TÔNG CẢNH LỤC
Thiền sư Diên Thọ
Tuệ Đăng & Hân Mẫn dịch

 

QUYỂN 86

Hỏi: Xác định nhất tâm ngoài tâm không pháp, Thánh giáo nói rõ lý sự viên thông. Chẳng hạn như phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa thuyết minh thập giới, thập như, tướng tính, nhân duyên, quả báo, bản mạt, trước sau thành tướng chẳng hư, nay chỉ nói nhất tâm làm sao phù hợp giáo lý ?

Đáp: Nhất tâm là thật tướng của các pháp, cũng là thật tính của các pháp. Nhưng các pháp là thật tướng, thật tướng là các pháp; từ tâm hiển hiện tính tướng toàn đồng, từ bản thể thị hiện thân, lý sự chẳng khác, như sóng mòi lay động mà thể nước thường hiện, vì nước đoạt sóng, sóng vô cùng tận; tuy các pháp dường như khởi mà tâm tính luôn hiện, vì tâm thâu pháp, pháp không gì chẳng không. Kinh Đại Phẩm nói: “Chẳng thấy một pháp ra ngoài pháp tính”. Lại nói: “Tất cả pháp hướng sắc, sự hướng đến ấy cũng chẳng qua pháp giới tính”.

Như Thiên Thai giáo giải thích thập pháp giới, thập như nhân quả trong kinh Pháp Hoa, tất cả duy tâm tạo thì tâm đầy đủ tất cả pháp. Tất cả pháp chỉ là thập như. Thập như đó là như thị tướng, như thị tính, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh.

Như thị tướng: Tướng là y cứ cái thấy bên ngoài mà phân biệt. Thích luận nói: “Dễ biết nên gọi là tướng như nước lửa tướng sai biệt nên dễ biết, như mặt người có đủ các tướng chăng ? Nhìn tướng bên ngoài liền biết bên trong. Thuở xưa Tôn Lưu tướng hiển, Tào Công tướng ẩn. Tướng của Tôn Lưu là cất tiếng khóc lớn thì khắp nơi loạn lạc dân chúng lầm than. Nếu nói có tướng sao người mù chẳng biết, nếu nói không tướng sao thầy bói biết rõ ràng. Người thấy tướng thiện thì tin mặt người có đầy đủ tướng lành, tâm cũng vậy đầy đủ tất cả tướng. Chúng sinh tướng ẩn Di-lặc tướng hiển, Như Lai khéo biết nên xa gần đều thụ ký. Người thấy tướng bất thiện chẳng tin tâm có đủ các tướng. Người thấy như thật tin tâm đầy đủ tất cả tướng.

Như thị tính: Căn cứ vào bên trong chẳng đổi gọi là tính. Lại nữa tính là tính phần là nghĩa chủng loại, phân chia chẳng đồng, mỗi mỗi chẳng thể biến đổi, như lửa lấy sức nóng làm tính, nước lấy sự ẩm ướt làm tính v.v… chẳng biến đổi y cứ theo lý, chủng loại y cứ theo sự. Lại tính là thật tính, thật tính chính là lý tính, tột chân thật không lỗi, là tên khác của nhất tâm Phật tính. Kinh Vô Hành nói: “Gọi là tính chẳng động là nghĩa chẳng biến đổi”. Nay nói tính bên trong chẳng biến đổi như tính lửa trong cây tre, tuy chẳng thể thấy nhưng chẳng thể nói là không có, cọ xát nó với cỏ khô sẽ thiêu cháy tất cả. Tâm cũng như thế, đủ tất cả tính của năm ấm, tuy chẳng thể thấy nhưng chẳng thể nói là không có, vì mắt trí thấy đủ tất cả tính.

Như thị thể: Thể là nghĩa chủ chất. Thập pháp giới, ấm, nhập, đều dùng sắc tâm làm thể chất.

Như thị lực: Lực là nghĩa kham nhậm, như vương lực sĩ có nghìn vạn kỹ năng, do bệnh nên mất đi tác dụng. Tâm cũng như thế, có đầy đủ thập lực của Như Lai, do bệnh phiền não nên chẳng thể vận động, như thật thấy tâm đủ tất cả lực.

Như thị tác: Vận là nghĩa kiến lập. Nếu lìa tâm thì không còn tạo tác nên biết tâm đầy đủ tất cả tác.

Như thị nhân: Chiêu quả là nhân cũng gọi là nghiệp. Nghiệp của thập pháp giới khởi từ tâm, chỉ cần có tâm là các nghiệp đầy đủ, nếu không có tâm thì không có các nghiệp, vì tất cả nghiệp tính thiện ác phàm Thánh v.v… chỉ là tâm tạo.

Như thị duyên: Duyên là duyên do trợ nghiệp đều là nghĩa duyên. Vô minh, ái v.v… hay làm tăng trưởng nghiệp thì tâm là duyên, lìa tâm duyên chẳng khởi.

Như thị quả: Thu hoạch là quả. Nếu tự tâm tạo thiện thu hoạch quả vui, nếu tự tâm tạo ác thu hoạch quả khổ.

Như thị báo: Đáp lại nhân là báo. Một niệm tâm chân chính thì diệu báo đáp lại; một niệm tâm tà vạy quả xấu xuất hiện, vì gió hòa vang thuận, hình ngay bóng thẳng nên tà chính tại tâm, được mất do ta. Tướng là gốc, báo là ngọn, gốc ngọn đều do duyên sinh, vì duyên sinh nên không, đây là không đẳng. Tướng chỉ có danh tự báo cũng chỉ có danh tự, đều là hư dối lập bày, đây là giả đẳng. Lại tướng là vô tướng, vô tướng là tướng, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng, báo cũng thế, nhất nhất đều vào nơi như thật đây là trung đẳng. Đối với ba đường ác lấy biểu hiện khổ là tướng, định ác tụ là tính, dẹp trừ sắc tâm là thể, lên núi đao vào lò lửa là lực, khởi mười điều bất thiện là tác, ác nghiệp hữu lậu là nhân, ái, thủ v.v… là duyên, ác tập quả là quả, ba đường ác là báo, bản mạt đều suy là đẳng. Cho đến đối với Bồ-tát Phật, duyên nhân là tướng, liễu nhân là tính, chính nhân là thể, tứ hoàng là lực, lục độ vạn hạnh là tác. Trí tuệ trang nghiêm là nhân, phước đức trang nghiêm là duyên, tam bồ-đề là quả, đại niết-bàn là báo, bản mạt đều do trí làm hướng đạo là đẳng. Cho nên biết thập giới, thập như, nhân duyên, thiện ác, quả báo, phàm Thánh đều là nhất tâm, trọn không có pháp khác. Đây là từ phụ của người phát tâm bồ-đề rốt ráo, là đạo sư của người vượt qua cánh đồng sinh tử hư vọng, là chiếc cầu chuyển phàm nhập Thánh, là con đường tắt đưa tục về chân. Ví như thiên nhạc tùy theo tâm niệm của chúng sinh phát ra các thứ âm thanh, cũng như hạt châu ma-ni tùy theo sự mong cầu tuôn ra các thứ báu, tâm này vô tận sinh pháp đâu cùng ? Sắc pháp còn thế. chân linh nào kém  ?

