TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

Đại Sư Thông Tuệ chùa Thiên Thọ ở Tả Nhai Tứ Tử Sa-môn Tán Ninh v.v… vâng sắc soạn
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN 23

 

CHƯƠNG BẢY: DI THÂN

(Chánh truyện có hai mươi hai vị, phụ có hai vị)

1. Truyện ngài Tăng Tạng ở Phần Châu, thời Tiền Đường:

Thích Tăng Tạng, người xứ Hà Tây. Từ thuở tuổi nhỏ mà đã bạt tục, khí tốt thần thanh, theo con đường lành, ở nơi ngôi vị thấp. Đến lúc thấm nhuần thiện giới, thầm giữ căn trần. Thấy đền thờ các bậc hiền nhân thì kính lễ, gặp những bậc thảy đức thì thạy đều lễ bái, như gặp kẻ tăng người tục bái lạy lại thì Sư liền cúi đầu khom mình mà chạy như lánh né lịnh trưởng. Như đang lúc làm việc chúng tăng thì đồng như tịnh nhân, khuất mình như che giấu. Thấy y phục cũ của người khác thì ngâm dầm giặt nhuận, riêng việc may vá, đến lúc nắng thì cởi áo vào trong lùm cây rậm, bị các loài thuồng luồng, ve, ruồi, đỉa, bò cạp hút máu, máu đổ mà chịu đựng thấm ướt mồ hôi. Và Sư thường xưng niệm hồng danh Phật A-di-đà. Tuy khéo trải qua mà chẳng thể định được toán số. Đích xác chí thầm lặng tâm không hề thiếu sót. Đến lúc dự biết báo thân đã sắp cùng tận, Sư nói với thầy thuốc chăm sóc bịnh Sư rằng: “Sơn Tăng nhiều may mắn được các trời người lần lượt đến đón rước!” Sư lại nói: “Lúc tôi nhắm mắt nghe vãng sanh Tịnh Độ. Nhóm tụ các bậc thượng thiện nhân rải hoa, sẽ trở lại cõi nầy”. Ngay lúc xả bỏ thọ mạng, Sư chắp tay niệm Phật, an nhiên thị tịch.

2. Truyện ngài Chánh Thọ trụ chùa Sơn Quang ở Hán Đông, thời Tiền Đường:

Thích Chánh Thọ, không rõ Sư là người xứ nào. Phong nghi vời vợi trang nghiêm, tiết tháo cao cường. Sư mang tích cầm đãy, các Tông Sư đều đến tham yết, nhưng vì nhân duyên hòa hợp, nương tựa có chỗ kết quy, Sư ở trong môn phong của Thiền sư Tháo ở Nam Tháp, quyết xé lưới nghi, thầm tu dưỡng ích. Sau, Sư lại trầm lắng tại chùa núi ở Tùy Bộ, mọi người đều không biết.

Bấy giờ, Tiều Vương Trùng Khước, tức con thứ của vua Trung Tông, vào đầu niên hiệu Thần Long (70), Vi Thứ Nhân dèm pha mách bảo là cùng anh em Trương Dịch tạo thành tội Trùng nhuận, bèn đổi đến làm Thứ Sử Quận Châu, kín thêm gìn giữ, chẳng việc thấy nghe. Vi Hậu vào triều thêm binh sĩ phòng vệ, đến lúc dòng họ Vi bị giết hại, vua Duệ Tông lên ngôi (710) thì chuyển đến làm Thứ Sử Tập Châu, chưa thực hành mà chốc chốc tỏ vẻ chẳng vui, luôn quy tâm về Thiền sư Tháo, xây dựng tháp Sanh Tạng mà cúng dường Thiền sư Tháo, cao chừng bảy mươi thước rất rực rỡ rộng lớn. Đến lúc Thiền sư Tháo lâm bịnh đã nguy nan, Tiều Vương sai người thưa hỏi: “Sau khi Ngài thị tịch ai là người tiếp nối Tông phong?” Thiền Sư Tháo bảo: “Bần đạo có đệ tử là Chánh Thọ sẽ ở đây”. Tiều Vương hỏi: “Trong chúng tăng ai là Chánh Thọ?” Có người nói: “Hòa-thượng có vị đệ tử đang ẩn dấu ở Sơn Quang”. Tiều Vương liền sai sứ thỉnh Sư Chánh Thọ đến. Sư thưa với Thiền Sư Tháo: “Mừng thay! Tiều Vương làm đàn việt! Tháp thầy xây dựng đã hoàn thành, đệ tử muốn vì thử trước có được chăng?” Thiền Sư Tháo bảo: “Ông khéo thử!” Khi đó, Sư vén y chắp tay vào trong tháp, thúc liễm tôn dung nhắm mắt ngồi kiết già mà thị tịch, toàn thân không rã hoại. Bấy giờ, xưng hiệu Sư là: “Thí Pháp Hòa-thượng”. Tiều Vương nghe thế rồi khen ngợi suốt ngày, nói rằng: “Đệ tử còn được như thế!” Mới riêng bàn đổi tháp khác, xây dựng tháp khác cho Thiền Sư Tháo.

Liên hệ thử bàn:

Người trước có tâm đoạt người, Ngài Chánh Thọ trước Thiền Sư Tháo. Phàm người trực vãng hẳn có khả năng qua lại. Nghiệp lụy chẳng nhờ, lồng châu chẳng đậy. Thoát khỏi nương nhờ, mở toang lồng đậy, sanh tử tự tại. Đã là tự do tức đã vượt lên quả vị. Từ tục đế mà quán xét thì Ngài Chánh Thọ thoát ra mầu xanh Từ mầu Lam, mà hay nương tâm mạnh chân thoát ra trước cả thầy mình, một ngày ngàn dặm, là nghĩa nầy vậy.

3. Truyện ngài Vô Nhiễm trụ viện Thiện Trụ ở núi Ngũ Đài, thời Tiền Đường:

Thích Vô Nhiễm, Sư chẳng thuộc dòng tộc nào. Từ núi Trung Điều Thọ Nghiệp, Sư giảng Luật Tứ Phần, Kinh Niết-bàn, Luận Nhân Minh và Bách Pháp. Người học pháp lành nương theo đó.

Ngài trì tụng Kinh Hoa Nghiêm, nói đến trú xứ của các vị Bồ-tát ở thế giới vàng ròng ở phương Đông Bắc, Bồ-tát Văn-thù cùng một muôn thánh chúng từ xưa đến nay thường trú trong đó mà giảng nói Pháp. Hoặc hiện hình ông lão, hoặc hiện hình trẻ con. Gần đây nghe có Ngài Phật-Đà-Ba-Lợi từ Tây Vực đi đến, chẳng mỏi mệt vượt qua sa mạc, không từ nan tuyết lãnh mà quyết tìm Thánh tích.

Dưới thời vua Cao Tông (60 – 683), Sư đến dảnh Tư Lương ở núi Ngũ Đài, đảnh lễ khải cáo cầu thỉnh, mới thấy được ông lão, tức là Bồtát Văn-thù. Ngài Phật-Đà-Ba-Lợi tuy nói rằng: “Mặt tuy tiếp nhận mà chưa quyết tâm nghi. Bèn bảo đến nước phương Tây thỉnh nhận kinh, đến hang Kim Cương vào cảnh giới của Bồ-tát Văn-thù, đến nay chưa trở lại. Các bậc cổ đức được như thế, ta đây há chẳng có duyên ư?” Sư bèn theo gót Ngài-Đà-Ba-Lợi cất bước tham phỏng các vị nổi tiếng, thành gặp Thiền tông, thấu cùng lý tánh. Hoặc từ trong Kinh pháp tịch, nghiên cứu huyền vi.

Niên hiệu Trinh Nguyên thứ (791), Sư đến viện Thiện Trụ ở núi Ngũ Đài. Bấy giờ, có Sa-môn Trí Quân là Đô Kiểm Hiệu Thú của mười chùa ở Ngũ Đài, là người đứng đầu trong các Tăng trưởng. Ngài bèn dừng ở nương tâm, phát thệ nguyện chẳng ra khỏi núi. Thường nghĩ đến hóa cảnh của Bồ-tát Văn-thù chẳng phải phàm tình mà hơn được, đâu nên lười biếng. Mùa Đông thì lượm củi cúng dường chúng tăng, mùa Hạ thì cất bước vân du, mùa Xuân mùa Thu chẳng đổi dời hơn hai mươi năm, trước sau hơn bảy mươi biến, Sư đi khắp các Đài, trông xem hóa hiện cầu vàng, tháp báu, chung khánh sáng ngời, chẳng tận cùng ngằn mé. Sư nói: “Chuột của tùng bách chẳng biết trong nhà thầm có cây tùng tốt đẹp ư? Nói càng có hơn so với các điềm lành. Ta chỉ được chút ít chưa lấy làm đủ” Cuối cùng ở trong Đông Đài bỗng nhiên trong thấy một ngôi chùa đề biển hiệu là “Phước Sanh”. Trong đó, phạm tăng có đến muôn vị. Sư từ đầu lễ bái lần lượt thăm hỏi. Thấy Bồ-tát Văn-thù cũng là vị tăng, bảo với Sư rằng: “Ông có duyên ở đây, phải nên gánh vác việc chúng, chớ được bỏ mất, có nguyện không hạnh mà thôi”. Nói xong ngôi chùa và tăng chúng hóa hiện biến mất không còn nữa.

Sư bèn khen ngợi rằng: “Thấy được điềm linh dị này, há có thể theo sao? Đây là thân nguy ách có gì lâu bền!” Bèn vâng theo lời nói đó mà rộng bày cúng thí. Mỗi lần thiết trai cúng dường một trăm muôn vị tăng và đốt một ngón tay để ghi nhớ, dần dần đến số năm trăm muôn, xa gần đều ủy thác, như nước biển chảy vào ao. Mãi đến lúc cúng dường hoàn tất ngàn muôn vị tăng thì mười ngón tay đều đốt hết. Đến niên hiệu Khai Thành (836 – 81), Sư bạch với đại chúng rằng: “Ở núi này tôi có nhân duyên mỏng manh! Đã bảy mươi hai lần đi khắp các Thánh tích, chỗ mọi người chưa đến tôi đều đã đến. Lại chẳng ra khỏi núi này là đã báo nguyện sâu xa, hạnh chẳng có gì lớn lao, biết làm sao vì đã già suy, nay đã tuổi bảy mươi bốn, năm mươi lăm hạ lạp, và còn được chút hơi thở thừa, muốn đến trên đỉnh Trung Đài nhóm đốt nén nhang, cáo từ mười phương các đức Như Lai và một muôn vị Bồ-tát. Hoặc tôi tắt hơi qua đời, thì ai là người chịu thay thế! Huống gì các người đều là môn nhân của Bồ-tát, là quyến thuộc của Long Vương, gieo trồng hạt giống lành, được ở núi này, sớm tối tinh cần buộc ràng ba nghiệp. Long Hoa Tam Hội cùng kết yếu kỳ. Đây là lúc tôi xuống núi, xin chớ gây trở ngại!” Sư lại chắp tay nói rằng: “Xin trân trọng!” mà đi. Tăng chúng lúc đầu không hiểu ý chỉ của Sư, đều bảo là:”sớm trở về!”

