PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 10

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

 

PHẦN THƯỢNG

GIẢI THÍCH PHẨM THỌ LƯỢNG

(Tiếp theo)

Trong Tích xướng diệt thông căn cứ ba thân, lại chia làm hai:

  1. Tổng lập.
  2. “Như Tịnh Danh…”: là giải thích.

Trong giải thích:

  1. Nêu ba thân phi diệt xướng diệt.
  2. Nêu ba thân thường trú bất diệt.
  3. Nêu ba thân bất sinh bất bất diệt. Do bất diệt nên xướng diệt, phi diệt, do bất sinh bất diệt nên gọi là “phi diệt”. Tóm lại mà nói: Để hiển nghĩa bất diệt. Đầu văn tự có ba:

I. Đầu tiên nêu Pháp thân, chia làm sáu:

1. Đầu mượn văn Tịnh Danh để lập nghĩa.

Hỏi: Trong đây Pháp thân tại sao dẫn nghĩa Thông giáo trong Tịnh Danh, Ca-chiên-diên?

Đáp: Chương Chiên-diên kia tổng có năm câu: bốn câu đầu danh Tạng nghĩa Thông, một câu sau danh thông bốn giáo, nghĩa hạn cuộc nơi Diễn môn, vãn nói kết trở về là thông Viên Biệt, cho nên bốn câu trước hiện kết thành Thông, không liên quan đến Viên Biệt. Một câu kia tuy kết thành Thông vẫn là thông Viên Biệt. Nay từ nghĩa thông cho nên được thành Viên. Nếu hiểu ý này thì có thể hiểu rõ các câu, cho nên lược dẫn.

2. Bản pháp không sinh nên không thể diệt là nghĩa tịch diệt. Nói “xướng diệt”: Đây là xướng tịch diệt là diệt của diệt sinh, không phải diệt của tức sinh, diệt của tức sinh là Bất diệt. Nên biết diệt đây gọi là bất diệt, pháp thân thường trụ không có diệt bất biệt. Nay nói tịch diệt nghĩa đương xướng diệt. “Vì sao?…”: là giải thích ý xướng diệt. Vì sao? Vì người không hiểu: Mà nói tịch diệt, nếu hiểu tịch diệt trở lại chỉ sinh. Nếu hoàn toàn chỉ sinh, thì người giải đãi không có lợi ích cho nên cần phải xướng diệt.

3. “Nếu nói…”: do trong kinh Anh Lạc nói tịch chiếu lập lại giải thích, nhưng trong kinh kia dùng chiếu tịch làm Đẳng giác, dùng tịch chiếu làm Diệu giác. Kia căn cứ Biệt giáo giáo đạo để nói, phân hai câu để đối hai vị. Nay mượn tên quả tột cùng của Biệt giáo để thông từ đầu đến sau mà giải thích nghĩa không diệt mà diệt của Viên giáo.

4.  “Xét pháp thân…”: giải thích nghĩa xướng diệt, do xướng diệt cho nên trí sinh, hoặc diệt. Đây căn cứ sự lý tương đối mà luận. “Nếu mê tâm…”: Quan sát qua lời nói đó tợ như đồng báo thân mà ý kia thì biệt. Trong đây chánh nêu hoặc sở diệt làm thể pháp thân, thể có sinh diệt bởi do nơi trí, cho nên mượn năng hiển để làm rõ sở hiển.

5. Diệt hoặc. Tiếp phán xét Viên Biệt. Biệt giáo còn thuộc diệt vô thường, do trong Thập trụ đồng với Tiểu thừa, diệt tam giới hoặc mới sinh giải xuất giả tục trí, nhập trung cũng như vậy. Nay căn cứ Viên giáo cho nên xướng tịch diệt. Các nghĩa này tuy Biệt Viên không đồng mà đều gọi là “sinh diệt”, tuy đều sinh diệt, đều căn cứ lý tánh.

6. “Nếu không…”: Nêu rõ duyên xướng diệt, ý nói: Từ mê, từ giải cho nên nói “mê giải”, chắc chắn luận chỉ dùng giải làm xướng duyên, Biệt Viên đều là từ mê sinh giải.

II. Tiếp căn cứ Báo thân, cũng có sáu:

  1. Nêu.
  2. “Sao có…”: chánh giải thích Hoặc, Trí vốn không sinh diệt, bởi vì thể Báo thân không có sinh diệt.
  3. “Đây tổng…”: kết thể của Báo thân. Minh tức trí, ám tức vô minh, thể tánh là hoàn toàn nên không có trừ bỏ nhau. Đã không có trừ bỏ nhau tức bất diệt.
  4. “Chúng sinh…” nêu nguyên do xướng diệt.
  5. “Có phiền não…” nêu tướng xướng diệt, sở dĩ lại xen lẫn được gọi là diệt vì từ sự cho nên diệt.
  6. “Đâu chẳng phải…” là kết xướng diệt.

III. Ứng thân: 1) Cũng đầu nêu. 2) “Ứng là…”: nêu bất diệt. 3) “Chỉ là…”: nêu xướng diệt. Tiếp “lại pháp thân…”: nêu trong ba thân bất diệt: Đầu, trong Pháp thân bất diệt nói “đương thể”: Không vọng các thân khác, vì hai thân còn lại cần phải vọng Pháp thân. Nếu đem thể vọng dụng, thì dụng đoạt lấy thành diệt. Tiếp, căn cứ Báo thân bất diệt, chia làm hai: Đầu, nêu trước nói bất diệt tức là báo xứng nơi pháp, pháp đã bất diệt báo cũng bất diệt. Tiếp, “Dùng lý…”: căn cứ sự lý tương đối để giải thích. Trước, căn cứ lý không diệt. Tiếp, “Đến có…”: căn cứ sự có diệt. Từ căn cứ lý biên tức là bất diệt. Đầu, trong căn cứ lý nói là đến cho nên… trong đó hoặc trí bốn câu xét trách, trở lại căn cứ thể kiểm xét Hoặc còn bất diệt, trí thể không phá. Đây dụng Đại kinh Sư tử hống nạn.

Hỏi rằng: Nếu Tỳ-bà-xa-na phá phiền não thì vì sao lại tu Xa-matha ư? Đức Phật chất vấn lại rằng: Nếu nói trí tuệ năng phá phiền não tức vì đến cho nên phá, vì không đến năng phá. Nếu đến cho nên phá thì phàm phu năng phá, nếu không đến pháp thì sơ niệm nên phá, nếu sơ niệm không phá, thì hậu niệm cũng không phá. Nếu đến không đến phá, thì nghĩa ấy không như vậy. Suy tìm như vậy ai có trí tuệ năng phá phiền não?

Nói chung và riêng: Phật dạy: Như một người mù không thể thấy sắc, mặc dù làm bạn với các người mù cũng không thể thấy. Tuệ định cộng biệt, căn cứ đây nói có thể biệt. Đây tức trí báo thân không thể diệt hoặc. Tiếp “Căn cứ người có trí tuệ…”: Lại căn cứ sự mà định phán xét, trí năng diệt hoặc trí không gọi là diệt.

Căn cứ ứng thân nêu nghĩa bất diệt: Cũng vọng pháp báo, báo căn cứ nơi pháp, cho nên pháp thân trước chỉ nói đương thể. Nay đây ứng thân lời vật không đoạn cũng là bất diệt cho nên nói thường nhiên ứng nêu bất tuyệt, ba thân tương xứng vậy. Pháp, báo khắp nên ứng thể cũng khắp, cơ tự tại không ứng pháp thường như vậy. Nếu không như vậy thì tuy giải thích Viên thường mà trở lại đồng nghĩa sinh diệt. Nói “chúng sinh bất tận tức không diệt độ”: Khi diệt độ chúng sinh chưa tận nghĩa kia như thế nào ư? Nên hỏi ngược lại nói: Nghiệm chúng sinh chưa tận thì không diệt độ, cho nên xướng diệt độ. Vì không thể sinh ý tưởng khó gặp gỡ: Chẳng vì (chúng) sinh tận cho nên biết ứng thân thường tại bất diệt, đâu riêng pháp ư! Nêu không hiểu thì pháp báo cũng diệt, đâu riêng gì ứng ư?

Nêu ba thân bất sinh bất diệt: Pháp thân: Đồng trước không sinh diệt; Báo thân: Trí tự liễu trí không có năng diệt, trí thuộc nơi năng đã không sinh diệt đâu năng khiến hoặc (lầm) hoặc sinh hoặc diệt được ư! Ứng thân: Tương tục cho nên bất sinh, tương tục cho nên bất diệt. Ba thân chỉ nói “bất sinh diệt”, là chữ “Bất” xuyên suốt chữ diệt dưới, tức “bất sinh bất diệt”, lại nói tiện cho nên chỉ nói “bất sinh diệt” thôi!… Giải thích ý: Nêu ba thân bất sinh diệt để dung thông lẫn nhau. Đây nhân một câu văn: ứng thân phi diệt xướng diệt, rộng khai ba thân hữu diệt bất diệt bất sinh bất diệt. Nếu không vậy, sinh diệt thì nhất định, thì sao gọi là ba thân bất tức bất ly? Nếu hiểu được ý này thì khắp một đời giáo, chỉ nghe một câu nói xướng diệt liền biết tất cả nghe diệt bất diệt. Đầy đủ thân nhiều ít diệt, bất diệt sai khác, mới thông đạt bản địa vốn không sinh diệt, mới thấu đạt trung gian ngày nay hóa đạo hữu diệt bất diệt, dùng Bản địa hóa trung gian ngày nay tất cả tích giáo, không ngoài ba thân bốn câu.

Giải thích nghĩa bất diệt có tổn hại trong đó có hai: Đầu, giải thích nguyên do xướng. Tiếp dùng tứ Tất-đàn để giải thích tổn, lợi. Trong đây lại nương Ứng Phật để giải thích. “Do đây chúng sinh” đến “hai thiện tổn mà không sinh”: Do không xướng diệt bọn chúng giãi đãi, hai thiện chân, Trung đều không sinh trưởng, Kiến Tư đã sinh còn tự không đoạn, Biệt hoặc chưa sinh đâu thể khiến đoạn hoặc, không đoạn. Cho nên chỉ có năng tổn hai thiện chân, Trung đã sinh chưa sinh đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy tổng quát. Tiếp, “Nếu y” đến “đệ nhất nghĩa”: Dùng tứ Tất-đàn nhấn mạnh giải thích nghĩa xướng diệt, vì vậy xướng diệt có lợi ích của bốn Tất-đàn. Do xướng diệt nên thiện sinh ác diệt, cho nên phân tứ Tất-đàn để đối thiện ác. “Đệ nhất nghĩa diệt chưa sinh…”: Đệ nhất nghĩa đều năng Kiến trung đạo, năng phá vô minh, nên vô minh gọi là ác chưa sinh. Đối trị diệt ác đã sinh: Phàm đối trị nói đều trị hiện ác. “Thế giới sinh thiện chưa sinh”: Ưa muốn tại ban đầu kỳ vọng tâm xa xôi, như nghe pháp sinh vui thì chút thiện sẽ sinh. Lại thế giới là ấm nhập, ấm nhập nếu chuyển thì pháp thân hiển, cho nên pháp thân gọi là Thiện chưa sinh. Lại khi ưa muốn thiện căn chưa sinh, cũng do ưa muốn sinh gọi là sinh chưa sinh. “Vị nhân sinh thiện đã sinh”: chân đế đối với trung đạo gọi là thiện đã sinh. Ví như khiến chưa sinh đối với trung đạo chính là viễn mà từ cận gọi là đã. Lại, Thế giới diệt ác đã sinh: Từ cận lại giải thích, chỉ từ hiện chấp đây thì có thể biết. Đối trị diệt ác chưa sinh, thì trị đạo tăng trưởng. “Như thiền ngũ ấm…”: giải thích nghĩa thế giới trước, như tu thiền thời, gọi là diệt ác dục. Cho nên, sắc ấm khởi năng diệt dục ấm, dùng giới vọng giới gọi là thế giới. Cho nên Dục giới ấm gọi là ác đã sinh, căn cứ đây cõi Vô sắc trừ sắc, Không trừ tam giới Trung đạo diệt biến dịch. Nơi đương vị ấm đều gọi là đã sinh. Tu trên diệt dưới gọi là diệt đã sinh, đối trị trị chưa sinh, văn không giải thích lại. Chỉ trị danh tuy đồng mà thông đến Đẳng giác. Trong Đại kinh, Ưu-bà-tắc giới chúng nói: Thường vô thường, lạc vô lạc…, thường lạc quan sát như các môn đối trị ấy đã là tịnh vô cấu

xưng là Vua sở dụng trị cho nên không gần. Đã căn cứ ba thân luận diệt bất diệt cho nên tứ Tất-đàn cảm ứng cũng cần hiểu sâu, nhiều phen giải thích là bởi do đây vậy.

Tiếp, trong rộng giải thích có hai:

  1. Nguyên do hiện diệt.
  2. “Thấy nghe…”: thông căn cứ ba thân để nêu tổn lợi ích.

Văn đầu nói cần xướng diệt: Có tổn không có ích do thường tại. Trước, tuy nêu nguyên do xướng vẫn chưa biết vì sao. Tiếp, thông căn cứ trong ba thân: Đầu nêu riêng tổn ích tức căn cứ ba Đức Phật mỗi một chánh tông. Đầu tiên, vẫn tổng nêu. Tiếp, “Liền cho rằng…”: đầu căn cứ pháp thân: Pháp thân vốn không có tên tịch diệt. Vì hàng thượng mạn chấp như không khác cần phải xướng tịch diệt, đầy đủ như trước giải thích v.v… “Lại nghe…”: tức căn cứ báo thân. Trước tự cho như đây tự cho là trí. Cho rằng đều là Đại thừa thượng mạn. Nhưng hai thượng mạn đều có sâu cạn, cho là “Như”, bèn trở thành người đại vô tàm, cho là trí thì còn biết cần trí chiếu hoặc, do không hiểu rõ cho nên không giải danh “Tức”. Phàm nói “tức” là để hiển “ly”, như băng không lìa nước, lý phải hòa với băng, nghĩa đồng với ly mới chính là hiển tức. Lại nói ly là vì thành tựu tức, nếu không ly thì chúng sinh tức là Phật đâu cần tu đạo! Vì không biết ly thẳng nói tức cho nên cần phải xướng diệt. Một phẩm Đẳng giác còn thuộc trí năng đoạn duy nhất của Phật, đâu thể Bác địa cho là tức thị ư! Ứng thân như văn trước sau.