Hỏi: Phàm Thánh đã đồng nhất tâm tại sao Thánh nhân thành nhất thiết chủng trí, phàm phu chạm việc mà chẳng biết  ?

Đáp: Chỉ vì phàm phu trái giác hợp trần nên bị trần ngăn cách, mê chân theo vọng nên bị vọng che lấp. Do đó trong giáo chê là mù lòa, chẳng mở con mắt trí tuệ; quở là điếc đặc đâu thể đạt được chân văn; chẳng rõ tự tâm và tha tâm thì đâu thể thông suốt muôn loài thành nhất thiết chủng trí.

Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà-la-ni ghi: “Phật nói: Này thiện nam, các Phật từ muốn được thành tựu vô thượng chính đẳng chính giác, hoặc muốn khéo biết tự tâm (…) trước hết cần phải phát khởi tâm đại từ bi, khắp vì chúng sinh, quy y tam bảo, thọ giới Bồ-tát…” Thế nên tự tâm khó biết, nếu chẳng khéo quan sát, chẳng vào Tông Cảnh thì làm sao có thể chiếu sáng. Nếu rõ tự tâm thì liền phát tâm bồ-đề, thế nên tâm miên mật thế gian chẳng thể biết. Cổ nhân có thiên Tâm Ẩn nói: “Sự to lớn của nhị nghi có thể lấy chương để biểu đạt; sự chuyển động của tam quang có thể lấy khuê để biểu đạt; âm thanh của sấm sét có thể lấy chuông trống để truyền; sự biến đổi của gió mưa có thể lấy âm luật để biết. Cho nên hình tượng có thể nhìn nhưng không thể giấu liều lượng của nó; ánh sáng có thể thấy nhưng không thể ẩn dấu vết của nó; âm thanh có thể nghe nhưng không thể nhốt tiếng vang của nó; sắc có thể quan sát nhưng không thể diệt tính của nó. Vì trời đất âm dương khó biết nhưng vẫn có thể dùng thuật số đo lường nên tai mắt biết; còn tâm con người thì lại khác biệt. Tâm ở bên trong, tình ẩn nơi đáy lòng, chẳng có thể lấy toán số đo lường. Tâm phàm phu hiểm trở hơn núi sông, khó biết hơn trời; trời có thời gian tối sáng, xuân hạ thu đông; con người có tướng mạo tình cảm sâu sắc không thể biết. Có người tâm cương nghị mà sắc ôn nhu, có người dung mạo quả quyết mà bản chất mềm yếu, ý chí mạnh mẽ mà hành động chậm chạp, tính tình nóng nảy mà việc làm từ tốn, giả trang bên ngoài để che giấu tình cảm bên trong, vui chưa hẳn thích, giận chưa hẳn ghét, cười chưa hẳn vui, khóc chưa hẳn buồn, giấu tình cảm ẩn hành động chưa dễ đo lường; tâm người còn chẳng thể lường, ngoại cảnh làm sao có thể biết!” Thế nên luận Khởi Tín nói: “Chúng sinh do nương vào nhiễm tâm có thể thấy, có thể hiện”. Vì hư vọng nắm lấy cảnh giới, mê muội tính bình đẳng, vì tất cả pháp thường tình không có tướng khởi, vì vô minh chẳng biết vọng và pháp trái nhau, vì chẳng thể tùy thuận tất cả cảnh giới của thế gian nên biết ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm; chỉ cần rõ nhất tâm thì tự thể hội các trần; khởi tâm trái pháp liền trái pháp thể. Đã trái nghịch với pháp thì chẳng thông đạt. Nếu có thể thuận tính pháp giới, hợp tâm chân như thì bát-nhã vô tri không gì chẳng biết.

Hỏi: Nếu rõ nhất tâm cần gì tỏ tường các pháp ? Đáp: Nhất tâm là tổng, các pháp là biệt. Biệt tuy theo tổng nhưng sự việc khởi lên nghìn sai biệt; nếu chẳng tìm hiểu kỹ lưỡng, vận dụng cả ngăn che và chiếu soi thì lý sự đơn độc chẳng vào viên thông.

Kinh Duy-ma nói: “Khéo hay phân biệt các pháp tướng, nơi đệ nhất nghĩa mà chẳng động”. Thai giáo nói: “Đối với các pháp môn, văn nghĩa, giáo hải phải rõ phi danh tự, phi phi danh tự, cùng soi chiếu danh tự phi danh tự, chẳng thể nói chẳng phải chẳng thể nói, chẳng thể thấy chẳng phải chẳng thể thấy, chỗ nào lựa chọn, chỗ nào chẳng lựa chọn, chỗ nào thu nhiếp, chỗ nào chẳng thu nhiếp, chỗ nào bỏ, chỗ nào chẳng bỏ; thị thì cùng thị, phi thì cùng phi, đối với màu sắc đen tối có thể thông đạt tất cả phi, nơi tất cả phi thông đạt tất cả thị; thông đạt tất cả phi và phi phi là tất cả pháp tà, tất cả pháp chính. Nếu đối với màu sắc đen tối chẳng hiểu như thế thì chẳng biết danh tự và phi danh tự; như trùng ăn gỗ chẳng biện biệt chỗ quy về, như chim vẹt nói về lẽ không mà đâu biết chỉ thú  ?

Hỏi: Một sắc một hương không gì chẳng phải trung đạo; cái gì làm trung đạo ?

