TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 27

 

CHƯƠNG CHÍN: HƯNG PHƯỚC

TRONG PHẦN 2 CHƯƠNG IX

(chánh truyện có hai mươi mốt vị, phụ có ba vị)

1. Truyện ngài Tăng Kiệt trụ chùa Quang Trạch ở Kinh đô, thời Tiền Đường:

Thích Tăng Kiệt, không rõ Sư là người xứ nào, sống ở nhà Phật mà hành hóa ở cõi thần. Sư giữ châu nói giới, dừng nước lắng tâm, thường than rằng: “Keo lận bền chặt đến thế ư, chẳng chịu làm đàn na để cứu giúp!”

Vào niên hiệu Kiến Trung (780 – 78), Sư xây dựng “Mạn-thù Đường” phỏng theo Thánh tướng ở núi Ngũ Đài. bàn việc xây dựng Đài đến mé nước. Sư lo sợ tổn thương đến sanh mạng, bèn lập đạo tràng ba ngày, chú nguyện cho các loài từ nhiều chân cho đến loài không chân, nên dời sang nơi khác để tránh, chớ để thành nạn phạm hạnh. Để biết sự cảm động của năng lực chí thành thật chứng nghiệm chẳng luống dối, bèn đào đất ra đến suối không hề có một con côn trùng nào. Sư thường lấy lụa dầy làm đãy lượt nước, gặp lúc múc nước có côn trùng thì bắt thả vào giếng hố, bấy giờ gọi đó là giếng hộ sanh, nước thường đầy chẳng cạn. Sư lại trông thấy loài sâu ngài mối đất lầm nhận ánh sáng của lửa là đường bay được nên cố bay vào, Sư bèn đúc ống đồng thiều để dứt bớt khói, dân chúng trong nước truyền nhau cách thức đó.

Tại viện Mạn-thù thường trì tụng Kinh Pháp, luôn được sắc tặng hương hoa. Chùa đó vốn có Đài Bảy Báu, trong chùa có đài do chính Thiên Hậu (Võ Tắc Thiên) tạo lập, Sư thường ở trong đó.

2. Truyện ngài Định Quang trụ chùa Phước Cảm ở Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Định Quang, không rõ Sư là người xứ nào. Từ lúc nhập Pháp, thì quyết tánh chẳng bó buộc, chỉ ăn dùng gạo dở một bữa vào giữa trưa, mặc áo cánh cụt vải thô quanh năm. Sư đến Xứ Đông Thục hóa đạo những người có duyên, sự việc cũng nhiều ma giáo chẳng tốt đẹp. Không bao lâu thì gặp lúc vua Võ Đế phá hủy Phật pháp, lập bày trở lại Nho tông. Đến ngày Phật pháp trùng hưng, chúng tăng nhóm hội, Sư cùng sửa sang, xây dựng chùa chiền, nhân đó đúc Đại Hồng Chung, tính liệu vàng đỏ hơn muôn cân. Ngày đó, khua khóa tro bay gieo vào lửa dữ, có hai luồng khói lành từ chỗ cao nhất của tướng luận tháp phát ra liên tục bắn lên như cầu vồng. Cả muôn người cùng nhau nhìn thấy năm mầu tuôn vọt giữa hư không, cùng cảm như thế, kính tin cổ động ứng theo.

Tháp đó là nơi Vua A-dục tôn thờ xá-lợi. Đâu niên hiệu Đại Hòa (827). Giống người Nam man Mông say điên cướp dựt vào trộm thành, phân man tốt xả trong chùa, mái hiên vũ lan can đều cháy rụi hết. Chư tăng đều bỏ chạy trốn. Khi đó trên đỉnh tháp phóng ra bốn luồng khói đặc phân túa thẳng lên giữa hư không. Đến tối, bọn man trông thấy kỳ lạ như thế bèn cấm dừng ô uế. Tháp đó, trước kia ở phía Tây bắc cách hơn bốn mươi bộ. Khoảng cuối niên hiệu Thiên Bảo (76) Trưởng Sử Chương Cừu Liêm Quỳnh đến nhậm chức, vừa mới tới Kiến Môn, thấy một người cao hơn một trượng cầm mác đứng trên đường, Liêm Quỳnh kinh hãi bèn hỏi, người đó đáp rằng: “Tối là thần Hộ pháp ở chùa Đại Thạch, nên đến đây để đón rước, vả lại, có ít việc cần cầu hỏi đại phu, đó là vì ở phía Tây nam của tháp chùa Đại Thạch chưa được tốt lành lắm, nay xin dời sang hướng Đông bắc bốn mươi hai bộ. Cúi mong được đào bới phía dưới tảng đá ấy vì để trấn giữ xá-lợi”. Liêm Quỳnh nói: “Việc đó dễ thôi”. Bèn ấn quyết hình, đến phủ vài ngày, bèn bảo người lường xét chỗ đất ấy trước khi đào bới, quả thật có được tảng đá lớn, sâu không biết tới đâu là ngằn mé. Bèn thúc giục vài người thợ đá đến đục. Đến tối liền bị lấp bít. Liêm Quỳnh sai người ngầm dò xét, thấy có chừng mấy mươi con lợn trắng đưa miệng ủi đẩy đá đến lấp đó và dùng lưỡi liếm cho chặt như đồng sắt. Chương Cừu Liêm Quỳnh bảo ngưng đục phá, bèn dời tháp đến chỗ ở hiện nay, tức nơi nền cũ chùa Kim Hoa. Và Đại Hồng Chung do ngài đúc cũng dời đến chùa mới.

3. Truyện ngài Trinh Cán ở Gia Hòa, thuộc Quận Ngô, thời Tiền Đường.

Thích Trinh Cán, họ Võ, người ở xứ Vân Trung. Sư làn người có dáng vẻ cao xa, lấy sự thiền định vắng lặng làm việc chính. Sư chống tích trượng đi về phương Nam dò hỏi linh tích, và khi đến Cố Chướng, ở đó có chùa Côn Sơn, suối rừng xinh đẹp. Đó là nơi vào thời tiền Tống (thuộc Nam Triều). Ngài Chi Đàm Đế từng khảo thất tại đó, thấm mùi vị đạo, sùng hóa hơn hai mươi năm, dấu vết tích còn đó. Đến niên hiệu Nguyên Gia (2 – ) thời tiền Tống, thuộc Nam Triều, xây dựng thành ngôi chùa lớn. Mãi đến sau này, gặp lúc vua Võ Tông – thời tiền Đường phá hủy Phật giáo, chùa ấy cũng bị phá hủy.

Ngài đến dừng ở đó, cùng Phạm Dương Lô Quân Tập đồng hưng khởi, xây dựng danh tích thứ 2 của Pháp sư Hoằng Giác, khi chùa hoàn thành, tiến sĩ Diêu Phù có làm thơ khen ngợi. Sau, Sư đến xứ, nay là Trường Thủy, thuộc Tú Châu, thấy chùa Linh Quang, dân chúng trong ấp muốn dựng xây điện lớn. Bấy giờ, Lô lịnh dời chữ “Ấp”, dân chúng vui mừng gặp nhau, Sư đều biết trước. Có người nói “Sư đắc tha tâm thông, túc mạng minh”, bèn thỉnh Sư xướng đầu, nhưng Sư nhàm chán sự ồn náo nơi yển thất (nhà nghỉ), bèn ngự ở sau nền điện, bện tranh làm nhà cạn mà ở. Đàn tín bốn phương chẳng mời mà đến. Sư lại cùng các Sa-môn Linh Cung, Quân Đạo v.v… trải qua nhiều năm mới dựng thành chánh điện như hiện nay. Chánh điện ấy rộng lớn, khắp trong nước thật ít có nơi nào sánh bằng. Sự việc hoàn tất, Sư bèn mang đảy rách và chống tích trượng cũ trở về phương bắc. Không biết về sau, Sư mất ở đâu.

4. Truyện ngài Đạo Tuân trụ núi Chi Hình ở Tô Châu, thời Tiền Đường.

Thích Đạo Tuân, tự là Tông Đạt, họ Trương, người ở xứ Ngô Hưng, sớm mang tiết tháo đặc thù, xứng danh kẻ sĩ thanh khiết. Vinh hoa chẳng đáng ràng buộc nơi tâm, thanh trần không hề xúc phạm đến tánh Sư.

