TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 24

 

CHƯƠNG TÁM: ĐỌC TỤNG

TRONG PHẦN 1 CỦA CHƯƠNG VIII

(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có ba vị).

1. Truyện ngài Hạnh Kiên, đời Tùy:

Thích Hạnh Kiên, chẳng biết Sư là người xứ nào. Thường tu Thiền Quán, tiết tháo rất trang nghiêm. Tình cờ có việc đi đến phương Đông, trên đường ra Thái Sơn, mặt trời đã tối, Sư vào Nhạc miếu, xin ngủ ngờ qua đêm. Người giữ miếu nói: “Đây không có nhà riêng, chỉ có mái hiên dưới miếu thần có thể nghỉ được, nhưng những người đếnh đây dừng nghỉ qua đêm, đều mắc phải tai ương bạo tử. Sư nên tính liệu”. Sư bảo: “Không sao!” Người giữ miếu bất đắc dĩ phải thuận theo, và đem chiếu cỏ trải dưới mái hiên. Sư ngồi trang nghiêm tụng đọc kinh pháp, vào canh một nghe trong phòng ốc có tiếng vòng ngọc leng keng, chỉ chốc lát, vị thần đi ra, áo mão rực rỡ, bộ tùng trang nghiêm, chắp tay hướng về chỗ Sư. Sư hỏi: “Nghe nói những người nghỉ qua đêm ở đây phần nhiều bị chết, có phải do Đàn Việt hại họ chăng?” Thần đáp: “Người đặc biệt đến đây, nghe tiếng đệ tử mà tự chết, chẳng phải do đệ tử giết hại. Xin Sư chớ lo ngại!” Sư cố mời vị thần cùng ngồi nói chuyện, chỉ trong khoảng bửa ăn, nhân đó Sư hỏi Thần rằng:”Ở đời truyền là Thái Sơn trị quỷ, có thật như thế chăng?” Thần đáp: “Đệ tử phước mỏng, đâu muốn thấy người chết!” Sư hỏi: “Tôi có hai vị tăng là bạn đồng học đã chết, xin được trông thấy họ”. Thần hỏi tên hai vị đó rồi đáp: “Một người đã sanh lên nhân gian, còn một người hiện thọ báo trong địa ngục, không thể gọi đến được, Sư đến đó thì sẽ thấy”. Sư nghe thế rất mừng, nhân đứng dậy đi ra, chẳng xa bèn đến một xứ nọ, thấy lửa trong ngục sáng rực cháy dữ. Có sứ giả dẫn Sư vào trong tường viện, xa thấy có một người đang ở trong lửa, kêu gào chẳng nói năng được, hình sắc biến đổi không còn nhận biết, máu thịt cháy hôi tanh, khiến người phải thương tâm. Sư chẳng nỡ trông nhìn, quá thương xót mà cầu xin lui ra, chỉ chốc lát tại ở dưới mái hiên nơi miếu, lại cùng ngồi với vị thần như cũ. Sư hỏi rằng: “Tôi muốn cứu bạn đồng học, vậy phải làm cách nào?” Thần đáp: “Hãy vì họ mà viết chép Kinh Pháp Hoa, ắt sẽ được khỏi”. Thế rồi tròi sắp sáng, thần từ giã Sư vào lại trong phòng nhà. Đến lúc trời sáng hẳn, người giữ miếu trông thấy Sư không chết lấy làm kinh dị. Sư đi gấp báo nguyện trước. Kinh viết được trang nghiêm hoàn chỉnh, Sư liền mang đến nơi miếu trong đêm, Thần lại xuất hiện như trước, mừng vui lễ lạy hỏi thăm về ý Sư trở lại, Sư trình bày việc ấy, Thần nói: “Đệ tử biết thầy chép kinh cho mình, vừa viết đề mục, thì người ấy đã thoát khỏi, hiện giờ đã sanh lên nhân gian. Và ở đây không được tịnh khiết không nên tôn trí kinh pháp, xin sư thỉnh đưa về lại trong chùa”. Nói xong trời vừa sáng, Thần cùng Sư từ biệt nhau mà đi. Lúc đó là khoảng niên hiệu Đại Nghiệp (60 – 617). Sư đi ở không nhất định, chẳng biết về sau Sư tịch ở đâu.

2. Truyện ngài Pháp Trí ở núi Thiên Thai đời Tùy:

Thích Pháp Trí, không rõ Sư là người xứ nào. Từ thuở bé, Sư thoát lìa thế tục rồi ứng pháp, thăng đàn, như cây thẳng mọc thẳng vượt giữa hư không, ngọc cứng bặt vết ô uế. Phàm cả trăm nơi giảng tịch thảy đều đến nghe. Lúc về già, Sư cho rằng các pháp môn thẳng tắt, không gì bằng niệm Phật. Sư từng vì mọi người mà nói rằng: “Tôi nghe trong kinh nói: Phạm một tội Đột-kiết-la phải đọa vào địa ngục trong một trung kiếp”. Điều ấy đáng tin. Lại cũng nghe trong kinh nói: “Một tiếng xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà thì diệt trừ được trọng tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử. Điều đó không đáng tin”. Có người hỏi vặn rằng: “Cớ sao sanh đại tà kiến như thế? Tất cả đều là lời Phật dạy, phải gấp niệm Phật, lâu sau thì tam-muội sẽ hiện tiền”. Sư bèn đến Đài Đâu-suất ở chùa Quốc Thanh, suốt ngày đêm tinh tấn niệm Phật. Bỗng nhiên từ biệt với kẻ tăng người tục rằng: “Tôi sanh về phương Tây! Xin tất cả thân thức vì tôi mà thiết trai cúng dường trọn ngày!” Vào nửa đêm cùng ngày đó, Sư không bịnh mà thị tịch, khi đó, có ánh sáng mầu vàng ròng soi chiếu đến đón rước, suốt cả mấy trăm dặm, thuyền trên sông đều cho là trời sáng nhưng rất lâu sau mới sáng. Do đó mà biết đó là điềm Sư vãng sanh.

3. Truyện ngài Tuệ Ngộ trụ chùa Thiền Định ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Ngộ, chẳng biết Sư là người thuộc dòng tộc nào. Sư ẩn cư trong núi Thái Bạch, trì tụng Kinh Hoa Nghiêm, uống bột cây thông. Bỗng một lúc nọ thấy một cư sĩ đến thưa rằng: “Xin thỉnh Sư cử thân bay lên giữa hư không!” Rồi bảo Sư vào trong vạt áo ngồi nhiếp để bay đến một đạo tràng, thấy có năm trăm vị tăng lạ vầng liệng giữa hư không mà đến. Sư vội bước đến hàng cuối. Vị cư sĩ ấy nói với Sư rằng: “Sư thọ trì Kinh Hoa Nghiêm là cảnh giới của các Đức Phật, đâu được ngồi ở hạ tòa của Tiểu Thánh?” Bèn dẫn Sư đến trước nửa ngàn người mà ngồi. Sau khi trai hội hoàn tất, cư sĩ ấy lại nói với Sư: “Bổn ý thiết trai này là chỉ tại một mình sư, tuy có năm trăm vị La-hán cùng đến thọ thực, nhưng đều gặp lúc cùng thỉnh!” Xong rồi bèn thỉnh Sư về chỗ cũ. Điều đó xảy ra như mộng tỉnh. Lúc đó nhằm niên hiệu Vĩnh Huy (60 – 66) đời vua Cao Tông.