Sư bèn đem theo bình bát, tích trượng, chỉ đốt ít danh hương, và bèn bảo Triệu Hoa họ Quý đem theo sáp ong, hai cây vải bố, một bó gai thô, một đấu nhựa hương đi đến đảnh Trung Đài. Từ sáng đến chiều tối, Sư đốt hương lễ bái, không tạm nghỉ chút nào, chẳng hề ăn uống, kính thành niệm Phật, tiếng không xen hở. Đã đến canh khuya, họ Triệu thị lấy làm quái lạ về việc của Sư, bèn trèo lên chỗ cao, thấy Sư chẳng đổi dời chỗ cũ mà càng thêm tinh chuyên. Sư nói với họ Triệu rằng: “Tôi có ước nguyện sâu kín, ông hãy trọ duyên cho tôi, không nên ngăn cản. Nên lây sáp vải gai đến bó ràng vào thân tôi. Vào giữa giờ Tý đêm nay, tôi muốn đốt thân cúng dường các Đức Phật. Nếu tôi đắc đạo sẽ độ cả ông!” Họ Triệu can ngăn khổ thiết khuyên cầu mà Sư chẳng từ bỏ. Đem vải quấn vào thân, trải lên lớp gai đã rưới dầu từ đảnh đầu mà đốt. Sư lại bảo: “Đem cốt tro của tôi phải thổi cho tan chớ để cho hiển bày quái dị!” Họ Triệu mỗi mỗi đều vâng theo chẳng dám sửa đổi. Sư đốt từ đầu, lửa cháy đến chân mới ngã. Họ Triệu bèn khen ngợi rằng: “Xưa kia được nghe Bồ-tát Dược Vương thiêu thân, nay thật thấy được Thượng nhân. Thật kỳ đặc thay! Tha thiết thay!

Sau, môn nhân thâu nhặt chân cốt, xây tháp ở phía Nam núi Phạm Tiên. Đến nay vẫn còn.

4. Truyện ngài Định Lan ở chùa Phước Cảm, thuộc phủ Thành Đô, thời Tiền Đường:

Thích Định Lan, họ Dương, người ở Thành Đô. Vốn là hạng người hung ác, rượu thịt nơi chốn cửa chợ. Trời ban cho quyết tánh, sửa đổi lỗi lầm trước, Sư phát thệ nguyện dự vào lục hòa, hành hóa khắp tam Thục. Người thời bấy giờ thảy đều quy y kính tín, xây dựng một ngôi chùa lấy hiệu là Thánh Thọ. Nhân duyên chưa phát, Sư vẫn phải ẩn tàng để giữ gìn. Cha mẹ Sư đã sớm qua đời, không vốn liếng để có thể truy vãng. Mỗi lúc đến ngày húy kỵ, Sư khóc nghẹn ngào, khỏa mình vào trong núi Thanh Thành, tùy tiện để cho các loài thuồng luồng, muỗi, ve, nhặng, ruồi cắn ăn da thịt. Sư nói rằng: “Xả bỏ Nội tài là để báo đáp ân cù lao!” Trong xứ đất Thục có loài ểnh ương đen trắng, thân hình như hạt thóc, gặm ăn miệng và thịt người nhưng ít thấy chúng. Kế đến Sư chích máu viết kinh, sau thì thiêu đốt cánh tay, cho đến xẻo tai móc mắt thí cho chim thứu, thú dữ ăn. Thế rồi Sư bước đi bộ, chẳng người nâng đỡ dẫn dắt mà va chạm vật bị vấp ngã. Sau, có một người lạ trên tay cầm một vật như hạt ngọc sáng, bên trong trống rỗng, khoảnh khắc nhìn kỹ như cũ, thầm bảo rằng: “Nam Thiên Vương hoàn trả lại Sư nhãn châu!” Mọi người xa gần đều kinh hãi. Sư thường nói với mọi người rằng: “Tôi nghe trong Kinh Thiện Giới nói là “Vô Thượng Thí”, tôi nguyện siêng năng thực hành để mau đạt được thượng quả!”

Niên hiệu Đại Trung thứ 3 (89), vua Tuyên Tông ban chiếu thỉnh Sư vào nội cung cúng dường, vì kính ngưỡng sự cảm ứng của Sư, nên dùng ưu lễ mà phụng dâng. Đệ tử là Hữu Duyên thường lo mọi việc chung quanh. Đến tháng 2 niên hiệu Đại Trung thứ 6 (82), Sư lại phát nguyện thiêu đốt bắp tay. Vua nhiều lần khuyên can, cho rằng Sư tuổi đã già lại thêm siêng năng tu luyện lâu dài. Sư chẳng vâng theo chiếu chỉ, bèn tự thiêu đốt mà thị tịch. Ngài Hữu Duyên dâng biểu xin đổi tên xây tháp. Vua Tuyên Tông ban sắc tặng Sư thụy hiệu là “Giác Tánh”, Tháp hiệu là “Ngộ Chân”.

Mọi người ở xứ Thục Đô chỉ gọi là “Định Lan Tháp Viện”. Đến nay hương hỏa vẫn chưa dứt.

5. Truyện ngài Hồng Hưu (Cảnh Tuyên) trụ chùa Kiến Phước ở núi Hoàng Bá thuộc Phước Châu thời Tiền Đường:

Thích Hồng Hưu, không rõ Sư là người xứ nào. Thẩn vũ tiêu đĩnh, huyền cơ cán vận. Sư trụ tại chùa Hoàng Bá thuộc đất Mân, luôn đông đúc người đến thưa hỏi. Ngoài việc chỉ bày dạy dỗ, Sư luôn vui vẻ. Sư từng nói rằng: “Nợ trước phải đền trả, đền trả hết thì đâu còn gì phải lo sợ. Ta và vật đều tiêu dao”. Mọi người đều không hiểu được ý chỉ ấy. Đến niên hiệu Quảng Minh (880 – 881) giặc cướp dẫy đầy. Sư ra phía ngoài chùa cởi bỏ áo nạp, đứng trên tảng đá dưới gốc thông, nói rằng: “Thệ nguyện chẳng làm dơ bẩn chốn đất thanh tịnh”. Và an tường ngửa cổ đợi đón mũi nhọn. Mũi nhọn rơi xuống mà không chảy máu. Bọn giặc lật lại, kinh hãi lấy làm lạ, lạy dài mà sám hối. Đệ tử Sư là Cảnh Quang trà-tỳ di thể thâu nhặt được bảy viên xá-lợi, đựng trong đãy rất quý trọng. Có người dốc lòng kính tin đem hạt đậu đúng như số lượng mà đổi lấy, đuổi theo mà chẳng kịp, bèn sang bói cỏ thi. Với quẻ doán nói rằng: “Sinh tử sang hèn không phân quẻ ta, tại hay chẳng tại, mất hay chẳng mất. Ai biết thể nào?”. Đến lúc có được bèn tôn trí vào tháp, phân bảy hạt đựng trong bình lưu ly tỏa ánh sáng rực rỡ. Bấy giờ, có Samôn Thanh Khoát soạn văn tụng ghi lại đức hạnh của Sư.

6. Truyện ngài Toàn Khoát trụ viện Nham Đầu ở Ngạc Châu, thời Tiền Đường:

Thích Toàn Khoát, họ Kha, người ở xứ Tuyền Châu. Thuở thiếu thời Sư tài trí trội vượt, khí độ rộng xa mà khoan dung. Sư đến đảnh lễ Đại Sư Nghị Công ở Thanh Nguyên, tôn làm thầy. Rồi sang Trường An, đến chùa Tây Minh nơi Đại Sư Chiếu Công, được thọ giới cụ túc, tức ở chùa Bảo Thọ ở Tả Nhai, nghe tầm kinh luật, quyết chọn cương tông, thành tự dẫn giảng. Ngài chống tích về hướng Nam, đi đến bái yết ngài Đức Sơn ở Võ Lăng. Thuốc bịnh tương ưng, không còn nghi ngờ vướng mắc. Sau, Sư ở chỗ gần Động Đình, đất đó gọi là Ngọa Long, Sư bèn cất thất mà ở. Đồ chúng đồng bạn đến nương theo, Sư lại đến ở núi Đường Niên. Núi đó có Thạch Nham cao vợi mà hiểm hóc. Sư lập biển hiệu của Viện là “Nham Đầu”. Hễ có thi dụng đều phải chân thật, ngồi sừng sững, nhậm chúng vây quanh. Sư bảo: “Các ông sao không nghĩ chỉ trong nhà có ít nhiều công việc, thật đối với cảnh thuận nghịch chứng đắc tướng siêu việt?” Vào niên hiệu Quang Khải (88 – 888) Sư lại đến Trung Nguyên, vốn có lắm sự, chư hầu lập riêng từng góc, giặc cuồng lại dánh cướp, đồ chúng đều trốn lánh, Sư vẫn an nhiên, giặc trách Ngài không cung cấp biếu dâng, tức giận khiến khua ném mũi nhọn. Sư vẫn không tỏ vẻ sợ hãi. Ngày mùng 8 tháng năm Đinh Mùi (887) thuộc niên hiệu Quang Khải, môn nhân tạm an táng, sau đó lại trà-tỳ có được bốn mươi chín viên xá-lợi. Vua Hy Tông ban tặng Sư Thụy hiệu là “Thanh Nghiêm”, tháp hiệu là “Xuất Trần”. Mọi việc trong lễ tang đều do đàn việt anh em Điền Vịnh chi xuất của cải lo liệu. Sa-môn Thích Huyền Thái ở Nam Nhạc soạn văn bia khen ngợi đức hạnh Sư đề xướng cao vợi. Bấy giờ, Sư được gọi là Nham Đầu Pháp Đạo” khó mà lãnh hội.