Năm hai mươi tuổi, Sư đến Thiên Trúc; nơi Luật Sư Nghĩa uy cầu thọ giới cụ túc. Sư phụng thờ Đại Sư Hưng ở chùa Báo Ân là bậc đứng đầu Tông Tỳ-ni truyền giáo. Sau, Dư học pháp môn Nhất Tâm Tam Quán của Thiên Thai. Muốn viết chép “Kinh Pháp Hoa” rộng khắp, dựng lập Đạo tràng, mở mang kinh viện.Ngày thứ nhất phát khởi tâm niệm, ngày thứ hai dựng lập nền móng, làm chẳng vượt quá, tự quyết mà công thành, trụ Phước Địa ở Chi Hình.

Niên hiệu Đại Lịch thứ nhất (766), Châu Tướng Vi Nguyên Phủ, Binh Bộ Thượng Thư Lưu Yên, Thị Ngự Sử Vương Viên, Khai Châu Thứ Sử Lục Hướng, Điện Trung Thị Ngự Sử Lục Tấn, Đại Lý Bình Sự Trương Tượng đua nhau dẫn dụ chân tâm, cùng được thù thắng, mới cùng dâng biểu tấu trình. Vua Đại Tông ban chiếu thư đặc thư làm “Đạo Tràng Pháp Hoa”. Từ sông trở về phương Đông tất cả mười bảy ngôi chùa, đều do Sư đứng đầu. Đề cử mười bốn vị Đại Đức có hạnh tinh tấn, thường trì tụng Kinh Pháp Hoa để báo ân quốc chủ. Đúc tôn tượng Phật Lô-Xá-Na, Tỳ-Lô-giá-na và tháp Đa Bảo, tu nghiệp sẽ sanh Tịnh độ, tạo tượng Phật A-di-đà. lại viết chép giáo nghĩa Thiên Thai, ích lợi cho đạo tràng, đặt hai khu vườn thường trú. Bình thường, Sư giảng Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Thiên Thai Chỉ Quán, Tứ phần sao văn, Sư lên pháp đàn độ người, trao tâm, mở mang giới luật, đồ chúng đông đầy cả thạch thất.

Vào niên hiệu Thiên Bảo (72 – 76), Sư đến Đạo Tràng Linh Nham, hành trì Pháp Hoa Tam-muội, bỗng thấy ánh sáng lớn trên đèn soi suốt giữa trời, thân mình chánh niệm nghiễm nhiên trong ánh sáng. Hôm sau, Sư hỏi Đại Sư Trạm Nhiên ở Kinh Khê rằng: “Ánh sáng trí tuệ từ tâm phát ra, chẳng phải từ ý chí tinh tấn phát ra phải chăng?” Lại ở bổn tự, Sư vào Đạo tràng Pháp Hoa, thấy thân mình ngồi giữa hư không. Các bậc tiên chứng biết đó là tướng gội bụi trần. Năm đó, Sư đã bảy mươi mốt tuổi, bốn mươi sáu hạ lạp.

Đến gày 29 tháng 7 niên hiệu Nguyên Hưng thứ nhất (78), Sư thị tịch tại chùa Chi Hình. Các Sa-môn Ích Công, Hàn Công đêm đó đều mộng thấy đại điện sụp đổ, quả nhiên là Sư thị tịch. Môn nhân Linh Hàn, Pháp Thạnh, Đạo Hàn, Du Tử, Linh Nguyên kính mến không thôi, bèn xây tháp cúng dường, tán dương đức hạnh của Sư.

5. Truyện ngài Hàm Quang trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Kinh Triệu, thời Tiền Đường.

Thích Hàm Quang, không rõ Sư là người xứ nào, từ thuở nhỏ đã giác ngộ trần cảnh huyên náo, tìm nơi vắng vẻ.

Vào niên hiệu Khai Nguyên (713 – 72) thấy Tam Tạng Pháp Sư Bất Không là người rất được trọng vọng, kính quý vào thời bấy giờ, Sư bèn đến nương tựa. Đến lúc Pháp Sư Bất Không trở về Tây Vực, Sư cũng theo hầu, chẳng sợ gian nguy khó khổ, chỉ nghĩ tìm cầu thánh tích. Khi đi, thuyền nổi trôi trên biển, gặp cá lớn nhìn ngó vào thuyền như có ý muốn nuốt ăn, hai lần gặp phải gió độc dữ, kỳ quái vật lạ, thế rồi dần dần yên tĩnh, bỗng chốc đã đến nước Sư Tử. Gặp lúc A-Xà-Lê Tôn Hiền dựng lập đàn tràng Từ Bi Thai Tạng, chấp nhận cho Sư và ngài Tuệ Biện đồng thọ pháp Ngũ Bộ Quán Đảnh.

Đến niên hiệu Thiên Bảo thứ 6 (77), Sư trở về lại Kinh Triệu. Khi đó, Pháp Sư Bất Không đang phiên dịch kinh, Sư bèn tham dự cùng luận bàn Hoa Phạm. Sau khi Pháp Sư Bất Không viên tịch, vua Đại Tông kính trọng Sư như được thấy Pháp Sư Bất Không. Ban sắc giao phó cho Sư sang núi Ngũ Đài tu công đức. Bấy giờ, học thuyết Tông Thiên Thai có ngài Trạm Nhiên thấu suốt Thiền Quán, thành đạt được cốt lõi của ngài Trí giả, thường cùng các vị Sa-môn hơn bốn mươi vị ở Giang Hoài vào cảnh giới Thanh Lương. Ngài Trạm Nhiên và Sư gặp nhau, bèn hỏi về việc truyền pháp ở Tây Vực. Sư đáp: “Có Sa-môn của một nước thấu hiểu được Không Tông, hỏi về giáo pháp của Đại Sư Trí Giả, thì có vị Phạm Tăng nói là có nghe giáo pháp ấy, phân định tà chánh, thấu hiểu thiên viên, tỏ biết chỉ quán, công lao được suy tôn là bậc nhất, đôi ba phen dặn dò Sư. Hoặc nhân duyên lại đến nên phiên dịch từ Hoa Văn thành Phạm Văn gởi đến, tôi nguyện thọ trì. Thường luôn nắm tay đinh ninh dặn dò, rõ ràng ở đất Nam Ấn có lắm người thực hành giáo nghĩa Tông Long Thọ, nên có nguyện lưu bố này!” Không biết về sau Sư tịch ở đâu.

Liên hệ thử bàn:

Chưa nghe giảng nói Phật giáo ở Trung Hoa mà lại truyền ngược đến Tây Vực, có việc như thế ư? Thông đáp: Xưa kia, thời vua Lương Võ Đế (02 – 0), có Thổ – Cốc – Hồn – Khoa – Lã – Kha – Hãn Sứ đến cầu Phật tượng và kinh luận mười bốn điều. Vua trao cho các bản kinh sớ do vua soạn như Niết-bàn, Bát-nhã, Kim Quang Minh v.v… gồm một trăm lẻ ba quyển. Vốn vị sứ giả ấy đã thông rành tiếng Hoa, đã thấu đạt âm tự, đến kia sẽ dùng thổ âm ở đó mà phiên dịch từ Hoa Văn thành tiếng của người Hồ, mới giúp mọi người thông hiểu. Ở kia cũng có chư tăng, sẽ lần lượt truyền dịch từ phía tây biển xanh đến các nước phía bắc Thông lãnh. Không bao lâu thì lưu hành khắp cả năm xứ Ấn-độ, không có gì nghi ngờ. Nên Xa Sư có Mao Thi, Luận Ngữ, Hiếu Kinh, lập ra học quan đệ tử để cùng trao dạy, tập đọc đều là tiếng người Hồ. Lại nữa, vào thời tiền Đường, ở Tây Vực, cầu đổi đạo kinh. Triều đình có ban chiếu các tăng sĩ và đạo sĩ phiên dịch Hoa văn thành Phạm văn. Hai Tông giáo tranh Bồ-đề là Đạo, phân vân không thôi, đến nửa chừng thì dừng nghỉ. Giả sử phiên dịch truyền đến kia (Tây Vực), thấy điển tịch sâu mầu uyên ảo của phương này (Trung Hoa), há chẳng tốt đẹp ư?

