PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ
SỐ 1719
QUYỂN 09
Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật
PHẦN THƯỢNG
GIẢI THÍCH PHẨM AN LẠC HẠNH
Xưa nay giải thích phẩm đều có sinh khởi mười duyên hay năm duyên… và nêu Lai ý ba ý hay năm ý. Nay thì không như vậy, chỉ tùy xu thế của văn phẩm theo nghĩa giải thích, không hẳn cứ một mực cho nên đến giải thích phẩm này nên tùy ý bốn phẩm trước nghĩa là từ phẩm Pháp Sư trở xuống thêm ba phẩm tiếp. Thông dùng ba thứ: Nhà, áo, tòa của Pháp sư làm khuôn mẫu lưu thông. Cho nên, giải thích đề của ba phẩm trước cho đến để hiểu rõ văn, đều nương ba phẩm đây nêu rõ ý nguồn gốc phẩm. Nếu tùy văn tướng riêng sinh khởi thì không đồng văn khởi hết. Dùng phẩm Pháp Sư bắt đầu làm lưu thông cho nên nêu đủ ba pháp làm khuôn mẫu. Huống chi người lưu thông kinh diễn khắp chánh thuyết cho nên khiến người nói dựa ba thứ này lập chí, mới có thể hiển rõ kinh điển sở hoằng, khiến chúng sinh ngưỡng mộ pháp có thể hoằng thông, ngầm giúp hiển bày lợi ích làm sứ giả của Như Lai. Nếu không như vậy thì sao đức Thế Tôn lại bảo người hoằng kinh lượng công dụng kia có khả năng giữ gìn, cho nên khiến cõi này cõi kia phương trên phương dưới, tiến hay không, khác dấu vết. Nếu mình tự hành mà không làm tăng trưởng lòng tin của chúng sinh, thì giống như người bị bệnh nhiệt mà bán thuốc lạnh. Vì vậy cho nên không thể không cẩn thận khi truyền kinh. Cho nên ba chu khai hiển, hoặc pháp hoặc dụ không vượt quá ba đức. Hoặc tu hoặc tánh, căn cứ đây mà làm phép tắc, tánh đức không đương khai cùng không khai, tu đức tùy thời chuyển gọi là phó vật (tùy theo căn cơ của chúng sinh). Tại nay đồng khác đều là Nhất thừa.
Nhất thừa là Phật tánh, đầy đủ như Đại kinh nói Phật tánh ba thứ tức là bí tạng, cho nên bắt đầu lưu thông thì trở lại căn cứ tạng đây lấy làm phép tắc. Sở dĩ Pháp Sư gọi là nhà, áo, tòa vì nghĩa hoằng rộng tiện dụng. Trong phẩm Bảo Tháp nếu căn cứ tháp mà nói thì tháp vọt hiện ra tức tại Không là tòa, nơi nơi chứng minh kinh là nhà, các báu trang nghiêm là áo. Nếu căn cứ Đức Thích-ca thì tại Không là tòa, vào tháp là áo, bảo hoằng kinh là nhà. Lại dùng ba Đức Phật tiêu biểu ba thân cũng là ba thứ đây. Phật Đa Bảo là áo, Phật Thích-ca là tòa, Phật phân thân là nhà. Nếu căn cứ sở biểu của ba lần biến mà nói thì biến lần thứ nhất là tiêu biểu phá tòa Kiến Tư, biến lần thứ hai là tiêu biểu phá nhà vô tri, biến lần thứ ba là tiêu biểu phá áo vô minh. Cho nên bảo người hoằng kinh khiến dựa ba pháp hoằng ba thứ vi diệu đây. Như trong phẩm Đềbà-đạt-đa dùng thân làm sàng tòa, nếu chẳng thâm đạt ba pháp này thì đâu thể khinh sinh mạng mà trọng pháp, cho nên thân tướng hảo ắt có pháp báo. Pháp thân là áo, Báo thân là tòa, Ứng thân là nhà. Nếu căn cứ nhân hành thì năm Ba-la-mật làm áo, Bát-nhã Ba-la-mật là tòa, từ bi hỷ xả là nhà, huống chi sư đệ thành đạo đầy đủ ba thân. Cho đến phẩm Trì, kệ văn nêu rõ ba pháp mà hoằng kinh này. Phẩm An Lạc Hạnh đây tuy là bắt đầu hành cũng dùng ba đức và dùng làm tiêu đề phẩm, do trong một phẩm đều có ba đức và hành ba đức. Trong đó có năm:
- Dùng ba nghĩa tổng giải thích.
- Nêu Lai ý của bốn hạnh.
- Nêu bốn hạnh thứ tự.
- Nêu bốn hạnh thể sai khác.
- Chánh giải thích.
Đầu văn có hai: Trước nêu liệt. Tiếp giải thích.
Trong giải thích thì trước lược, sau rộng. Trong lược:
1. “Y sự” giải thích.
2. Nghiệp an lạc tiến ở hạnh khẩu nghiệp hoằng kinh. Trong “Phụ văn” có hai: Đầu phụ phẩm Pháp Sư, tiếp phụ phẩm này. Đầu văn đều căn cứ ba đức ba phép tắc. Pháp thân hoặc có hạnh của ba đức nên khiến sở nghiêm pháp thân an. Cho nên Huyền Văn nói Pháp thân thể nguyên chất, thiên long bỗng nhiên yếu kém cho nên nêu đủ ba pháp cùng dẫn dắt hành hoằng kinh.
Hỏi: Nếu như vậy thì cùng Niết-bàn có gì sai biệt?
Đáp: Diệu pháp chỉ là nhất tâm tam đức xưa nay không riêng biệt, kia do thị hiện diệt mà gọi là Niết-bàn đó thôi!
“Phụ văn” phẩm này, tức tiến là hành, chỉ do tự tiến cho nên hoằng kinh. “Pháp môn”: Dẫn ba môn được nêu trong các kinh luận để giải thích thành ý đây, tức “Bất động…” trong đó nêu giải thích. Trong giải thích mỗi mỗi đều trước nêu hành tướng, tiếp nêu sở ly, sau kết ý. Đầu tiên, “Bất động” chính là trung đạo, dẫn văn đều tiêu biểu bất động. “Năm thọ”: Kinh nói: Hành cũng bất thọ, cho đến bất thọ cũng bất thọ. Kinh kia tại Diễn vì phá Tam tạng gia, không thọ năm thọ của phàm phu. Cho nên bên dưới rộng giải thích. Thông thường căn cứ bốn câu ngoại đạo… và dùng tuyệt ngôn. Tuyệt ngôn cũng xả, cho nên nói năm bất thọ, cho đến Viên giáo bốn môn và tuyệt. Nếu như vậy, thì chưa chứng thật đến đều gọi là thọ. Nếu chấp viên môn thì năm thọ còn gọi là thọ, thể giáo nhập lý, lý không có sở thọ thì mới gọi là “bất thọ”.
Tiếp, rộng giải thích: Đầu, trong rộng giải thích sự: Nhân quả đối biện, chỉ là lần lượt giải thích ba An Lạc Hạnh đây khiến biết cực địa ba đó thôi! “Đại Phẩm…”: Lại mượn kinh kia nói “như thật xảo độ” để đối Tiểu. Trong Diễn môn kia ba giáo đều là nhân quả đều có lạc. Khắc thể mà luận, cần phải nên phân biệt lựa chọn, tên Lạc đã đồng chỉ là thiên viên mà dùng phán xét. Thông giáo tam thừa nhân quả đều Thiên, Biệt giáo Bồ-tát nhân Thiên quả Viên, Viên giáo Bồ-tát nhân quả đều Viên, cho nên lấy nghĩa “đều có lạc” và Viên làm tên phẩm này. Dẫn chứng ở Đại kinh, Bồ-tát còn thông vướng là dưới kết ý phẩm văn ắt dùng Thất phương tiện phân chọn, mới xứng với kinh này.
Tiếp, rộng phụ văn: Rộng phụ phẩm trên giải thích thành phẩm này. Do bốn hạnh phẩm này không ngoài ba nghiệp Chỉ Quán và từ bi.
Trong đó chia làm ba:
- Lập cảnh năng thú và sở thú.
- “Hạnh có…”: là giải thích Hạnh năng thú.
- Vấn đáp liệu giản.
Trong Hạnh năng thú chia làm mười:
- Liệt kê ba hạnh,
- “Chỉ hành…”: là giải thích.
- “Tổng đây…” là kết đối cảnh hạnh.
- “Cảnh xưng…”: là kết trở về tên phẩm.
- “Đại luận…”: dẫn chứng. Quán cảnh tức nhân quả.
- “Nhân thời…”: phán xét vị.
- “Nhân danh…”: phán xét nhân quả tên khác.
- “Lại, nhân…”: phán xét nhân quả tên khác, để biện rõ hóa dụng. Nói “ba nghiệp…”: ba nghiệp ba mật ba luân đều là tên khác của ba đức. Ý mật tức Bát-nhã, khẩu mật tức Giải thoát, thân mật tức Pháp thân.
- “Như đây…”: là tổng kết.
- “Đây hành…”: dẫn đồng hội nhập khác.
Tổng có hai lớp: Đầu tổng, sau biệt. Biệt tự phân làm ba, tổng biệt đều là tên khác nghĩa đồng. “Tóm lại mà nói…”: Tổng không khác, là Như Lai Niết-bàn nhân (người) pháp tên khác lý Đại không khác, bởi vì nhân tức pháp. “Biệt không khác”: trong đây chia làm áo nhẫn… ba thứ, kinh kia chia làm pháp thân… ba thứ. “Đây nêu…”: là giải thích hai xứ tướng không khác cho nên dẫn kinh kia nói cây báu… ba thứ và dùng năm hạnh. Đầu, ba thí pháp thân… ba thứ, ba dụ đủ như trong Huyền Văn và Thích Tiêm dẫn, tức văn Đại kinh quyển 10. Y tòa đây để đối ba đức cũng có thể thấy. Lại trong năm hạnh cũng cùng áo… đồng, Thánh hạnh là tòa, thiên hạnh là áo, ba hạnh còn lại là nhà. Nhà Phạm hạnh là nhân, nhà bệnh nhi là quả. Nên biết phẩm này đầy đủ mười ý đây. Chính tại nơi nhân, trong nhân chánh là gia-bị cho hạng Ngũ phẩm đệ tử, đến hạng Lục căn tịnh. Vì vậy cho nên tên của phẩm này là từ hạnh mà đặt tên, tức hạnh của nhà An Lạc.
Tiếp, trong “Vấn đáp liệu giản”, trước hỏi sau đáp. Văn ý: Tuy lại phụ, chánh mà hai nơi xen nhau có, nay lại phân tích nhiếp để đối hai Tất, nhưng kia đây đều có bốn Tất thì có hay không có cũng không nghi ngại. “Nhất tử địa”: Đại kinh nói “Thánh hạnh trụ tam địa, Giới Thánh hạnh trụ Kham nhẫn địa, Định Thánh hạnh trụ Bất động địa, Tuệ Thánh hạnh trụ Vô sở úy địa”. Phạm hạnh thành thì trụ nhị địa. Từ, bi, hỷ, thành thì “trụ Nhất tử địa”. Xả thành thì trụ Không bình đẳng địa. Nay lại dẫn “Từ bi nhất tử” mà phản chất, “cầm cung mang tên” chưa là thông đồ, cho nên nói chưa từng không nhiếp thọ. Ngũ địa đồng tại Sơ hoan hỷ địa, địa đây không giống nào không gieo, phổ hiện sắc thân tùy nghi lợi vật cho nên phân nhiếp hai môn thâu nhiếp tất cả giáo, hoặc hiện hoặc ẩn, không nên hỏi thiên vị. Nay nói “đồng”, là đồng (mùi) vị đồng lý đồng nhân đồng quả. “Rộng giải thích theo pháp môn” cho đến “không ghi chép”: là căn cứ trước giải thích. Lại nên dùng các thứ ba pháp thông giải thích văn đây, đầy đủ như mười thứ ba pháp căn cứ theo lệ có thể biết. Nếu lấy nghĩa đây làm tứ Tất-đàn thì: Ba pháp sai khác tức Thế giới, Giải thoát tức Vị nhân, Bát-nhã tức Đối trị, Pháp thân tức Đệ nhất nghĩa. Hai giải thích đều nói đều là tứ Tất.
Tiếp, “Phẩm này…”: là giải thích nguyên do, lại có hai: Đầu tiên, nêu hành sâu không cần. Tiếp, “Nếu sơ y…”: chính nêu bắt đầu cần hành cho nên có phẩm này. Văn đầu nêu người không cần. Nói “Nếu hai vạn tám mươi ức….”: là đầu phẩm Trì nói hai vạn Bồ-tát quyến thuộc theo, đều ở trước Phật phát thệ hoằng kinh. Có bản kinh nói tám ngàn ức, nên nói tám mươi ức, tức trong phẩm Trì nói chư Ni cầu xin Phật thọ ký được Phật thọ ký rồi, chư Ni nói kệ tán thán Phật.
“Bấy giờ Đức Thế Tôn nhìn tám mươi ức các vị đại Bồ-tát…”: Đức Phật xưng tán rồi. “Các vị Bồ-tát đó một lòng chắp tay mà nghĩ rằng: Nếu Thế Tôn dạy bảo thì chúng con sẽ như lời Phật dạy…”. “Biết sâu xa…”: là chánh nêu hạnh không cần đầy đủ đối bốn hạnh để luận không cần. Bắt đầu hiểu sâu quyền thật cho nên không cần hạnh đầu, do trong hạnh đầu khiến cho không cùng Nhị thừa cộng trụ…, vì sợ lạm thọ quyền pháp. “Rộng biết” là nêu rõ không cần hạnh thứ hai, do trong hạnh thứ hai khiến không nói lỗi của tiệm pháp, khiến không ỷ Viên chê Thiên, Thiên chỉ là tiệm. “Lại, thông đạt…”: là nêu không cần hạnh thứ ba, do trong hạnh thứ ba khiến ủng hộ Nhị thừa và khiến không dùng Viên trách Biệt. “Thần lực…”: là nêu không cần hạnh thứ tư, do trong hạnh thứ tư khiến sau đắc thần thông mới khiến nhập thật. “Nếu sơ y…”: là người mới bắt đầu hành thì không có bốn hạnh đây, dùng bốn hạnh phòng hộ kiêm kham tự tiến, nên nói “muốn tu Viên hạnh”, muốn lợi tha. Cho nên nói: “vào đời ác trược mà hoằng kinh”. “Bị ác trược…”: nêu không có bốn hạnh này, tự tha đều mất. “Vì hạng người này…”: chánh kết Lai ý. Nói “Nếu sơ y thủy tâm”: hạng Ngũ phẩm đệ tử vị và hạng Lục căn thanh ịnh vị đều thuộc “sơ y”. “Thủy tâm” tức sơ tâm của Ngũ phẩm đệ tử vị, cho nên trong phẩm đầu (Tùy hỷ phẩm) tuy chẳng phải địa vị thuyết pháp mà tùy sức hoằng kinh cho nên cần phải có bốn hạnh đây. Đến phẩm thứ ba (Thuyết pháp phẩm), chinh đương thuyết pháp để giúp tự hành. Thuyết tức là hoằng, về lý thì cần đem phẩm này lấy làm phương pháp.
“An Lạc Hạnh này…”: hành thứ lớp, trong đó có bốn:
- Nêu không thứ lớp .
- “Nay vả lại…”: nương nơi phẩm trước để nêu tướng thứ lớp không đồng.
- “Nếu căn cứ…”: là căn cứ hành thứ lớp.
- “Tuy nói theo thứ tự này…”: là căn cứ hành không thứ lớp, đầy đủ như Văn Trí Giả giải thích bốn hạnh. Bốn hạnh đã là ba nghiệp Chỉ, Quán và do hoằng thệ đều hạnh đều vận Chỉ Quán đồng thời, huống chi mỗi một hạnh nhiếp tất cả hạnh, huống chi trước đầu phẩm nói áo, tòa, thất ba thứ không sai biệt, cho nên không thứ lớp.
Tiếp, nêu hành thể: Trước, nêu xưa giải thích. Sư thứ nhất nói: “Giả thật” thì giáo nào mà chẳng có? Cho nên chưa hiển hạnh này. “Thuyết pháp, lìa lỗi”: tuy tợ một đường, mà không có tướng từ bi chỉ quán. “Thứ tư: Từ bi” mà lạm hướng ba hạnh. “Cơ sư” giải thích không bằng Sư trước. “Long sư” nói hạnh đầu hơi gần ý nay. “Ngài Nam Nhạc” giải thích như hướng về ý của Ngài Thiên Thai mà vẫn chưa thật đầy đủ. Cho nên Ngài “Trí Giả” giải thích nói: “Chỉ Quán…”: ba hạnh trước đều có từ bi Chỉ Quán. Lại đầu tiên, thân nghiệp lại có ba:
- Nêu có sở ly cho nên không đọa.
- “Có Chỉ hạnh cho nên…” đủ ba phương pháp.
- “Chỉ hạnh lìa…”: đầy đủ ba đức. Trong đó trước nêu đủ đức, tiếp nêu tương sinh. “Ngoài ra khẩu…”: theo lệ. Ba nghiệp đều có từ bi, thệ nguyện cũng đầy đủ Chỉ Quán, cho nên bốn hạnh theo lệ đồng. Cho nên biết trở lại dùng phẩm trước làm tướng của hạnh nay. Nếu không như vậy thì chẳng khéo hoằng kinh.
Tiếp chánh giải thích: Trong giải thích Hành xứ Cận xứ thì đầu tiên nêu ý của ba sư xưa. Tiếp Chương An phá. Do các sư đầu tiên nói Hành xứ thì cạn, Cận xứ thì sâu, tức hai sư đầu tiên; trong đó sư thứ hai có hai giải thích: Trước giải thích nhân quả sai biệt, sau giải thích không nhân quả. Cho nên phá sư thứ nhất và giải thích đầu tiên của sư thứ hai, nói: Thập địa có Hành, không chỉ riêng sơ tâm. Tiếp, phá sư sau: Diêu sư dùng Thất trụ trở lên làm Hành, Thất trụ về trước làm Cận. Cho nên dẫn Tịnh Danh, nói: “Đẳng giác cực sâu cũng gọi là Cận”. “Nếu hai hạnh…”: là tổng phê phán lỗi của ba sư. Nói “hai hạnh”: Hành, Cận hai xứ đều được gọi là “hạnh”, cho nên đều cạn đều sâu đều có lỗi. Nói “Phẩm trước”: Chỉ trong phẩm Trì “năng nhẫn cảnh trái ngược”, tức là hành sâu, thì có liên quan gì trong đây? Nói “Thất phương tiện”: Quyền hành sở hành không liên quan đến phẩm này. “Nhưng Hành gọi là…”: là lập lý phá. Được tên gọi tuy riêng biệt mà hai nghĩa nhờ vào nhau, trong mỗi một hạnh đều có tập cận (gần gũi làm quen), cho nên đều thông sâu cạn, không thể đều sâu đều cạn và xen lẫn sâu cạn. Nhưng văn phẩm này bắt đầu hành thì chỉ là đều cạn, và vĩnh viễn khác Sư xưa. Do thông đều sâu, khác Thất phương tiện, cạn tuy thông nhưng ý kia đều biệt. Trở xuống dưới văn căn cứ vị trí, nghĩa thông nơi sâu, bởi vì dùng sâu nhiếp cạn. “Lại nữa, Hành, Cận…”: dẫn nghĩa để phá. Đã là ba thứ áo, tòa, thất trong phẩm Pháp Sư tức về lý thì không có sâu cạn. “Lại, nhẫn nhục…”: là căn cứ hành để phá. “Nếu vậy..”: là trưng khởi giải thích nghi. “Vì đến lý…”: là chánh phán xét. Nói “đến lý”: Do kinh nói “trụ Nhẫn nhục địa”. “Phụ sự”: Lìa mười não loạn…. Trong sự văn dưới cũng nói quán Không…, như dẫn nghĩa Trung đạo tịch diệt nhẫn cùng Tất cánh Không đâu thể chấp nhận cạn sâu! Chỉ đối sự mà nói thì được tên Áo Nhẫn nhục, căn cứ lý mà nói thì được tên Tòa Không. Cho nên, “phụ sự” ắt y lý, từ lý ắt kinh qua sự; không nên viên hạnh sự lý từng điều như vậy, cũng như hai đế ắt Chân Tục tương tức, đều nói một bên thì chẳng phải Vô sở nghệ. Căn cứ hành chuẩn thuyết.
Hỏi: Đã đối “Áo, tòa” sao không đối “nhà”?
Đáp: “Nhà” thông hai hạnh, thông suốt từ đầu đến cuối. Hai hạnh tuy sai khác mà nghĩa từ bi bình đẳng.
Hỏi: Nêu Từ bi huân Chỉ Quán dẫn ba nghiệp, mà bên dưới giải thích chỉ thấy Chỉ Quán ba nghiệp, mà không thấy Từ bi là sao?
Đáp: Thệ nguyện không chỉ riêng thông trước mà còn khắp dẫn dắt, huống chi đều có vì thuyết, đều là từ bi.
Hỏi: Đầu tiên là thân nghiệp, văn chỉ nói Hành Cận, sao gọi là thân?
Đáp: Hành Cận hai văn chỉ rộng lược sai khác, cho nên lìa mười não loạn, chỉ là nơi thân. Căn cứ cận luận cận, rõ ràng tại thân. Nên biết trụ nhẫn thì cũng là thân trụ, nhẫn địa tức là ấm thật tướng.
Mười tám Không trở lại quán Giới Nhập. Nếu là khẩu ý hai văn thì Chỉ Quán nêu rõ thân, sao không có ư ?
Đáp: Khẩu ý là biệt nêu, trong thân là hợp nêu. Vì rằng Cận xứ thì cả ba đều nói là trợ quán, là trợ Chỉ Quán trước, lời nói đó tuy đơn mà tức là song trợ Chỉ Quán.
“Nay căn cứ ba pháp…”: là chánh giải thích Hành xứ. “Tức là Nhẫn địa…” ,“cũng bất hành phân biệt”. Căn cứ ba pháp tăng số để làm ba lớp. Đầu tiên, căn cứ một pháp, lại có hai: Đầu nêu một pháp tức duyên đế, “trực duyên nhất đế” mà lập ba hạnh. Chỉ nói “một pháp”: Vì năng từ sở cho nên chỉ thọ tên “một”. “Nhất đế là sở quy…”: nêu công năng lý Nhất. Lý đã năng “là nhất thiết sở quy” cho nên năng y ba hành công cũng như thế. Trong đó lại có năm:
- Liệt kê công năng có ba, tức là sở quy, tác bản và vô phân biệt, cho nên ba đó là hành, duyên nơi nhất xứ.
- “Nhất thiết sở quy là…”: giải thích ba hạnh.
- “Không có ba hạnh…” là đối xứ kết danh.
- “Hành xứ như đây…”: nêu cùng phẩm trước nói ba pháp nghĩa hợp.
- “Đây gọi là…”: tổng kết.
Trong Giải thích ba hạnh tự có ba:
1. Giải thích hạnh thứ nhất lại có hai: Trước hiểu rõ kinh, tiếp kết danh. Hiểu rõ ý kinh: Địa sở trụ nghĩa là thật lý. Tiếp “Các hành…”: nêu năng trụ hành tức y lý khởi hành. “Đây tức…” là kết danh. Nói “hành mà bất hành”: Lý tuy không hành, y lý mà hành. Hành đắc lý thôi dứt tức gọi “bất hành”. Năng trụ là hành nhân đắc lý. Năng hành thắng hạnh, hành tức bất hành cho nên nói “hạnh hành mà bất hành”.
2. Giải thích hạnh thứ hai: Cũng trước hiểu rõ kinh, tiếp kết danh. Hiểu rõ kinh: Cũng chỉ nhất địa trước. Làm tất cả bản: Bản là nhẫn địa, trú nhất địa cho nên đầy đủ nhu hòa… ba thứ. Đầu tiên, “Như vạn vật…”: là tổng nêu nhất địa trước lập hạnh thứ hai. Câu đầu nói thí dụ, “các hạnh đắc lý mà thành”: là hợp thí. “Nếu đắc…”: chính nêu công năng sinh, trong đó riêng nêu ra ba câu. Đây tức căn cứ lý mới có “tại cương năng nhu” cho đến “tại kinh sợ năng an ổn”. “Vô lượng…”: đức giải thích nguyên do công đức. “Địa vô sở sinh”, là chỉ thật lý trước; “mà sinh công đức” tức nhu hòa… “Tức là hạnh Bất hành mà hành”: là chánh kết danh hạnh. Y lý bất hành mà hành nơi hành.
3. Giải thích hạnh thứ ba: Cũng trước hiểu rõ kinh. Tiếp, “Tức là phi hành…”: kết danh hành. Nói “khắp vô phân biệt”: Hành cùng bất hành tánh tướng không hai, kiến các pháp thật gọi là “bất phân biệt”, vô bất phân biệt gọi là “cũng bất hành bất phân biệt”. Tiếp, “Không có ba…”: là đối xứ kết danh vì đắc thật xứ, khiến hạnh kia có tướng ba mà một. Tiếp, “Hành xứ như đây…”: cùng phẩm trước nghĩa hợp. Câu đầu tổng nêu. “Dừng nghỉ…”: đối ba câu trước, “dừng nghỉ các hành”: tức là “hành bất hành”, “tùy sinh….”: tức “Bất hành hành”. “Khắp vô phân biệt”: tức “phi hành phi bất hành”. Tiếp, “Đây gọi là…”: tổng kết có thể biết. Cho nên biết một pháp tức ba pháp. Ba pháp làm bản, cho nên trước nêu.
Tiếp, “Căn cứ hai pháp, tức dùng Sinh Pháp hai nhẫn” hiểu rõ văn, trong đó chia làm bốn:
1. Nêu.
2. “Hai nhẫn…”: hợp tên khác, tức là hai không.
