Sư cũng chẳng ưa thích mùi vị tanh nồng.

Năm lên bốn tuổi, mẹ Sư tự dạy bảo Sư tập tụng. Kim loại bén dễ mài, Sư ghi nhớ không quên sót. Cha Sư muốn Sư ứng theo nghiệp Đồng Tử, dần thấy có phong thái khuôn phép hòa thuận, Sư thường có chí xuất trần. Không bao lâu, cha Sư trộm thấy nhà họ Diêu có người con gái nghi dung xinh đẹp, nên muốn cưới làm dâu. Mẹ Sư liền ngăn cản, mà nói rằng: “Nên để cho con xuất gia, hãy bỏ điều ông muốn!” Cha Sư chấp thuận, bèn đưa Sư đến chùa Lưu Thủy. Vừa mới hơn một tháng thì người con gái nhà họ Diêu ấy liền qua đời, mọi người cho rằng người con gái ấy là Thiện tri thức, làm tăng thượng duyên cho Sư xuất gia.

Năm hai mươi tuổi, Sư thọ giới cụ túc, lần lượt giảng thông bộ “San bổ luật sao” cùng như các kinh Pháp Hoa, Thượng Sanh, v.v… Luận Bách Pháp. Nhất tánh, Ngũ tánh tông giáo, Sư cố gắng tinh chuyên tầm cứu các thứ sách thiền của Khổng Giáo, Lão Giáo, Sư đều nghiên cứu qua. Sau, Ngài tham cứu Huyền học với Thiền sư Tần ở Tuyết Phong, thâm nhập vào chỗ sâu xa. Sư đến núi Tam Cố, Lô Lăng, đàn việt đến xây dựng đình viện. Ở Dự Chương xây dựng Viện Nam Bình, thỉnh Sư làm trụ trì, Sư đều từ chối. Tiền Tiến Sĩ Đường Bẩm làm văn bia tạng kinh, ghi rõ nguyên do Sư lánh sự thỉnh mời. Ngài ở tại Hồng Tỉnh mười năm, mà Sư chưa từng biết mặt Hồng Soái họ Chung, bèn đến Tứ Minh thuộc Cối Kê, nhân có ý muốn ở đó đến cuối đời. Ngô Việt Võ Túc Vương họ Tiền kính ngưỡng sùng trọng, thỉnh Sư đến Tứ Minh, nhân tiện đó, Sư trở về núi, vì cáo bệnh. Sư có lời thơ trữ ý trình vua, Võ Túc Vương chẳng lưu giữ Sư. Trong lời thơ viết rằng:

“Mây Hạc tánh đơn côi
Tranh hệ lụy danh lợi
Ngậm Ân tuy đến nước
Cáo bệnh bỏ về núi”.

Bấy giờ, Phụng Hóa Lạc An Tôn Cáp trở về ẩn cư cao ngạo, chẳng kết giao với chư tăng, chỉ tiếp làm giao đàm với Sư suốt ngày. Tiến Sĩ Dương Yểm cũng kính mến Sư nên làm bạn giao du dưới rừng. Đến niên hiệu Khai Bình (907 – 911) thời Hậu Lương, Sư thị tịch, thọ năm mươi sáu tuổi.

Ban đầu, Sư khéo làm thảo lệ bút tích du kiện, mọi người thường phỏng theo thành pháp. Ngài biên soạn Chư sắc lễ sám văn có đến mấy mươi bổn, chú thích “Đạo An Lục Thời Lễ Phật Văn” một quyển và thi ca, đều lưu hành ở đời. Sư chẳng đến chùa Ni, chẳng vào cửa công, chẳng theo danh tiếng, chẳng xu hướng lợi lộc, tự lấy hiệu là “Tiêu Dao Tử”.

11. Truyện ngài Quán Hưu trụ viện Đông Thiền ở Phủ Thành Đô, thời Hậu Lương.

Thích Quán Hưu, tự là Đức Ẩn, họ Khương, người ở xứ Đăng Cao, ở Lan Khê, thuộc Kim Hoa.

Năm bảy tuổi, cha mẹ Sư mến thương con, đưa Sư đến Thiền Sư Viên Trinh ở chùa Hòa An trong bổn huyện xuất gia làm thị giả. Thường ngày, Sư trì tụng kinh Pháp Hoa một ngàn chữ. Tai Sư vừa nghe qua thì nơi tâm chẳng quên. Sư cùng Ngài Xử Mặc cùng cạo tóc ở gần bên cạnh viện, thường đến bên bờ rào luận bàn về thơ, lần lượt ngâm ca tìm ngẫu đối. Trong chúng tăng có người thấy thế, đều kinh lạ. Sau khi thọ giới cụ túc, tiếng thơ Sư vang khắp đương thời. Sư bèn đến Dự Chương, truyền giảng Kinh Pháp Hoa, Luận Khởi Tín đều tinh rành nghĩa sâu kín: Sư giảng dạy lại siêng năng. Thái Thú Bổn Luận là Vương Tháo Di càng dốc lòng kính trọng. Kế là, Thái Thú Tương Hoàn mở giới đàn tẩy sám, thỉnh Sư làm giám đàn.