Lại nữa, Phật Giáo ở Tây Vực là cội gốc, ở Trung Hoa là nhánh lá. Sự hiểu biết của người đời là biết về nhánh lá mà không biết về gốc rễ, nghĩa là không biết nhánh lá, đất trồng và gốc rễ lớn vậy. Như cây Ni-Câu-Đà. Bởi vì người ở phương Đông thông minh lanh lợi. Vì sao biết? Vì người xứ Tần ưa thích sơ lược, nghiệm ở nói ít mà hiểu nhiều. Còn người ở Tây Vực thì thuần phác, vì sao biết? Vì ở Thiên Trúc ưa thích phiền nhiễu. Chứng nghiệm ở điểm nói lại và sau mới tỏ ngộ. Do đó mà quán xét, thì cái lợi của người Tây Vực là điểm Niệm Tánh, còn cái lợi của người Đông Phương là ở điểm giải tánh. Như Giáo nghĩa “Vô Tướng”,”Không” phát xuất từ ngài Long Thọ, nhưng ngài Trí Giả diễn giảng đó khiến Tây Vực kính tin, ngưỡng mộ. Lại như Giáo nghĩa “Trung Đạo” được sanh ra từ ngài Di-lặc. Nhưng, do Đại Sư Từ Ân (Huyền Trang) giảng đó, nghi rằng ở Tây Vực ít có người sánh bằng. Cùng biết hai Tông trên đây đều trồng nhành là trên đất của Trí Giả và Từ Ân, vào đất sanh gốc rễ riêng. Người khéo giao tiếp thấy mà chẳng biết, nghe mà có thể mến thích. Lại như Châu Ngọc của Hợp Phố, người dân đất bắc có được bèn kết lại mà trang sức nơi mũ mão, làm bông tai, người xứ Nam Hải thấy mà không biết, nhưng nghe thì có thể mến thích. Như tơ của tằm phụ, nhà người thợ khéo giỏi có được đó mà thêu thùa làm xiêm y, thành áo Phủ áo Phất, các bà già tham cầm, thấy mà chẳng biết, nhưng có thể mến thích.

Tốt đẹp thay! Đại Sư Trí Giả, Đại Sư Từ Ân, bậc thầy của Tây Vực, có thể chẳng tôn sùng kính ngưỡng được ư?.

6. Truyện ngài Tịch Nhiên trụ Thiền Viện Châu Sơn ở Diễm Ốc, thời Tiền Đường.

Thích Tịch Nhiên, họ Bạch, không rõ Sư là người xứ nào. Danh tiết trong sạch kỳ lạ, nối gót Tứ Thánh chủng, nên hiệu là Đầu-đà.

Niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828), Sư chống tích du phương, tìm hỏi thắng cảnh Thiên Thai, đến Châu Sơn thuộc Diệm Ốc ở phía nam ngọn núi Thiên Mụ, đối diện Xích Thành Hoa Đảnh Thiên Thai, phía bắc trông nhìn về Tứ Minh có núi Kim Đình Thạch Cổ, tại ranh giới phía Tây bắc có ngọn núi Chi Độn, có sườn núi Dưỡng Mã, và ngọn núi Phóng Hạc lần lượt tiếp nối nhau. Từ đời Tấn, đời Tống về sau, tại núi đó hang động mở khai. Ban đầu có La-hán Bạch Đạo Du nói từ Tây Vực đến và ở hẳn tại núi ấy. Tiếp theo có các ngài Trúc Pháp Tiềm, Chi Đạo Lâm đến ở đó. Các bậc cao nhân thắng sĩ nối gót mà ẩn cư trong đó. Đến như Đái Quỳ, Vương Hy Chi, Hy Siêu, Tôn Xước, Hứa Tuân đều đến dừng nghỉ ở đó. Thấy ở trong đó, cảnh trí khác lạ, nghe các bậc danh sĩ phần nhiều đến ở đó, như trở về quê cũ, mến luyến mà chẳng thể bỏ đi. Thế rồi Sư hành đạo, mở mang hưng thạnh, nhóm họp thiền chúng. Chiếc Đông Liêm Sứ Nguyên Tướng Quốc, v.v… nghe thế, ban đầu vì chọn xây dựng, tiếp đến có Lục Trung Thừa Lâm Việt biết thế nên hỗ trợ đến hoàn thành, chỉ ba năm tạo thành Đại Viện, năm năm thì thật sự hưng thạnh. Sư thường vì thiền khách qua lại bàn nói tâm yếu. Sau, Sư thị tịch tại Sơn Viện, lúc đó nhằm niên hiệu Thái Hòa thứ 7 (833).

Bấy giờ, có Bạch Lạc Thiên ở Bảo Ly thuộc Hà Nam ghi lại, Lưu Tân Khách Vũ Tích biên chép.

7. Truyện ngài Phổ Ngạn ở chùa Phước Điền núi Thiên Thai, thời Tiền Đường.

Thích Phổ Ngạn, họ Thái, người ở xứ Hán Đông. Thuở bé, Sư đã thông minh hơn hẳn, cốt xương mắt xinh đẹp kỳ lạ, bẩm tánh vốn chẳng ưa thích mùi vị tanh nồng. Đến lúc lớn lên, có ý xuất trần. Cha của Sư nghiêm nghị dạy răn, trao cho kinh sách Sư dần thông nghĩa lý, cầm bút bày từ, bay bướm như hoa tảo. Nhân đó, Sư vào tăng xá được tạm cầm nắm quyển kinh, bèn than rằng: “Phật pháp huyền vi, chẳng thể vội vàng mà đến được!” Và Sư quyết chí từ giã thân thích.

Bấy giờ, Thiền Sư Hoài Hải đang ở núi Bách Tượng, các hàng xuất gia dẫm gót chen vai đông đúc, bấy giờ, gọi đó là Đại Tòng Lâm. Sư đến khấu đầu nơi cửa, được ngài Hoài Hải nhiếp thọ. Thường ngày theo Sư làm việc nặng nhọc, tối đến một mình cầm đuốc tụng kinh, chẳng hề sợ lao nhọc, bèn được xuống tóc, rồi đăng đàn thọ giới. Sư bèn học tập Thiền-Na, ngồi xoay mặt vào tường quên cả mỏi mệt, quán tâm là việc chính thường xuyên. Như hoa Chiêm-bặc nương gió mà hương tỏa bay xa. Mèo nhỏ gặp thú mà kêu lớn. Học giả đến vây quanh thỉnh Sư đến an tọa đạo tràng viện Thọ Sơn ở An Lục. Vây quanh như thế hơn bốn trăm chúng, cầm khí mà nghe thuyết Cù-Sa, ném thẻ đợi độ của Cúcđa, lợi ích quần cơ, người đắc đạo rất đông.

Vào niên hiệu Thái Hòa (827 – 836), Sư nói với chúng rằng: “Tôi vân du sông núi chưa khắp đủ, mọi người chớ lưu giữ tôi lại! Xích Thành ở Thiên Thai, nơi Sư Đạo Du từng dừng ở. Thạch Lương ở Hoa Đảnh chỗ xưa kia Đại Sư Trí Giả hàng phục ma. Nay tôi sắp đi đến những nơi ấy”. Sư bèn từ Tương Dương quanh co mà đến, Thiên Mụ Từ ở Ốc Châu đến cửa Tây của Thiên Thai, gặp được ngọn núi trong Bình Xuyên Cốc tên là “Đại Xá”, hiệu là “Bình Điền”. Sư nhìn xem bốn phía núi đó tốt tươi, đông tây hai phía của núi đều có cửa đá, và có ba giếng Long Đàm, ở phía đông đi vào cầu đá có chùa Thánh, đó là nơi Tôn Giả Lục Thân Đạo Du cất am mà ở. Sau đó không lâu, thấy con hổ đang cho con bú trừng mắt nhìn Sư, Sư cầm tích trượng đè vào đầu nó mà bảo rằng: “Bần đạo nghe tại núi này là hang động nhà cửa của thần tiên, có các vị La-hán ẩn cư. Nay muốn dừng nghỉ tại đây để an tĩnh ngồi thiền, Đàn Việt chớ làm kinh nhiễu!” Qua đêm thì hổ dẫn con mà đi.

