TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 28

 

CHƯƠNG CHÍN: HƯNG PHƯỚC

TRONG PHẦN 3 CHƯƠNG IX

(chánh truyện có mười lăm vị, phụ truyện có một vị)

1. Truyện ngài Trí Huy trụ viện Tham Dục ở Lạc Dương, thời Hậu Đường.

Thích Trí Huy, họ Cao, người ở xứ Hàm Tần. Vừa đến tuổi búi tóc mà Sư đã khởi tâm muốn lìa tục, chẳng theo lũ trẻ, riêng theo thiên phần. Sau gặp Thiền Sư Khuê Phong Ôn, khí mạo khôi vĩ, tâm rỗng thể đạo, bèn tìm đến cửa, trong lắng nêu riêng. Thiền sư Ôn nói với Sư rằng: “Ông thật là kẻ sĩ tài khí đa năng!” Sư bèn cầu xin xuất gia. Năm hai mươi tuổi, Sư đăng đàn thọ giới cụ túc, phong cốt phóng khoáng, ưa chuộng kỳ đặc. Trong núi thường vắng vẻ không việc gì khác, Sư chỉ gắn liền với Tạng Giáo, thiền luật suốt ngày, trì tụng cả trăm ngàn lời, nghĩa vị đều thưởng thức.

Nghe nói Phật có cho phép nên Sư đọc sách ngoài một thời gian trong ngày, Sư lại rất giỏi về ngâm vịnh, được thể tao nhã. Ngoài việc bút mực còn viết chữ rất khéo, phấn tường mê vui, mây núi trong tay. Sư có nói rằng: “Ta rất kính mên sáu pháp của Tăng Trân Đạo Phân, chỉ tiếc sanh không đồng thời!” Đối diện tường vách, Sư vẽ họa mỗi thứ đều thành hình tượng rất sinh động. Nhưng Sư thật là kẻ sĩ phóng khoáng. Hoặc chấn tích du quán khắp sơn thủy, hoặc nhẹ gót giày rão xem khắp phố chợ. Ý muốn ở thì dừng, hết hứng thú thì đi, hoặc vào liên xã ở Đông Lâm, hoặc đến kinh hành ở Nam Nhạc. Tỏ ngộ tông chỉ ở Tào Khê, thà khổ nhọc một đêm. Tìm hỏi thần tiên nơi Viện Động, dò đến Tam Thanh, lấy việc chí cầu, không lúc nào phế bỏ. Ngoài ra, Sư hái thuốc nơi sơn cốc, cứu bệnh trong tăng lữ, chỉ khẩn thiết lợi tha, tâm không việc riêng.

Đến niên hiệu Càn Hóa thứ (91) thời Hậu Lương, từ Giang Biểu, Sư đến Đế Kinh, nhìn thấy các phạm cung không đâu chẳng hoàn bị. Chỉ có nhà tắm tẩy rửa bụi nhơ việc còn thiếu sót, bèn dừng lại ở Lạc Châu, đục hang làm thất, ranh giới ở hai bờ nam bắc chất chồng có đến vài mẫu, chỉ bày để nêu bảng, mời những người ưa thích phước nghiệp cùng xem. Chưa đầy một năm mà dần dần xây sắp đủ. Trong viện, tăng phòng rực rỡ có thứ lớp. Từ đó, các bậc thượng lưu nơi đạo quán, chư tăng khắp Lạc Thành, người đến như trở về, người đến không ngăn ngại, thường hợp trước sau, năm ngày một lần mở tắm gội, không hề gián đoạn, trong một năm có hơn bảy mươi hội. Mỗi lần tắm, khắp cả xa gần nhóm tập có đến hai ba ngàn vị tăng. Ngài tự thân làm mọi việc, không hề nói mệt mỏi. Sư dùng gỗ đóng guốc mang chân, lấy sợi gai vá chằm áo mặc. So với Tôn Giả Ca-Diếp-Ba thì cách có bao xa! Hoặc lúc rảnh rỗi, Sư ngâm vịnh cúng dường chư tăng, nhàn rảnh thì chăm việc bút mực, miên tưởng đến Gia Lăng, Bích Lãng, Thái Hoa, Liên Phong, ngưng thần xa tít, có hứng thú thì làm. Khói cảnh Ngũ Khê, bốn vách rừng lạnh, dời ở trước mắt, có đủ nắng nóng và rét lạnh. Lại thêm vận nghĩ khéo léo tạo trục quay múc nước nhanh chóng như thần, không thể sánh bằng. Lại xây dựng nhà tắm ứng chân, phía trong Tây vũ có mười sáu hình tượng và Quán Tự Tại đường, chỉ hơn một năm đều hoàn tất.

Bấy giờ, Dương Thị Lang trấn nhậm tại đó, giả vờ ngông cuồng gọi là Dương Phong Tử, mà dốc lòng kính trọng Sư làm văn bia khen ngợi đức hạnh. Không biết về sau, Sư mất ở đâu.

2. Truyện ngài Quang Tự trụ Viện Chân Dung ở núi Ngũ Đài, thời Hậu Tấn.

Thích Quang Tự, họ Lý, người ở Xứ Văn Thủy, thuộc Thái Nguyên. Từ thuở nhỏ, Sư đã thích một mình vắng lặng, ít xen tạp với bọn trẻ, tin chuộng núi Ngũ Đài, mới làm đệ tử tài giỏi của Ngài Hạo Uy ở viện Chân Dung. Sau khi thọ giới, khí vũ Sư rộng lớn, phiền não nhiều bao tang, bèn ra đi cầu thiền Pháp, trải qua năm tháng học nội ngoại giáo điển đều phát triển tốt đẹp, biển lớn sóng dồi thật khó chống chỏi. Do đó, Sư quyết chí vượt Trùng Hồ, lên Mân Lãnh, thạnh hành đàm luận thế giới của Bồ-tát Văn-thù khiến người nghe kinh động. Trung Ý Vương họ Vương cúng thí danh hương sai sứ mang đến chùa.

Năm Quý Dậu (913), Sư đến Lưỡng Chiết, yết kiến Võ Túc Vương họ Tiền và được tiếp đãi rất nồng hậu. Cúng thí Văn-thù Thánh chúng các vật hương trà và một muôn cái bát. Kế nữa, ứng với mục tể các châu Ngô Việt đều khắc bỗng lộc nhập duyên, Sư đi theo đường biển đến Thương Châu, chuyển vận các vật vào núi. Bấy giờ, Đại Sư Hàng Long suất lãnh đè ép, chư tăng đều sợ. Vì Sư phân tán chúng ở các chùa, lan-nhã ít được quân bình, nên lúc đó, đồ chúng kiên quyết thỉnh Sư làm chủ viện. Tuyên cáo bổ sung Tăng Quan Hạc ở Các Đài Chùa Viện, gọi đó là Đô Cương và xưng hiệu Sư là Siêu Hóa. Sư dẫn đầu chư tăng như chim phụng thống lãnh các loài lông vảy. Suốt trong vòng mười lăm năm xây dựng Phạm Vũ cúng dường tăng ni chẳng hơn kỷ cực.

Đến niên hiệu Thiên Phước thứ nhất (97), Sư nhuốm bịnh, tới ngày mùng tháng 9, Sư gài thị tịch. Môn nhân xây tháp an táng linh cốt, Xá-lợi đến nay vãn còn.