Đầu niên hiệu Càn Ninh (89-898) thời Tiền Đường, Ngài có chí muốn yết kiến Võ Túc Vương nước Ngô Việt. Nhân đó, Sư hiến tặng năm bài thơ, mỗi bài có tám câu, rất hợp ý chỉ, nên Võ Túc Vương ban tặng Sư cũng rất nồng hậu. Võ Túc Vương liền bỏ Ngụy công, triều đình khen ngợi là công thần, bèn xây nhà lập bia, ghi chép đồng lực bình việt đem xét tra họ tên, bèn khắc thơ của Sư vào dưới văn bia. Đủ thấy sự kính trọng đến như thế nào. Sư khéo viết bút nhỏ có được sáu pháp, lớn nơi thủy mặc họa tướng trạng như hình thật đáng xem. Sư nhận lời thỉnh của tiệm thuốc An Kiều của họ Tường mời đến La-hán nhất Đường v.v… Hễ họa một tôn tượng thì cầu nguyện được dung mạo Ưng Chân (= La-hán) bèn được thành tựu, chẳng đồng như lễ thường. Từ đó, Sư đến Y Hấp, cùng hợp đạo với Xà Lê-Lan ở chùa Đường An. Sau, Sư muốn đến phía bắc Nam Nhạc, yết kiến Kinh Soái Thành Nhuế. Ban đầu rất lễ trọng. Sư an trụ chùa Long Hưng. Bấy giờ, Nội Hàn Ngô Dung sai Quan đến gặp, qua lại luận đạo bàn thơ. Ngô Dung làm lời tựa cho tập thơ của Sư. Lúc đó nhằm niên hiệu Càn Ninh thứ 3 (896), bỗng nhiên bị vu cáo là tiếm đoạt Kinh Soái, truất đuổi Sư đến đất Công An. Đang trong uất ức, Sư đè vào cái nghiên mực nói rằng: “Vào trong hộp mới an thân!” Đệ tử khuyên Sư đến đất Thục. Bấy giờ họ Vương sắp mưu đồ tiếm Ngụy, phấn khích hiền sĩ khắp bốn phương, có được Sư rất vui mừng, chuẩn bị lễ lớn mừng gặp gỡ, ban tặng rất nồng hậu. Đặt danh hiệu cho Sư là: “Thiền Nguyệt Đại Sư”. Thục chúa thường gọi Sư là “Đắc Đắc Lai Hòa-thượng”. Bấy giờ, Vi Ái nên nêu mỹ hiệu ấy làm sở 36 trường, ca ngâm khen ngợi Sư còn hoằng hóa. Thể điệu chẳng dưới Lý Bạch thứ hai chúc tụng.

Đến niên hiệu Càn Hóa thứ 2 (912) thời Hậu Lương, Sư thị tịch tại nơi đang ở, thọ tám mươi mốt tuổi. Thục chúa buồn thương. lễ tang đều do quan lo liệu. Tháp hiệu là “Bạch Liên”, đón rước an táng ngoài cửa phía bắc Thành Đô, xây tháp thờ. Lúc đó nhằm niên hiệu Càn Đức của Ngụy Thục, tức là năm Quý Dậu (913) là niên hiệu Càn Hóa thứ 3 thời Hậu Lương.

Sư có khả năng thảo thánh xuất. Vào năm Quý Dậu, đệ tử Đàm Vực sưu tập văn tập của Sư. Ở phần đầu để lời tựa do Nội Hàn Ngô Dung soạn, còn Ngài Đàm Vực soạn lời bạt sau cùng. Vi Trang có tặng thơ rằng: “Há là vì cùng thường thấy cách, chỉ nên ghét rượu chẳng cùng qua!”. Nét bút Sư tuyệt đẹp, tương truyền có danh hiệu là “Khương Thể”. Từng thấy chân tướng Sư mập mạp, Thục tể tướng Vương Thế làm bài khen ngợi. Còn Ngài Đàm Vực giới học tinh vi, triện văn hùng mạnh, có nhóm tập lại “Thuyết Văn” của Hứa Thận, thấy lưu hành ở đất Thục. Và Ngài Đàm Vức cũng có thơ tập, thể văn đứng sau thầy.

12. Truyện ngài Quốc Đạo Giả trụ Viện Song Khê ở Lô Sơn, thời Hậu Lương.

Thích Quốc Đạo Giả, không biết Sư là người xứ nào, khí chất bất động thuần túy, hạnh đôn cao xa, ở riêng một mình, hình khí thư thới. Sư tham học sâu rộng, muốn trụ ở Cô Chinh, mến thích Lô Sơn đẹp lạ, bèn phát nguyện ở ẩn để cầu chí khí, Sư xem xét dựng lập nhà tranh, tưới vườn trồng rau, mặc tình để người dân sống ở trong núi cắt lấy. Nếu có người hỏi về nguyên do. Sư đáp: “Bần đạo vô tâm mà gieo trồng, vô tâm mà xả thí!” Xét rằng Sư thấy biết như thế, thật là hàng thượng lưu đắc đạo. Tu mục tăng chánh thường khuynh ý kính trọng. Có lời thơ dâng tặng Sư rằng:

“Vào cửa không, vắng lặng
Có hạnh, quỷ chẳng thấy
Thật một người xuất gia
Vô tâm, người nghi ngờ “.