Ngày 27 tháng 10 năm Quý Sửu (883), Sư xây dựng trượng thất, dẫn theo một đứa trẻ để hầu cấp củi nước. Sang mùa xuân năm sau, thiền lữ tìm đến đông đúc, góp sức tạo thành viện ấy, đề hiệu là “Bình Điền”. Đến niên hiệu Khai Thành (836 – 81), trở thành đạo tràng lớn. Đến tháng 7 niên hiệu Hội Xương thứ 3 (83), Sư giã từ tăng chúng mà thị tịch, thọ bảy mươi bốn tuổi.

Ngài có đệ tử là ngài Toàn Lượng, vốn họ Trần, khi tỏ ngộ được đạo của thầy như được chim Phụng mọc lông, và một vị nữa tên là Duy Ước thị tịch tại Thượng Nguyên, nhục thân không rã hoại, Sư bèn xây tháp tại núi đó.

Trước tại chùa nầy có điện thờ năm trăm vị A-la-hán. Vĩnh Gia Toàn Ức Trưởng Sử, vẽ năm trăm hình tượng, mỗi lúc nghinh thỉnh thì đến nơi Thạch Kiều, ban đêm đốt hương, có đủ phướn lọng, loa bạt, dẫn đường vào điện, hương gió đưa đi, thế của cờ phướn ở trước vào cửa liền dừng. Chúa Thánh Thạch Lương ở trong Thạch Kiều, mỗi lúc chúc tụng, xướng khởi thì mùi hương mới bay, phía trước có chim mầu vàng ròng bay liệng sau rừng cây. Bên bờ đá, thấy có Phạm tăng hoặc đi hoặc ngồi, hoặc tướng trạng như vẫy tay, hoặc hình dạng như nằm giữa hư không, chỉ trong nháy mắt có ngàn muôn biến hóa. Hán Nam Quốc Vương họ Tiền hằng năm bố thí cúng dường, có nhiều điềm lành. Niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978), vua Thái Tổ thời Bắc Tống đến điện Tư Phước hỏi Lưỡng Chiết Đô Tăng Chính Tán Ninh rằng: “Thạch kiều ấy dài rộng bao nhiêu?” Ngài Tán Ninh mỗi điều như thật mà tấu trình. Nhà vua khen ngợi hồi lâu. Đến niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (983), nhân có Đạo giả ở chùa Phước Điền tự dò hỏi, phát nguyện chặt đứt cổ tay mà thiêu đốt, xin xây dựng lại chùa đó. Vua Thái Tổ bèn tuyên bảo cho Nội điện Đầu Cao Phẩm Vệ Thiệu Khâm Trương Thừa Quý thay đổi quy chế cũ, như hóa ra thiên cung. Nay ảnh đường phụng thờ Sư ở phía hữu của chùa.

8. Truyện ngài Duy Tắc trụ chùa Phụng Từ ở Kinh đô thời Tiền Đường:

Thích Duy Tắc, Sư có chí cao vượt tục, thần gá ngoài vật. Hễ Sư làm việc lành, đề xướng thì mọi người liền theo. Sư thường nói: “Tượng là duyên mạnh mẽ để sanh thiện, không được không lập nhiều. Ban đầu quán chiếu đó thì như đối trước nghiêm quân, tiếp đến thì tâm chẳng loạn, ở giữa thì quán môn tự thành và sau cùng thì Như Như, thênh thang, Tam-muội làm sao chẳng hiện tiền ư? Vì vậy chúng ta khuyến hóa mê tục đâu được chẳng lấy đây làm trước ư?” Từ đó hoặc chạm trổ, hoặc đắp họa hình tượng rất nhiều, thường việc tấn tu, khắp trong thiên ấp đều khơi động khuyên gắng. Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), gặp lúc vua Hiến Tông vì Thái Hoàng Thái Hậu mà thiết trai cúng dường cả nước, Công Chúa Đại Trưởng truy phước xây cất lập Tinh Xá Phụng Từ, tìm chọn các bậc danh đức, nên Sư được chọn vào ở. Không bao lâu, nghe ở núi Mậu thuộc Tứ Minh có tháp của A-dục, vào thời Đông Tấn có Lưu-Tát-Ha Cầu hiện, Sư bèn đến chuyên lễ. Sư phát tâm nghiền bảy báu thành mạt vụn và dùng keo trộn đắp khuôn thành thủ tả, mở ra rất giống, bèn từ Dũng Đông đích thân mang về cúng dường chùa Phụng Từ. Mọi người khắp Kinh Ấp đều chiêm ngưỡng, quy tín.

9. Truyện ngài Minh Chuẩn trụ chùa Thiền Định ở Trường An, thời Tiền Đường:

Thích Minh Chuẩn, không rõ Sư họ gì, sinh ở đâu. Sư vốn xuất gia tại Đạo tràng Linh Khư ở Thiên Thai, Sư du phương đến Kinh Ấp, thấy thần tăng Trí Uyển xưa kia đến Uyển Dương Bắc Sơn khắc đá viết kinh, rót sắt để đợi đức Từ Thị Di-lặc hạ sanh, khỏi lo về nước lửa. Lại tại chùa Trường Thọ ở Đông Lạc Sư chép Kinh Hoa Nghiêm, ở chùa Thánh Thiện chép Kinh Pháp Hoa, tại Chùa Nhạc ở Tung Sơn chép Kinh Lăng-già, đều khắc trên đá mân cứng tốt, đồ họa chẳng hư mục. Tháng Giêng năm Mậu Dần (798) thuộc niên hiệu Trinh Nguyên, Sư thấy chư tăng trong chùa đục núi lấy đá, đá đều cứng chắc, nên biết người thợ chẳng kiền thành, núi Linh bí hiểm. Khi đó, Sư bèn khải cáo âm linh cầu thỉnh hộ giúp việc lành. Bỗng chốc trong định thấy có mấy bức trữ vô lượng đá, trong khoảng mờ tối như có tể cắt, đều có khắc chữ ở trong. Khi đó, liền suất dẫn Bác Lục Thôi Công khơi khuyến Mộ Phủ cùng giúp, mỗi người viết một phẩm. Từ phẩm Tựa đến phần Khuyết phát tất cả hai mươi tám phẩm. Viên lang trội lập, chẳng mong mà hoàn tất. Sư hóa độ người phần nhiều đồng loại như thế. Lúc đó nhằm khoảng tháng 8 niên hiệu Nguyên Hòa thứ nhất (806). Không rõ về sau Sư tịch ở đâu.

10. Truyện ngài U Huyền trụ chùa Bảo Lịch ở Hồng Châu, thời Tiền Đường:

Thích U Huyền, họ Lưu, người ở U Châu, sớm ôm hoài ý nguyện xuất tục. Đến năm hai mươi tuổi mới toại tâm nguyện trước. Sư đến nương tựa Thiền Sư Hiền mà tỏ ngộ huyền khế.

Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 2 (807), Sư chống tích đến Giang Tả, tới chùa Đại Vân ở Cối Kê, thấy có ba học tăng thay nhau khất thực, duyên giúp đều thiếu, Sư mở lời, đàn việt hưởng ứng cúng dường chiêm ngưỡng. Sau đó không lâu, Sư dời đến trụ chùa Cổ Diệu Hỷ ở Quy Sơn thuộc Hô Tâm. Đến niên hiệu Nguyên Hòa thứ 9 (81), gặp lúc Bình Xương Mạnh Giản trấn tại đất Việt, xuống tìm Sư hỏi Đạo, bèn xây dựng thành Đại Điện. Niên hiệu Nguyên Hòa thứ 12 (817), Sư lại lên Nam Nhạc, trụ ở trên đỉnh núi. Qua năm sau (818), Dự Chương Thái Thú Thương Hựu dốc lòng kính trọng đạo phong của Sư nên thỉnh Sư tới ở tại chùa Đông Minh, tức ngoi chùa do vua An Đế (397 – 19) thời Đông Tấn xây dựng. Tăng chúng thường trụ đông đúc. Đến niên hiệu Bảo Lịch (82 – 827) Thương Hựu lại tấu trình xin đổi hiệu chùa là “Thế Phước”, kiêm thiết lập giới đàn, rồi lại tiếp tục đổi hiệu chùa là “Độ Tăng”. Hình tượng trong thời gian đó đều do Sư hóa đạo.