3. Truyện ngài Tuân Hối trụ chùa Tướng Quốc ở Đông Kinh thời Hậu Tấn:

Thích Tuân Hối, họ Lý, người ở xứ Tiều Quận. Ông nội Sư chẳng ra làm quan, mẹ của Sư họ Trương, mộng thấy vị thần trao cho mình một viên ngọc báu, bèn có thai Sư. Đến lúc sanh ra Sư rất kỳ lạ, lúc cho bú, Sư khéo biết sự vui buồn của người. Đến khi khôn lớn, hễ thấy chùa quán, Sư hẳn đều đi chậm rãi, lại quay đầu chăm nhìn chẳng tạm bỏ.

Năm mười một tuổi, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Hào Thành, đảnh lễ Luật chủ Sùng Nhân, tôn xưng làm thầy. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa hoàn tất được hai bộ, từ đó càng siêng năng học hỏi. Đến tuổi hai mươi, Sư đăng dàn thọ giới cụ túc, hành trì luật nghi bền chặc như chuyển đá. Sư tìm thầy ở Tây Lạc, hỏi đạo ở Kê Viên. Ban đầu, đến nơi Pháp Sư Trí Tiềm, Sư được truyền giảng Kinh Pháp Hoa, tinh nghĩa nhập thần, thư hoàng đầy miệng.

Năm Mậu Thìn (908) tức niên hiệu Khai Bình thứ 2, thời Hậu Lương, Ngài trụ Viện Dược Sư ở Chùa Tướng Quốc, đứng đầu trong việc giảng dạy. Đến năm Tân Mão (931) tức niên hiệu Trường Hưng thứ 2, thời Hậu Đường, môn đồ tiếp tục thỉnh Sư giảng dạy. Đã khắp mười chín biến, lên giảng đường hơn hai mươi vị. Đến niên hiệu Thiên Phước thứ 2 (937) thời Hậu Tấn, có Đại Sư Kế Ngung ở núi Ngũ Đài là người thông hiểu Đại Kinh Hoa Nghiêm, đích thân vào Đông Kinh, đến chỗ vua Cao Tổ (Thạch Kính Đường 936 – 93) thời Hậu Tấn ban giáng Thánh tiết công đức. Sư kính ngưỡng Ngài Kế Ngung, biện sóng sông Kinh, như gió thổi xuống xu hướng, sung cho việc tuyên giảng. Sư lại khéo phân xuống trăm dòng, chứa thành tạng biển. Khoảng đời Hậu Lương, (907 – 923) đời Tống, vì Ngài Kế Ngung thôi thuyết giảng nên Thỉnh Sư Phu Dương, khắp giảng đường tăng tục đến đông đúc. Ngài khuyến mộ bốn chúng khắc một bộ Kinh Hoa Nghiêm trên vách đá trong giảng điện khắp ba mặt. Sư than dầu tố khác với tai họa như lửa dữ ở trên, khắc vào đá trinh mân này đâu còn lo sâu trắng ăn phá”. Công thợ chưa báo hoàn thành mà đàn thí cúng dường đã đủ. Sư lại mời các hàng tăng tục mỗi người trì tụng một quyển, tất cả có được hai trăm bốn mươi vị thành được ba bộ. Bốn mùa thiết lập kinh hội, gần hai mươi năm không hề gián đoạn. Ngài lại riêng thí Pháp thực cho quỷ thần thủy lục, đều khuyên gắng trang nghiêm tâm hạnh Bồ-đề. Triều đình khen thưởng nêu bày công hạnh, tặng Sư danh hiệu là Chân Hạnh Đại Sư.

Ngày 16 tháng Giêng năm Ất Tỵ (9) tức niên hiệu Khai Vận thứ 2, Sư thị hiện tướng bị bịnh, dạy răn môn nhân đệ tử xong, Sư nằm nghiêng hông bên phải, xưng niệm danh hiệu Phật trong chốc lát thì thị tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi, năm mươi mốt hạ lạp. Môn nhân vâng theo di chỉ an táng tại gò phía Đông, trong rẫy của chùa, thuộc phía Bắc Tùy Hà.

Kế nữa, có Ngài Thích Ngạn Cầu trụ chùa Long Hoa ở Hàng Châu, Sư họ Diệp, người xứ Tấn Vân. Vào niên hiệu Trinh Minh (91 – 921) thời Hậu Lương, Sư thọ giới. Sư đến Pháp tịch của Luật Sư Cảnh Tiêu, chóng thấy rõ Tỳ-ni sâu mầu, bèn đem truyền giảng, bỗng chốc tỏ ngộ La-hán Đạp Bà, Sư trở lại cầu Pháp vững bền, mới đến Mân Lãnh đạt được tâm quyết của Thiền Sư Trường Khánh. Sư trở về đất Chiết, nhận sự thỉnh mời của mọi người ở Đôn Khâu mà Sư dừng ở tại Viện Lục Thông. Đạo của Sư chỉ mong thơm cùng Phu Thân, tiêu nấm quế đua tranh phân biệt. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền khâm trọng cao hạnh của Sư nên mời trụ viện Công Thần. Cuối cùng, Sư trở về châu, sửa sang chùa Long Hoa, nhóm họp đồ chúng diễn giảng. Sư thích làm việc chúng, xem trọng hơn thân mình. Chỉ lấy lợi người làm việc gấp, thọ nhận của cúng thí đều sung vào của thường trụ. Phòng Sư ở không khóa cửa, sọt không nắp cài. Chẳng cho Ni chúng đến lễ yết, không câu nệ thanh thế, thường chúc độ giới, người ở bốn phương xa nhóm về, thường ngày cúng dường cả ngàn vị tăng thọ thực, chưa từng nghe báo thiếu thốn. Nói trước tính sau, ăn đến cả muôn người.

Sư thị tịch tại chùa Sư ở vào niên hiệu Kiến Long (960 – 963) thời Bắc Tống.

4. Truyện ngài Trí Lãng trụ Viện Hỗ Thông ở Tào Châu thời Hậu Tấn:

Thích Trí Lãng, họ Hoàng, người ở xứ Thành Võ, thuộc Đan Châu. Mẹ của Sư họ Lưu, mộng thấy mấy vị tang môn viên tọa nói Pháp cho mình nghe rõ ràng như ở bên tai, bèn mang thai Sư. Đến lúc lớn lên, Sư khôi ngô có tập khí làm tăng, thuần tĩnh đơn giản, Sư khổ nhọc giã từ thân thích để xuất gia, sang Viện Hỗ Thông ở Tào Châu thờ ngài Hạnh Mãn, cúng dâng cẩn trọng. Đến lúc xuống tóc thọ giới, thành bậc Đại Tỳ-kheo, Sư học luật Tứ phần, Kinh Tịnh Danh, đều rất giỏi. Sư nói: “Người xuất tục sao dính mắc giữ gốc, chẳng thể thoát xiềng xích mở gông cùm?” Đối với tri kiến rộng lớn không gì Sư chẳng kham năng, bèn mang bình bát đi về phía Nam Hành Dương, lên non Nhạc, dừng ở chùa Bát-nhã, hành trì thuật Thai Tức mà xem đọc Kinh tạng, việc xong Sư trở về Mân Lãnh. Sư không có bè bạn, chỉ có hình với bóng. Đôi ba phen gặp thú dữ dều muốn há mồm cắn xé, rồi lại từ nhẹ bước mà đi. Gặp được hai Tổ Sư Động Sơn và Tuyết Phong mà rõ được Thiền huấn. Có người thưa hỏi thì đáp lời nhanh như bay, bởi liễu đạt không dính mắc. Sau, Sư trở về bổn viện, các người kính tin tìm đến như quay về, mà tứ sự cúng dường chư tăng không hề thiếu thốn, hơn bốn mươi năm làm mọi việc mà không tỏ vẻ mỏi mệt.