Liên hệ thử bàn:

Hai Ngài Hồng Hưu và Toàn Khoát lâm nạn sao không tránh khỏi ư? Thông đáp: Cái khó của phàm phu là cái dễ của Bồ-tát, trải qua nhiều đời kiếp xả bỏ, đó đâu có gì hy hữu ư?. Xưa kia, Ngài An Thế Cao nhiều lần đền trả oan trái, xả bỏ như phủi nghiệp, trần lụy mới nhẹ, khổ nương thân hết, đổi thể bền chắc. Thần tiên từ mũi nhận mà chết, gọi đó là “Kiếm giải”, huống gì các Sư là người chánh tu chứng quả, đạo lý quán đãi chẳng vì không chết mà hổ thẹn.

7. Truyện ngài Nguyên Tuệ trụ chùa Pháp Không Vương ở Gia Hưng, thuộc Quận Ngô, thơi Tiền Dường:

Thích Nguyên Tuệ, họ Lục, là cháu của Tấn Bình Nguyên Nội Sử Cơ, cha của Sư là Đan Văn Lâm Lang Văn Kỵ Úy Ôn Châu Liệu Tào Tuệ, tức là Trọng Tử. Thuở bé Sư dĩnh ngộ, lúc trưởng thành thì hài hòa, sợ làm rùa khô, lo làm nhạn gầy.

Niên hiệu Khai Thành thứ 2 (837), Sư từ giã thân thích, đến chùa Pháp Không Vương, nương tựa Ngài Thanh Tấn làm đệ tử. Niên hiệu Hội Xương thứ nhất (81) Sư sang Hằng Dương thọ giới pháp, mới tập học tỳ-ni, Sư vào lễ bái núi Ngũ Đài, bèn quán các điềm lành. Năm sau, Sư trở về Ninh Gia Hòa, trụ chùa Kiến Hưng, lập chí hành trì Tam Bạch Pháp, trì tụng năm bộ Mạn-noa-la. Trên cánh tay Sư thiêu đốt hương cúng dường. Đến niên hiệu Hội Xương thứ (8), cùng bị pháp nạn nên bị đào thải thanh trừng, Sư tạm ẩn làm người tại gia. Đến niên hiệu Đại Trung thứ nhất (87), Sư trở lại Pháp môn, đến niên hiệu Đại Trung thứ 7 (83), Ngài xây dựng lại chùa Pháp Không Vương, lại đốt hương trên cánh tay để cúng dường báo ơn Sơn Phật Nha. Tiếp đến, Sư sang núi Thiên Thai độ Thạch Kiều, lợi đã đi qua, không còn lo lắng. Vào niên hiệu Hàm Thông (860 – 87), Sư theo đón rước xá-lợi cốt ngón tay giữa của Phật đến chùa Trùng Chân ở Phụng Tường. Sư tự đốt ngón cái tay trái, miệng luôn trì tụng Kinh Pháp Hoa, ngón tay ấy chưa qua một tháng đã mọc lại như cũ.

Niên hiệu Càn Ninh thứ 3 (896), tình cờ Sư nói: “Trái tôi!”. Qua ngày 28 tháng 9, Sư thị tịch tại Viện Tôn Thắng, thọ bảy mươi tám tuổi, năm mươi tám hạ lạp. Đệ tử Sư là Đoan Túc v.v… đón rước thần tòa an táng ở xứ Ngô Hội, xưng hiệu Sư là Tam Bạch Hòa-thượng. Sư Lễ bái trì tụng, nhiều chẳng thể tính kể số, như ở biệt lục có ghi.

Liên hệ thử bàn:

Đốt ngón tay cái, lửa hết tro bay, làm sao ở chỗ đã bị cháy, xương thịt lại mọc chẳng bao lâu lại như cũ. Đây cùng với hoa sen trong lửa đồng chủng loại mà khác trạng thái ư? Và sao gọi là Tam Bạch? Thông đáp: Hai thứ sự lý, một bạch phạn, bạch thủy, bạch diêm là sự vậy; hai thân chẳng biến xúc, miệng tụng chân kinh, ý chẳng vọng duyên. Ba diều minh bạch chẳng phải là hắc nghiệp, nên có tên ấy.

8. Truyện ngài Trúc Thảo Sư trụ chùa Bồ Đề ở Kinh Triệu thời Tiền Đường:

Thích Thúc Thảo Sư, không rõ Sư từ đâu đến, trụ chùa Bồ-đề trong phường Bình Khương ở Kinh Triệu. Sư là người hình vóc chẳng đủ mà thần thái tài giỏi, ngâm vịnh ca hò tự đắc, ít giao tiếp với người đương thời, vả lại chẳng nói rõ tên họ. Sư thường mang bó rơm khô, ngồi nằm dưới hai hành lang, chẳng thích ở trong phòng nhà. Có người nói đó là hạnh đầu-đà. Qua vài năm, các vị cương nhậm trong chùa khuyên Sư nên ở trong phòng, cũng có người cười chê Sư như vậy là là bê bối. Sư bảo: “Chán ghét tôi ư? Ở đời chẳng kham mến thương, sao có thể lớn được!” Đêm đó, Sư bèn dùng bó rơm thiêu đốt thân mình, đến sáng hôm sau chỉ còn tro than, không lưu lại hài cốt, lược hết mùi bụi dơ, lại không tiếng lúng búng kinh hãi. Tính thấy một ít rơm khô ấy không thể thiêu đốt toàn xác thân này, không còn chút gì, nhưng đó là Sư nổi lửa Tam-muội mà tự đốt thân. Cả chúng đều khen ngợi, rất nhiều người dân đến trông xem kính lễ. Các hàng tín sĩ khắp kinh ấp bèn đắp tro ấy thành hình tượng vị tăng, tôn trí phụng thờ bên cạnh tượng Phật. Người đời xưng hiệu Sư là”Thúc Thảo Sư”. Cầu nguyện có nhiều ứng nghiệm.

Liên hệ thử bàn:

Trong Kinh Xử Thai chép: “Bồ-tát thiền định nhiếp ý nhập hỏa giới Tam-muội. Hàng chúng sanh ngu mê cho đó là Bồ-tát gặp phải kiếp lửa thiêu. Tỳ-kheo chưa được như thế. Không dùng việc nầy để huyễn hoặc người. Nếu dùng ít rơm khô mà đốt được hình hài lớn, thì đáng tin. Nên trong sách nói rằng: Dân không dò xét trù trướng là huyễn! Than ôi!

9. Truyện ngài Hạnh Minh trụ tại Lan-Nhã ở Nam Nhạc, thời Tiền Đường:

Thích Hạnh Minh, họ Lỗ, người ở xứ Trường Châu thuộc Quận Ngô. Thuở nhỏ, Sư theo thầy ở bổn bộ, sau du phương theo học Đạo. Ngài có chí khí hiên ngang, kiêu ngạo phóng khoáng.

Ban đầu, Sư đi khắp núi Ngũ Đài, Nga My, đảnh lễ các vị Bồ-tát ở hai thề giới sắc vàng, sắc bạc và thảy đều tùy tâm ứng hiện. Từ đó, Sư lên Thiên Thai, vượt qua La Phù, vào Hành Nhạc, đến Tử Đồng. Gặp lúc Đường Quý Sương nhiễu loạn chung quanh, tranh giành tầm thường mà chưa dứt, chẳng có năm nào yên ổn. Khi ấy, Sư nương gá dưới ngọn núi Chúc Dung, có chí nguyện sống đến cùng tại đó. Sư dừng ở đài Thất Bảo, làm bạn kết giao với Ngài Huyền Thái. Tánh Sư tốt xấu thế nào Ngài Huyền Thái cũng không chống đối sự khinh trọng ấy. Sư có nói với bạn đạo rằng: “Tôi không nguyện theo Tăng Nhai tự thiêu thân ở lầu gỗ, cũng chẳng muốn làm như Khuất Nguyên vùi chôn mình trong bụng cá, mà trọn thệ nguyện xả bỏ thân mình, học hạnh của Thái tử Tát-đỏa vượt qua nhiều kiếp mà thành Quả Thánh, có thể được chăng?” Tuy Sư thường nói như thế nhưng đều chẳng tin. Bỗng nhiên ở giữa khoảng rừng thưa, Sư gieo thân mình trước loài hổ dữ, nó tranh giành nhau mà gặm ăn, trong chốc lát thịt hết sạch. Khi đó, Ngài Huyền Thái thâu nhặt xương cốt còn lại thiêu đốt và có được Xá-lợi. Mới hái hoa, rưới nước làm văn mà cúng tế. Trong văn từ nói rõ năng lực mạnh mẽ có thể bỏ hết nội tài, phá pháp keo kiệt thành đàn độ, chưa xả, đã xả và đang xả; ba luân chóng không, nhận lấy quả lớn như cúi nhặt hạt cải.

Liên hệ thử bàn:

Phật dạy bố thí thân mạng cho chúng sanh thọ thực, được hai đời thuận ích cảm quả chẳng phải nhẹ. Như Ngài Hạnh Minh thành đại đàn độ, lìa bỏ keo kiệt, tham lam. Thành tựu năng lực mạnh mẽ, được sức vô úy, thành tam luân không, công đức vô vi, thành tựu khó xả, tâm thanh tịnh cõi Phật. Chỉ một lần xả bỏ thân mình mà lợi ích rộng lớn thay! Thí như tổn phí của người khéo thưởng là ít mà khuyên gắng thì nhiều, nghĩa là như vậy.

10. Truyện ngài Thích Tức Trần trụ Viện Tam Học ở Vĩnh Hòa, thuộc Thái Nguyên, Thời Hậu Tấn:

Thích Tức Trần, họ Dương, người ở xứ Tinh Châu. Cha của Sư mua bán có không kiếm lời mà thôi. Mẹ của Sư nằm mộng thấy một người ăn mặc trang nghiêm kỳ vĩ xinh đẹp đến nói xin ở nhờ qua đêm. Lúc tỉnh giấc bà liền mang thai. Khi mới sanh có tướng đứa bé khác thường, chẳng giống như bao trẻ khác. Mỗi lúc nghe tiếng chuông khánh hay tán tụng thì liền ngưng thần lắng nghe.