Sau, Sư thị tịch tại viện, an táng tại gò núi Song Khê, xây một ngôi tháp thờ nhỏ. Nay lấy chữ “Quốc” để gọi Sư. Vì Sư tên gì họ gì chưa được biết rõ.

13. Truyện ngài Trí Tuyên ở Tuyền Châu, thời Hậu Lương.

Thích Trí Tuyên người ở xứ Tuyền Châu. Từ tuổi tráng niên Sư đã kính mến Phật pháp, học cách làm người của Pháp Sư Nghĩa Tịnh, xem thường sự sống, thề chết vẫn muốn được đi Tây Vực để chiêm ngưỡng lễ bái ở tám ngôi tháp tưởng niệm về Đức Phật, và cầu thỉnh các kinh pháp còn lại. Cuối thời Tiền Đường, Sư kết bạn cùng vượt sa mạc, các nước Sư đến, Sư đều có tâm tìm thầy, ưa thích sự khác lạ. Sư gom góp được các bản phạm, cầu thỉnh được xá-lợi. Đến tháng niên hiệu Khai Bình thứ (911) thời Hậu Lương, Sư trở về Đông Kinh, kính dâng di cốt Bích-Chi-Phật và Phạm Thư; Các bổn kinh luật. Sư cất bước ra đi từ tuổi tráng niên, mà khi trở về thì đã già yếu. Vua Thái Tổ (Chu Ôn) vừa đổi vận mạng nhà Đường, nghe Sư trở về, rất vui mừng, ban tặng phân vật, thỉnh Sư phiên dịch các kinh điển mới mang về. Lúc đó, chiến tranh không nhàn rỗi bằng này.

14. Truyện ngài Tề Kỷ ở chùa Long Hưng phủ Giang Lăng, thời Hậu Lương.

Thích Tề Hỷ, họ Hồ, người ở xứ Ích Dương. Sư giữ tiết tháo cao vợi nhưng khí mạo yếu kém. Từ thủa bé, Sư đã từ bỏ thế tục đến chùa ở núi Đại Duy xuất gia. Ngài thông minh vượt trội người thường, thọ giới cụ túc, tập học Tỳ-ni, tánh Sư đam mê ngâm vịnh, khí điệu thanh đạm. Có Thiền khách ở Đức Sơn đến trình bày về Lý thú, bất chợt thần thức Sư đến nơi đạo tràng rộng mở của khách, Sư bèn đích thân sang đó tìm hỏi lễ kính. Thế rồi tỏ phát ngộ giải đều mất cả dấu tích. Như thế, Dược Sơn, Lộc Môn, Hộ Quốc, gồm cả trăm rừng thiền không đâu Sư chẳng đến thưa hỏi. Sư nhìn danh lợi chỉ như áng mây trôi. Ở pháp Hội Thạch Sương thỉnh Sư trông coi việc tăng chúng. Đến lúc Chu Ôn nhà Hậu Lương thay đổi vận mạng nhà Tiền Đường, trong nước xôn xao.

Bấy giờ, Cao Quý Xương vâng mạng Vua Thái Tổ (Chu Ôn – thời Hậu Lương) đánh đuổi Lôi Mãn, ra Chữ Cung bèn làm Kinh Châu Lưu Hậu, rồi chính thức làm Tiết Độ Sứ. Đến lúc Quân Đế mất trấn ngự Hà Đông. Vua Trang Tông (Lý Tần Húc – thời Hậu Đường) từ Ngụy Phủ vào Lạc Kinh. Cao Quý Xương bèn cát cứ một phương, tìm kiếm nhóm họp các bậc hiền sĩ khắp bốn phương xa, được nghĩa phong của đất Tề và Sư ở Nam Nhạc, lấy làm nghiệm chứng đầu tiên của Trúc Kim.

Vào năm Tân Tỵ (921) tức niên hiệu Long Đế thứ nhất, thời Hậu Lương, lễ thỉnh Sư đến chùa Long Hưng, an trú trong một tịnh viện, cấp lương tháng, thỉnh Sư làm chức Tăng chánh. Đó chẳng phải điều tốt đẹp.

Sư sáng nhàn tối tĩnh, thường chuyên việc sách vở thiên chương, Sư bèn soạn “Chữ Cung Mạc Vấn Thiên” gồm mười lăm chương. Vả lại, nhanh nhẹn theo lời dạy của Cao Quý Xương. Nơi cổ Sư có khối u, bấy giờ gọi Sư là đãy thơ, Sư nương ước tự an, áo nạp che thân mình, dùng dây gai quấn buộc chân, vui thích chốn suối rừng, nhàm chán yết kiến vương hầu. Đến nỗi không hề có đem một chữ dễ dàng yết kiến chư hầu, vì quen thơ của Hoa Sơn Ẩn Sĩ Trinh. Cốc cùng xướng tạc. Sau, có “Bạch Liên tập” lưu hành ở đời, tự lấy hiệu là “Hành Nhạc Sa-môn”.

15. Truyện ngài Vô Tích trụ chùa Quảng Phước ở Linh Châu, thời Tiền Đường.

Thích Vô Tích, họ Sử, người ở xứ Sóc Phương, dưới thời vua Tuyên Tông đang trị vì, Phật pháp được trùng hưng. Ngày 13 tháng giêng, niên hiệu Đại Trung thứ 9 (88) – thời Tiền Đường, Sư quyết chí bỏ nhà đến viện Bạch Thảo, làm đệ tử Đại Sư Pháp Không. Tiết tháo Sư nắm giữ kín đáo, phủi bỏ huyên trần.