Đáp: Căn cứ vào bốn trường hợp phân biệt của các sư ngày xưa, như Trung Luận Huyền Xu ghi: “Hỏi ông lấy bất sinh bất diệt làm trung đạo, có trung đạo này chăng ? Nếu có trung đạo này thì chẳng gọi là trung đạo. Nếu không có trung đạo này thì cũng không gọi là trung đạo, vì cả hai đều bất khả đắc. Cái gì là trung đạo ?

Đáp: Có bốn nghĩa:

1- Có trung đạo này, vì sao vì vốn đem trung đạo phá thiên kiến làm sao được không trung đạo. Do có nghĩa không nên tất cả pháp được thành; nếu không có nghĩa không thì tất cả pháp chẳng thành, không tức là trung đạo.

2- Không có trung đạo này, vì sao ? Vì phá bệnh thiên kiến, nên nói trung đạo, bệnh thiên kiến đã hết, thuốc trung đạo cũng phải trừ. Nếu có trung đạo vẫn là bệnh.

3- Cũng có trung đạo cũng không trung đạo, vì sao ? Vì chí lý hư tồn nên gọi là cũng có; vì vô hình vô tướng nên gọi là cũng không. Như kinh Niết-bàn nói: “Trong ngoài hòa hợp nên gọi là trung đạo”.

4- Chẳng phải có trung đạo chẳng phải không trung đạo, vì sao ? Đã nói rằng trung đạo sao được là có, đã nói rằng trung đạo sao được là không. Điều này đã nói qua một lần, nếu còn bàn luận nữa thì chẳng phải tứ cú, đây gọi là đường ngôn ngữ bặt, chỗ tâm hành dứt.

Hỏi: Nếu vậy tại sao chấp lấy cố định ?

Đáp: Nếu có chấp thì sẽ bị trở ngại; nếu không chấp thì sẽ được thông suốt. Trí luận nói: “Nếu người thấy bát-nhã đây gọi là bị trói buộc; nếu chẳng thấy bát-nhã thì cũng gọi là bị trói buộc. Nếu người thấy bát-nhã thì gọi là giải thoát; nếu chẳng thấy bát-nhã thì cũng gọi là giải thoát”. Trung đạo tức thật tướng là có, trung đạo tức tính không là không, cũng gọi là giả danh cũng có cũng không, cũng gọi là trung đạo chẳng phải có chẳng phải không, cho nên biết không chấp thì tứ cú đều đúng. Kinh Niết-bàn nói: “Người có duyên uống thuốc độc mà sống, người không duyên uống thuốc độc liền chết. Có người uống cạn cam-lộ mà tổn thương tính mạng đến chết yểu, có người uống cam-lộ được trường thọ”.

Hỏi: Là trung chính là đạo, là lìa trung riêng có đạo; hay là đạo chính là trung, là lìa đạo riêng có trung ?

Đáp: Như hạng trung phẩm đây là trung mà chẳng phải đạo, như hàng tam thừa đây là đạo mà chẳng phải trung; như hàng Bồ-tát đây là cũng trung cũng đạo; như hàng ngoại đạo đây là phi trung phi đạo.

Hiện tại nói trung đạo tức là Bồ-tát đạo, lìa trung không riêng có đạo, lìa đạo không riêng có trung, tức lấy đạo làm trung, tức lấy trung làm đạo, đây là nghĩa trung, tức là nhất tâm. Đạo chính là tâm, tâm chính là đạo, vì chân tâm trùm khắp mọi nơi do đó nói một sắc một hương đều là trung đạo. Trước nói chỗ thấy chẳng đồng nên luận về được mất; nếu vào Tông Cảnh thảy đều bình đẳng, ba thừa năm tính hoặc trong hoặc ngoài không gì chẳng phải nhất tâm trung đạo. Lại vì chân tâm chẳng trụ hai bên hữu vô nên gọi là trung đạo; nếu nói là có, tướng chẳng thể tìm; nếu nói là không, tính chẳng thể đổi. Vì thế Bồ-tát đem hạnh khế lý quán tất cả pháp, cùng ngăn cùng chiếu, cùng mất cùng còn. Thiên Thai giáo nói cùng mất chính nhập thường khế hợp trung đạo, vô tâm bặt chiếu hồn nhiên tịch tri. Song vong là vong không và vong giả nên gọi là tịch; chính nhập chỉ là nhập trung nên gọi là chiếu. Cũng vong cũng chiếu nên gọi là song lưu. Già lưu căn cứ trí dụng, vong chiếu căn cứ trí thể. Vô tâm giải thích trí thể, trí thể thành tựu chẳng cần tác ý niệm niệm bặt chiếu mà thường hồn nhiên tịch tri. Tịch tức là vong, tri tức là chiếu. Lại năng sở cùng lặng nên gọi là song vong; môn lý rõ ràng gọi là chính nhập, chính nhập thì lý không gì chẳng khế, song vong thì tướng không gì chẳng tịch; đây là chẳng trụ có không; già chiếu phân minh chẳng trệ hai bên mới thành chính nhập.

Triệu Luận nói: “Có tâm là vạn vật, không tâm là thái hư. Vạn vật ở nơi vọng tưởng, thái hư tuyệt nơi linh chiếu, chẳng thể nơi vọng tưởng tuyệt linh chiếu mà nói đến Thánh tâm”. Cho nên cần phải già chiếu không trệ, thể dụng tự tại mới thành môn lý hạnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ-tát trụ là bất tư nghì, trong đó tư nghì không thể tận”. Trụ là chỗ bất khả tư nghì, tư cùng phi tư đều tịch diệt. Nếu chỉ ngăn cảnh tư nghì thì phàm Thánh tuyệt phần, vì thế không chỉ ngăn thường tâm mà còn phải dung thường tâm, đây là trong đó tư nghì chẳng thể tận. Ngăn và dung không hai thì thể của tư và phi tư đều tịch diệt, mới gọi là chân bất tư nghì. Đây là già chiếu không trệ, lý sự chẳng sót. Vì tức già mà chiếu nên song phi tức là song hành; vì tức chiếu mà già nên song hành tức là song khiển. Chẳng hoại gốc mà thường là ngọn nên vạn hạnh rõ ràng; chẳng hoại ngọn mà thường là gốc nên nhất tâm luôn tịch. Do đó sắc trần thể tịch, hương giới tính không; chấp thì thành biên tà hữu vô, đạt thì thành lý trung đạo duy tâm. Pháp pháp đều tròn nguyện hải; trần trần đều đủ hạnh môn. Ứng niệm lục độ đều thành, chạm mắt chân tâm đầy khắp. Kinh Bồ-tát Vô Tận Ý nói: “Nơi cõi nước của Phổ Hiền Như Lai, lúc các Bồ-tát thấy Phật hay phân biệt các nghĩa thâm diệu, thành tựu đầy đủ sáu ba-la-mật. Vì sao ? Nếu chẳng chấp lấy sắc tướng tức là đầy đủ bố thí ba-la-mật; nếu trừ sắc tướng tức là đầy đủ trì giới ba-la-mật; nếu quán sắc tận tức là đầy đủ nhẫn nhục ba-la-mật; nếu thấy sắc tịch diệt tức là đầy đủ tinh tiến ba-la-mật; nếu chẳng hành sắc tướng tức là đầy đủ thiền ba-la-mật; nếu chẳng hý luận sắc tướng tức là đầy đủ bát-nhã ba-la-mật. Các Bồ-tát này lúc nhìn thấy Phật liền đầy đủ sáu ba-la-mật được vô sinh nhẫn.