Tiếp, “Nếu xướng nói…”: biệt căn cứ báo thân nêu nguyên do lợi ích lại có hai: Trước, xướng. Tiếp, lợi ích. Văn đầu, trước dựa vào pháp thân để biện rõ phải cần trí. Tiếp, “Kinh nói…”: nêu giáo lập ngăn ngại. Tiếp, dẫn thí dụ giải thích sự ngăn ngại. Nhưng khi sáng không có tối, nghiệm biết khi tối không có sáng, cho nên dùng trí tuệ đoạn phiền não tối. “Ông nay…”: dùng lý trách. “Phải biết…”: là kết ý. Ứng thân có thể thấy cho nên lược. “Chúng sinh…” tổng ba thân Phật đều sinh cung kính: Vì trí báo thân ở trung đạo có trí tuệ. Trên thì sâu xa, dưới thì khế hợp. Nếu được thấy một thân ắt đầy đủ ba. Cho nên, sinh cung kính. Y có mười thứ: Thông thâu tà chánh suốt đến thiên viên kia. Ba thứ trước cũng xưng là y. Khi đức Phật chưa xuất thế hết thảy ngoại đạo đều tự cho là xuất gia, đều tự lãnh chúng. Cho nên Đại kinh nói: Cõi nước vua cảnh thanh tịnh yên lặng thật là nơi nương của người xuất gia. Trong thứ ba nói: Lành bệnh rồi sinh là tuy đoạn sự hoặc mà trở lại đọa vào trong ba đường, đầy đủ như các Kiến bản kiếp v.v… đều chấp tứ thiền v.v… vì đoạn hoặc không đồng. A-hàm nói: Lương y có bốn:

  1. Khéo biết bệnh tướng.
  2. Biết nguyên nhân khởi bệnh.
  3. Khéo biết phương pháp trị.
  4. Rốt ráo không còn phát sinh.

Nhưng y đây biết bệnh không ngoài nội giới, biết nhân khởi bệnh không ngoài Y Chánh, phương pháp trị không vượt qua sinh diệt vô thường, không còn phát khởi, chỉ là trụ nơi hai thứ Niết-bàn. Vọng đây chỉ thành y thứ tư, năm. Nếu dùng bốn danh nghĩa thông các giáo thì mỗi một giáo tùy nghĩa đều riêng biệt, cho đến Viên giáo đối lý không ngăn ngại. Thẳng dẫn chứng đây sâu trái ý chỉ kinh, còn không thể đồng thông giáo Nhị thừa, sao có thể thí dụ Bản môn thường sinh diệt. Nếu giải thích Đại kinh hiểu tám thuật chỉ đối ngoại, tiểu đối đây vẫn là ít y thứ sáu không năng trị ắt sẽ chết, tức sở chứng đồng. Y thứ bảy Biệt giáo chỉ địa tiền thôi! Ba y sau đầu tiên nói không thể khiến bình phục, là chỉ tự nhập chưa sâu, chưa thể khiến người khác khiến bản pháp thân. Vô minh vốn có nghĩa như tổn, khiến trở lại được thế mới gọi là phục. Thứ chín, tuy mới được nói hậu tâm, do y thứ tám chỉ tại Thập tín, nên thứ chín về lý phải Sơ Trụ trở lên đến Kim Cang tâm. Thứ mười cứu cánh gọi là quá bản, đối trước gọi là phục cho nên đây nói “quá”, do y thứ chín bắt đầu từ Sơ trụ cuối đến Đẳng giác đã gọi là “phục”. Vì sao? Vì pháp thân vốn có nay khiến chứng bản cho nên gọi là phục. Nếu vậy Diệu giác lại hoàn tất thì sao gọi là quá? Do đối tánh đắc vô công dụng, cho nên tu gọi là quá. Nếu vậy Sơ trụ trở lên thì cũng gọi là “phần quá”, đâu riêng Diệu giác? Nói tàn hoặc còn hiện hữu gọi là phục, vả lại nhường cực địa cứu cánh gọi là quá.

Lại nữa trong bảy khách y: Người đầu và thứ hai vụng về độ bắt đầu đoạn sửa, cho nên không có xảo thuật. Người thứ ba, tư có thuật, dụng mà bất biến. Thứ ba không nói người Nhị thừa vì sở trị đồng. Thứ năm, sáu tuy khắp mà lợi ích không nhiều. Bảy người sau: Đối cực phân lược tiểu. “Có thuật…”: đối nhân hiển bày quả, cho nên dùng ba đạt năm nhãn làm tám. Sáu người trước đều không được, do nhượng Phật cho nên nói không. Hai khách y năm và sáu cũng là phần đắc. Nếu lìa tám đảo làm tám thuật thì bốn người trước có phần. Do hai khách y đầu cũng đắc vô thường v.v…, cho nên nói như dùng thuốc cay đắng…. Cho nên, trong Đại kinh tổng làm sáu vị: Khổ là vị rượu (tạc) chát, vô thường vị mặn, vô ngã vị đắng, lạc là vị ngọt, ngã là vị cay, thường làm vị nhạt. Trong thế gian kia có ba vị: Vô thường, khổ, vô ngã. Phiền não là củi, trí tuệ là lửa do đó nhân duyên ấy thành Niết-bàn thực, khiến các đệ tử đều say ngọt, chỉ Vô thường, Khổ, Vô ngã, ba vị ở Tiểu cho nên nói thế gian. Nay văn nói “tân”, e rằng lầm chữ, nên nói đắng chát mặn. “Có thuật xa đến”: tức trong bảy khách chỉ thứ bảy, do trong kinh này chỉ dùng Như Lai đối ngoại đạo kia làm tân cựu, cho nên biết tân y (thầy thuốc) ba đạt năm nhân đầy đủ, năng dụng vô thường… tám thứ. Do đó, “trước khiến đoạn sữa” dùng vô thường… “sau lại uống sữa” mới dùng thường…. Nay theo sau, nói “chỉ nói uống sữa”. Nếu chọn lấy nhân (người) cũng có thể thông nói. Khách y thứ năm, sáu.

Lại thông luận: Thông, Biệt Bồ-tát chuyển giáo Thanh văn đều năng nói thường. Nhưng tám thuật: Trong Kinh nêu thí dụ có tám lại trị tám thứ bệnh. Nay đây vả lại nêu tám số mà thôi! ba đạt: ba minh ở vị tột cùng cho nên được gọi là đạt. Lược như Chỉ Quán chép. Từ: “Mười hai” đến “phương dược”: Văn như “phương”, lý như “dược”. Dược thông Hành, Lý chỉ lại nói lý. Dưới giải thích sắc hương làm Tam Tam-muội và dùng Tam đức. Tam Tam-muội hành lý tam đức. Vô lượng nghĩa nói: Y vương, Đại y vương: Y thứ tám – chín thông được gọi là Vương, chỉ y thứ mười riêng gọi là Đại vương. “Nhiều các” đến “con Bồ-tát phàm có ba”: Lại để qua Nhị thừa, trước riêng chỉ Bồ-tát thông dùng người chưa Phát tâm làm đệ nhất nhị thừa, vẫn thu nhiếp trong nhị thừa thứ hai theo lệ, vì nhận lấy Nhị thừa thoái đại cho nên vậy. Trong Bồ-tát lại chia làm ba: Tu tánh ba nhân có ly hợp. Một là căn cứ tất cả chúng sinh tức trong Đại kinh nói chưa phát tâm gọi là Bồ-tát. Tuy trong thập tâm biệt đối ba nhân, đây tức tánh ba hợp thành chánh nhân.

Hỏi: Vì sao không chỉ thiện ác tâm sở cùng làm Chánh nhân ư?

Đáp: Thiện thuộc phát tâm, ác lại thuộc riêng biệt; thông thì nhiếp biệt, biệt không nhiếp thông, Cho nên, biết tâm thông cùng vương đồng thời mà khởi ắt đủ ba nhân; chỉ gọi là Chánh. Chưa có thiện căn thế gian xuất thế gian.

Căn cứ dưới duyên nhân nói vi tế tu hành, nên biết tùy nghe một câu một khoảnh khắc thiện đều là duyên nhân thâu tóm. Căn cứ dẫn chứng nói chúng sinh trong đó đều là con ta, thì thiện căn nhân thiên vẫn thuộc chánh nhân. Dẫn chứng duyên nhân nói ba mươi người con, thì Nhị thừa thiện căn cũng tại duyên nhân thu nhiếp. Nếu căn cứ ngay nay hợp khai nhân thiên cũng tại duyên số. Căn cứ đại cách Tiểu, nhị thừa không phải duyên, nay căn cứ thoái đại, nhượng được thọ ký, nhập vị Sơ trụ gọi là “Liễu”, quán hành tương tợ đều thâu nhập duyên… vì nhượng trước sau dùng Chánh theo bên. Cho nên, vị phát tâm trở về sau đến hết Trụ tiền đều gọi là “Duyên”. Lại đem Chánh nhân chỉ tại thập thông lẫn nhập làm trăm. Kết duyên tức là hội phát tâm, thì đã có Liễu nhân chỉ dùng Thập tín tương nhập làm số trăm, thông đều được thành thiện căn của trụ tiền, cho nên Thập tín tâm kia, kia tương nhập mới được thành trăm, do tam thừa thiện căn đều thành tương tợ, vẫn thâu năm phẩm đều nhập trong đó, sau được nhiếp thọ hiển thành phần chân. Cho nên, khiến duyên, chánh ngày nay nghe kinh tức dùng Thập tín trăm nhập vào Sơ trụ làm phần chân trăm.

“Từ miệng Phật sinh”: Ngày nay nghe giáo đắc Phật pháp phần nhập Sơ trụ. “Đây cũng có ba nhân” đến “liễu nhân Phật tử”, là đối với Duyên, Chánh thì trước nên chỉ nói Liễu. Lại nói “cũng”: hai loại trước đều có ba cho nên nay cũng ba. Từ gượng thọ danh đều lược ba từ một. Sở dĩ lược: là vì Chúng sinh từ vô thủy đều đầy đủ ba, do tại mê cho nên theo lý lập danh cho nên trong lý ba đều là mê nhiếp, theo Duyên theo Liễu căn cứ theo lệ có thể biết. “Trở lại đem…”: Nhiếp trước nhập sau, đã nhiếp Thông nhập Tín, cho nên nhiếp Tín nhập Trụ, đổi tương tợ thành chân cho nên cũng chỉ một trăm, chuyển băng làm nước nghĩa kia có thể biết, tu tánh ba nhân thì Huyền Văn, Chỉ quán đều có ý đây. Chỉ trong văn đây văn tướng hiển rõ vì muốn hướng về xưa, sức nghe kinh rất lớn nên lược ba tánh đều làm chánh nhân. Duyên liễu đều hợp, đều gọi là Nhất, cho nên biết các văn căn cứ tu để nói. Duyên liễu đều có ba. Hoặc chỉ luận lý tánh đầu cuối đầy đủ ba, như nói ba đạo ba đức ba Phật tánh… đầy đủ như Tu tánh Bất nhị môn nói. Chín môn cọng thành mới rõ ý chỉ đây. Nếu hiểu được ý này Viên, Giáo, Hạnh, Lý xương mắt tự thành, da thịt lông tóc xuất tại các điển (Kinh). Cho nên biết kinh đây là ghi chép giáo lý đại cương không thể dùng cương mục giải thích. Nếu hiểu được ý này thì ý chỉ giáo lý một nhà, lý đại có thể thông. Muốn tập quán môn tu hành hữu địa, nghe nói các việc quái lạ, tình nghĩ thản nhiên xem các quyền kinh, chú tâm không lầm, dung thông danh tướng thông suốt không nghi pháp số tăng giảm ly hiệp có thể thấy, cùng đoạt lấy giải thích khác khiến trở về đường lớn, do trước ba giáo không có việc đây.

“Uyển chuyển vu địa” (lăn lộn trên đất): Đối với pháp xuất thế cho nên lại nói “địa”. Ví như bên trên nói lợi ích của hình, trong văn thiếu lược, lẽ ra nói trên có hai:

  1. Phi sinh hiện sinh.
  2. Phi diệt hiện diệt.

Trong sinh có hai: Nói “thọ nhận tà sư…”: Chỉ phi xuất thế đều gọi là “tà”, tự mình trong tích gặp nhau rồi sau liền tin tà ngoại, do tin tà dày mỏng không đồng, đến nổi có mất, cùng không mất. Đều nói mất tam thừa, là do trong Tích gặp nhau thi hóa không đồng, đầy đủ như trong Tích cả hai Đại Tiểu bắt đầu thành thục đều một. “Không mất bản tâm”: Xướng sinh mà thành thục. “Mất bản tâm”: Xướng diệt cao đợi kỳ sau. Cho nên, xướng sinh diệt chẳng thật sinh diệt. “Thiên mạnh…” giải thích lại xướng sinh, duyên của xướng diệt. Nói “mạnh yếu”: Ở vị lai đoạn gián đoạn cách chủng đời trước xa, hiện tại khó phát gọi là ác mạnh, thiện mạnh căn cứ đây. “Xa thấy”: Đã chướng ngăn Ngũ phần cho nên cùng Ngũ phần Phật thành xa. Thí dụ lợi ích của hình bên trên nói: Hai đế, lẽ ra nói nói ba đế, hai thông ba biệt, lại bỏ biệt theo thông tức hai đế trong đốn. Thí dụ khuyên răn nói: Như trong ba chu dự định dùng Đại thích nghi. Dược thảo danh thông nghĩa hảo (tốt) không hạn cuộc, cho nên khiến tiệm đốn đều gọi là “kinh phương”, đều là hảo.