Năm mười hai tuổi, nhân mộng thấy người vàng, hình trạng lạ lùng dẫn Sư vào Tinh Lô (tịnh xá). Sáng hôm sau, Sư liền thưa với cha mẹ cầu xin xuất gia. Trước khi chưa được chấp thuận, Sư khóc mà chẳng ăn, cha mẹ thương xót đó là thiên nhiên, tình cảm làm sao có thể cản ngăn, bèn bằng lòng. Sư liền vào Viện Thảo Đường, theo Thầy

trì tụng Kinh Duy-ma, giới Bồ-tát, đến nửa đêm chẳng ngủ. Sắp tròn một năm thì Sư bỏ bổn, tụng thuộc lòng. Năm mười bảy tuổi, Ngài đến Giảng Tịch nghe và tập học Kinh Duy-ma, hiểu biết đại khái về nghĩa lý. Đến năm hai mươi tuổi Sư thọ giới cụ túc, hành trì luật nghi, không hề thiếu sót. Năm hai mươi ba tuổi, văn nghĩa Sư đã thông nhiều. Bèn đến chùa Sùng Phước, chỗ Pháp Sư Tông Cảm đang thắng tập truyền trao. Sư lại học các luận Nhân Minh, Duy Thúc, chẳng thiếu phu diễn. Học đồ dĩnh đạt vượt thoát chỉ được vài người, có Đại sư Biện Tài Tùng Thức ở chùa Sùng Phước tài giỏi nhất.

Vào niên hiệu Thiên Hựu thứ 2 (90) thời Tiền Đường, Lý thị Yêm Hữu Hà Đông, Võ Hoàng Đế thỉnh Sư đến ở viện Tịnh Độ chùa Đại An, chuyên cấp cúng dường tứ sự. Sư lại chuyên ròng xem đọc Tạng Giáo, tu luyện nghiệp thượng sanh, thiết bày Đại Trai hội Vô Giá, trước sau có đến năm hội. Sư từng vào chốn sơn cốc đem thân mình muốn bố thí cho loài cọp sói. Các loài thú ấy chỉ đến gần ngửi thử mà bỏ chạy. Sư lại đến khoảng giữa rừng thưa khỏa thân cho loài muỗi nhặng cắn đốt. Sư bèn đến chùa Tiên Nham Nhạc để dưỡng Đạo lắng thần, lại xem đọc Đại tạng kinh khắp một lượt rồi thiết trai, Ngài đốt một ngón tay, tỏ bày báo đáp diễm phúc ấy. Tại chùa đó có tôn tượng đức Đại Thánh Bồ-tát Quán Thế Âm, Sư sắm sanh bảy cây đèn lớn dài và hoa hương để dâng cúng. Sau, bị mọi người đến thỉnh Sư xuống núi, vào nội thành truyền giảng, mở mang Đại Luận, suốt năm không thôi nghỉ, cứ hằng tháng bày tắm gội. Sư đến nơi sông, ao hồ bố thí thức ăn cho loài thủy tộc. Lấy đồ cúng của mình để chuộc mạng loài chim muông. Sư trầm lắng cao minh để toại sanh tánh, hoặc cấp thí cho người tù tội được ăn, hoặc ban ân cứu giúp cho kẻ nghèo khổ, hoặc quyên tạo phướn lọng ở hai ngôi tháp Tịnh Minh, và Kim Tạng.

Niên hiệu Trường Hưng thứ 02 (931) thời Hậu Đường, đại chúng thỉnh Sư đến sau chùa Đại An Quốc xây dựng Viện Tam Học, cúng đãi thính chúng bốn phương. Bấy giờ, Sư giảng Kinh Hoa Nghiêm bản tân dịch, truyền trao cho Đại Sư Kế Huy ở chùa Sùng Phước. Do đó, suốt ba năm Sư không ra khỏi cửa viện, cứ mỗi chữ một lạy trọn bộ Kinh Hoa Nghiêm, trọn một biến cứ mỗi chữ một lạy Kinh Đại Phật Danh, cộng cả thảy một trăm hai mươi quyển. Ngài lại tự đốt một ngón tay, trước sau đốt tất cả năm ngón tay. Bấy giờ, Tấn Cao Tổ (Thạch Kính Đường) ngầm kích động ở Tấn Dương, rất kính trọng Sư. Đến lúc lên ngôi (936 – 93), cứ mỗi lần Sư vào kinh đô Lạc Dương chầu hầu, thì Nhà vua đều thỉnh Sư vào Nội điện, thung dung ban tặng rất nồng hậu, nhà vua ban tặng Sư y phục sắc tía và ý hiệu, Sư cố từ chối mới thôi. Sư nghe tại chùa Pháp Môn ở Phụng Tường có chân thân cốt tiết ngón tay giữa của Đức Phật, bèn giã từ nhà vua, sang Kỳ Dương chiêm lễ. Sư trông thấy rất hy hữu kỳ đặc, nên lại đốt thêm một ngón tay để cúng dường. Hai bàn tay của Sư chỉ còn hai ngón mà thôi. Sư lại tiếp tục đến chùa Thiên Trụ, tập học luận Câu-Xá với Pháp Sư Sở Luân. Mới qua vài ngày, Sư bị bịnh nhẹ. Đến giờ Thìn ngày 27 tháng 7, Sư nằm gối trên cánh tay mà thị tịch, thọ sáu mươi ba tuổi, bốn mươi bốn hạ lạp.

Bình thường, Sư chỉ mặc áo vải thô chẳng chứa để vật gì. Thường ngày sáu thời lễ bái không hề thiếu sót, khắp vùng Lũng Để nghe tin Sư thị tịch, kẻ tăng người tục đều đầy đủ oai nghi tiễn đưa, trà-tỳ thâu nhặt được mấy trăm viên xá-lợi. Đệ tử đem linh cốt Sư về Thái Nguyên. Vua Cao Tổ thời Hậu Tấn ban sắc an táng tại Tây Sơn thuộc Tấn Thủy. Ngôi tháp nhỏ đến nay vẫn hiện còn.

Liên hệ thử bàn:

Sư xả bỏ hết như thế có thể hơn được năng lực tinh tấn của Sư ư? Thoát lạc phù vinh há có thể hơn được nghĩa giải ấy ư? Nếu như thế thì không thể dùng một tên mà xưng gọi, nhất quyết như hoa chiêm bặc. Mầu sắc vàng mà đẹp thì vàng ròng phải tạ sắc ấy, hương thơm tỏa xa thì Ngưu Đầu còn thẹn mùi hương ấy. Nhiều tên sanh từ một thể. Đó là Ngài Tức Trần.

11. Truyện ngài Đạo Dục trụ chùa Bình Điền ở núi Thiên Thai, thời Hậu Tấn:

Thích Đạo Dục, là người nước Tân-la. Dòng họ và quê quán của Ngài tại bổn quốc chưa biết rõ.

Năm Nhâm Tý (892) thuộc niên hiệu Cảnh Phúc, thời Tiền Đường, Sư đến núi Thiên Thai, lúc trở về, Sư trụ trong chúng đường chùa Bình Điền, luôn tỏ tâm từ ái tiếp vật, mà chẳng hề bỏ tiếng nói của vùng đất mọi rợ, Sư thường chấp trì mọt bình bát mà thọ thực, ăn xong kinh hành, và thường hay ngồi, khi nằm lưng hông chẳng đặt trên chiếu. Hằng ngày Sư lo việc lau quét Chánh điện hành lang, sửa sang trong thường trụ, được thức ăn thừa thì ăn. Tuy thức ăn có mầu xấu đã đổi mùi nhưng đều thâu nhặt để trong bình bát đến giờ thọ trai thì tự ăn. Sư lo nấu nước trà quét dọn buồng tắm, thấy các loài trùng nhỏ trong cây củi thì bắt lấy để nơi đất xa, Sư bảo hộ sanh mạng rất tha thiết như thế. Sư chỉ mặc áo nạp vải thô, rất nặng nề khó mang. Từ đầu mùa Hạ đến cuối mùa

Thu, lúc mặt trời xế bóng, Sư cởi áo để mình trần cho các loài muỗi, ve, nhặng, đỉa v.v… đốt chích hút máu, đến nỗi máu chảy ra trên đất. Sư luôn thực hành như thế hơn bốn mươi năm không hề phế bỏ. Hễ tình cờ gặp khách đến thăm hỏi, Sư chỉ nói hai chữ: “Ấy! Ấy!” mà thôi. Sư thật sự không biết tiếng Trung Hoa nhưng lại nhận hiểu ý người không sai lầm. Tóc trên đảnh Sư rũ xuống tận bạch mày và rối bù, thân Ngài thường lưu xuất xá-lợi có mầu xanh đỏ, tợ như những hạt châu. Nếu có người khẩn cầu đều tùy ý mà được.

Đến ngày mùng 10 tháng 10 năm Mậu Tuất (938) tức niên hiệu Thiên Phước thứ 3 thời Hậu Tấn, Sư thị tịch trong tăng đường. Tính ra lúc đó Sư đã hơn tám mươi tuổi. Chư tăng đón rước lên phía sau núi tràtỳ, trong tro than nhặt được xá-lợi nhiều vô số kể. Hoặc có người nhặt được xương lớn.

Niên hiệu Thanh Thái thứ 2 (93) thời Hậu Đường, Sư từng đến Thạch Lương, lúc trở về Sư nghỉ trong phòng nhà. Lúc đó đang mùa Xuân ấm, Sư cũng đốt gốc cây để sưởi, trong miệng luôn nói láp váp suốt đêm chẳng thôi. Có người bảo: “Hễ ngày thiết Đại trai cúng dường La-hán thì Sư không ăn. Có người thấy nghinh đón La-hán khi đó hỏi Sư sao chẳng vào nội điện thọ cúng, thì miệng Sư bảo: “Ấy! Ấy!” rồi bỏ đi. Hoặc nói là thí cho các loài trùng ăn. Khi đó liền thấy bầy hổ đến ngửi rồi bàng hoàng bỏ đi.

12. Truyện ngài Cảnh Siêu trụ Am Hương Tích ở Lô Sơn, thuộc Giang Châu thời Hậu Tấn:

Thích Cảnh Siêu, không rõ Sư là người xứ nào. Vốn nghiêm trì giới luật như tiếc giữ chiếc phao nổi. Tánh Sư thẳng thắn, nói chẳng tùy theo mặt. Đến lúc du phương dời chân, Sư chọn chỗ tốt lành mà gá thân. Sư đến Lô Phong, bèn có ý muốn ở luôn tại đó, chỉ trì tụng Kinh Pháp Hoa, nuôi chí làm việc thường ngày. Dân chúng vùng Cửu Giang phần nhiều rất có ảnh hưởng. Sư từng lễ bái Kinh Hoa Nghiêm, cứ mỗi chữ một lạy, tính ra đã hai biến. Sư bèn đốt một ngón tay để cúng dường mừng việc lễ bái trọn bộ Kinh. Tiếp theo Sư lại lễ bái Kinh Pháp Hoa cũng đồng như trước. Trên da dẻ trong thân Sư ẩn ẩn hay lưu xuất xálợi, long lanh tròn sáng. Nếu có người khẩn cầu thì nơi chiếu ngồi hoặc nơi đất đi thâu nhặt được xá-lợi vô số. Vào niên hiệu Thiên Phước (936 – 93) Sư thị tịch tại Am. Đến nay, mộ tháp Sư vẫn hiện còn tại Lô Phụ.