Hỏi: Đối với người chưa liễu đạt môn duy thức nên dùng cách gì để khai đạo ?

Đáp: Đối với người mới giác ngộ trước hết dùng tỷ tri, sau sẽ tín nghiệm. Nhiếp luận nói: “Tất cả thời, xứ đều chỉ có thức; người chưa được chân trí giác ngộ ở trong duy thức làm sao tỷ tri ? Do Thánh giáo và chính lý”. Kinh nói: “Như vậy ba cõi đều là duy tâm”. Lý hiển nghĩa là như trong định tâm tùy các sự vật có sắc xanh bầm đã thấy, hoặc những ảnh tượng đã biết; tất cả không riêng một màu xanh bầm, chỉ thấy tự tâm. Lại nói: “Chủng tử bên ngoài bên trong lấy làm duyên, chủng tử của pháp bên ngoài đều là chủng tử được huân do chúng sinh cảm thọ nghiệp dụng, nương vào sức a-lại-da biến hiện, thế nên chủng tử bên ngoài rời bên trong thì không có chủng tử riêng”. Như có bài tụng:

Trời đất thổi hư không
Vũng nước thành biển cả
Thật do nội tâm biến
Nghĩa bên ngoài chẳng có.

Lại có bài tụng:

Thánh giáo và chính lý
Đều riêng có công năng
Vì sinh ra tín tuệ
Không một nên chẳng thành.

Thế nên thức sinh thức gọi là tướng phần, biết tướng phần này chỉ là do nội tâm biến ra, nghĩa bên ngoài chẳng thành. Như có bài tụng:

Nơi thân dâm nữ rất xinh đẹp
Xuất gia tham dục và chó đói
Ngửi mùi tử thi khen thơm ngon
Ba thứ phân biệt đều chẳng đồng.

Bởi tiền trần không có tướng cố định, chỉ do tâm tự phân đẹp xấu. Nếu pháp bên ngoài là thật tại sao mỗi người tự thấy chẳng đồng ? Cho nên so sánh biết duy tâm tự hiện chẳng phải cảnh giới của người khác. Cổ đức nói: “Lúc Bồ-tát từ sơ chính tín mới phát tâm liền quán thể của nhân quả duyên khởi của tự tín bản thức được thành tựu chính tín”. Vì thế Nhiếp luận nói: “Bồ-tát mới được bản thức trước phải quán nhân duyên như thật của các pháp”. Như thật là nhất tâm, ngoài ra đều là hư vọng. Nếu có người dùng mãnh đề khởi trực nhập, đốn ngộ viên tín, khi mới phát tâm liền thành Chính giác, chẳng động trần lao ngồi khắp tất cả đạo tràng; chẳng dời khỏi cửa quen thuộc mà dạo chơi mười phương cõi nước. Thế nên kinh Pháp Hoa có bài kệ:

Được chiếc xe ấy
Khiến các người con
Kiếp số ngày đêm
Thường được dạo chơi
Cùng các Bồ-tát
Và chúng Thanh văn
Ngồi xe báu này
Thẳng đến đạo tràng
Nhờ nhân duyên ấy
Tìm trong mười phương
Không có thừa khác
Trừ Phật phương tiện
Nếu y theo thật
Tu hành quả mãn
Chẳng lìa một niệm.

Hoàn Nguyên Quán ghi: “Khép mở vô ngại, ẩn hiển đồng thời; nhất tế tuyệt trước sau, xuất nhập dứt trong ngoài. Sơ tâm chính giác thu nhiếp nhiều đời trong sát-na, Thập tín đạo viên một niệm bao trùm Phật địa, tức vô sinh hiển huyễn có lập hai tướng, hai tướng mất hai việc còn, thâu pháp giới nhiếp một trần, nêu một thân mười thân hiện”.

Hỏi: Đã đem Thánh giáo chính lý so sánh biết sinh ra thắng giải, muốn vào Thánh vị phải nhờ cảnh giới gì để thân chứng tu hành ?

Đáp: Chỉ cần rõ nhân không và pháp không liền nhập quán này, nhân pháp làm sao thành không, vì chỉ có ý ngôn phân biệt. Cho nên Nhiếp luận nói: “Từ địa vị nguyện nhạo đến địa vị cứu cánh, nếu muốn vào duy thức quán tu gia hạnh phải nhờ cảnh giới gì ? Lấy ý ngôn phân biệt làm cảnh, lìa đây không có ngoại cảnh. Vì sao ? Ý ngôn phân biệt này tợ văn tự ngôn thuyết và nghĩa hiển hiện, chỉ có ý ngôn phân biệt không riêng có danh ngôn. Bồ-tát hay thông đạt danh không thật thì lìa tà chấp ngoại trần. Lại nghĩa này y theo danh ngôn chỉ là ý ngôn phân biệt”. Đoạn trên là trừ danh, từ đây trở xuống là nương danh dẹp nghĩa. Nghĩa là cảnh sở duyên của sáu thức, lìa danh không riêng có cảnh này. Danh ngôn đã là ý thức phân biệt nên nghĩa cũng không có thể riêng. Bồ-tát thông đạt nghĩa không thật có cũng lìa tà chấp ngoại trần. Lại danh nghĩa này tự tính sai biệt, chỉ tạm nói là lượng. Trên đây đã trừ danh nghĩa, danh nghĩa đã không có tự tính và sai biệt thì làm sao có thể lập ? Nếu lìa giả nói không riêng có tự tính danh nghĩa và sai biệt danh nghĩa, do chứng biết hai pháp này bất khả đắc nên gọi là thông đạt.