Ngày 23 tháng 11 năm Đinh Mùi (97) cuối đời Hậu Tấn, Sư thị tịch. Bấy giờ người tại gia rất đau khổ, còn chư tăng thì buồn thương, thú mất sức mạnh bởi kêu gào buồn khổ, chim ngừng bay mà lờ đờ. Có người kêu than rằng: “ Sông ái biển khổ, ai người cứu vớt kẻ đắm chìm!” Sư thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi ba hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi, xây tháp thờ tại viện.

Sư là bậc Thích Tử y vật thề chẳng qua tay người nữ, giặt rửa chẳng nhọc khổ đến môn đồ đệ tử, vật tượng báu của đàn việt cúng thí không hề dùng lẫn lộn. Bởi được đúc luyện bởi trước luật sau thiền thần dụng nên được vậy. Đại Doanh Phủ Thiếu Duẫn Lý Huyễn soạn văn bia.

5. Truyện ngài Sư Hội trụ Thiền Viện Thiên Thọ ở Đông Kinh thời Hậu Hán:

Thích Sư Hội, họ Cự, là con cháu của Thứ Sử Kinh Châu tên Võ, đời Hán, Tổ tiên Sư dời nhà đến ở Bắc Yên, nên thành người Kế Môn. Cha của Sư húy là Tri Cổ, mẹ của Sư họ Triệu.

Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, đảnh lễ Đại Sư Đạo Phi viện Ôn Tuyền ở Kế Châu làm thầy. Khi công phu đã thành, tuổi tác đã đủ, Sư thọ giới cụ túc tại giới đàn chùa Kim Đài Bảo Sát. Vào niên hiệu Khai Bình (907 – 911) thời Hậu Lương, Sư trôi giạt phiêu bồng ở Sông Sóc, ôm bát rảo bộ nơi Giang Hoài, mới đến Hán Nam, gặp Ngài Nham Tuấn ở Viện Quán Âm, bèn trải chiếu đàm đạo, vỗ tay bình luận về tâm. Ngài

Nham Tuấn hỏi Sư: “Huynh có nghe ở núi Đầu Tử có Thiền Sư Đại Đồng chăng?” Sư đáp: “Có nghe nhưng chưa gặp”. Ngài Nham Tuấn bảo: “Huynh nên mau đến đó!” Đến lúc tham yết ngài Đại Đồng chỉ cách chừng nửa bước chân, ngoài việc nêu cao Sư còn rửa sạch rõ ràng. Sư rất bình an thản nhiên. Đến niên hiệu Càn Hóa thứ 2 (912) thời Hậu Lương, Sư trở lại Lương Uyển lễ tạ Ngài Nham Tuấn mà thưa rằng: “Xưa kia vằng vặc đường cao, mịt mờ sanh tử, tía thật mờ đỏ, cuồng loạn gián triết. Nếu không vâng theo thầy bạn chỉ quy, cơ hồ một đời luống qua! Nay đem cỏ Du dơ uế xin cùng cỏ huân đồng để một nơi cất giữ có được chăng?” Ngài Nham Tuấn cho Sư xét đức mà vào trong Pháp tịch.

Mùa Thu niên hiệu Càn Hóa thứ tư (91) Có Ngài Chí Tu trụ viện La-hán ở phường Bảo Tích thỉnh Sư đến trụ ở đó, viện ấy chỉ che lợp cỏ tranh năm gian mà thôi, mới cảm đàn việt Thượng Thư Tả Thừa Ngô Ái, Binh Bộ Thị Lang Trương Viên, như Viên Sáng bái yết Bảo Lượng, Từ Trạm kính lễ Tuệ Thông, cùng phát phụng chương, sắc đề biển ngạch là “Thiên Thọ”. Chư tăng khắp nơi tự nhiên đến. Qua ba mươi năm cúng dường chư tăng hơn hai trăm vạn, sử dụng vật báu không ít lẫn lộn, chí tiết của Sư có thể biết như thế nào.

Niên hiệu Thiên Phước thứ 7 (92) thời Hậu Tấn, vua Cao Tổ cho rằng “Sư hạnh đã thành ở trong, Thanh văn ở ngoài”, bèn sắc tặng Pháp y sắc tía. Đến niên hiệu Khai Vận thứ nhất (9), lại sắc tặng Sư hiệu là Pháp Tướng. Pháp y sắc tía thì Sư cất giữ mà thọ trì, còn hiệu thì Sư xem thường sự tôn xưng đó. Sư bảo: “Ta vốn chẳng cầu danh, danh tự đến cầu ta. Biết thì trong trắng mà chấp lấy thì tối đen, hòa với ánh sáng, đồng với bụi bặm. Đời huyễn hoặc quanh co, ta sanh chẳng nhằm thời!” Đến ngày 26 tháng 7 niên hiệu Khai Vận thứ 3 (96), Sư dặn dò môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi bảy tuổi, bốn mươi tám hạ lạp. Sau khi trà-tỳ, thâu nhặt xá-lợi được mấy trăm viên. Xây tháp thờ tại làng Biện Dương thuộc Đông Giao. Hình Bộ Thị Lang Biên Duy Đảng soạn văn bia tán dương đức hạnh của Sư.

6. Truyện ngài Trí Giang trụ viện Quảng Thọ ở Tống Châu thời Hậu Chu:

Thích Trí Giang, họ Đơn, người xứ Nam Quản thuộc Tam Hà, ở U Châu, là con của phú tộc Du Hiệp. Tuy cỡi ngựa tre mà nhàm chán, trở về cửa nhà lửa, chợt vui cùng đống cát, khéo xây đắp phù-đồ. Lược nghe giáo pháp của Thiên Trúc, hẳn gạn lóng ngưng tình, như Tiêu Tương gặp lại người xưa.

Niên hiệu Càn Nguyên thứ (897) thời Tiền Đường, mới mười lăm tuổi, Sư đến chùa Cảm Hóa ở Bàn Sơn, xuất gia làm Sa-di, hoàn bị tư cách Sa-di. Đến niên hiệu Thiên Phúc thứ 3 (903) thời Tiền Đường, Sư đến chùa Lô Viên ở núi Ngũ Đài, thọ giới cụ túc. Từ đó, Sư vác dù thỉnh nghiệp, chọn gỗ nương thầy. Hai bộ Kinh Tịnh Danh và Thượng Sanh, Ngài tinh luyện như lửa cháy làm tan băng, mà tâm vẫn không nhàm chán. Niên hiệu Long Đức thứ nhất (921) thời Hậu Lương, Sư đến chùa Khai Nguyên ở Thương Khâu, thỉnh một chi danh số, cái gọi là Tinh Nghĩa nhập Thần tan thỉ hưng thịnh. Nhân đó, Sư soạn “Thụy Ứng Sao” tám quyển. Các hàng thức đạt truyền nhau, học trò ảnh hưởng nương gá biên chép rất nhiều.

Đến niên hiệu Đồng Quang thứ nhất (923) thời Hậu Đường, Sư trú tại Viện Hư trụ của Vi Tử, sửa sang đường Vũ, thay đổi đáng chiêm ngưỡng. Lại đắp họa tôn tượng đức Từ Thị Di-lặc, Đức -ca Thế Tôn và mười sáu vị La-hán đều thêm vẽ họa khắc giống như thánh nghi. Công việc mới hoàn thành, bỗng chốc, Sư mắc bịnh lâu ngày khó chữa. Đến tháng 7 niên hiệu Hiển Đức thứ (98) thời Hậu Chu, Sư thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi. Đang lúc chúc khoáng, khắp viện trời người xen lẫn nhau hình trạng như đón rước dẫn đường. Ngày trước Sư thệ nguyện sanh lên cung trời Đâu-suất nên có chiêu ứng.