Niên hiệu Hàm Thông thứ 3 (862) Sư tạo công đức ở Kinh Thất, đắc giới độ ở chùa Tây Minh. Đối với trăm nghề, Sư nguyện đều đi qua. Kính mến Đại Sư Uy ở chùa Định Lâm có tài họa vẽ. Ngài An Đạo hay giỏi đàn cầm, còn ta thì thừa gồm giảng suốt mà học tập tổng quát. Trước kia, dưới thời Tiền Đường, Hằng Phu thường trấn nhậm Sóc Phương. Sau, đến chốn kinh đô cùng gặp Sư, bèn dùng lễ của nhà tăng mà tiếp đãi, bởi biết Sư ngôn hạnh đều cao, lại hay xướng đạo dẫn dắt. Nghe Hằng Phu tấu thỉnh làm “Lưỡng Nhai Công Đức Sứ”, phối danh ở chùa Tây Minh. Gặp lúc Vua Ý Tông (860 – 87 – thời Tiền Đường) đón rước chân thân tại chùa Pháp Môn ở Phụng Tường. Hữu Quân Phó Sứ Trương Tư Quảng, tấu thỉnh Sư sung làm Tán đạo. Được vui hợp tâm vua, nên ban thưởng rất nồng hậu.

Vào niên hiệu Quang Khải (88 – 888), truyền trao pháp “Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Giáng Chư Tinh Tú Cát Tường Đạo Tràng” trở về bổn phủ. Phủ Soái Hàn Công nghe Sư rất có khả năng tiêu trừ tai ương trong phân dã bèn kết đàn tu sức mà có lắm cảm ứng. Vào niên hiệu Cảnh Phước (892 – 89), Thái Úy Hàn Công Khải sửa sang chùa Quảng Phước, thỉnh Sư trụ trì, mỗi mỗi đều dùng Luật Phạm làm khuôn phép. Khắp tái viên, mọi người cầu giới đều thỉnh Sư làm Hòa-thượng. Đến năm Bính Tý (916), thuộc niên hiệu Càn Hóa, thời Hậu Lương, Trung Thư Lệnh Hàn Công Thú tâu vua ban hiệu cho Sư là “Hồng Viễn Đại Sư”.

Đến ngày mồng 1 tháng năm Ất Dậu (92) nhằm niên hiệu Đồng Quang thứ 3 thời Hậu Đường, Sư đoan tọa mà thị tịch tại Trượng Thất, gân xương như con sống, phong thần như lúc Sư còn. Mọi người khắp vùng Phiên Hán đến chiêm ngưỡng kính lễ mà khen ngợi rằng: “Xưa kia, vào niên hiệu Chí Đức (76 – 78) thời Tiền Đường, tại chùa Long Hưng có bậc Cao Sĩ Biện Tài an tọa mà thị tịch, bèn sơn phết mà phụng thờ. Đến niên hiệu Càn Ninh thứ nhất (89) thời Tiền Đường, phù soái nêu bày tấu trình. Vua Chiêu Tông phong ban thụy hiệu là “Năng Giác”. Nay Ngài Vô Tích có thể chẳng khác thời mà cùng việc!” Trung Thư Lệnh bèn bảo thợ sơn phết để phụng thờ. Quân Phủ Tùng Sự Tiết Chiêu kỷ dưới thời Vua Trang Tông (Lý Tần Húc 923 – 926, thời Hậu Đường) làm văn bia khen ngợi đức hạnh Sư.

16. Truyện ngài Biện Quang trụ chùa Quốc Ninh ở Minh Châu thời Hậu Đường.

Thích Biện Quang tự là Đăng Phong, họ Ngô, người ở xứ Vĩnh Gia, là con cháu của Đường Sứ Quan Tả Thứ Tử Căng. Từ thuở nhỏ, Sư xả tục đến chùa Đào Sơn xin xuất gia. Thường ở một mình, chẳng giao tạp với người thường, tánh thích tự cao, xem thường những người xuất gia. Phần nhiều, Sư làm thơ Cổ Điệu, khổ hẹp hòi, ít ý vị, lúc được câu thì có được sắc, giỏi chữ Thảo chữ Lệ, nghe tiếng Lục Hy trách Quan ở Dự Chương, Sư bèn sang đó để bái yết, Lục Hy điềm tĩnh mà ngạo khí vẫn ngồi ở trong thuyền. Gồm có nhiều giao ném, chẳng hứa tiếp. Một hôm, Sư bày phương kế để yết kiến. Lục Hy cùng nói đôi ba lời, Sư cầu được thảo pháp, mà Lục Hy trao cho năm ngón tay đánh chung quyết, Sư viết thể đang thấy du kiện mà chuyển cổ tay xoay bút chẳng phải chỗ người thường biết được. Mới đến phương Tây, Vua Chiêu Tông ban chiếu đối viết trước giường vua, bèn ban tặng y phương bào sắc tía. Sau, Sư yết kiến Hoa Soái Hàn Kiến, dâng tặng Sư hiệu là “Quảng Lợi”. Từ Hoa Hạ trở về quê cũ, Ngài đến yết kiến Võ Túc Vương họ Tiền dùng khách lễ tiếp Sư. Song, tánh Sư cao kỳ chẳng dính mắc vương tình, bèn trở về Dũng Đông mà thị tịch. Sư có văn tập, được người tri âm quý trọng.