4. Truyện ngài Minh Tuệ trụ chùa Đại Từ Ân ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:

Thích Minh Tuệ, không rõ Sư là người xứ nào, trầm tĩnh khiêm cung, chí khí trong sáng, không ngại gì đói lạnh, phát thệ cầu Đại thừa, mặc giáp tinh tấn, nghiêm giữ tự thân, khiến ma ngủ nghỉ phải lùi bước. Cho nên, đầu hôm, nửa đêm, cũng như gần sáng luôn tụng niệm kinh hành.

Bấy giờ, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang đang ở cung Ngọc Hoa thuộc phường bộ phía Bắc Kinh Triệu, dịch Kinh Đại Bát-nhã vừa hoàn tất. Vào niên hiệu Lân Đức thứ nhất (66) thì Ngài Huyền Trang viên tịch. Giờ Tý đêm đó Sư đang đi nhiễu tại Phật đường, bỗng thấy ở phía Bắc có bốn vầng cầu vồng mầu trắng từ Bắc suốt đến Nam, rộng gác qua phía đông thẳng đến soi suốt tháp viện ở chùa Từ Ân, thảy đều rõ ràng sáng tỏ. Trong tâm Sư lấy làm quái lạ, liền tự suy nghĩ rằng: “Xưa kia lúc đức Như Lai diệt độ, có mười hai vầng cầu vồng mầu trằng từ phía Tây xuyên suốt tới Thái Vi, khi ấy có sự diệt độ của Như Lai tại Song Lâm. Nay có hiện tướng này, há chẳng là Pháp sư ở cung Ngọc Hoa có sự vô thường ư!” Đến sáng sớm Sư vào giữa chúng kể lại những điều trông thấy, đại chúng đều lấy làm lạ. Chín ngày sau, hung tin loan truyền đến xứ Kinh Triệu, thật phù hợp với điều Sư thấy. Sư càng dốc lòng siêng tu cho đến già vẫn không biếng trễ, không biết về sau Sư tịch ở đâu.

5. Truyện ngài Tuệ Cảnh trụ chùa Sùng Phước ở phủ Thái Nguyên thời Tiền Đường:

Thích Tuệ Cảnh, họ Trương, người ở xứ Kỳ. Thuở nhỏ Sư rất thông minh dĩnh ngộ, trong lúc còn ấp tả Sư đã biết nói. Cha mẹ của Sư rất mến thương nuôi dưỡng. Bà con gần gũi gọi Sư là kỳ đồng. Gặp trong Kinh Đại Vân bổn tân dịch có đoạn văn huyền ký về nữ chúa. Thiên Hậu (tức Võ Tắc Thiên) cảm lời Thánh dự ghi đó nên rất trọng kinh ấy. Sư vừa mới ba tuổi mà có dạy tụng thuộc kinh ấy. Sư đọc đi đọc lại, điều hòa thiên nhiên, bèn thấu triệt đến cửu trùng, mới ban chiếu bảo Sư phúng tụng. Vua rất vui mừng xoa đảnh đầu Sư và ban cho một bộ pháp phục ca-sa sắc tía.

Sau, nhân xuất gia, Sư có khí mạo cương giới, sở học rất vững chắc, được sung làm Thượng tọ nơi bổn tự, Sư chỉnh đốn giềng mối đang bị suy đồi, mọi người đều kính sợ. Hoặc ở giữa đường thông thương gặp hai chúng có cử chỉ mất oai nghi thì Sư vời đến quở trách, xấu xa lắm mới bàn bạc răn trừng, xử đoán không khoan dung. Sau, Sư tu Thiền Pháp, rỗng suốt thanh bạch. Lúc Sư thị tịch là đã hơn tám mươi tuổi. Tại Viện Cửu Tử Mẫu có di ảnh và y phục sắc tía được vua ban tặng hiện còn.

6. Truyện ngài Sùng Chính trụ chùa Sùng Phước ở Phủ Thái Nguyên, thòi Tiền Đường:

Thích Sùng Chính, họ Hầu, là người trong bổn phủ. Thuở nhỏ Sư rất mẫn đạt, cố nguyện xin xuất gia. Sư tụng kinh thông rành hơn cả ngàn trang. Được các bậc lão túc ngợi khen, gọi Sư là Kinh tạng. Sư có thần khí trầm ước, nghi dung đạo mạo, mày đẹp mắt lớn, chỉ trội cao kỳ. Tuy thông rành các sách, song, chỗ chuyên tinh của Sư là Luận Câuxá. Tướng Quốc Vương Công Tấn đích thân đến thỉnh Sư tuyên giảng. Bấy giờ, tụ hội đàm đạo phát sanh tốt đẹp, lời nói trôi chảy, khiến giúp người nghe không nhàm chán, tuy dời đổi quá mốc mà cho như là trong khoảng bửa ăn. Sư phân tích phán định rất giỏi, không được hình tợ.

Vua Đại Tông ban sắc chiếu nên cử Sư sung chức Đại Đức ở chùa Chương Tín, Sư cáo bịnh chẳng đến. Sau, Sư tịch tại bổn viện, thọ năm mươi tám tuổi.

7. Truyện ngài Tư Duệ trụ chùa Sùng Phước ở phủ Thái Nguyên thời Tiền Đường:

Thích Tư Duệ, họ Vương, người ở xứ Thái Nguyên. Sớm thông Thiền lý, lại thấu suốt luật tông. Ngài từ bi nhân nhượng, nếu có kẻ trái nghịch, thì Sư chẳng tỏ vẻ phiền giận. Sư vốn mắc bịnh suy gầy ốm yếu, bèn lập chỉ Pháp diên, chuyên cầu Bồ-tát Dược Thượng, kính cẩn chuyên cần chẳng biếng trễ, bèn thấy được điềm cảm ứng, bỗng nhiên tâm lực mạnh mẽ, tài biện như rót bình. Nhân tụng Kinh Thập Luân, một ngày thấu suốt vài trang, ngày hôm sau lại gấp bội, sau nữa lại càng gấp bội. Từ đó trí nhận của Sư không ai có thể sánh bằng.

Vào niên hiệu Khai Nguyên (713 – 72), Sư chống tích đến khắp Tung Thiếu hỏi Đạo. Bấy giờ, Sư đến chốn thiền lâm đông đúc của thiền sư Nghĩa Phước, Sư đến thưa hỏi tham vấn, một lời cùng nhập, như đá chọi nước. Thế rồi, tợ như uống cam lồ, suốt năm năm Sư mới trở lại. Sư ngồi kiết già an định suốt ngày chẳng xả thiền, xa gần mọi người đến thưa hỏi Sư về huyền lý, rất đông. Năm sáu mươi sáu tuổi, Sư thị tịch tại viện Sư ở.