3. “Hai không…”: biện rõ khác. Trong đó đầu nêu. Tiếp “Vì sao…”: giải thích tướng khác. Chân tục giả thật thông nơi ba giáo. Nay ý tại Viên đâu chỉ khác nhị thừa ư! Lại tùy nạn biện rõ cho nên tạm đối. Nói chân tục giả thật nêu rõ nhị không, Chân đế tức pháp không, Tục đế tức sinh không, tục giả chân thật, cho nên Huyền Văn nói: Thế đế phá tánh, Chân đế phá giả, giả phá tức tương không, tánh phá tức tánh không, cho nên chân tục bất nhị. Nhị không đồng thời. Vì đối sở phá để phân chân tục, tức chân tục bất tư nghì. Trong thông cũng có hai thứ Không đây, danh đồng nghĩa khác, cùng thời không sai khác phải khéo châm chước. Tiếp, “Nếu lại khai…”: là nêu khai hợp. Nếu khai làm bốn nhẫn, hai chữ “nhu hòa” làm phục nhẫn, hai chữ “thiện thuận” làm thuận nhẫn. “Lại nữa…”: là Vô sinh nhẫn. “Cũng không…”: tức Tịch diệt nhẫn. Nếu làm năm nhẫn tức tách chữ “Thiện” trong thuận nhẫn còn lại đồng bốn nhẫn. Nếu làm sáu nhẫn tức tách chữ hoà trong phục nhẫn, còn lại đồng năm nhẫn. Nếu lại khai làm bốn mươi hai nhẫn chỉ xuất ở trong hai nhẫn Vô sinh và Tịch diệt. Nếu đối Trụ tiền tùy bốn, năm, sáu nhẫn, trước tăng giảm có thể biết, nghĩa đều thông sau. Nếu nói một địa đầy đủ bốn mươi mốt, thì địa địa có bốn mươi mốt nhẫn, cũng địa địa có phục thuận… Hiêp thì y trước làm bốn hay làm hai, hai lại làm một đồng lập tên nhẫn. Địa địa đều là phục thuận vô sinh tịch diệt.
4. “Nay vả lại…”: là chánh giải thích vẫn lìa nhị Không lấy làm bốn nhẫn, thì trong kinh các câu đều đầy đủ hai Không bốn nhẫn.
Trong đó có mười:
- Nêu.
- Liệt danh.
- “Bốn nhẫn đây…”: nêu Biệt khác Viên.
- “Nay Viên…”: nêu ra ý Viên nay biện rõ khác với Biệt.
- “Đại kinh…”: là dẫn chứng.
- “Nếu căn cứ…”: căn cứ không cạn sâu để nêu bốn nhẫn.
- “Nghe sinh tử…”: hiểu rõ kinh.
- “Hành đây…”: dùng ba pháp kết:
- “Hai không…” kết danh.
- “Đó gọi…”: tổng kết.
Thứ nhất, hai như văn. Thứ ba nêu trong Biệt giáo tức dùng hai nhẫn phán xét bốn nhẫn kia, tức phục thuận tại Địa tiền cho nên nói Sinh nhẫn, vô sinh tại Địa thượng, tich diệt tại cực quả. Cho nên từ sơ địa y pháp đắc nhẫn, thông gọi là pháp nhẫn. Thứ tư, nay trong Viên, Viên vị các nhẫn đều không có sâu cạn. Thứ năm, dẫn chứng Bất nhị nêu văn tại đây. Thứ sáu, căn cứ không sâu cạn lập bốn nhẫn. Nếu nhờ Biệt gọi Viên vả lại dùng phục thuận làm Trụ tiền, Vô sinh làm đăng trụ, tịch diệt làm Diệu giác. Tạm ly đối đương hành lý ắt dung hợp cho nên nói đều thấy lý trung đạo, nên như văn nay để đầu phục nhẫn, cũng thông Kim Cang, tịch diệt vô sinh cũng thông dưới. Thứ bảy, chánh hiểu rõ trong kinh, sở dĩ không tiêu trụ nhẫn nhục địa.. là hướng lập Viên bốn nhẫn đều do trú nhẫn nhục địa cho nên lại để qua. Lại không tiêu Pháp nhẫn chỉ lược tiêu Sinh nhẫn, nhưng sinh nhẫn nghĩa sâu pháp nhẫn có thể biết. Trong Sinh nhẫn lại không tiêu nhu hòa thiện thuận tức tâm không gấp gáp không kinh sợ, là các đức nhu hòa v.v… Đã hiểu rõ tâm không hốt hoảng ở nơi bạo ngược… trước thì căn cứ đây mà biết cho nên biết bốn nhẫn đều y lý để hiển Viên. Trong lược giải thích hai câu đầu, giải thích: mà không hốt hoảng nơi bạo ngược. Tiếp, “Nghe Phật…”: giải thích tâm cũng không kinh sợ, câu này đã dung thông, các câu còn lại có thể thấy. Cho nên nói nghe sinh tử Niết-bàn cho đến chẳng khó chẳng dễ, thì biết tâm kia thường trú nhẫn địa. Thứ tám, dùng ba pháp kết cũng là hành bất hành… ba hành. Thứ chín, mười, có thể thấy.
Thứ ba, Căn cứ ba pháp lại có tám:
1. Thẳng nêu ba pháp.
2. Ba pháp… chỉ ba pháp tướng.
3. “Trú nhẫn…”: chánh tiêu kinh văn. Câu đầu tổng, “nhu hòa…” là biệt. Trong biệt nói nhẫn kiến ái… đây là chân đế không do dựa lý Trung. Lại căn cứ Không biên cho nên nói kiến ái. Nếu từ lý nói tức đồng thể kiến tư.
4. “Đây thì…”: kết danh.
5. Hành cũng có ba… kết thành ba hành ba pháp.
6. Đó là… tổng kết.
7. Đưa ra giải thích khác.
8. “Kia nêu rõ…”: căn cứ giáo không bài xích. Trong cụm từ “Không dung thông vân vân” thì “vân vân” là: lẽ ra nêu đủ viên tướng để hiển bày kinh này. Nếu không như vậy thì chẳng phải hành An Lạc Hạnh.
Tiếp “Thế nào gọi là Cận xứ…”: Giải thích Cận xứ vì đối lìa biên nên căn cứ Khứ thanh. Hai chữ “cận viễn” nếu đối sở cận ứng đều là thượng thanh. Nay nêu năng hạnh đối pháp sở ly cho nên đều Khứ thanh, trong đó chia làm bốn:
1. Nêu.
2. “Viễn (xa) mười…”: liệt kê ba môn.
3. “Trên thẳng…”: chỉ bày ba ý nguyên do.
4. “Căn cứ đầu có…”: là chánh giải thích ba nơi, trong đó liệt kê tam học đều nói “trợ”: Người mới hành hoằng kinh cần sự trợ giúp này, tam học năng trợ trợ nơi chánh hành.
Hỏi: Chẳng viễn chẳng cận tức là chánh hạnh, vì sao nói trợ?
Đáp: Đây là phép tắc quán hành sơ tâm, phụ tam học đây gọi là sở phụ làm trợ, trợ pháp hoằng thông cho nên gọi là trợ.
Đều nói phụ: Chẳng hoàn toàn chánh thể, phụ cận mà thôi! Lại
như đầu môn chỉ là tùy cần thiết, tóm lược dẫn nơi mười, giới cũng chưa cùng khắp. Tiếp môn lại nói tu nhiếp tâm kia định cũng chưa cùng khắp. Thứ ba tợ chánh viên tuệ, tuệ cũng không cùng khắp. Vì sao? Nếu chánh lập Viên giới cần chỉ Phạm võng không vì không phải cụ túc. Nếu Viên định tuệ cần phải mười pháp thành thừa, biện đủ các cảnh. Nhất vãng lại nêu mười tám Không. Tiếp nêu ý nguyên do. Đối hành xứ trên để biện rộng lược mà làm khác, nay muốn lập lại nêu cho nên nói.
Hỏi: Vì sao những pháp trợ, thông gọi là quán ư?
Đáp: Tùy luận tu hành đầy đủ như Chỉ quán. Nếu rộng vậy, thông luận thì nêu quán nhiếp chỉ. Cho nên hành giả hoằng kinh cần phải chuyên tu diệu quán dùng ba làm trợ mới hợp Thánh ý.
Nên biết hành xứ tức chánh hạnh, cận xứ tức trợ hạnh. Chánh trợ hợp hành ba hạnh gồm lý, cho nên chẳng cận viễn đối sự lập quán dùng trợ chiếu lý chánh quán.
Hỏi: Nếu chánh trợ hợp hành vì sao trước nói trợ tương tự chân ư?
Đáp: Chánh trợ hợp hành ở thể nhập tương tợ chân. Nếu chánh nhất hướng tại chân vị thì đâu gọi là phát tâm, hai không sai biệt ư!
Nói “chẳng cầm dao gậy…”: Nay nêu viên hành đối cảnh sở nhục, tức ở giữa “trung đạo” mà nói, không đồng phàm phu giao gậy tự phòng, cũng chẳng phải Nhị thừa buông bỏ không quán. Tuy lại chánh hành mà cần phải xa lìa sự ấy, dùng mười tám không quán năng sở kia, đâu đồng phàm phu Tiểu thừa hoặc bỏ hoặc phòng. “Đều nói rộng như trên…”: Văn tuy trước sau, hành ắt đồng thời, nói tuy rộng lược pháp thể không hai. Cho nên dùng trước lược để đối nay rộng, không đồng Cổ đức là chia xẻ kinh văn.
Tiếp trong chánh giải thích: Đầu giải thích căn cứ viễn luận cận. “Hào thế”: Sợ người ỷ cậy mất chánh đạo, mới đầu giống như lợi nhỏ lâu thì tổn lớn. “Nhân pháp tà”: Sợ người nhiễm tập mê nơi chánh lý, chánh quán chưa thành cần phải phòng đoạn, việc tại gia phạm gọi là Phạm chí, xuất gia ngoại đạo chung gọi là Ni-kiền. Lộ-già-da… Nhà chú giải nói: Trước như cõi đây lễ nghĩa gọi là giáo, sau như cõi đây Trang Lão huyền thư. “Già-da-đà” cũng gọi là Vi-đà. “Cận hung hí”: Sợ phóng dật. “Na-la” đây gọi là lực, tức là giác lực hý, cũng là cân lực hý (đùa giỡn…), gần gũi hạng Chiên-đà-la khiến người không có lòng từ, gần hàng Nhị thừa khiến người xa Bồ-đề. Tây phương không tạp cho nên nói hoặc lại đến thời. Đã chưa thọ đại, không ngại tiểu chí cho nên nói tùy nghi vì dục tưởng sát hại Bồ-đề tâm, dục tưởng như Chỉ Quán quyển tám nói. Bất nam làm hoại loạn chí Bồ-đề. Có năm hạng Bất nam: Nghĩa là sinh, kịch, cấu, biến, bán. Sinh nghĩa là trong thai hoặc lúc sơ sinh, Kịch nghĩa là đứt ngang… Cấu là nhân người khác, Biến là căn, Bán nghĩa là nửa tháng còn lại tức không có khả năng, rộng như Luận giải thích. Nơi nguy hại hiểm nạn không hợp để vào, vì cơ hiềm tăng bất thiện tâm cho người, nuôi dưỡng chướng ngăn người chánh tu nghiệp. Như vậy mười pháp các giáo đều rõ ràng chỉ lìa Nhị thừa các giáo có chút sai khác. Nay hoằng Viên kinh cần phải thuộc Viên nhân. Đây đương căn cứ Nhân duyên và căn cứ giáo hai giải thích chỉ thiếu Bản tích. Nếu muốn lập Bản tức lìa mười thứ nhị biên cảnh giới, Tích chỉ lìa mười thứ não đây thôi!
Quán tâm mười thứ v.v… khiến so sánh giống như nói, nên tác tổng biệt hai thứ: Tổng đều là pháp giới, đâu chỗ nào có thể lìa, đâu chỗ nào không lìa, chẳng lìa, chẳng không lìa mà luận lìa, trở lại đồng với chẳng viễn, chẳng cận mà luận cận. Sơ tâm tuy rõ tất cả vốn không mà phải thường thường cận ở viễn ly Biệt: thì viễn ly ba giáo, giáo chủ thế lực lớn mạnh (hào thế). Hành nhị biên tức là tà hành, người nhị biên tức là người tà. Nhị quán thần thông gọi là hung hý, tam hoặc rất hại sát mạng tam trí. Thiên không diệt tưởng gọi là chúng nhị thừa, thiên quán chân tục gọi là dục tưởng, cho đến còn lìa địa thượng pháp ái, diệt sắc trụ không gọi là Bất nam. Phương tiện quán trí đều hại Viên cực, tất cả cảnh tục gọi là cơ hiềm, xa lìa ma, ngoại gọi là không nuôi dưỡng. Mỗi mỗi đều lấy sở ly làm cảnh, đều dùng tam quán làm cận, đều lấy tam hoặc làm viễn.
Cận cận xứ: Đại luận hỏi: Bồ-tát vì sao tự tĩnh…? Luận đáp: Như bệnh đem thân… đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Ba ý…: Như trước nêu bày định tâm định xứ định môn, liệt kê xong tức nên rộng giải thích, rộng chọn lọc. Tâm: Nghĩa là tâm năng kỳ vọng. Xứ nghĩa là xứ trong năm duyên. Môn nghĩa là năm sự điều tâm chưa rỗi luận rộng. Cho nên hai mươi lăm phương tiện tùy cần thiết liệt kê hai. Như vậy ba pháp đều khiến thân cận. Đây căn cứ đối với viễn trước để thuyết cận, gần pháp cận này nên nói cận cận.
Phi viễn phi cận mà luận cận: Đầu khai ba chương làm cảnh trí giải thích. Lại, “Quán là Trung đạo…”: toàn căn cứ quán giải thích. Văn đầu có ba: Nêu môn, liệt kê chương, và giải thích. Giải thích: Chữ “quán” đầu tiên nêu lên “trí”, ở giũa ba chữ “Nhất thiết pháp” là nêu lên cảnh, chữ “Không” ở sau trong cụm từ “Quán nhất thiết pháp Không” của kinh văn thì luận không gỉai thích, chỉ là kết thành trí cảnh. “Nếu riêng luận…”: ý nêu rõ cảnh trí, trí tức trí tuệ năm Đức Phật ở đầu phẩm Phương Tiện, cảnh tức cảnh thật Thập Như ở đầu phẩm Phương Tiện. Chỉ chữ “Không” thì tùy vị phán xét, chỉ vì đây thuộc hạnh hoằng kinh, trí kia thuộc năm Đức Phật hiển. Lại, “riêng luận…” tức là nay chánh nêu quán, tại sao nêu tất cả pháp ư? Nêu sở hiển năng cho nên Không hiển nơi quán. Nhất thiết pháp gia chi Không quán. Tiếp, “biệt giải thích”: ba chữ “Như thật tướng” là biệt giải thích cảnh. “Nhị biên tam đế”: Nhị biên đối trung, trung ắt tam đế. Ba mà không ba gọi là “không một không khác”. Tam đế như thật đối Thất biện khác, cho nên nói “thật”. Thật tức vô tướng biến tướng tất cả cho nên nói “thật tướng”. “Chẳng điên đảo”: Là biệt giải thích “trí”, đầy đủ như đầu phẩm Phương Tiện, nay không nói nhiều. Cảnh là các câu sở quán trong quán, chỉ năng quán, quán trong bộ còn ít, cho nên trong đây văn ấy ít rộng. “Không có tám đảo”: Không có thường, vô thường… đều có bốn, tức tiêu biểu trung đạo. Nhưng các tên gọi “thường, v.v…” danh kiêm giới ngoại, do trong Biến dịch chẳng những riêng có đảo vô thường…, mà đối với song phi vẫn có nêu ra mượn thường… bốn đảo. Nếu không lập song phi nghĩa thì không như vậy, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói, dùng song thọ để tiêu biểu đó. Các pháp tức trung, cho nên không có hai món tử. Đảo tức sinh nhân, không có nhân ắt không quả, cho nên trong Đại luận dụ như rơi xuống núi cao tuy chưa đến đất tức gọi là đã chết.
“Bất thoái”: Khế hợp lý tịch diệt nhập Tát-bà-nhã, do từ Viên cho nên nhân lập tên quả. “Bất chuyển”: Ắt định không bị phàm phu Tiểu thừa chuyển, còn không bị tam Bồ-tát chuyển, huống chi phàm phu Tiểu thừa! Phải căn cứ Lục tức để luận “bất chuyển”, dưới có thể biết. “Như hư không”: Trước, lập Thí dụ, vì không bị nhị biên chuyển cho nên “quán” không thể đắc, chỉ có danh tự. Tiếp, “Trung đạo…”: là hợp, chỉ có danh tự tức tánh không; danh tự cũng không, tức tướng không. Đây tức sở đắc nhị không quán thể. “Vô sở hữu…”: xuất tướng nhị Không. Vô sở hữu tức “tánh không tướng”. “Nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn”: tức tuyệt dứt nói năng tư duy là “tướng không tướng”. Trong tánh Không, nói: “không có tự…” là ứng căn cứ chân vọng xen nhau mà luận tự tha và công… Nay lý chân như chỉ là Vô nhân, mà nói “không có vô nhân”: là không có “Vô nhân” theo kiểu của ngoại đạo kia. Đầy đủ nhị Không cho nên “bất sinh bất xuất”. “Xuất” là thoái vậy. Nay là quán hạnh tam bất thoái. Nói “Hoặc trí… bất sinh”: Đầy đủ nên nói “Hạnh vị nhân quả…”, chỉ vì văn lược. Nay lược nêu: Hoặc trí và lý thể vốn bất sinh, Hoặc trí xứng lý nên đều bất sinh. Trong giải thích “Bất xuất”, nói “Như Lai trị”: Toàn thể tức thị, cho nên không thể xuất. “Bất khởi”: Do nhập lý cho nên phương tiện lý giáo hết thảy đều tịch. “Vô danh”: Lập lại giải thích “Vô sở hữu…” như ở trước. Thuyên cái không thể thuyên, thì về lý không phải danh. “Vô tướng”: là tướng sở bất năng tướng. Lại, nói mười cảnh sở bất tướng. “Vô sở hữu”: lần nữa lại tán thán quán thể. “Vô lượng”: Không phải giới, ấm, nhập, các số pháp. “Vô biên”: Không phải như thiên tiểu phân hạn pháp. “Vô ngại”: Biến nhập các pháp. “Vô chướng”: Không thể ngăn dừng. Tuy lại nhiều câu chỉ là năng quán, vô tướng vô tác cùng cảnh hợp. Đối mười tám câu lập mười tám quán, đối nhất thiết pháp gọi là nhất thiết không.
Tiếp ““Chỉ do…”: là kết. Đầu tổng kết các câu không gì chẳng phải nhân duyên. “Trên thẳng nêu…”: nêu kết gút ý. Trên phần nhiều nêu song phi, lại nói trung quán chiếu cảnh trung đạo, lẽ nào có trung quán không chiếu nhị biên? Nay đây lần nữa lại nêu chiếu nhị biên, dùng kết các văn để hiển thể trung quán bất tư nghì. Nói “lý tánh rốt ráo thanh tịnh”: Lập lại cảnh trung đạo là cảnh song chiếu, cho nên nói như trên đã nói. Trong đây chia làm ba: Đầu căn cứ câu đầu để nêu song chiếu cảnh nhị biên. Thể trung đạo vô tác nhị biên từ duyên, dùng vô tác quán chiếu duyên giải hoặc. “Lại, từ nhân duyên…”: lần nữa lại giải thích. Tức lấy câu đầu mà làm Không biên, chiếu duyên sinh, duyên sinh cho nên “Không”, “Không” gọi là Niết-bàn, tức dùng câu tiếp mà làm hữu biên cho nên nói điên đảo; đảo cũng từ duyên. Lại, từ đảo biên cho nên gọi là điên đảo. Dùng trung đạo trước, quán không thiên mà chiếu. Nói “ý hiển”, là thù thắng vì dùng nhân duyên một câu nghĩa khai hai cảnh. Nhưng văn đầu không giải thích điên đảo. Điên đảo tức là nói nguyên do nên không biệt thích. Nay từ: “Cho nên nói…” trở xuống, là không biệt thích, cho nên nói tức là diệu giáo, giáo ắt hợp cơ không cần phải nói điên đảo Nói thường lạc không có giải thích khác riêng cho nên tổng ở sau chỉ nhân duyên điên đảo tam đế, để nêu rõ quá pháp tức thường lạc tam quán.
Tiếp, “Lại chỉ…”: lại hợp hai câu trước đồng làm cảnh tam đế. Phàm từ nhân duyên sinh pháp điên đảo đều là thể diệu cảnh. Do cảnh bản hữu nói các quán trên cũng do giải thích thứ hai nói dụng quán, cho nên có giải thích này kết thuyết kết quán. Lại trong kết ba phen giải thích: Do từ trước đến nay các cảnh: Đầu giải thích do điên đảo nên nói. Tiếp, giải thích do nhị biên nên nói. Giải thích thứ ba, do bất tư nghì cho nên nói. Tuy ba giải thích không đồng, cùng hiển giống nhau. Tuy hiển như nhau đều là thân sơ. Đầu nói từ cơ cho nên nói điên đảo. Từ cơ nói thông, tiếp nói tiệm (dần) thân; do nhị biên cho nên trung đạo vốn không nói. Thứ ba toàn căn cứ thể tam đế bất tư nghì nói, tuy có thân sơ mà quán pháp không sai biệt. Đồng quán tam đế cảnh nhất thật, cho nên một câu thường lạc không chỗ nào ly hợp, do đó trước sau cùng thành một ý.
Tiếp, “Lại quán…”: là thông văn trên dưới hoàn toàn làm quán giải thích, trong đó lại có hai:
- Tác quán thể, quán tướng để giải thích.
- “Phàm có mười chín câu…” tác mười tám Không tổng biệt để giải thích.
Đầu nói quán tất cả pháp không như thật tướng. Nói “nêu quán thể”: Thật tướng là sở quán, dùng sở hiển năng quán mới có thể. Tiếp “Bất điên đảo…”: giải thích quán tướng. Nói “chín câu”: Đối với mười tám đơn phức dưới không đồng cho nên chỉ chín. Phức cho nên chỉ chín:
- Bất điên đảo…
- Bất thoái…
- Như hư không…
- Nhất thiết ngôn ngữ…
- Bất sinh…
- Vô danh…
- Vô lượng…
- Chỉ do…
- Thường ưa…
Lược nêu ba câu chỉ tướng câu phức khiến các câu khác căn cứ đây có thể biết. Trong đây chín câu xong “thường ưa quán”. Dưới mười tám Không chỉ đến “Vô chướng”.
Tiếp dẫn Thích luận giải thích “như hư không…”. Lại giải thích câu bất sinh…, vì do như hư không nên ba đời không nhiếp. Đầu, “như hư không” là tổng nêu, “Vô nhập” là bất sinh, không từ nơi hiện tại để nhập vị lai; “Vô xuất” là bất xuất, không từ nơi hiện tại để xuất quá khứ, không “Vô trụ tướng” là bất khởi, tức hiện tại chẳng trụ. Dẫn ý Nhiếp Đại Thừa luận cùng Đại luận đồng. Lại dẫn Đại luận quyển bốn mươi ba, tức xét tới giải thích khác thôi. Tiếp, căn cứ tổng biệt nêu Mười tám Không: Ở thể tướng trước cũng có thể lấy làm tổng thể, biệt thể, tổng tướng, biệt tướng. Nay tổng biệt: Ở chín câu trước thì trừ hai câu sau, lấy bảy câu còn lại chia làm mười bảy, tiến thủ như câu thật tướng, hợp làm mười tám. dùng trong bảy câu trước, ba câu đầu, hai, hai làm câu, câu thứ tư đơn, câu thứ năm thứ sáu thì ba, ba làm câu, một câu thứ bảy thì bốn câu làm câu cho nên khiến câu pháp dư thiếu không đồng. Mười tám Không đây từ sở mà được tên. Năng không chỉ là Nhất đại không mà thôi! Đại vô đại tướng tức Viên không. Cho nên văn tiếp nói “Trung đạo chánh tuệ”, tức là năng không, cho nên mỗi một câu đều có năng không và sở không. Năng không tức là như, không có gì không đoạn… Sở không tức là điên đảo cho đến ngại chướng… Như nói điên đảo, điên đảo là nội (bên trong), nội điên đảo Không cho nên nói “bất”. Phần dưới căn cứ đây có thể biết. Trong Không không, thì trước lập năng sở, các câu còn lại thì sở không có. Bởi vì trong câu đây thì năng sở danh đồng, cho nên biệt hiển. Các văn khác thì tương biệt, cho nên không luận. Trong đó mặc dù sở không gọi là không, vọng trí năng không còn gọi là hữu, trong đây rất lược, tùy giải thích tướng trạng và ly hợp, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói: Nếu hiểu diệu cảnh và viên mười quán thì mới rõ được mười tám quán cảnh trong đây. Nếu không như vậy, thì văn Chỉ Quán kia bèn trở thành uổng thiết lập. Cho nên chỉ là quán pháp của người An Lạc Hạnh. Cho nên biết ban đầu hạnh cần phải thông đạt ý kia thì mới có thể hoằng kinh. Nếu đầy đủ không vừa ý mà làm lợi làm danh làm nhiều làm hơn, thì chịu đồng với đạo Nhị thừa hay không? Đại thừa tiến thoái xét tự tư duy. Do đó siêng năng đối với việc hoằng kinh, bởi vì mong cùng thấm nhuần lợi ích Đại mà thôi! Cho nên mỗi một cảnh kia đều kết thành đại xa, cho nên mỗi quán kia đều y thật tướng. Hơn bốn mươi năm giáo pháp bí yếu, giáo đã khó thấy thì hạnh lý sở thuyên do đâu mà hiểu? Nếu chẳng phải lực của Tứ y hoằng pháp, thì đời mạt pháp người học mê chấp, làm sao gặp được văn này? Nếu gặp mà không cầu, thì đâu khác gì người mù với mặt Trời, mặt Trăng, đâu khác gì như sấm sét với người điếc ư! Chỉ vì trong văn nay quán pháp chưa cùng khắp, thuộc tại bộ kia. Văn tuy không tùy phẩm mà Tướng lược khắp, nay điểm sơ điều này khiến duyên tâm hữu tại. Vì sao? Vì thật tướng là diệu cảnh, từ bi là phát tâm, Chỉ Quán là an tâm, hết thảy phá khắp, mười tám là đạo phẩm, cũng không phân biệt thông tắc, lìa mười tám não loạn trợ đạo, trong mộng thấy là tiêu biểu ba thứ sau. Thông gồm bốn hạnh mười quán lược khắp, thông luận lại dùng bốn hạnh trợ giúp mười. Hoặc là bốn hoặc là mười đều liên quan đến nhân quả, bốn tổng mười biệt. Hoặc tổng hoặc biệt đều thông ngang dọc. Bốn hạnh sự nghi chỉ tại ban đầu? Mười pháp dẫn lý đều có thể trọn đến sau cùng. Lẽ nào phải Niết-bàn hạnh chỉ riêng tại ban đầu? Lại mười tám danh đây tại Đại Phẩm, Đại luận theo đó mà giải thích. Kinh thông tam giáo, luận giải thích còn bao hàm, chỉ vì xem xét nhị thừa mà không vi tế biện Thông Biệt Bồ-tát. Vì vậy cho nên người đọc cần phải trực tâm, cho nên phải đối kinh mỗi mỗi làm viên giải thích.