Từ “Phật xuất Tu-đa-la”: Căn cứ năm vị tương sinh nói từ mươi hai bộ, xuất Tu-đa-la cho đến Niết-bàn, theo nhân theo thời tương sinh để nói. Nên biết năm vị đều từ Phật xuất, nay để qua đốn theo tiệm đó thôi. “Sắc hương…”: Tiệm đốn thông đều đầy đủ giới định tuệ, giới thô, định tế, hương không thể thấy, hương có thể xa biết, vị đến gần mới biết được. Như tuệ đến lý mới gọi là đắc. Giới định tuệ đây tức tám chánh đạo: Ngữ, nghiệp mạng là giới, chánh định là định, còn lại là tuệ. Nay văn từ biệt vả lại thuộc vô tác, văn tuy lại biệt nghĩa kia thì thông. Đã là sắc hương dược thảo, dược thảo đã thông sắc hương thì đâu hạn cuộc. Nay nói “Kiến Phật tánh và đối ba đức” là từ đâu mà nói? Đầu hợp đốn cho nên ý tại Nhất thật. Chỉ tên ba đức còn thông ngoại chấp huống chi thiên tiểu ư! Đầy đủ như Chỉ Quán Đại tiểu sáu nghĩa và dùng Viên ba.

“Nói tam thừa không…”: Tiếp nêu tâm pháp thuốc, uống trong Tiệm tuy đầy đủ giới… và dùng ba đức, ắt nhờ Không… mới năng hành. Cho nên nhất nhất Tam-muội đầy đủ giới định tuệ. Giới v.v… trong đốn đối với căn cơ, trong tiệm như dược (thuốc) chưa giả nên không chịu uống, tuy giả mà chưa phân liều như chấp Không tướng, tuy liều lượng mà chưa hợp là còn chấp tạo tác. Cho nên ba thứ đầy đủ uống mới trị nhanh. Không, Giả, Trung, ba thứ căn cứ đây có thể biết. Tuy hợp tiệm đốn vốn tại Thật thừa, đầy đủ như trong Chỉ Quán giải thích đạo phẩm, trong Tam-muội Không của Viên sau đầy đủ tất cả pháp tức là việc kia vậy. Cho nên nêu cộng biệt hai tướng để nhiếp đốn tiệm. Thứ đệ nhất tâm căn cứ theo lệ có thể biết. “Dự định thích nghi…”: Kinh nói sẽ thiết lập phương tiện, sẽ tức là dự định. Lưu kinh giáo, như phó pháp tạng, hoặc lấy trong Niết-bàn…: Kinh khác nói: Hoặc lấy tiếng lớn hoặc dụng thần thông… như sau khi đức Phật Niết-bàn, Kim quang Phật tự dạo ra vào bốn cửa thành… khiến tất cả mọi người đều biết Phật đã diệt độ, xá lợi, Kinh quyển ý cũng như vậy. Tuy các giải thích không đồng nhưng đều là một lý, cuối cùng không bằng dùng Tứ y làm sứ giả. “Như Cúcđa”: Cúc-đa là Tứ y, sau khi Phật diệt độ đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 5 nói. “Như Di Giáo…”: Sau khi Phật diệt độ đắc độ không đồng, chánh ở đương lai trở lại thấy Đức Thích-ca. “Cũng có…”: Chẳng riêng đức Thích-ca. Cũng có những người chẳng riêng Đức Thích-ca cho nên dẫn kinh Phổ Hiền Quán. “Kiến Đa Bảo….”: Nhân sám hối thấy cùng gặp có gì sai khác.

“Cha nghe các con đều được lành bệnh”: Nói được lành không phải là hoàn toàn đoạn hoặc, chỉ có tam thừa cơ duyên và khả năng hội nhập thì không luận đoạn cùng không đoạn đều gọi là được lành. “Thường ở núi Linh Sơn” là báo độ, nếu căn cứ các nước khác chỉ cõi hữu dư thì báo độ phải chỉ tha thọ dụng. Căn cứ nói “thường ở” tức thuộc (cõi) tự thọ dụng độ. Nếu căn cứ tụng văn nói “bảo trang nghiêm” thì chẳng phải tự cõi mình tức cõi Tha ở thời bản. Như trong Hoa Nghiêm phần nhiều nêu Tha thọ dụng, Tức nghĩa các nước ở bên trên là chỉ văn trên nói ta ở các nước khác. Đây lại chỉ ở ngoài báo độ, thông thì cũng biến mười phương hoặc tịnh hoặc uế. “Có tu các công đức…”: tức chỉ Duyên Liễu đầy đủ – Kinh nói “đều thấy thân ta” là cõi thật báo. Kinh nói: “Hoặc khi vì chúng đây…”: Cũng là Sơ địa Sơ trụ. Kinh nói: “Lâu mới thấy Phật”: Tức chỉ ngũ trước nặng. Kinh nói: “Trí lực ta như vậy”: Là tổng kết đại thế lực.

GIẢI THÍCH PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

Phẩm này có đầy đủ thọ ký, lãnh giải và lưu thông. Phân biệt thuộc thọ ký, từ đầu để nói cho nên gọi Phân biệt. Hai đời: Địa dũng quá khứ, Linh sơn hiện tại. Nói “công đức”: Nêu ra để phân phán. “Văn đây”…: Nếu căn cứ công đức nghe Kinh chỉ thuộc phần còn sót lại, nay căn cứ nói sẽ đắc tức lại đồng thọ ký. Luận về pháp lực có năm, trong năm dẫn ba văn trước chứng ý phẩm này còn lại hai bên đến sau. “Pháp”: Do pháp mà thành nên gọi là pháp lực. “Chứng”: Sáu trăm tám mươi vạn ức cho đến Nhất sinh. “Tín”: Tám thế giới. “Cúng dường”: Nói là khi Bồ-tát đắc đại pháp lợi ở trong hư không trời mưa hoa… cho đến đọc tụng trì… đều là “hành”. Lại do chân nhân pháp thành gọi là pháp lực.

Giải thích “tăng đạo tổn sinh”, ý Quang Trạch dùng từ sơ đến trung thiên nêu hành tiến làm công đức môn. Tám đời đến một đời căn cứ tổn sinh làm trí tuệ môn, tám giới (cõi) làm ngoại phàm chưa có tiến tổn. “Xét thọ ký…”: Quang Trạch giải thích xuất hướng lai ba ý, trong đó trước tổng dùng thông biệt phân phán, thông tại nhân quả tổng gọi là thọ ký cho nên thông chọn ba văn, nhân phát tâm khắc được quả. “Cho nên phát tâm…”: thông đều chắc chắn quả. Tiếp dưới tám giới giải thích thứ lớp xuất ý. Sở dĩ hồi Kinh văn là từ cạn đến sâu cho nên như vậy, tức Ngoại phàm nhập Nội phàm làm phát tâm môn. Tiếp từ Nội phàm nhập Sơ địa cho đến Lục địa làm tăng đạo môn. Từ tiểu thiên trở đi làm tổn sinh môn. Trong tổn sinh môn chính từ Thất địa trở lên Thập địa, mỗi một vị đều đoạn thượng, hạ hai phẩm, một phẩm Đẳng giác hiệp làm chín phẩm, tức dùng tám đời đối tám phẩm trước.

Tiếp Pháp Hoa luận: Luận nói: Trong phẩm Di-lặc có bốn thứ môn:

  1. Chứng.
  2. Tín.
  3. Cúng dường đều tại phẩm này.
  4. Nghe pháp, chỉ tại phẩm Tùy Hỷ.

Văn đầu đầy đủ như văn nay. Tiếp Tín: “Tám thế giới…”, nay cho là luận trước sâu, sau cạn… nay bình luận dùng Vô sinh nhẫn làm Sơ địa. Tám đời đến một đời làm Địa tiền cho nên nói trước sâu, sau cạn. Ngài Quang Trạch dùng sơ địa làm Vô sinh nhẫn, chỉ dùng tám đời cho đến một đời làm Kim Cang tâm, vì khác cho nên thành trước cạn sau sâu, hai nhà trái nhau từ xưa không phân phán. “Xét vô sinh…”: Sư nay muốn giải thích trước trải quả bốn giáo định nơi vị thứ kia, mới biết hai giải thích đều không xứng hợp với Kinh. Cho nên kết nói: Đều là văn Thánh giáo nêu rõ văn không thể lầm lẫn. Quang Trạch chưa tương đương Tín không còn nghi, luận chủ Thiên Thân đâu luống uổng công như vậy, chỉ sợ người dịch quanh co hợp tình riêng, như Nhiếp luận, Thức phân thành tám, chín và Bà-sa mười sáu chữ, đều tiến thoái tại người đâu liên quan Thánh chỉ huống chi Quang Trạch giải thích thẳng nói địa không phân biệt giáo tướng. Mặc dù phân hoặc phẩm mà nghĩa không chỗ trở về. “Lại Tịnh Danh…” đến “ý thông”: không thể định dùng, cần phải phế bỏ thông theo biệt; không thể dùng Vô đẳng đẳng có nghĩa Vô sinh nhẫn mà giải thích Vô sinh này. Vì Vô sinh này quyết định ở Sơ trụ, không thể kiến Kim Cang đảnh có tên Phục nhẫn, phân biệt làm tám giới, do Phục vị định tại Trụ tiền. Cho nên, gọi là thông không thể biệt đối. “Nay đối Vô sinh” trở đi: nói rõ Tăng tổn môn không thể phân cách. Nên biết tăng đạo không phải không có tổn sinh, tổn sinh nhất định có tăng đạo, đâu có thể phân nói Lục địa trước sau hai văn cố định ư! Lại không thể dùng Vô sinh ở sơ địa trở đi, huống đem tám đời… đoạt lấy Địa tiền trước, cho nên hai nhà đều mất đại chỉ của kinh. Từ “Tức Quang Trạch” trở đi: đem ý Sư nay sử dụng phê phán Quang Trạch, vì thuộc ba nghĩa: Địa tiền ba, Sơ địa thành Biệt, sơ địa đến Lục địa thành Thông, Thất địa trở lên thành Biệt tiếp Thông, Thông không đoạn vô minh, cho nên không phải thông. Biệt giáo Sơ địa tức đoạn vô minh, cho nên không phải Biệt. Cho nên đến Thất địa vô minh thì chấp nhận thuộc Biệt tiếp, vẫn phải chánh nói chín phẩm Biệt hoặc, nên bị tiếp, là thượng căn Thất địa, tức phá một phẩm hai phẩm huống lại không có văn phẩm phân thượng hạ, nghĩa liên quan ba văn cho nên nói du dưỡng (tràn lan). Đầu nói Quang Trạch do phát tâm làm nội phàm ba mươi tâm, đã như trước liệt. Trước nói trụ ba mươi tâm, nay làm, làm chỉ là tạo tác nói, chỉ là nội phàm làm Sơ địa. Hai ý còn lại có thể biết.

Luận văn đã dùng địa tiền địa thượng tương đối thì nhất hướng chuyên phán xét nghĩa Biệt, nay phân làm ba: Chỉ hợp có hai thêm Kinh gia trình bày. Lời Phật viên diệu: Chỉ bản tích hai môn cho nên đắc đạo thật. “Cho nên văn trên…”: là giải thích Bản tích hai môn. Cho nên Nhân Vương thập thiện Bồ-tát là đây nêu Thập tín, tín tín đều thông đầy đủ thập thiện, chẳng phải chuyên lấy Nhân Thiên không sát đạo…, dùng đối với Thập tín. Đã nói từ lâu Viên ở tam giới khổ luân, là trải qua vị Tín. Có người nói từ lâu Viên ở tam giới khổ hải, không thể đem phân phán vị Trụ Hành, Hướng. Nên biết phải là Thập tín, đoạn hoặc tự chẳng phải nhà nay chuẩn theo văn Pháp Hoa; phán vì Pháp Sư Công đức sáu căn lẫn dùng, vì vị thập tín mà làm nội phàm, đối trước Thập tín dùng cuối phẩm Phân Biệt Công Đức nói sau khi Như Lai diệt độ trở xuống văn lập năm phẩm vị làm ngoại phạm, đâu thể phán Thập tín đoạn tam giới khổ! Ý kinh Nhân Vương do đâu có thể hiểu rõ. Nếu không như vậy thì làm sao có thể phân biệt Hoa Nghiêm sơ trụ làm Thánh vị ư! Nếu phán theo văn Hoa Nghiêm nói Thập phạm hạnh, dùng công Thập tín tâm ngang bằng vị tột cùng lại thành thái quá. Sơ trụ thuộc Thánh Thập tín làm sao chẳng phải nội phàm ư? Đây cùng Địa tiền phục hoặc Sơ địa Kiến đạo vĩnh viễn không liên quan nhau. Vì vậy nay dùng ý Viên để hiểu rõ văn, đều dẫn Kinh mà làm chứng cứ. Cho nên Lục tức phán vị, lý không thể mất. Thập hạnh bất tư nghì giả. Lại đối văn trì nhạo thuyết và xoay vần đối vị giải thích, khiến cùng vị tương ưng. “Nếu luận…”: là đối phá Quang Trạch và dùng luận văn, cặp đầu tiên nêu hai môn. “Không như…”: phá, chỉ phá tổn sinh môn. Cũng lại nên phá hai nhà tăng đạo, vì sao? Vì luận dùng địa tiền làm tổn sinh thì không tăng đạo. Quang Trạch dùng Thất địa trở lên làm tổn sinh đâu được không tăng đạo ư? Huống chi Quang Trạch chỉ nói tám phẩm tổn sinh. Nói nhân mà mất quả, luận gia chỉ tại phân đoạn thì đều mất ngoại giới Biến dịch nhân quả.