Mọi người du phương đến đó hết lòng đảnh lễ khen ngợi.

Liên hệ thử bàn:

Nói di thân tức xả bỏ toàn thân như Thái tử Tát-đỏa. Nay chỉ dùng

ngón tay làm đèn, hay đem cánh tay làm đuốc, đâu được xếp vào cùng hàng như thế, há chẳng quá may mắn chăng? Thông đáp: Đốt một ngón tay, cắt một cánh tay, đó là gia hạnh của di thân. Huống hồ trong thời tượng Pháp, mạt pháp thì đó lại là việc rất khó. Giống như Liêm Ngung giữ phần ít, khi nhập vào Tuần Lại Truyện thì đồng.

13. Truyện ngài Chí Thông trụ Chùa Pháp Môn ở Phủ Phụng Tường, thời Hậu Tấn:

Thích Chí Thông, họ Trương, là con nhà tiếng tăm ở Hữu Phù Phong. Sư sớm biết xả bỏ thế tục, khắc chí chuyên việc ở tịnh môn. Chọn lễ các bậc danh sư, bước lên thượng phẩm. Các giảng tịch ở mọi nơi Sư đều đến khắp và lưu tâm để ý.

Cuối thời Hậu Đường (936), binh giặc dấy động, từ đó Sư đặt giá lần dò đi về phương Đông, đến Lạc Hạ. Gặp được Tam Tạng Pháp Sư Phiệt-Nhật-Ra đang hành trì pháp Du-già, Sư bèn kính lễ mà phụng thờ. Khi đó Sư bèn có ý vượt qua Thiên Thai tìm tới La Phù, nên bèn từ giã. Ngài Phiệt-Nhật-Ra nói: “Tôi tới đây cầu phiên dịch, gặp phải trung nguyên có lắm việc. Ông thử bàn đi đến phương Nam, làm sao có thể đi con đường thẳng ư?” Sư thưa: “Bồng bềnh thiên tiệm, Ngài sao giống con vậy!” Ngài Phiệt-Nhật-Ra bảo: “Nếu như đến dược Ngô Hội thì có thể giao cho ông kinh điển bản Phạn, hoặc có duyên tụ hội thì truyền dịch!” Sư thưa: “Đã nghe lời chỉ bảo.

Đến năm Kỷ Hợi (939) tức niên hiệu Thiên Phước thứ , thời Hậu Tấn, Thiên Vương sắc ban đến Ngô Việt, Sư bèn nương theo thuyền biển đi đến Chiết Trung. Bấy giờ, Văn Mục Vương họ Tiền vâng lệnh triều đình thỉnh đón Sư, đầy đủ oai nghi nhạc bộ đón rước Sư vào phủ đình để cúng dường, và an trí Sư trụ tại chùa tháp Chân Thân, cúng dường ban thưởng rất nồng hậu. Sư xin đến núi Thiên Thai. Do đó, Sư lên Xích Thành, vượt qua Hoa đảnh. Thế rồi đến dừng ở tại đạo tràng của Đại Sư Trí Giả. Nhân xem đọc bộ “Tây Phương Tịnh Độ Linh Thụy truyện”, bèn đổi hạnh hồi tâm nguyện sanh về cõi nước ấy. Lúc bình sanh, Sư ngồi chẳng quay lưng về hướng Tây. Trong núi có “tảng đá vẫy tay” là chỗ xưa kia Đại Sư Trí Khả mộng thấy trên tảng đá ấy có vị tăng đến trên biển với hình trạng đưa tay vẫy gọi, khi Ngài Trí Khả vào núi Thiên Thai thấy vị tăng đó tên là Định Quang, vành tai cao vót quá đảnh, và cũng chẳng biết đó là thần tăng. Vừa mới gặp, vị tăng ấy nói với Ngài Trí Khả là”lúc trở về có thể ghi lại được tướng vẫy gọi chăng?” Ngài Trí Khả nói: “Ở tảng đá ấy cao vót, trông nhìn xuống không thấy đất”. Sư leo lên trên tảng đá ấy tự gieo mình, nguyện chóng sanh về Tịnh Độ, thân rơi xuống trên một cành cây đại thọ, cành nhánh mềm mại như có người nâng đỡ, rất lạ là không thương tổn gì. Sư lại gieo mình rơi xuống núi nằm trên cỏ non, có tổn thương chút ít, giây lát sau Sư tỉnh lại. Tăng chúng trong chùa cho rằng Sư đã bị chó sói, hổ ăn thịt, đến lúc trông thấy Sư còn sống mà bị tổn thương, bèn khiêng Sư đến trong đạo tràng. Lúc Sư đi không báo cho chúng tăng biết, nên mọi người chia nhau đi ở các đường tìm kiếm, đến xóm Loa Khê, ở đó có vị đồng bống nói lắm việc rất ứng nghiệm, nên chư tăng bèn đến hỏi thử. Thần nói: “Vị tăng ấy (Chí Thông) hiện ở phía Tây Nam, có thần Kim Khải bảo hộ không chết. Ta đến đó, vì khí thần hết, nên khó có thể lại gần”. thảy đều phù hợp vơi lời thần nói.

Sau, Sư sang Việt Châu trụ ở núi Phát Hoa, lắng tu tịnh nghiệp. Lúc sắp thị tịch, tại phòng Sư ở, đất đều biến thành mầu trắng, mọi vật như truyền phân. Sau đó không lâu, Sư ngồi trên giường thiền mà thị tịch. Lúc rước tòa trà-tỳ, có khói năm mầu phủ trên đảnh đầu, trong sông Pháp Hoa đều nghe có mùi hương.

Liên hệ thử bàn:

Xưa kia, Ngài Bạc-Câu-La có năm lần chẳng chết, nay Ngài Chí Thông có hai lần chẳng chết. Xưa kia, Ngài Pháp Sung ném lò hương ngàn nhận mà chẳng mất, nay Ngài Chí Thông cũng đồng. Há chẳng được trời, rồng nâng đỡ, che chở mà chẳng tổn hại mảy lông ư? Và có khả năng kéo dài, gìn giữ sắc tâm không đứt đoạn như thế, làm sao giúp Sư tăng tu tịnh nghiệp như vậy.

14. Truyện ngài Đạo Chu, trụ chùa Vĩnh Phước ở Linh Võ, Sóc Phương, thuộc thời Hậu Tấn:

Thích Đạo Chu, họ Quảng, Người ở xứ Hồi Lạc, thuộc Sóc Phương. Thuở bé, Sư thông minh thanh nhã, rõ ràng có oai nghi. Tuy tụng đọc thi thư mà Sư lại thích nghe sách Phật, quyết tâm xuất gia, trụ viện Khổng Tước Vương ở chùa Long Hưng, thành tựu được giới châu, dần trìn trăng tâm. Sư ngâm nga tán tụng rõ ràng, mọi người rất thích nghe. Sư đốc xuất các hàng tín sĩ xây dựng chùa Vĩnh Hưng. Công việc hoàn thành Sư chẳng nắm giữ, bèn giã từ Linh Soái Hàng Công Thù vào hang động Cỏ Trắng ở núi Hạ Lan, lập nguyện hẹn thời gian trì niệm, cảm cách đến suối khô nên nước lại tuôn chảy, có rắn linh bơi lội ở trong, bèn trèo lên pháp đài mà đàm luận, người tại gia, xuất gia đông đúc như ong bướm nhóm họp, đàn thí cung cấp chất thành núi. Sư tán xướng âm hưởng có thể ngăn cả mây bay, cách vận cả những người hung dữ nhu cú vọ. Sư chích máu viết thần chú Đại Bi Thiên Thủ Thiên Nhãn mà lập tượng. Gặp lúc trời nắng hạn, Sư tuyệt thực nhắm mắt, lấy kỳ hạn trời mưa mới nói đến việc no bụng.

Vào niên hiệu Trung Hòa thứ 2 (882) thời Tiền Đường, nghe ở

Quyết Phụ nhiễu loạn, Sư bèn đến dưới tháp viện Định Niệm ở Nam Thành, chặt cành tay trái và đốt để cúng dường tôn tượng Đại Bi, nguyện chiến tranh chấm dứt, trên bình nguyên sớm thấy binh lính thôi nghỉ. Sư nói vừa xong thì sấm gió nổi dậy, mưa tuôn xối xả. Sư lại cắt xẻo vành tai trái vì dân chúng ma cầu mưa. Sư lại tuyệt thực bảy ngày để thỉnh cầu tuyết rơi thảy đều như ý nguyện, đến Phiên Lạc thì ai cũng sợ hãi.

Đến ngày mùng 6 tháng 2 năm Tân Sửu (91) tức niên hiệu Thiên Phước thứ 6 thời Hậu Tấn, hôm đó, chưa quá nửa đêm, Sư ngồi kiết già dặn dò môn nhân rồi an nhiên thị tịch, thọ bảy mươi tám tuổi. Di thể Sư không tan rã, như nhập thiền định, bèn sơn phết lên.

Vào niên hiệu Kiến Long (960 – 963) thời Bắc Tống, có Quách Trung thứ xem đọc các sách, thuở nhỏ học rất giỏi, có tài viết chữ Triện, chữ Lệ, nhiều việc đều biết rành. Nhân đi đến Bắc Duệ dò hỏi sự tích của Sư mà soạn văn bia xưng tụng.