Lục Hạnh Pháp của thiền sư Trí Chỉnh ghi: “Bồ-tát đốn ngộ đại thừa hay quán duy thức không ngoài tính không nghĩa là quán tướng không chỉ là không giải, tâm tác không giải không ngoài tướng không”. Thế nên bậc đại căn biết duy thức thì diệt không giải lìa các duyên quán. Cho nên Trí luận nói: “Lúc Bồ-tát thực hành bát-nhã ba-la-mật khắp thấy các pháp đều không, không cũng lại không, diệt các quán được vô ngại bát-nhã ba-la-mật”. Dùng văn này để chứng minh không ngoài tướng không, bậc đại căn quán trí thì chủng không. Không nghĩa là pháp không. Không hữu đều là vọng kiến đều là ý phân biệt tạo tác đương thời, như tâm người khởi thì chỉ thấy người, tâm vi trần khởi thì chỉ thấy vi trần, lúc tâm không khởi thì chỉ thấy không. Vì thế không hữu đều do tâm tạo ra nên phàm Thánh thấy cảnh chẳng đồng, đều là ý ngôn sai khác đương thời. Cho nên thế đế đều chỉ có thức, giác không có ngoại biên nên gọi là chân đế. Vì hai đế chẳng lìa nhau tức là vì không ngoài nên gọi là chân đế. Vì vậy nếu hay quán duy thức liền biết không ngoài thì cũng đạt chân; lúc đạt chân thì không có ngoại giải liền dẹp trừ tâm chấp trước hư vọng của thế tục. Cho nên Nhiếp luận nói: “Biết trần không thật có là thông đạt chân; biết chỉ có thức là thông đạt tục. Nếu chẳng thông đạt tục thì không thể thấy chân, vì lìa tục không có chân. Nếu chẳng thông đạt chân thì không thể nào trừ tục, vì tục không có thể riêng. Do đó thông đạt chân tục là vì có thể thấu rõ lý duy thức”. Đem văn này chứng minh người quán duy thức liền thông đạt hai đế, hay trừ vọng tâm. Tuy theo sự thật, duy thức không có cảnh nhưng xứng tình thì có phàm Thánh lớn nhỏ, nghĩa là nếu thấy trần ý cho là người thì ý ngôn như vậy gọi là phàm phu; nếu quán thân này ý cho là trần thì ý ngôn như vậy gọi là nhị thừa; nếu quán tế trần ý cho là thể không thì ý ngôn như vậy gọi là tiểu Bồ-tát; nếu quán không hữu biết đều là ý ngôn gọi là đại Bồ-tát đại thừa. Cho nên các chúng sinh tuy đều là duy thức nhưng ý ngôn chẳng đồng, phàm Thánh sai biệt vì thế bậc đại căn biết duy thức luôn quán tự tâm ý ngôn là cảnh. Lúc mới quán tuy chưa thành Thánh như phân biệt biết ý ngôn thì đó là Bồ-tát. Nhiếp luận nói: “Người mới tu quán là phàm phu Bồ-tát”. Những người hay quán pháp không này cũng đã từng trải qua tiểu thừa quán, chẳng phải là không hiểu chúng sinh vô ngã, một khi trải qua liền có thể thấy pháp không. Cho nên Nhiếp luận nói: “Nếu được pháp vô ngã chắc hẳn trước đó đã được nhân vô ngã”, vì thế biết học Đại thừa trước hết cần phải từ Tiểu thừa. Tuy từ Tiểu thừa nhưng đốn tiệm vẫn sai biệt, nghĩa là quán sinh không chấp là tột, sau đó quán tướng không tinh tiến tu học gọi là tiệm. Nếu có hành giả tu tập lâu dài biết Tiểu thừa chẳng phải tột liền hiểu rõ không không gọi là đốn ngộ. Tuy biết ngoài tâm không cảnh nhưng lúc nhập quán cũng từ trần khởi, bởi sắc trần này chỉ có Phật chẳng thấy, vì Phật thường chứng duy thức không có cảnh, vọng tưởng dứt sạch nên chẳng thấy ngoại trần”. Luận nói: “Như Lai thường chẳng xuất quán nên tịch tĩnh. Nếu lúc đại Bồ-tát nhập chân quán thì biết duy thức cũng chẳng thấy trần”. Luận nói: “Nếu Bồ-tát nhập vô phân biệt quán, tất cả trần chẳng hiển hiện”. Đem văn này chứng minh, cho nên biết lúc bậc đại Thánh nhập chân quán đều chẳng thấy sắc, ngoại trừ phàm Thánh chẳng kể lớn nhỏ; chưa nhập không quán thì đều thấy trần. Bậc đại căn xuất quán tuy vọng thấy trần, nhưng lúc nhập quán thì biết duy thức, vì họ tự biết hư dối tạo ra trần giải là không có trần để phá liền chứng duy tâm. Nếu có thể quán trung rõ biết duy tâm, sau đó tuy xuất quán vọng thấy tự tha, lúc tầm tư biết tự mình vọng thấy, chẳng giống phàm phu và tiểu thừa nhất định chấp có bên ngoài, cho đến quán không vẫn còn thấy năng sở. Vì thế luận nói: “Bồ-tát dùng vô phân biệt hậu trí quán tướng nhân quả này, nhưng không điên