Đến niên hiệu Thái Hòa thứ nhất (827), Thẩm Phó Trung Thừa lại thêm kính tin, Sư xây dựng lầu Phật năm tầng ở phía Nam Viện. Đến lúc công việc hoàn thành, Sư bảo với đệ tử rằng: “Việc phước vô tận, bến bờ sự sống có hạn, vật tuy có thiếu sót, nhưng người sau sẽ làm đầy đủ. Sau khi tôi tịch hãy đem Nhục thân sơn phết quấn bố an táng phía dưới lầu!” Nói xong, Sư bèn thị tịch, môn nhân xây dựng tháp bên cạnh.

11. Truyện ngài Trí Quân ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:

Thích Trí Quân, người xứ Trung Sơn. Từ thuở nhỏ, giã từ thân thích, Sư đến viện Thiện Trụ ở núi Ngũ Đài đảnh lễ Ngài Hiền Lâm thờ làm thầy. Sư trì tụng Kinh Pháp xứng hợp tư cách được độ. Thần tình Sư thông sáng, khí điệu cao vợi. Đối với của cải thế gian Sư luôn ít muốn biết đủ, chỉ ăn cơm gạo dở dể no bụng, chỉ mặc áo vải thô đẻ ngăn che rét lạnh. Có tấc vải dư nào Sư đều cấp thí cho những người bịnh khổ. Sư du phương tham ngoạn, đến dự các trường giảng tịch, truyền hai bộ Kinh Pháp Hoa và Duy-ma, cùng nguồn hết lý.

Sau, Sư chống tích đến Cao Phong dứt tâm quét bỏ. Vào niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821), chúng tôn Sư làm Ngũ Đài Sơn Đô Kiểm hiệu Thủ Tăng Trưởng. Khi đó Sư cố khước từ nhưng không được, bèn lên làm chức ấy. Sau, gặp năm đói kém, chùa chiền tiêu điều. Có chùa Hoa Nghiêm là chỗ ở của Đại thánh Lâu Chân. Mọi người qua lại rất đông, mà cúng thí sơ sài, viện đường rất nhiều chẳng thể tính kể. Chúng thỉnh Sư làm “Hoa Nghiêm Tự Đô cúng dường chủ”. Bấy giờ, có các ngài Pháp Chiếu, Vô Trước, Trừng Quán ra đời, thấy Sư định soạn “Hoa Nghiêm Kinh Sớ”. Tăng chúng nhóm họp đông đảo, bèn thỉnh Sư làm giảng chủ. Thường ngày cúng dường cả ngàn vị tăng, có hơn mười năm thọ dụng mà chưa từng nghe nói thiếu, đều bảo là có gạo bột của kho tàng vô tận, càng lâu năm càng thấy sung túc. Có Sa-môn Nghĩa Viên ở gần viện, cũng là bậc Thạc Đức ở đương thời, cho rằng từ lâu Sư trông coi của thường trụ, nên có lời phỉ báng rằng: “tâm Sư không bình đẳng là kẻ san tham”. Đêm đó, có vị thần báo với ngài Nghĩa Viên rằng: “Tăng Trưởng (tức Trí Quân)là một trong số ngàn Đức Phật, ông có lời nói xem thường, nếu không sám hối tội lỗi, sẽ bị đọa vào đường ác”. Đến sáng sớm, ngài Nghĩa Viên bèn tới đảnh lễ sát chân Sư bày tỏ sám hối. Sư có ứng nghiệm đến như thế.

Lại, gặp lúc vua Võ Tông thanh trừng đào thải, Sư bèn trốn ẩn trong hang núi, chẳng phải xả bỏ hóa cảnh của Văn-thù. Sau đó, chưa đầy một năm, vua Tuyên Tông lên ngôi (87), ban sắc các chùa ở núi Ngũ Đài độ tăng năm mươi vị, cúng dường y pháp. Sơn môn lại suy tôn Sư làm “Tăng Trưởng” của mười chùa, kiêm chức “Sơn môn đô tu tạo cúng dường chủ”. Đến niên hiệu Đại Trung thứ 7 (83), Sư cùng Hoàn Hải đi khắp Ngũ Đài, chúng tăng lập đàn tràng Vô Già Tinh Diệu cúng dường. Suốt một tháng trời, Sư mới nói với đại chúng rằng: “Tôi muốn tạm ngừng nghỉ mảnh hình hài nhỏ bé, dứt tâm, giấu vết. Việc giúp đỡ chúng tăng, tôi không thể làm. Xin giao phó cho các bậc tài giỏi anh minh sau này tiếp nối dấu vết của tôi!”. Sư bèn vào trong tịnh thất đoan tọa mà thị tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi, năm mươi tám hạ lạp.

Liên hệ thử bàn:

Nhậm chức trong chúng tăng, như giềng mối của mành lưới, như rường cột của ngôi nhà. bắt đầu từ thời Diêu Tần lập là “Chánh Ngụy Thế Suy Đô”. Thời Bắc Tề gọi là “Thập Thống Phân Viên”, đến thời Tiền Đường thì gọi là “Tăng lục mạng chức”. Khác thay những điều thường nghe. Núi Ngũ Đài từ niên hiệu Trinh Nguyên (78 – 80) (theo văn truyện tức trong niên hiệu Nguyên Hòa (806 – 821) chứ không phải Trinh Nguyên). Ngài Trí Quân bắt đầu được phong là “Tăng Trưởng”.

Cũng như cá muối, nghêu hến cầu mong giữ gìn.

12. Truyện ngài Văn Chất trụ núi Lã Hậu ở Cối Kê, thời Tiền Đường.

Thích Văn Chất, họ Chúc, là cháu xa của Thượng Khâu. Sư là người xứ Tu Giang, thuộc Cù Châu, có người chú trong họ làm Sa-môn hiệu là Duy Khoan. Ngài Duy Khoan học thông nhiều bổn kinh luận, có được chiếu ban trụ chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An, lại có chiếu mời vào Nội Đạo Tràng, kiêm thỉnh truyền thọ giới Bồ-tát. Sư theo ngài Duy Khoan vào Nội. Năm mười lăm tuổi, Sư trì tụng các bộ kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy-ma v.v… Năm hai mươi ba tuổi, Sư thọ giới cụ túc. Chỉ bay3 ngày, Sư tụng suốt giới bổn. Sau hai mùa hạ, ngài giảng Luật Tứ Phần. Năm hai mươi bảy tuổi, ngài giảng thông Luận Câu-Xá. Trong vòng bốn mươi năm, ngài tinh hiểu các bộ kinh luận lớn.

Sau, Sư đến chỗ hai Thiền Sư Đại Bi và Vũ Tích tham hỏi tâm yếu. Khi đã thấu đạt, Sư trở về chùa Pháp Lạc ở Gia Kỵ dẫn dắt đồ chúng. Bấy giờ có con Hổ đến nghe pháp, Sư đưa tay xoa đầu, nó bèn bỏ đi. Sau, Sư đến Vĩnh Gia, gặp lúc suy tra, bắt bớ vào pháp nạn Hội Xương, Sư bèn ẩn cư tại Thai Tức trong núi Đại Phù Dung ở huyện Lạc Thành, mà thôi. Đến niên hiệu Đại Trung (87 – 860), trùng hưng Phật pháp, Thái Thú Vi Quân nhiều lần thỉnh mà Sư không đến, bèn cưỡng ép đặt Sư ngồi trên giường khiêng đến ở chùa Khai Nguyên. Đàn Việt đua nhau kéo đến, vội xây dựng Phật điện lớn và phòng nhà, mái hiên, hình tượng, đồng thời viết chép Tạng giáo, thảy đều hoàn bị. Việt Châu Liêm Sứ Thẩm Nhị Khanh thỉnh Sư đến ở viện tại núi Lã hậu. Đó vốn là chỗ hoằng hóa xưa kia của Thiền Sư Ninh Bí. Sư đến chỉ dừng nghỉ nơi thảo am.