Trong “Kệ….”: Nghĩa khác cho nên “khai”, ý đồng nên “hợp”. Cho nên Hành Cận bên trên thì dùng rộng để hiển lược. “Trên thì Hành xứ và Cận xứ” đến “thứ lớp”: Văn trên hành ba tuy có ba giải thích, mà nên chọn thứ ba chia làm ba đế, giải thích dùng ba lớp giải thích đều hiểu rõ khắp, không đồng ba ở trong cận, chỉ được gọi là các (đều) lại nói không thứ lớp: Chẳng những không thứ lớp cũng chính thông tổng, trong tụng phần nhiều nói văn cận xứ. Cho nên ứng nhập… đến tụng sự cận viễn: Căn cứ viễn luận cận, cũng nên nói tụng song song nêu hành cận. Cũng là tụng nhân không hành xứ, là thứ hai trong Hành xứ, trước làm nhị Không tiêu văn. Ở trong nhị không lìa mười não loạn, cũng đương sinh không nhu hoà thiện thuận. Nói tức bao gồm: Viễn trong cận, cận cũng đồng sinh không pháp không, lại nơi viễn cận tu không tu quán. Lại viễn cận bình đẳng ba cũng chỉ căn cứ ba của hành trước mà thôi! Căn cứ kệ nêu kết đều song song.
“Thường xa rời quốc vương…” tức là cho đến chức quan lớn căn cứ theo lệ trên có thể biết. Không phải thẳng vì hoằng kinh thì pháp người khác đều như đây. Làm như đây là hủy báng Tỳ-kheo: tức Thế tục nói đã là Tỳ-kheo làm việc đây, vì Phật cho ư! Phật pháp như vậy ư! Vi-đà: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 10 nói. Sở dĩ không cho thân cận Viđà, là vì hoặc sợ người nghi giáo lý Tỳ-kheo dạy, họ nói Phật pháp như đây. Lại nữa, ngoại đạo thường suy nghĩ muốn vượt qua Phật, nếu thân cận đây, thì hoặc cho là Tỳ-kheo cần họ kia, Phật pháp không bằng Viđà. Cho nên răn dạy trong chúng chớ thân cận ngoại pháp, cho nên sáu đế hai mươi lăm đế… đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười nói. Cho tán vịnh căn cứ đây có thể biết. Đầu tiên vì Bạt-kỳ Tử nói A-tỳ-đàm, cho nên biết riêng có A-tỳ-đàm tạng là Phật tự nói. Người không thấy: thì tranh chấp nói hoặc cho là Luận nghĩa bộ thuộc trong mười hai bộ, là không đúng. Nói “tương tục giải thoát kinh”, là Phật tự nói cho nên gọi là Kinh. Sau khi Phật diệt độ, cái được A-nan kết tập gọi là Tu-đala. Ngũ bách tập, ban đầu gọi là “giải thoát”, sau rộng tập pháp tướng bèn gọi là “luận”.
Tướng dục: Trong tụng tuy không nói tướng dục, mà do văn trường hàng có nên nay lược giải thích. Câu-xá nói: sáu thọ dục: giao hợp, ôm nắm tay, cười, nhìn, dâm dục, nay y danh mục xưa. Tu-luân là Tu-la. Như Trung A-hàm nói: Có một dị học hỏi Bạt-câu-la rằng: “Ở trong chánh pháp đã tám mươi năm từng hành việc dục chưa? Bạt-câu nói: Chớ nói lời ấy, còn có việc khác sao không hỏi ư? Dị học lại hỏi: Ông trong tám mươi năm có từng khởi tưởng dục không? Đáp: Không nên hỏi như vậy. Ta trong tám mươi năm chưa từng khởi dục tưởng, còn chưa từng khởi một niệm cống cao, chưa từng thọ y của cư sĩ, chưa từng cắt rọc y, chưa từng nhờ người may y, chưa từng dùng kim may vá, chưa từng thọ thỉnh, chưa từng theo đại gia khất thực, chưa từng dựa vách, chưa từng nhìn mặt người nữ, chưa từng vào phòng ni, chưa từng cùng ni hỏi han, cho đến trên đường cũng không cùng nói chuyện. Tám mươi năm ngồi tòa, cho nên biết dục tưởng về y thực… hết thảy đều không có, huống là nhiễm dục tưởng ư! Người hoằng pháp nên xem việc này làm gương. Người đời cười người khác là lạm dụng Đại thừa, lấy làm hợp tạp; nhưng ở Tiểu thừa xét kiểm cũng có thể tư duy tường tận, huống chi nay hoằng kinh thì dứt sự cơ hiềm là gốc vân vân.
“Tám tinh tấn…”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. “Lại nữa, không hành thượng trung…”: Căn cứ phế quyền mà nói, cho nên ba giáo trước gọi là thượng trung hạ, hoặc chỉ tam thừa hoặc tam Bồ-tát. “Không cậy ở Viên…”: Đức Phật mà còn dùng phương tiện khác và các pháp sâu xa khác để trợ giúp chánh đạo, thì kẻ hậu học thuận giáo pháp lẽ nào có thể cố trái? Huân tập thật còn vi tế mà khinh miệt thiên Tiểu thừa, cần phải thuận tôn chỉ Phật ngõ hầu bảo hộ vật cơ!.
Hỏi: Thiên viên và Quyền thật, có gì sai biệt?
Đáp: Thông thì không Biệt, Biệt luận Tiểu khác. Thiên Viên là căn cứ giáo, Quyền thật là căn cứ pháp, pháp tức sở thuyên trong giáo, thông cả lý trí hạnh v.v….
Hỏi: Đức Phật ở đời quán căn cơ chúng sinh sợ họ đoạ khổ nên trước dùng Tiểu thừa dắt dẫn, tiếp dùng Thiên (thiên lệch) hướng dẫn, đời mạt pháp hoằng pháp lẽ nào phải như vậy ư?
Đáp: Nay nói trợ là nêu sánh ví mà thôi, sợ cậy Viên chê Thiên. Song người hoằng kinh tùy theo hành vị, nếu là người mới hành thì đầy đủ như văn nay, không dùng Tiểu thừa đáp. Nếu người địa vị sâu bắt đầu chưa hoằng pháp thì phải dùng ba pháp sinh diệt v.v… thì mới năng hiển Viên đốn, đầy đủ như trong Chỉ Quán các văn đều nói trước tiệm sau đốn.
Trước mặt khen: Như đối trước hai người mà khen một người, người kia không được khen tức là chê, nhưng người ưa khen ắt sẽ khéo chê khiến cho người khác lo buồn điều này, cho nên đều phải dứt. Lại trước mặt khen như đối trước chê cho nên người trí hãy chấm dứt điều này.
Hỏi: Kinh tán thán tiểu thiện thì tại sao ngăn cấm khen trước mặt ư?
Đáp: Ưa khen trước mặt thì chưa hẳn khen tốt, khen thông hai nghĩa ẩn hiển, ngăn việc trước mặt dụ như đề phòng, cho nên người có hạnh an lạc tự hộ phòng việc đó. Cũng không được căn cứ nhà Trương nói sở trường nhà Triệu v.v… tức là: Dựa vào sở trường nhà Trương nói sở trường nhà Triệu. Khiến nhà Triệu cho rằng nói sở trường nhà Trương kia mà chê mình sở đoản, hoặc thấy Triệu hành nói sám nói nhà Trương siêng năng. Lẽ nào không khiến Triệu tưởng lầm khen nhà Trương kia mà chê mình ư! Giống như pháp mắng khéo vậy, do đó không nên làm. Hoặc hướng nhà Trương nói Triệu dở, lại khiến Trương cho rằng chê mình khen kia. Cho nên Đại luận nói: Tự khen, tự chê, khen người, chê người, bốn pháp như vậy bậc trí giả không làm. Vì sao vậy? Tự tán thán mình chính là người cống cao giả dối, chê mình đó là người yêu hoặc, khen người là người dua nịnh dối trá, chê người là người gièm pha nói xấu người. Người trí nên dùng tứ Tất-đàn để suy xét mà hộ tự tha (mình và người).
“Nếu tán thán nhị thừa…”: Đối Đại tán thán Tiểu thì khiến mất Đại. Nếu chê Nhị thừa, thì khiến Nhị thừa đại tiểu đều mất, đây là căn cứ người mới hành Nhị thừa cũng là người huân tập Tiểu trợ giúp Đại, như Nhị thừa trong Niết-bàn. “Chẳng sinh tâm oán hiềm”: chữ “oán” là khứ thanh, tổn mình thì “oán”, trái tình thì “hiềm”. Nếu đọc bình thanh, thì tổn thương mình chưa trọng tâm, tích chứa thù lớn. An lạc hạnh còn là bỏ cái vui thuận hợp với mình, huống chi tạo mối hận không oán. Kinh Đại Tập nói: Thời quá khứ có vua La-sát ở vào đời đức Phật Câulưu-tôn xuất gia trong Phật pháp, phát Bồ-đề tâm tụng trì kinh pháp Đại tiểu thừa mỗi thứ tám vạn bốn ngàn, do có ý hiềm khích Đầu-đà Tỳkheo nói không tụng kinh điển cũng như gốc cây còn lại sau khi đốn, do đó bị đoạ địa ngục thọ đại khổ não. Từ địa ngục ra thì bị thọ thân Lasát, cuối hiền kiếp đến chỗ Phật mới thoát thân La-sát. Người thường còn vậy huống chi người tu hạnh an lạc, vì hoằng Đại thừa kinh điển tất nhiên hộ trì tiểu hạnh. Lại oán quái hiềm trách oán sâu hiềm cạn, cạn sâu đều xả mới thành chánh hạnh. Đây khẩu An lạc hạnh; trong đó cái gọi là tâm, là chế khẩu. “Quán các pháp không…”: Tâm đã trụ nơi lý Tất cánh không, là nêu lại hành pháp trước, cho nên quyết không chấp
Đại mà khinh Tiểu, chỉ tùy thuận pháp tướng, lại thuận vật tình. Còn không khiến thuận pháp mà trái vật tình, huống chi khiến trái pháp mà lại trái cơ ư! Cho nên từ “Nếu không thấy…”: là chỉ đáp pháp Đại thừa, tùy nghĩa mà đáp có ba: là ba thứ ngữ, trí giả ngữ tức có thể đáp, vương giả ngữ, người gỉa ngữ tức không thể đáp. Không nên dùng Viên hạnh để quở trách Biệt, kinh tuy chỉ nói người học Phật đạo, do Tạng Thông Bồ-tát tuy cũng cầu Phật mà cùng Tiểu đồng, còn thuộc Tiểu nhiếp. Đã nói cầu đoản, do quyền có đoản cho nên như vậy.
“Tỳ-kheo…” là nói quở trách Thông: bốn chúng thông có tam thừa, cách đạo rất xa. “Lại nói Biệt”: Do trong Thông giáo lại có biệt cơ. “Đắm chìm không…” là từ chối giải thích thông. Lẽ nào Dũng xuất Bồ-tát bổ xứ còn đều không biết nhất nhân làm sao khiến tu các hạnh đây được ư! Huống chi người chưa xuất dự định thuyết hạnh ư! Huống lại xuất rồi phó mạng hoằng trì, không thấy lại khiến có tu Hành xứ. Lại kinh cũng không nên hý luận các pháp, trong đây không cần dẫn Trung luận Quán Pháp phẩm, kiến luận, ái luận, kia chính là Thông thuộc lậu hoặc của tam giới. Cũng không cần dẫn Tịnh Danh kiến Khổ đoạn Tập, tức là hý luận. Đây chính biệt bài xích người Tiểu thừa quả. Lại không nên dẫn Đại luận hoặc nói phi hữu phi vô, là pháp hý luận và câu thứ tư gọi là hý luận hủy báng v.v… Nay ngăn cấm các hý luận làm chướng ngại An lạc hạnh mà thôi. Cho nên biết giải thích nghĩa cần phải vọng bản kinh, bỏ cạn theo sâu chưa gọi là đúng lý. Chỉ và Quán hai hạnh đều có bốn: Trong đây hai hàng đầu tụng Chỉ bốn, tiếp ba hàng tụng Quán bốn. Đầu, Chỉ bốn:
- Một hàng đầu tụng hạnh thứ nhất lìa ganh, nịnh.
- Một câu tụng hạnh thứ hai lìa khinh mạn.
- Một câu tụng hạnh thứ tư lìa tranh cạnh.
- Nửa hàng tụng hạnh thứ ba lìa não loạn.
Tiếp, ba hàng tụng Quán bốn:
- Một hàng đầu tụng ý thứ nhất đại bi.
- Một hàng tụng ý thứ ba: đại sư.
- Hai câu tụng ý thứ hai: từ phu.
- Hai câu tụng ý thứ tư: đẳng thuyết.
Chỉ vì kia đều từng phát tâm: Do đều đã từng phát tâm thiên tiểu, Nhập thật không xa thông thành Đại cơ tức cảnh Từ. Cảnh Bi đây nhiếp hết thảy trong tam giới. Trong văn đã không nói xuất gia thì biết là người lưu chuyển trong tam giới. Kinh tuy chỉ nói chẳng phải Bồ-tát, mà dùng Đại lệ Tiểu, thì nghiệm biết cũng không phát Tiểu, căn cứ trước thì Đại tiểu đều là cảnh từ. Nên biết ban vui bạt khổ tùy nêu một bên, cho nên đều giải thích ngăn ngại, khiến thông Đại chỉ. Kinh nói “Không nghe không biết…”: là căn cứ lý mà nói. Thiên cũng nên có “không hỏi không tin…”. Viên cũng nên có “Không nghe không biết…”.
Hỏi: Làm sao biết được ba trước là Quyền, ba sau là Thật?
Đáp: Chuẩn theo văn chánh phát thệ, chỉ nêu ba sau mà là kinh ấy.
“Kinh dùng thần thông…”: Hai lực chỉ là phước trí hai nghiêm sâu quán nhà và áo Như Lai. “Cùng làm sức đại thiện tịch”: Bất khởi tức là áo, hiện nghi tức là nhà.
Nói “Tám vạn…”: Chỉ là Tiểu thừa tám vạn mà thôi! Như Câu-xá nói: Mâu-ni thuyết pháp uẩn số có tám mươi ngàn, chưa liên quan với Đại. “Thứ năm tùy công”: Đầu từ Thất hiền cuối đến La-hán đều có phần định tuệ. “Thành tức Niết-bàn”: Tức quả thứ tư. “Đắc hữu lậu”: Là pháp Hiền vị. Tiếp, trong thí dụ Lục hợp thứ lớp hợp sáu: Đầu hợp đầu, “Mà các…”: hợp thứ hai, “Như Lai…”: hợp thứ ba, “Kia có…”: hợp thứ tư, “Trong bốn…”: hợp thứ năm, “Mà không…”: hợp thứ sáu. Trong phần hợp cho hạt châu, kinh nói: “Thấy Hiền, Thánh…”. Kinh Đại Tập nói: Biết Khổ thì hoại ấm ma, đoạn Tập thì lìa phiền não ma, chứng Diệt thì lìa tử ma, tu Đạo thì hoại thiên tử ma. Nay không nói thiên tử ma, là do Tiểu thừa phần nhiều đoạn ba thứ ma nhưng chưa hoại ma thiên tử, nhưng có nghĩa hoại. Kinh nói “Có Đại…”: Như Lai thấy Tiểu thừa Hiền Thánh đây đã trừ nhân quả giới nội gọi là cùng ấm chiến (đấu) đến sau Bát-nhã gọi là công trạng lớn. Cho nên ba độc… lại tại trong Tiểu thừa. Thời sau đó trường thông nói hoan hỷ. Trong phiền não chướng đầu tiên lại có ba: Tức tham… ba độc. Tiếp mười sáu hàng nói tất cả, tức căn cứ dưới giải thích tất cả. Đầu thì từ Thập tín cuối thì đến Diệu giác. Cho nên biết ba hoặc chỉ tại Dục giới ba độc thô mà thôi! Do Thập tín trừ đủ hoặc tam giới, dưới còn có Kiến Tư… ba hoặc, cho nên nói tất cả. Do tất cả nói thông thâu ba hoặc đều chuyển.
An lạc đã là hạnh của Như Lai, vì người hoằng kinh dự biểu quả thành, cho nên biết lực hoằng kinh kia chẳng phải nhỏ.
Hỏi: Vì sao đến đây liền tán thán giáo ư?
Đáp: Đây tại cuối tích môn lưu thông. Trước đã nêu sau khi Phật diệt độ thì hoằng kinh công sâu. Cổ Phật chứng kinh Phật nay thành đạo. Hai vạn tám mươi vạn ức cõi này phương khác tuyên thông lợi ích không thể tính lường. Người thâu hoạch công vi diệu bởi do pháp thật, cho nên cuối phần lưu thông lập lại biện rõ sở thông. Sở thông là gì? Ba chu khai hiển cho nên nêu Luận vương uy phục binh chúng được công trạng. Công trạng có đại tiểu, cho nên ban cho không đồng. Sau bốn hạnh đây lại kết thành, hiển bốn hạnh công thành. Năng hành hạnh đây kiêm sức hoằng kinh, hóa công trở về mình, quả tướng hiển ở trước, cho nên khiến đại sĩ sát na mộng vượt qua ức đời, tiêu biểu một đời hoằng giáo công siêu vượt nhiều kiếp. Đầu tiên trong Thập tín đã nói từ bi, lại nói chánh kiến và Vô si. Từ bi là hoằng thệ tợ phát, Chánh kiến Vô si là giới nội chân thành, tức không có Kiến, Tu hai hoặc. Trong Trụ đã nói “thấy Phật”, là tiêu biểu tự mình sẽ đắc tám tướng tức giai vị phần chân Vô sinh nhẫn. Trong kiến thân xứ tiêu biểu nhập thật, tán thán hoan hỷ để tiêu biểu nhập Hoan hỷ trụ. Trong phát tâm kiến cùng sơ địa đồng, cho nên cũng nói “hỷ”. Đắc tam tổng trì đủ tam bất thoái, Đức Phật biết nguyên do được thọ ký. Phần dưới nói được thọ ký, có thể biết. Tu tập nói “Hành”, trước không gì không hành, không biệt mà biệt đến đây rốt ráo được gọi là “Hành”, “Chứng chư thực tướng…”: Nói “chư” chính là tiêu biểu đoạn ba mươi phẩm. Nói “Vô cấu”: Sơ trụ đã đắc, là thuận Đại kinh, lại từ Sơ địa. Nếu nói nhập Kim cang định, nghĩa đương Đẳng giác, hợp trong địa thứ mười. Trong đây nêu “Tín… năm căn” cho đến “Tám chánh”, là giải thích Phật đạo. Đạo sở hành không vượt qua bảy khoa, tùy cần lược nêu bốn khoa sau Tín.
PHẦN TRUNG
GIẢI THÍCH PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT
Trước dùng tứ Tất-đàn thông giải thích. Trong Thế giới Tất-đàn đầu tiên nêu nguyên do vâng mệnh đến. Tiếp “Như Lai…” chánh nêu vâng mệnh đến. “Sư nghiêm…”: hai nghĩa nêu xen nhau. Đạo tại Sư cho nên “đạo tôn”, Sư có đạo cho nên Sư nghiêm. Sư nghiêm nên không thể trái mệnh, đạo tôn nên có mệnh lệnh thì phải đến. Do Sư đầy đủ hai nghĩa nên hết lòng vâng theo. Tiếp, chánh nêu vâng mệnh đến. Cái gọi là “mệnh”:
1. Do cuối phẩm Bảo Tháp nói Đức Phật muốn đem kinh Diệu Pháp Hoa đây giao phó cho người có mặt, mệnh lệnh này còn thông.
2. Do văn phẩm này nói Bồ-tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát tám sông Hằng xin đến cõi này hoằng kinh. Đức Phật bảo: Thôi! Ta ở thế giới Ta bà tự có chúng đại Bồ-tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng, tức mệnh lệnh biệt. Cho nên kinh gia trình bày điều này. Các Bồ-tát nghe Đức Thích-ca phát âm thanh thì từ hạ phương phát đến. “Bốn phương vội xuất hiện”. Cung kính đến, tự tại bay đến đây cho nên gọi là thế giới… Ba thứ cộng thành sơ cảm ứng. “Ba đời….”: là vị nhân: Có pháp, dụ, hợp. Đầu tiên, pháp: Tự bản thành đến nay ba đời lợi vật, cho nên ba đời đây đều thuộc quá khứ. Nay Phật tự đương hiện tại ích vật. Bồ-tát hoằng kinh lại tại đương lai. Tuệ lợi đã rộng chẳng phải tâm lường tới được.
Đưa ra thí dụ mặt trăng: “một mặt trăng” là bản, “vạn ảnh” là tích, chỉ khiến có nước là ứng có bóng Trăng, không hề mỏi mệt, lẽ nào có thể dùng ba đời mà tư duy! Nếu không bác bỏ bóng ảnh thì sao biết trời trăng, nêu rõ các Bồ-tát thật bản, khó lường ngầm hiển Như Lai tích không thể lường. “Mời quá khứ” Nếu không khai tích giáng sinh làm Phật rồi trở lại thì không ai có thể biết, nay muốn hiển bản trước xuất quyến thuộc bản đủ có hai đời thiện căn tăng trưởng. Cho nên gọi người xưa chỉ cho người hiện tại, khiến người hiện tại sinh hiện tại thiện, khiến người xưa hoằng kinh hiện tại, khiến người đương lai sinh thiện đương lai. “Hư không…” làm đối trị. Căn cứ sở biểu lý hư không sự, bản tích. Sự có bản tích, lý không sớm chiều, hoặc là mê lý mà mê mờ nơi bản tích, cho nên chấp cận tích để thất viễn bản, bản tích còn mê huống bất tư nghì nhất ư! Cho nên bản đệ tử ở hư không, hạ phương, Bản địa Sư trải qua ở hư không xưa, nay Sư đệ ở hư không nay, hư không xưa, hư không nay hư không hạ, hư không thượng tuy khác mà thể nhất, nhưng bản đệ tử vốn biết cận tích, đệ tử nay còn mê viễn bản vì phá chấp cận, nên mời xưa chỉ nay. Nay đệ tử nhân nghi dẫn đến thỉnh nghe thuyết mới phá, phá chấp cận ác cho nên nói đối trị. Tịch tràng… là đệ nhất nghĩa: Tịch tràng Xá-na chỉ ban đầu mới thành cho nên cha trẻ, tịch quang Bồ-tát hành lâu chấp nên con già ví như sức của thuốc: Cha vì sao trẻ con vì sao già, căn cứ dưới ý cha con thí cha đã trước uống thuốc chủng trí trẻ lại nên cha già mà như trẻ; con từ lâu bẩm thọ phương pháp thường trú bất tử nên con trẻ mà như già. Tuy đều có công ăn uống mà cha con đã định từ lâu. Đây tứ Tất-đàn tuy thông giải thích văn này mà ý gồm cả phẩm sau. Song đầu một Tất-đàn văn tại phẩm này, ý thứ hai gồm phẩm sau Tất-đàn ba, bốn xét dùng phẩm sau đều là trợ sau để thành hiển viễn. Thiện sinh, ác phá kiến bản. Cho nên biết Thế giới tức là do tam Tất-đàn, phẩm Dũng Xuất chuyên tại Thế giới.
“Văn nói…”: là dẫn chứng tổng chứng tức Tất-đàn, tức nhân duyên tứ tất cho nên vân tập. Trrong cụm từ “Đoạn Lưu thông vân vân” thì “vân vân” là: lẽ ra nên thuật đầy đủ các phẩm như dưới tùy luận. Lại hai mươi tám phẩm chi có mười một phẩm rưỡi, bản tích lưu thông mười sáu phẩm rưỡi vì lực kinh lớn nêu pháp nêu nhân, dẫn nay dẫn xưa, Đông phương Tây phương, hoặc hiển hoặc mật, tổng thân, biệt thân, hoặc nghịch, hoặc thuận, Phật xưa, Phật nay tự vi tế, tự rõ ràng, lợi ích hiện tại, lợi ích đương lai, lợi súc sinh lợi người, lợi nam, lợi nữ, lợi thân, lợi sơ, lợi sự lợi lý… kể mãi không dứt, lại nữa phẩm văn nói tứ tín bỏ, chọn không định, huống chi bản tích hai xứ lưu thông ý biệt. Cho nên nhà chú giải nói “vân vân”. Bản tích lưu thông vĩnh viễn sai khác các bộ. Bồ-tát các phương nghe phước lớn lưu thông kinh, đã nghe tích môn nói, lưu thông xong, do mộ phước thù thắng mà muốn lưu thông. Đức Như Lai ngăn chỉ. Trên rộng mộ hoằng kinh nay các phương thỉnh hoằng, vì sao không cho, cho nên dùng ba nghĩa giải thích:
1. Do trách nhiệm khác biệt nên không có hai đời lợi thì không có thế giới ích.
2. Các phương khác đối với đây không có thần (thầy tôi) làm lợi ích tức không có vị nhân.
3. Hai nghĩa tích nghi không phá tức không có đối trị. Viễn bản không hiển tức không có Đệ nhất nghĩa.
Hỏi: Chư Phật Bồ-tát đã cùng thuần thục, chưa thuần thục, có gì ở đây, kia; phân thân tan bóng biến khắp mười phương mà nói trách nhiệm của mình phế bỏ kia ư?
Đáp: Chư Phật Bồ-tát thật ra không có kia đây, chỉ cơ có hiện không có pháp vô thủy như vậy nên dùng nghĩa thứ hai hiển bày nghĩa đầu, nói kết duyên việc nông cạn. Bắt đầu từ đây. Phật Bồ-tát kết duyên trở lại nơi đây Phật Bồ-tát thành thục ý thú bình đẳng nghĩa như trước nói:
Do hai nghĩa này cho nên cần mời hạ phương, cho nên một phen mời gọi hạ phương cũng thành ba nghĩa, vì vậy cho nên ngăn phương kia không có ba nghĩa, không có tứ Tất lợi ích, Gọi hạ phương có ba nghĩa tức đầy đủ bốn lợi ích:
- Con hoằng pháp cha có thế giới lợi ích.