Liên hệ thử bàn:

Tụng kinh chẳng quý ở nhiều, mà chính yếu là ở thần giải. Sư Tuệ Cảnh mới ba tuổi mà thông Kinh Đại Vân, rất là tài giỏi. Ngài Sùng Chính trọn thông ngàn trang, có được năng lực, chẳng vâng chiếu đến chùa Chương Tín. Ngài Tư Duệ tụng suốt Kinh Thập Luân, sau hỏi về Thiền Đạo. Nên trong kinh có bài kệ rằng:

“Tuy tụng ngàn chương chẳng bằng người thấu suốt một câu.
Như người bơi lội qua khe suối, đến bờ thì roi trượng đều bỏ”.

8. Truyện ngài Thích Pháp Lãng trụ chùa Thanh Long ở Thượng Đô thời Tiền Đường:

Thích Pháp Lãng, người ở xứ Cô Tô, bẩm chất ôn nhuận, tâm ý vững chắc. Sư trì tụng Quán Âm Minh Chú, thần hiệu thường hiển bày. Khắp kinh đều thấy sáng, mọi người đều kính trọng.

Niên hiệu Long Sóc thứ 2 (662), Công chúa Thành Dương bị bịnh rất nặng, thuốc men chữa trị khắp nơi đầu mang đến. Công chúa là em gái cùng một mẹ với vua Cao Tông, tình thương rất nồng hậu, ban đổ như Hối Tử Hà. Hà chết lại hành tiết quán, đã đến lúc cơn bịnh triền miên khốn đốn, có người mách bảo rằng: “Ngài Pháp Lãng hành trì bí chú, trị bịnh lành rất nhiều”. Đến lúc vời Sư đến tới, thiết đàn trì tụng chỉ qua vài ngày đã được bình an. Công chúa tấu xin đổi biển hiệu chùa là “Chùa Quán Âm” để Sư trụ ở đó. Chùa ấy vốn tên là chùa Linh Cảm được thiết lập từ niên hiệu Khai Hoàng thứ 3 (83) đời Tùy. Lúc vua Văn Đế (81 – 60) đời Tề dời đô phần nhiều đào bới lăng viên phần mộ ở trong thành ra an táng chốn hoang vắng ở vùng ngoại ô nên ở chùa nầy. Đến niên hiệu Võ Đức thứ (621) thời Tiền Đường, chùa bị hoang phế đổ nát. Tới nay đề lại biển ngạch. Về sau, Sư thị tịch tại chùa đó.

9. Truyện ngài Tăng Huyễn ở Hà Đông đời Đường:

Thích Tăng Huyễn, người ở xứ Tinh Châu. Vốn học gồm thông, giải hạnh cùng có. Năm chín mươi sáu tuổi, gặp được Thiền Sư Đạo Xước soạn “An Lạc Tập” giảng về Quán Kinh, mới hồi tâm niệm Phật. Sư lo sợ tuổi thọ sắp hết nên ngày đêm lễ Phật một ngàn lạy, niệm hồng danh Phật A-di-đà tám trăm ngàn biến. Suốt thời gian năm năm, Sư nhất tâm không biếng trễ. Sư bảo với đệ tử rằng: “Phật A-di-đà đến trao cho tôi hương y, các vị Bồ-tát Quán thế Âm, Thế Chí bày hàng ở trước, các vị hóa Phật khắp đầy giữa hư không. Từ đây trở về phương Tây thuần là Tịnh Độ”. Nói xong, Sư liền thị tịch.

Lúc bấy giờ, có hai Pháp Sư là Khải Phương và Viên Quả cùng ở chùa Ngộ Chân tại huyện Lam Điền, trong một mùa Hạ kết bạn cùng xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà, cùng bẻ một cành dương liễu đến cắm trong tay tôn tượng Đức Quán Thế Âm mà phát lời thệ nguyện rằng: “Nếu được sanh về cõi nước Phật, nguyện bảy ngày sau cành dương liễu không héo rũ”. Đến kỳ hạn, thật vẫn tươi đẹp. Lại mộng thấy trong một cái ao ở phía Đông có màn trướng báu lớn, bèn bay vào trong đó. Gặp được một vị tăng bảo rằng: “Chỉ chuyên niệm Phật đều sanh vào đó”. Lại thấy Bồ-tát Quán Thế Âm ngồi duỗi chân, Ngài Khải Phương bèn nâng chân đội trên đảnh đầu. Thấy một ao hoa sen, có đức Phật A-di-đà từ phương Tây đến, Ngài (Khải Phương) thưa hỏi Đức Phật rằng: “Chúng sanh ở cõi Diêm-phù nương theo kinh giáo niệm Phật, được sanh về đó chăng?” Đúc Phật dạy: “Chớ nghi ngờ, chắc chắn sẽ sanh về cõi nước của ta!”. Thả thấy được thế giới Cực Lạc bằng phẳng như gương, thế giới Ta-bà thuần là núi sông. Âm nhạc, trướng báu thẳng hướng Tây mà đi. Có một vị tăng tên là Pháp Tạng ngồi trên xe lớn đến đón rước. Ngài Khải Phương thấy tự thân mình ngồi trên hoa sen trăm báu, thành Đẳng Chánh Giác. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi khen ngợi Kinh Pháp Hoa. Lại thấy có ba đường thềm cấp báu thẳng đến hướng Tây. Trên thềm cấp dường thứ nhất toàn là người tại gia, trên thềm cấp đường thứ 2, có người xuất gia, tại gia lẫn lộn cùng đi, và trên thềm cấp đường thứ 3 chỉ có chư tăng, bảo đó đều là những người niệm Phật được vãng sanh. Hai Pháp Sư Khải Phương và Viên Quả đều nói chính mình thấy như thế.

10. Truyện ngài Huyền Trang trụ chùa Bạch Mã ở Kinh Châu, Thời Tiền Đường:

Thích Huyền Trang, người ở xứ Giang Lăng. Học thông giáo điển Đại Tiểu thừa, rất giỏi kinh Pháp Hoa, riêng là mạng gia. Trong năm mươi năm, mỗi ngày trì tụng bảy biến. Thường nhân nơi tịnh thất đốt hương, cảm trời người đến lắng nghe. Những lúc trai giảng hiện bày điềm lành rất nhiều. Sư và ngài Đạo Tuấn đều được mời đến kinh đô hai năm.

Ngày mùng 8 tháng 2 niên hiệu Cảnh Long thứ 3 (709), vua Trung Tông đến tại điện Lâm Quang để giải trai hội. Khi đó các học sĩ đồng quán nhóm họp rất đông. Sư, v.v… cáo từ xin trở về quê cũ, nhà vua ban sắc tặng Sư ngự thi. Các học sĩ đại liêu vâng sắc cùng hòa. Trung thư lệnh Lý Kiêu có bài thơ tặng Sư rằng:

“Ba thừa quy cõi tịnh
Muôn thặng tiễn Thông Trang
Đến ngày lìa đình gần
Trời cao biệt đường xa
Kinh Nam quảy gậy bát
Vị Bắc hạn cầu bờ
Ngày nào tích chân quả
Trở lại vào đế hương”.

Trung Thư Xá Nhân Lý Xoa lại có thơ tặng Sư rằng:

“Ngày đầu vâng quy chỉ
Gió thu thổi tặng lời
Hán Châu lưu đạo vị
Ngọc Giang về nguồn chân
Đất bày ải Nam xa
Trời xoay Bắc Đẩu quý
Thà biết một trụ quán
Bỏ mở cửa Tứ thiền”.