Lại Bộ Viên Ngoại Lang Lý Huyễn soạn bài minh trên tháp.

Liên hệ thử bàn:

Người trước lập nghĩa đều y cứ vào giáo văn, đâu được thích, ghét theo ý mình, đúng sai mặc biết. Vết xe trước đã đi chẳng xóa vết, xe sau sao chẳng cẩn thận mà theo đó? Thông đáp: Phàm soạn thuật có bốn thứ: Một là thuyết trước rất trái, đối với văn lại mịt mờ, hai là thấy hẹp hiểu lầm nên lãnh hội tự trái, ba là thích dài dòng ghét tóm gọn, bốn là ưa thẳng thắn mà ngờ lạ xa xôi. Có một trong bốn điều đó, thì không gì chẳng soạn thuật được. Ngài Trí Giang soạn “Thụy Ứng Sao”, chưa được xem khắp, nghe những lời ở ngoài đường, cũng giúp được điều cần thiết của đương thời. Giả sử chẳng giúp dùng mà biến đổi nghĩa chương của cổ đức thì làm sao khác với lấy cũ sánh với cái bại hoại không được dùng mà phá hoại đó, sẽ có sự thất bại.

7. Truyện ngài Quang Dự trụ Viện Chân Dung, ở núi Ngũ Đài, thời Hậu Chu:

Thích Quang Dư, họ Hàn, người ở ấp Kim Thành, thuộc Ứng Châu. Thuở nhỏ, Sư đọc sách Nho, có ý chí muốn giúp nước chăn dân. Có lần nằm mộng thấy có vị thần khuyên bảo rằng: “Đối với Phật pháp Ngài có nhân duyên rất lớn”. Sư bèn đến viện Chân Dung, nương tựa Ngài Pháp Uy cẩn trọng giữ phận làm đệ tử. Sau khi thọ giới cụ túc, Ngài trì tụng Kinh Tịnh Danh, thấu suốt đến nỗi chỉ y cứ vào nghĩa, chẳng y cứ vào ngữ. Sư thưa với Bổn sư cầu xin đi nghe giảng tập học. Ngài Pháp Uy chấp nhận.

Sư bèn đến viện Tam Học ở Thái Nguyên, vượt qua nóng lạnh nghiên cùng cứu xét chăm chăm, thường đổi Hòe đàn, Sưg giảng hai tòa là Kinh Duy-ma và Thượng Sanh, bỗng nhiên Sư nói với bạn đồng học rằng: “Tôi nhớ năm trước mỗi lần trì niệm chỉ y cứ vào nghĩa. Gần đây ở trong học viện, nay giảng hai bộ kinh, cùng lý thấy tánh, biết quả nghiệm nhân, có được chẳng y cứ vào giáo khởi hạnh mà khỏi trái với hạnh tứ y chăng?” Sau đó không lâu, Sư từ giã Tấn Thủy trở về núi cũ, đội Kinh Hoa Nghiêm đi nhiễu quanh điện Bồ-tát, mỗi ngày sáu thời đi vòng quanh theo phía Hữu lễ Phật.

Bấy giờ, vua Cao Tổ (Thạch Kính Đường) thời Hậu Tấn, cầm nắm quyền chính đã năm thứ 3 (938), tiếng tăm Sư đã vang vọng đến cấm cung, vua bèn ban tặng Sư Pháp y sắc tía. Năm sau, lại trao cho Sư danh hiệu là “Thông Ngộ”. Sơn môn Tăng Quan cùng đại chúng kiên trì thỉnh Sư lâm đàn. Sư cáo từ không chấp thuận. Tăng Quan nói với Sư rằng:”Sư hạnh giải hơn người mà chỉ tu cho chính mình, ngọc phác tốt mà chẳng mổ thì sẽ thấy khóc nước mắt như máu!” Từ chối không được, Sư đã độ hai ba người, trở lại cố cầu thoát khỏi. Gặp lúc thiếu vua nối ngôi, viện thiếu chủ giữ, đại chúng đều đề cử nói rằng: “Nếu không phải sư Quang Dự thì ai có khả năng?” Sư từ chối bảo rằng: “Ở núi này là chỗ khách ở khắp nơi đến. Cớ sao chẳng ra ngoài cửa viện, có tháng năm vậy, để biết cúng dường có gì cần dùng”. Tuy khỏi chẳng theo, nhưng từ đó về sau, cúng thí chất chồng, trong mười tám năm cúng dường hơn trăm muôn vị tăng. Một đêm, mây móc nổi lên, sương tuyết rơi lác đác, cái dù của Sư xuyên dọc bằng một dải lụa trắng dài ba bốn thước bỗng nhiên không thấy. Đến hôm sau vào đêm khuya, lụa đã đến bỗng chốc để lại chỗ cũ, bởi do âm thần đưa đến.

Tháng 10 năm Canh Thân (960) nhằm niên hiệu Hiển Đức thứ 7 thời Hậu Chu, Sư thị hiện bị bịnh, nói với đệ tử rằng: “Như rồng nhàm chán đại hoạn, ôi! chim phụng buồn chết trên sông, các hành vô thường là Pháp sanh diệt!” Nói xong, Sư thị tịch, thọ sáu mươi sáu tuổi, bốn mươi sáu hạ Lạp. Trà-tỳ ở dưới Đông Phong, thâu nhặt linh cốt an táng ở tháp tràng. Còn xá-lợi tùy duyên cúng dường.

8. Truyện ngài Nham Tuấn trụ Thiền Viện Quán Âm ở Đông Kinh thời Bắc Tống:

Thích Nham Tuấn, họ Liêm, người xứ Hình Đài. Từ khi mới sanh về sau, Sư có lắm việc thần dị, trội thân vượt bỏ buộc ràng, thệ nguyện vào chốn Không môn. Theo bưng giới châu, trọn thân tròn sáng. Cầm bưng bình bát tích trượng, Sư nói đi khắp tham tầm. Bước lên Hành Lô kia, vượt đến đất Mân Thục, từng đến Phụng Lâm, chợt gặp một cái hang sâu, thấy sáng rực một khu vực, có bảy báu ngang dọc. Khi đó, người bạn đồng đi nhìn lại mà nói rằng: “Kỳ lạ thay! Có thể cúi xuống lượm nhặt được chăng?” Sư bảo: “Người xưa cày xới đất vườn, gặp dược vàng ròng còn xem như ngói gạch. Nếu muốn ôm hoài đó thì tự chuốc họa. Đợi chốn dân gian ta xây dựng che đảnh, cần phải cúng dường bốn phương tăng”. Nói xong, bèn bỏ mà đi. Sư đến yết kiến chủ núi Tử Đầu ở Thư Châu. Chủ núi hỏi: “Khách từ đâu đến ở lại qua đêm?” Sư đáp: “Ở đạo tràng Bất Động”. Chủ núi hỏi: “Đã nói là bất động sao còn đến đây?”. Sư đáp: “Đến đây há là động ư?” Sư lại nói: “Vốn đến nhưng chẳng hề đắm trước “, Chủ núi im lặng mà chấp thuận.