Sư lưu xuất bút pháp cho đệ tử Tùng Hoài, Tăng Chính Trí Tông ở Ôn Châu đều được mặc quyết. Có Triều Hiền tặng thơ ca, Ngô Nội Hàn Dung La Giang Đông Ẩn v.v… năm mươi nhà cẩn trọng làm thành một tập. Bấy giờ, Thái Thú Tứ Minh là Ngưỡng Thuyên vốn kính trọng Sư cao ẩn, bèn đích thân làm tang chủ, lo việc an táng. Ba năm sau, căn cứ 0 theo pháp thức của Tây Vực mà thiêu đốt. Khi mở nắp quan, nhục thể Sư vẫn còn nguyên như lúc sống, râu tóc móng tay đều dài ra. Trà-tỳ, thâu nhặt được xá-lợi, xây một ngôi tháp nhỏ để thờ. Lúc đó nhằm niên hiệu Trường Hưng (930 – 93) thời Hậu Đường.

17. Truyện ngài Tự Tân ở Tuyên Châu, thời Hậu Đường.

Thích Tự Tân, họ Tôn, người ở xứ Lâm Truy. Sư rửa giới tìm thầy không hề biếng trễ. Nghe Thiền Sư Ứng đang mở mang giáo ở Chung Lăng, Sư bèn đến đó tham hỏi, theo mây ở lâu dài. Sau, Sư xoay tích trượng thường ẩn cư trong núi Quảng Đức. Gặp lúc Lưỡng Chiết Văn Mục Vương họ Tiền dẫn Lại Sĩ đích thân đến Uyển Lăng vào chùa núi, chư tăng đều trốn đi, riêng mình Sư vẫn tự nhiên. Văn Mục Vương hỏi: “Sao chẳng trốn?” Sư đáp: “Đông Tây đều là giặc, vậy bảo lão tăng trốn đến phương nào!”. Văn Mục Vương kinh hãi sự thẳng thán của Sư, bèn xoay giáo mác bảo trở về. Gặp Võ Túc Vương hỏi, Sư nói không chỗ khuất lấp, mà càng thêm cao hạnh, bèn tạo dựng viện Ứng Thụy để Sư ở đó, tôn xưng hiệu là “Quảng Hiện Đại Sư”.

Lúc đầu, Sư thường vào núi Tuyên Thành hái thuốc, đi qua hang động sâu. Mới đầu thì tối mịt, dần thấy được mặt trời rõ ràng, đi chỉ vài dặm, bên cạnh động riêng có một cái hang, khe đầy nước, nhưng chỗ uốn cong có một cây thông lớn, phía trước tàng cây có một am tranh, có một vị tăng mày bạc, đắp áo nạp mà ngồi thiền, bên cạnh có chiếc khánh làm đồ đựng lửa. Sư đánh khánh, vị tăng ấy bèn mở mắt, kinh hãi hỏi: “Ôi! Sư có duyên sự gì mà đến đây?” Sư bèn trình bày hành chỉ. Vị tăng ấy mời Sư ngồi nơi tảng đá, đốt lửa nấu nước trà, hươngvị thật ngon. Khi đó, trời đã sắp tối, vị tăng ấy nhường am để Sư nghỉ lại. Sư ngoái nhìn lại thấy vị tăng ấy leo lên đỉnh cây thông vào trong một cái ổ lớn. Và nghe tiếng tụng kinh Pháp Hoa, lời tiếng trong trẻo rõ ràng. Chốc lát, lại nghe tiếng quát mắng rằng: “Bầy súc sanh loài mang lông sao dám làm người khiếp sợ? Hãy mau trở lại rừng thưa, hãy mau đi ra!” Sư lén nhìn đó, mới thấy Hổ Báo xuôi tai mà đi. Sáng hôm sau, Sư nói với vị tăng ấy: “Xin được ở lại để được hầu khăn giày!”. Vị tăng ấy bảo: “Tự ở chốn nầy trăm thứ chỉ thấy là cỏ khô, bốn phía không thấy hơi khói nhà người, chẳng phải chỗ Sư ở!” Lại hỏi: “Chẳng đói ư?” bèn dẫn đến bên bờ khe suối, có lúa hơn trăm bông, với tay bứt ba nắm lúa vàng, hái lấy rau đồng, trộn chung nấu cùng ăn. Sau cùng đưa Sư trở về. Khi đi đến cửa động. Vị tăng ấy bảo: “Sự gặp gỡ này chẳng phải là tình cờ, uống trà và ăn cháo rau, sư bình sanh chẳng thiếu ăn thế!” Sư bèn men theo đường trở về bổn viện, thì đã trải qua hơn tháng trời. Sư bảo những người đồng ưa thích sự tốt lành cùng trở lại tìm thì dấu vết hang động đã biến mất.

Sau, tại Chiết Trung thỉnh Sư sung làm chủ chùa Bảo Tháp. Đến niên hiệu Thiên Phước (93 – 93) thời Hậu Tấn, Sư thị tịch tại chùa hiện ở. Nay ảnh Sư hiện còn trong ngôi viện nhỏ ở trước vịnh Lãnh Thủy.