15. Truyện ngài Thích Hồng Chân trụ chùa Quảng Khánh ở kinh đô Lạc Dương thời Hậu Hán:

Thích Hồng Chân, họ Thuần Vu, người ở xứ Toan Tảo, thuộc Hoạt Châu. Thuở nhỏ, Sư tỏ ngộ được trần lao, quyết cầu xuất gia. Tánh Sư an nhiên, như mây hạc cùng cao. Thầy Sư trao cho bộ Kinh Pháp Hoa, bèn tùy theo văn mà Sư phát sanh hiểu biết. Sư mặc áo giáp tinh tấn, nhiếp phục mọi sân nhuế. Nếu thấm đượm của đàn thí thì Sư xoay mặt mà xả. Sư trì tụng Kinh Pháp Hoa khoảng chừng muôn bộ. Đến cửa triều đình dâng biểu xin được tự thiêu đốt toàn thân để cúng dường tháp Phật. Nhà vua ban sắc bảo không đúng thời. Chính là phát xuất ra nhiều cửa, hoặc có người dèm pha là người mê hoặc quần chúng, có người nói là chảng lợi gì cho nước nhà. Nên triều đình ban sắc nghiêm ngặt ngăn cản. Sư than rằng: “Căn lành trồng cạn, ma chướng rất mạnh dữ, chẳng lẽ ta lại dừng!” Sư bèn trở vè chùa Quảng Khánh, dốc hết của cải y phục vật dụng thực hiện bố thí Phi thời, sở nguyện được hoàn mãn. Ngay năm đó, không bịnh tật gì, Sư an tọa mà thị tịch, qua mấy ngày sau mà sắc mặt vẫn như lúc còn sống, bèn đón rước trà-tỳ, chỉ chiếc lưỡi không cháy mà càng thêm hồng đẹp. Bấy giờ, những người trông thấy đều khen ngợi là việc ít có. Sư thọ năm mươi hai tuổi. Khắp vùng kinh đô Lạc Dương đều kính trọng như khi Sư còn sống.

16. Truyện ngài Tuệ Minh trụ chùa Báo Ân ở Tiền Đường thời Hậu Chu:

Thích Tuệ Minh, họ Tương, người ở xứ Tiền Đường. Sư nghiên cùng Tam học, dần vào tinh vi. Sau Sư lên Mân Việt, dần đến Lâm Xuyên, đảnh lễ Thiền Sư Văn Ích, hợp sâu Chánh lý. Sư tỏ ngộ được tâm yếu, trước tiên chẳng khởi tình kiến sanh diệt. Sau Sư trở về đất Chiết, ẩn cư tại vùng cát trắng núi Thiên Thai, dựng lập liêu cỏ, có đạo phong như Ngài Tuyết Phong Trường Khánh. Người đến ngày một ít dần, cho rằng lời Sư là ma nói.

Vào niên hiệu Càn Hựu (98 – 91) thời Hậu Hán, lúc Sư từ núi xuống, có Thúy Nham Sâm Công đốc suất các thiền bá đến viện Tư Hiến của tăng chủ định đoạt định đoạt đúng sai. Lời nói của Sư không thể bị chiết phục. Bỗng nhiên, Hán Nam Quốc Vương họ Tiền xây dựng chùa Đại Báo Ân, thỉnh Sư nhậm chức Trụ trì, hiệu là Viên Thông Phổ Chiếu Thiền Sư, mà Sư lại hành trì Huyền Sa Chánh Nhãn. Nếu chẳng phải là Sư thì sao có thể đến đó được.

Đến niên hiệu Hiển Đức (9 – 960) thời Hậu Chu, Sư thị tịch, lúc đó trời rất nắng nóng, mọi n gười muốn an táng nhục thân Sư. Có đệ tử của Ngài là Vĩnh An nói rằng: “ Hiểu thầy (Tuệ Minh) chỉ có tôi thôi! Xin nên trà-tỳ sẽ có được xá-lợi năm mầu, mỗi mỗi đều tròn sạch. Ban đầu, Sư đốt một ngón tay làm đèn cúng dường ở núi Thiên Thai. Sau Sư lại thiêu đốt ba ngón mà chuyên cần giữ đúng thời khóa hành trì, xương sườn Sư hơi dính vào chiếu. Lúc Sư nói Pháp, tánh rất thẳng thắn, nói lắm điều trái ngược sự vật. Đó là sở đoản của Sư.

17. Truyện ngài Phổ Tĩnh trụ chùa Từ Vân ở Tấn Châu thời Hậu Chu:

Thích Phổ Tỉnh, họ Như, người ở xứ Hồng Động, thuộc Tấn Châu. Sư xuất gia từ thuở thiếu thời, nương tựa Pháp sư Tuệ Trừng ở tại Bổn Bộ. Tối tụng các kinh, sáng trì mật chú. Nghĩ muốn lên thượng Phẩm, nguyện cắt đứt tóc xanh. Đã xuống Đàn Vuông mà theo luật kiểm. Sư sang đảnh lễ Chân thân tại chùa Pháp Môn ở Phụng Tường, mới đến Tuy Dương thính thiệp. Sư tới chùa Long Hưng giảng dạy đồ chúng đồng bạn như Cá Chiên Vị đến gặp Giao Long. Sư lại hứa đến Cầm Đài thỉnh chuyển Phạn Luân. An mà hay dời đổi, lại ở Trần Thái Tào Hào Túc Tứ, mỗi nơi đều tùy duyên mà dẫn đạo. Sư trở lại chốn nầy là Dương Hóa thuộc Đông Kinh, những người hiện thiện đều nương theo.

Năm Quý Mão (93) thuộc niên hiệu Thiên Phước thời Hậu Tấn. Sư nhớ đến bổn độ, muốn trở về quê cũ, bèn tuyệt thực phát nguyện: “Nguyện một ngàn lần xả thân để chóng thành Chánh Giác. Đến niên hiệu Hiển Đức thứ 2 (9) thời Hậu Chu, Sư gặp thỉnh chơn thân vào chùa bèn dâng trạng trình bày với Châu Mục Dương Quân “Nguyện thiêu đốt tự thân để cúng dường”, Dương Quân chấp thuận ý nguyện của Sư, Sư bèn sang chùa Quảng Thắng. Dân chúng khắp Châu hoặc đem dâng hiến hương hoa trái quả, hoặc dùng tràng hoa đưa dẫn, hoặc khóc lệ cùng đi theo, hoặc chúc tụng dẫn đường. Đến ngày mùng 8 tháng , ở trước tháp Chơn Thân, Sư phát Đại Nguyện rằng:”Nguyện ngan lần tự thiêu đốt thân mạng, bây giờ là một trong ngàn lần”. Xong rồi Sư từ từ đi vào trong am củi, tự đốt lửa lớn. Khi đó thì khói bay xác thảm, khí hương mây sầu, cả chúng cùng khen ngợi, các hàng dân thứ buồn khóc. Sư thọ sáu mươi chín tuổi. Các đệ tử thâu nhặt tro tàn còn lại để cúng dường.

18. Truyện ngài Thủ Hiền trụ chùa Đại Thánh ở Hành Dương thời Bắc Tống:

Thích Thủ Hiền, họ Khâu, người ở xứ Vĩnh Xuân, thuộc Tuyền Châu. Thuở thiếu thời, Sư thông minh mẫn đạt, trầm lắng sâu sắc, phát nguyện đến Viện Cát Tường theo thầy xuống tóc, đắp mặc pháp phục. Sau du phương tham học, Sư đến nương tựa đạo tràng của Thiền Sư Vân Môn mà tỏ rõ được tâm quyết. Sư lại đến Hành Dương, đại chúng suy cử Sư Giảng Pháp. Sư là người mặc áo nạp luyện nhã, như sự hội tụ của trăm Châu về ao sớm tối. Sư không mặc y phục gấm vóc thêu thùa, chỉ mặc áo vải khố da mà thôi, suốt năm không đổi khác. Lưng Sư chẳng hề dính chiếu, chỉ ngồi trên giường dây nhắm mắt suốt đêm, trừ có ai hỏi điều gì, Sư tùy đó mà mở phát, ung dung tự giữ.

Đến niên hiệu Càn Đức (963 – 968) thời Bắc Tống, một hôm, tự nhiên Sư bảo với đại chúng rằng: “Tôi có trái nguyện chưa đáp trả, tâm chưa được yên”. Sáng hôm sau, Sư vào núi Nam Diêu, gieo mình cho hổ ăn. Khi các đệ tử cùng nhau đi tìm, thấy hai chân và khố da của Sư hiện còn, bèn thâu nhặt mà trà-tỳ có được vô số xá-lợi, Sư thọ bảy mươi bốn tuổi. Hiện nay, di thể Sư đang được tôn trí trong tháp nhỏ.

19. Truyện ngài Sư Uẩn trụ chùa Bát-nhã ở núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:

Thích Sư Uẩn, là người ở xứ Kim Hoa, quyết tánh chân thật, chẳng thích phong thực, gặp việc thuộc tình, có nhiều thẳng thắn.

Vào niên hiệu Long Đức ( 912 – 923) thời Hậu Lương, Sư cùng Thiền Sư Đức Thiều kết bạn đi xa, du phương tham phỏng danh sư thắng cảnh. Sư đến Bắc Đại núi Thanh Lương, lắng tâm đi lễ bái khắp. Sau lên chỗ hoang vắng Thương Ngô, trèo đến ngọn núi Chúc Dung, nhưng, Ngài Đức Thiều hoặc có lúc theo lúc không, khi trở về đất Chiết, Sư lại dừng ở trong Pháp hội của Ngài Đức Thiều. Sư là người điều người quản chúng, thường luôn nói chuyện khôi hài. Nếu có người thích cười giỡn thì Sư cùng đùa bỡn như keo sơn, nên những bậc cao đạt đặt để Sư ngoài khuôn phép, chỉ có mình Ngài Đức Thiều im lặng mà biết rõ Sư. Ngài Đức Thiều nói với mọi người rằng: “Ngài Sư Uẩn si cuồng, tôi đây chẳng lường biết được ngằn mé”. Nhân bị bịnh, Sư cầu thỉnh chư tăng thực hành văn sám hối, tụng kinh và mật chú, mỗi luận có đến mấy trăm tạng làm hạn độ, mới biết rằng Sư thầm hành trì chẳng biếng trễ. Sư từng nói với các bạn đạo rằng: “Tôi sống không ích lợi gì cho mọi người, muốn ngồi yên trên đỉnh núi, chợt xuống dưới Thạch Kiều, sở nguyện của tôi là mong sớm dự vào hàng Thánh Hiền”. Bạn đạo phần nhiều cản ngăn ước tính ấy.

Đến tháng 7 niên hiệu Khai Bảo thứ 6 (973) tự nhiên không bịnh, Sư an trụ mà thị tịch, như nhập thiền định. Đến lúc thiêu đốt thi thể, dựng đứng suốt mười bốn ngày mà thân không tựa nghiêng, các khiếu huyệt không mùi hôi hám, bèn nghinh dời thần tòa đến góc phía Đông chùa mà trà-tỳ. Trong lửa cháy hết, ngoài sự thâu nhặt xá-lợi còn chiếc lưỡi không rã hoại, lúc tro tàn thâu nhặt lấy, sắc mầu hồng đỏ như phù cừ, rất mềm mại. Có người bảo rằng: “Vị tăng ấy (Sư Uẩn) không có điều kỳ dị riêng, đây là vật tình cờ còn lại”. Mới đốt lại, chiếc lưỡi ấy tùy đồng như sắc lửa, lâu sau trở lại như lá sen, mọi người bàn nhau làm một tháp nhỏ để tôn trí trong chùa. Sau, có người không tin, lại đốt qua vài mươi lần.