Lại còn có thơ văn của Chủ Công đưa tiễn Sư. Ở đây chẳng ghi chép hết. Sau, Sư thị tịch tại bổn tự.

11. Truyện ngài Thích Hồng Chánh trụ Lan-nhã ở huyện Linh Trì, phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Hồng Chánh, họ Thường, không biết Sư là người ở xứ nào. Sư trụ trong một Lan-nhã thuộc vùng Mân Thục. Trước kia, Sư bị bịnh khốn khổ triền miên, đến lúc bình phục, Sư phát thệ nguyện thường trì tụng Kinh Kim Cương Bát-nhã, lấy chuẩn mực mỗi ngày hai mươi biến. Sư tinh tấn hành trì chẳng bỏ phế. Bấy giờ, có vị tăng ở gần là Ngài Thủ Hiền, ban đêm tĩnh tọa thấy hai quỷ sứ, tay rút văn điệp riêng cùng nói với Ngài rằng: “Sư Hồng Chánh mặc niệm Bát-nhã, bên cạnh có Đại Kỳ mang vác che chở, không cách gì đến gần được. Lại lo trách hạn lâu dài chậm trễ. Nay riêng có được một kế là thẳng cửa phía Đông của phủ có một người họ Thường, lại đồng tên là Hồng Chánh mà lại là đã từng xuất gia làm tăng., tra hỏi đó mà bắt đi để lắp kín trái điện”. Ngài Thủ Hiền nghe thế lấy làm kinh lạ, ghi nhớ việc ấy, sáng hôm sau, thầm hỏi người ở phía Đông, quả nhiên Thường Hồng Chánh đã chết.

Ngài Thủ Hiền trước kia vốn hành trì Kinh A-di-đà, sau đổi nghiệp. Còn Ngài (Hồng Chánh) về sau không biết tịch ở đâu.

Liên hệ thử bàn:

Làm sao có việc đồng tên thật ra khác người mà lại có thể chết thay như vậy? Nghiệp chẳng thể dời đổi, sao đây lại dời đổi được như vậy? Cùng như đồng cốt ở đời vẽ hình giống như mình, nói có thể dùng để thay suy ách, cũng giống như vậy? Thông đáp: vua Diêm-Ma hoặc la Bồ-tát lấy người thiện đồng tên thì xả, người bất thiện thì bắt lấy. Đây có lẽ là tội sương đợi khô, Ngài Hồng Chánh thêm tuổi thọ, nên được xả. Lại như người kia ác khí mới đầy lại sẽ có kỳ hạn chung cùng, nên bắt lấy đó. Nếu vì thay đổi thật mà bắt lấy thì đó là thực hành giáo hóa. Ngoài việc xả đó thì thường lý chẳng thể biết được.

12. Truyện Sa-môn Chí Huyền thời Tiền Đường:

Thích Chỉ Huyền, người ở xứ Hà Sóc, hành trì Ngũ Thiên Cấm Chú, thân mặc áo vải gai, thường đi khắp các Châu Ấp, chẳng ở nơi thành thị chùa chiền, đêm lại chỉ ngủ ở chốn hoang vắng rừng thưa. Sư có ý chí muốn tìm phỏng các danh tích.

Đến Giáng Châu, ban đêm Sư ghé nghỉ trong rừng mộ. Đêm đó dưới ánh trăng sáng như ban ngày, Sư thấy một con cáo từ dưới rừng đem cái đầu lâu đạt lên đầu nó, động đậy mà rơi thì chẳng ngó lại, không rớt thì đội. Nó lại lấy lá khoai môn che phủ lên thân mình, xum xoe biến thành một cô gái yêu kiều, toàn thân mặc lụa trắng đứng bên trái đường di. Nghe có tiếng yên ngựa đi từ phía Đông Bắc, người phụ nữ gào khóc buồn thương chẳng tự kềm chế được. Giây lát sau có gã cưỡi ngựa đi đến, thấy vậy, bèn xuống ngựa hỏi rằng: “Cô nương! Chốn hoang vắng giữa đêm khuya sao cô gào khóc như thế ư?” Người phụ nữ ấy liền gạt lệ lừa dối bảo rằng: “Nhà của tiện thiếp ở Dịch Thủy, năm trước che mẹ gả thiếp làm vợ người nhà họ Trương ở xứ này, không may chồng thiếp năm qua đã chết yểu, gia nghiệp tiêu tan, không nơi nương tựa chu cấp. Cha mẹ của thiếp đâu biết thiếp lẻ loi khổ sở như vầy! Có một nỗi đau đớn cắt xé ruột gan như thế này, bất chợt buồn tủi mà khóc. Thiếp nghĩ biết về đâu, có được hay chăng? Sao anh lấy làm lạ mà hỏi như thế?” Gã cưỡi ngựa bảo: “Nghĩa là cô nương buồn oán việc riêng, nếu muốn trở về quê hương. Tôi đây quân hành dịch định, sẽ sai sứ trở lại đưa cô nương về Dịch Thủy. Cô nương hãy đi bằng xe thô đó!” Cô gái ấy bèn gạt lệ cảm tạ, vừa định vin đạp đi thì Sư từ trong rừng mộ bước ra bảo: “Nầy người quân tử! Cô gái này chẳng phải là người thật mà chính là loài cáo hóa ra”. Gã cưỡi ngựa nói: “Nhà tu há lấy tướng nầy mà vu cáo, định có mưu đồ gì ư?” Sư bảo: “Nếu anh không tin xin hãy dừng chốc lát, tôi sẽ biến cô gái ấy trở lại nguyên hình cho anh xem”. Sư bèn dộng tích trượng, tụng vài tiếng bằng Hồ Ngữ, cô gái ấy liền hiện trở lại nguyên hình con cáo mà bỏ chạy, và đầu lâu không che lấp thân. Gã cưỡi ngựa cúi đầu sám hối lỗi thưa rằng: “Nếu chẳng được Sư cứu mạng, sẽ theo yêu quái mà chết rồi!”

Sư hành từ cứu vớt chúng sanh phần nhiều đều thuộc loại như vậy.

13. Truyện ngài Nguyên Kiểu trụ chùa Khai Nguyên ở phủ Phụng Tướng, thời Tiền Đường:

Thích Nguyên Kiểu, người xứ Linh Võ, có chí tháo, không thích ở chung với chúng, lấy việc trì minh làm việc chính của mình.