18. Truyện ngài Hạnh Tu trụ viện Nhĩ Tướng ở Hàng Châu, thời Hậu Hán.

Thích Hạnh Tu, họ Trần, người ở xứ Tuyền Châu. Thuở nhỏ, Sư đến viện Bắc Nham, xin xuất gia. Cẩn thận vâng giữ thời khóa tụng niệm siêng năng. Năm mười ba tuổi, Sư được cạo tóc. Sang giới đàn ở Phủ Tường Lạc, thọ giới cụ túc.

Năm mười tám tuổi, Sư mới đến tham yết Thiền Sư Tần ở núi Tuyết Phong, theo chúng thưa hỏi, do chưa biết thuyên chỉ, Sư giã từ Thiền Sư Tần, nói đi đến đất Chiết. Thiền Sư Tần bảo rằng: “Ta sửa sang Dung Nghi cho ông, để khiến người xứ đó trông thấy mà phát tâm!” bèn chỉ vào tai Sư mà bảo rằng: “Vành tai rũ dài mà vòng ngọc đã ngắn, nay ta sẽ kéo dài ra cho ông”. Bèn hai tay cùng kéo lên tới mày, làm như thế ba lần, từ đó tai Sư dài duổi, khiến người trông thấy mà trố mắt. Đến năm Đinh Hợi (927) nhằm niên hiệu Thiên Thành thứ 2 thời Hậu Đường, Sư đến Chiết Trung, mọi người khắp thành đều chiêm ngưỡng, Đàn Việt cúng thí đông đúc, Sư bèn xây thất trên ngọn núi cao ở cửa Tây để yên nghỉ, sau trở thành ngôi viện lớn. Sư riêng không đề xướng, chỉ trầm lắng mà ngồi. Có ai hỏi điều gì thì chỉ cười mà thôi. Các sĩ nữ kéo tai Sư giao kết dưới gò má, nên mọi người ở Hàng Châu gọi Sư là “Trường Nhĩ Hòa-thượng” (= Hòa-thượng tai dài).

Đến tháng 11 năm Canh Tuất (90 nhằm niên hiệu năm Càn Hựu thứ 3, thời Hậu Hán, Sư thị hiện tướng bị bệnh, song vẫn hoạt động như lúc bình thường. Đến giữa đêm tháng 3 Sư an tọa mà thị tịch. Các Đàn Việt, đệ tử dùng sơn tô phết, nay vẫn hiện còn. Sau, Sư gá mộng báo với Thứ Sử Mục Châu là Trần Vinh rằng: “Dưới chỗ ta ngồi chưa được hoàn tất”. Xem xét lại thì thật là vốn chưa sơn phết, nên bảo thợ làm lại.

19. Truyện ngài Tông Uyên trụ núi Bá Các ở Nghi dương, thời Bắc Tống.

Thích Tông Uyên, họ Cung, người ở xứ Cao Mật. Thuở nhỏ, Sư đã thông rành các kinh sách, sát tuệ như thần. Bỗng nhiên nguyện đến thiền viện ở phía bắc Đông Lai xin xuất gia. Sau, Sư đến tham học với Thiền Sư Nhạc Trung ở Giang Biểu. Tổ sư bạn lành giúp thần, đượm nhuần đến mình, sang tạo thật về, ít thích ngâm thơ ở nơi kinh sở. Thường Sư học ở thể của Ngài Tề Kỷ, tự nói: “Duyên tình tại phẩm vật, lưu ở ngoài hình!” Sư nhìn núi sông khắp thiên hạ rồi lại bảo: “Dẫm bước khắp núi thú lớn không ẩn thân mình!” Thích núi Bá Các ở Nghi Dương, Sư đến đó để cầu chí khí. Tiết tháo Sư căo vợi thanh khiết, hàng phàm tục không thể thấy được. Thường ngày, Sư gài riêng trì tụng phẩm kinh Quán Thế Âm. Bởi từng có người khéo đoán tướng, nói Sư lúc tuổi gấp kíp cần nên thọ trì phẩm kinh khổ môn.

Đến tháng 10 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ (890). Sư dự báo lúc thị tịch, bảo thợ mộc làm một cái tòa hình dáng như đầu Nai, và gấp hối thợ mộc, vào giờ thọ trai ngày hôm sau cần dùng. Đến lúc đó, quả nhiên Sư an tọa mà thị tịch. Dân chúng làng quê, khắp nơi xa gần đều đến đốt hương lễ bái. Ngay năm đó xây một ngôi tháp nhỏ đề thờ Sư tại gò núi của chùa Bảo Vân. Sư thọ tám mươi ba tuổi.

Sư có “Lạc Tây Tập” trước soạn các văn từ gồm năm mươi bài, trong đó có một bài viết rằng:

“Khắp trong đời không người trăm tuổi
Trăm năm rồi hẳn bụi dưới mồ
Nay tôi tuổi đà tám ba(83) nhỉ
Tự soạn lời buồn tiễn thân tôi!”

Chỉ an táng một chiếc áo lót bằng giấy. Về sau, đào lên thần sắc Sư vẫn uyển nhiên. Đệ tử là Đạm nhiên vâng lời dạy bèn an táng trong hang đá.