Lúc bình sanh, Sư không nói rõ về dòng họ và tuổi tác, nên mọi người nhìn vào dung mạo mà ước đoán Sư ngoài tám mươi tuổi.

20. Truyện ngài Thiệu Nham trụ chùa Chơn Thân Bảo Tháp ở Hàng Châu, thời Bắc Tống:

Thích Thiệu Nham, họ Lưu, người ở xứ Ung Châu. Mẹ của Sư họ Trương, lúc mới mang thai Sư, nằm mộng rất kỳ lạ. Đến lúc sanh, dáng vẻ Sư như thần vĩ, ở tuổi trưởng thành Sư có khí độ rộng sâu. Năm bảy tuổi, Sư khổ thiết cầu xin xuất gia, nương tựa Thiền Sư Cao An. Năm mười tám tuổi, Sư thọ giới cụ túc với luật sư Hoài Huy. Trăm bộ Kinh sách xem đọc như ôn tập. Từ đó, Sư đến chiêm lễ Thánh tích ở các nơi, dần đến Ngô Hội, dừng nghỉ tại núi Thiên Thai thuộc Tứ Minh, cùng Thiền sư Đức Thiều đồng quyết dứt nghi ngờ dính mắc nơi Pháp Tịch của Ngài Lâm ích ở Lâm Xuyên, Sư bèn đến chùa Hồ Thủy Tâm ở Tiền Đường nương ở, thường trì tụng Kinh Pháp Hoa bất kể ngày đêm. Bỗng nhiên cảm ứng trên đất liền ở giữa sân mọc lên hoa sen, dân chúng khắp thành đều đến chiêm ngưỡng, Sư vội nhổ lấy mà dẫm đạp đi.

Năm Tân Dậu (961) tức niên hiệu Kiến Long thứ 2, Sư tụng Kinh và phát nguyện rằng:”Mong tròn ước nguyện đồng như Bồ-tát Dược Vương đốt thân để cúng dường”. Bấy giờ, Hán Nam Vương Quốc họ Tiền rất dốc lòng kính trọng quy ngưỡng Sư, khổ thiết lưu giữ Sư lại. Bỗng nhiên Sư ngầm trốn tự gieo mình xuống sông Tào Nga, muốn dùng thân mình cho cá ăn, lại được ngư ông cứu vớt, bảo rằng có vị thần nâng chân cứu, chìm chẳng được, y phục nổi bồng bềnh trên mặt nước mà kích sóng khơi đưa, Sư như người trên đài báu. Hai duyên nước lửa đều chưa thể giúp, Sư luôn tấm tức ân hận ước mong, mới đến núi Pháp Hoa mà dừng ở. Tiếp theo, Sư lại được mời đến chùa Tháp ở Hàng Châu, xây dựng Tịnh Viện Thượng Phương để Sư an trú.

Đến tháng 7 niên hiệu Khai Bảo thứ (971), Sư bị bịnh nhẹ, chẳng tìm cầu thuốc thang, làm nhiều bài kệ tụng, dặn dò với môn nhân rằng: “Tôi tụng kinh hai muôn bộ, lấy sự vãng sanh An Dưỡng làm mục đích!” Rồi Sư ngồi kiết già mà thị tịch, thọ bảy mươi ba tuổi, năm mươi lăm hạ lạp. Mọi việc trong lễ tang đều do các quan cúng dường, trà-tỳ tại núi Long Tỉnh, thâu nhặt được xá-lợi rất nhiều, di cốt như ngọc sáng ngời, bèn làm một hòm đá, để vào mà tôn trí tại Ảnh Đường. Thái Minh Quân Tiết Độ Sứ ban tặng, Thái Sư Tôn Thừa Hựu làm văn bia, ghi lại sự tích Sư.

21. Truyện ngài Văn Liễn ở núi Thiên Thai, thời Bắc Tống:

Thích Văn Liễn, người xứ Bình Dương, thuộc quận Vĩnh Gia. Gặp gỡ cầu thầy thọ nghiệp tại Kim Hoa. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư chuyên cần dốc lòng cố gắng, học tam thừa mỗi mỗi đều nhiễm dần. Nhân đến Pháp hội của Thiền Sư Minh Chiêu ở Tấn Vân, chẳng có việc phồn tạp, chỉ trong nháy mát quyết sạch không vướng mắc, cuối cùng gặp được thiền sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai, giảng đạo của Đại Sư Tông Nhất, Sư lại lắng lòng nhận lãnh không nghi ngờ. Chẳng bị duyên khác dẫn chuyển, nên ba mươi năm Sư thường theo Thiền Sư Đức Thiều lắng nghe giáo pháp. Sư từng nói với mọi người rằng: “Duyên ngộ nhập như sâu tạm phải ẩn mình nơi lá, ăn lá vàng thì thân mầu vàng, ăn lá xanh thì thân mầu xanh, tướng trạng ẩn mình ấy không biến đổi. Tôi lúc đầu gặp được Thiền Sư Minh Chiêu là như vậy, nay học Huyền Sa lại như vậy. Đây gọi là khác đường mà đồng kết quy về một đích. Nay lại lấy lời Phật để làm định lượng”. Sư bèn xem đọc Đại Tạng Kinh suốt ba biến, từ đó trở đi, Ngài tiêu dao không còn dính mắc.

Đến niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 3 (978), bỗng nhiên Sư tự tháo cây búa nói chặt cây đàn, khéo lung linh trùng tán, giống kết như đề tấu. Và gọi đó là Phù-đồ. Bên trong mở cửa, Sư vào ngồi kiết già, tự nắm bó đuốc lớn, phát thệ nguyện rằng: “Tóm thâu hơi thở còn thừa này thiêu đốt cúng dường các Đức Phật mười phương, các vị Hiền Thánh”. Nói xong, bèn phát lửa lớn phô bày giữa hư không, có làn khói năm mầu xoay chuyển điều hòa, còn nghe tiếng Sư tụng kinh, chốc lát mới dứt bặt. Những người nhìn thấy đều gào khóc. Đến lúc tro tàn thâu nhặt xá-lợi chẳng biết số lượng bao nhiêu viên. Sư thọ tám mươi bốn tuổi.

Lúc đầu, Sư có nói với chư tăng chùa Thiện Kiến rằng: “Tôi chết đã không chiếm đất của già-lam, chẳng bằng tự thiêu đốt thân mình để cúng dường, mong các vị hiền giả lúc đó đến dưới đống củi niệm Phật độ giúp tôi vãng sanh, chỉ làm phiền chút ấy vậy”. Nay trong chùa Thiện Kiến chất nhiều đá làm tháp nhỏ.

Liên hệ thử bàn:

Giáo điển Tiểu Thừa cho việc tự sát là phạm trọng giới, tội của các phương tiện trước, vì thế không dám tự thiêu đốt. Nhưng tự sát có hai trường hợp: Một là úy sát phải kết thâu-lan-già và đột-kiết-la, và hai là nguyện vãng sanh. Tâm cứng rắn mạnh mẽ, thân qua đời thì sẽ vãng sanh, thâu-lan-già và đột-kiết-la đâu thể làm chướng ngại? Kế nữa, đại tâm một khi đã phát thì như ngôi nhà tối suốt trăm năm, một ngọn đèn có khả năng xua tan bóng tối được. Vậy có tội gì? Cho nên hành nhân không vì tiểu đạo mà bó buộc đại căn.

22. Truyện ngài Hoài Đức trụ chùa Phổ Chiếu Vương ở Lâm Hoài, thời Bắc Tống:

Thích Hoài Đức, vốn người ở xứ Giang Nam. Từ thuở bé, Sư đã lìa tục, cẩn nguyện tiết chế tự thân. Sư tụng rành Kinh Pháp Hoa nên được độ. Từ đó, tuy lên giảng tịch mà Sư trọn lấy sự trì tụng làm việc chính. Lúc tuổi về già, Sư đến Tứ Thượng lễ bái tháp tượng Tăng-già, gặp lúc vua Thái Tông (Triệu Quýnh thời Bắc Tống) sai cao phẩm Lý Thần Phước mang tràng hoa đến dâng cúng, đều cảm ứng xá-lợi đến, an táng trong hang rất sâu ở dưới nền tháp mới. Sư bèn phát thệ nguyện tự thiêu đốt thân mình để cúng dường. Trước tiên Sư xả bỏ hết y phục, các vật trong đãy cung cấp tự thân, cúng dường chúng tăng một lần, sau đó Sư tự mặc áo giấy, thân bôi thoa dầu sáp, đảnh lễ từ giã chư tăng, rồi tay nắm hai cây đuốc bước lên trên đống củi, châm lửa mà tụng kinh. Mọi người trông thấy, không ai chẳng rơi lệ gào khóc. Đến lúc lửa cháy bốc cao, thân mình Sư dựa nghiêng, mà vẫn còn nghe tiếng tụng kinh rất nhỏ. Dân chúng cả thành đều buồn thương kính viếng, lượm nhặt được rất nhiều xá-lợi. Lúc đó là ngày mùng 8 tháng niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ 8 (983). Các sứ thần đồng tấu trình, vua Thái Tông nghe tin biến đổi sắc mặt.

Thử luận bàn:

Lao tù phiền lụy do còn ngã sở, mạng vận phù sanh ở tại sắc thân, đều do tự quý trọng chính mình mà khinh rẻ kẻ khác, thảy đều bởi ta nhiều mà kia ít, càng thêm keo lận bền chắc, chỉ nuôi lớn san tham. Như lân rồng tiếc rẻ hạt châu, trâu mao mến quý đuôi mình, công tiếc lông đẹp, xạ giữ hương rốn. Ấy như Thường Luân ở đạo Nho, sách vở của Khổng Môn, cho rằng có thể của riêng mình chính là lông tóc da thịt của cha mẹ, chẳng dám làm tổn thương hủy hoại, luôn biết giữ gìn cẩn trọng. Lại có người khéo tự nêu gặp ba năm chẳng thấy ở môn sanh, hãy trang nghiêm một tòa tôn nghiêm, chẳng để nơi mái hiên. Đến lúc tâm phiêu du phương ngoại, giáo nghĩa vượt cõi vực, hoặc khắc thành Đại Thiện, chẳng thể trói buộc nơi tội nhỏ, dùng cái chết hứa cùng bạn, giết thân mình mà thành nhân, tạm khế chẳng bó buộc, sắp gần đạo thẳng. Đến nỗi có truất phế lễ nhạc, gạn mỏng trung tín, bỏ kiện khang, tham uống thuần hòa, mới có rửa tai Từ Vinh, ôm đá chìm nước, gấp bội trái ngược với nhà Nho, sánh với nhà Phật thì gần nhau phân tấc, Phật mới vì vật bỏ thân, lợi sanh mà tổn mạng. Cùng đó chẳng nhổ lông cẳng chân vì lợi. Hạ Đông tuy khác thời, cùng đó mến tiếc thân thể của mẹ cha. Tham thần mỗi tự thấy như thế mới nghiệm biết được sự sâu cạn của giáo điển, điều phải quấy của hành nhân. Thí như xuất ra của cải thì nhập vào nhiều lời chẳng ít.