Mãi đến lúc Sư muốn trở về đất Triệu, trên đường ra Trần Lưu, đến nơi nầy gọi là Đông Kinh, gặp Lương Thiếu Bảo Lũng Tây Công Tư, tức anh của Hà Đương Tiết Độ Sứ tặng anh em của Trung Thư Lịnh Chi. Tuy ở ngôi vị quan quý nhưng rất sùng kính Không môn, tiếp Sư đàm luận lý huyền, như Lưu Di Dân kính phụng Giả Viễn. Cùng bàn định xả thí vườn nhà, khiến xây dựng Nhân từ. Sư chẳng nhường trái, để an hình tánh, đã xét thiền thất mà hành tổ phong, mến đạo cùng huyền đường, Vũ lấp đầy. Hai vua Cao Tổ và Thế Tông thời Hậu Chu, lúc đang còn tiềm ẩn, cùng Sư kết giao bạn áo vải, mỗi lúc đến phương trượng, thì thi lễ quỳ lạy, cho đến lúc lên ngôi, vẫn kéo dài sự ưu ái, đến như sớm đạt kiến hẳn cúi đầu, đàm luận cao hư như đến núi báu. Tháng 3 năm Bính Dần (966) nhằm niên hiệu Càn Đức thứ thời Bắc Tống, Sư thị hiện bị bịnh. Đệ tử là Di Lưu tìm thầy dâng thuốc, Sư trừng mắt ngậm môi chẳng ăn uống, dạy răn môn nhân mọi việc về sau đã, đang dáng bộ vui vẻ, Sư nghiễm nhiên chắp tay quyết biệt với tăng chúng rồi thị tịch, thọ tám mươi lăm tuổi, sáu mươi lăm hạ lạp.

Ban đầu, Sư được triều đình ban sắc tặng Pháp y sắc tía, Sư nhận mà không đắp mặc, ban tặng Sư hiệu là “Tịnh Giới Sư”. Có mà chẳng xưng gọi. Đến lúc Sư sức khỏa suy yếu, vua Thái Tổ (91 – 9) thời Hậu Chu bảo với các vị thị giả chớ để Đại Sư chỉ ăn một bữa vào lúc giữa ngày, mà khi xế bóng lại nên dâng khư-xà-ni. Sư tuy vâng thuận mà khó thực hành theo. Sư trải lòng thương dịu dàng với mọi vật, đến chỗ tự hẹp mà rộng, thật cả ba viện mà chỉ một cửa. Ở hai nhà Đông Tây, tăng chúng ở thường chẳng dưới mấy trăm vị. Suốt năm mươi năm, Sư cúng dường chư tăng, tính số đến cả trăm ngàn vạn. Khắp các thiền lâm kinh thành, Sư là người đứng đầu. Đến ngày mùng 8 tháng năm đó (966), đón rước nhục thân Sư về an táng tại làng Phong Đài thuộc Đông Giao, tháp trắng nay vẫn hiện còn. Ngày đó các chùa viện ở Thần Đô, đều tự cầm cờ phướn, thổi loa ốc, náo bạt nối nhau đến hai, ba dặm đường. Kẻ tăng người tục dự lễ tống táng có đến muôn người. Tri Chế Cáo Vương soạn văn bia bộc bạch luyến tiếc, phát quyết đức hạnh của Sư.

9. Truyện ngài Ngạn trụ viện Bảo Đàn ở Tây Kinh thời Bắc Tống:

Thích Tùng Ngạn, họ Mễ, người ở xứ Yên. Ban đầu, từ thức hoàn, tìm biết quỵ quất, ngung ngang trội chất, hoát đạt an nhiên. Năm mười lăm tuổi, cha mẹ chấp thuận cho Sư xuất gia tại thiền Viện Tuệ Giác ở Tinh Bộ.

Sau khi thọ giới, Sông Kinh Sư khua mái chèo, biển luận Sư hóa cá côn, đồng bạn nể sợ, đều biết sùng phụng. Sư mới lưu tâm đối với Tổ giáo, mong ngài ngọc ở núi khác, do đó, bắc cách biệt trời giá rét, nam quán cùng biển quế, Sư chẳng sợ ác khí chướng, chí kính mộ tòng lâm, mừng vui gặp được Thiền Sư ở núi Long Nha, vì quyết dứt điều nghi thành bậc đạt giả.

Đến năm Bính Thân (936) nhằm niên hiệu Thanh Thái, thời Hậu Đường, Sư lại đến Tung Thiếu, ở Lạc Trung mới an ổn, nhân tình hòa hợp. Sư xây dựng Thiền phường, thỉnh tăng nhóm họp chúng mà cúng dường. Trải suốt ba triều đại Hậu Tấn (936 – 97) Hậu Hán (97 – 91) và Hậu Chu (91 – 960) đều gia tăng ân sủng. Sư nói rằng: “Ân sủng và hổ thẹn nếu làm kinh động ta thì không kinh động lâu dài. Nhưng trong môn Tục Đế cảm Thế Chủ vì đề tú duyên sức gỗ mục!”

Ngày Mùng 3 tháng 8 niên hiệu Khai Bảo thứ 2 (969) thời Bắc Tống, Sư thị hiện bị bịnh mà thị tịch. Đến năm Tân Mùi (971) nhằm niên hiệu Khai Bảo thứ , đổi quyền theo cũ, an táng tại tầng tháp.

10. Truyện ngài Giác trụ viện Phổ Tịnh ở Đông Kinh thời Bắc Tống:

Thích Thướng Giác, họ Lý, người ở xứ Trần Lưu. Ban đầu, Sư làm con nuôi, khí điệu tuyệt kỳ, vào trong trường làng, đọc tụng kinh sách, bọn trẻ nhỏ đều ở dưới Sư. Đến tuổi hai mươi, Sư đến Lô Sơn, vân du Nhị Lâm, trèo vượt Ngũ Lão, mới đến lễ yết Thiền Sư ở chùa Quy Tông, sung vào khổ hạnh.

Niên hiệu Càn Hóa thứ 2 (912), thời Hậu Lương, Sư được cạo tóc xuất gia. Năm sau, Sư đến giới đàn Cam Lộ ở chùa Đông Lâm thọ giới cụ túc. Từ đó về sau, tu thân đúng như lời nói. Tuy học ba Tạng nhưng để ở ngoài ý, dùng tâm học để chuyên nghiên cứu đến cùng tận, Ngài lại vào núi Ngũ Đài đảnh lễ linh tích đức Đại Thánh Văn-thù. Mãi đến niên hiệu Thiên Thành thứ 3 (928) thời Hậu Đường, Sư mới đến Đông Kinh, bên phải cửa Lệ Cảnh, có xây dựng Thiền phường nhỏ, đề biển ngạch là “Phổ Tịnh”, lần lượt từng tháng ngày 28, thiết bày phương tiện cúng dường chư tăng khắp cả kinh thành tắm gội, như hoặc rót múc nước nóng có hương thơm, củi đuốc thiếu, Sư hẳn bảo phá triệt nhà nhỏ kéo rút cột rui mà yểm trợ. Có công Vương quý mến kính trọng, đề biểu kính dâng Pháp y sắc tía, nhưng Sư từ chối chẳng nhận. Sư miệt mài lấy sự lợi hành cứu vật làm việc chính của mình.

Đến ngày mùng 3 tháng 12 niên hiệu Khai Bảo thứ (971) thời Bắc Tống, Sư mắc bịnh mà vẫn nhẹ nhàng không nhiễu loạn, tới ngày 11, Ngài cáo từ tăng chúng rồi nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi, năm mươi sáu hạ lạp. Trà-tỳ thâu nhặt xá-lợi năm ầu rấ nhiều không thể tính xiết.