- Do duyên… hạ phương duyên sâu lợi nhiều có vị nhân lợi ích.
- Lại đắc… hạ phương cận nghi phá trừ nên có đối trị lợi ích.
- Viễn bản hiển nên có Đệ nhất nghĩa lợi ích.
Đây là lợi ích triệu bản hoằng kinh. Tứ Tất-đàn trước chỉ tại thế giới vị nhân. Đoạn nghi tức là bản do trong đây chưa thuật. “Trú xứ…”: là giải thích bản xứ. Trước nêu tên cõi; tiếp dùng bốn đức giải thích;
“Là vì…”: kết danh. Vốn có bốn đức làm sở y, tu đắc bốn đức làm năng y, năng sở đều có thân năng y, y nơi năng sở cõi sớ y, hai nghĩa ngang bằng mới là tướng thân cõi Lô-giá-na. Nếu nói trần sát lớp lớp tướng nhập, lớp lớp tướng có lớp lớp sự… lớp lớp thuyết tức vì người chưa hiểu, mà dùng sự hiển lý. Nếu không hiểu một tôn chỉ đây thì làm sao hiểu được mười phương pháp giới chỉ có một Đức Phật cũng chấp nhận Phật khác! Nếu chấp nhận Phật khác thì Phật ấy cũng có thân cõi lớp lớp hỗ tương hiển hiện nhập, dung thông, nên biết chỉ là căn cứ một Đức Phật mà luận khắp. “Do không…”: là giải thích ý trú. “Hạ phương…”: giải thích phương dưới. Sâu tận đáy pháp tánh là nghĩa giải thích dưới (hạ), cực địa của huyền tông là nghĩa giải thích phương, huyền tông lý nên gọi là huyền tôn. Tông là tột cùng nguồn gốc nhận lấy quả đã mong; các Bồ-tát đây phân đến kỳ hạn. Lại nói cực địa lại địa (đất) nứt; đất lấp phủ những gì thuộc bản như tích giấu bản, nay khai tích hiển bản cho nên phân đất nứt biểu hiện. Nhưng các Bồ-tát trước đây cũng từng có tích, tuy chỉ hiển bản, đối lý chưa rõ ràng, chỉ đệ tử bị che phủ nghĩa sẽ che phủ Sư, đệ tử nếu hiểu, Sư cũng đều hiển, cho nên hiển đệ tử nghĩa là sẽ hiển Sư. Nói ở hạ phương không thuộc cõi này, không trung không thuộc cõi kia, tại hư không hạ phương cho nên không thuộc cõi đây, trú nơi không cho nên không thuộc cõi kia. Lấy cõi kia tiêu biểu không, lấy cõi này tiêu biểu có, lấy hư không tiêu biểu trung, xuất hiện cõi này không ở trên nên chẳng phải cõi trên (thượng), không ở dưới cõi này tức cõi đây ở dưới hư không cõi trên, cõi này tức là dưới nên nói dưới đây. Lại dùng thượng giới tiêu biểu không, cõi đây tiêu biểu có, hư không cũng tiêu biểu trung, cho nên thượng hạ hai không đều tiêu biểu lý trung. Lý tức Tịch Quang. “Nguyên do đến…” đến “đều như trên nói”: “Từ” nghe mệnh lệnh…”: bốn câu cho nên đến, là kết giải thích ý phẩm tứ tất, cũng là dừng phương khác triệu hạ phương ba nghĩa cho nên nói như trên.
“Nếu y pháp môn”: Năm chữ nay ứng hợp chấp sáu vạn chẳng phải nhiều dưới chẳng phải đã trên vẫn thuộc nhân duyên, cũng không cần thay đổi. “Nhất tức nhất đạo…”: Đã nói pháp môn cần phải thông nhân quả, sự thì từ nhiều đến ít, pháp môn từ ít đến nhiều nghĩa nên y lý khởi hạnh. Tăng đến lục độ đã kết làm sáu vạn thành viên quán hạnh, hạnh y diệu cảnh cho nên độ thành vạn độ thật không có vạn. Trong sáu độ đều có vạn chỉ là một vạn không khác biệt vạn, sáu hoàn toàn là vạn không khác biệt sáu, mỗi một độ hành đều là pháp giới, giới vô giới tướng chỉ một sát-na tức “nhất đạo”. Một – sáu đã vậy, nhưng hai – ba – bốn – năm căn cứ đây có thể thấy. Vậy thì trong sáu đều là một nhiều đầy đủ tất cả. Phải biết nhất đạo đến ngũ căn đến, một nhãn một đế đều đủ một vạn, đều là tam quán quán pháp giới. “Đều nói thiện” không thông mê, nhiều không nhiều là không, một không là một giả, song phi song chiếu là trung. Nói v.v…” cần phải luận đủ diệu cảnh diệu quán đầy đủ như trên dưới không còn lại nói hạnh đức của Bồ-tát kia. Căn cứ đầu tiên “Ba nghiệp cúng dường” đến “thấy khắp” là đây chính cảm ứng đạo giao, năm mươi kiếp khiến như nửa ngày. Đây nêu việc dài ngắn bất khả tư nghì của Như Lai hiển bày nơi thần lực tự tại của Như Lai, tức là hiển không căn cơ tuy mượn tuy ẩn mà cũng không thể nơi dài thấy ngắn nơi hẹp thấy rộng, gương soi đâu tiếc tốt đẹp do hình cho tiên vậy!
Có người nói: Chỉ cầu nghe pháp mà quên cả thời gian dài hoặc
nói dài ngắn đây, mất cả sự dài ngắn ở đây tồn tại, đây đều đắc cảm mà mất ứng, do đâu mà kiềm chế thần lực Như Lai ư! “Lễ bái nhiễu quanh…”: lại giải thích cảm ứng. Đầu tiên glải thích ba nghiệp cúng dường làm cơ… “Năm mươi tiểu kiếp…” là giải thích tướng cảm ứng tức dài mà ngắn. “Bốn chúng…”: là giải thích tức hẹp mà rộng. Trong dài ngắn lại có bốn:
- Lược chỉ.
- “Như Lai…” nêu rõ không dài mà dài.
- “Giải…” căn cứ giải hoặc phân biệt tức là phó cơ.
- “Đây là…”: nêu ý hiện dài ngắn.
Văn thứ nhất: Tức một trong tám tự tại. Văn thứ hai: Mắt Phật xem dài ngắn không hai. Tứ nhãn nhìn đều có dài ngắn, cho nên phó cơ dài ngắn khiến thấy không phải một. Văn thứ ba: Giải Hoặc đều có cơ cho nên khiến Bồ-tát tức ngắn mà thấy dài, người chấp tức dài mà thấy ngắn. Như vạn tượng sum la phàm phu cho là khác, Nhị thừa gọi là như. Như Lai thấy chẳng như chẳng khác mà như mà khác. Đã nói khiến các đại chúng nghĩa là như nửa ngày tức thúc giục kia dài khiến kia thấy ngắn cho nên nói ẩn dài, rộng hẹp cũng vậy. Như hữu lậu pháp còn tối tăm, ở sáng mà không thấy loài dơi ban đêm mà có thể thấy cho nên biết sáng tối tại mắt chẳng phải tại cảnh. Huống chi cơ ứng tướng triệu lực xưa nay.
Hỏi: Đã nói “Hoặc”, sao lại gọi diệu cơ?
Đáp: Bồ-tát đã phá vô minh, xưng là “Giải”. Đại chúng vẫn ở Hiền vị gọi là “Hoặc”, trong cơ biện rõ vị cho nên nói “Giải Hoặc”.
Bốn thứ đây vì bình đẳng là hiện đây phi trường, phi đoản, trường đoản (dài ngắn) và chẳng rộng chẳng hẹp, rộng hẹp, là nêu rõ thành Phật đã lâu hóa tích ắt nhiều, đã vì làm hạ phương chẳng bản chẳng tích viễn bản và chẳng ít, chẳng nhiều rộng tích mà làm gọi trước. Cho nên biết khai xong còn thông đạt chẳng viễn, chẳng cận ,viễn bản, huống chi cận tích. Nếu chưa khai hiển, còn mê muội nơi cận tích huống chi viễn bản chẳng viễn chẳng cận. Do chưa biết từ lâu bản mà bị mê hoặc lý đây hẳn như vậy, cho đến khai hiển đều biết bản không dài ngắn viễn cận đây còn, cho nên nói bất tư nghì nhất. Cho nên trước mật hiện tiêu biểu bản tích phi bản phi tích. “Bốn chúng thấy khắp…” : nêu trong rộng hẹp, cũng trước lược bày. Tiếp, “Xét nhục nhãn…”: là giải thích: Nhục thiên hai nhãn với tự lực đó thấy không xa, nay bỗng thấy xa, biết chẳng phải sức mình, tức biết Như Lai hiện thần biến đây chắc sẽ nói pháp vi diệu.
Tiếp mưa dữ dội đầy hoa dụ cho thấy ứng, rồng phun nước đầy ao sâu dụ biết chân thật. “Thấy ứng…”: là hợp thí, thấy các Bồ-tát ứng tướng đã nhiều ắt đều chứng đắc chân thật khắp pháp giới chỉ hướng người thấy ngắn mà thấy nơi rộng, rộng nếu là cơ ngắn đâu thể chuyên ứng ư! Đã thấy rộng tức hẹp lý cũng chính là thấy dài tức ngắn, mật tiêu biểu đương phá vô minh cho nên lại kiềm chế một phần kia. Trình bày hỏi trong kệ cũng tụng hai nghĩa trước:
1. Một hàng đầu tụng trước: Như Lai an lạc có hai: hai câu đầu chánh tụng an lạc. Hai câu tiếp tuy nói giáo hóa cũng thuộc an lạc đó thôi.
2. Một hàng tụng ý thứ hai dễ độ… Nói “vân vân”: là khiến nêu ý trong hai câu tụng. Chỉ nêu bốn người nói muốn làm theo, so sánh theo, cũng đối với Như Hoa Nghiêm… dẫn đồng. Bốn mươi vị… nói v.v…. nêu kia đây Phật tuệ đã đồng nhân pháp tương vọng cũng bang đẳng. Chỉ vì tích kia bản đây, kia và đây riêng biệt, cho đến như mười nghĩa sau không đồng. Bản tích tuy khác mà kia đây đều có bốn, đều là dẫn đầu cho nên được theo lệ. Tuy có thêm cùng không thêm và tên không đồng vì biết không là pháp tuệ kia bình đẳng. Cần phải bôi lớp mỏng lướt qua cũng như đứa bé bị bệnh uống thuốc tạm thời đoạn dứt sữa quyền dùng độc bôi, thuốc đã khô rồi rửa sạch uống sữa, đầu sữa sau sữa thể sữa không khác; trung gian bị bệnh tiến hay không là do quyền lập, cũng như mụt nhọt khí nóng đang thạnh, cần phải dùng đá lạnh chườm qua khiến nóng thôi rồi, dứt lạnh, đầu thân sau thân thể kia không khác. Bị nóng thì tạm chườm, nóng thoái lại như ban đầu. Đây nhập kia nhập hai nơi không khác. Chỉ vì căn độn, thời nhập chưa đến. Như ung nhọt, như trẻ con cũng cần phải bôi, chườm lạnh, dùng lạc… ba thứ tạm thời điều thục cho nên nói bạc (mỏng). Nói “Mười ý”: Tuy Phật tuệ không khác hóa duyên sinh thuần thục sáng tối vẫn sai biệt. Vì vậy cho nên lược cần thuật sự khác đồng đó, không thể sự khác khiến Phật tuệ sai khác, đâu phải Phật tuệ đồng khiến giáo duyên là một, hai Tô thời khác Phật tuệ ắt đồng huống lại cũng là một Đức Phật sở hóa, cần phải hiểu rõ khác vốn chẳng khác. Trong đó trước liệt nêu tiếp giải thích. Trong liệt nêu thứ ba nói xen nhau, căn cứ dưới giải thích trong đây nên là đề mục nói ngang dọc rộng lược, đến trong dưới giải thích hai nơi đều sai biệt. Tiếp trong giải thích đầu trước thấy nay thấy: Hoa Nghiêm nói mới bắt đầu thấy kinh văn tự nói mới thành chánh giác. Văn sau chỉ là rộng nêu tướng nhân quả, y chánh thông đồng. Do đó trong một kinh, mà ba nơi văn nêu rõ, tức đầu phẩm Thế Chủ, đầu phẩm Danh Hiệu, đầu phẩm Thập Định, đều nói ở Bồ-đề tràng mới thành chánh giác. Do thành bắt đầu cho nên kiến tức thành ban đầu, nay tức Pháp Hoa chính ở thành Vương-xá khai tri kiến Phật. Năng kiến sở kiến cảnh trí đâu có gì sai khác.
Tiếp, “Nhật chiếu…”: khai hợp không khai hợp: Hoa nghiêm vọng tiểu lại gọi là không khai, còn chấp nơi tiệm cho nên gọi không hiêp, ở Hoa Nghiêm kia không nhập, vì nay nhập, lại khai nơi tiểu, Tam-muội điều phục nay kinh mới hợp. Nói năm vị gồm luận từ đầu đến cuối vậy. Huống chi kia không hợp nay cũng hợp đó. Cho nên, biết kinh kia khai cũng không khắp, hợp căn cơ chưa đủ, hợp cũng không khắp, còn tồn tại quyền tích. Nên biết kia khai cũng là đây khai, nhưng cũng đây hợp đâu khác kia hợp, việc một Đức Phật hóa đồng khác rõ ràng. Chỉ vì kia không có tiểu căn cơ ban đầu gọi là đốn, từ khai tiểu về sau gọi tiệm trở về đốn, khai hợp tuy khác mà hai đốn không sai biệt.
Tiếp, “dọc rộng ngang lược”: Hoa Nghiêm lại căn cứ nhập pháp giới biên, và từ Sơ trụ cuối đến Thập địa gọi là dọc nhập trải qua bốn mươi hai vị nên gọi là rộng. Lại căn cứ ở không dùng sáu phương tiện biên nên gọi là ngang lược; phương tiện đối thật nên gọi là ngang. Nếu căn cứ rộng luận hạnh nguyện, thân Phật, cõi Phật, tướng hải, danh tự, thân cõi bốn câu chủ bạn mười phương cũng là ngang rộng. Nhưng tự tại đại trong dọc mà luận ngang cho nên nói ngang lược.
Đây thuật một phen hóa trải qua khắp năm vị, vị vị các giáo, giáo giáo tương vọng cho nên nói ngang rộng. Từ đầu đến cuối nơi nơi đắc nhập cho nên nói dọc rộng, hai môn Bản, Tích đều nhập thật lại gọi là dọc rộng. Lại cũng nên nói hoặc Bản hoặc Tích đều luận lâu xa, ba đời lợi vật vĩnh viễn không cùng tận gọi là dọc rộng, trong ba đời giáo hóa, tám giáo tướng nhập cho nên nói ngang rộng, huống lại phóng hào quang ngang trình bày các Bồ-tát hành ở cõi khác. Đáp hỏi dọc giải thích quá khứ hóa nghi. Ba chu ba tiết nói lãnh giải thuật ký lại được gọi là ngang rộng dọc rộng, đều là Như Lai khéo léo thuận vật thích hợp hội đương thời. Nên biết đây rộng đâu khác kia rộng huống kia dọc rộng nghĩa bao hàm ngang rộng cho nên hiển mật không đồng, thời thuyết chưa đến, phàm có thiết lập nói không đồng đó vậy.
Tiếp, “Bản một Tích nhiều…”: Chỉ Hoa Nghiêm chỉ dùng một đài làm bổn trong tích, bản chẳng lâu xa cho nên khiến ngàn lá thành tích trong tích, chỉ vì đài vọng ngàn lá nên lấy đài làm bản. Dù khiến mười phương hỗ tương làm chủ bạn, thì mười cũng lại không xa lìa một mảy trần, một mảy trần ở nơi đài đây lá đây. Phải biết đó chỉ là y chánh trong Tích, nên Tích nhiều cùng chung với các kinh. Cho nên, Pháp Hoa tích đồng các kinh. Hoa Nghiêm chỉ cùng phần đồng trong tích nhưng đã rộng trình bày y chánh dung thông việc gì lại không nêu bản lâu dài ư! Nếu luận bản môn thì cùng các kinh sai khác, Hoa Nghiêm tức mang Pháp Hoa bản khác. Hoa Nghiêm tuy có nhân hạnh lâu xa cũng chỉ là nhân ngày nay một phen thôi! Còn chưa từng nói quả trung gian huống chi có trung gian thường luôn thành Phật. Phải biết đây khác thì khác với kia, cho nên nói riêng bản. Nếu nói không khác Già-da thì còn là Hoa Nghiêm đâu chẳng phải! Khai thì đều khai bất tư nghì nhất đây chính dùng Pháp Hoa viễn bản khác với Hoa Nghiêm cận Tích. Cho nên biết giáo môn không được không khác.
Tiếp “Được thêm…”: Hoa Nghiêm phần nhiều là thêm Bồ-tát thuyết, cho đến Văn-thù Phổ Hiền và nhập pháp giới, còn là Bồ-tát tự nói, không thấy văn Phật ấn chứng Pháp Hoa từ trình bày Văn-thù giải thích nghi và trong lưu thông. Có các Bồ-tát phát thệ nguyện hoằng thông đều do đức Phật thuật là để đối đức Phật tiện làm ấn chứng cho nên bản tích chánh kinh đều do Phật tự thuyết. Tuy thêm đều thành Phật tuệ hóa nghi thiết lập thời xứ không đồng, ấn cùng không ấn kia lý nhất. Phải biết đồng khác để hiển hóa nguyên do hóa độ.
Tiếp, nói “Cõi bất biến…”: Tịnh uế không đồng thường tự sai biệt. Nay nói biến: Uế là thí quyền biến tiêu biểu hiển thật, uế thuộc ngũ trước vốn tại tiểu cơ, cơ hợp quyền khai cõi biến làm tiêu biểu. Cho nên, hiển bản đã thuần các Bồ-tát, tịnh độ không hủy mà chúng thấy thiêu hủy. Lại kia thì chủng chủng thế giới không đồng, tịnh không ngại uế, đây thì cây báu hoa quả vui đạo, uế không ngại tịnh, huống chi Thường Tịch quang độ tốt xấu đều vong. Tịch quang sở đối đều có tịnh uế. Tuy biến mà bất biến Phật tuệ có gì sai khác. Đâu do đầu cuối biến bất biến sai khác khiến Phật tuệ sai khác. Nếu vậy, nói không tin không hủy chính cố chấp nơi văn kiến thiêu. Mà dùng Hoa Nghiêm hình bài xích Pháp Hoa. Như người hủy báng thân kia mà xưng tán tay chân, cho nên biết căn cứ tích nói biến bất biến, tịnh uế khó nghĩ bàn thể đồng danh khác.
Tiếp, “Đa xứ bất đa xứ…”: Bảy xứ tám hội và hai xứ ba hội, tuy nhiều ít không đồng, chỗ nói có gì sai khác! Đâu có nhiều ít (đa thiểu) sai khác khiến Phật tuệ sai khác. Nếu do đồng một báo độ cũng chẳng phải đa xứ (nhiều nơi). Trong đây rộng đối bốn cõi xứ từ chối thành đa (nhiều), trở lại dùng kia nhiều đối tịch quang đây. Nhiều cũng tức là một kia đây thể một Phật tuệ không khác. Tiếp chê đoạt lấy: Cũng có thể lại nói kia như câm như điếc, cho nên có chê đoạt, đều được Phật thọ ký cho nên không có chê đoạt. Lại có Tiểu thừa cần phải cải đổi cho nên các kinh chê đoạt, kinh kia không có Tiểu thừa cho nên đương bộ không bài xích. Lại việt giáo quyền nói quyền đây dễ chuyển cho nên không cần bài xích, Tiểu thừa khó chuyển cho nên cần phải chê đoạt lấy chuyển. Tiếp thẳng hiển thật…: Tuy có việt giáo để dễ khai cho nên cần nói thẳng (tức). Phải quyết hiểu rõ: Tiểu khó khai cho nên phải nói khai. Tiếp căn lợi độn: Căn cứ thứ lớp điều thục gọi là độn căn, nay đều khai đâu được độn độn. Nếu căn cứ gồm biệt, kia vẫn một độn, đây chính độn lợi, cho nên căn cứ năm vị phán xét các lợi độn bởi do đây. Nhất vãng lại từ hội nơi độn cho nên nói độn, sở dĩ đến đây cơ đồng, cảm đồng cho nên Phật tuệ đồng. Căn cứ hóa nghi nói cho nên cần biện rõ sai khác. Nếu biết lý đồng tức hỏi: Tất cả các kinh cho đến cây cỏ theo lý đều bình đẳng, riêng gì Pháp Hoa ư? Đáp: Giáo đồng khác đầy đủ như trong Huyền Văn. Tuy hết thảy lý đồng nói nơi giáo này mà nay đối tương khen là khen giáo năng thuyên cho nên không có trong các giáo. Xưa nói…: Trước nêu xưa giải thích, tiếp “Nay do…”: mười văn đều như vậy, mới biết hai bộ đề liễu, mãn bình đẳng. “Vân vân” là cho đến nên dùng nhiều lớp đều quyết định mà phá Sư xưa. Cùng hỏi rộng lớn sai khác.
Trước hỏi vì sao? Hỏi nhà tùy hỷ người năng hỏi tức chỉ các Bồ-tát năng hỏi chư Phật, nghe rồi tin hành tức chỉ các người sở hóa của các Bồ-tát, nghe Bồ-tát nói rồi năng tín hành. Chúng con tùy hỷ: Tùy hỷ năng hỏi sinh khởi đại lợi ích. Tùy hỷ người sở hóa của Bồ-tát. Như Lai thuật lời tán thán chỉ nói các ông năng đối với Như Lai phát tâm tùy hỷ. Vì sao ông trên hỏi nói trái ư! Rộng là đại. Nhưng năng hỏi dưới đáp có thể thấy.
Đây cũng mật tiêu biểu thọ lượng: Nay tán thán Bồ-tát còn là cổ Phật, mật tiêu biểu Phật nay chẳng phải nay thành. Nếu chẳng phải nay thành ắt có viên bản, cầu được rõ ràng cho nên nói mật tiêu biểu, chính cần dựa theo nhau ý mật tiêu biểu. Cho nên chú thích “vân vân”, tức đã như trước biện rõ. Dưới kết nói đây căn cứ tứ tất là cần phải chỉ bày đây… Tất-đàn bốn văn và ý. Đầu tiên là Thế giới. Tiếp ba Tất-đàn. Chữ “Lại” là ba Tất-đàn còn lại. Đây căn cứ Di-lặc không biết, biên không có tứ tất lợi ích. Do hỏi nên biết, biết tức bốn lợi ích.
Đầu văn: Bấy giờ ngài Di-lặc Bồ-tát và tám vạn đại sĩ: E rằng văn lầm. Căn cứ kinh văn nói tám ngàn hằng sa. Trong phẩm đầu, đầu căn cứ đến, tiếp căn cứ chỗ đi. “Nếu đến…”: kết hai việc trên do đó nay thấy đều không biết, đây có hai nghĩa:
1. Căn cứ quyền giáo tuy ở trong mười phương ngang dọc đạo đi, giáo quyền thời gian cạn, không sánh bản nhân.
2. Căn cứ thật đạo, tuy ở bổ xứ cũng tại trong tích, đâu có thể nói biết. Nếu thật địa vị cao xa vì chúng phát tích nên cần phải phát khởi. Căn cứ mười phương cõi qua lại sai khác nên biết, không biết sai khác, do không biết nên không có Thế giới lợi ích, sau không biết trước là Vị nhân, người trước tiến có sở chứng thiện. Di-lặc không biết trong chúng kia thiện, tự thiện không sinh cho nên không có Vị nhân. Tuy trước tiến vị sâu đâu quá Bổ xứ. Tuy nói người học sau vô cấu vị thành, làm sao được dùng trước sau phán xét, cũng dùng hai nghĩa trước thông có thể thấy. Sở hóa sai khác cho nên thuộc Đối trị. Xét hóa vật: Vốn trị bệnh chúng sinh. Di-lặc không biết chân ứng, không có đạo kia lợi ích vật tức không biết bệnh không đối trị. Nhưng người trí biết trí, xà (rắn) tự biết xà, đâu phải người Bổ xứ không biết kia chân ứng, cũng đủ hai nghĩa, tuy đồng Bổ xứ mà xa gần không đồng, cho nên biết cận không sánh bằng viễn. Mật khai thọ lượng là Đệ nhất nghĩa tức lý tối cực của một bộ này đâu chẳng phải đệ nhất. Sinh nói: Do kia ngộ tánh chẳng phải Thập trụ sở kiến cho nên Di-lặc không biết một người nhưng địa vị Dilặc tại Bổ xứ vì sao phán làm Thập trụ! Lại không biết sinh vì Di-lặc chứng Thập trụ nào?
Có người nói: Di-lặc sao không thẳng hỏi trường thọ như trong Niết-bàn hỏi trường thọ ư? Nay đáp: Đây đều không hiểu, nay cho rằng gần thành Già-da, không biết quá khứ trường thọ, do thấy từ đất vọt hiện không biết, nhân đó nghi do quyến thuộc. Đức Phật đáp nguyên do kia cần phải luận trường thọ cho nên quyến thuộc hiện đâu có phí công. Cho nên biết từ đất vọt hiện là sinh nghi cho nên hiện, Như Lai vì hiển trường thọ cho nên triệu gọi.
Cho nên, viễn cận hai nguyên do đều vì nói viễn Ca-diếp Đồng tử đã ở trong đây nghe trường thọ xong. Nơi kia chỉ hỏi nhân trường thọ, cho nên kinh kia nói vì sao được trường thọ? Tức hỏi nhân. Đã nghe quá khứ vì hiển vị lai, cho nên hỏi trường nhân để sinh đức Phật đáp. Đây khó kia dễ lý số như vậy… khiến điểm xuất tứ Tất-đàn giải thích như trước. “Thỉnh đáp Sư chủ…”: là giải thích nêu ý thỉnh. “Nán đợi Di-lặc…”: đáp hỏi lợi ích không tại nơi ta, cho nên không vì đáp. Nán đợi Thích-ca đáp. Di-lặc hỏi cho nên nói đợi Di-lặc đó thôi! Vì sao? Vì Di-lặc hỏi việc tích bất khinh, đức Thích Tôn một đời chưa từng hiển thuyết, nhân đây đáp hỏi rộng hiển bày trường thọ. Đây một đời huyền bí tại Phật tự khai tự ông đương nghe ta không ứng đáp.