Đức Phật, Thế Tôn chúng ta khi đang ở nhân địa, ban đầu chỉ giảm khẩu, kế đến là thoát thân. Xa phục vượt cùng tâm quyết đoán, voi ngựa thì nhờ người cưỡi, thôi an rau ở đất, phán thành của thọ phong. Dùng như phẩy bụi, xả bỏ tợ cởi giầy. Kế nữa, cho ăn da thịt đợi no nê, khoét tự phó cầu, hoặc chỉ đốt một ngọn đèn, hoặc thân đều trăm bí, cứu hổ già suy, hóa độ cá dài lớn. Nhân vượt bỏ kiết quy, trước đức Di-lặc, trước thành Phật hưởng địa vị Đức Thích-ca, đều theo thói quen ban đầu thì ngoại tài mà sau cùng thì nội tài, đến lúc gốc lành thành thục, biến khó xả bỏ thành dễ xả bỏ. Phàm nghĩ ngoại tài, ngoại tài khó xả bỏ, khó xả bỏ là phàm phu. Bỏ nội tài, nội tài dễ bỏ, dễ bỏ là Bồ-tát. Nên biết rằng các Đức Phật ba đời đều khen ngợi hạnh môn ấy. Đó là tu hành chân thật, đó là bố thí bậc nhất. Há chẳng thấy Bồ-tát Tăng Nhai khoan thai leo lên lầu củi, đạo nhân Đại Chí hăng hái tự thiêu đốt cổ tay. Mọi người đều tỏ vẻ khó khăn, song hai vị ấy khuôn mặt lộ điều dễ dàng. Bởi vì nhiều kiếp đã từng làm, đời nay lại xả bỏ. Xả bỏ mà lại xả bỏ, đánh giá bảy báu chẳng lấy làm quý giá, không mà lại không, vì ba luân đã bặt vết. Nương đó đạt đến bờ. Đó gọi là trở về chân thật, thành tựu thân Kim Cương bền chắc, lưu lại hạt ngọc ứng với Đà-đô. Nay đây ghi lại.

Ngài Tăng Tạng đang mùa tròi nắng nóng mà khỏa thân mình cho muỗi nhặng chích hút máu. Ngài Chánh Thọ xin thử vào an tọa bên trong tháp mà thị tịch. Ngài Định Lan cảm đến Thiên Vương hoàn trả nhãn châu. Ngài Hống Hưu chống cự giặc cướp mà lại thường oan. Ngài Hạnh Minh xả mình cho thú dữ ăn mà phá san tham. Vượt Nhiên Đăng mà thêu đốt ngón tay, lại thêm chiếc lưỡi chẳng rã hoại, thân đắm mà chẳng chìm. Vào trong tháp củi mà tự thiêu đốt, lộ bày thân hình sắc đỏ mà bị chê trách. Trên đây là những đức hạnh, niệm nghiệp khác thời thành thục, làm chỗ nương hướng tói, biết thân là huyễn tạm, huyễn thể đâu đáng cậy nhờ, rõ hình chất là bọt bóng, hình bọt bóng tạm khởi. Huyễn từ tâm tạo, giả ngụy tìm nhau, bọt bóng tan nước lắng trong nổi chìm cùng có. Cho nên Đại Thánh bao đời tính toán, Tiểu thừa nhuận sanh hết kỳ. Quý là dứt khổ, nương nghĩ trừ diệt ngã đảo, chẳng thể xem đồng như trấu lép, xét tợ bụi tro. Thí như nương gá học tập ở chòi tranh, cậy nhờ Loan Cung ở trên đất. Vì chọn đường lên mây, vì cầu công ra khỏi ải, sau đó thì tặng một căn nhà, cửa lưới tám kích, mới gọi là quý, đất ban đầu lợi ở phong hầu, đem đãy da do bú mớm đổi thành đồ vật Na-la-diên, cũng giống như vậy.

Có người cho rằng: Mở mang Thanh giáo hóa độ người Trung Hoa, chẳng phải là chỗ lo của hàng Lại Bộ, chẳng là Dương tức Mặc huống gì thêm nơi Phật ư? Công kích dị đoan, hại nầy làm Khổng lớn mạnh! Đáp rằng: Chánh bàn luận về nhân nghĩa thì đạo đức cùng cao, chính nói năng về khổ không thì trung tín có thể mỏng. Lại mượn hàn mà dụ, huống gì ngồi dưới đáy giếng mà nhìn trời, ấy chẳng phải lỗi của trời. Đại yếu chỉ của cửa Khổng chưa thể biết được điều sống, làm sao biết được việc chết?” Nếu quán xét về cổ xúy ích lợi mà ngợi khen thì tợ như biết được bất tử. Cả hai tông giáo từng chẳng nói người chết thần minh bất diệt ư? Tùy theo nghiệp duyên thiện ác mà chịu quả báo nên có tốt xấu, nếu do nghiệp nhân thì đó là dùng thô đổi tế, dùng yếu đổi mạnh. Bán hình giòn của rau giền trên đất, đánh trân phục của Hoa Man. Đã huân đương chủng mà khởi hiện hành. Sanh thắng đã sanh, báo mạnh hơn quả báo trước. Móc mắt thịt mà vời lấy mắt Phật, cắt thân phàm mà đổi lấy thân vàng. Hạt cây Ni-Câu-Đà rất nhỏ mà tàng cành che phủ hình xe không nhơ. Đó là lời nói chân thật, chẳng thể cho là nuốt lời. Bồ-tát vì lợi tha thật đáng để học. Có người nói rằng: Phàm thực hành việc đốt luyện, người lành thì chẳng gì nghi ngờ, nhưng có kẻ bất thiện bắt chước thành hại, cho đau đớn là khôi hài. Chịu đựng sự hành hình tàn khốc thì cho sự đốt nướng đó là hý kịch, hoặc dạy người tình cờ làm, hoặc lừa dối đời gượng làm. Đó thì trồng gốc lành gì mà tự cầu khổ độc vậy? Đáp rằng: Tuy là người ngu dốt vui lòng chịu đựng ác ít, chịu khó tổn thương. Vả lại tụng kinh để thiêu đốt, hoặc lòng chí thành cạn cợt mà cho kẻ khác ăn, thầm vời lấy quả báo tốt lành, bởi đã gieo nhân tốt lành. Nếu dùng tâm hời hợt thì được quả báo hời hợt. Xưa kia, có cô gái đùa giỡn mặc lấy áo cà-sa, Bà-la-môn say rượu đắp lên mình pháp phục, duyên đó hội tụ gặp gỡ đạo quả trọn thành.

Hoặc có người nói rằng: Ngài Nghĩa Tịnh truyền dịch, đôi ba phen khuyên bảo chớ đốt luyện. Người ấy đích thân đi cùng Tây Vực, đầy đủ chín chắn phương nghi. Còn như giáo thừa thảy đều nghiên cứu rõ ràng mà chảng cho phép hủy hoại tổn thương là tại sao? Đáp rằng: Đó là giáo điển chuyên phược A-Cấp-Ma, đâu thể cản trở, chướng ngăn Pháp Ma-Ha-Diễn ư? Giả sử lược xả bỏ nội tài, quyết định sẽ viên mãn đàn độ, cho nên trong luận Trang nghiêm chép:”Nếu bố thí thân mạng mình là ít có, sẽ thành tựu đàn độ của Bồ-tát”. Sẽ biết lúc Tứ luân xuất thế thực hành mười điều lành, có đạo thì dưới chân vua Nghiêu toàn là thuần dân, kính phụng hiếu thì từng nhà sanh ra lệnh tử. Đức Thánh Thượng ta mới ở ngôi bốn năm, từ Lưỡng Chiết đến chùa A-Dục Vương xây dựng lớn tháp xá-lợi Phật Thích-ca. Ban đầu cúng dường ở điện Tư Phước, sau thì đón rước vào trong nội Đạo tràng, có hiện điềm lành kỳ lạ. Ngày rằm tháng 2 năm thứ 8, vua ban chiếu tại chùa Khai Bảo xây tháp cao đến ngàn thước. Ban đầu tháp ấy ẩn tàng trong giếng gạch sâu, ngày đó phát ra ánh sáng thần phô bày khắp quả đất. Lúc đó trong các hàng tăng tục, có người tự thiêu đốt đầu ngón tay, có người đốt hương chú, tuyên ban vật có khác nhau. Nếu chẳng phải Đại Quyền Bồ-tát, Đại Phước Thiên Vương thì đầu thể kích phát, khuyến hóa hạ dân mà vất bỏ thân báu ư? Khiến ngay chốn này thấy búi tóc mà thành châu báu. Lại có cảm giác khi đó Thứu phong thanh tịnh mà đất ruộng biến đổi.

Phạm Vân biên tập sử ghi điềm hiển bày tốt lành nhiều mầu sắc, Vương Thiệu biên văn thư tán tháp của Cơ Châu. Đời Tùy phân chia xálợi, đời Đường chôn giấu chân thân. So với triều đại hiện tại của chúng ta thì Điền Lũng cùng Thiết Vi tranh giành bờ cõi. Biên tập thiên này thành truyện mở tông, giúp những căn cơ nào có khả năng nhẫn chịu những việc khó nhẫn, đã mất mà như hiện còn, khiến những người xả thân và thọ thân tuy đã chết mà như vẫn sống. Vẽ ngũ chi ở trên cây cỏ, xếp tứ thụy tại ngoài vẩy lông. Trong sách Thi nói rằng:”Hình nghi của

Văn Vương, làm khuôn mẫu cho muôn nước!”

TRUYỆN CÁC BẬC CAO TĂNG ĐỜI TỐNG

(Quyển 23 hết)