Thử luận bàn:

Thái cực sanh lưỡng nghi, lưỡng nghi sanh muôn vật. Do khí điều hòa của đất trời mà lưu xuất, cổ động mà nẩy mầm, vì thứ loại bẩm thọ tự nhiên mà rõ ràng. Tự nhiên, tức là Đạo. Đạo, chỉ là Bổn Tâm. Tâm, không đâu chẳng thông. Thông được lý nơi vật đó là Đạo. Đạo ấy chẳng phải một, phiên dứt lưu hình, như cùng tận cầu vồng, vật cũng chỉ là một. Trời là một. Đất là một, đến lúc nhân Động thành Biến, vì Biến cầu chiêm đoán thì sanh tượng chẳng phải một. Đến như chim thú giao khí, cây cỏ cấu tinh. Hoặc dùng giống đực mà thấu suốt các loài cùng giống đực. Hoặc đồng căn mà khác thật. Cá sấu bay tợ như chim, Quýt biến thành chanh, giao nhau thành bầy, loài lông cánh sanh chim phượng. Vật loại thường lẫn lộn như thế mà tạo nên, lúc xen tạp thật lớn. Sự có đổi dời, vật có phân luân, mới rõ ràng tạp danh chẳng phải một, tên gọi bao gồm tất cả. Nên nói nghĩa tuy rộng thì biết có thể dùng một tên mà nêu.

Xưa kia, trong Truyện Các Bậc Cao Tăng đời Lương lập chương thứ 10 này với tên gọi là “Xướng Đạo”. Bởi vì lấy ý nghĩa đầu tiên các vị Bồ-tát mà trong kinh nói đều gọi là Xướng Đạo. Xướng thì phải có hòa. Đạo (dẫn dắt) thì phải có Đạt. Chư tăng ở Chung Nam xem xét tựa đề đó có được ở phần biểu dương ca tụng mà thiếu mất phần Kiêm tài biệt Đức. Thí như riêng chia Thiên phân trọng phú toàn tài. Hổ chắp hai cánh mà bay, chim Ưng mọc thêm bốn chân mà đánh bắt. Từ đó mà lập ra tên gọi “Tạp Thiên” (= Chương nói về gồm nhiều thứ) bao gồm Các Đức, đâu chỉ âm thanh phô bày, mà bao gồm tất cả.

Có người nói: “Tục Cao Tăng Truyện” y cứ vào đâu mà sửa đổi Danh Đề?” – Thông đáp: “Tượng ban mạnh bền thêm các dòng phái lễn tạp trong chín dòng phái. Lập giáo như thế, làm người như thế, chẳng phải âm dương riêng, chẳng chuyên hình luật, hoặc gồm danh mặc, hoặc vượt cả ngang dọc, thì có thể xem đó là dòng phái tạp gia. Trong Hán Thư có thâu nhặt những điều để lại của Thái Sử Công. Ngài có chiếu lập đề sửa chữa sự hẹp hòi của Ngài Tuệ Hạo đời Lương.

Có người nói: “Có nghe Dương Tử Vân giận ghét các gian tạp ấy hay chăng?” Thông đáp: “Người ấy ghét Thái Sử Hoài Nam đã không tôn sùng Khổng mà lại chẳng thuần đức. Đó là ứng tạp mà tạp đoán không lỗi tạp. Nay ngưới soạn truyện như du hạ, xét sự khởi ẩn rốt cuộc là buồn, đâu dám sai một từ!

Có người nói: “Sao bỗng đổi “Xướng Đạo” thành “Thanh Đức” làm gì? Thông đáp: Dụng của âm Thanh rất lớn. Bởi vì cõi nước của các Đức Phật riêng dùng một trần để làm cảnh ngộ. Tuy Nhẫn Sĩ rất quý chuộng âm thanh để làm Phật sự. Còn như Bồ-tát Quán Thế Âm nói về Viên Thông, mà Đức Thế Tôn khen ngợi là Văn luân hoàn bị. Cho nên như vị Tiên Tỳ-Mục ở thế giới Hương Tích, lạc hay chẳng lạc đều ở nơi Tai, đoanh vây không lâu mà đục thủng. Vì Thế, Ảnh Thắng Đại Vương chỉ thân đời trước là voi ngựa, do bát đãy của Thích tử động hợp mà gặp gỡ tại Trời Người, kẻ phản hồn theo tiếng chúc tụng mà đến nhà. Người trong sạch nghe tiếng chúc tụng mà hoan hỷ. Mới có thể gọi là Cung thương Phật pháp. Kim Thạch Thiên Âm, buồn mà chẳng thương, vui mà không mất. Dẫn đó vào thành Vực của Từ Bi, khuyên đó lìa chốn lắm ràng buộc. Thoát hoặc chấp nhận thọ chẳng tinh. Khí năng không giữ lấy, thì chẳng thể gọi là Thanh Đức.