Ngày 1 tháng 10 niên hiệu Hàm Thông thứ 2 (861), Sư giã biệt đồ chúng, qua hôm sau (ngày 1), Sư đoan tọa mà thị tịch, thọ tám mươi bốn tuổi, sáu mươi hai hạ lạp, xây tháp an táng tại Vân Cốc. Thứ Sử Việt Châu là Đoàn Thức soạn hành lục của Sư.

13. Truyện ngài Tông Lượng trụ chùa Quốc Ninh ở Minh Châu, thời Tiền Đường.

Thích Tông Lượng, họ Phùng, người ở xứ Phụng Hóa. Nhà ở bên cạnh Nguyệt Sơn, nên sau gọi là Nguyệt Tăng.

Sư xuất gia thọ pháp vào niên hiệu Khai Thành (836 – 81) chuyên thực hành Tỳ-ni, vâng theo bốn oai Nghi, không có hành vi thiếu sót.

Sư bảo rằng: “Ta sanh không phải thời!” gặp lúc pháp nạn Hội Xương, Sư bèn ẩn trong hang sâu ở núi nhà. Đến niên hiệu Đại Trung (87 – 860), xây dựng lại chùa Quốc Ninh, chọn các vị tăng thanh cao, Sư dự làm chức trụ trì. Thái Thú Kiến Châu là Lý Tần làm bia chùa viết rằng: “Với những bậc tâm thanh cao, hạnh chẳng ô nhiễm có hai mươi tám vị. Lấy đủ số đó nhưng rộng trụ trì thì chỉ có Luật Sư Tông Lượng và Thiền Sư Toàn Hựu mà thôi”. Tạng kinh được biên chép của chùa Quốc Ninh, do chính Sư đi tìm bản chánh, chọn lựa giấy mực, nhóm chúng cúng thí. Xây dựng Tam Môn Tạng Viện, các công đức mái hiên đều do công sức của Sư. Đến tuổi về già, Sư chuyên tu thiền tịnh, chẳng ra khỏi cửa chùa. Xử Sĩ Phương Can có tặng Sư bài thơ rằng:

“Nước thu trong trẻo thường thấy đáy
Khe thông ngàn thước chẳng mọc cành
Không môn học Phật biết ít nhiều
Chỉ mình sư cắt đứt hoa tâm!”

Sau, Sư thị tịch tại chùa, thọ tám mươi tuổi.

Sư thường cùng Sa-môn Quý Sương, Thế Ngộ, Bất Ngâm, v.v… mấy mươi vị, đều nắm giữ thanh kỳ, thay nhau làm văn hội, kết bạn dưới rừng, soạn bia chùa Nhạc Lâm. Thi tập có đến ba trăm bài tán tụng, đều lưu hành ở đời. Đối với hai thứ ruộng Phước Điền và Kính Điền, tâm càng bén nhạy mà sâu đậm. Sư được Sanh La Ẩn ở Giang Đông kính mến, An Lạc Tôn Cáp rất kính trọng. Soạn “Tứ minh quận tài danh chí”, theo thứ tự các Nho sĩ tài tuấn ra, riêng đề Thích Tông Lượng, làm cho nhiều bậc văn sĩ tiên đạt ngưỡng mộ.

14. Truyện ngài Đàm Hưu trụ chùa Khai Nguyên ở Việt Châu, thời Tiền Đường.

Thích Đàm Hưu tự Đức Phu, họ Lý, Khí độ rộng rãi, chí hạnh tinh tu. Sau khi thọ giới, Sư không hề buông lung, thiếu sót chút ít. Sư học thông Tiệm giáo, thấu đạt tinh vi, tứ phần luật tướng bộ sớ tông phát triển thành phủ sâu. Các hàng sơ cơ cầu học đều đạt đến rất sâu.

Ngoài việc giảng dạy. Sư còn gánh vác việc chùa Liệu Thằng. Chùa ấy được xây dựng vào thời Nam Lương (02 – 7) đã qua bốn trăm năm, chỉ còn quán các trơ trọi, rui mè kèo cột lại đổ nát. Sư bèn thay cũ làm mới, sửa sang xây dựng không lúc nhàn rỗi, đặc biệt càng thêm rực rỡ. Lại nữa, lầu kinh Hộ Quốc, lên đến trên nóc mái đều thấy đỉnh tân. Kế nữa, cửa lầu của chùa, từ niên hiệu Trường An thứ (70) do cố Luật Sư Đàm Nhất là người đầu tiên xây dựng, rồi bị hoang phế và vẫn được sửa sang lại, giống như mới xây. Sư lại buồn vì Đường tòa phụng thờ ứng thân Pháp Sư Khương Tăng Hội xây dựng vào niên hiệu Vĩnh Huy (60 – 66) quá thấp xấu, Sư bèn khuyến mộ mọi người sửa sang thay đổi khuôn pháp cũ, lúc đó nhằm niên hiệu Hàm Thông (860 – 87). Mỗi lời Sư nói, Đàn Việt thảy đều hưởng ứng.

Sau, Sư thị tịch tại chùa Sư ở, nay là chùa Đại Thiện.

15. Truyện ngài Trí Quảng trụ chùa Khai Nguyên ở Nhã Châu, thời Tiền Đường.

Thích Trí Quảng, họ Thôi, không rõ Sư là người xứ nào. Bình đức hạnh vốn nguyên vẹn, gốc hóa đạo bền chắc. Sư hành hóa rộng lớn, đặc biệt hiển hiện nhiều ký tích. Hễ trăm thứ bệnh tìm đến Sư, thì Sư chỉ dùng mảnh tre làm que chỉ vào chỗ đau, hoặc đánh vào đó, không bệnh gì chẳng lành ngay. Còn như bị bệnh bại liệt thì ngồi dậy, kẻ què quặt thì đi được. Ngoài ra, những bệnh nhỏ nhặt không có gì đáng nói.

Khoảng đầu niên hiệu Càn Ninh (89), họ Vương mới định chế thành đô, Nhã Quận Thủ La (mất tên) bãi nhiệm, dẫn Sư đến yết kiến Thục chúa. Họ Vương vốn biết thuật kỳ đặc của Sư, nên chỉ gọi là “Thánh Sư”. Trước đây, vào niên hiệu Hàm Thông (860 – 87), vua Nam Man và Thản Xước lại vây hãm phủ thành đô. Bấy giờ, Thiên Vương hiện hình Sa-môn cao năm trượng, trong mắt bắn ra ánh sáng, binh lính Nam Man liền rút lui, nên dân chúng đất Thục dựng lập hình tượng vị tăng cao năm trượng trụ chùa Bảo Lịch ở phía Bắc Thành. Sau, bị Ngưu thượng thư dự định phá hủy, kế là binh lửa cùng dấy khởi. Chỉ sợ tượng Tỳ-sa-môn bị phá hủy. Họ Vương bèn nói với Sư rằng: “Dị thuật đạo đức của Sư động tới lòng người, nương đó có thể sửa sang thiên vương được chăng? Ngày trước, Ngô thượng thư đến đất Lỗ, từng mộng lấy bảo phải sửa lại tượng ta mới lo việc kinh dinh. Trừ thư gấp đến, xin pháp lực thành tựu “. Sư theo đó, dời đến dưới Lầu Thiên Vương, ở nghỉ bằng chiếc giường nhỏ đặt trong góc mà thôi. Hôm sau, người bệnh đến đầy nghẹt cửa, mỗi ngày thâu nhận sự cúng thí tứ hai mươi vạn đồng tiền đến ba mươi muôn đồng tiền. Sư lại mở lời khuyên người đem cúng cây gỗ, chỉ trong tuần lễ, đã vận chuyển đến chất thành đống, Sư bảo Tam Cương trông coi.