Từ “Chỉ căn cứ…”: tức là ý nay, chỉ căn cứ Trí, Đoạn tương đối để nêu tăng tổn. “Căn cứ pháp thân…”: giải thích hướng tăng tổn. “Nguyệt dụ”: căn cứ đây biết. Cho nên người khác không hiểu thấy nói có giảm sinh phê phán làm tổn sinh; thấy có nói văn trì v.v… bèn phê phán, thuộc tăng đạo. Cho nên, nay chỉ từ “phá vô minh” trở đi, trong mỗi một vị đều một tăng tổn cho nên nói không đồng. Nói “Tám phen”: Lại nương từ tám đời để phá xưa chấp, đầy đủ nên từ vô sinh trở đi. Nói thế và niệm… để vượt qua nhiều vị và dùng tám vị không thể liền nói bốn mươi hai niệm…, cho nên nương vị sau luận đàm. Kinh văn tuy lược mà căn cứ vị ắt có tám, trong văn một phen bỏ qua, tuy từ địa phân phán, nhưng siêu vượt qua người tăng tổn không định. Cho nên nói “Tám đời…”, đầy đủ như trong văn thuộc đối. Đây tức chánh phá nhân sinh, quả sinh, văn đây nơi nơi không trái luận văn chỉ lưu phần còn lại Tu-đa-la nửa phẩm nhập Chánh, và đây thọ ký hoàn toàn không dùng. Cho nên biết phàm có chọn bỏ đều không uổng công. Nhưng các luận văn nói Vô sinh nhẫn phần nhiều nói ở Sơ địa, chỉ Hoa Nghiêm khởi Tín rõ ràng nêu văn tám tướng Thập trụ. Nói “số gấp bội”: Chẳng phải cho là một bội, một phen bỏ qua nói vậy. “Nhặt nhạnh” là chỉ văn Niết-bàn, Niết-bàn tự chỉ tám ngàn Thanh văn ở trong Pháp Hoa đắc thọ ký biệt, như thu thâu đông tàng lại không còn tạo tác, cho nên biết thâu hoạch lớn phải tại Pháp Hoa. Như trong Đại kinh chúng đắc đạo, như cuối phẩm Phạm Hạnh nói: Nước Ma-già có vô lượng người phát Bồ đề tâm, đến cuối phẩm Trần-như có mười ngàn Bồ-tát đắc Nhất Sinh thật tướng, năm vạn Bồtát đắc Nhị sinh pháp giới, hai vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Tất cánh trí, ba vạn năm ngàn Bồ-tát ngộ đệ Nhất nghĩa, bốn vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Hư không Tam-muội, năm vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Bất thoái nhẫn, cũng gọi là Pháp nhẫn, sáu vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Đà-la-ni, bảy vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Sư tử hống Tam-muội, tám vạn năm ngàn Bồ-tát đắc bình đẳng Tam-muội, Bồ-đề tâm và Nhị thừa tâm, mỗi vị đều nói vô lượng hằng sa lời tán tụng. Hai vạn ức người hiện chuyển thân nữ.

Tám tiết trước văn bắt đầu từ “Nhất sinh” cuối đến “bình đẳng” đều chẳng phải địa tiền, tuy sâu tuy nhiều nhưng nếu so sánh kinh này thì tứ thiên hạ vi trần và Đại thiên vi trần che phủ cũng không đủ nói. Nay kinh Chánh tông ba chu và do bản môn được lợi ích đều không đồng với các kinh huống chi trong phần lưu thông từ phẩm Dược Vương trở xuống sáu phẩm, trong mỗi một phẩm đều có kết người đắc đạo, đều quá tám vạn. Trong phẩm Khuyến Phát đều có số người như vi trần khắp đại thiên giới đủ Phổ Hiền đạo cho nên biết nhặt nhạnh phần còn lại của kinh này. Tuy nhiên, trước lúc ấy văn quyền của các vị là phương tiện của kinh này, sau lúc ấy Niết-bàn thu nhặt cơ của kinh này, cho đến phò luật nêu nhất thừa thường trú, đắc một chút ý chỉ kinh này hành một câu pháp, đều là pháp giới. Mười phương Phật pháp khởi bình đẳng kiến mà thường phân biệt chư Phật hóa nghi mới xứng ý chỉ nhất thừa của kinh này. Nên tư duy chúng con nương ở nơi nào mới xứng tướng hoằng tuyên kinh này.

“Trên Tích môn Bồ-tát”…: Căn cứ trên khai chương trong đó chánh đương đoạn lãnh giải, trước phân biệt môn tức là đoạn thứ hai thọ ký. Sở dĩ Tích môn tuy thọ ký nhị thừa, mà ý chỉ Phật chưa cùng khắp, thâu nhiếp cơ chưa tận cho nên các Bồ-tát chưa trình bày lãnh giải, nay dùng cúng dường mà tiêu biểu lãnh giải. Cho nên, trong Tích môn chư thiên lãnh giải cũng trình bày cúng dường. Các hàng Thanh-văn từ lâu tu tự hành chỉ thẳng lãnh giải mà không cúng dường, nghe bản môn rồi cùng các Bồ-tát đồng trình bày cúng dường tiêu biểu lãnh giải. Vì nghe bản sau tu hạnh nguyện yếu đều thành Bồ-tát đồng hiến cúng dường tùy vị hạnh mà lấy sự cúng dường làm tiêu biểu; cho nên nói “thứ tự và từng phen…”: biệt lập phẩm mục. Vì vậy cho nên trong văn dùng trình bày cúng dường tiêu biểu giải thích. Nam sư từ đây làm lưu thông, ý dùng bốn tín đệ tử Tín giải công đức cũng thuộc lưu thông, không cần đến năm phẩm sau diệt độ. “Văn-thù…”: Như sau tích môn Văn-thù vào biển giáo thông kinh, đâu hẳn sau khi Phật diệt độ ư! Cho nên tiến thoái hai cách đều có thể theo dùng. Căn cứ ý văn đây, sau ba chu Văn-thù mới bắt đầu vào biển giáo hóa nghĩa cũng chưa thất (lỗi), chỉ sự Bồ-tát tích không thể nghĩ bàn, chớ có dùng phàm tình mà bàn luận so sánh. Đã như trước nói, huống chi căn cứ Tích môn không lãnh giải, thọ ký sau còn thuộc chánh, cho nên Nam phương phẩm quả đầu. Lại dùng năm phẩm đối nơi tương tợ nói một phen xưa. Phân quả viễn quả vẫn phải chỉ sau như trên nói chỉ văn thọ ký.

“Thế nào là tứ tín?” Hỏi gồm hai ý:

  1. Vì sao chỉ lập số bốn?
  2. Vì sao bốn đều gọi là tín?

Lược giải thích! Bốn người thông gọi là tín thì hai nghĩa đều thành, nhiếp năm thành bốn không cần đến năm. Lại danh từ đầu đắc cho nên đều gọi là tín. Lược giải ba người: Bỏ Thông theo Biệt thì thọ Biệt danh, rộng và quán thành ắt có lược cho nên lược thông ba người chỉ trừ sơ tín, đầu không có giải. Rộng nói hai người trừ lược giải là rộng hạn cuộc thứ ba không thông hai trước; quán thành một người lại trừ rộng giải không thông ba người còn lại, trừ tín một việc còn lại không thông bốn, chỉ tín giải bốn gọi là Tứ tín. Nếu nhất niệm tín giải chưa có ba thứ dưới thì chính là hạn cục nhất của sơ tín, lược đủ sơ tín rộng đủ sơ nhị quán ắt đủ ba, cho nên ở sau dần rộng. Chỉ càng về sau càng hơn ở trước cho nên trở thành ở sau hạn cục.

“Nhất niệm tín giải”: Tức là đứng đầu trong bản môn lập hạnh cho nên văn hơi nương theo. Trong đó có mười phần khiến văn có thể thấy:

  1. Tổng nêu đại cương kia.
  2. “Nghĩa là tùy…”: nêu lực tín giải.
  3. “Lại tin…”: nêu tướng trạng tín giải.
  4. “Cũng là…”: dùng sự giải thích thành.
  5. “Vô sở hữu…”: dùng ý tam đế kết.
  6. “Như môn…”: nêu thí dụ.
  7. Nêu lục căn hợp thí.
  8. “Không nghi…”: giải thích danh.
  9. “Nếu ngồi…”: gia hạnh.
  10. “Như vậy…”: phân biệt vị.

Muốn khiến ý chỉ văn dễ thấy, vả lại chia làm mười. Tóm lại mà nói chỉ là tín thành. Đầu tổng nêu có thể thấy. Tiếp văn: Nghe nơi trường viễn khai thông không ngại, tin tất cả pháp đều là Phật pháp. Lại tin Như Lai hóa công lâu dài, người này năng biết bản tích diệu lý là Phật bản chứng. Nếu chỉ là chỉ tin viễn thọ trong sự thì đâu có thể khiến các Bồ-tát đây… tăng đạo tổn sinh đến nói địa vị cùng cực, cho nên tín giải bản địa khó nghĩ bàn cảnh trí, tín tâm sơ chuyển tự tại vô ngại mới gọi là lực, còn năng tăng tiến cho đến một đời, huống tín lực ư! “Quải” là ngại cũng là tướng trạng ngăn ngại vậy. Tự hiểu tâm mình ứng với tướng đây mới gọi là “tín thành”. Giải thích “thành”: Nghĩa là năng đạt chín giới phi đạo thuần dụng diệu đạo Phật pháp giới. “Kết”: Năng tín sở tín sở tín hoặc Bản hoặc Tích đều là tam đế. Ví dụ tấm màn, tiếng từ giữa xé lụa. Hợp thí: Nhân nơi nghe thọ mạng thông đạt tất cả, phàm có chỗ đối đều là Phật pháp. Giải thích “danh”: có thể biết, gia hạnh khiến tín tăng tấn. Trước là tín hành đây là pháp hành, hai hành tuy khác mà sở tín không hai. “Phán vị”: Hiển bày quán cảnh càng sâu, thật vị càng chắc.

Đáp ý: Năm đắc Bát-nhã gọi là Ba-la-mật, vì sao trừ Bát-nhã vẫn được gọi là Ba-la-mật? Đây dịch Độ ngạn, nếu đắc Bát-nhã mới gọi là “độ”.

Trong Hỏi, trước đáp, tiếp kết bày. Trước đáp ý: Như người Biệt giáo đều từ nơi năm, mà tận các biên kia cũng được gọi là “độ”, cho nên lại dùng thứ tự năm so sánh lượng bản, nhưng Bát-nhã danh thông. Trong đây thì hạn cuộc, cho nên dùng Bản môn chánh tuệ so với năm thứ tự quyền đây. Cho nên nay Bát-nhã tức là tướng hiểu tin sâu chắc làm năng giảo lượng (so sánh).

Hỏi: Trong thứ tư tự có Bát-nhã lại đồng so sánh làm sao trừ?

Đáp: Dọc Trung, Không, Giả Bát-nhã có thể làm đối tượng so sánh, trung chứng không khác danh đồng thể đồng cho nên có liên quan. Nói “giới thí biên”, biên là tiêu biểu biên hạn, kỳ vọng tâm xuất giả gọi là tận biên, cho nên Thập hướng hậu tâm gọi là Giả biên trừ bỏ.

Vị hạnh Bất thoái: Văn phán định bốn tín đắc mười tín cho nên Sơ tín đến thất tín làm Vị Bất thoái, Bát tín trở đi là Hạnh Bất thoái. Thất tâm tất thoái tức là Thất trụ Biệt giáo, kiến tư đều trừ gọi là Vị Bất thoái, cho nên nêu Tín vị vọng Trụ làm dưới. Nay nói Sơ Trụ hoặc sợ lầm chữ nên nói Sơ tín. Cho nên, văn nói viên đốn tín giải tự trong mà huân… Hoặc sợ dư chữ, có bản không có chữ Trụ đây chỉ nói Sơ tâm; hoặc dùng năm phẩm ở trước thập tín nên Viên Sơ tín tức Bất thoái. Có người nói: Nghe thọ mạng lâu dài tức là Bát-nhã, không thể dùng Bátnhã trở lại so sánh Bát-nhã. Nay hỏi trong lục độ đâu được có Bát-nhã trường thọ, vì vậy cho nên biết đối trong Tín tâm, tin nơi bản địa viên môn diệu trí. Còn không cùng tích môn Viên quán lục căn vị đồng, thì đâu cùng Biệt giáo ngũ độ đồng ư! Huống tại Tạng Thông lục độ hành ư! Còn không cùng độ thứ sáu của Tam giáo đồng, huống cùng trước ba độ trước năm độ trước đồng! “Đại Phẩm nói có Bồ-tát…”: Ý nêu Biệt giáo Bồ-tát thoái chỉ có ma, Bất thoái không có ma, Viên giáo sơ tâm ma không được thuận tiện phá huống là vị Bất thoái! Hoặc Sơ trụ bỏ từng phần phá tám ma cho nên được gọi là không có. Do năng tức ma làm pháp giới. Xướng tên Lăng-nghiêm, ma còn bị trói buộc huống chi người tu quán, huống chi người tự chứng ma có thể làm cho thoái lui ư? Biết người bắt đầu năm phẩm của Viên thì ma đã tránh xa. Kinh nói: “Nguyện cho con ở đời vị lai…”: Đã nói khởi thệ, chỉ là nghe thọ nguyện sẽ đồng.

Hỏi: Cận thành thì không có nghĩa lâu dài có thể nói, sao được đều nói cũng lại như vậy ư?

Đáp: Nói như vậy: Nghĩa là nói thường thọ, nếu được thường thọ tận đời vị lai ắt sẽ quá đây, đâu chỉ như vậy. Nay từ thật đến cho nên lại nêu như vậy chấp nhận. Đầy đủ tại Huyền Văn quá giảm không đồng.

Kinh nói “thâm tâm..”: Đây đối bản địa viên môn vẫn đủ năm pháp mới gọi là đoạn nghi:

  1. Nghe xa sinh tín.
  2. Thâm tâm (tin sâu).
  3. Trực tâm (tâm ngay thẳng).
  4. Tâm nghe nhiều.
  5. Vì người nói.

Có người đối việc đây rộng dẫn các văn để giải thích “đa văn (nghe nhiều)”; ở đây, nghĩa đó không cần thiết Vì sao? Trước vì đã nghe viễn bản, tiếp nhập thâm tâm và dùng trực tâm. “Sinh nơi đa văn” mới là nghĩa “đa văn” trong đây. “Thâm” là cùng lý Bất nhị, “trực” là từ đầu đến cuối một đường lối, lấy đây mà quán mỗi một câu nghĩa đều là “đa văn”.