đảo, chẳng chấp có ngoại trần, nội căn duy thức là pháp thật có, cho nên biết bậc đại căn một khi chứng duy tâm, sau đó tuy xuất quán nhưng chẳng chấp có bên ngoài. Nếu lúc quán tự tâm vọng thấy cảnh thì biết chúng sinh chỉ là duy thức, vì thế đại Bồ-tát cho đến Phật thường biết chúng sinh duy tâm vọng thấy, nghĩa là biết chúng sinh hoặc có sự hiểu biết về danh, danh là ý ngôn phân biệt, tình cho là tợ như danh tự bên ngoài hiển hiện, lý thật nó là tâm tướng; hoặc có sự hiểu biết về pháp, pháp là ý ngôn phân biệt, tình cho là có pháp nghĩa bên ngoài hiển hiện, lý thật nó cũng là tâm tướng, cho nên luận nói: “Mười hai bộ loại kinh gọi là giáo, những điều mười hai bộ loại kinh thuyên bày gọi là lý, tâm tướng tợ như giáo lý này hiển hiện”. Dùng văn này chứng minh cảnh giới sở duyên là do tâm tạo ra, gọi là tâm tướng. Tâm tướng này cũng gọi là tâm ảnh, cũng gọi là tướng thức và cảnh giới thức. Hàng phàm phu và tiểu thừa cho rằng khác biệt với tâm; lý thật không có thể riêng, chỉ có thức. Cho nên luận nói: “Duy thức chẳng ngoài hai pháp: một là tướng thức, hai là kiến thức. Tợ như trần hiển hiện gọi là tướng, đó là cảnh sở duyên; tợ như thức hiển hiện gọi là kiến, đó là thức năng duyên. Định tâm cũng thế, hiển hiện tợ như trần gọi là dị định tâm, một phần giống thức, một phần giống trần, cả hai thật ra chỉ là thức”. Dùng văn này chứng minh cảnh giới tướng thức là tâm không sai biệt, chỉ có tình vọng thấy, vì nó chỉ do vọng niệm tạo ra, đây là tướng thức cũng gọi là tướng kết. Cho nên luận nói: “Có hai thứ kết: một là tướng kết, hai là thô trọng kết. Tướng kết khó giải, thô trọng kết khó diệt. Tâm phân biệt các trần gọi là tướng kết; do phân biệt này khởi phiền não tham sân v.v… gọi là thô trọng kết. Nếu được trí vô phân biệt liền thoát được tướng kết; tướng kết chẳng khởi thì thô trọng kết theo đó diệt”. Dùng văn này chứng minh cảnh là tướng kết, phàm phu và tiểu thừa mê chấp nên nói là khó giải. Thế nên danh và nghĩa của các pháp đều do tâm tạo ra, nhưng phàm phu và tiểu thừa chẳng biết lý thật danh nghĩa sở duyên từ vô thỉ thường là ý ngôn phân biệt của phàm phu. Cho nên luận nói: “Từ xưa đến nay ý ngôn phân biệt của phàm phu có hai thứ: một là tợ danh, hai là tợ nghĩa. Danh nghĩa thâu nhiếp tất cả pháp. Danh nghĩa này chỉ là ý ngôn phân biệt tạo ra, lìa đây không có pháp khác”. Dùng văn này chứng minh nên biết phàm phu vọng thấy cảnh giới hoặc danh, hoặc nghĩa đều là ý ngôn phân biệt đương thời; như kẻ đói khát vất vưởng vọng thấy nhóm lửa, theo vọng tình kia ý cho là thật, chẳng biết lầm thấy cho là có lửa bên ngoài. Y cứ vào sự thật chỉ là ý có sự hiểu biết về lửa, lửa chỉ là ý ngôn phân biệt nghĩa là có tên là lửa, tên gọi là ý ngôn nghĩa là có lửa. Sự là ý ngôn, chúng sinh vọng thấy thân mình, thân người, đất nước gió lửa v.v… đều cũng giống như thế. Nếu y cứ thật nghĩa thì không ngoài duy thức, nếu y cứ vọng tình của phàm phu thì có năng sở. Cho nên luận nói: “Nghĩa duy thức chẳng mất cũng chẳng không có nghĩa năng thủ sở thủ. Tuy lại y cứ tình cho rằng có lý trong ngoài chỉ là nhất tâm không có trần thể khác”. Cho nên luận nói: “Những gì do thức biến ra tuy có sự tướng trong ngoài chẳng đồng, thật ra chỉ là duy thức không có trần thể khác, vì thế biết sự tướng tự tha trong ngoài chỉ là nhất tâm chuyển biến mà hiểu biết sai lầm, cho nên các bậc đại Thánh biết vọng kiến thì tự chẳng thấy cảnh của phàm phu thấy, như người đói khát vất vưởng chỉ lầm thấy người khác nhóm lửa, mà tự mình chẳng thấy lửa trong hư không. Đức Phật biết duy thức, việc ấy cũng giống như trên nên chẳng đồng với phàm phu vọng thấy cảnh giới, vì sinh vọng kiến vốn không có ngoại trần. Thế nên Như Lai chẳng thấy sắc, chỉ có phàm phu và bậc Thánh có thấy và chẳng thấy, nhưng chân khác với vọng đều là duy thức, vì duy thức chỉ là vọng tâm. Luận Duy Thức có bài kệ:

Duy thức không cảnh giới
Không trần hư vọng thấy
Nếu đức Phật duy thức
Thì chỉ có chân tâm.

Cho nên Nhiếp luận nói: “Chỉ có chân như và chân trí tồn tại gọi đó là Pháp thân”. Luận Duy Thức nói: “Hành xứ của chư Phật Như Lai chỉ có chân thức không có thức nào khác”.

Dùng văn này chứng minh vì Phật không có thức nên chẳng giống phàm phu vọng thấy ngoại cảnh, vì thật ra không ngoài duy thức. Nghiệp chẳng đồng là cùng một bản chất mà thấy khác biệt, như người thấy là nước, ngạ quỉ thấy là lửa, cá cho là chỗ ở, trời cho là đất. Lại như Xá-lợi-phất vọng thấy uế độ, Bồ-tát Loa Kế thấy là tịnh độ. Nếu giả sử thật có nước, lửa, nhiễm, tịnh cùng ở một chỗ chống trái nhau chẳng hòa hợp, vì các vọng kiến đều không ngoài thức nên nhiều tâm ở chung một chỗ có được sự hiểu biết riêng biệt. Nếu những chúng sinh có cùng một nghiệp thì vọng thấy đồng, không có sự hiểu biết khác. Đồng nghiệp này cùng nhau làm nhân, vọng tưởng thấy nghe duy tâm duyên hợp. Cho nên luận Duy Thức nói: “Tất cả chúng sinh hư vọng phân biệt, tư duy ức niệm người kia nói ta nghe, y theo người trước nói là ý thức, nơi đây lắng nghe cũng là ý thức. Khởi tâm như vậy kia nói ta nghe mà thật ra không có cảnh giới ấy, bài kệ nói: “Cùng làm nhân tăng thượng, kia đây tâm duyên hợp”. Dùng văn này chứng minh nghiệp cùng làm nhân cho nhân đều thấy nghe hư vọng, vì lục đạo đều do tâm duyên hợp, tam giới là duy tâm chuyển tác, cho nên kinh Thập Địa nói: “Tam giới hư vọng chỉ là nhất tâm tạo tác”. Luận tự giải thích: Nhất tâm tạo tác nghĩa là vì duy tâm chuyển nên biết tam giới cùng thấy, riêng thấy đều do tự tâm chuyển biến mà thấy nghe đồng khác. Tuy tâm duyên hợp, nhưng tâm không hình tướng, chẳng phải trong ngoài. Nếu cho rằng ngoài tâm có tha tâm đó là sự hiểu biết hư vọng, thật ra không có thức bên ngoài. Cho nên luận Duy Thức nói: “Thật ra không có thức bên ngoài để chấp lấy, cho đến nhị thừa biết tha tâm, nghĩa là có thức bên ngoài cũng vẫn là hư vọng”. Luận nói: “Hư vọng phân biệt tâm này biết tâm kia, tâm kia biết tâm này”. Dùng văn này chứng minh thật ra không có thức bên ngoài, chỉ là phàm phu, Tiểu thừa lầm lẫn cho là có cái bên ngoài, cho nên luận nói: “Tha tâm trí chẳng biết đúng như thật, vì sao ? Vì tự nội tâm hư vọng phân biệt, vì tha tâm chẳng thể liễu tri”.

Hỏi: Nếu nói phàm phu, tiểu thừa có cái biết về tha tâm, tại sao được tương ưng với tha tâm ? Đáp: Trước hết do phương tiện tưởng có sự hiểu biết về người khác; dường như hiểu biết về người khác nên được cùng tương ưng. Phàm phu, Tiểu thừa chẳng biết tự mình có sự hiểu biết về người khác bèn cho rằng hiện nay tôi biết tha tâm. Tuy có sự hiểu biết về người khác được cùng tương ưng phải biết như thật.

Cho nên luận nói: “Đối với hai pháp kia, tha tâm trí thế gian chẳng biết như thật, vì năng thủ kia có thể nắm lấy cảnh giới hư vọng phân biệt”. Dùng văn này chứng minh không có thức bên ngoài, cho nên có sự hiểu biết bên ngoài đều chẳng phải biết như thật. Nếu quán tâm thức vốn không hình tướng, chẳng phải kia, chẳng phải đây, không đến, không đi. Lúc chẳng dựa vào sự hiểu biết bên ngoài mà dứt phân biệt thì là thật biết tất cả tâm chúng sinh. Cho nên Trí luận nói: “Nếu tâm và tâm số của tất cả chúng sinh tính thật có chẳng hư dối thì Phật chẳng thể biết tâm và tâm số pháp của tất cả chúng sinh, vì tâm và tâm số pháp của tất cả chúng sinh tính hư dối không đến không đi nên Phật có thể biết tâm và tâm số pháp của tất cả chúng sinh. Ví như tỳ-kheo tham cầu thì chẳng được cúng dường; nếu không tham cầu thì không thiếu thốn chi cả. Ngoài tâm cũng như thế, nếu phân biệt chấp tướng thì chẳng được thật pháp, vì không biết tâm và tâm số pháp của tất cả chúng sinh; nếu chẳng chấp tướng không còn phân biệt thì được thật pháp nên có thể thông đạt biết tâm và tâm số pháp của tất cả chúng sinh không quái ngại”. Dùng văn này chứng minh tâm không đến đi. Phật biết không ngoài thức, đáng gọi là thật có thể biết, chẳng giống như tha tâm trí của phàm phu và tiểu thừa hướng ngoại duyên tâm vẫn là thức tạp vọng. Cho nên luận Duy Thức có bài kệ:

Tha tâm biết nơi cảnh
Chẳng bằng thật giác tri
Vì chẳng lìa thức cảnh
Chỉ Phật biết như thật.

Dùng văn này chứng minh Phật biết duy thức tự có sự hiểu biết về người khác không có cái bên ngoài để chấp, vì biết tự tâm có sự hiểu biết về các tâm, vĩnh viễn dứt tâm hướng ngoại phân biệt.

Kinh Nhập Lăng Già ghi: “Như thật biết tất cả các pháp chỉ là tự tâm thế nên chẳng sinh tâm phân biệt”. Dùng văn này chứng minh Phật biết tha tâm chính là tự tâm, lìa sự phân biệt bên ngoài chỉ duyên lấy tự tâm, ý ngôn là cảnh, là tâm thức vô biên của chúng sinh mỗi mỗi hiểu biết sai biệt khó lường. Phật lìa niệm bên ngoài nhất tâm biết khắp, như nước lặng yên muôn vật hiện trong ấy. Lúc đức Phật nhất tâm biết các tâm thì một tạo ra nhiều, nhiều chính là một, như một dòng nước chiếu soi muôn vật. Tuy một dòng nước mà tương ưng với muôn vật ở ngoài dòng nước, Phật tâm cũng thế, chiếu khắp tha tâm. Tuy là một tâm tạo ra nhiều tâm mà tương ưng với tất cả tha tâm; do tu học lâu dài duy thức quán thành tựu nên lìa niệm bên ngoài mới có thể biết khắp. Vì thế kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:

Ma-hê-thủ-la trí tự tại
Đại hải Long vương tuôn mưa rào
Có thể phân biệt đếm giọt mưa
Chỉ trong một niệm đều rõ biết
Vô lượng ức kiếp siêng tu học
Thành tựu trí bồ-đề vô thượng
Vì sao đang ở trong một niệm
Chẳng biết tâm tất cả chúng sinh.

Cho nên biết chư Phật niệm niệm biết khắp, đây chính là ý ngôn phân biệt của Phật. Tuy biết thế đế đều là duy thức, riêng biết các tâm là sự phân biệt của Phật. Y cứ vào hằng tự giác chỉ là ý ngôn của mình, lìa niệm bên ngoài không còn phân biệt, cho nên bậc đại trí quán duy thức lúc duyên ý ngôn của mình biết thế đế thì cũng đạt chân lìa phân biệt bên ngoài. Thế nên đại thừa từ phàm đến Phật đều quán tự tâm, ý ngôn làm cảnh thì biết ngoài tâm không có tha tâm. Tâm của phàm Thánh tuy chẳng phải trong ngoài, nhưng vẫn có nhân duyên vì người khác biến hóa.