Ban đầu, Sư ở tại bổn tự trong Quận Nhã, tại nhà thờ thần Yết-Đế, Sư ở chỉ nửa căn nhà, cửa thấp làm bằng tranh cỏ, không cho người nữ đến cửa, chỉ có một ống trúc không, mỗi lúc đến giờ thọ trai, Sư đem hai mươi văn bỏ đầy vào ống rỗng, đặt trên điện Phật, đánh chuông nhóm họp chúng, tự tha đều bình đẳng phân chia. Thường ngày Tín thí cầu thỉnh cúng trai cũng thể theo ý Sư. Chỉ thí hai mươi văn, cơm tịnh, rau cổ châm, ngoài ra không vật khác, cúng nhiều chẳng lấy. Thọ trai xong thì đi, cũng không có lời cáo từ. Về sau, Sư cũng có thêm nhiều vật thần nghiệm, như gặp người bệnh, thì Sư chỉ đánh hoặc quát mắng liền lành, hoặc bảo đốt giấy mân hòa tan trong thức ăn uống. Hoặc bị bệnh quá thống não, thì vắt giấy thấm nước điểm vào cũng lành.

Niên hiệu Quang Hóa thứ nhất (898), Sư sửa chữa lầu Thiên Vương. Đến lúc hoàn tất, Sư bèn men theo sông ngòi ao, chú nguyện thức ăn cho cá. Qua đêm đó, cá lớn chừng hai thước trở lên, có đến muôn ức con đều chết nổi trên mặt nước, Sư liền nhẹ bước theo dòng nước cứu mười ngàn con cá sanh lên tầng trời là đao-lợi, là đồng.

16. Truyện ngài Pháp Tạng trụ chùa Bảo Đài ở Phu Châu, thời Tiền Đường.

Thích Pháp Tạng, không rõ Sư họ gì. Bẩm tánh ngay thẳng, thích ban ân cho mọi vật. Sư từng đến Vi Xuyên, khuyên người xây chùa, điện Phật, tăng phòng, mỗi mỗi đều trang nghiêm rực rỡ. Điêu khắc hoa Vi, Phu Trù mời Sư làm Trang Quán. Bỗng nhiên Sư mắc bệnh hiểm nghèo mà chết giấc. Thấy đến một tinh xá bằng bảy báu trang nghiêm, ở thế gian chẳng có. Phía ngoài cửa có vị Phạm Tăng, dáng mạo kỳ lạ, gọi Sư bảo rằng: “Pháp Tạng, ông xây dựng già lam, đều có quả báo tốt. Tại sao đối với vật của Tam Bảo mà ông có lỗi sử dụng lầm lộn? Như vậy, làm sao tẩy rửa cho sạch?” Ngài cúi đầu tỏ bày. Vị Phạm Tăng ấy bảo: “Ông chỉ nên viết chép kinh Kim Cương Bát-nhã và thường thọ trì, chẳng những tiêu tội, mà còn kéo dài thọ mạng nữa!” Vị Phạm Tăng nói xong, Sư sống lại. Từ đó, tự thân sao chép kinh ấy, nửa đêm tụng trì. Đến lúc Sư thị tịch là một trăm mốt tuổi.

Mọi người ở Điêu Âm đến nay vẫn kính tin sùng trọng Sư.

17. Truyện ngài Hải Vân ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.

Thích Hải Vân, không biết Sư họ gì quê quán ở đâu. Sư đi đến các Thánh tích, ban đầu tới bên cạnh Nam Đài, chọn lấy ngọn núi cao vót quanh co vắng vẻ hang hóc mà đặt biệt ở đó. Sư khắc khổ vui với đạo, chịu khó làm điều khó làm. Người đi theo Sư rất ít, mà Sư cũng không có chúng đông. Đến lúc Sư thị tịch, môn nhân là Thủ Tiết nhặt lấy xálợi xây tháp thờ.

Xưa kia, tương truyền Sư là ứng thân của của Bồ-tát Phổ Hiền, môn nhân Thủ Tiết tức là con của Cao Lực Sĩ. Theo thầy mặc kiệm, có tiến không lùi. Ngài Hải Vân chỉ bày dạy răn rằng: “Ở Thượng Đô có Thiền Sư Ngọa Luân tuy nói là ẩn tích, nhưng thật là mở mang ấn trì của Lục Tổ, một thời khó lường biết. Phương pháp hóa đạo giống như bảy người con cửa Thi Cưu đều nuôi dưỡng. Ông hãy mau đến nương tựa vị ấy!” Đến lúc ngài Thủ Tiết đến diện kiến chưa bao lâu, ngài Ngọa Luân bảo rằng: “Thầy ông là Hải Vân đã thị tịch rồi!” Ngài Thủ Tiết nghe lời đó rất buồn khổ, bèn vội trở về thì đúng như lời ngài Ngọa Luân nói, bèn nối gót hành hóa cùng cày, lúc Sư sắp thị tịch, mây rầu uất kết, quỷ thần buồn khóc, có tháp thờ hiện nay vẫn còn.

Liên hệ thử bàn.

Ngài Hải vân là ứng thân của Bồ-tát Phổ Hiền, phải vậy chăng? Thông đáp: “Bồ-tát mở mang hóa độ chúng sanh chẳng câu thúc nơi bịnh tướng. Như người đáng dùng thân hình Tỳ-kheo để độ thoát liền hiện thân Tỳ-kheo nói pháp cho nghe” – Hỏi: Nếu vậy thì loạn với cảnh giới của Bồ-tát Văn-thù khiến chủ bạn chẳng phân rành ư? Thông đáp: Nếu như đã hỏi tức là sự phân biệt của phàm phu. Các bậc thánh đâu có ngã sở mà cầu ư!

18. Truyện ngài Pháp Hưng trụ chùa Phật Quang ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.

Thích Pháp Hưng, là người ở kinh đô Lạc Dương. Bảy tuổi xuất gia, chảng dự việc đời. Cầm khăn bưng chậu không sợ khổ nhọc. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa, một năm tròn pho bộ, lại tụng Kinh Tịnh Danh chẳng quá chín tuần (3 tháng). Giới luật oai nghi hành trì không phạm. Lại tìm cầu Thánh tích dừng ở chốn suối rừng, ghi danh thuộc chùa Phật Quang. Tiết tháo Sư đơn lẻ cao vợi, thắm đượm lợi vật, thân không chủ trì, giao phó cho môn nhân, tức tu công đức xây dựng lầu Di-lặc lớn ba tầng bảy gian, cao năm thước, tôn tượng bảy mươi hai vị Thánh Hiền, có tám Đại Long Vương theo tô điểm rất trang nghiêm. Chúng tăng ở núi Ngũ Đài khác miệng đồng lời thỉnh Sư nhậm chức “Sơn Môn Đô”, bởi theo thống nhiếp phải có khuôn phép chuẩn mực, hòa xướng không tranh cãi.

Tháng Giêng niên hiệu Thái Hòa thứ 2 (828), nghe giữa hư khôngcó tiếng bảo rằng: “Giờ nhập diệt đã đến. Nay thiên chúng ở cung trời Đâu-suất đến đón rước”. Khi đó, Ngài tắm gội thân mình, đốt hương, ngồi thẳng mà thị tịch, xây tháp thờ cách chùa một dặm về phía Tây Bắc.

19. Truyện ngài Hạnh Nghiêm ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:

Thích Hạnh Ngiêm, là người xứ Vinh Dương, gia đình nhiều đời làm nghề dệt tơ, Sư nối nghiệp kinh sách, Sư bẩm thọ đình cáo để chu toàn, khi nào thành pháp khí có thể dùng cứu giúp. Trong muốn tùy kế, không bao lâu phát khởi túc duyên. Nhân nghe phẩm Kinh “Diệu Trang Nghiêm Vương”, bèn thưa với cha mẹ xin thoát trần lao. Gia đình ngăn cấm, nhưng Sư không lùi chí, thế rồi cắt bỏ trang sức xa hoa. Đến năm đủ tuổi, Sư thọ giới, hỏi đạo các nơi, có thừa khả năng. Nghe ở núi Ngũ Đài, Ngài Văn-thù ứng hiện, phàm Thánh lẫn lộn dấu vết, Sư bèn tìm đến ghi danh ở xứ đó. Từ đó, Sư chỉ trích học, Tam giáo đều thông, đàm luận giữa trời người mà người nghe mịt mờ chẳng biết là trong ngoài khu vực! Các hàng vương công đại nhân không ai chẳng hồi hướng.