Quán thành trong đó nói tưởng, thành tương khởi, lý đầy đủ tướng đây y lý khởi tưởng, cho nên tưởng đây thành thuận tiện thấy tướng đây. Từ đầu tu tập quán chỉ đắc tưởng danh, quán hành cạn nên vẫn thuận tướng, cho nên lại thuận lý, nên lý tướng mới hiện, các giáo tu quán, quán trái với lý. Dù có khí phần mà không thuận lý Trung đạo, phương tiện quán thành còn gọi là “tưởng”, huống chưa thành ư! Lại thấy tướng đây tuy chưa chân thật chứng, vì quán lực cho nên tạm thấy hai cõi. Nếu tam hoặc phân diệt thì mới vĩnh viễn cùng tương ứng, bèn không gọi là tưởng. Căn cứ trước trong giải thích tứ Tất-đàn, Đẳng giác, Đệ nhất nghĩa còn thông gọi là tưởng. Cõi Hữu dư Đại tiểu cùng chung: Tạng thông nhị thừa đoạn thông hoặc: Nhưng bản làm danh căn cứ kia mà thấy. Thuần các Bồ-tát làm báo độ: Cũng tha thọ dụng, chỉ nương tưởng đây dần dần sâu, dần dần thành, nhập vị Sơ trú tùy vận dụng khắp thấy, ứng dụng vô phương.

Hỏi: Xứng lý khởi tưởng đâu cần tưởng cõi chỉ quán nhất niệm diệu lý liền đủ ư?

Đáp: Hai giáo sơ tâm đều diệt ấm nhập, huống lại cõi ư? Biệt giáo sơ tâm cũng lại phá ấm hậu tâm năng thấy lưới cõi trời.

Chỉ có Viên tức quán nhất niệm, tam thiên tam đế đầy đủ, vậy thì nhất tâm nhất thiết tâm, nhất thân nhất thiết thân, nhất cõi nhất thiết cõi, nhất niệm đều quán hoặc “thân, tâm, cõi”, hoặc “Không, Giả, Trung”, lại không trước sau, cho nên khi quán thành nhất tâm thấy nhất thiết tâm, nhất thân thấy nhất thiết thân, nhất cõi thấy nhất thiết cõi, mười phương chư Phật hiện trong thân, cho nên trong tự tâm thường tịch quang, thấy khắp mười phương hết thảy thân cõi. Nếu chỉ quán các cõi Giá-na, thì ắt mê tự cảnh. Nếu hiểu tâm cảnh thì tự tức là tha, tha tức tự. Không hiểu cảnh đây tự còn thành tha, huống chi quán tha ư! Quán cõi đã vậy, thân Phật tâm như vậy, nên nghe trường thọ cần phải hiểu rõ tông chỉ. Cho nên biết danh tướng, danh đồng thể khác, nên bản môn nghe thọ lợi ích gấp bội các Kinh, bởi do sự nghe khác thường.

Tiếp giải thích diệt hậu năm phẩm, đầu tiên nói sau phẩm Tùy Hỷ so sánh phẩm đầu, đây là thấy sâu, tác Pháp Sư xưa nghe danh tại ba không tại năm, Sư tùy lợi tha cho nên trừ hai phẩm. Căn cứ phẩm Pháp Sư đọc tụng cũng được thông gọi là Pháp Sư, chỉ văn ý trong đây giúp lý cho nên như vậy. “Chỉ Kinh văn” đến “không cần phải an sinh thân Xá-lợi”: Đại giáo sở thuyên là pháp thân thật tướng. Trong trú xứ ở kinh có Pháp thân xá lợi. Lại là xây tháp, kinh văn năng thuyên như tháp năng thạnh.

“Hỏi: Nếu vậy…”: Nếu không cần sự tháp và sắc thân cốt, cũng lẽ ra không cần trì sự giới, cho đến không cần cúng dường sự tăng ư?

Đáp: ý có:

  1. Trái hỏi đáp tức chỉ phẩm đầu chưa thể nhập sự, cho nên lại y lý lấy làm Xá lợi lấy Kinh làm tháp.
  2. Thuận hỏi đáp tức năng trì được hai thiên đầu. Nếu vậy thì đây cũng chỉ thành trái vấn đáp.

Vì sao? Vì trì hai thiên đầu chỉ thành hai phẩm đầu, vì thế không nên dùng năng trì ba phẩm của thiên dưới làm nạn vấn. Các người tu Viên hạnh thỉnh xem văn đây. Nếu người ở hai phẩm đầu hai sơ tâm niệm niệm thường tại bốn thứ Tam-muội thì chấp nhận các pháp ở ba phẩm dưới ít trái đến ba phẩm dưới chỉ tác hai trì chúng biệt hai hành chút hào ly không phạm, đầy đủ như trong Chỉ Quán. Trì giới thanh tịnh, còn phải sự lý song mỹ mới kham hướng đạo, huống chi người nhập đạo khiến sự thiếu ư! Nếu chưa chuyên bốn thứ Tam-muội, năm thiên bảy tụ Bồ-tát trọng khinh không thể vi phạm, mới xứng một kỳ giáo môn đại chỉ. Vì sao vậy? Vì xuất gia Bồ-tát kiên trì đầy đủ Tỳ-ni thiên tụ, tất cả Đại thừa giáo ý đều như vậy. Chỉ thiên tụ hộ trì ở Phạm Võng tám vạn luật nghi, chưa vì trì tướng, chỉ cõi đây khí yếu lại dùng Tiểu kiểm trợ thành Đại nghi vẫn hiểu khai, giá khinh trọng duyên thể chế, duyên thể chế chuyên tiệm đốn xả nghĩa có không. Tọa (ngồi) tiếp phân lưu sám pháp cách trời vực. Lại có bảy chúng đồng, không đồng. Đại tiểu cộng biệt, mới đối tự hành lượng phẩm vị mình, chọn bỏ thích hợp thời; hoặc mộ Đại tiết mà mê muội tồn vong, có căn cứ Tiểu văn mà mê nơi quán đạo. Nếu hiểu được ý này trước dùng lý giáo định, tiếp dùng vị hạnh xét nghiệm. Nếu không như vậy thì chim chuột người, đâu có luận phẩm vị ư! Kính thỉnh thọ nhận lời di giáo của Phật phần ít chịu cung kính tuân theo. Kinh A-Đề-Mục-Đa-Già nói: Có người nói: Đây gọi là hoa Long điềm, cỏ kia hình như cây gai lớn, hoa đỏ lá xanh, trái có thể làm dầu cũng có thể làm hương. Đã đến nơi đạo tràng tức đã đối hành cận đều thông cạn sâu cho nên cũng có thể làm quán hành, hành cận. Phẩm thứ năm ngang tín thứ tư, do hai phẩm đầu tương đương Sơ tín giải, phẩm thứ ba tương đương Tín thứ hai, cho nên hai nơi phân phán ba tuệ. Đem hai tín và ba phẩm này cùng ở vị Văn tuệ.

Hỏi: Vì sao hiện tại chỉ có bốn tín, sau khi diệt độ lập năm phẩm ư?

Đáp: Nghĩa kia đã ngang bằng bốn, năm không sai biệt, chỉ là sau khi đức Phật diệt độ thì thêm vị đọc tụng làm phẩm thứ hai thôi!

PHẦN TRUNG

GIẢI THÍCH PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

Trong giải thích đề phẩm có bốn lớp kết danh, cũng có ý tứ Tấtđàn nhưng không có thứ lớp Lý can phải rõ giải thích khiến nghĩa tương đương, nhưng các phẩm dưới đều là lưu thông bản tích hai môn. Sở dĩ trong đây tuy trong đối trị nhưng song song tiêu hai ý, nghĩa cũng thông nơi ba Tất còn lại, vì văn phẩm Tùy Hỷ đã so sánh đầu năm phẩm diệt hậu, nghĩa đương nhiên ở đầu tứ tín, hiện tại đều do nghe trường thọ tăng lợi ích phẩm vị, cho nên cần song song thuật xưa nay hai môn. Dưới Phẩm Pháp Sư Công Đức chánh đương hiện tại vị tứ tín và sau vị tùy hỷ, do đó không còn giữ lại hai lợi ích. Do trong phân biệt và trong tùy hỷ đã giải thích đủ xong. Lại là xưng dương công dụng năm hạng Pháp Sư, năng nhập sáu căn đồng nơi vị hiện tại tứ tín. Phẩm Bất Khinh trở xuống đã tổng nói Pháp Hoa đâu riêng gì tích! Nếu vậy các văn trước cũng nói Pháp Hoa cũng nên đầy đủ hai ư! Đáp: Sau chưa nói. Đầu tiên trong nghĩa thế giới văn trước lược giải thích danh. Tiếp rộng giải thích. Sau là tổng kết. Vì đầu xuyên suốt ở sau nên trước giải thích danh. Đầu văn trước Tùy sau Hỷ. Trong phần đầu giải thích Tùy, sự lý chỉ là tên khác của Quyền thật, hiểu Quyền thật đây tức chẳng phải Quyền thật, không hai không khác tức tùy thuận sự lý khai quyền hiển thật.

Tiếp rộng giải thích, giải thích trong Hỷ nói mình và người, tức trở lại là lực của sự lý trong tích, lý có sự, cho nên năng mừng cho người, sự có lý nên năng mừng cho mình. Lại không hai mà hai, cho nên mừng mình và người, hai mà không hai cho nên hiểu rõ không phải mình và người.

“Tiếp nghe sâu..”: lần nữa giải thích, cũng trước giải thích tùy đủ công đức quyền thật. Tiếp, “Mừng cho mình có trí tuệ…”: lại giải thích hỷ đầy đủ công đức bi trí. Tuy nói “mừng cho mình” nhưng chính là để lợi (tha) người. Tuy nói “mừng cho người” mà chính là để hiển mình. Cho nên, nói có trí và có từ bi. Do tự nghe kinh lại năng dạy cho người khác, cho nên bi trí đầy đủ thì mới gọi là “hỷ”, huống chi mới nghe kinh hạnh nguyện đồng thời; cho nên một câu một kệ tự tha đều lợi ích. Nay đây sơ tâm chuyên lập tự hành, cũng dùng nguyện lực mà làm kia vui. “Quyền thật…”: kết hai ý trước cùng lập tên phẩm. Quyền thật kết “Tùy”, trí đoạn kết “Hỷ”. Từ bi tức hóa tha, hóa tha thuộc giải thoát, giải thoát tức đoạn. Vả lại, dùng tự tha sự lý khánh hỷ cho nên thuộc nghĩa Thế giới. “Lại, thuận lý…”: trong Đối trị căn cứ Bản môn, cũng trước giải thích, tiếp kết phẩm. Trong giải thích, trước Tùy tiếp Hỷ. Trong Tùy thì trước chánh giải thích. Tiếp, “Tức rộng…”: kết thành tướng quán, dung thông sự lý, sau là kết thành. Văn đầu trước lý, tiếp sự. Lý: Nếu tin trường viễn, tin ắt y lý, lý không khác Diệu lý trong Tích, chỉ vì, chỉ tại cửu bản, công trở về thật chứng. Lý sâu thời xa cho nên nói “thâm viễn (sâu xa)”. Nói “tín thuận”: Đối lý nghe nghĩa lâu xa đâu dám trộm nghi, cho nên không một chút nghi đối với lý lâu. Tiếp “thuận sự”: Chỉ là Như Lai tự từ bản thành tựu tướng lợi vật, trong Tích chỉ có ngang luận hóa nghi, trong Bản cần thêm cửu viễn tướng dọc, cho nên dùng hóa lâu làm dọc, hóa rộng làm ngang. Trung gian tiết tiết biến khắp mười phương bao gồm tuyên bày chỉ là ngang dọc biến khắp đó thôi ?

“Quán tướng”: Phi lý không do đâu năng hóa, phi hóa không do đâu năng hiển lý, tức thiết lập Tích cận sự thấy viễn Bản lý, cũng là Bản tích tuy khác mà bất tư nghì nhất, tuy một mà Bản tích rõ ràng cho nên nói không hai mà hai.

Hỏi: Biệt cùng hai đồng khác như thế nào?

Đáp: có hai:

  1. Thông căn cứ Bản tích,
  2. Biệt đối nhiều cảnh, do trong Bản tích đều có tướng không đồng.

“Tiếp, Tuy hai…”: từ chối nghĩa che phủ thâu nhập. Hoặc Bản hoặc Tích đều dùng tam thiên mới hiển diệu sự xứng lý. “Như đây…”: kết. Chỉ là thâu lược từ trước đến nay sự lý không hai mà hai…, đồng gọi là “nhất Tùy”. “Như Lai…”: giải thích Hỷ: Trước dựa vào thời căn cứ nhân để bác bỏ Tích quyền, cho nên hơn bốn mươi năm và Thất phương tiện, chẳng đến Kinh này không hội nhập phương tiện không do đâu hiển bản. Đối với kia không nghe nên mừng cho ta được nghe. “Tiếp, Mừng ta…”: Chánh giải thích hỷ. “Do tâm phàm phu…”: nêu tâm tướng hỷ; Do nghe cho nên biết, nhân biết sinh kiến, chỉ có Phật biết Phật thọ mạng lâu dài, chỉ có Phật thấy Phật từ lâu đã chứng thật lý, nghe Phật nghe hiển cùng Phật không khác. Nhập quán hạnh vị. “Như đây…”: kết tướng quán, cũng là ý ngang dọc không hai. Pháp giới cứu cánh nghĩa thông ngang dọc, lẽ ra nói sâu rộng chỉ là nói lược. “Rộng không bờ bến…”: Thông tán thán ngang dọc không thể cùng Vô đẳng kia đồng cho nên lập lại nói Vô đẳng đẳng, cũng nên kết tên gọi là “Hỷ”. Văn không có, là lược. “Đức Phật nay…” kết thành tên phẩm, trừ lý sự nghi cho nên gọi là Đối trị.