Sư từng ở Kinh Ấp, thường lên viện ấy, đọc xem Bắc Hải Đào Thượng Thư Cốc, vì Sương Đông Trương Trọng Tuân soạn lời tựa thơ tặng Sư mà đề rằng: “Bắt đầu từ niên hiệu Thiên Thành (926 – 930) thời Hậu Đường đến niên hiệu Càn Hựu (98) thời Hậu Hán, mỗi tháng ngày 28, chúng tăng khắp Lạc Thành tắm rửa, trải qua nhiều năm, tổn phí tiền đến số một trăm ba mươi sáu vạn, tính dây xâu tiền có đến ngàn muôn, tuy do đàn việt chung sức mà thành, nhưng kỳ thực chính là do tự khả năng hoằng hóa dẫn dắt của Sư. Ôi! Dưới Đại hỏa Trần Lưu Cổ Phong, từ thời nhà Chu nhà Tần về sau, đó là đất nước chiến tranh. Người vật đông nhiều mà thổ phong còn thuận lợi, xe thuyền tụ hội mà buôn bán nhiều thứ lẫn lộn. Xưa kia, chư hầu của Lương Tuệ Vương có nói với Mạnh Kha rằng: “Đâu vì lợi nước ta, vậy đủ biết chuyển hóa lễ nhượng không hơn tâm ham thích lợi, rõ ràng vậy”. Vả lại, xứ Lương cách đất Lỗ ngàn dặm mà gần, Đạo còn chẳng đồng, huống gì mười vạn tám ngàn dặm ư? Vua nhà Lương cùng Mạnh Tử là người cùng thời đại, tâm còn có khác, huống gì là Cù-đàm thượng nhân ư? Mạnh Tử kia thuộc văn đó còn chưa mất mà không thể nêu cao phơi bày ngoài Đạo của vua. Nay Thượng Nhân cách Thánh quá xa, chợt hay thực hành được giáo điển của đấng Pháp Vương. Nếu không phải bậc ba nghiệp bên trong đã tịnh, sáu trần bên ngoài đã trong, thì dùng hạnh của chí công hành hóa”. Đào lại nói lời tựa rằng: “Từ Linh Sơn phủ che biển Pháp theo dòng, ngọc hào ẩn tối và lời nhiệm mầu bặt dứt. Gậy vàng gãy mà làm dị đoan, chỉ có Thượng Nhân đối với Sắc, Không đều quán bình đẳng, ta vật đều mất, vừng mè lúa thóc đều là trai, đồng với thiền duyệt. Nóng lạnh chỉ một áo nạp, để che phủ thân khô gầy. Các vương thần trước sau muốn dâng chương biểu tặng hiệu cho Đại Sư, thỉnh Sư đắp mặc y phục phương bào sắc tía, đều đích xác từ chối”. Trương Trọng Tuân dâng tặng Sư bình bát, tích trượng, giầy cỏ, mọi thứ đều dùng ngũ ngôn viết thành chương khắc nơi cột đá mốc nhỏ. Đó là danh lưu thạc học, riêng biệt tán dương như thế.

11. Truyện ngài Vĩnh An trụ chùa Báo Ân ở Hàng Châu thời Bắc Tống:

Thích Vĩnh An, họ Ông, người ở xứ Vĩnh Gia, thuộc Ôn Châu. Thuở thiếu thời, Sư thuần hậu, hoàng trung thông lý, gặp được Đại Sư Vị Chinh là người cùng quận, từ Phụng Minh vượt đến Kiệu Ngọc Oánh Lam Điền, gặt rơi Văn Tâm, lắng trầm học sâu kín, lấy đó ra Lạc An Tôn Cáp lượm nhặt môn bỏ sót, nhưng Sư có tâm kính mến hướng thượng, bèn đến lễ bái mà cầu độ. Nhưng, Ngài Vị Chinh tánh cao ngạn, lại ít hợp, nhưng Sư luôn kính thờ vâng theo như vòng xoay.

Bởi thuở nhỏ biết chọn thầy, nên vào khoảng niên hiệu Thiên Thành (926 – 930) thời Hậu Đường, Sư theo hầu thầy ra Hàng Châu, bỗng nhiên có ý muốn thực hành mười hai hạnh đầu-đà, nên lẻn trốn muốn lên Mân Lãnh tham vấn Thiền tông, gặp phải phong cương gai góc khó khăn, bèn lui trở về dựng thất ở Thiên Thai. Sau gặp được Pháp tập của Thiền Sư Thiều mà chóng dứt bỏ mọi điều nghi. Sư trở lại đảnh lễ Ngài Vị Chinh, ngài Vị Chinh quát mắng rằng: “Bỏ trái hiếu dưỡng, ông tự nhanh chóng chuốc lấy tội, để sót hạnh ở đây, lại có ý nghĩ đắp bù lỗi trước chăng?” Sư quỳ mà đáp rằng: “Từ trước đến giờ không việc gì, xin dùng cho tròn trách nhiệm!” Ngài Vị Chinh gật đầu chấp thuận.

Hán Nam Quốc Vương Tiền Thị thỉnh Sư đến trụ chùa Báo Ân, đặt hiệu là Thiền sư. Sư bèn dùng Hoa Nghiêm lý luận làm hội yếu. Nhân sắp hợp Kinh, Sư khuyến mộ người khắc bản ấn tống mà lưu hành. Mỗi khi có đàn việt cúng thí, ít nghe Sư cất giữ, tất cả đều hồi hướng thí xả vào hai thứ ruộng.

Đến năm Giáp Tuất (97) nhằm niên Hiệu Khai Bảo thời Bắc Tống, Sư thị tịch. Trà-tỳ mà chiếc lưỡi vẫn còn, nhiều lần bỏ vào lò lửa rèn, mầu sắc tuy đồng như than nóng đỏ, nhưng đến lúc nguội lại mềm mại, nay hiện cất giữ phụng thờ trong đạo tràng Phổ Hiền. Sư thọ sáu mươi bốn tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp.

12. Truyện ngài Diên Thọ trụ chùa Vĩnh Minh ở Tiền Đường, đời Tống:

Thích Diên Thọ, họ Vương, người ở xứ Tiền Đường. Ở Lưỡng Chiết có quốc gia, bấy giờ Sư làm Lại Đốc, thâu nhận quân lúc cần. Tánh Sư ngay thẳng, miệng không nói đôi chiều. Trì tụng suốt bộ Kinh Pháp Hoa mà tiếng chẳng thôi vang vọng. Gặp lúc Thúy Nham Tham Công đang hoằng hóa hưng thạnh, Sư bèn bỏ vợ con tôi tớ cạo tóc xuất gia đăng đàn thọ giới. Sư có đến đỉnh núi Thiên Trụ ở Thai Lãnh tập tu Thiền định suốt chín tuần, có loài chim Xích Yến đến đậu làm tổ trong cổ áo. Sư được Thiền Sư Thiều quyết trạch sở kiến. Sư lại đến núi Tuyết Đậu, ngoài việc dạy người, Sư ngồi trước dòng thác trì tụng Thiền mặc. Áo không thêu thùa chỉ mặc vải bố quanh năm, ăn không chú trọng mùi vị chỉ rau cỏ đồng, giữa trưa một bữa.