Vào cuối niên hiệu Thiên Bảo (76) vua Huyền Tông đi đến đất Thục. Túc Hoàng ở Linh Võ huấn luyện binh lính muốn chiếm đánh lấy Kinh đô. Vì vật bàn luận là đồng, bèn mời cha (Túc Tông) lên ngôi, đổi niên hiệu là Chí Đức. Đến niên hiệu Chí Đức năm thứ 2 (77) trở xe chỉ thẳng đến Phù Phong. Nhà vua vốn nương tựa Phật giáo, chọn người thanh bạch, kính chuộng chư tăng làm đầu, để cầu phúc. Suy cử từ vùng đất Bắc cho đến sông Tây, Sư ứng trong kỳ chọn lựa ấy, được mời vào nhận sắc chỉ, theo giá trượng nội vào kinh. Sau đó, vua ban sắc cho Sư hướng về phía trước đến Phụng Tường, tại chùa Khai Nguyên thiết đặt “Ngự Dược Sư Đạo Tràng”, lại chọn hai mươi mốt vị tăng, mỗi ngày sáu thời hành Đạo, đốt hương đèn, tán tụng Kinh Pháp, không dám nói mỏi mệt. Tinh khiết có thể lường biết. Bỗng nhiên trong Pháp Hội mọc một lùm cây lý có bốn mươi chín gốc. Bèn nêu đủ sự việc mà tấu trình. Triều đình tuyên bảo nội sứ xem xét hư thật. Vua rất kinh ngạc vui mừng bảo rằng: “Đây là điềm lành lớn!” Ngày 18 tháng , chư tăng xem xét “Dược Sư Đạo Tràng” tụng niệm như Sư, v.v… dâng biểu văn chúc mừng. Vua Túc Tông ban sắc đáp rằng: “Tướng cây lý tốt tươi ấy là điềm lành thạnh vượng của nước nhà, phát sanh từ trong chốn giàlam. Vậy đủ biết sự hưng thạnh của cây Tuệ giác, cảm điềm lành đặc biệt này, trẫm cùng các sư đồng chúc mừng!”

Sư trì tụng có công năng thông cảm phần nhiều giống như thế. Nhà vua càng thỉnh thêm các vị nội cung phụng.

14. Truyện ngài Sở Kim trụ Chùa Thiên Phước ở Kinh Đô thời Tiền Đường:

Thích sở Kim, là con nhà họ Trình, vốn ở quận Quảng Bình, nay là xứ Chu Ốc thuộc Kinh Triệu. Mẹ của Sư họ Cao, ban đêm nằm mộng thấy các Đức Phật, nhân đó mang thai Sư. Đến lúc sanh ra Sư thật là con đấng Pháp Vương. Hạnh tố dáng ngọc, thần hòa khí thanh.

Năm bảy tuổi, Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa, đến năm mười tám tuổi Sư thông suốt yếu nghĩa. Năm ba mươi tuổi, Sư xây dựng ngôi tháp đề hiệu là “Đa Bảo”. Năm bốn mươi tuổi, Sư vào mộng của vua ở Cửu Trùng, vua Huyền Tông thấy Pháp danh Sư chữ dưới là chũ Kim, bèn hỏi vặn các Sứ trong triều, ai cũng kính tin. Khi đó tiếng tăm Sư vang khắp chốn kinh kỳ, bèn mộ người xây tháp nhiều cấp mà thành. Có người giúp tay. Sư từng ở chỗ ngài Thúy Vi Ngộ Chân, vỗ vào chân mà bảo rằng: “Đây là chỗ tôi ẩn trốn”. Bèn tấu trình xin ở hai chùa mỗi nơi xây dựng một ngôi tháp và đều lấy tên là”Đa Bảo”. Ngoài ra, Sư ngâm vịnh Diệu Kinh hơn sáu ngàn biến, dưới cây báu phảng phất thấy phân thân. Trong Linh Sơn nương Hy Dịch đến ba biến. Tâm không sở đắc, lưỡi tuôn cam lộ. Chim điềm lành lầu vàng ngọc ở trong tay, nhạc trời thanh lãnh tấu giữa hư không. Tất cả các điềm lành tốt đẹp đều có ở đó. Sư bèn nói rằng: “Pháp giá của Pháp tượng vương trở về thần quyền của người chủ. Nương ánh sáng ba lần vào dương pháp sáu cung. Hậu phi quỳ thẳng nơi chiếu ngụ, hoa trời phân rải mà chẳng dính mắc. Minh Hoàng đề biển ngạc, vua Túc Tông tặng phướn, đâu chỉ vinh quang một thời, mà cũng ngõ hầu đối với Phật pháp”.

Đến giờ Tý ngày mùng 7 tháng 7 niên hiệu Càn Nguyên thứ 2 (79), Sư nằm nghiêng phía hữu mà thị tịch. Đến lúc trà-tỳ củi hết lửa tắt, dáng tuyết vẫn như lúc sống. Rõ ràng chứng được thượng sanh nơi nước An Dưỡng. Sư thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy hạ lạp.

Vua Túc Tông mến thương kính trọng Sư, Sứ Quan Trung đến

viếng điếu, vua ban sắc cho Quang Huy cưỡi ngựa chạy nhanh đến giám hộ, tức dùng theo Pháp an táng vào tháp Pháp Hoa Lan-nhã, ở gò Long Thủ, thuộc phía Tây thành. Thuở nhỏ Sư viết chép kinh Pháp Hoa, chẳng mặc áo thêu thùa, gặp lúc giá lạnh chỉ thêm áo nạp ngải cứu mà thôi. Nên các đệ tử Tuệ Không, Pháp Ngạn, Hạo Nhiên đều là voi con theo voi chúa. Sa-môn Phi Tích ở chùa Thảo Đường núi Tử Các soạn văn bia, Ngô Thông Vi khắc ghi. Đến ngày 13 tháng niên hiệu Trinh Nguyên thứ 13 (797) Tả Nhai Công Đức Sứ Khai Phủ Ban Quốc Công Đậu Văn Trường trình tấu: “Tiên Sư Sở Kim ở chùa Thiên Phước là Hòa-thượng của hạ thần. Đầu niên hiệu Thiên Bảo (72), vì nước nhà mà xây tháp Đa Bảo, thiết đặt đạo tràng Pháp Hoa, mãi đến nay đã hơn sáu mươi năm, chư tăng mỗi ngày sáu thời lễ bái tụng niệm Kinh Pháp không hề dứt tiếng. Đã trải qua bốn triều vua (Huyền Tông, Túc Tông, Đại Tông, Đức Tông) mà chưa đội ân biểu dương công đức”. Vua Đức Tông bèn ban sắc truy phong Sư thụy hiệu là “Đại Viên Thiền Sư”.

15. Truyện ngài Hoài Ngọc trụ chùa Dõng Tuyền ở Đài Châu thời Tiền Đường:

Thích Hoài Ngọc, họ Cao, người ở xứ Đan Khâu. Sư nghiêm trì luật pháp, danh tiết tiêu nhiên. Ngày ăn một bữa và thường ngồi, mặc tình cho thấy rận sản sanh, chỉ mặc một áo vải bố, hành trì pháp sám hối. Thời khóa mỗi ngày xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà đến năm muôn biến, tụng thuộc kinh A-di-đà ba mươi muôn biến.