Kinh Duy-ma nói : “Ngay lúc ấy, thiên nữ dùng thần lực biến ngài Xá-lợi-phất thành thiên nữ, thiên nữ tự hóa thân thành Xá-lợi-phất”. Việc biến ra Xá-lợi-phất khiến tâm thấy sai khác, chẳng phải có thân khác thay hình đổi chất. Trong tâm chúng sinh tu hạnh thù thắng thì trong hữu vô vọng thấy Phật nghiệp; do có nghiệp thù thắng cảm được thần lực của Phật khiến cho tâm biến đổi dường như thấy thân biến hóa. Cho nên Nhiếp luận nói: “Trong sự tu hành do sức bản nguyện tự tại của Phật thức ấy dường như chúng sinh biến đổi hiển hiện nên gọi là thân biển hóa”. Dùng văn này chứng minh hóa thân của Như Lai như Thích-ca v.v… đều là tự tâm của phàm phu và Tiểu thừa biến ra, vọng thấy Phật thành đạo hóa sinh, sau đó lại vọng thấy Như Lai diệt độ; sự vọng thấy này do Phật biến hóa. Cho nên luận nói: “Bồ-đề, niết-bàn là hai, chỉ là biến đổi tha tâm khiến nó thành hai mà thật thể chẳng có”. Dùng văn này chứng minh Phật biến tha tâm khiến vọng thấy Phật, ngoài tâm không có Phật, nhưng theo các phàm phu và Tiểu thừa chẳng biết là vọng thấy, cho rằng có Phật bên ngoài đến độ chúng sinh, cho nên kinh có bài kệ:

Phật chẳng thành Phật đạo
Cũng chẳng độ chúng sinh
Chúng sinh gượng phân biệt
Nói Phật độ chúng sinh.

Vì thế Nhiếp luận ghi: “Do thức của người quán hạnh làm tăng thượng duyên nên thức của những người khác khác biệt với người quán hạnh, do nguyện lực hiển hiện cho nên biết nhất định không có ngoại trần chỉ có bản thức”. Dùng văn này chứng minh sự biến hóa của bậc Thánh đều do Phật lực làm tăng thượng duyên, cho nên luận nói: “Bồ-tát tu hành cạn cợt muốn làm lợi ích chúng sinh, hiện tại trước hết phát nguyện, kế đó liền nhập chân quán, sau khi xuất quán tùy theo sự mong muốn mới được thành tựu. Nếu Bồ-tát tu hành thâm sâu muốn làm lợi ích chúng sinh, hiện tại chẳng cần phát nguyện và nhập quán, xuất quán, chỉ nhờ sức bản nguyện tùy theo sự mong muốn mà tất cả việc làm đều thành tựu. Như hàng Thanh văn được cửu định1 tự tại, nhờ định tự tại được lục thông tự tại. Nơi một vật tùy theo sức nguyện nhạo đều có thể biến đổi khác gọi là vô lượng chúng. Nếu các trần thật có tự tính thì việc này chẳng thành tựu”. Đem văn này chứng minh vốn không có ngoại cảnh, do Thánh lực khiến cho người trong cái không thấy biến hóa, vì đều là vọng thấy, không có ngoại cảnh. Nếu nhiều bậc Thánh cùng ở một chỗ biến ra vật, đều tùy ý thành cũng chẳng ngại nhau. Cho nên luận nói: “Đối với một vật, nếu nhiều người quán hạnh có nguyện riêng đồng biến đổi một cảnh, sự biến đổi này được thành. Vì sao được thành ? Do tùy theo ý của những người ấy mà thành nên thật sự không có ngoại cảnh, chỉ có thức”. Văn này chứng minh nơi một chỗ nhiều bậc Thánh biến hóa, tùy ý riêng biệt khiến cho chúng sinh thấy cảnh sai khác, hòa mà chẳng đồng, xen mà chẳng loạn. Nghĩa này sâu sắc bậc đại căn mới biết, vì vậy đến cả Phật đều quán duy thức. Cho nên luận nói: “Từ nguyện nhạo vị đến cứu cánh vị gọi chung là duy thức quán”. Văn này chứng minh đại thừa vào đạo cùng quán duy thức, dần dần rõ đến Phật. Nói quán duy thức nguyện nhạo vị, nghĩa là từ thầy bạn nghe nói về duy thức liền hiểu biết sinh tâm ưa thích. Do có ưa thích học tư lương tức là đại thừa nguyện nhạo vị. Cho nên luận nói: “Các vị Bồ-tát chỉ do giáo lý nói tất cả pháp chỉ có thức liền khởi lòng tin ưa; nơi lý duy thức sinh ý ngôn phân biệt. Do đây ưa thích ý ngôn phân biệt cho nên nói Bồ-tát đã vào duy thức quán tạo ra cái biết như thế, đây gọi là nhập duy thức nguyện nhạo vị”. Văn này chứng minh học quán duy thức chính là bậc Bồ-tát đại căn vào đạo.

Trên đây tổng quát nói về đại thừa tiểu thừa nhập đạo sâu cạn tuy khác biệt nhưng đều là tu tuệ, vì tuệ quán ấy là thể của chính đạo. Nếu chẳng tu quán thì các hạnh khác đều chẳng phải, đây nói rõ tuệ quán là thể của sự nhập đạo.

Như trên đã nói, nếu rõ tất cả cảnh giới chỉ là ý ngôn phân biệt thì ý không thể nghĩ, miệng không thể nói. Phan duyên đã dứt, danh tướng liền không, chân tâm diệu minh từ đây phơi bày, vì thế được dứt bặt đường trần lao, khô cạn sông sinh tử, niệm niệm khế chân, tâm tâm hợp đạo. Do đó kinh Kim Cang Tam-muội ghi: “Phật nói: Pháp thiện và bất thiện từ tâm hóa sinh; tất cả cảnh giới ý ngôn phân biệt, chế phục nó ở một chỗ thì các duyên đoạn diệt. Vì sao ? Một bản chẳng khởi, ba dụng không có; trụ nơi như lý, cửa lục đạo đóng chặt”.