“Sư Tử Phấn tấn…”: Trong đây hai giải thích: Trước các giải thích dụng nghĩa không đồng bởi do đây vậy. Từ trước giải thích Di-lặc không biết cho đến trong đây nói mười phương tức phần nhiều chỉ tám phương tổng nói mười phương. Lại riêng nói “đến dây điểm bốn…”: ý cần phải thuật bốn đức đối ba đời, bốn đức đây chẳng trước chẳng sau, tùy đức lưu loại có dụng ba đời, cho nên dùng bốn đức đối với ba đời. Không biệt mà biệt, tư duy có thể thấy. Hết thảy vạn đức đối dụng đều như vậy. Huống chi bốn đã chẳng phải bốn, ba cũng chẳng phải ba. Nếu muốn lược đối ba, bốn danh tướng, thì thần thông là Bồ-tát du hý, cho nên gọi “lạc”. Lợi ích tận đời vị lai, cho nên gọi là “thường”. Hai thứ còn lại dễ thấy. ba hàng tụng ba đời: Trước Sư tử… để nêu ba đời, trong văn cũng không có câu nói ba đời, chỉ vì xu thế nghĩa đồng ba đời thôi! Nay tụng cũng vậy. Thẳng nêu đức Phật nói chân thật… văn một hàng rưỡi tụng mà dụng thông. Nói “đã không hư dối” ắt biết ba đời lợi ích cũng chân thật. Song đáp song giải thích. Song đáp từ trước đến nay cho đến Sư chủ. Hạ phương giữa hư không là dẫn Đại luận nói “có để tán”: để là hạ, tán là không. Đây chỉ tiêu danh.
Nếu xuất nêu thể trạng, tức căn cứ giáo giải thích. Đầu văn nói bốn sau nói căn cứ giáo, tức bốn giáo đầy đủ. Phi tưởng là dưới đáy hữu lậu, không là đáy chân đế, biên tế trí là đáy tục đế đều lấy sự cùng cực giải thích. Vậy thì đầu một là Tạng, tiếp một là Thông, sau một là Biệt. Kinh này là Viên, lấy trung làm đáy. Trong bốn giải thích chỉ nói giải thích đáy không nói tán, (đáy) để tức tán cho nên không còn biệt giải thích… “Vân vân” là nên phân chọn trong chân. Giáo môn đều có hai cho nên đáy không đồng, nay là khai hiển viên đáy trung đạo. Từ không y chỉ… từ không y chỉ… dừng ở hư không hạ phương đều không y nơi trên dưới (thượng hạ) nhân thiên. Nơi nhân thiên là nhị biên: Căn cứ sở biểu giải thích nhân (người) phần nhiều đắm, chấp là tiêu biểu hữu biên, thiên (trời) trú nơi tịnh phước là tiêu biểu không biên, ơ trong hư không đây là tiêu biểu trung đạo. Năm hàng rưỡi đầu tụng lại có hai: Bốn hàng đầu đáp sư đệ, tiếp một hàng rưỡi tụng đáp xứ sở (nơi chốn). Trong đó lại có hai: Nửa hàng đầu chánh đáp xứ, tiếp một hàng tán thán đức Bồ-tát, ba hàng dưới song song giải thích, trong đó lại có hai: Hai hàng rưỡi đầu tụng giải thích Sư đệ, tiếp nửa hàng tụng giải thích xứ sở. Kinh không nói xứ, chỉ nói lâu xa giáo hóa. Là vì trước trong chánh đáp đã nói xứ xong, nên chỉ dùng thời mà giải thích xứ. Quá khứ lâu xa ở nơi nào hóa, hóa khiến nhập thật tức giữa hư không. Nói “vân vân”: nên hiểu rõ kinh văn hai hỏi ý song song giải thích, lược như trước biện rõ. “Bạch Phật…”: là căn cứ văn dưới đây nên trước khai làm hai: Đầu xuất hiện ghi, tiếp thủynh đáp, chấp xa nghi gần.
Hỏi: Di-lặc đã không biết số kia, không biết một người, vì sao lại biết từ lâu gieo trồng căn lành ư? Đáp: Chỉ do không hay, không biết và do đức Phật tán thán trú xứ đức nghiệp đã nhiều, lại sâu đâu phải gần thành Phật sở hóa ư? Trong kết thỉnh kinh chỉ nêu khó tin, tức dựa vào vật không tin không chịu mà như kích động Phật khiến ắt có sự trả lời.
“Sắc tốt đẹp…”: lấy sắc… làm dụ, tổng tại tuổi nhỏ vì nói vậy. “Chỉ trăm tuổi…”: Trước lược hiêp thí, tiếp trình bày căn cứ các Sư phương Bắc dùng thí dụ giải thích thí dụ: Đầu giải thích thí dụ tiếp hiêp. Giải thích thích thí dụ nói con không uống thuốc, lại căn cứ không hiện thân liệt ứng mà nói không uống, nhưng dùng thắng ứng thân tiêu biểu bản cho nên nói trăm năm. Đã nói nếu Phật và Phật thì hiển Di-lặc không biết. Tiếp, “Như Lai…”: nay hợp thí. Sư nay dùng ý này nên bài xích xưa, hợp văn vẫn lược. Nói Như Lai ngang uống thùy ứng thuốc: Là trí khế hợp lý sâu xa, do dọc uống nơi thuốc chân đế lợi ích chúng sinh khắp nơi, chính do ngang uống thùy ứng thuốc. Thuốc chân đế: Giả tức không quyền tức thật, âm thầm tự hành. Thùy ứng thuốc: Không tức giả, thật tức quyền, hóa tha sinh khởi. Như vậy sơ tâm do ngang dọc diệu dược (bất nhị) không hai, ba dược đây không trước không sau. Thuốc chân đế: Dùng trị bệnh. Thuốc thùy ứng: Dùng hoàn niên (trở lại tuổi trẻ). Thuốc bất nhị: Kéo dài thọ mạng, do hoàn niên cho nên tuy già mà trẻ, hiện thân bất nhị cho nên nói bản địa.
Chín thứ đệ định là khéo nhập: Từ thiền đến thiền vô gián nhập. Phấn Tấn là khéo xuất: Từ thiền đến thiền đều trải qua tán, tâm do tán gọi xuất. Siêu việt là khéo trụ. Tuy trải qua khởi tán mà trụ thiền rõ ràng. Tất pháp tánh làm khéo nhập: Tất là cùng, cùng cực pháp tánh. Thủ Lăng-nghiêm năng hiện oai nghi. Vương Tam-muội: Như vua an quốc, trong đây căn cứ giáo Tạng Thông đồng, sở chứng đồng. Căn cứ nhân làm khéo tu tập…: Từ cạn bước dần đến sâu cho nên nói “thứ đệ”. Nói “vân vân” Khéo xuất khéo trụ đều ứng từ quả lập danh, nhân đều khéo tập như trước phân biệt.
Trong đây không luận bản tích. Đã là trong bản đệ tử chưa cần luận tích. Tín tức tăng đạo…, vị lai bẩm thọ quyền phần nhiều nghi nơi viễn bản, nên phải tùy căn cứ các phương tiện giáo nêu bất tín, để hiểu ý văn nay. Nay văn đều căn cứ từ lâu đã thành nêu tín mà luận tăng đạo, tăng đạo ắt tổn sinh, đầy đủ như phẩm sau.
GIẢI THÍCH PHẨM THỌ LƯỢNG
Đầu văn sở dĩ không nêu tứ Tất-đàn là vì nhân duyên giải thích: Tức phẩm trước chưa được lợi ích của tứ Tất-đàn, nay đây đáp xong tức là bốn lợi ích. Trong đây chia làm hai:
- Dẫn xưa thông giải thích.
- Chánh giải thích phẩm.
Văn đầu lại có bốn:
- Nêu các sư giải thích khác nhau.
- “Đời trước…”: dụ các Sư để phá Quang Trạch.
- “Duật bạng (cò ngao)…”: nay bốn câu giải thích.
- ”Hỏi…”: hỏi đáp tổng quát. Đầu tiên, Duệ sư trình bày ý, nêu phân thân để giải thích.
“Thọ lượng” mà dùng lý so sánh sự, đều nghĩa “không đủ” để giải thích ý “đủ”. Nêu thọ mà chẳng thọ thì mới gọi là “thọ”, thân mà chẳng phải thân mới có thể là thân, đều do đắc lý năng hiện thân thọ, cho nên nói “Vậy thì Thọ…”. Vì thế, câu đầu thọ đắc lý nên mới chẳng trường mà trường. Tiếp câu thân đắc lý, chính khác mà không khác. Thọ đã do số mà chẳng phải số, thân cũng phân vô sở phân, do lý lánh phi lượng cho nên không thể dùng số cầu pháp; thân phi hình cho nên không được dùng thân để nhận lấy. Phân thân đã dùng Pháp thân làm thân, thọ lượng cũng dùng thường thọ làm thọ, cho nên liền dẫn Phổ Hiền Đa Bảo mà làm giống như hưng khởi. Phổ Hiền ơ ngôi vị cùng cực của Bồ-tát, còn gọi là Hiền, có thể tiêu biểu Già-da thành cũng chẳng phải thành. Đa Bảo diệt độ rất lâu mà xuất để chứng kinh, dự biểu song lâm diệt cũng phi diệt. Nay cho rằng dùng “phi thọ” để giải thích “thọ”, lý thật như vậy, chỉ tợ như không đáp câu hỏi. Di-lặc hỏi: Bồ-tát Dũng xuất (từ) do đâu phát tâm…? Ý nghi từ Già-da thành đạo đến nay chưa lâu, làm sao sở hóa thân tướng khó nghĩ bàn? Vốn đã không nghi trường thọ, thì đâu cần dùng “phi trường mà trường” để đáp. Chỉ vì trước dùng trường để đáp, là muốn hiển bày sở hóa nhiều. Do trường thọ kia chỉ có pháp, báo nên nay dùng ba thân giải thích. Ý Pháp Hoa luận cũng lại như vậy. Hà Tây cùng Duệ sư ý đồng nói kém. Ý nói ứng thân vốn là pháp thân, pháp thân chân hóa phân mà không phân cho nên nói không khác. Vô sinh vô diệt nên nói lý nhất, cho nên đem Đa Bảo diệt mà phi diệt dùng giải thích Thích-ca lượng tức vô lượng. Cho nên, nói cùng ngang bằng thái hư. Nếu vậy dẫn Đa Bảo hiện không nói là mật tiêu biểu, cần phải Đa Bảo hiện tức là Thích-ca trường thọ, đâu cần lại gọi là phẩm Thọ Lượng ư? Huống chi chỉ là pháp thân mà mất báo thân ứng thân. Nếu nói Thích-ca lượng tức vô lượng chỉ có thể hiển bày vị lai trường thọ thì cùng Đại kinh đồng làm sao biết được thọ lượng quá khứ ư? Cho nên, nay trước biết thọ vô lượng kiếp, song mới gọi là bất tư nghì nhất.
Ý của “Đạo Tràng Quán”: dùng Pháp Hoa làm thừa ban đầu, dùng Niết-bàn làm thừa cuối cùng. Cuối đầu ngăn bộ cho là bản có thể, thì đồng là ngăn bộ sao không dùng Hoa Nghiêm làm thừa ban đầu! Nếu dùng hội quy làm thừa ban đầu thì giáo hạnh nhân lý hết thảy đều hội. Hội đã vô thủy cũng lại vô chung. Nếu tích môn làm thừa ban đầu lại không hoàn toàn như vậy. Nếu chỉ thừa ban đầu vì sao trong pháp thuyết nêu Phật trí bình đẳng… trong thí dụ thuyết nêu đến đạo tràng, trong nhân duyên thuyết nói đến Bảo sở! Sở dĩ đầu giải thích chỉ trong phần đầu ý của năm câu nói: Nay cùng xưa hoặc đã nhập Trụ, Hạnh, Hướng, Địa…, nhập lại tăng tiến, chỉ có một phần độn căn Thanh văn nơi đây cuối cùng chẳng khai vẫn nhập Sơ trú đâu gọi là thừa ban đầu! Nếu Sơ trụ gọi là ban đầu, thì nói thời như khảy móng tay như thế nào? Cho nên, không dựa vào đây có thể phê phán kinh bộ. Nếu Niết-bàn lắng thần làm thừa cuối cùng, thì khi nói Đại kinh thập tiên các ngoại đạo đều sơ phát tâm, lại vô lượng người thoái Bồ-đề tâm. Lại, Pháp Hoa bắt đầu ở căn cơ chúng sinh. Niết-bàn lắng thần căn cứ nơi giáo chủ. Do Pháp Hoa giáo chủ đã thành từ lâu, cho nên Niết-bàn lắng thần bất diệt. Lại, diệt bóng là dứt Tích, thì Pháp Hoa cũng như Tích. Lắng thần làm bản, không phải bản kinh này. Nên biết kinh này lấy cửu viễn thật thành làm Bản, trung gian ngày nay thị hiện thành làm Tích. Nếu y giải thích hai môn, thì đều thuộc thừa ban đầu. Nếu không giải thích bản thẳng ở trong tích nêu thủy chung đầy đủ như trong Huyền Văn trong Thừa diệu nói. Chú gia trước nêu không phải còn, mất vượt ngoài sửa yểu mạng làm phi thọ lượng dùng giải thích thọ lượng.
Tiếp nêu ý thọ lượng: Nhưng giải thích hai chữ vẫn tựa như điên đảo, số còn mất là “lượng”, kỳ hạn tu sửa yểu mạng là “thọ”. Một kỳ gọi là “thọ”, số trong thọ gọi là “lượng”. Tiếp, Pháp thân… là nêu ý: Lập lại nêu thể phi thọ, phi lượng trước, phi hình nên nêu phi thọ, phi năm nên nêu phi thọ! Đây trái với luận văn, khiến Đại sĩ… chánh nói rõ ý thọ lượng, ý muốn Bồ-tát tu theo cực chiếu khiến biết thể của Như Lai thọ lâu dài đó là nơi bậc trí Đại sĩ đạo chơi, dạo chơi đã sâu cho nên nói đi theo đến tột cùng. Đất đến chỗ phi thọ kia nên gọi là chiếu, “không dùng hai chữ suốt… đến trăm năm. “Kỳ di”: Kỳ là thiết yếu, Di là nuôi dưỡng. Người trăm tuổi không biết y thực cần phải nhờ con hiếu giúp đỡ nuôi dưỡng. Nay đức Phật không như vậy cho nên nói không dùng. Ý của Sinh Công tuy cũng nêu không dài không ngắn (trường đoản) dài ngắn thường còn nên cùng ý với ba nhà trên ít sai biệt, nhưng thiếu chú gia nói ý thọ. Trong đó đầu nêu sắc Già-da, thân hình thọ không thật, dụng làm pháp thân tiêu biểu không thọ. “Thế thì…”: là dùng hình để thí dụ thọ, “vạn hình” giống nhau, hiển thân phân mà không phân, “xưa nay làm một”: nêu thọ lượng tức phi lượng. Nói “xưa cũng như nay”, là nêu xưa nay không hai, đúng là bất tư nghì nhất. Nhưng căn cứ văn nay thì trước cần phải biện rõ dài, sau mới nêu một. Nói xưa cũng như nay là nêu bản Phật, xưa không khác Già-da nay. Nay cũng như xưa là nêu Già-da nay không khác bản Phật xưa.
“Không lúc nào không có…”: là lập lại giải thích hình thọ, “không lúc nào không có” là giải thích thọ, “không nơi nào không tồn tại” là giải thích hình. Không lúc nào không có chẳng riêng chi ngày nay, không nơi nào không tồn tại đâu chuyên chỉ Già-da. “Nếu có lúc…”: là nêu hình thọ tại vật ứng chẳng có không. Tiếp, “do đó…”: là chỉ cận thành tức từ lâu đã thành cho nên nói Già-da. Tiếp, “Già-da…”: Là chuyển giải thích, tuy chỉ thành kia là cận phi cận, “Già-da chẳng phải…”: là nêu ngắn đã chẳng ngắn, dài cũng chẳng dài. Tiếp, “Dài ngắn…”: là chân tục tương đối để giải thích dài ngắn, chân chính là dài ngắn đây cùng mất, tục thì dài ngắn thường còn. Ý Sinh công nói: Nơi một thân ba thân đầy đủ quả cận thành cùng quả viễn đồng, cho nên thọ tám mươi năm tức vô lượng thọ. Đạo lý tuy vậy đều phải phân biệt trước mói có thể dung thông. Nghiệm các Sư trước thiên được có chút ý đều dùng pháp thân làm tột cùng đều trái luận văn. Luận văn chỉ là chỉ thọ quá khứ báo làm dài, đâu được dùng pháp thân phi thọ để giải thích. Pháp thân phi thọ các giáo thường luận bàn chỉ lẽ chưa từng nói lâu thành viễn thọ, cho nên biết còn không bằng nơi chú gia nói nghĩa theo đến tột cùng và dùng Sinh công dài ngắn thường còn. Nhưng không nói thường còn trường thọ vì các kinh chưa nói đến. Nên biết hiểu rõ đương văn đều là một ý, giải thích hướng đến viễn, nêu ra tư ở một nhà, cho nên nói Phật tuệ kia đây đều đồng. Hoặc luận viễn thọ nhất hướng phải khác. “Đời trước…”: là từ chối còn các giải thích, các giải thích, các giải thích đều không dùng thọ lượng làm vô thường. Quang Trạch chính dùng thọ lượng làm kéo dài tuổi thọ. Nếu căn cứ sư nay ba thân bốn câu vọng ý các sư đều không thể tồn tại.
“Lại nữa, hoặc…”: dẫn cổ sư vấn nạn. Tiếp “Nay là…”: thông nạn. Trước lược phá cổ Sư. Tiếp chánh giải thích. Đầu dẫn sự nói “Cò, hến tranh nhau…”: Dẫn việc Xuân Thu đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói: Chỉ dùng sự bất đồng, kia chỉ nhờ nói hại nhau. Đây chánh dùng ý nương nhau che lấp. “Ta nhân nơi…” là chánh giải thích nay như cương thổ nhà Tần khiến thường vô thường gia như Yên Triệu. “Và kinh Kim Quang Minh”: Kia quyển thứ nhất phẩm Thọ Lượng nói: Tương tín Bồ-tát tự tư duy nói: Do duyên gì mà đức Thích-ca thọ mạng ngắn ngủi mới tám mươi năm. Như đức Phật nói hai nhân trường thọ:
- Bất sát.
- Thí thực.
Phật trải qua vô lượng kiếp đầy đủ mười thiện, vì sao ngắn ngủi! Tư duy việc ấy. Nhà kia tự nhiên rộng lớn các việc trang nghiêm, nhân thấy Như Lai tướng tốt hy hữu mới cảm bốn đức Phật vì kia nói kệ. Kệ nói: “Cân núi, giọt nước rơi, đếm hạt bụi hư không, còn biết được số đó, nhưng thọ lượng của Như Lai, thì không ai có thể biết”. Văn phẩm có đủ nghĩa đây, tức là sau phẩm này văn đầy đủ nghĩa ba thân. Trở lại xét ba nghĩa đây phân làm bốn câu, cho nên phải biết phẩm này ý của đề mục trong Tích chỉ bản. Bổn đủ ba thân cho nên không thiên chấp thường cùng vô thường. Nay chính là nên dùng trường thọ của bản địa, dùng khai Tích ngắn để hiển Bản dài, rồi mới thông đạt bản lý không còn dài ngắn. Cho nên mượn bốn câu nói về ba thân trong Tích mà đối Bản để giải thích. Phải biết Bản tích đều đủ bốn câu, bản bốn đều là bản, Tích bốn đều là tích.
“Hỏi: Nếu thọ lượng…”: Kinh Niết-bàn cũng nói: Chỉ có Phật với Phật kia mói thọ lượng, vô lượng cho nên thường, nêu thường đã đồng kinh nên không sai biệt, Kinh bộ tuy khác hai thường tại sao sai khác ư ?
Trong đáp chia làm hai:
- Chất vấn ngược lại khiến đồng.
- Phân biệt biện sai khác.
Chất vấn ngược lại: Nhất thừa đã đồng đều là thường đâu có lỗi. Đại kinh nói: Hết thảy chúng sinh đều là nhất thừa; bộ kia tuy khác lý thường đâu sai khác, nếu bộ khác thường khác, cũng nên bộ khác thừa biệt. “Vân vân” là: tuy như trước thuật cũng lại nên lập danh khác, nghĩa đồng mà làm nhiều. Phân biệt đáp: Đầu tiên, kinh Niết-bàn; tiếp, kinh Thắng Man. Đầu, kinh Niết-bàn: Nêu thường tuy đồng rộng lược có đôi chút biệt; cũng nên kết nói đâu phải rộng lược biệt khiến thường không đồng. Tiếp văn nói “vì nhất nêu nhất”: Nhất ngoài tam tự làm nhất cơ, không phải hội tam về nhất nên chỉ nói nhất. Bộ thuộc Phương-đẳng đối bài xích thiên ba, chưa đến Pháp Hoa thì không nên nói hội tam… “Vân vân” là: cũng nên lại nói Đới và Bất đới sai khác, nhất thừa đâu sai khác! Cũng nên căn cứ đủ năm thời, nêu hội không hội nhất thừa cộng, biệt.
Tiếp, “Hỏi: Cận thành là phương tiện…”: Nay Sư giả thiết, trước dẫn kinh Hoa Nghiêm và Đại kinh để định: Tiếp, “Nếu vậy Pháp Hoa…”: là dẫn Pháp Hoa. Nơi Hoa Nghiêm Đại Kinh làm ngăn ngại, Pháp Hoa nếu hưng khởi đều khai thành viễn thì trong Pháp Hoa không còn phương tiện, vì sao bản sau Bất khinh tiếp lấy cận. “Phải biết…”: là kết nạn. “Nếu vậy hội tam…”: dùng tích theo lệ bản, bản môn khai rồi lại cận, cũng nên tích môn hội rồi không hội. Nên biết trong đây văn lược; trước phải kết nói tích môn hội rồi không còn gì không hội; vì thế bản môn viễn rồi không còn gì không viễn. Dù trong Bất Khinh lại nêu cận tích, không thể trường thọ lại khiến ngắn ngủi. Tiếp “Nếu vậy…”: là lập lại dùng tích theo theo lệ bản, do định đạo đồng cho nên hết thảy chư Phật thảy đều như vậy. “Nếu vậy…”: là nạn vấn chư Phật thượng đồng đâu riêng gì đức Thích-ca trường thọ đáng tán thán! “Nếu riêng…”: là kết vấn nạn. Nếu riêng Thích-ca trường thọ thì có lỗi Phật đạo không đồng, cho nên nói các nghĩa trước hoại. Ý đáp: Xả khác theo đồng, hết thảy chư Phật thảy đều như đây, cho nên nói cũng vậy. Ý tại đồng hiển bày thật bản, không hẳn dài ngắn đều như nhau. “Lại các Bồ-tát…”: là dẫn chứng, lại dẫn mong muốn dài đâu tức hoàn toàn… đây tức… là kết đồng. Cũng không thiên nói: Là nêu thường thọ, hiển thời xưa dài ngắn khác nhau không đồng, vọng vị lai thường nhất hướng bình đẳng. Cho nên chư Phật hiển bản đều có viễn cận. Nếu luận thể của thọ không được lại nói một cận một viễn, cho nên các Bồ-tát nghe trường thọ rồi cũng nguyện vị lai nói báo nhân thọ. Như nay đức Thích-ca chỉ khai tích rồi không còn có cận viễn. “Cho nên biết…”: nêu bản tích thể dụng; thể dụng tức pháp ứng tương vọng. Nếu ứng tích tương vọng đều là cận viễn. Căn cứ cận tích ứng vọng bản sơ ứng thì có được cận viễn, cho nên đối duyên dài ngắn không phân biệt dài ngắn, do đó không nói báo thân trường thọ. Tức là muốn dùng pháp thân bỏ đi sự dài ngắn kia. Lại muốn hiển nơi chư Phật đạo đồng. Sự thật, khai ba đức Phật đạo có thể đồng, sự thành lâu cận không thể đồng. Do đó mới có thể phá các sư. Cho nên nói Sư không khả năng Sư.
Hỏi: Đã nói viễn thành chân thật cận thành phương tiện, cũng có thể nói cận thành chân thật viễn thành phương tiện không?
Đáp: Nếu trong Sơ trụ bản thấp tích cao hợp vật nói viễn tức là việc kia, cho nên các Bồ-tát phát nguyện lợi sinh, tùy tứ tất lợi ích cũng có thể nói trường (dài).
Hỏi: Nếu vậy sao biết Thích-ca không phải Sơ trụ ư?
Đáp: Nay hiển thật đã không còn ẩn bản cho nên biết sai. Vậy thì Sơ trụ nói dài là quyền, khai quyền nói cận làm thật.
Đã có bản thấp tích cao cũng có bản cận tích viễn, dùng cao thấp đây khai trong các kinh dài ngắn đều thường. Đã hiểu rõ các Kinh dài ngắn đều thường tự hiểu kinh này bản viễn cửu. Chỉ nói thường còn chưa thể nương, nghiệm biết các Sư chấp vô thường không thể nương.
“Hỏi: Nghĩa suy tìm…”: như trước đã nói, Pháp Hoa nêu thường đạo lý thật như vậy căn cứ văn không như kinh Niết-Bàn thường hiển, cho nên kinh này nếu thường tợ như không có văn căn cứ? Đáp ý: Thuyên giáo, tông chỉ. “Tào khang” và “kiều (cầu)” đều năng thuyên giáo, năng thuyên tuy khác, mất ý chỉ như “khang (trấu)”.