Vào niên hiệu Thái Hòa (827 – 836), Sư thường thực hành và khuyên người tạo phước, tự thiết trai cúng dường lớn, mỗi ngày có đến ngàn vị. Những người thấy nghe đều khen ngợi rằng: “Hạnh hợp với giải thông, báu lạ ít có trên đời. Pháp trợ đạo phải tu như thế!” Niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch. Xây tháp thờ cách chùa một dặm về phía Tây.

20. Truyện ngài Nguyện Thành trụ chùa Phật Quang ở núi Ngũ Đài thời Tiền Đường:

Thích Nguyện Thành, họ Tống, vọng gốc Tây Hà, gia đình nhiều đời có gia phong trong sạch, khơi nguồn xa dòng chẳng nổi dậy, con cháu tiếp nối ông cha chẳng ghi chép. Mẹ của Sư họ Âm, ban đêm Bà mộng thấy cây rước sân nở hơn ngàn hoa, hoa lần lượt rơi rụng, chỉ kết một quả. Tỉnh giấc bèn mang thai Sư. Mẹ Sư phát tâm nguyện được mang thai một đứa con trai là đủ. Sau mười tháng, đến ngày sanh quả đúng như ước mong, bèn đạt tên Sư là Nguyện Thành. Sau, chỉ muốn giữ tên đời, chẳng thích Pháp danh, vâng theo ý của từ mẫu. Sư từ nhỏ đã kính mến Không môn. Tuy làm quan học nhưng sanh ra đã có chí dứt trần. Tới lúc nương tựa nơi đất vàng, đảnh lễ Đại Sư Hạnh Nghiêm mà tôn xưng làm thầy. Ngài Hạnh Nghiêm là ngọc khuê, ngọc chương của Nho tông; Là sư tử trong họ Thích. Một ngày nọ bảo Sư rằng: “Ông, thần tình trong sáng đẹp đẽ, nên ở trong núi tinh cần tiết chế, há chẳng thể làm được ư?”

Vào niên hiệu Thái Hòa thứ 3 (829), Sư xuống tóc. Hai năm sau (831), Sư thọ giới cụ túc. Trước tiên, Sư trì tụng các bộ kinh thảy đều tinh luyện, khiến các hành nhân ghé tai nghe đạo ngày một đông nhiều.

Bỗng nhiên gặp phải pháp nạn ở niên hiệu Hội Xương (81 – 87) thảy đều dừng bỏ, chỉ mình Sư giữ chí không lay động. Đến niên hiệu Đại Trung (87 – 860) Phật giáo được sùng hưng, chọn lựa tăng chúng, riêng Sư đứng đầu. Sư bèn tìm lại chùa Phật Quang, đã bị hoang phế, Sư phát tâm lần lượt xây dựng mới lại. Tiếng tốt lan tràn tới tai vua. Chóng ban thánh chỉ ban tặng pháp y sắc tía. Nhà Hậu Lý từ lâu đã có tinh môn, từ xa kính phụng đức Văn-thù, đích thân đi đến thánh địa, trông thấy lịnh phạm, vỗ tay vui mừng, dâng biểu lên vua nhà Đường, kế đó bèn tặng Sư hiệu là “Viên Tướng” lại sung thêm chức “Sơn Môn Đô Kiểm hiệu”

Niên hiệu Quang Khải thứ 3 (887), Sư sắm sanh các thức ăn ngon, bảo tăng xả y bố thí. Đến lúc tiếng chuông dẫn chúng đều đến Trai Đường, thì Sư nằm nghiêng bên hông phải, gối đầu lên tay, lặng lẽ thị tịch. Xây tháp dựng bia cách chùa một dặm về phía Tây bắc.

21. Truyện ngài Thành Tuệ trụ chùa Thiên Tử ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường.

Thích Thành Tuệ, ngài là Tông minh tổ phái của ngài Nguyên Lễ, người trong ấp cũ ở Linh Khâu, thuộc Uất Châu. Cha mẹ Sư có đức tin sâu, chú ý đến sự trong mát. Nhân chiêm lễ tôn dung đức Đại Thánh Bà mới cầu con làm hưng thịnh đất nước, thế rồi bà mang thai, bèn sanh hiền tử. Vừa đến tuổi búi tóc mà khí mạo tài năng như trời nương tựa, tự đến núi Ngũ Đài, mãi mãi làm con Phật. Bấy giờ, Thích Pháp Thuận ở điện Chân Dung thấy Sư tỏ vẻ tuấn triết, bèn dùng giáo pháp “Khổ” “Không” chỉ dạy, khuyên Sư xả bỏ thế tục đắp mặc pháp y. Đến lúc đăng đàn thọ giới cụ túc, Sư rất chăm học tỳ-ni. Từ đó về sau, một mình Sư đến chốn khe hang, thường hay ở ven suối rừng. Có các Sa-môn Trạm Sùng, v.v… thỉnh Sư ở chùa nầy. Sư gánh vác chùa đó, những lúc rãnh rỗi, đối với điển giáo nội ngoại, chẳng bỏ mảy may, cúng dường chiêm lễ tinh nghiêm không gì chẳng cung kính. Sư thường trì tụng kinh Hoa Nghiêm đến cả trăm bộ. Mỗi lúc đến cuối quyển, Sư khẩn thiết phát nguyện rằng: “Xin dùng tay tôi cầm kinh cứu người khổ não kia “. Gặp lúc Võ Hoàng cùng vua Thái Tổ (Chu Ôn – 907 – 913) thời Hậu Lương chiến tranh đánh nhau, trung nguyên chưa quyết định. Võ Hoàng trúng phải tên rơi, bị thương đau nhói khó chịu đựng, nghĩ nhớ đến Sư, bèn đốt hương nhớ tưởng, cơn đau bèn dứt, bay xa tới Nhạn trắng, thấu đạt gà vườn, bèn thỉnh Sư xuống núi đón rước vào cung. Võ Hoàng tự thân bái lạy, cảm tạ đức Từ Bi, bèn ban hiệu cho Sư là Quốc Sư. Sau đó, Sư xin trở về chùa cũ, núi vàng ngời sáng, cây ngọc cùng nương. Trân báu khắp chín châu đều đến, lầu đài của trăm chùa thảy dựng xây. Đến lúc Vua Trang Tông (Lý Tần Húc thời Hậu Đường) lên ngôi (923) ban chiếu tặng Sư pháp y sắc tía, và tuyên phong hiệu Sư, nhưng Sư cương quyết chẳng nhận. Nhà vua lại tuyên cáo, sau đó Sư đến nội cung, lại thêm vinh hiển. Sư thọ ân một tháng rồi giã từ trở về núi Ngũ Đài.

Đến tháng 12 năm Ất Dậu (92) tức niên hiệu Đồng Quang thứ 3, Sư dặn dò môn nhân là Đình Khuê rằng: “Nay tôi hóa duyên sắp mãn. Ông nên vì tôi mà dâng di biểu với triều đình. Mỗi người hãy tự gắng sức tu trì, chẳng thể thay nhau được!” Nói xong, bèn vào Trượng Thất, Sư nằm nghiêng bên hông phải mà thị tịch, thọ năm mươi tuổi, ba mươi hạ lạp.

Vua Trang Tông nghe mà xót thương, bèn sai Cao Phẩm trông hộ giúp đỡ lễ tang, và ban sắc cúng tế ba ngày. Sau khi trà-tỳ, còn lại di cốt năm mầu, thâu nhặt xá-lợi xây tháp thờ. Vua ban tặng Sư thụy hiệu là “Pháp Vũ”, tháp hiệu là “Từ Vân”.

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG.

(Quyển 27 hết).