Đến ngày mùng 9 tháng 6 niên hiệu Thiên Bảo thứ nhất (72), bỗng nhiên Sư thấy Thánh tượng Tây Phương đông nhiều như số cát sông Hằng, có một vị nâng cao đài bạc từ cửa sổ đi vào. Sư nói: “Tôi xin được đài vàng, đài bạc xin từ chối”. Sư càng chí thành hơn. Sau, nghe giữa hư không có tiếng bảo rằng: “Trên đầu đã có ánh sáng. Xin hãy ngồi kiết già, kết ấn Phật Di-đà”. Khi dó ánh sáng đức Phật soi khắp phòng nhà. Sư đưa tay ngăn người rằng: “Chớ đụng đến ánh sáng ấy!” Đến giờ Sửu ngày 13, lại có sánh sáng của sợi lông trắng xuất hiện, Thánh chúng rất đông giữa hư không. Sư nói: “Nếu nghe có mùi hương lạ tức báo thân của tôi đã hết!” Đệ tử là Tuệ Mạng hỏi Sư: “nay thầy sanh về cõi nào?” Sư bèn dùng kệ đáp rằng:

“Thanh tịnh sáng sạch không bụi nhơ
Hoa sen hóa sanh là cha mẹ
Ta tu Đạo đến nay mười kiếp
Hiện bày Diêm-phù chán các khổ
Một đời khổ hạnh vượt mười kiếp
Xa lìa Ta-bà về Tịnh Độ”.

Sư nói kệ rồi, nghe có mùi hương xông ngát giữa hư không. Cả đại chúng đều thấy được Đức Phật A-di-đà, các vị Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thân mầu vàng tía cùng ngồi đài Kim Cương đến đón rước.

Sư mỉm cười mà thị tịch. Nhục thân nay hiện còn.

Sau có người khen ngợi rằng:

“Thầy ta nhất niệm lên sơ địa
Sênh ca nước Phật hai lần đến
Chỉ có cây hòe xưa trước cửa
Cành thấp chỉ để treo đài vàng”.

Có thuyết cho rằng đó là thơ của Thứ Sử Đài châu là Đoàn Hoài Nhiên.

16. Truyện ngài Đại Hạnh ở Thái Nhạc thuộc Duyện Châu, thời Tiền Đường:

Thích Đại Hạnh, người ở Tề Châu, sau vào Thái Sơn bệnh cỏ làm áo mặc, hái lá cây mà ăn, hành trì Pháp Hoa Tam-muội, chiêu cảm Bồ-tát Phổ Hiền hiện thân. Sư tự than rằng: “Mạng sống vốn vô thường đều trở về ma diệt, chẳng biết đời sau sẽ thọ sanh về nơi nào!” Bèn vào trong tạng tiện tay rút lấy quyển kinh, bèn rút được quyển Tây Phương Thánh Giáo, bèn chuyên tâm nhớ nghĩ xưng niệm hồng danh Phật Adi-đà suốt hai mươi mốt ngày. Đến nửa đêm, bỗng thấy đất biến thành chất lưu ly, mắt tâm rỗng sáng, thấy được các Đức Phật ở mười phương giống như ảnh tượng soi rõ trong gương. Về sau, nhà vua ban chiếu mời Sư vào nội cung, Sư nghỉ tại Ngự diện. Nhà vua ban tặng Sư hiệu là “Thường Tinh Tấn Bồ-tát “. Sư làm chức Khai Quốc Công, bèn thị hiện bị bịnh nhẹ, nằm nghiêng hông bên phải mà thị tịch. An táng một thời gian lâu sau, mở nắp quan thấy nghi mạo Sư vẫn như khi còn sống, có mùi hương lạ phảng phất.

17. Truyện ngài Vong Danh trụ chùa Quảng Ái ở Lạc Dương thời Tiền Đương:

Thích Vong Danh, người xứ Vinh Dương. Sư trụ chùa Quảng Ái ở Lạc Dương, chuyên tu tập tỳ-ni, cẩn trọng giữ gìn giới pháp, Sư xa lánh sự cơ hiềm xấu xa, ít có sự thiếu sót.

Vào niên hiệu Thượng Nguyên (760 – 762), Sư trở về phương Đông, đến Tỉnh Ninh, trên đường đến Vinh Dương, đêm tối dừng nghỉ ở Nghịch Lữ. Vừa mới mở đãy cởi giày, muốn lọc nước để rửa, bèn có một vị tăng đi đến, dáng mạo cứng cỏi mạnh mẽ, cùng Sư đồng nghỉ chung phòng. Vị tăng ấy nói với người chủ nhà rằng: “Bần đạo từ xa đến, rất mỏi mệt lại thêm đói khát. Chủ nhân có rượu ngon bán cho đầy một bình và mua cho nửa vác thịt thú. Các thứ xin đem đến liền chớ chậm trễ!” Chủ nhà vội y theo lời yêu cầu mà mua sắm. Vị tăng ấy ăn uống hết không để lại gì. Sư bèn chê trách vị tăng ấy rằng: “Thân mặc Pháp phục mà đối trước người thế tục buông lung uống ăn, không biết xấu hổ”. Vị tăng ấy im lặng không trả lời. Đầu hôm, vị tăng ấy lấy nước súc miệng rửa mặt, ngồi kiết già thân ngay thẳng, khởi xướng Phạm âm tụng Kinh Hoa Nghiêm. Mới đầu xướng cử đề mục, tiếp theo là trì tụng từ “Tôi nghe như vầy, v.v…” trở xuống, nơi khóe miệng vị tăng ấy phát ra hai luồng ánh sáng mầu vàng ròng, khiến người nghe cũng rơi nước mắt. Người thấy thì khen ngợi, Sư cũng sanh tâm kính mến. Trộm tự nghĩ rằng: “Vị tăng ăn thịt uống rượu ấy mà lại có khả năng tụng niệm Đại kinh nầy”. Mãi đến canh 3 vẫn còn nghe tụng kinh, từng tiếng rõ ràng chẳng dứt. Và sắp hết quyển thứ , ánh sáng trong miệng lại càng sáng rõ thêm, soi khắp cả sân nhà, thấu suốt lỗ hỏng ngạch cửa song, chiếu sáng cả hai phòng. Sư ban đầu không biết ánh sáng ấy, mà tự bảo rằng: “Vị tăng ấy sao chẳng tắt đèn làm hao tốn dầu của chủ nhà”. Nhân đó đứng dậy đi đến bên cạnh, thấy ánh sáng vàng ròng ấy phát ra từ hai góc khóe miệng của vị tăng ấy. Đêm sắp đến canh , vị tăng ấy tụng vừa hết quyển 6, mới tạm nằm nghỉ trong chốc lát thì trời sáng. Sư rơi lệ gào khóc và gieo cả năm vóc xuống đất, cầu xin sám hối tội lỗi khinh thường phỉ báng Thánh Hiền, và Sư vui mừng gặp được dị nhân, về sau càng thêm siêng năng tinh tấn, cuối cùng trở thành cao danh. Không biết về Sau Sư tịch ở đâu.

18. Truyện ngài Thích Hùng Tuấn ở phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Hùng Tuấn, họ Chu, người ở xứ Thành Đô, có tài giảng nói nhưng không giới hạnh. Nhận của tín thí phi pháp mà vẫn sử dụng. Vả lại có lắm sự lừa dối, chỉ chuyên việc ngông cuồng. Lại hoàn tục, vào trong quân lính, nhân lành nạn mà trở lại trong chúng xuất gia.