“Vấn kiều (Hỏi cây cầu)”: đầy đủ như Chỉ Quán quyển mười. Đây lại là cách thông suốt để bài xích người chấp. “Lại, giáo bản…”: biệt nêu hóa ý. Đáp: Trước tuy thông bài xích nay biệt nêu tứ tất, nên hợp dài hợp ngắn hợp vật không đồng tức nhân duyên. “Lại, văn…”: dùng bộ vọng bộ căn cứ nhiều ít luận, chẳng phải hoàn toàn không có văn, tức căn cứ giáo. Nếu theo nhiều bỏ ít… bỗng như đều ít thì hai Kinh đều bỏ chẳng phải ma thì ai! Đầy đủ như trong Niết-bàn phẩm 7 trong phẩm Tà Chánh. Không biết pháp thân thường trú đều gọi là ma nói; Lại Kinh này nơi nơi nêu pháp thân: Lược như trước dẫn chỉ danh khác nghĩa đồng. Người tiện mê danh mà mất ý chỉ kia, nếu chỉ tùy danh còn là ma nói huống chi nhiều ít ư? Cũng như Huyền Văn đồng thể khác danh trong đó nói, tức là thật tướng Bảo chữ chẳng Như chẳng khác.
Bình đẳng đại tuệ… “Hỏi: Đã nêu pháp thân….”: Nếu nêu pháp thân không có ba đức thì phải biết là chẳng phải thường trụ pháp thân ư ?
Đáp: Văn có thể thấy, luận văn cũng nói thành tựu ba thân, ba thân tức là ba đức.
Tiếp, chánh giải thích tên phẩm, chia làm hai: Trước thông, sau biệt. Thông: trước giải thích Như Lai. Tiếp giải thích thọ lượng. Đầu tiên nói thông hiệu: Lại chỉ một tên Như Lai, còn lại chín đều là danh hiệu đầu hiển rõ nhất, đầy đủ như dưới giải thích. Đủ thông ba thân đều đủ mười hiệu, lược như trong Chỉ Quán quyển hai ghi. Tiếp giải thích Thọ lượng, là thuyên lượng, lượng thọ cho nên gọi là thuyên lượng. Cho nên giải thích chữ “lượng” thuyên lượng mười phương ba đời ba Đức Phật… cho nên nói vậy!
Tiếp “Nay chánh…”: là kết trở về ý phẩm bèn chỉ bản Phật nay vì sao như vậy ư! Do Như Lai danh thông thọ lượng cũng như vậy không thể hạn cuộc, cho nên cần phải thông. Đề danh tuy thông ý thì hạn cuộc bản cho nên kết ý trở về.
Hỏi: Pháp, báo là bản ứng thân thuộc tích vì sao nói bản địa ba đức Phật?
Đáp: Nếu kia chưa khai pháp, báo chẳng phải tích, nếu hiển viễn rồi thì bản tích đều có ba.
“Tiếp, Như Lai…”: là biệt giải thích. Cũng trước giải thích Như Lai, trước rộng gác qua bên, theo lược. Nói rộng: Như bốn thân, mười thân, ba mươi ba thân, vô lượng thân… theo nghĩa đã rộng, nay theo lược gọi là để tiêu, phẩm mục. Nói hai, ba: hai tức chân ứng, ba tức pháp bình đẳng. Không nói hóa: Hóa ứng nhất vãng thể kia đại đồng.
Hỏi: Hoa Nghiêm mười thân đây chỉ hai, ba thân số thân đã ít nghĩa nhiếp không cùng khắp, vậy thì kinh này nghĩa thân không đủ ư?
Đáp: Nghĩa có thông biệt, nghĩa thông có thể như vậy, biệt thì không như vậy. Kia thông nói thân cho nên nói mười thân Lô-xá-na, biệt giải thích Như Lai cho nên không ứng nói nghiệp báo Phật quốc độ Phật… Nếu muốn thông thâu mười thân trong Kinh kia nên khai làm bốn thì dùng hóa thân nhiếp thu nghiệp báo. Trí tức báo thân, hư không thuộc pháp, còn lại đều là hóa nhiếp. Cho nên, biết Kinh này cũng lập nhiều thân, tức Diệu Âm, Quán Âm ba mươi ba thân mười pháp giới thân hoặc mình, hoặc người tức là việc kia vậy. Huống chi nay giải thích Phẩm tên Như Lai cho nên chỉ có thể hai, ba.
Các giáo nhất định nên hiểu rõ danh tiện, nên lại giải thích bản tích mới tại phẩm này. Cho nên biết phẩm này tức là bản địa hai, ba Như Lai. Thứ nhất, hai Như Lai: Trước nhờ luận văn gọi là như thật. Tiếp giải thích tên đây để thành chân ứng lại có hai: Trước chân, sau ứng. Chân tức Pháp Báo hai thân hợp nêu, cho nên nêu cảnh trí hòa hợp để giải thích chân thân. “Thừa ấy…”: là giải thích. Đã chỉ do như trí khế hợp cảnh cho nên thuộc chân thân. Trong luận chỉ một chữ “Như” giải thích trong cảnh trí đều song song nói, tức chỉ là năng như như nơi sở như, sở như như nơi năng như. Đây dùng ý kinh Kim Quang Minh. “Nếu đơn luận…”: là nêu cảnh trí hòa hợp thành nhân chấp quả thiếu một không thể được. “Tiếp, Đạo giác…”: là kết thành chân thân, nhân quả đầy đủ cho nên nói nghĩa thành. Do đó chân thân nói thành ứng thân nói sinh. “Do như thật…”: là nêu ứng lại có hai: Trước lấy báo làm bản, trước giải thích chân thân. Ba chữ: Thừa thật đạo thuộc nhân, nay nhân thành quả toàn thuộc quả dụng, dùng bổn sở chứng khế hợp trí của cảnh. Thừa ở trên quả lợi vật quyền đạo, tức thật mà quyền cho nên nói thật đạo. Cho nên dùng phương tiện sinh nơi tam giới. “Tiếp, Lại sinh…”: là chánh nêu ứng thân, nhờ dựa vào Thành luận tiểu danh để hiển nghĩa viên, khéo phân biệt danh nghĩa vế lý thì có thể trở về.
Tiếp nêu trong ba đức Như Lai chỉ chia hai làm ba, trong đó lại có ba:
- Nêu ba Như Lai nghĩa thông bản tích.
- “Lại Pháp Hoa…”: biệt hiển bản địa ba Như Lai.
- “Luận nói…”: là dẫn Kinh luận chứng.
Văn đầu lại có ba:
- Nêu chánh giải thích.
- “Pháp thân…”: là dịch danh.
- “Như Lai ấy…”: là dung thông.
Đầu lại có hai:
- Mượn Đại luận lập nghĩa.
- “Như…”: là giải thích. Luận văn một câu ba thân đầy đủ.
Đầu dùng một chữ “Như” gọi là pháp thân, chỉ cảnh sở như trở lại chỉ sở chứng làm lai, cho nên nói bất động mà đến. Đây tức Như phi nhân quả mà thông nhân quả. Chữ “Lai” tại quả, không thông nơi nhân.
“Tiếp, báo thân Như Lai” có ba:
- Chánh giải thích.
- “Từ lý…”: kết đắc danh.
- “Cho nên luận nói…”: là kết chỉ luận văn.
Đầu văn: Chuyên căn cứ báo thân giải thích hai chữ kia, chỉ vì chữ “Như” đầu nghĩa khác với trước. Hai chữ “Như pháp” trước thuộc sở, nay một chữ “Như” thuộc năng. Pháp thông cảnh trí, trí là năng như, cảnh tức sở như. Trí trở lại thừa (nương) nơi cảnh sở như được thành nơi quả, cho nên nói thừa nơi đạo chân thật. “Tiếp, Trí xưng…”: là giải thích nguyên áo chữ “Như” nay. Tuy tức trí Như nơi cảnh, nhưng Như từ cảnh lập danh cho nên nói từ lý gọi là “là như…”. “Tiếp, dẫn luận”: Như năng xứng nơi pháp tướng. Giải tức thuộc trí xứng cảnh mà giải, tức năng như. Do giải mãn cho nên gọi đó là “Lai”. Căn cứ Pháp thân đây cũng nên dẫn luận văn nói như pháp tướng, chỉ là văn lược.
PHẦN HẠ
Tiếp, “Nêu ứng thân” lại có bốn:
- Chánh giải thích.
- Dẫn chứng.
- Nêu ứng tướng.
- Dẫn luận đồng.
Văn đầu trước nêu nguyên do ứng. Do trí xứng cảnh chỉ năng thuyết thân, thuyết tức ứng. Tự báo không thuyết cho nên nói do cảnh như như trí hiêp; chỉ nói do như không nói pháp như: Pháp đã thuộc nơi cảnh trí, dùng cảnh trí đây năng khởi ứng. Nên dùng giải thuộc trí biệt đối báo thân. Ứng chẳng vô trí lại để xứng cơ dùng dựa theo để nói. Cho nên tha thọ dụng cũng được gọi là Báo, cũng được gọi là Ứng, hoặc thắng hoặc liệt đều gọi là Ứng. Cho nên, biết Đại sư khéo dùng luận văn vi diệu đến nơi đây.
Tiếp, “Dịch danh” trong đó đầy đủ ba thân: Cận đại phiên dịch pháp báo không, phân ba, hai chẳng biện rõ. Tự xưa kinh luận chấp nhận có ba thân. Nếu nói Tỳ-lô cùng Xá-na không riêng biệt thì Pháp thân tức là Báo thân. Hoặc tức là: Hết thảy chúng sinh đều viên mãn, nếu pháp thân có thì nói chúng sinh cũng như vậy. Nếu quả mãn mới nói thì từ báo lập, hoặc nói không thì lìa ba thân đều như vậy, đâu riêng gì pháp, báo. Chúng sinh Phật không hai đầu chỉ ba thân, cho nên còn ba thân, pháp nhất định không nói, Báo thông hai nghĩ ứng hóa nhất định nói. Nếu kia tương tức đều nói, đều không nói, hoặc chỉ từ lý phi thuyết, phi bất thuyết, sự lý tương đối không nói tức nói, tức nói là không nói, tình thông diệu khế hợp tranh chấp đều lỗi. “Ốc tiêu”: Là trong phẩm Danh Hiệu của kinh Hoa Nghiêm và trong Thập Trú Bà-sa liệt kể. Đại hải có đá tên gọi là tiêu, vạn dòng tưới đến thạch đều hút cạn, do đó nước đại hải không tăng trưởng chúng sinh lưu chuyển cũng như tiêu thạch, ngũ dục tưới thấm mà không nhàm đủ chỉ có Phật mới năng độ cho nên nói vậy.
Hai thân trước gọi là nhất thiết thường định, cho nên ứng thân danh mười phương đều có không thể nói cõi Phật vi trần danh hiệu, cho nên trong phẩm kia Tân kinh nói Thích-ca Như Lai cũng gọi là Tỳ-lôgiá- na. Cựu kinh nói cũng gọi là Xá-na, ý cựu Kinh nói tên khác của ứng thân, cho nên tổng hai kinh kia nêu ba tên đầy đủ thể kia vốn một. Chỉ có ý của Tân kinh dùng Tỳ-lô làm Xá-na, Cựu kinh thẳng nêu Tha thọ dụng báo, nghĩa lại đâu có lỗi.
Ba dung thông trong đó có bốn:
- Lược chỉ ý.
- Dẫn giáo.
- Tu tánh.
- Dẫn luận. Đầu như văn.
Dẫn trong giáo có ba:
- Dẫn kinh.
- Tổng kết.
- Vấn đáp giải thích ngăn ngại.
Dẫn kinh có hai: Dẫn Đại kinh, ý nêu ba đức chỉ là ba thân. Ba thân đầy đủ như các văn giải thích. “Dẫn Phạm võng… ba kết Kinh”: Do nghĩa đại ý chỉ dùng ba kinh đồng mà ý nghĩa toát yếu. Như trong kinh Hoa Nghiêm mười phương đài lá xen lẫn, làm chủ bạn, thì kinh Phạm Võng đây chỉ một đài lá, cho nên Thiên Thai Giới sớ phán nói: Đài và lá hoa bản tích sai khác. Sở dĩ đài hoa lá hoa bản tích nhất định, là vì bị duyên tuy biệt mà đạo lý thường đồng, sở kết đã đồng năng kết đâu sai khác. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi ý cũng đồng với sở kết. Kinh Phổ Hiền Quán nói căn cứ trên có thể biết, kết cùng giải thích ngăn ngại văn tướng có thể biết. “Nếu chỉ…”: căn cứ tu tánh dọc ngang (tung hoành) không dọc không ngang để phân phán riêng biệt tức là căn cứ giáo, trong đó trước Biệt, tiếp Viên, sau dùng Tạng, Thông ví dụ. Nói “tu dọc tánh ngang”: Chẳng phải viên diệu, tên tánh đức gọi là Thông Biệt giáo, Biệt giáo tuy có nói tánh đức, cả ba đều tại tánh mà không dung thông lẫn nhau cho nên thành biệt nghĩa. Nếu ba đều tại tu trước sau mà đắc đạo lý thành dọc đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba ghi. Cho nên biết kinh này không nói ngang dọc, hoặc tánh hoặc tu cả ba đều viên diện v.v…
“Lại Pháp Hoa…”: là nêu Bản tích, trước chánh chỉ bày đồng, khác. Trước lúc ấy chẳng phải không nêu Viên ba Đức Phật, mà chỉ vì cùng Pháp Hoa tích môn nghĩa đồng, chẳng phải phẩm này nêu ba Như Lai, cho nên có vĩnh viễn sai khác.
Hỏi: Trong luận chỉ báo làm cữu viễn, nên chỉ Già-da pháp chẳng phải xưa nay vì sao ba Đức Phật đều chỉ nơi bản ư?
Đáp: Luận tuy xen lẫn chỉ về lý chắc chắn đều thông suốt, đâu phải xưa có Báo mà không có hai thân kia, đâu chỉ nay Ứng mà không có Pháp Báo, vì trung gian ngày nay đều đủ ba thân, chỉ tự thực thành đối với trung gian ngày nay, mà có sở hiện thân xứ ; thông thuộc Ứng hóa cho nên lại đối để nói.
Lại nữa, Pháp thân tuy tức mà không tương đương xưa nay vì căn cứ tu, tương vọng trở lại phân cận viễn. Dưới giải thích thọ lượng có thể căn cứ đây mà biết. Cho nên ngày nay trung gian mỗi một tiết đầy đủ ba. “Tiếp, dẫn luận”: như văn.
Tiếp, giải thích hai chữ Thọ Lượng, tức thọ lượng ba Như Lai trước nói, nên giải thích trong thọ lượng đều đầy đủ ba nghĩa. Trong đó 1) Lược giải thích thọ. 2) Rộng giải thích lượng, đây là lượng của thọ gia, cho nên rộng giải thích “lượng”, tức là rộng giải thích “thọ”.
Đầu, trong giải thích thọ, trước giải thích nghĩa chữ. Tiếp, “Chân như…”: tức dùng nghĩa chữ mà thông ba thân. Tiếp, giải thích chữ “lượng”, trong đó chia làm bảy:
- Nêu nghĩa thông tùy ba Như Lai tự không có nhất định để thành ba câu dùng giải thích ba thân.
- “Lại nữa…”: lại chuyên dùng bốn câu hiểu rõ ba thân trước.
- “Một thân tức là…”: dung thông ba thân.
- “Tùy duyên…”: phó cơ bất định.
- “Phẩm này…”: căn cứ thân để phán định.
- “Lại nữa…”: phán định nơi bản tích.
- Vấn đáp giải thích nghi.
I. Đầu tiên lập ba câu tức là thọ lượng hai, ba Như Lai nói, trước thì đã chỉ khai hợp sai khác, nay chỉ tùy theo ba làm thuận tiện, trong đó có ba phần:
- Giải thích chữ.
- Đối thân.
- Lập câu.
II. “Tiếp, Pháp thân…”: tức dùng ba câu giải thích ba thân: Pháp thân nói đầu tiên chia làm bốn:
- Lược nêu.
- “Có Phật…”: là giải thích nêu lý do.
- “Văn nói…”: là dẫn chứng.
- “Bởi là…”: là kết ý về.
Đầu, như văn. Tiếp, giải thích lý do trong đó lại có hai: Đầu chánh nêu nguyên do pháp thân, sau: “Không luận…”: là phân biệt hai thân sai khác, lại có hai: Trước nói thân, sau nói thọ. Đầu phân biệt thân: Bất luận tương ưng phân chọn chẳng phải báo thân cùng không tương tục, mà chọn lựa chẳng phải ứng thân. Chữ “cùng” để dẫn câu dưới, hai chữ “bất luận” xuyên suốt hai câu dưới. Tiếp, chọn lựa trong thọ cũng không có lượng, chọn lựa chẳng phải ứng thọ và vô lượng, chọn lựa chẳng phải thọ của báo thân. Hai chữ “cũng không” xuyên suốt hai câu dưới, cho nên dùng chữ và để dẫn câu. Kinh Hoa Nghiêm nói: Pháp giới phi hữu lượng cũng phi vô lượng, Đức Mâuni đã siêu vượt hữu lượng và vô lượng. Kinh kia chỉ trong Tích, căn cứ thể dụng luận, thể ắt song phi tích năng song dụng. Đây chính là căn cứ dụng làm rõ thể, cho nên nói “siêu việt”. Nếu thẳng dẫn đây để chứng cửu bản bởi chưa có thể. Do kia không nói đã thành thọ. “Văn nói…”: là dẫn chứng: hai câu đều song phi báo ứng, thuyên lượng báo thân trong đó cũng có bốn:
- Nêu lên.
- “Dùng Như như…” là chánh giải thích.
- “Văn nói…”: dẫn chứng.
- “Đây là…”: kết.
Trong chánh giải thích có hai phần:
- Chánh giải thích.
- “Cảnh đã…”: giải thích lý do vượt ngoài.
Trong phần chánh giải thích có hai: Trước chánh nêu, trí khế hợp cảnh cho nên có báo thân. “Cảnh phát…” mượn nghĩa giải thích danh, do ngầm (minh) cho nên phát, phát mớ gọi là báo vậy nên có được nghĩa thọ khó lường. Tiếp trong lý do có hai: Pháp, và thí dụ. Cảnh như hộp, trí như nắp, do tương xứng cho nên có công dụng hàm tàng, vật có trong kho mới có thể bên ngoài nhờ cậy.
Dẫn văn: Câu đầu chứng thể báo thân, câu tiếp chứng nhân báo thân, câu tiếp chứng dụng báo thân, câu tiếp chứng lực báo thân.
Tiếp thuyên lượng Ứng thân trong đó có bốn:
- Lược nêu.
- “Ứng thân…”: là giải thích nguyên do.
- “Văn nói…”: là dẫn chứng.
- “Đây là…”: kết.
Tiếp, nguyên do trong đó có ba:
- Nêu công năng.
- “Duyên trường…”: ứng dụng.
- “Vân vân…”: nêu ứng tức thể.
Trong dẫn chứng hai câu đầu chứng tướng ứng thân. Hai câu tiếp chứng dụng ứng thân. “Lại nữa…”: căn cứ bốn câu, có hai: Đầu tiên, chánh giải thích bốn câu. Tiếp, “Bốn câu…”: bốn câu tổng quát. Trong phần chánh giải thích có hai: Trước, chánh giải thích. Tiếp, tổng phá xưa. Chánh giải thích: Y thân thứ lớp không y câu thứ lớp, cho nên đầu Pháp thân là câu thứ tư, Báo thân tức câu thứ hai, do trước Kim cang nên chưa gọi là báo, tức câu thứ nhất là hữu lượng mà chưa gọi là Phật. Vả lại, nói vô thường, kỳ thật lại phải phân biệt đồng khác, Kim cang đến phàm mỗi một tiết sai khác, ứng thân tức câu thứ ba. Nói “cách thông”: Là muốn dùng bốn câu thâu tóm tất cả, cho nên dùng câu thứ nhất từ Kim cang đến. Thông đến phàm phu, cho nên nói chẳng phải đức Phật thâu nhiếp bao quát rộng rãi, huống chi phàm phu cũng được lấy làm bản ba thân, cho nên nhập câu đầu. Tiếp, “Phá xưa nói hai thứ hủy báng”: Trong phẩm nêu rõ thường không dùng thường giải gọi là hủy báng làm nghĩa giảm, không có vô thường dùng vô thường giải thích, gọi là hủy báng làm tăng.
Tiếp bốn câu tổng quát có hai: Đầu tiên, kết trước, sinh sau. Tiếp, chánh giải thích. Trong đó văn tự phân làm hai: Đầu tiên nói biệt: Ba thân biệt giải thích, phân câu thuộc nhân, sở thuộc từng bậc nhất định. Giải thích trong báo thân trước định câu, tiếp giải thích nghi, trong đó trước nêu pháp báo nghĩa đồng câu thứ tư. Tiếp “Chỉ lấy…”: nêu ý đối câu. “Phàm phu chung…”: Nay văn giải thích Phật chỉ ngoài ba thân đều thuộc phàm thâu cho nên văn còn dùng trước Kim Cang, không thuộc ba thân đều nhập phàm theo lệ. Nói “Biệt giáo”: Ba thân biệt riêng biệt đều đối câu cho nên gọi là “tướng Biệt giáo phân biệt”. “Tiếp, theo cách thông…”: là Thông giải thích, đều đầy đủ bốn câu: ba thân xen lẫn cho nên nói Viên giải thích, ba thân đều có bốn cho nên nói cách thông. Trong đó đầu tiên thông nêu lên. Tiếp mỗi mỗi thông giải thích. Đầu, Pháp thân trong bốn câu nói song phá bát đảo của phàm Thánh. Phàm bốn Thánh bốn, lý tùy vận dụng thường song phá, nhưng cũng cần phân biệt thể trạng của bát đảo, như trước trong Thập bát Không đã nói. Câu thứ ba nói vô thường: Là không có Thường kia. Câu thứ tư: chỉ tịch làm pháp thân, cũng mà cũng chiếu. Tiếp báo thân trong bốn câu đều phải căn cứ trí. Đầu song phi: Cảnh đã song phi trí ắt xứng cảnh. Trong câu thứ hai nói vượt quá nhị thừa, Tiểu trí chỉ có chấp vô thường.
Hỏi: Trong đây song chiếu và trước có gì sai biệt?
Đáp: Trước dùng tịch tức pháp thân, tịch mà thường chiếu. Trong đây căn cứ trí song chiếu cho nên được gọi là biệt.
Hỏi: Pháp thân là cảnh, cảnh làm sao năng chiếu?
Đáp: Tướng chiếu bốn câu nói đầy đủ trong Huyền Văn. Phi bát thân trong ứng thân bốn cho nên phi thường phi sinh tử cho nên phi vô thường. Cả hai tồn tại thì đủ hai ý trước. Phàm phu bốn câu, trong đó trước nêu nguyên do dụng câu. Nay nêu Như Lai sao được thông phàm. Vì cả thảy bốn câu đã một có một câu đối phàm. Nay đã thông giải thích đối với Phật chẳng phải là không có, huống chi tánh đức ba thân đầy đủ các câu. Nói “tánh đức không có danh tự”: Chưa có tu nên nêu rõ không có quả Phật bốn câu, chỉ căn cứ lý ba tánh đức để lập bốn câu.
III. Dung thông… một thân tức ba, không đồng nơi khác giải thích ba thân cố định chấp, cho nên thân câu đều xen lẫn thông, danh thông nghĩa thông lý thông pháp thông, thông mà hằng biệt, mới giải thích được sự ngăn ngại.
IV. Tùy duyên có ba:
1. Nêu tướng.
2. Dẫn kinh.
3. “Sở dĩ…”: giải thích nêu nguyên do, tức căn cứ giáo phê phán. Nói: “Nếu các Bồ-tát chưa đăng Địa, Trụ”. Nói “đồng trước”: Là đồng Nhị thừa. Nói “cho và đoạt” là vì Tha thọ dụng thân cũng gọi là Ứng thân. Địa thượng kiến là Tha thọ dụng. Chỉ dùng Báo Ứng hai danh mà luận nghĩa “cho và đoạt”. “Đại kinh…”: lại nêu ba thí dụ ở Đại kinh để chứng ba thân.
V. “Phẩm này…”: là căn cứ thân dùng văn nghĩa phân phán phẩm khiến biết nghĩa lâu thành. Lại có ba:
- Chánh nêu bản báo.
- “Vì sao vậy?…”: là giải thích lý do trên sâu xa pháp bản, dưới khế hợp căn cơ chúng sinh.
- “Lấy đây…”: là kết thành bản báo.
VI. “Lại nữa như vậy…”: rộng căn cứ bản tích chỉ bày ý phẩm này, trong đó có bốn:
- Chánh nêu bản địa ba thân làm bản, tức chánh chỉ bày.
- “Các kinh…”: cùng các bộ để biện luận sai khác.
- “Phi bản…”: nêu nguyên do Bản tích.
- Bản tích tuy khác mà bất tư nghì nhất.
Trong đó lại có năm:
1. Chánh nêu thể tánh bản tích, tánh tức thật tướng, thật tướng chẳng lâu (xa) tại sao luận bản kia? Thật tướng chẳng phải gần, tại sao luận tức kia? Thật bất tư nghì cho nên gọi là nhất.
2. Tiếp chánh bài bác Triệu sư, nói “tịch tràng”: Nếu đem Cửu triệt của Triệu sư nói vẫn nương Đa Bảo tiêu biểu bản, mà Triệu công chỉ Thích-ca bản tích cần phải nói “tịch tràng”.
3. “Lại nữa…”: lại nêu trong cận có nhiều thứ bản tích, thông bài bác các sư.
4. “Nay nhiếp…”: là Biệt chỉ cửu bản cận tích, nêu bất tư nghì.
5. “Như ấy…”: là kết sai khác.