“Người thứ năm mươi…” giải thích trong Vị nhân có bốn: Đầu lập lại nêu nhân tướng tức là nêu vị.

  1. “Đầu chỉ có…”: nêu Tùy.
  2. “Chỉ có…”: nêu Hỷ.
  3. “Chưa có…”: song nêu Tùy Hỷ trình bày ý so sánh.
  4. “Sao nghe…”: kết khuyên.

Trong so sánh lại có ba:

  1. Nêu hành yếu mỏng. Trong tùy chỉ có lý, chưa có quyền dụng, trong hỷ chỉ có mình, chưa có năng lợi người.
  2. “Tiếp, thâu hoạch…”: song nêu tùy hỷ công lớn.
  3. “Như Lai…”: chánh dẫn kinh so sánh. Tức nêu ở văn dưới: Bốn trăm vạn ức cho nên nói xảo dụ, dụ người thứ năm mươi. Vì vậy cho nên so sánh nói huống gì người đầu tiên nhất. Đây là phẩm đầu nên nói huống gì phẩm thứ năm ư! Đây là bắt đầu viên vị. Nên nói huống gì hậu tâm? Hậu tâm chỉ địa vị tột cùng.

Trong kết khuyên có hai:

  1. Dẫn ý kinh để khuyên.

2) “Như Lai…”: kết ý kinh khuyên để lập tên phẩm, khiến tiến lý nhập vị, năng sinh lý thiện tức Vị nhân. Cảnh là lớn, cũng là mộ. Từ trên đến dưới trong Đệ nhất nghĩa đến nay tức chỉ Pháp Sư đến phẩm Trì và tứ Tín, năm phẩm trong phẩm Phân Biệt Công Đức. “Thời chúng…”: sợ người hiểu lầm, không sánh lường sơ tâm công đức lớn, mà suy tìm công vị trên khinh miệt sơ tâm đây, cho nên nay chỉ bày kia hành cạn công sâu để hiển lực Kinh. “Bỗng nghe…”: nêu Hảo Kiên Ca Lăn để dụ sơ tâm. Thánh nói tự thân tán thán khiến suy tìm công nghi trừ cho nên nêu “cởi bỏ” vậy để làm theo đệ nhất nghĩa. Hảo Kiên Ca Lăn đầy đủ trong Chỉ Quán quyển một và bảy nói. “Hy hữu…”: kết thành lập phẩm. “Ngoại đạo…”: căn cứ giáo lần lượt so sánh. Trước bài bác ngoại đạo, thiên Tiểu thừa… Tiểu thừa tuy ở vị tột cùng cũng chưa bằng tùy hỷ Viên vị sơ sơ, người biệt giáo biết trung đạo mà nói môn vụng về: Do ở Địa tiền nghe chỉ tên Trung, chưa tức quán. Đức Phật nay nêu chữ A… là chánh nêu Viên vị, đầu cuối không hai cho nên các giáo đều không.

Hỏi: Đầu tiên chữ A tại Sơ trụ lấy gì chứng minh là sơ phẩm?

Đáp: Danh biệt nghĩa thông, nếu dùng đây đối bốn mươi hai vị thì không thể thông sơ, nếu đối Lục tức Lý tức còn vậy huống gì sơ phẩm ư! Nay từ Viên hành để nêu bất nhị cho nên thông dụng chữ A.

Trong hỏi đáp trước hỏi có thể thấy. Trong đáp nói pháp này là lần lượt nghe pháp. Người kia: Đại Phẩm nói: Nếu người hàng Thanh văn năng phát tâm thì ta cũng tùy hỷ; cũng lại nên hỏi: Kia kèm theo, đây riêng biệt vì sao được đồng ư? Đáp: Không từ chỗ kèm theo, không chung không riêng, sợ lẫn lộn danh đồng, vì biện minh biệt cho nên đến. Huống chi kia là nói dẫn tiến, đây phân biệt thật công sơ tâm, cho nên người kia không có lý phát tâm, đây tùy theo lý đã thành, vì vậy nên danh đồng kia sự vĩnh viễn khác. Phẩm trước dùng so sánh bốn người: Cuối phẩm Phân Biệt Công Đức đối với bốn người sau. Kinh văn mỗi một tiết tự so sánh xong, chỉ có phẩm đầu văn chưa có so sánh nên sinh phẩm này. Cho nên cuối phẩm trước sớ nói: Nay liệt đủ năm phẩm so sánh bốn phẩm, sau phẩm Tùy Hỷ so sánh sơ phẩm. “Thừa cơ”: Do đức Phật biết cơ ẩn chưa nói, cho nên khiến Di-lặc nương căn cơ bấu víu ở Phật, văn rộng so sánh ở đầu mới biết sau bốn công lớn sau, thời chúng lợi ích rộng cho nên nói thừa cơ. “Nam phương”: Giang nam. Nói “Có hơn, kém và bằng”: Ý cho là sau sau dần dần hơn làm thắng, càng về sau tương tợ làm bằng, sau dần dần yếu làm; bèn dùng tiệm yếu so sánh nêu bằng và hơn. Trong người kém nhất là người thứ năm mươi công đức còn nhiều, huống bằng huống hơn cho đến thứ năm mươi ư! Văn tuy chưa phá lý không hoàn toàn như vậy, chỉ dựa vào dần dần yếu dùng sau so sánh đầu, sao dùng bằng, hơn! Bằng nhau đầu cuối tương tợ, thắng lại sau hơn trước, đều chẳng hạn cuộc so sánh. Nay chánh giải thích: Nhân người xưa không phải giải thích năm mươi vị, tổn thương văn, mất lý. Cho nên, nay trợ giúp tạm mượn giáo môn để lập số người. Chỉ căn cứ sáu chúng không liệt kê Thức-xoa, cũng một phen đối số lại tạm trừ bỏ, đâu có Thức-xoa không nghe kinh ư? Ý cũng không hẳn từ nơi hữu môn, dùng Đại Tỳ-kheo mà làm người trong sơ hội, trong đây tuy lại liên quan đến người và môn đều hành đến bốn mươi tám, mà ý nêu rõ mỗi một giáo và mỗi một người tùy theo một môn một hạnh đều có thể từ nơi pháp hội người nghe.

Sở dĩ hai giải thích:

  1. Căn cứ ba giáo nghĩa đương giáo xưa có năm mươi người đến nay nghe Viên.
  2. Đến nay lại thành năm mươi, tức là nghe kinh đều hợp khai hiển, toàn thành bốn người.

Cho nên viên nêu số không thể dùng biện rõ. Lại nương số pháp dùng một lần bảy mà chỉ, như bảy đời…, trong bảy từ đại cho nên thành bốn mươi chín đều là Sư đệ… xoay vần giáo. Nói một người sau cùng không có giáo tha tức, lại căn cứ một kỳ so sánh mà nói. Nói “Đại bảy…”: Phương này số pháp của hoàng đế lập có hai thứ không đồng. Dưới số mười vạn làm ức, trên số ức ức làm ức, số bảy cũng như vậy, cho nên dùng bảy lần bảy mà làm Đại thất (Đại bảy), đối tiểu bèn thành bốn mươi chín, và người sau cùng thành năm mươi. Đây cũng một phen hợp số kia. Chánh nghĩa như trước phá các Sư xưa. “Nay nói không như vậy” trở xuống dưới là văn ấy. Kinh tứ sinh: Có người đối với đây rộng căn cứ Câu-xá, Bà-sa và các Kinh luận nêu chương nghĩa tứ sinh, đối văn nay chẳng cần thiết. Chỉ có thể lược biết sáu đường chúng sinh, lược như quyển thứ nhất và Chỉ Quán quyển một ghi. “Tứ sinh”: Thai – noãn – thấp – hóa – lại hiển biết trong luận lại lập tứ sinh (bốn loài):

l) Xúc sinh: Nhân vì giao hội.

2) Khứu sinh: (hửi): Con đực có dục tâm hửi mùi con cái là căn môn, tức liền có thai.

3) Sa sinh: Như chim cái do dục tâm bụi cát nhân tức có thai.

4 ) Thanh sinh: Như con cái khổng tước dùng dục tâm cho nên nghe chim đực gọi tức liền có thai. Bốn thứ đây chỉ nhiếp thai noãn hai sinh, thấp hóa chỉ nhiếp hương xứ không cần tướng đây. Ban vui thế gian, cứu dứt quả khổ. Lại cho bốn việc và dùng bảy báu cho nên nói thế gian, khiến quả thân an cho nên nói “cứu quả”. Khiến đắc La-hán nên nói “cứu sinh tử khổ”. Đây là phước Phạm, người này dạy người khác khiến đắc Thánh quả mới gọi là Thánh. Tự chưa đắc Thánh gọi là phước Phạm nếu đắc Thánh quả mới gọi là thánh. Nay rộng nêu, đây dụng Đại luận văn nói: Sự to lớn trong phước, chẳng gì vượt lên trước Phạm. Cho nên, luận giải thích trong tướng trăm phước trang nghiêm, dùng phước Phạm làm một phước. Có sự so sánh đây, nay kinh khiến đắc Tứ quả cũng là phước Phạm vậy. Trong đó lại so sánh nêu phước nghe kinh, khiến đem các phước Thánh ban đầu dùng so sánh lợi ích nghe kinh sau cùng, cho nên nghe kinh vi diệu tùy hỷ, sơ tâm còn vượt qua các Thánh sau huống gì sơ Thánh ư! Cho nên biết người đời mắt thấy ngọc như ý mà tranh cầu thủy tinh, đã gặp ánh sáng mặt trời mà mưu cầu đèn đuốc!

Tát-đỏa Đại-tát đóa: Do tam Bồ-đề lần lượt tương vọng, một phen lại dùng Đại tiểu nói cho nên phương tiện cực vị Bồ-tát còn không bằng người thứ năm mươi huống gì chỉ dạy người đắc nhị thừa ư! Nói phước Thánh: Đối với trên thuộc phước nên nói vậy. Nhưng trong Hoa Nghiêm dùng Sơ trụ so sánh việc kia vẫn dễ, nay vị Sơ tùy hỷ so sánh phước Thánh, tự chẳng phải Đại thánh nghiêm chỉ đâu thể tin việc kỳ lạ đây! Cho nên, biết chỉ từ sự mà phán nói hành phẩm này là phụ, hành bất khinh là chánh, cho nên một bộ đây không được dùng ý phụ nói đêu là một lỗi thông suốt của Pháp Hoa. Trong đây công đức đối năm mươi người, Chương An chỉ thẳng nêu số mà thôi! Không chỉ Kinh văn nay lược đối, mỗi cặp công đức kết làm một câu:

Một chỗ và lợi căn
Trí tuệ không câm điếc,
Miệng thơm lưỡi không bệnh
Miệng không bệnh không dơ
Không đen cũng không vàng
Không thưa không thiếu rụng
Không so le không gãy
Môi chẳng trề chẳng nứt
Chẳng thô rít chẳng co
Chẳng ghẻ chẳng sứt hư
Chẳng thiếu và chẳng hoại
Chẳng vêu cũng chẳng dày
Chẳng to và chẳng xám
Chẳng đen, không đáng ghét
Chẳng xẹp chẳng cong gãy
Chẳng đen chẳng hẹp nhỏ
Chẳng dài chẳng hóm gãy
Chẳng cong mà vui vẽ
Môi răng lưỡi đều đẹp
Răng trắng phau và sạch
Mũi cao lớn thẳng thắng
Mặt tròn đầy, mày cao
Mi dài và trán rộng
Tướng người đủ cân đối
Thấy Phật và nghe pháp.

Trước là tương tợ công đức… chỉ trong phẩm Phân Biệt Công Đức nói diệt hậu năm phẩm. Đại sư có khi y Phổ Hiền Quán phán xét năm phẩm vị ở trong sáu căn cho nên nói tương tợ. Nếu chỉ bốn tín chánh là tương tợ, trong đây so sánh phẩm đầu lại là thứ năm mươi tám. Sơ pháp hội nghe chấp nhận là sơ phẩm thứ năm mươi tám ắt ở người đầu của Tùy hỷ vị, nhưng phẩm đề tùy hỷ không hạn cuộc ban đầu mà thông gồm năm mươi người. “Tu hành…”: rộng nên nêu hành tướng. Năm mươi đức đây hoặc một người đầy đủ hoặc một người đều một, tùy công lực người kia không thể chắc đủ. Trong tụng, tụng trong tùy hỷ trước có năm, không tụng hỏi đáp, căn cứ đây có thể biết, đối tụng phần nghe kinh trong đó ít không thứ lớp đối đây có thể biết.

GIẢI THÍCH PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC

Trước giải thích tên phẩm. Tiếp giải thích công đức tăng giảm tức công đức Pháp Sư. Đầu tiên giải thích đề phẩm trong đó cũng căn cứ tứ

Tất-đàn, cho nên dưới kết nói: Đủ bốn ý đây. Văn

  1. Thế giới.
  2. “Hạnh giả…”: Vị nhân.
  3. “Hiểu biết…”: Đối trị.
  4. “Tương tự giải…”: Đệ nhất nghĩa.

Nghĩa Thế giới trước chỉ phẩm trước, cùng đây giải thích danh cho nên nói hai chữ Pháp Sư toàn chỉ phẩm trước, cũng dùng năm hạng làm Pháp Sư cho nên nói như trên.

Hỏi: Phẩm đây đã nói là quả Tùy Hỷ tên gọi Pháp Sư, tên gọi Pháp Sư vì sao chỉ trước?