Vào niên hiêu Đại Lịch (766 – 780), Sư bị bịnh nặng qua đời, xuống cõi u minh, bị vua Diêm-la quở trách, sau đó, dẫn Sư đi vào ngục, Sư bèn chống cự lớn tiếng bảo rằng: “Hùng Tuấn tôi mà vào địa ngục thì các Đức Phật trong ba đời đều là nói dối. Tôi có đọc Quán Kinh, nói rằng hạng người được hạ phẩm hạ sanh là do gây ra năm tội nghịch mà lúc sắp chết xưng niệm hồng danh Đức Phật chỉ mười niệm còn được vãng sanh. Tuấn tôi đây tuy tạo tội mà chẳng phạm năm tội nghịch. Nếu luận về sự niệm Phật thì chẳng biết số biến là bao nhiêu. Nếu lời

Phật nói là đàng tin tin”, thì sau chết tôi được sống lại, nói lời của Hùng Tuấn rằng: “Nếu thấy người xuất gia, tại gia trong thành, thì nói với họ rằng tôi đã được vãng sanh Tây phương!” Nói xong, Sư nương đài báu đi thẳng về phương Tây.

Liên hệ thử bàn:

Nhất niệm nhớ biết tự thân mình xưng niệm danh hiệu Phật chẳng ít, dẫu có vào địa ngục thì vẫn trở lại. Bởi vì dùng tâm lành mạnh mẽ mà chuyển tâm ác yếu ớt. Cho nên người tu hành phải biết miệng tụng chẳng bằng tâm trì. Người có năng lực vãng sanh cạn thấp phải học như vậy. Lời Ngài Hùng Tuấn lưu xuất trong dân gian, hẳn là lúc đã chết mà sống lại trao truyền lời ấy.

19. Truyện ngài Pháp Sư Tam Đao trụ chùa Long Hưng, ở Cát Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tam Đao Pháp Sư vốn họ Tào, người ở xứ Lô Lăng. Bản tánh tự nhiên ưa thích ăn dùng rau cải. Từ thuở nhỏ đã có chí nguyện xuất gia. Thời bấy giờ từ Giang đến Tây, đều bị loạn An Sử, phương Nam không thể nhiều việc thổ phù, nên mạnh kiêm yếu, chiến tranh chưa dứt.

Tháng 11 niên hiệu Đại Lịch thứ 7 (772), Quảng Châu Lã Đại Phu bị Phiên thành vâng theo điệp của Lộ Từ Cung Hồng Châu, Thứ Sử Cát Châu là Lưu Ninh bày binh trận gồm ba ngàn người, dồng đánh lấy Phiên Ngung. Sư trước kia vốn tên là Bá Liên. Sư là người mạnh mẽ mà dung mạo xấu xí. Và lại, tâm thuần lương, thường trì tụng Kinh Kim Cương. Lấy ống trúc đựng đầy kinh đeo trong người, phát thệ chẳng lập gia đình. nhưng chẳng nêu hạnh lành ấy với người khác, chỉ riêng kín đáo hành trì chí thiết. Tự nhiên bị bắt vào quân lính. Lúc trình duyệt lại bị chọn sung vào hàng danh Tiểu Tướng. Thật chẳng phải điều thích hợp với Sư, bèn vong mạng. Bấy giờ, bày binh trận lại rất gấp, các xứ bị hại đuổi bắt. Ở tại cửa bể của bổn Châu, Sư bị bắt đưa đến Lưu Ninh, khiến đưa đến cầu Chu Mộc mà xử tử. Ba lần chém bằng mũi nhọn dều bị gãy. Lưu Ninh lấy làm lạ, hỏi Sư, Sư đáp: “Chí vốn muốn xả bỏ gia đình, thường trì niệm kinh pháp. Như nay khiếp sợ, hèn yếu trước quân oai, vì thế mà mất”. Lưu Ninh hỏi: “Kinh hiện tại ở đâu?” Sư đáp: “Lúc bị bắt làm rơi rồi”. Lưu Ninh bèn sai người đi tìm, cách ngoài vài trăm bộ quả nhiên tìm được, trong ống trúc có dấu đao gần như mờ hẳn. Lưu Ninh bèn vòng tay ca ngợi, xưng tán, giây lâu bèn trả Sư trở lại làm tăng, và tấu trình cùng triều đình. Vua Đại Tông ban sắc tặng Sư Đạo hiệu là “Tam Đao Pháp Sư”, đồng thời phối danh ở chùa Long Hưng trong bổn Châu.

Sau, Sư càng thêm tinh tấn, Sư thị tịch tại chùa.

20. Truyện ngài Thích Đại Quang trụ chùa Pháp Hoa ở Hồ Châu thời Tiền Đường:

Thích Đại Quang, họ Đường. Sanh tại ấp An Cát. Mẹ của Sư họ Mai. Lúc mang thai Sư mà mộng hợp với điềm lành. Khi Sư ở trong thai, mẹ Sư không ưa các thứ mùi vị tanh nồng, đến lúc vừa mới sanh, Sư liền biết nói, nhưng chẳng đùa giỡn.

Chưa đến tuổi búi tóc, Sư đã suy nghĩ cầu Phật thừa, nguyện tụng niệm Kinh Pháp Hoa, chỉ ba tháng đã thông suốt. Mỗi lúc Sư cất tiếng tụng kinh thì các vật ngu xuẩn thô bỉ đều đổi tâm, Sư bèn xuất gia mà tìm tăng đàn thọ giới. Sư đi về hướng Tây đến Kinh Ấp, triều kiến vua Túc Tông, vua mời Sư vào trong cung cấm, vua khoanh tay mà khen ngợi rằng: “Xưa mộng thấy vị tăng, người xứ Ngô, miệng trì tụng Kinh Pháp Đại thừa, có ánh sáng năm mầu phát ra, lời tiếng dáng vẻ hay ho thật vừa nguyện của trẫm vậy!” Nhân đó vua ban tặng Sư danh hiệu là Đại Quang. Gặp ngày sinh nhật của vua, thiết trai tại chùa Định Quốc, nhân đó ban mặc chiếu cho phép các chùa nổi tiếng trong nước tùy ý Sư đến trụ trì. Ban lệnh cho Trung Quang Triệu Ôn đưa Sư đến ở chùa Thiên Phước nơi đạo tràng Trì Kinh. Sư tụng kinh bàng tiếng xứ Ngô, xa xa Thông đến Thánh thính, Vua rất lấy làm lạ về việc đó, bảo Trung Quang đến tuyên dụ.