Hán Nam Quốc Vương họ Tiền rất khâm phục kính chuộng, thỉnh Sư hành trì Pháp Sám Phương Đảng, mua chuộc các loài vật mà phóng sanh dàn trải tình thương rộng rãi. Nếu liên can đến điều phi lý, sắc mặt Sư vẫn không xao động. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa có đến mười ba ngàn bộ. Phần nhiều hay khuyên những người kính tin tạo lập tháp tượng. Sư không chứa để một vật gì. Sư lại có tài giỏi thơ đạo, biên soạn các sách lục như “Vạn Thiện Đồng Quy Tông Cảnh”, v.v… đến ngàn muôn lời. Quốc Vương Cao-ly xem đọc bộ lục đó mà sai sứ đem Pháp y Ca-sa sắc tía dệt bẳng chỉ vàng ròng, v.v… đến dâng cúng Sư.

Năm Ất Hợi (97) nhằm niên hiệu Khai Bảo thứ 8, thời Bắc Tống, Sư thị tịch tại chùa Sư ở, thọ bảy mươi hai tuổi, ba mươi bảy hạ lạp. An táng tại núi Đại Bi, dựng lập đình chí.

13. Truyện ngài Nghĩa Trang trụ chùa Thiên Cung ở Tây Kinh, thời Bắc Tống:

Thích Nghĩa Trang, họ Trương, người ở Xứ Cốt Đài. Từ ngày khỏi bồng ẳm đến năm tới trường học, thần thái Sư sáng suốt, máy trần chóng thoát bỏ, bèn đến chùa Khai Nguyên trong bổn phủ, được xếp ngang hàng như Thiện Tài. Theo lên giới đức, do đó ưa thích du phương.

Ban đầu, Sư đến Lạc Ấp, nghe giảng kinh Pháp Hoa, kiến thức Sư vượt hẳn mọi người, nên mở mang chỉ dạy mọi người. Đại chúng thỉnh Sư ở viện Cửu Diệu, chẳng thiếu thốn Pháp thực để giúp người qua lại, dùng đức từ làm lợi chúng sanh, trước sau không xen hở. Vào những năm đầu niên hiệu Kiến Long Tả Tán Kỵ Thường Than Công trình tấu vua ban tặng Sư Pháp y sắc tía. Học tăng nương tựa bẩm thọ hơn ba mươi vị. Tánh Sư thường luôn siêng năng, Ngoài việc giảng dạy ra, suốt năm mươi năm chăm chăm hai thời lễ sám. Đến tuổi già vẫn không thay đổi.

Đến tháng 8 Năm Mậu Dần (978) nhằm niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, Sư thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi chín hạ lạp. Qua tháng 2 năm sau (979) xây tháp tại phía Tây chùa Bồ Đề ở Long Môn.

14. Truyện ngài Phổ Thắng trụ chùa Quảng Ái ở Tây Kinh, thời Bắc Tống:

Thích Phổ Thắng, họ Trương, người ở xứ Lục Trạch, thuộc Thâm Châu. Thuở bé, tình cảm Sư đã cạn mỏng, không bao lâu quyết chí tìm đến chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài, tôn thờ Đại sư Siêu Hóa. Ngài Siêu Hóa hỏi rằng:”Ông sao vượt núi đạp thành mà đến xin xuất gia? Ở Nhiêu Dương kia há không có bậc nhân từ triết tượng ư?” Sư đáp rằng: “Nương cỡi ngựa giỏi, có thể mỗi ngày đi ngàn dặm. Con biết cõi tịnh của Đại Thánh Văn-thù cảm chứng giao nhau, giúp kẻ tiểu phàm con chóng thành quả chứng, há có được chăng?” Tăng chúng lắng nghe lời nói đó mà bảo rằng: “Nhậm khí đứa bé nảy mà có khả năng nhận biết cao xa nhu thế, bọn chúng ta đây đều chẳng thể sánh bằng”. Sư nói rằng:”Tôi chẳng thể dùng vàng thay đổi cái chết, mà không nhàm chán. Xin nguyện vào cửa từ mà nghĩ làm lợi ích chúng sanh!”

Đến lúc thọ giới cụ túc, Sư tìm tới phương Nam vào Lộ Phủ giảng thông Kinh Thượng Sanh. Nghe Đại Sư Sùng Pháp truyền giảng Luận Duy Thức đang mở mang hưng thạnh ở Lạc Đô, Sư bèn sang đó theo học. Phàm cả trăm chương sớ, qua mắt liền nhận biết. Chưa đầy một năm tập học đã thông rành tinh chuyên, Sư có giảng “Trung Sơn Trinh Biện Sao Giảng” có nhiều chỗ sai lầm, nhưng Sư xướng lời rằng: “Phồn lược không đồng, giải thích chẳng đáng”. Mới cắt bớt chỗ nhiều, bù đắp chỗ thấy, làm thành bốn quyển, lưu hành ở đời. Thái Tổ Thần Đức Hoàng Đế ban tặng Sư Pháp y sắc tía, tặng Sư hiệu là Tuyên Giáo. Ngày mùng tháng 7 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ (979), Sư hiện bị bịnh mà thị tịch tại viện Tịnh Độ, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi ba hạ lạp. Môn nhân đệ tử thâu nhặt xá-lợi án táng tại gò phía Tây chùa Bảo Ứng núi Long Môn, xây tháp tán dương đức hạnh của Sư.

15. Truyện ngài Sư Luật trụ chùa Khai Bảo ở Đông Kinh, thời Bắc Tống:

Thích Sư Luật, người xứ Mang Dương, họ Giả, là con cháu của Đại Thừa Tướng Ngụy Quốc Công Đam. Trong Đường Thư có truyền: Sư thuở nhỏ đoan nghiêm cẩn trọng, chẳng chơi giỡn với bọn trẻ nhỏ.

Năm mười lăm tuổi, Sư đến chùa Mẫn Trung cạo tóc xuất gia, đảnh lễ thờ ngài Trinh Thiệp làm thầy và được nghiêm túc khuyên răn nên sống chẳng vượt ngoài phép tắc. Ngài Trinh Thiệp thấy làm lạ mà bảo rằng: “Không thể cứ cong mình ở ngôi vị dưới mà đè nén danh tiết của Mình. Đã thành Tỳ-kheo thì hãy bỏ đây mà du phương”. Sư vâng lời chỉ bảo đó mà đi thẳng về phương Nam, thành đạt được Thiền yếu, bèn chống tích trở về quê cũ. Từ thời Hậu Lương, mãi đến thời Hậu Chu (907 – 960), các bậc đế vương trọng thần thảy đều tôn thờ kính ngưỡng đối với Sư.

Sư ở tại Cựu Phong Thiền thuộc núi Di Môn, xây dựng Điện Vũ Thánh Nghi, phong trù bí tạng, cúng tăng dồi dào. Sư ước định khắc tạo Hậu Sanh Biệt Viện, thích hợp chẳng trái với thường kiến. Triều đình đem Pháp y sắc tía và huy hiệu để tán dương công đức, Sư thấy đó vẫn như thường. Một hôm, Sư bảo với đệ tử là Thứ Cơ rằng: “Ta không nguyện chẳng báo quyết linh muốn suy đồi, ông nên biết đó, chớ theo tục tình mà buồn thương ai viếng!”

Ngày 23 tháng Giêng niên hiệu Càn Đức thứ 2 (96), Sư thị tịch, thọ tám mươi mốt tuổi, sáu mươi hai hạ lạp. Đến tháng 3 niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ (980) cải táng tại gò Lăng Nghi thuộc Bắc Bộ, tiến sĩ Giả Thú Liêm làm bài minh cho tháp.