Một và hai như văn. Thứ ba, văn có ba: Nghĩa là nêu lên, giải thích và kết. Trong giải thích lại có hai:
1. Biệt căn cứ ba đế để luận bản tích.
2. “Ba thứ…”: là tổng căn cứ ba đế, ba, một không khác để luận Bản tích. Lại căn cứ thứ tự và không thứ tự để luận tổng biệt. Hoặc biệt hoặc tổng đều bất tư nghì, chỉ căn cứ thiết lập tướng ưng dụng pháp không đồng, dẫn đến thành tổng biệt. Đều dựa vào bản thời tức tổng mà biệt, bèn có thể dụng ở đó tức biệt mà tổng. Biệt tổng không hai tùy thời nói sai khác, nhưng trong biệt xuất ra biệt tướng, từ chân khởi ứng, chỉ dùng thần thông, thông gọi là “ứng”. Tục thì chỉ tục đế Tam-muội, lấy đó làm bản. Tùy phương tiện giáo được nói như đây. “Chưa biết…”: tổng kết. Thứ tư, Biệt chỉ trong đó có ba:
1. Chánh chỉ bày chọn lược.
2. Chỉ bản tích tương hiển.
3. “Bản tích…”: chỉ bày bất tư nghì. Trong phần đầu, chọn lược nói “ba phen bốn phen”: Ba phen là ba đế, bốn phen thêm nhất tâm. Hoặc bản hoặc tích đều nhiếp chấp, nhiếp thuộc chấp trì, chữ chấp cũng là nghĩa chồng chất. Ba, bốn chồng chất đồng tại bản tích. Hoặc bản hoặc tích đều có như vậy ba – bốn bản tích. Tại Bản tại Tích tùy thời sai biệt, chọn trung gian bản tích làm tích, thì bản địa bản tích làm bản. Người khác không thấy Bản tích của kinh này, chỉ biết theo nghĩa thắng chuyên cầu pháp thân. Như đây pháp bản cùng các kinh cùng thắng, ngược lại thành nghĩa liệt. Nếu đắc cửu Bản thì cận Tích không mất. Nếu chỉ nói Pháp thân thì còn mất trung gian, huống chi viễn bản. “Từ cái…”: nêu Bản tích tương hiển, từ nơi Bản của Bản tích bản địa, thùy ở trung gian ngày nay Tích của Bản tích. Như vậy Bản tích cửu cận tương hiển, mới biết Bản là bản của Tích gia, Tích là tích của Bản gia. “Ba Bản tích bất tư nghì”: Tức căn cứ lý. Thứ năm Kết sai khác: Như văn.
Trong Thất liệu giản, trước là ý hỏi: Thắng mới gọi là khác, các kinh nêu pháp tướng kinh đây còn thiếu ứng liệt các kinh, tại sao được trở lại năng vượt các thuyết khác? Tiếp, trong Đáp có hai văn. Đều nói chủng chủng, không ngoài nhân quả và dùng tự tha. Văn có thí hợp. Văn trước nói “nghiệp”, tức hạnh năng hành, “bảo” tức pháp sở hành, “vị” tức quả sở giai. Trong phương tiện giáo hành nhân thâu hoạch quả cho nên nói “chủng chủng”. Nếu không có thọ lượng pháp thân thường trụ, thì nhân quả không chỗ trở về, cho nên biết các kinh các hạnh không đồng, đều nhập về mạng thường trụ của kinh này; mạng thường trú đây một thể mà ba thân thâu tóm khắp tất cả, đây là căn cứ tự hành. “Tiếp, Đại kinh…”: lại căn cứ tự tha, “Đầy đủ như pháp môn…”: song hợp. “Cốt yếu trong biển …”: kết nêu thắng ý chia làm ba: Nghĩa là pháp, thí, bài bác. Bài bác nói: Không khác là gì?! Pháp tánh pháp thân, “trí” tức Báo thân, “ứng” tức Ứng thân, cho nên “cốt yếu trong biển pháp tánh” lẽ nào quá đây? Cho nên ứng đều dùng ba thân hợp hầu (cổ họng)… bốn thứ. Nhưng trong các kinh lẽ nào không có ba thân, chỉ vì Kiêm Đới và chưa nêu rõ viễn đó thôi! Vì vậy cho nên kinh này vĩnh viễn khác với các giáo. Nếu không như vậy, thì xét kỹ các kinh, kinh nào nêu Phật cửu viễn là Bản đồng với kinh này? Vì sao dùng khổ để bài xích đức lâu thành? Vì giải thích nghi ư? Đây nếu giải thích nghi phương tiện thì cũng là giải thích hiện tướng nghi. Phương Tiện giải thích nghi thì phẩm Tựa là Chánh thuyết, mới có thể trong đây Dũng-Xuất là Chánh, huống chi các phẩm khác đều phán lấy làm Lưu thông. Nhưng trong luận tự liệt kê Mười thứ vô thượng:
- Chủng tử vô thượng chỉ thí dụ mưa rơi.
- Hành vô thượng chỉ việc của đức Đại Thông.
- Tăng trưởng lực vô thượng chỉ thí dụ Hóa thành.
- Khiến giải vô thượng chỉ thí dụ buộc châu.
- Tịnh độ vô thượng chỉ Đa Bảo hiện.
- Thuyết vô thượng chỉ thí dụ hạt châu trên búi tóc.
- Hóa sinh vô thượng chỉ Dũng xuất Bồ-tát.
- Thành đạo vô thượng chỉ thọ lượng tam Bồ-đề.
- Niết-bàn vô thượng chỉ con của Thầy thuốc.
- Thắng diệu lực vô thượng chỉ các phẩm dưới, là phần Tu-đa-la còn lại. Nên biết luận ý, chỉ từ phẩm Phân Biệt Công Đức trở đi, là phần Tu-đa-la còn lại, tức phần lưu thông còn lại của kinh. Vọng nay Sở phán chỉ khác nửa phẩm. Nếu dùng Công đức mà nói thì có thể đều thuộc lưu thông. Nay từ lãnh thọ ký mà phán thì thuộc Chánh thuyết vậy. Đều khác với các kinh, cho nên nói “vô thượng”.
Nếu như vậy thì từ thí dụ mưa về trước lẽ nào chẳng phải Vô thượng ư?
Đáp: Thí dụ mưa đã thuật thí dụ và lãnh giải. Phẩm Phương Tiện đã phán là Thậm thâm. Thậm thâm chỉ là tên khác của Vô thượng, huống chi phẩm Phương Tiện đã là căn bản của Thí dụ. Nếu dùng Phương Tiện trở xuống tám phẩm làm Chánh, cũng được là Chánh trong Tích môn. Nếu dùng mười ba phẩm làm Chánh thì lại tạp lẫn Tích môn lưu thông. Cho nên biết chọn tích lưu thông làm chánh, bỏ bản chánh làm lưu thông, sự sâu xa không thể được, đầy đủ như biệt ký. Cho nên biết bản địa ba thân tức như yết hầu của thân các kinh, như cổ áo, như mắt với các căn. Từ cỏ xuất ra gió, tục thông cho nên biết nay nêu bản tích không đồng với các kinh các sư. Câu văn của phẩm này thì câu sớ hơi nhiều, trước sau khó thấy, cho nên trước biên chép ra. Chỉ dựa vào đây mà khai. Văn khai hiển có hai: 1) Khuyên bảo, tin, 2) Chánh đáp.
Lại có hai: Trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có hai: Pháp, thí. Đầu, trong pháp thuyết có hai:
- Ba đời lợi ích vật.
- Tổng kết ý không dối.
Ba đời chia làm hai:
- Quá khứ chia làm hai:
a) Từ “Như Lai bí mật…”: nghĩa là nêu chấp cận. “Nhưng Thiện nam…”: là phá cận hiện viễn. Văn đầu lại có ba:
- Nêu pháp sở mê.
- Nêu chúng năng mê.
- Nêu mê bản. Tiếp, phá cận hiển viễn lại có hai: Trước, hiển viễn. Sau, lợi vật thích nghi. Hiển viễn lại có hai: Pháp thuyết, Thí thuyết.
Thí thuyết lại có ba:
- Nêu thí dụ hỏi.
- Đáp.
- Hợp.
Tiếp, “Ích vật sở nghi” có ba:
- Nơi ích vật.
- Phất tích thượng nghi.
- “Nếu có chúng sinh…”: chánh nêu Ích vật sở nghi.
Trong đó có hai:
l) Cảm ứng.
2) Thiết lập hóa.
Trong đây lại có hai:
- Nêu lợi ích của hình tiếng.
- Được lợi ích hoan hỉ.
Hình, tiếng lại có hai:
- Hình.
- Tiếng.
Lợi ích hình lại có hai:
- Phi sinh hiện sinh.
- Phi diệt hiện diệt.
Lợi ích của tiếng, như văn. Được lợi ích hoan hỉ, như văn.
Tiếp “Các Thiện nam tử! Như Lai thấy…”: hiện tại lợi vật lại có hai:
- Cơ cảm.
- Ứng hóa, trong đó lại có hai: a) Phi sinh hiện sinh. b) Phi diệt hiện diệt.
Đầu văn lại có hai:
1. Hiện sinh.
2. Hiện sinh lợi ích. Hiện sinh lại có hai:
- Hiện sinh.
- Phi sinh.
Trong hiện sinh thứ hai lợi ích có hai:
- Hình tiếng.
- Không dối, không dối có hai :
a) Không dối.
b) Giải thích không dối lại có hai:
- Chiếu lý không dối.
- “Do các…” là nêu xứng cơ không dối gạt, trong đó lại có hai:
- Cơ cảm.
- Thiết lập hóa.
Tiếp, nêu Phi diệt hiện diệt, lại có hai: l) Phi diệt hiện diệt. 2) Hiện diệt lợi ích.
Đầu, lại có hai:
l) Bản thật bất diệt. Trong đó có hai: Đầu, nêu quả vị thường trú; sau, nêu nhân so sánh quả.
2) “Nhưng nay…”: trong Tích xướng diệt.
Hiện diệt lợi ích, lại có hai:
- Bất diệt có tổn.
- “Dùng phương tiện…”: xướng diệt có lợi ích.
Đầu, lại có hai:
- Bất diệt có tổn.
- Rộng giải thích.
Có lợi ích có hai:
- Tán thán Phật khó gặp.
- Giải thích, như văn.
Tổng kết nghĩa không dối lại có ba:
- Nêu chư Phật xuất thế ắt trước thiết lập ba.
- Nêu đều là hóa vật.
- Đều không phải hư vọng.
Tiếp, trong thí dụ có hai: Khai, hợp. Khai thí chia làm hai:
l) Lương y thí dụ ba đời.
2) Trị con thí dụ nghĩa không dối.
Văn đầu lại có ba:
- Y Thầy thuốc đi xa là thí dụ quá khứ.
- Trở lại rồi đi là thí dụ hiện tại.
- Tìm đến là thí dụ vị lai.
Quá khứ lại có hai:
l) Phát cận hiển viễn.
2) Hóa lợi ích sở nghi.
Nay chỉ hóa lợi ích. Trên hóa lợi ích lại có ba:
- Xứ sở.
- Phất tích.
- Chánh hóa.
Nay chỉ chánh hóa. Trên chánh hóa lại có hai: l) Cơ cảm. 2) Chánh ứng hóa.
Nay thí dụ đủ. Nay căn cứ văn đầu lại có hai: Như có lương y, siêu thí dụ ứng hóa. Từ “Người ấy nhiều con cái”: Là truy thí dụ cơ cảm. Tiếp, chánh ứng hóa, văn đây có ba khuyên bảo. “Ba phen thỉnh” cho đến “trịnh trọng”: Trong thỉnh đã nói: Ba phen bạch như vậy rồi lại nói: “Phải biết” đến bốn. Đức Phật đối sau ba phen thỉnh lại nói: Các ông lắng nghe tức lời răn thứ tư, và trước tích môn răn hứa đến ba phen thỉnh, tức năm phen răn bảy phen thỉnh. Trịnh trọng như trước giải thích.
“Xưa nói Thất phương tiện” cho đến “thành đế”: Là nói “Thất phương tiện quyền”, lại mượn quyền xưa, nếu đối quả môn thì quyền thật đều là ý tùy tha. Do trong Viên nhân cũng có Vô sinh nhẫn, tức dễ nghe viễn cho nên để qua bên mà không luận. Cho nên, đây tự tha tùy dụng sai biệt, đầy đủ như trong Huyền Văn. Trong Pháp thuyết vị lai nói ít, chỉ là bốn chữ “thường trụ bất diệt” làm văn vị lai. Thí thuyết trong kệ văn nhiều. Trường hàng trong thí thuyết từ: “Người cha nghe con” trở xuống, là văn kia còn ít. Kệ trong Pháp thuyết, từ: “Ta thấy các chúng sinh” trở xuống, văn có mười hàng rưỡi cho nên nói nhiều. “Một thân tức ba thân…”: Trong văn hai giải thích đều có ý kia. Giải thích thứ nhất căn cứ ba thân, pháp thể pháp nhĩ tương tức. Giải thích thứ hai căn cứ xưa nay tương vọng, dùng pháp thể nay vọng xưa. Cũng có thể giải thích trước là thông các vị, giải thích sau là bài bác các kinh khác, chỉ tại kinh này nên vậy tức thần thông của bí mật gia. Cho nên lại căn cứ ba thân để giải thích, nên biết thần thông lực tùy nơi giáo chủ các giáo. Vì thế, rộng căn cứ các vị phân chọn xong. Lại căn cứ xưa nay phân biệt mới hiển thần thông của bản địa ba thân. Nếu giải thích tiểu thừa và dùng tiệm giáo thì không được dùng ba thân trong đây giải thích. Dẫn kinh Đại Phẩm: Kinh này nêu hết thảy thế gian đều cho là cận thành, chỉ liệt kê thiên, nhân, Tu-la không nói ba đường ác, nhưng chấp cận cũng phần nhiều tại ba thứ đây, cho nên dẫn làm theo lệ. Trước tuy có tên nhị thừa từ đầu để nói, nếu hợp khai rồi đều thành Bồ-tát, cho nên nay chỉ từ khai biên để nói. Ý kinh Đại Phẩm kia nói thù thắng vượt ra là chỉ thù thắng vượt ra Tiểu (thừa). Tiểu tại ba thứ đây không cần ba đường ác cho nên tạm dẫn đồng. Từ đây nói pháp thân địa đến nói lâu dài, pháp nhẫn Bồ-tát còn phải tự nghe. Nên biết thọ lượng chẳng nói không biết, nhưng người đắc Vô sinh cũng nghe ứng tức pháp thân, chỉ không nghe lâu thành mà thôi! Nói “tự ứng…” chỉ không đồng giới nội trải qua năm vị vượt qua Bản tích, bảy phen thỉnh năm phen khuyên răn mới được nghe, do thấy một phần pháp thân lý hợp được nghe lâu dài. Cho nên văn trước nói: Địa trú lên được nghe thường, chỉ là thường cùng thời khác có khác, cho nên lại luận.
“Phá cận hiển viễn” lược có mười ý như Huyền Nghĩa… Huyền Văn quyển chín nêu rõ trong dụng có mười môn không đồng, kia liệt kê đủ giải thích gồm Tích môn mười ý để biện đồng khác. Nay chỉ lược nêu hai môn phá phế. Chú gia nói: Thọ (lượng) vô thủy tối tăm mà chưa hiển sáng tỏ, đây không ứng như vậy. Vì sao? Trong đây chánh nêu nghĩa cửu viễn trường (lâu dài) để phá Già-da cận thành đoản (ngắn) hiển
bày sáng tỏ đâu có tối tăm. Lại nói: Sao đức Phật không như vậy? Đây cũng không như vậy! Xa gần không đồng dài ngắn sai biệt. Nói thẳng xuống một hạt bụi, một cõi bị điểm, thì trong đây Kinh văn không nói điểm xuống chỉ gồm văn tích kia mà thành lời nói kia thôi! Tăng truyện nói: Căn cứ kinh cựu mà La-thập dịch không có bốn chữ “một trần một kiếp”. Đời Tề có Cao Tăng Đàm Phó tụng kinh cảm mộng nói thiếu một câu, sau đắc quả. Như kinh Kim Quang Minh nói: “Có thể biết số giọt nước trong tất cả biển, mà không thể biết thọ lượng của Như Lai”. Đây cũng nêu thọ lượng đời vị lai chẳng phải quá khứ. Nếu dẫn chứng đây thì sự đặc thù đều tương ưng.
Nơi “Ích vật”: Ta-bà đây tức là cõi bản ứng thân nương ở, ngày nay tích ở không dời đổi nơi bản, chỉ xưa nay thời có khác. Thấy thiêu cháy: Nghĩa là cận, chiếu bản là thấu đạt viễn. Cho nên kinh nói: Cõi ta không hủy, thường tại Linh Sơn đâu lìa Già-da biệt cầu thường tịch, chẳng phải ngoài cõi Tịch Quang riêng có Ta-bà!
“Nơi trung gian đó…”:
- Chánh giải thích.
- “Hoặc có…”: là nêu xưa.
- “Nay là…” phá xưa.
Trong chánh giải thích, đầu tổng lập năng phất. Tiếp, “nhân nghi…”: chỉ sự sở phất. Trước nêu. Tiếp, “Xưa giáo…”: là giải thích xuất sở nghi. Tiếp, “Nay phất…”: là chánh chỉ tướng phất. Chính do kinh văn trước nêu sự xong, kết nói đều là phương tiện, tức gọi là “Phất”. Xưa đối các giáo tuy thấy không đồng mà sinh nghi, chính không biết là quả hậu phương tiện; và như vậy chỉ bày ý sai biệt tức nói “gặp Đức Phật Nhiên Đăng” và “ở đời Phật Nhiên Đăng nhập Niết-bàn” vậy.
Tiếp, “Xưa giải thích”: Lại có người nói: Nói Đức Nhiên Đăng: Nói tha là ngã hay là bình đẳng ý thú! Kinh văn chỉ nói ngã nói tha thân đâu cần sửa nói ngã là ngã. Nay giải thích ý nói: Là Thích-ca Bồ-tát nhập diệt, không được nói là Nhiên Đăng Niết-bàn cũng chẳng phải Thích-ca lúc ấy ở đời Phật Nhiên Đăng đã từng thành Phật mà nhập Niết-bàn. Không thể hai đức Phật cùng một lúc hưng khởi. Vì vậy cho nên chỉ dùng đắc thọ ký hoằng pháp thọ lượng tận cùng làm quả.
“Phật nhãn…”: Đã đối Phật nhãn nêu nơi hai ứng, cho nên tha thọ dụng cũng ứng nhiếp. Nhân thiên và dùng pháp nhãn đều nói là hoa báo, chẳng phải không cận quả nhượng Phật báo. Cõi kia đã vậy thì thân sao lại không như vậy. “Tín… các căn”: Đã được Như Lai Bản địa Phật nhãn quán sát tận một kia lâu (xa) dài chiếu nguồn căn kia cho nên năm căn đây cần phải căn cứ Bản địa trung gian duyên liễu. Lại kinh tiệm đốn đại tiểu và nhân thiên thừa, danh đồng thể biệt thông, được gọi là “tín… năm căn”, do nhân thiên thừa thông gọi là “duyên nhân”. Đây chính là vọng kia biến khắp khai thông thành Duyên, Liễu. Trong đó trước căn cứ tiệm đốn phán xét. Tiếp căn cứ Đại tiểu nhân duyên để phán xét. Tiểu tức tiệm sơ, trong tiệm lợi độn chỉ nói Tạng Thông. Tiệm thông đủ bốn do Biệt, Viên đồng nhập trong Hoa Nghiêm đốn giáo nhiếp thu. Vậy cho nên lại dùng tiệm trong giới nội xảo thuyết, đối với lợi độn thông tại Phương-đẳng Bát-nhã hai vị. Lại dùng Tiểu đối nhân thiên biện rõ lợi độn, lại dùng ưu liệt (tốt xấu) tương vọng. Chỉ nhân thiên thừa biến khắp tại trong tất cả giáo Đại tiểu, mười giới đến hai nhân: Nên nói trong pháp giới cũng có ác pháp. Mà nói không dụng: Do mười pháp giới là nói phát sinh cơ duyên thiện nên không lấy ác pháp, chỉ trong mười giới xoay vần tương vọng mà có năm thừa bảy thiện và Viên Thật các thứ, cho nên Thánh nhân lại lập phương tiện truyền truyền dẫn xuất. Bởi do có cơ nên thích nghi không đồng không thể đốn xuất.
Hỏi: Nếu vậy Phật quả đã cùng cực thì tại sao cũng được gọi là sinh căn cơ?
Đáp: Trong đây luận về cơ và biện rõ lợi độn. Pháp giới Phật chưa phải là Phật quả, Huyền Văn kia nói mười giới xen lẫn dùng luận cơ duyên thì quả Phật cơ thông nơi mười giới. Nếu trực tiếp thích hợp dùng Phật giới độ người, thì đó là Phật giới có cơ duyên Phật giới. Nếu chưa thích hợp Phật giới, thì dần dần nơi Bồ-tát giới mà thành thục, cho đến địa ngục tức đến địa ngục mới hồi tâm, đầy đủ như trong Thích Tiêm, cũng như Quan Âm Diệu Âm hiện thân không đồng.
“Tự nói danh tự…”: Đã đối mười giới hoặc chỉ luận bốn thánh để biện hơn, kém và ứng thắng liệt. Nên biết trong đây lại đối với thắng liệt ứng của Phật giới sở dĩ luận. Sỡ dĩ thường luận: Sợ vẫn cho là pháp thân thuyết pháp cho nên vậy. Ngang luận tức mười phương, xưa nói mười phương. “Căn cứ xứ sở dọc” đến “Nhiên Đăng Phật”: Dùng Thích-ca vọng xưa gặp Đức Nhiên Đăng, gọi là thời Nho Đồng, không phải chấp Nhiên Đăng khác để vọng ta. Nếu chấp Phật khác thì chẳng phải ta dọc. Nếu chỉ Nhiên Đăng Phật thân thì có thể dẫn loại mà thôi, cho nên nói “như nay…”. Nói “Sinh Pháp”: Như dưới giải thích thắng liệt đều có Sinh Pháp hai thân. Tiếp, căn cứ trong ngang nói “Cũng như kinh Hoa Nghiêm nói mười hiệu…”: Phẩm Danh Hiệu nói: “Như Lai ở nơi tứ thiên hạ, hiện các thân, các danh, các thực, các hình, các tướng, các dài, ngắn, các thọ mạng, các xứ, các căn, các sinh, các nghiệp, khiến các chúng sinh đều biệt tri kiến. Lại trong mười phương đều có mười ngàn danh hiệu khiến các chúng sinh đều biệt tri kiến”. Đã nói Như Lai ở trong tứ thiên hạ này…, cho nên không được đem Phật khác để vọng ta, trong dọc cũng vậy. “Lại, các kinh…”: là nêu Phật có ba thân tự vọng lẫn nhau danh tự không đồng. “Đầu, thông nêu hoặc thuyết…”: nêu ba thân tương vọng cũng được gọi là ngang. “Pháp thân Phật” cho đến “Bátnhã Thủ Lăng Nghiêm”: đối trong pháp thân lại có danh khác không đồng. Bát-nhã là Trí, Lăng-nghiêm là định, bất tư nghì định tuệ đều là tên khác của Pháp thân, đầy đủ như trong Chỉ Quán giải thích tên. Do Đại kinh nói Phật tánh có năm tên; chỉ nêu Pháp thân hai thứ khác vẫn lược. Do ngang vọng cho nên liền được dùng Phật vọng Phật, như trước dọc vọng chỉ được dùng Phật vọng thân Bồ-tát xưa vậy. Nay đã thành rồi, có thể đắc vọng ngang. “Hoặc nói thọ hai vạn” đến “có thể biết”: đây nhờ Phật khác để hiển Thích-ca như chư Phật kia, cho nên đều nói “như”. Ngang dọc, có thể biết: Thích-ca Di-lặc tức dọc, đối hiện mười phương tức ngang. Nếu tự thân nay vọng ngày xưa thọ tức dọc, vọng tự thân thọ tức ngang. Như Huyền Nghĩa v.v…. Trong Huyền Văn kia nói thọ mạng vi diệu, nêu rõ đầy đủ thọ mạng bốn đức Phật trong Tích và trong Bản, Đại tiểu không đồng. Ưu, liệt tương vọng và dùng kia đây mà luận ngang dọc. Nhưng không dùng ưu liệt để phê phán Bản tích, chỉ dùng cửu cận phê phán Bản tích thôi! Khiến biện rõ đồng khác cho nên chú nói “vân vân”. Hoặc ba thân tương vọng: Đối trong một giáo tự dùng ba thân mà có ưu liệt, dùng làm Đại tiểu thì nghĩa thông Biệt Viên. Tiếp, hoặc ba thân đều biệt, đều là tiểu; đây chính Biệt Viên tương vọng, Viên đại biệt tiểu. Theo lệ ba điểm nói: Chỉ là đều biệt và phi. Dọc ngang tức thí dụ Biệt Viên, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba. Sư xưa dùng sáu giải thích đều làm dọc ngang, Sư nay ba giải thích không ngang không dọc. Nếu lại đối ngang dọc phán xét Đại tiểu: Thì Tiểu thừa ba đức làm tiểu, ba đức Biệt giáo làm đại. Cũng lại hiện nói đương nhập Niết-bàn, đây chỉ văn khai Tích xong. Nếu khai Tích xong được nói song lâm là thị hiện diệt độ làm lợi ích vật. Lấy nay căn cứ xưa cũng lại như vậy. “Sư tử Phấn Tấn…”: Gọi Phấn Tấn và mười công đức thông nói “Bản tích” cho đến “Sơ trụ”, nay phải phân biệt đây, là lâu thành hiện tác hiện tại. Có mười đức: Trước nói chín có thể thấy, Như thứ mười nói: Đầy đủ mười thiện trên, tức như tứ quán quán nơi mười thiện. Viên tức thượng thượng mười thiện. Mười thiện chỉ là ba nghiệp, cho nên nói “thân ba…”. Cho nên bốn – ba nghiệp tiết tiết không đồng.
Cho nên thượng thượng đến quả gọi là công đức thứ mười của Sư Tử Phấn Tấn chỉ là ba nghiệp tùy theo trí tuệ hành và ba mật… Cho nên Phật quả địa cũng dùng Sư tử Tam-muội, phán tấn nơi trần cấu khác. Nếu luận chư Phật đời đời đều như vậy thì chín thứ còn lại chuẩn theo đây… dựa theo giải thích mười tướng biện minh trung gian ngày nay đời đời đều có hiện tại tích hóa do bản công đức.