Sau Sư đến trụ ở tinh xá Lam Điền. Trước đó chư tăng trong tinh xá mộng thấy có vị Thiên Đồng đến báo rằng: “Tiếng tụng kinh của Sư Đại Quang vang tới cõi trời Hữu Đảnh”. Một hôm, Sư đang yên tọa, tự thấy vị thần từ cõi trời đưa tay xuống vỗ xoa ở tim Sư. Sư bèn nhớ ngày trước Đại Sư Bảo Ngọc là bậc tiên đạt có dự ghi lời đó, bảo Sư nên xướng cao pháp âm thì sẽ có thần đến giúp. Lại riêng trong đêm mộng thấy thần tăng có sữa dính nơi tim, bảo Sư mút lấy. Từ đó công lục nơi Sư hiển bày, hình thần chẳng nhọc. Sư lại lên núi đến chỗ sâu thẳm, tình cờ bị rơi xuống hang Long Tuyền, chẳng thể lường biết chỗ đắm chìm là đâu. Trong tâm Sư linh hiển rõ suốt đều không mê mờ, nhân dó Sư nghĩ nhớ trong bổn kinh có phẩm Đa Bảo Tháp, bèn thành tâm nguyện tụng trì Phẩm ấy đến mười muôn biến. Tự nhiên thân bay vọt thoát khỏi suối hang, như có thần nâng đỡ. Sau, có chiếu ban mời Sư đến trụ chùa Tứ Thánh. Chùa ấy vốn do Triệu Quốc Công Trưởng Tôn Không Kỵ Trạch, xây dựng để cầu phúc cho Hoàng Hậu Văn Đức vào niên hiệu Long Sóc thứ 2 (662). Vào niên hiệu Trường An thứ 7 (Trướng An chỉ có bốn năm: 701 – 70), gặp phải nạn lửa đốt cháy hết, chỉ còn có được vài bộ Kinh trong đống tro tàn không bị cháy một chữ nào, bèn tấu trình việc đó lên vua. Bá tánh đua nhau xả thí cúng dường, chỉ trong vài ngày đã đầy cự vạn, bèn xây dụng lại chùa ấy. Sư đọc xem các bộ kinh ấy, càng dốc lòng tinh tấn gấp bội.

Sau vì riêng cảm thân sinh hiện ở đất Ngô, chưa báo đáp từ lực. Sư bèn dâng biểu xin trở về tĩnh dưỡng. Vua chưa ban chiếu chấp thuận, thì bèn dối bịnh, gắng sức đem ném xuống vực sâu, lừa quỵ chẳng đi tới, đàn quạ phủi đảnh. Tâm đã hiểu rõ, bịnh cũng lành theo, Sư bèn đem Kinh đội trên đầu mà hành đạo. Bỗng có chiếu ban chấp thuận Sư trở về. Đã về ở tại Ô Trình, Sư bèn xây tháp, thường ngày trì tụng Hoa Kệ để báo nguyện xưa.

Đến niên hiệu Vĩnh Thái thứ nhất (76), Chiết Tây Liêm Sứ Vi Nguyên Phủ dâng biểu thỉnh Sư đứng đầu của lục Quận biệt sắc Đạo Tràng trì niệm. Đến năm Quý Sửu (773) thuộc niên hiệu Đại Lịch, Ngạn Lỗ Công Chân Khanh Lãnh Quận, cha của Tướng Quốc Lý Thân làm Ô Trình Tể. Thân chưa tròn năm, bịnh sửa bạo khởi mà chẳng khóc, chẳng săn sóc đến bảy ngày, mời Sư đến, Sư bảo mẹ nuôi tắm rửa rồi xông đốt hương, Sư mới lớn tiếng tụng kinh, phẩm “Phân Biệt Công Đức”. Lý Thân bèn chạy ra khỏi chiếu mà ngồi khoanh tay mở mắt nhìn chăm chăm, Sư trao cho uống một chén nước, và bảo gắng mớm sữa đó, bịnh mới lành dần. Sư cười mà nói với Lý Thần rằng: “sao ngươi nguyện trở lại chóng vậy?” Nhân đó, lấy tên Sư mà đổi thành chữ Thân tiểu. Vào niên hiệu Trinh Nguyên (78 – 80), Lý Thân lại đến Thệ Thượng, lúc ghé thuyền thì Sư đã sớm tiếng đợi chờ ở bờ khe suối mà cười bảo: “Đùa giỡn múa men như con nít!” Sau Lý Thân lại có sắc lệnh đến Ngô Hưng, uống rượu say nằm ở quán, khi đó Sư đang dẫn tú ở Đạo Tràng. Đến nửa đêm gần tỉnh, Lý Thân thấy ánh sáng mầu trắng soi chiếu khắp nhà rõ ràng như ban ngày. Lý Thân bèn sang dò xét, thấy Sư đang yên tọa, Phạm âm vừa mới xướng, ánh sáng phát khởi từ khuôn mặt như khai mở hào tướng, đến lúc lời kinh ngừng dứt thì ánh sáng mầu vàng cũng thâu lại. Lúc Lý Thân từ giã để trở về kinh, thì Sư bảo rằng: “Ông được lời của Kính Sơn, tôi không lấy gì dể dụ. Đi thì tự mến, nhưng đi ở phải có lúc. Ngày sau ngôi vị ở miếu đường, phải dùng giáo pháp mà làm ngoại hộ!”

Đến ngày 30 tháng 12 niên hiệu Vĩnh Trinh thứ nhất (80), Sư thị tịch tại Đạo tràng Trì Kinh. Khi đó, thú gào chim sa, cây rừng kinh hãi rung chuyển, có mùi hương thơm lạ xông ngát mấy ngày chẳng dứt. Thứ sử Ngạn Phóng rất thương xót đến viếng điếu.

Sư mặc một áo nạp suốt bốn mươi năm không giặt nhuộm, mà hương giới xông ngát, ngày ăn một bữa suốt bảy mươi năm. Có rất nhiều điều chứng nghiệm, nên tướng quốc Công Thân vốn ở chốn Không môn, ít niềm tin lại thường dò xét lỗi lầm của chư tăng, mà lại kính trọng Sư, tự soạn bia đề rằng: “Mặc Chiếu Trì Kinh Đại Đúc Thần Dị Bia Minh”, Bố y Dương Quỳ viết chữ.

21. Truyện ngài Trí Đăng trụ chùa Thiên Sùng ở Kinh Châu thời Tiền Đường:

Thích Trí Đăng, không rõ Sư là người xứ nào, trang trọng hạnh mình, trang nghiêm đúng thời, giữ gìn giới phẩm. Sư thường trì Kinh Kim Cương Bát-nhã, chuyên cần không biết mỏi mệt.

Vào niên hiệu Trinh Nguyên (87 – 80), Sư bị bịnh qua đời, đệ tử mở tay thấy còn nóng ấm nên chẳng tẩn liệm ngay. Bảy ngày sau Sư sống lại, kể rằng: “Ban đầu thấy trong cõi u minh như có vua, vì ta tụng kinh nên chắp tay bước xuống thèm cấp, nhân đó hỏi thăm rằng: “Canh Dung Thựng nhân mười năm ở đời, gắng vượt ra sanh tử”. Và cũng tiện đó, tôi hỏi rằng: “Chúng tăng trong nhân gian sau giữa ngày ăn dùng”ý dĩ nhân” làm dược thực, như vậy thì thế nào?” Đáp rằng: “Ấy là rất trái với bổn giáo”. Tôi bảo rằng: “Trong luật có điều chánh, phi chánh, khai già, như thế nào?” Minh Vương đáp: “Đó là do người sau thêm vào chứ chẳng phải ý Phật”.

Mọi người xa gần nghe như thế. Chử Cung Tăng cho đến có người sau giữa ngày không người uống nước.

Liên hệ thử bàn:

Tiểu Thừa chuộng khai ăn ngũ tịnh vật. Ý dĩ chẳng phải thức ăn chính trong ngũ cốc. Nghi đây, Minh Quan nhân căn cơ mà rũ răn dè. Bởi vì đang lúc chư tăng rất xem thường giới pháp, nên nghiêm khắc khai già như thế, thật là Phật thường pháp của các Đức Phật, chẳng phải do người sau thêm vào./.