Thử luận bàn:

Đức Phật ra đời kinh dịch lưu truyền, điểm qua trọng là nhân quả, đều đưa về tội Phước, tạo tội thì ở giai vị ba đường phía dưới, làm phước thì ở giai vị của các Thánh phía trên. Giai vị thì đồng mà trên dưới có khác. Ở chương này nói về hưng phước tức là muốn lợi tha. Như cán cân có cao thấp, nhà có sáng tối, vậy thì biết hai sự việc chẳng đồng một lúc, đại loại như có huân, cỏ Du không thể đựng chung trong một cái rổ, vua Nghiêu, vua Thuấn chẳng đồng một nước mà trị vì. Khí phần kẻ phàm phu tuy nói có lắm tội, phẩm vị Thánh giả chỉ nghe phước dày, thuận tánh nên dễ tạo, nghịch lý nên khó tu.

Tu có lắm cửa, hạnh có nhiều đường. Đại khái rộng làm Bố thí Ba-la-mật, để đạt đến vô cực. Ban đầu là phước hạnh của trời người, bố thí thức ăn và cầu thuyền, giếng nghĩa. Tiếp đến là hạ phẩm thiện trong phước hạnh của Luân Vương. Thượng phẩm Thập Thiện là phước hạnh của Phạm Thiên. Trong đó, một là dựng lập thâu-bà (tháp), hai là sửa sang chùa cũ, ba là thỉnh Phật quay bánh xe Pháp. Tiếp đến nữa là phước hạnh thanh tịnh của Nhị thừa, đồng như Tam Phẩm Thiện dừng ở công hạnh tự lợi. Kế nữa là phước hạnh của Cứu Cánh vị, mới thành nhị nghiêm. Trang nghiêm tướng, khéo từ Tam Luân vô ngại mà thấy được thể Không của muôn pháp, được lợi ích rất nhiều tận mé vị lai, phước như thế thật rộng lớn. Mới biết Thánh gtạo phước thì dễ. Vì sao? Vì thuần tịnh nên thế, và Phàm phu thì trái lại, bởi lẽ huân nhiễm nên như thế.

Thế nên, Đức Phật còn tạo phước xỏ kim, biết phước không nên nhàm chán. Ngài Mục-kiền-liên nhúm lửa, Ngài Ca-diếp đạp bùn, Ngài Vô Tận Ý hiến dâng châu báu anh lạc, Ngài Đạp-Bà-La phân chia nằm đồ cho chúng tăng. Đó đều là các bậc Đại Nhân có tạo tác phương tiện của Thánh giả. Muốn nhân tội chẳng chán trừ, phước chẳng chán lấy. Huống gì giáo truyền lãnh ngoại, Pháp lưu bố trung, nguyên năm tháng dài xa hành trì dần mỏng mảnh. Nội chúng tu phước, y cứ vào trì môn kia, bậc tiên triết dứt oan khiên thực hành sám pháp ấy. Phàm tu Lý sám thì nhẹ nghĩ quán tâm. Tâm không chỗ sanh, sanh không chỗ trụ. Trong lúc đang tu, thuận nghịch vô tướng, là chỗ tội diệt phước sanh. Còn nếu thực hành Sự Sám thì nương nhờ vào thắng cảnh, cảnh dẫn tâm tăng trưởng, niệm niệm cùng giúp, nối nhau không đứt quãng. Đảnh lễ thì năm vóc sát đất, hối tội thì bảy tụ tâm đầu. Hoặc kỳ hạn mong thấy điềm lành mà chứng biết, mới thấy tướng tội diệt.

Xưa kia, Tề Thái Tể làm pháp “Tịnh Trú”, vua Lương Võ Đế sám môn sáu căn, Ngài Trừng Chiếu lược thành biểu đề Trú Pháp, Ngài Chân Quán mở rộng tạo Từ Bi Sám. Vào niên hiệu Hội Xương (81 – 87) thời Tiền Đường, Đại Sư Huyền Sướng thỉnh tu thêm Kinh Nhất Vạn Ngũ Thiên Phật Sanh. Vì vậy ở lưỡng Kinh đảnh lễ kinh thì miệng xướng mà cúi đầu đánh một tiếng khánh gọi đó là tiểu lễ. Từ Hòa đến Nam, dân gian chỉ lễ Lương Võ Đế Sám để làm Phật sự. Hoặc vài vị tăng cùng cao tiếng chúc tụng, ca ngâm tán dương thì gọi là Nhương Sám Pháp. Có người ở Giang Biểu hành trì Pháp Thủy Sám, sám hối tội lỗi lạm phí quá độ. Người nầy ngụy tạo, chẳng phải chân pháp. Lại có việc người xưa theo từng chữ mà lạy các Kinh Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, cho là lễ Pháp Tạng Vô Lậu. Do đó mà có hàng bốn chúng ở trước chữ ấy đặt thêm chữ Nam-mô và ở sau chữ ấy lại đặt thêm chữ Phật. Đó thật là tham lạm.

Có người đề xướng rằng: “Chỉ chuyên sanh thiện, chỉ mong diệt tội, sao phán quyết là trái ư?” Thông đáp: “Sau khi phiên dịch, truyền bá về sau, như hằng tinh trên trời, hoặc mới nổi khoối u, mới làm chai bầm. Ông không thấy Xuân Thu Ngũ Hạ ư? Các nhà Trịnh Đỗ há chẳng thể thêm chữ “Nguyệt” sao? Bởi sợ lời của bậc Thánh, thành chẳng bỏ bớt điển, nên chẳng dám thêm chữ. Phu Tử nói rằng: “Tôi còn kịp khuyết văn của Sử”, vậy biết Phật giáo có thể thêm bớt ư? Như Ngài Tuệ Nghiêm dịch lại Kinh Niết-bàn, thêm phần mục lục, bỗng mộng thấy vị thần tức giận quở trách, dáng vẻ nghiêm khắc, bảo rằng: “Niếtbàn tôn Kinh sao dám tự tiện, châm chước như thế?”. Vậy đủ biết “làm phước” chẳng bằng lánh tội, lời đó thật đầy đủ. Nay thì chẳng chuyên cần công khóa, gắng sức sự tăng tu. Nhân sưu tầm vài viên đổ nát, trách hiển Tam Bảo ở Vu An, đến nay có làm đời nào mà không có người.

Hoặc như ở Kinh Triệu khai mở biển hồ, hoặc tại Chung Nam dựng lập Lan Nhã. Chú đúc tôn tượng Đại Bi bằng đồng, tạo già lam của tướng quốc, hoặc chịu thay bịnh để lợi ích người, hoặc hộ sanh mà đào bới đất đai, hoặc đúc chuông mà chiêu cảm điềm lành, xây chùa cao đến tận mây, khắc tượng rất nhiều, sửa đài rộng rãi, vạch bụi cây vấn vít nơi Phạm Vũ của Bình Điền, thoát dạng tháp của vua A-dục, chẻ đá làm Kinh, nhóm của cải lập tạng. Hoặc trị bịnh ở Tỉnh Lạc, hoặc chuyển hóa người ở phu Trù, những người như thế vào nước khác dẫn dắt, hợp với lương môi của hai họ. Trời trăng phục căn chiếu suốt tối tăm nơi sân đình, càn khôn huyền tạc mở đầu mối của Hổn Độn. Sở hành rộng lớn, nối tiếp vận dài. Công Dương Tử có đến nói rằng: “Ấy là hạnh trên đới với dưới!” Có lời thơ rằng:

“Giáo của Ông thế, dân đều nghiệm xét,
Nguyện tôi luống trông lên mà học đó,
Khiến nhân từ Thánh tượng không đổ ngã xuống đất!”