“Như Lai thấy” cho đến “ưa Tiểu pháp”: Dùng cửu cận tướng Thánh làm tiểu, đức Phật dùng bản địa Phật nhãn thấy, chưa thích hợp viễn nói, do ưa cận nói gọi là ưa tiểu. “Hoa Nghiêm” đến “người”: Là trước dẫn kinh, đây là đầu phẩm Thập Địa Bồ-tát Kim Cang nói ngăn giải thoát nguyệt. “Xét kinh kia…”: nay văn phán xét. Cho nên biết kinh kia do chưa đến hồi hướng vì không có hành lâu, đây chỉ là thứ lớp hành đó thôi! Nếu Phổ Hiền hạnh sơ phát tâm trụ rồi viên chứng xong, thì đâu thể đến địa tiền nói không lâu hành mà không vì nói.! Nếu nói nương thứ lớp mà luận không thứ lớp thì vì sao sơ trụ không thứ lớp mà cũng nói có thứ lớp ư? Cho nên nương nói thứ lớp cần có điển cứ, nên kia dùng nghĩa hành không lâu làm “ưa Tiểu”. Nay văn chính dùng ưa cận thành làm ưa tiểu. Chỉ dẫn nhân giống như bản chẳng phải văn tức bản. Nếu nói đối Tiểu làm “ưa Tiểu” thì Địa tiền Trụ tiền và Tạng Thông Bồ-tát còn không hợp Tiểu, huống chi Thập địa của kinh kia, huống chi bản môn của kinh này. Sư nói: Dẫn Nam Nhạc nói đồng làm chứng. “Nay đương…”: Đại sư đối dưới thông căn cứ giáo đạo, bắt đầu từ tệ dục cuối đến Biệt giáo thông gọi là “ưa Tiểu”.
“Đức mỏng cấu nặng”: Người kia chưa có hai nhân Thật giáo. “Nói…”: văn dưới nói “Các con nhỏ dại”: Chỉ văn dưới Thầy thuốc và con dụ, còn chưa kham nghe viên huống chi khai viễn ư! Kiến Tư chưa trừ: Lại hiểu rõ nói “thơ dại” trong Thí dụ, chắc chắn chưa biết viễn.
Tiếp, “Hỏi: Nếu bốn vị trước chỉ ưa cận thành làm “ưa Tiểu”, thì Hoa Nghiêm đốn bộ Viên trong các vị và dùng nhân môn vì sao cũng gọi là “ưa Tiểu pháp ư”?
Đáp: Trong bốn nghĩa ba tại nhân thứ tư tại quả môn, cho nên tên gọi “ưa Tiểu” còn thông tệ dục, huống gì Tiểu ư! Cho nên nay quả môn biệt ở ưa cận, cho nên hai người trước trong ba người trước tự thoái Đại về sau chấp ái, trược kiến, người này còn không ưa nơi Tiểu thừa, huống chi Viên thừa ư!.
Tiếp, Một là chấp ba phương tiện giáo còn không kham nghe Viên, huống chi lại nghe chỗ viễn đối biệt. Cho nên, đối quả môn dùng nghĩa “ưa cận” làm “ưa Tiểu”. Nên biết quả môn Viên nhân Hiền vị còn có ưa cận thành. Tức là hoặc sau quả môn tất cả khai rồi, thì sơ tâm cũng nghe huống chi Hiền vị ư! Đời mạt pháp người chưa từng phát tâm cũng nghe, huống chi là người phát tâm ư!
Hỏi: Đời mạt pháp đều nghe Phật xuất thế đâu lựa chọn ư?
Đáp: Đức Phật xuất thế đương cơ cho nên chọn đời mạt pháp kết duyên nên khai. Nếu được ý đây phàm các pháp tướng sở đối không đồng, đâu cần hỏi nói Viên không nên ưa Tiểu. “Trước nêu lợi độn” đến “hai ứng”: Trước nêu hai cơ thông tiệm đốn giáo, tổng phán xét lợi độn cho nên nay tổng dùng hai ứng nói. “Liệt ứng” đến “pháp thân sinh”: Tướng của hai ứng, Kinh văn đều có nói Sinh Pháp hai thân sinh tướng. Nên biệt hai xứ tương vọng không thể dùng thừa chiên đàn lầu các! Lạm đồng quán suốt kỹ càng, không thể dùng chủng trí viên minh, đồng chánh tập đều tận. Lại dùng mười hương bảy bước không đồng mà tiêu biểu thắng, liệt. Cho nên biết hai xứ đều không có nghĩa lâu thành. “Chỉ do” đến “nói như vậy”: Chưa khai chỉ nói sinh, khai rồi mới nói chẳng sinh. Nay thuật tích thùy phương tiện đối nay nói khai rồi cho nên tổng nói đó thôi! “Các kinh khác” đến “phi sinh”: Một phen xưa lại từ Tiểu thừa để nói, như Phật hỏi Quân Đề: Hòa thượng ông giới thân có diệt không? Cho đến tri kiến thân diệt không? Đều đáp nói: Không Phật ấn hứa, Đã chấp nhận bất diệt cho nên nói “không phá”. Nếu trong Đại thừa thì cũng chẳng phải không phá. Lại tuy dùng Đại phá Tiểu chỉ Đại tiểu tương đoạt, Đại tiểu vẫn còn. Trọn không dùng viễn mà đoạt ở cận, cho nên nói còn không đồng. Cho nên kinh này vọng thể tịch tràng Giá-na đã là tích thành cho nên nói chánh phá. Chưa thể tùy luận bốn giáo. Lại căn cứ hai xứ thành tướng, tức hiểu Tạng Thông hai thân là liệt ứng, Biệt Viên hai thân là thắng ứng. Trong văn tuy nói hai ứng đều có Sinh Pháp hai thân, nhưng ngũ phần pháp thân trên liệt ứng thân nghĩa đồng Sinh thân, trên thắng ứng tuy nói Sinh thân mà nghĩa đồng với Pháp thân. “Nói gặp đức Nhiên Đăng” đến “nói tha thân”: là dùng thân Nhiên-Đăng Phật làm tha thân. Nếu căn cứ ý đây nói tha thân thì lẽ ra còn hai giải thích, chỉ bày tức hẳn tại nơi ta, nói thì gồm nơi tự tha. Như nay nói Di-đà cũng thành việc ta và việc Di-đà duyên tương quan. Như một chúng hội hoặc nhóm tập mười phương hoặc tập một phương, hoặc trú mười phương hoặc trú một phương, thị hiện y báo không phải thẳng ở cõi hiện tại, cõi trần đều có đủ như trong Hoa Nghiêm.
Từ “Chương quá khứ trên” đến “lợi ích Thế giới”: Một phen xưa lại dùng đắc hoan hỷ biên gọi là Thế giới, đâu phải đời quá khứ không có ba đời khác ư! Cho nên nói “tợ như”. “Nay nêu rõ đều không dối gạt”: Nay hiện tại văn đều nêu đủ tứ tất đều đến bản môn. Cho nên biết quá khứ lại phải đầy đủ ba. Đại luận tứ Tất-đàn đều thật: Luận kia thông dùng Đệ nhất nghĩa làm Diễn môn pháp tướng, dùng tam Tất làm Tam tạng, đều có thật kia. “Đốc thúc luận…”: ý đại luận kia ắt hẳn phân biệt hư thật, một ở Diễn môn nên thật, ba ở Tam tạng nên hư. Nói “trong duyên”: Như trước tùy duyên bất định, cơ tại Tiểu, Tiểu tức gọi là thật. Như người Tam tạng đối với tứ Tất đây thì ba thật một hư, Thông Biệt hai người thì ba hư một thật, Viên thừa thì hết thảy đều thật, phàm phu thì hết thảy đều hư. “Nếu dùng…”: muợn thật hư đây để phán xét hai môn. Dùng hai môn đây đối hai loại chúng sinh tiệm đốn chưa từng dùng đương cơ làm hư, đương cơ làm thật. Lại để qua tứ Tất mà dùng nhân quả tương đối để biện hư thật: Trong đó trước dùng mười bảy phương tiện đối hai môn phán xét.
Tiếp dùng người thật đối hai môn phán xét, nếu phương tiện giáo thì hai thứ đều hư, nhân môn khai xong vọng nơi quả môn thì một thật một hư, Bản môn hiển xong thì hai thứ đều thật, cho nên biết Tích thật nơi Bản còn hư. “Căn cứ viên đốn…”: hoặc người Bản Viên vọng nơi hai môn, Tích chỉ một hư, tuy nói lại không có biệt đắc mà đều tăng đạo lợi ích. Nếu nơi giáo xưa từng mật hiển viễn đối hai môn đây cũng gọi là hai thật. Thì căn cứ trước cũng nên nói lại không biệt đắc đều hai môn lợi ích tăng đạo. Nếu năm mươi người đứng dậy bỏ đi thì đối với hai môn đây còn gọi là đều hư. Lại giáo trước mật khai không đến đây cũng gọi là đều thật. Đối Dũng-xuất chúng chẳng hư chẳng thật, cũng gọi là thật, vì tự muốn đắc. Đối tướng diệt, thì đây hư kia thật; đối người có thoái thể hiện hư đương thật, ảnh hưởng phát khởi cũng phi thật, phi hư, hữu hư, hữu thật; đối người mê giáo thì hết thảy đều hư.
Hỏi ý: Xưa là xưa giáo xưa, nay là hai môn, xưa nay bản tích đều gọi nhập thật, dùng xưa vọng nay làm hai hư, thì lẽ ra đương ngày nay hai môn thật tướng hơn thật xưa tất ư ? Thật vốn không hai xưa nay đâu khác ư?
Đáp ý: Lại dùng Tích đáp, Bản căn cứ đây có thể biết. Giáo môn trước sau nhập thật không khác. Đầu chỉ Hoa Nghiêm, tiếp chỉ hai vị hoại bỏ thảo am nhập, tức chỉ Pháp Hoa, khi nhập ở người, chẳng có lý riêng.
Tiếp, “theo lệ”: Dùng Tiểu theo Đại, đây chính dùng ngang theo dọc. Nếu lại dùng dọc theo dọc thì nên nói “Lộc-uyển nhập Tiểu” và “trong hai vị nhập Tiểu” không khác. Đây thì nhập Đại nhập Tiểu không nơi nào không có. Năm vị theo thứ lớp tương sinh, độn tiểu từ hiển lộ để nói. Trong đó có sáu câu: Nêu rõ ngày nay Ứng thân, tức là đã từ lâu thành Pháp thân. Bất tư nghì nhất cho nên nói chiếu lý bình đẳng, nên Bản tích nhờ sự để nói. “Như thật tri kiến…”: Luận nói: Như Lai tri kiến tướng tam giới: Nghĩa là chúng sinh giới tức Niết-bàn giới, không lìa chúng sinh giới mà có Như Lai tạng. “Không có sinh tử…”: Luận nói: Thường hằng thanh tịnh là nghĩa bất biến. “Cũng không tại thế…”: Luận nói: Như Lai tạng thể chân như cùng chúng sinh giới bất tức bất ly. “Bốn nghĩa phi thực v.v…”: Luận nói: Lìa bốn thứ tướng, vì bốn thứ tướng là vô thường. Phải biết ý luận các câu đều Viên, vậy nên các câu đều nói “cùng chúng sinh giới bất tức bất ly”, cho nên nay đều làm Viên thường trung đạo Phật tánh giải thích. Không làm giải thích như đây, còn không thể thấy thực trong giáo xưa huống chi khai hiển thật, huống chi cữu viễn thật! Cho nên đây phải chỉ Bản trí chiếu cảnh, không thấy đây chỉ luống làm rõ Bản môn!
Nói “Sáu câu”:
- “Như Lai…”.
- “Cũng không… tại thế…”
- Phi thật phi hư.
- Phi như phi dị.
- “Không như tam giới…”
- “Như đây…”.
Trong đó câu đầu nêu ý: Như Lai thấy rõ lẽ ra nói pháp giới vì sao chỉ nói tướng tam giới….?! Vì khiến chúng sinh biết nơi thùy tích đều là pháp giới. Pháp thân thường trú cho nên nói “như thật”. Cảm pháp thân cơ, kích động pháp thân nên khởi hai ứng, cho nên gọi là “cảm”, không thể riêng dùng pháp thân làm ứng. “Như thật…”: là chánh giải thích, trong giải thích đâu câu thứ nhất, nếu căn cứ trong câu dưới nói không có hai thứ tử, thì nên nói không có hai thứ nhân tướng tam giới. “Thẳng nói tam giới”: Năng tri kiến gọi là trí, sở tri kiến như như tức cảnh trung đạo, cảnh trung đạo không ngoài tam giới. Trong sở tri kiến đã thông phàm Thánh, nay do Như Lai tri kiến đều thật, ngoài ra sở tri kiến vọng Phật là hư mà còn có nhân. Phật như thật kiến cho nên nói không có nhân. Lìa tam giới rồi không có biệt lý, cho nên “không có sinh tử…” tức không có hai thứ tử quả. “Khởi tập…”: là kết, nhân quả của hai loại tử trên cho nên có ngũ trụ tập gọi là thoái, có hai tử quả gọi là xuất. Mà nói vô thường quả hiện: hai loại tử vọng trong đó cả hai đều vô thường, biệt chỉ hai cõi lấy làm hai loại tử. Thông luận Kim Cang về trước còn gọi là vô thường. Cũng không tại thế và diệt độ: Cũng là song phi nhị biên nhân quả, hai câu này và hai song phi nên nói bốn câu. Cho nên trước từ như thật tri diệt độ căn cứ như lý sở ly. Tiếp hai câu cùng hiển thể trung đạo, hai câu sau căn cứ năng kiến nói. “Nếu song phi…”: bốn câu đây đều thành song phi, đây nói song phi, nếu kia kết tức thành câu biên. Kia nói tuy hiển mà sợ cùng quyền giáo song phi lạm xen nhau, cho nên lần nữa lại giải thích song phi kết câu. Nếu thuộc một bên thì đều ở truyền giáo. “Theo lệ như…”: nêu tướng kết câu, dùng các câu còn lại kết nay song phi, khiến thành câu thiên lệch chẳng phải viên thật, cho nên nêu rõ các câu thứ lớp kết.
Kết câu đầu nói: “Phi sinh phi tử…”: Dùng sinh làm sinh tử biên, dùng tử làm Niết-bàn biên, sinh ấy tử ấy chính là song chiếu. Nếu kết là sinh thành sinh tử biên, phi sinh phi tử chính là song phi. Nếu kết làm tử chỉ thành Niết-bàn, thoái xuất cũng vậy. Hai câu dưới căn cứ đây. Nếu vậy kết rồi trở lại song phi mới hiển trung đạo cho nên nói “nay đều là phi”. Nay trong kinh thẳng nêu song phi hiển trung, không thiên kết câu nên chỉ có viên cực. “Như đây lưu”: Đây theo lệ còn nhiều tức là cho đến văn dưới. Như đơn phức đầy đủ nơi nơi tuy có nói song phi mà vì câu kết đều có sở thuộc, cho nên hết thảy kiến chỉ kết thành. Nhị thừa các câu chỉ kết thành không, đây có đây không chỉ thành biệt tục, phi có không này chỉ thành trong biệt, nay nêu viên lý cho nên phải vi tế biện rõ. Kinh nói “Như Lai như thật tri kiến”, hoặc dùng nhị thừa… giải thích thì có tội hủy báng Phật, nhưng đây kết câu chỉ tại một nhà, phê phán các kinh luận hết thảy câu pháp để biện minh văn nghĩa tông thú không đồng. Trong Sớ Tịnh Danh nói nhân chương Thích-ca Chiên Đàn, chiên đàn chỉ nói các nghĩa khổ, không, vô ngã v.v… tức nghĩa ở Tam tạng, Tịnh Danh kết thành nghĩa Thông trách nói: Không vô sở khởi là nghĩa khổ…: Phải biết Không vô sở khởi là không có khổ không có lạc, chỉ kết nghĩa trở về nơi khổ. Đã nói không có khởi lại nói là khổ cho nên chỉ thành Thông. Nếu nói Không vô sở khởi, song phi không hữu thì kết thành nghĩa lạc tức thành ý Biệt. Biệt dùng xuất giả làm lạc. Nếu lại song phi biệt giáo khổ lạc mới thành thật trung đạo. Rộng nêu như vậy, huống lại đơn phức đầy đủ cũng biến khắp các giáo. Như bốn giáo bốn môn, môn môn bốn môn, môn môn bốn Tất-đàn, trong mỗi Tất-đàn lại có bốn Tất-đàn, tức thành môn đều có đầy đủ. Cho nên, Biệt đầy đủ lại cần phải phi. Viên môn khởi kiến còn đọa vào câu nghĩa hữu, sao được lại thành phức mà đầy đủ… ư? Cho nên biết hoặc kiến, phi kiến hoặc môn hoặc cả thảy đều phải dùng pháp mới năng định câu, trong không dùng câu năng định pháp thể. Vì thế giải thích nghĩa không quán sát dưới câu đó… pháp thể qui về đâu, làm sao năng biện câu pháp cạn sâu, làm sao năng hiểu được kinh này song phi! Nếu dùng pháp định tùy nêu một câu tức thành thật lý. “Không bằng…”: giải thích câu thứ năm nói “Không như tam giới”: Như là đồng, không đồng các người thấy nơi tam giới thuật Phật thấy. Phật ắt quyền thật hai trí đầy đủ, ắt không đồng hai thứ nhân sở kiến nhị biên nhân quả của Tam giới. “Không như hai thứ… tướng”: Chỉ là hai thứ tử và dùng Ngũ trụ. Nên biết tam giới danh thông, thông nội ngoại giới. Nếu ngoại giới lập danh tam giới, thì dùng ngoại chuẩn theo nội, lý trung đạo chưa cùng thông gọi là Kiến hoặc, thông tam giới. Năm trần tốt đẹp trong cõi biến dịch gọi là Dục giới tư, bất tư nghì pháp trần, gọi là Thượng giới tư. Trong Tịnh Danh sớ dựa theo có nêu tướng kia.
Tiếp, “Chỉ Phật một người…”: là giải thích câu thứ sáu, Như đây trở xuống văn dưới. Đã tổng nói như đây, xét trước đã chiếu thông thành nhất kiến cho nên đều lập lại năm câu nói thật trước cùng nêu tướng quyền thật nhị trí. Cho nên Thật trí chỉ chiếu Thật cảnh, nay thêm Quyền trí tùy vật thấy quyền. Nói rõ “phi kiến mà kiến…”: Tức hai trí bất nhị, cho nên nói như chúng sinh kiến chỉ bày thân hai loại tử tùy ý người… Tiếp, văn trình bày tức câu đầu “Như thật tri kiến tướng tam giới” bên trên: Tuy như thật thấy cũng đối nơi chúng sinh thấy mà thấy, đầy đủ ngũ nhãn. “Như thật tri kiến…”: là trình bày câu “không có sinh tử” bên trên. Tiếp, “cũng không…”: là trình bày câu “cũng không tại thế” bên trên. Tiếp, “Không thật…”: là trình bày câu “phi thật” bên trên. Tiếp, “Không có ba đời…”: là trình bày câu “phi như” bên trên. Tiếp, “Đồng với…”: là trình bày câu “không như tam giới” bên trên. Đều dùng Như Lai nêu kiến (minh kiến) lấy làm Quyền trí, nhất nhất giải thích. “Như Lai…”: trình bày “không như tam giới” bên trên, trở xuống văn. Như Lai tuy tức tự như thật kiến, vật cơ không đồng chỗ thấy đều sai biệt, cho nên đức Phật cũng do tùy loại mà thấy thùy ứng.
“Vì các…”: nêu rõ trong cơ cảm. Đầu nêu rõ cơ tướng tức cơ Tứ Tất-đàn. “Muốn khiến…”: nêu ứng tướng để hợp bốn cơ, trong mỗi mỗi Tất-đàn năng sở đều đầy đủ, tự làm tứ biệt. Đã nói “chủng chủng”, cho nên đối tiệm đốn để giải thích. Do đó trong Huyền Văn giải thích mười môn trong mỗi một môn đầy đủ các giáo. Đây y Viên giáo để hiểu kinh mà thôi! Tánh tức Vị nhân: Đầu, chánh giải thích. Tiếp, giải thích nghi. Đầu, trong chánh giải thích phàm nói Vị nhân, các tạo tác ắt làm theo sinh thiện đời trước gieo trồng, thiện đời trước không đổi nay mới có thể sinh, cho nên tánh thuộc sinh thiện. Tiếp, “Huân tập dục…”: giải thích nghi: Trước, lập nghi, giải thích nói…: Trong giải thích trước chánh giải thích. Tiếp, “Nêu ví như ba tánh dục…”: kết đồng. “Như nhân…”: nêu ước lệ: Như Đại kinh nói: Thiện nam tử hết thảy thân chúng sinh cùng phiền não đều không có trước sau, tuy không trước sau chủ yếu nhân phiền não mà được có thân, trọn không nhân thân mà có phiền não, tánh dục cũng như vậy. Tuy không có trước sau ắt nhân tập dục mới thành tánh. Kết đồng: Nay tuy tánh trước dục sau, cuối cùng cần phải có nghĩa dục ở trước, cho nên nói tập dục thành tánh. Thế giới gọi là dục đây căn cứ Thiền kinh, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một nói. Thiền kinh từ nhân cho nên nói “lạc dục”, Đại luận từ quả cho nên nói “thế giới”.
Tiếp, trong giải thích “Hành thiện”, sinh ác dục đều được gọi là “hành”, cho nên đối trong hành để phân hai Tất-đàn, rộng như Huyền Văn. Tổng quát hành khởi thiện đời trước, tri phá ác hiện tại… Tiếp, trong giải thích “Ức tưởng”, lại chia làm bốn:
1. Nguyên do được gọi, nêu Đệ nhất nghĩa mà thông ban đầu, lại dùng tương tợ giải khởi đối trị với thô hoặc chưa nhập chân đạo, tuệ gọi là tưởng.
2. “Chúng sinh tiệm đốn…”: nêu thứ lớp tứ Tất-đàn, do ba Tất cho nên có Đệ nhất nghĩa đến; đối nội ngoại phàm vị cũng được gọi là Đệ nhất nghĩa, chỉ tên tưởng tuệ phải ở nhân vị. Như trước năm phẩm tu hành năm hối. Tiếp, nhập tùy hỷ còn được gọi là Đệ nhất nghĩa, huống nhập vị nội phàm ư! Lại, Tùy hỷ trước thâu hoạch được chút định tâm cũng được gọi là nhập Đệ nhất nghĩa, huống chi nhập sơ phẩm.
3. “Tùy theo…”: nêu duyên nhập chân.
4. “Cho đến…”: nêu ức tưởng thông về sau đến Kim Cang tâm.
Hỏi: Nên nói Sơ trụ vì sao nói Địa? Đáp: Từ tiệm đốn đến vả lại nương ở vị Địa.
“Muốn khiến” đến “bấy nhiêu nhân duyên thí dụ”: Đây dùng trong chương năm đức Phật nói thiết lập quyền đều nói chủng chủng nhân duyên… đem trình bày văn này bản tích đều có hóa độ tiệm đốn. “Như vì biếng nhác…”: Nếu tiểu đối đại. Như Câu-xá luận giải thích trong Nhẫn vị. Đầu từ Hạ nhẫn quán, cho đến Thượng nhẫn còn lưu một hành tướng, nhập Thế Đệ nhất, chỉ lưu hai nghĩa hành không đồng, lợi (căn) gọi “kiến hành”, độn gọi “ái hành”. Người lợi lại có hai: Chấp ngã nhiều: Lưu hành vô ngã. Chấp ngã sở nhiều: lưu hành vô thường. Giãi đãi nhiều: lưu khổ hạnh. Nay văn lại nêu hai người lưu Không hành Người độn có hai: Chấp ngã mạn độn. Lại các luận sư chấp các kiến giải
không đồng, không thể thuật đủ. Trong Thông giáo nói cũng như vậy là: Quán môn tuy khéo đế quán mà thứ lớp không khác Tam tạng, nhưng căn cứ bốn môn, bốn Tất, hai Không, ba Giả cùng Tạng không đồng. Vả lại, căn cứ đại đồng cũng gọi là chủng chủng. Biệt Viên trong độn tuy ba mươi hai và nhập bất nhị chủng chủng hành loại mà cũng đâu ngoài đều có bốn môn ư! “Không có hư ra” đến “hư xưa vì thật”, chữ vi là khứ thanh (vị) bẩm thọ quyền ra khỏi giới gọi là vì hư ra, tam thừa đều xuất tam giới, nhân thiên đều xuất tam đồ, đều gọi “vì hư”. Như Lai vốn vì nhất Thật mà thiết lập Quyền, không có chút sai biệt mà đều nhập thật. Nương bốn chữ đây là “thường trụ bất diệt”. Kia đã bất diệt thì lợi ích đến vị lai. “Người xưa…”: trước nêu xưa chấp nói: Trước vượt qua hằng sa…: Sư xưa thấy trong kinh có nói sở thành thọ mạng nghĩa là quả thọ, bèn chỉ văn trước nói vượt quá nơi trần giới, vì trước quá hằng sa, dùng phi hằng sa có thể năng dụ bèn dùng thế giới lấy làm dụ, đối nay chưa tận vì sau gấp bội số trên. Lại nữa, người xưa thấy nói lại gấp bội liền cho là có hạn, huống lại không biết là thật, nhân thọ mà nói thần thông. Trong kinh nói “phục (lại)”, người khác nói “hậu (sau)” tức chương sớ nói. Từ nay về sau lại gấp bội số trên, như vậy đều là thần thông diên thọ, ý nói nay tuy chưa tận ắt có khi tận. Kinh nêu nhân so sánh quả, nêu rõ bản hạnh Bồ-tát đạo, cảm được nhân thọ tự còn chưa tận huống chi quả thọ ư! Người xưa không hiểu phán định thuộc vô thường, cho nên biết vì nhân thọ bất tận, sánh ví như quả thọ bất tận, tức nêu nhân quả đều thường. Xưa giải thích ngược lại khiến nhân quả vô thường thế nào lại bỏ quả so sánh! Kia thấy năng so sánh nói có sở thành. Tiện làm quả so sánh. Nhưng trong kinh văn trước đã nêu quả sao nói lập lại. Nói “dù khiến”: Chỉ Sơ trụ vị đã phần đắc thường thọ, đâu có sơ trụ chân biến dịch thọ, ấy là đồng phân đoạn có vô thường ư! Nếu nói “tận”: Đâu phải tận ư! Sao gọi là phân thường, phân chỉ đối với Phật và địa sau. Căn cứ hành chứng văn tự nên biết. “Thí như…” nêu thái tử hưởng lộc lấy làm dụ, cũng là thí dụ nghĩa phân. Đối với của cải, người nói bất tận đó thôi! Chữ “Lệ”, nghĩa là huyễn lệ, xoay đổi. Chữ “Huyễn” là dáng dấp không thuận. Nghĩa là bỏ thường mà nhận lấy vô thường.