Đáp: Đệ tử thông đầu đến cuối Pháp sư chỉ có hai, ba nghĩa cũng gồm hai sau, hoặc hoàn toàn chưa nhập phẩm. Vì sao? Vì nếu dùng năm phẩm nhập trong sáu căn, năm Sư chỉ làm nhân của sáu căn. Ví như dùng năm phẩm tại ngoài sáu căn, thì năm Sư không nói tu nơi quán hạnh, chỉ dùng tụng nói gọi là thông. Lại thông phẩm thứ hai, ba, lại nói bao gồm nơi bốn, năm, cho nên lại một phen tợ thông. Nếu lại căn cứ vị lược chọn, thì hoàn toàn chưa nhập phàm vị, dùng tên phẩm Pháp Sư kia giải thích rộng, nên cần phải chỉ kia để hiểu rõ danh này. Pháp Sư xưng đã thông không ngăn cách bốn tín năm phẩm nên chỉ văn kia dùng trình bày tên phẩm. “Công đức…”: biện minh sự sai khác. Đầu chỉ người đầu sơ phẩm, chỉ người thứ năm mươi nay cho là năm phẩm chỉ sáu căn đây, đồng gọi là công đức cao thấp hoàn toàn khác. Vì là công đức của Pháp Sư nên nói Pháp Sư CÔNG ĐỨC. “Trong ngoài trang nghiêm…”:

Hai lớp giải thích:

1/ Chánh căn cứ sáu căn.

2/ “Lại từ…”: lại tiến nương vị chân thật tức khi tương tợ đây đến Sơ trụ sắc thân hiện khắp, cho đến cực vị một tiết đều dùng công ban đầu làm bản. Năm tướng cũng như vậy: Khi nhập chân vị sáu căn đều có trong ngoài hai nghiêm, thấy nghe mười giới mà làm ngoại hóa, còn lại ba thứ căn cứ biết sắc… cũng như vậy. Lại nếu dùng tương tợ khắp hiện sắc thân làm lời nói, thì có thể thông ở tương tự vị.

“Tiếp, Đọc tụng…”: theo lệ các sư: Năm Pháp Sư đây đều sinh tương tợ giải; đây lại phải để qua chân vị khắp hiện sắc thân, thoái lui lấy tương tợ vỉ làm công đức đây. Năm phẩm của năm Sư chân, tương tự vị không đồng, cho nên gọi là Thế giới.

Hỏi: Viết chép làm sao tịnh sáu căn?

Đáp: Đồng giúp chánh giải. Bốn phẩm hơn vậy là nêu rõ phát bất định, đầu từ tùy hỷ cuối đến chánh hạnh đều phát sáu căn đâu hẳn quá năm mới nhập tương tợ. Nói hơn vậy là lấy đầu vọng sau còn đắc nhập, bốn sau thêm hơn trước. “Tương tợ đã như vậy…”: Do trong phần chân căn tịnh gấp bội trước dùng chân vọng tợ cho nên nói gấp bội.

Tiếp Vị nhân: Nên siêng năng tư duy tu bốn thứ Tam-muội khiến mau nhập hậu tín, tín tín tương vọng cho nên gọi là bội. Tiếp trong đối trị sâu biết Viên, nghe như trước so sánh gọi là thế lực lớn, mới năng trừ bỏ nghi chấp quyền tích. Đệ nhất nghĩa: Trung đạo nói là đầu tiên của tương tự giải tựa dựa theo Phổ Hiền Quán, tùy hỷ rồi sẽ đứng đầu tương tự giải, người thứ năm mươi lại là đầu tùy hỷ cho nên nói sơ sơ. Quá nhị thừa cực cực, là La-hán đã tột cùng, không tột cùng lại tột cùng. Dù là không nghi cũng không thể bằng người sơ tùy hỷ. Gấp bội trăm ngàn vạn như trước so sánh. “Chỉ ban đầu…”: Dùng Tùy hỷ đầu hiển Diệu giác cuối; Phàm phu phát tâm còn dùng Diệu giác rốt ráo không hai, huống nay năm phẩm sau đối với sáu căn ư! “Công đức sáu căn…”: Chính giải thích công đức sáu căn tăng giảm, trước lược nêu hai nhà. Tiếp tổng kết bài bác.

Trước nêu Quang Trạch văn không biệt phá, sở lập chưa đúng. Vì sao? Vì năm hạng Pháp Sư đều đắc sáu căn, vì sao năm Sư cùng làm sáu ngàn ư! Cho nên một Sư bốn trăm, nếu có ba phẩm tuy thành một ngàn hai trăm, đâu thành một Sư sáu ngàn công đức huống ba phẩm nhân ư! Cho nên dưới kết phá căn không y văn. Huống chi nói mười thiện là tán thiện. Cõi đây ba căn mạnh yếu. Dẫn văn Đại luận toàn không tương ưng đây. Văn đây nhãn, tỹ, thân tám trăm; nhĩ, thiệt, ý một ngàn hai trăm. Trong luận thì nhãn nhĩ ý ba dụng mạnh cho nên không tương đương. Lại có Sư dùng số Quang Trạch làm ba phẩm, nay kinh chỉ có tám trăm, và ngàn hai làm sao lại lập một ngàn? Nếu phân sáu căn làm ba thì hai, hai phần đối hoàn toàn không có lý đây. “Các Sư…”: tổng bài bác chưa hội nhập kinh này sáu căn tăng giảm và công đức… Không hiệp các giáo là ngoài Pháp Hoa như dưới liệt nêu, ba kinh một luận vì sao? Vì sáu căn sở đối ba ngàn trần, ngoài trần đây thấy nghe bốn Thánh, cho nên biết kinh lực trợ nội quán giải, phát tương tợ phần chân, huân khắp các căn, cho nên có thấy nghe các dụng như đây. Lại có người dẫn Câu-xá… để biện rõ nội giới sáu trần, dụng giải thực thông đây sáu trần chỉ được chút nghĩa chẳng phải chánh ý văn cho nên không dụng. Vả lại sáu căn trong đó căn nhĩ tỹ ba, không nhờ đến tức trở lại nương không đến có thể thấy đối nhãn, có thể nghe đối nhĩ, có khí đối tỹ, thiệt thân hai căn cần phải đến rồi, dựa vào đến biến hiện cho nên thiệt thì dùng biến thuyết làm công, thân thì dùng hiện tượng làm dụng, mà đều dùng mười giới làm lượng, không liên quan đến Tiểu thừa căn trần đối cảnh, cho nên không cần nói sắc hai mươi hai thanh tám… Nếu không như vậy thì tam thiên vốn chẳng là nơi nhục nhãn nhục nhĩ của phàm phu thấy nghe, thì vì sao lại nói thấy nghe tam thiên? Nếu lại nhân thiên… nhân sở hoặc sáu trần, càng chẳng phải ý nay.

“Đại Phẩm…”: chánh dẫn ba kinh một luận phá hai Sư trước. Tiếp, “Nay kinh…”: chánh giải thích. Đầu dẫn kinh luận lại có hai:

  1. Chánh dẫn.
  2. Lược kết kinh này đầy đủ để bài bác.

Trong chánh dẫn đầu dẫn Đại Phẩm nêu sáu căn Bát-nhã đâu chẳng phải trong phẩm Phân Biệt Công Đức so sánh chánh tuệ. “Trần tịnh tuệ” đến “cho nên không sai khác”: Đây chưa nói số lại nói đẳng định. “Nếu sáu căn…”: Pháp Sư kế tiếp. Trước phá. Tiếp “Nếu một…”: trưng dẫn ngược lại v.v… nên dẫn lại nhiều và dẫn trong chánh Pháp Hoa cũng trước dẫn căn…, “Không luận…”: cũng đồng trước phá. “Tiếp, dẫn ý luận văn cũng nêu rõ…”: Kinh lực không nên khiến căn thắng liệt. “Tuy chưa…”: Tuy chưa nhập địa công như nhập địa. Tiếp dẫn Đại kinh nêu xen lẫn tướng dụng. Đã đồng đã lẫn lý đâu ứng thiên lệch!

Tiếp chánh giải thích chia làm bốn:

  1. Nêu trong một kinh đầy đủ bốn văn trước.
  2. Chánh giải thích.
  3. “Nếu luận…”: biện tăng giảm.
  4. “Tương tợ…”: phân phán vị. Tiếp lại có hai: Đầu căn cứ phương pháp hoằng kinh nêu rõ… có một ngàn.

Tiếp, căn cứ lý cảnh… một ngàn hai trăm. Đầu muốn chánh giải thích, lại bài xích Quang Trạch. Nay y phẩm An Lạc Hạnh để nêu rõ ba nghiệp, chánh đương Pháp Sư y nơi phương pháp hoằng kinh cho nên khiến thâu hoạch được sáu căn thanh tịnh, không đồng Quang Trạch thẳng nói mười thiện và dùng năm hạng Pháp Sư cùng làm hiệp số. Nay nêu số đầy đủ xong, mới nói năm hạng Pháp Sư đều đủ sáu ngàn cho nên nay trước căn cứ An Lạc Hạnh ba nghiệp mười thiện. Tiếp nêu một giới mười Như đối hóa tha biên và ba: áo, v.v… đã có sáu mươi mới thành viên hạnh. Trong đây ba nghiệp tức là lục căn, cho nên không đối lại lục căn, ba nghiệp công thành tức sáu căn thanh tịnh. “Năm hạng…”: nêu mỗi một Sư đều tịnh sáu căn. Tiếp “Lại nữa, nhất tâm…”: là căn cứ lý cảnh để đối trong hành cũng là tương tợ vị công dụng xen lẫn, cho nên nói một căn thông đủ sáu trần. Nếu từ nhân giải thích chỉ là quán hạnh lý đầy đủ sáu trần. “Nếu luận…”: nêu rõ tướng tăng giảm, trước nêu tăng giảm. Thanh tịnh trình bày Bát-nhã trước, trong trang nghiêm có dư thiếu trang nghiêm…: Trình bày chánh kinh trước, thiếu trình bày luận chỉ là sức phàm bằng. Thánh nêu rõ nhục nhãn. “Nếu nói một ngàn hai trăm…”: là tiếp luận nghĩa dư thiếu. Nếu nói thanh tịnh lại nêu Bát nhã trước. Lục căn lẫn dụng nêu Đại Kinh trước, cũng có thể bất khả tư nghì, nêu trước dẫn luận. “Nếu thiên…”: là kết bài xích. “Tương tợ…”: phê phán trong vị.

Nói “tứ luân”: Trong Kinh Anh Lạc nêu đủ sáu luận nay lại dụng bốn. Nếu y năm mươi hai vị chỉ kinh Anh Lạc mới đầy đủ nghiêm chỉnh, cho nên nay nhờ đó, để thành nghĩa Viên, chỉ có đoạn không đoạn sai khác. Thiết luân vẫn ở vị trước trong bốn luân tức Thập tín. Tâm thứ ba: E rằng lầm, lẽ ra nói thứ hai, tín thông tiến biệt cho nên mượn nêu. Hoặc thủy mạt (đầu cuối) nêu rõ vị, lược như Bồ-tát giới sớ và Huyền Văn diệu Chỉ Quán thứ vị, đầy đủ vị tu quán nhập hành tướng vị. Nay văn chỉ nêu Pháp Sư công đức cho nên để qua không nói. “Đây…”: Kinh văn nói sáu căn sáu chương, căn cứ kinh Hoa Nghiêm, sáu căn đều có mười nghĩa cũng cùng trong văn đây đồng, chỉ chân tợ biệt đó thôi! Vậy thì năm mươi đều thông chân tợ. Lại năm cùng mười chỉ ly hợp sai khác, nhưng Tiểu thừa không dùng tỷ thiệt làm thông, ở tách làm chưa gọi là liễu thuyết. Các kinh Đại thừa cũng có lục thông. Không nói lục căn, chỉ là bên Tiểu mà lại bài xích Tiểu. Nay kinh Hoa Nghiêm mới thành liễu nghĩa huống lại cùng Tiểu tu phát không đồng sở y đều sai biệt, còn không đồng biệt, huống lại các thứ khác ư! Trong nhãn căn đầu tiên chưa luận tu phát thiên nhãn chân thật, mà trực tiếp dùng nhục nhãn có thể thấy Đại thiên, cho nên nói cha mẹ sinh. Nếu luận công dụng kia đã quá thiên nhãn hữu lậu thiên. Nhãn cõi dưới không thấy cõi trên, Phạm vương thấy tuy khắp Đại thiên mà đến bên bèn bị phong luân ngăn cách, sáu căn tịnh thì không như vậy. Cho nên nay nói “tương tợ Phật nhãn” cho đến “tương tợ ngũ nhãn”; cũng nên nói thấy nơi Nhị thừa và Phật, Bồ-tát… Do căn cứ nhĩ tỹ ắt hợp có. Thấy trong ngoài Đại thiên làm thiên nhãn; lại căn cứ thấy nơi thô tế sắc biên, thấy nghiệp nhân duyên làm pháp nhãn, do sức thiên nhãn không thấy. Thấy nghiệp thấy tịnh: Nghiệp có sai biệt tịnh không sai biệt, song song thấy hai cảnh tức tiêu biểu trí trung đạo. Lại năng viên phục cho nên là Phật nhãn.