Nay đây tìm kiếm cac bậc có đức hạnh gần gũi, nhóm họp những người có tài kiêm giảng, trong ba người có thầy ta là đó vậy. Nước bị đánh bốn phía, thì ai dám đánh ư? Được chẳng hoàn bị năm sắc thái mà phục chương, bao gồm tám phong hóa mà thành nhạc, thì có lên Thiên Trúc mà làm Vượn Phạm, lay động linh tháp mà xuyên suốt cầu vồng. Xứng Trời thỉnh mà đều giảng tùy. Chiêm đoán địa lý mà Tể Thần ứng vị. Bồ-tát Quán Thế Âm đưa tay xoa đỉnh đầu. Đức Di-lặc gọi bảo Thần Sấm, mới hóa thành người thấp bé ngồi thị tịch mà đưa tay. Thấy Từ nhan mà chẳng tức giận, làm thơ thức để an Thiền. Trăn lớn chẳng kinh hãi, Ma núi nhiếp phục. Đến gương thần mà dự biết trừng thải, lễ Thiên Quan mà thệ ẩn dật nơi Linh Tích. Đập vỡ vò hũ mà có chim bay ra. Nhọc thân làm lụng thay súc vật. Áo cỏ nơi Hành Sơn, sáng tâm tại chùa Võ. Nuôi dưỡng đồng nữ vì toàn thân, gặp phải dòng độc mà mạng sống tồn tại. Đức phù hợp trăng thiền, thân vượt qua bãi cát. Hoặc biện giải thông suốt, hoặc âm ba lưu loát. Tốt lành thay! Thạc Đức rực rỡ nơi các Ngài, như các căn giúp nhau, đồng với sự nêu bày của năm việc, nên gượng gọi là “Tạp”. Như Chiêm Bặc tiếp cây của Chiêm Đàn, mùi hương xông ngát gấp bội. Chim Ưng, chim Chiên nuôi dưỡng trong ổ của Đại Bàng, hơn cả ngàn lần chim Thứu mạnh. Dò hỏi ở đạo tràng lắng nghe nơi lời nói thẳng. Vì bậc tăng chẳng ứng nơi mười khoa, phụng sự Phật theo mất ở trăm năm. Nếu dùng Cao làm gốc, lấy Đức làm cành. Lấy Tu làm đài hoa, lấy Chứng làm hạt, sau đó thì từ cõi Ta-bà trội vượt lên làm dù lọng che kín thành bóng mát, phủ khắp Tam thiên Đại Thiên, gọi đó là “Đại Bồ-đề Thọ”.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG.

(Quyển 30 hết.)

 

LỜI BẠT:

Các nhà viết truyện đời trước hoặc gọi là: “Tăng Truyện”, “Tăng Sử”, “Ký Lục”. Đề hiệu đều khác nhau và thanh tích cũng có khác. Đến đời Lương, Sa-môn Tuệ Hạo gọi là “Cao Tăng Truyện”(= Truyện Các Bậc Cao Tăng). Bởi vì lấy cái “Cao” mà chẳng lấy “Danh”, thì Khai mở đức nghiệp, văn chia thành mười chương thấy rõ như trong truyện. Sau đó, lại có “Đường Tục Cao Tăng Truyện” (= Truyện tiếp theo về Các Bậc Cao Tăng đời Đường), mô phỏng theo Đại Thể của đời Lương mà làm thành. Đến thời Hoàng Triều (dưới thời vua Thái Tông – Triệu Quính – Bắc Tống) lại có soạn “Tống Cao Tăng Truyện” (= Truyện Các Bậc Cao Tăng đời Tống). Gặp lúc Phong Thái thanh bình nước nhà đang hưng thịnh chẳng sa sút, từ mùa xuân niên hiệu Chí Đạo thứ 2 (996), Samôn Tán Ninh vâng phụng, Duệ Ân chấp chưởng lạc kinh giáo môn sự. Trong những ngày tâm nhàn việc rảnh, bèn có được hành trạng của các Ngài Pháp Chiếu v.v… soạn thuật đã sửa đổi. Quyết như từ trước đến nay, tìm nhân chỉnh định nguyên bổn. Đại nghĩa không trái, có chẳng thể vậy, vì có sửa chữa. Trước gọi là thêm ta vài năm, đối với Tăng Truyện thì có thể. Ấy nay lại sửa chữa. Đâu dám vì tuổi xế bóng mà từ chối ư? Khi đó mới triệt giản. Đến đầu niên hiệu Hàm Bình (998), vâng chiếu làm chức Đông Kinh Hữu Nhai Tăng Lục, sau đó lại đổi làm Tả Nhai. Một hôm, ngoảy lại nhìn bổn truyện chưa kịp biên chép, bèn bảo các đệ tử đóng bít các thùng sọt, khiến các bậc quân tử ở tương lai biết ta vì Tăng Truyện, kết tội ta cũng vì Tăng Truyện, nên ở cuối quyển mà viết thế này.

Ghi chú:

1/Tựa đề: Đầu đề của cả quyển 30, thiết nghĩ phải chuyển ngữ là “Truyện Các Bậc Cao Tăng viết dưới thời Bắc Tống” mới đích xác.

2/ Sách y cứ để chua (chú thích) niên hiệu: Ở đây tựa trên 2 bản:

– “Bảng đối chiếu ân dương lịch 2000 năm và niên biểu lịch sử” của Nguyễn Trọng Bỉnh, Nguyễn Linh và Bùi Viết Nghị do Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội xuất bản năm 1976 tại Hà Nội.

– “Từ điển Trung – Việt” của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội xuất bản năm 1977 tại Hà Nội.