Đại kinh nói: Đây là Biệt dẫn nhục nhãn năng có dụng Phật nhãn, để chứng minh do cha mẹ sinh… Phật nhãn cho nên… là lập lại nêu trước phá bốn văn Quang Trạch, và nay lập đều lược văn nói nghĩa dư thiếu v.v… hiển thành chánh giải thích. Nhãn căn thanh tịnh là trình bày Bátnhã trước, đầy đủ năm là trình bày luận văn trước, trang nghiêm là trình bày thánh kinh trước… Cũng nên nói xen lẫn đầy đủ năm căn để nêu Niết-bàn, văn không có là lược. Dưới nêu năm căn nhất nhất đều vậy. Chỉ đây đủ xong từ dưới trở đi đều lược, chỉ chú thích v.v… hoặc nêu một, hai Kinh mà thôi! Đến dưới lại dẫn không khiến thất ý. Lại dưới năm căn mỗi mỗi có hai giải thích: Một là căn cứ năng thấy nghe, hai là căn cứ đối tượng thấy, nghe, cho nên lập lại nói. Nhĩ căn có thể thấy vì ở Tĩ căn rất được dựa theo tất cả, cho nên nói tĩ căn lại biện minh công dụng xen lẫn, căn cứ theo lệ các căn cũng lại như vậy, chỉ là văn lược. Nếu trong thiệt căn căn cứ ý đáp vấn thì cũng cần phải biết trước vị pháp giới mới khiến vị ấy biến làm ngon thơm, huống chi lục căn đều tịnh đâu có thể thiệt căn yếu kém ư! Trong thân căn nói: Không lầm giả, không chấp không, đều chiếu gọi là trung. Trong ý căn nói: “Tháng, bốn tháng…”: là tiêu biểu giải thích để thông năm thứ trước đều bất nhị. Nếu còn sự giải thích chỉ căn thứ sáu, do đó sáu căn sở đối không cần tùy luận. Nhưng phẩm Tùy Hỷ so sánh phẩm đầu, Phân biệt công đức thẳng nêu bốn tín và dùng năm phẩm. Nay Pháp Sư công đức chỉ nêu tương tợ Lục căn công đức. Phẩm Bất Khinh nêu người hoằng kinh hiện sinh hậu báo lục căn thanh tịnh. Phẩm Thần Lực chúc lụy quả nhân tự nêu lực dụng hoằng kinh để khuyên lưu thông. Phẩm Dược Vương, Diệu Âm, Quan Âm nêu người phần chân công năng hoằng kinh, cho nên biết chỉ y kinh này phân phán vị tự hiển, ngoài ra y luận phân phán cũng tự nó là một cách, dưới có thể thấy. Cho nên phẩm Tùy Hỷ sắp xuống không nhọc dựa theo giải thích vật tượng tướng mạo mà chỉ lược nêu văn tướng để hiển truyền hoằng thì công Lưu thông nghĩa kia tự rõ.

GIẢI THÍCH PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒ-TÁT

Phẩm này đã chánh dẫn xưa, nên biết Bất Khinh đã có năm phẩm có thể dùng chứng nhân, sau thâu hoạch lục căn có thể dùng chứng quả cho nên nói dẫn chứng. Gia Tường đầy đủ đối các phẩm văn trên Kinh này lấy làm bảy phần riêng biệt:

1/ Lấy hai phẩm trên đối nay làm ba phẩm Công Đức: Tùy hỷ, hạ, Pháp Sư trung, nay làm thượng.

2/ Đối hai phẩm trên làm công đức ba đời. Tùy hỷ hiện tại, Pháp Sư đương lai, phẩm này quá khứ.

3/ Đối Pháp Sư công đức nêu quả, phẩm này biện rõ nhân.

4/ Nêu chúng sinh chỉ có Nhất thừa.

5/ Trên nêu Phật thọ ký nay nêu Bồ-tát.

6/ Trên nêu khuyên phước nay nêu diệt tội.

7/ Dẫn sự để chứng sáu căn. Nói ba phẩm: Tùy hỷ chấp nhận là hạ Pháp Sư và đây đều tịnh sáu căn, đâu thể phân trung thượng! Huống đây còn có đời trước hủy báng địa ngục. Nói “ba đời”: Tùy hỷ chính chỉ sau khi Phật diệt độ, Pháp Sư hiện nhờ năm thứ công thành, Bất Khinh tuy xưa mà nêu đời hiện và sau. Nói nhân quả: Đều tịnh sáu căn đâu phân hai thứ riêng biệt. Nói Nhất thừa: Thông nơi một bộ đâu chỉ riêng đây ư! Chỉ đối Phân biệt công đức phân Phật, Bồ-tát thọ ký, đây thì có thể như vậy. Nói “tội phước”: Nay hủy báng mắc tội, tin được phước. Văn trên sinh hủy báng lẽ nào không tội ư! Trong Tùy hỷ cùng Đà-la-ni Bồ-tát cùng sinh một chỗ, lợi căn trí tuệ đâu chỉ phước ư! Nói “diệt tội”: Sinh hủy báng đọa địa ngục đây chính là sinh tội, khi lâm chung căn tịnh đâu chỉ diệt tội. Trong Pháp Sư báo ấm hiện chuyển thì tội nào không diệt. Nói dẫn sự để chứng sáu căn thanh tịnh; sao không nói một câu hoằng tuyên ắt tịnh sáu căn; vì chương sở dẫn không tư duy bản văn, các thứ khác theo như lệ đây không thể dẫn đủ, nên lược luật để sinh phát kiến giải. Cho nên, nay lại dùng sáu nghĩa nói: Nghĩa đầu tiên cũng vọng ở phẩm trước của kinh này, năm nghĩa còn lại đều dùng Pháp Hoa vọng trước:

8/ Trên toàn hoằng kinh văn, nay lược ý hoằng kinh cho nên không đọc tụng chỉ chuyên thông kinh.

9/ Kinh sách Tiểu thừa sinh tin còn chưa làm hai nhân. Nay Kinh hoặc hủy cảm sáu căn thanh tịnh.

10/ Các kinh chỉ nêu thuận hóa hoằng giáo, phẩm này lễ tục, nghịch hóa, thông lý.

11/ Các kinh tiêu biểu Quyền thật còn ngăn cách, phẩm này tiêu biểu nghe đều là Tứ nhất.

12/ Các kinh tiêu biểu còn không khắp huống chi, phẩm này tiêu biểu gồm Bản tích hai tướng.

13/ Các kinh nói thượng mạn vĩnh viễn đọa khổ, phẩm này tức năng tín phục tùy tùng. Gia Tường đưa ra bảy nghĩa đều là một kiến giải chưa có xa đến; được ý trong đây thì các lệ có thể theo.

Hỏi: Vì Bất Khinh mà lầm có thọ ký, tức thấy người phải nói đều sẽ làm Phật? Vì lại đời mạt pháp người hoằng mê muội ở bến bờ.

Pháp Hoa luận nói: Bồ-tát này biết chúng sinh có Phật tánh không dám khinh. Hai luận đều là Thiên Thân mà lập tánh không đồng đâu cùng trái nhau! Chỉ trình bày kinh văn khiến đều được ý chỉ giáo. Nếu khiến một người chấp luận thì khiến các thuyết đều đồng, không thể giải Thích hết Đại thừa dùng nghĩa đối pháp tiểu thừa. Cho nên, biết luận kia tự trình bày Phương-đẳng. Sở dĩ Ca-diếp tự xót xa chủng tử Phật bị hư hoại, đến hội Pháp Hoa chủng tử ấy trở lại sinh, Thiên Thân liền dùng luận kia trình bày. Nếu bỏ văn Như Lai hiển thật mà chấp giáo Bồ-tát hoằng quyền thì lỗi thiên chấp chẳng gì lớn bằng, lỗi lầm trình bày sai có thể biết. Nay văn phẩm, đầu tiên nêu đầy đủ Tứ nhất dùng giải thích xuyên suốt bốn, trong đó trước liệt nêu tiếp giải thích. Trong giải thích nói Pháp Hoa luận… tức luận thừa nhận nói Bồ-tát đây biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, cho nên phàm thấy người đều đến lễ, trong bốn chúng đây há không có người diệt chủng mà vọng nói. Nếu kia có, luận văn không nói thì lỗi tại Thiên Thân. Nếu Duy Thức nói chánh lỗi (quá) tại Bất Khinh và tại nơi Phật mà không trước trách lỗi Bất Khinh, còn từ chối bởi do người hoằng kinh đâu có lỗi lầm nói, lầm thọ ký khiến đời hiện sinh và sau thanh tịnh 6 căn ư! Chánh nhân thông tuyên bình đẳng… tánh đức thông nơi mê ngộ nhân quả. Cho nên duyên liễu nói chủng tử vốn có. Trở lại căn cứ tánh đức để nêu hai nhân, để đối tân huân thạnh tu đắc. Ba thứ đây làm nhân chuyển nhân thành quả, trong quả Bồ đề và dùng Niết-bàn gọi là quả tánh quả và tánh của quả tánh. Nếu đối tánh biện minh tu chỉ là tu đắc duyên liễu đến quả gọi là Bồ đề Niết-bàn. Liễu chỉ là trí, trí gọi là Bồ đề, duyên chỉ là đoạn, đoạn gọi là Niết-bàn. Cũng có thể dùng tánh ba nhân khi đến quả, liễu gọi là ba thứ Bồ đề, duyên gọi là ba thứ Niết-bàn. Nếu nói chúng sinh đầy đủ có nhân quả tánh, thì năm Phật tánh đều tại chúng sinh, biến nhất thiết xứ chỉ khi trụ nhân, quả tánh gọi là nhân, tại thời quả thúc đẩy nhân gọi là quả. Danh tuy xen lẫn được mà pháp kia thường như.

Đầu tiên, giải thích nghĩa Nhân duyên…: Bắt đầu từ “Bên trong mang sự giải Bất Khinh v.v…”: năm văn. Sau là Viên giải, căn cứ giáo. Từ “Thấy thật Tam-muội…”: là đối thiên thành bốn, đối vị thì năm, do trong các giáo chắn không nói chúng sinh tức Phật. Trước đã nói nhân duyên nên đủ tứ Tất-đàn, đối trong năm văn đầu và hai là thế giới, ba Tất-đàn sau, là ba văn còn lại đầy đủ như trong tựa cũng dùng Tứ Nhất mà đối tứ tất vân vân là ba giáo đối biện nay chỉ tại Viên. Ta xưa tùy hỷ thâu hoạch hiện sinh và sau, lập lại nêu lai ý, cho nên văn sau nói. Khi sắp lâm chung nghe đầy đủ lời của đức Phật Oai Âm Vương thuyết kinh Pháp Hoa đắc lục căn thanh tịnh lại tăng thọ mạng tức hiện báo. Sau khi mạng chung lại gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh tức sanh báo. Do nhân duyên đó lại gặp được hai ngàn ức Phật đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương lại gặp ngàn vạn ức Phật tức hậu báo. Đối hiện báo thâu hoạch sáu căn thanh tịnh cho nên công hoằng kinh kia không nông cạn. Nói ba thứ lợi ích này ý tại lưu thông. Thời xưa Bất Khinh tam báo rõ ràng như vậy, ngày nay đâu được không lưu thông ư?

Có người nói: Muốn hiển hạnh an lạc uy thế không gì sánh bằng, ta làm Bất Khinh hành an lạc hạnh; nay cho rằng an lạc hạnh là bắt đầu hoằng kinh cho nên cùng Bất Khinh uy nghi đó có mười sai biệt. Vì sao? Vì an lạc hạnh an xứ, pháp, tòa tùy ai hỏi thì đáp, Bất Khinh thì xa thấy bốn chúng cho nên đến lễ bái. Kia thì có nạn vấn mới đáp, đây thì lại bị chúng dùng ngói đá chọi ném còn gắng nói…. Kia thì thường ưa ngồi thiền tại nơi yên vắng, đây thì không chuyên đọc tụng vào chúng trình bày thông suốt; Kia thì ưa sâu pháp không vì nói nhiều, đây thì bị chúng cho là hư vọng nên hủy báng vẫn gắng khen ngợi. Kia thì ban đầu hỏi vì sao đọc tụng kinh này, đây chỉ nói một câu lưu thông làm Phật. Kia thấu tu lý quán, quán mười tám Không, đây chỉ ôm ấp giải một câu làm Phật; kia hóa Phật đích thân thuyết giảng thân hư không, đây chính hư không thuyên giảng nơi hóa sự; kia thì trong mộng viễn tiêu biểu đương thâu hoạch đại quả, đây chính miệng tuyên bày giáo nhân (người) sẽ đắc Phật. Kia thì căn cứ mở hạt châu trong búi tóc dụ khai nhị thừa quyền, đây thì căn cứ kết duyên tiêu biểu nhất thừa thật. Kia thì do thuận hóa nên còn nơi phép tắc, đây dùng nghịch hóa cho nên quên ở tích thường. Kia thì nêu thắng hạnh hành pháp để chọn lấy người, đây thì thiên dẫn người xưa để thông thắng pháp.

Sự bản bản sự: Thông nêu xa xưa đức Phật Oai Âm Vương là bản sự Bất Khinh gọi là sự bản. Trong đó biệt dùng thời đức Phật Oai Âm Vương tối sơ làm sự Bất Khinh cho nên nói bản sự. “Đắc hoằng tông của chánh thuyết…”: Trước nêu hai câu. “Danh thường…”: giải thích hai câu này:

  1. Giải thích câu đầu.
  2. “Bất Khinh kính sâu…”: giải thích câu tiếp.

Hoằng rộng lớn, tông cao quí tôn trọng. Bản tích hai văn Tứ nhất tánh, chánh nói Đại tông không quá thật tướng. Thật tướng chỉ là Phật pháp thường trú đây chỉ tông tột cùng của tông chẳng phải tông thể tông. Một đời tuy nói hoặc gồm, hoặc đối, hoặc thuần tiểu giáo, hoặc tạp trợ môn, hoặc ức chế hoặc che đậy, văn rộng sự rộng, giáo giáo không đồng, vị vị ý biệt. Mà Bất Khinh chỉ tuyên dương. Hai mươi bốn chữ “có” nêu lên có giải thích thuật đủ nhân quả. Nhân đã ba tánh, quả tức ba đức, huống dùng Tứ nhất kiêm lợi ích tự tha, thẳng chỉ hai nhân để làm pháp Bất Khinh tuyên bày. Cho nên, nói “hoằng tông”, tông hiển thật không ngoài Tứ nhất. Tứ nhất mỗi chỉ là ba, cho nên nay trở lại y Tứ nhất để hiểu văn. Trong đó 1) Giải thích Tứ nhất hoằng tông.

  1. Dẫn văn phân phán vị.
  2. “Tùy hỷ…”: nêu ý tùy hỷ.
  3. “Kinh người…”: kết ý tùy hỷ.

Phần một Giải thích Tứ nhất hoàng tông, có hai:

l) Nêu Tích môn hiển thật.

2) Nêu Bản môn khai cận.

Đầu nêu Pháp Sư tùy hỷ, chỉ bày sau khi Phật diệt độ nghe nói lợi ích của người hoằng kinh. Đây dẫn quá khứ nói người hoằng kinh người nghe đều thâu hoạch công lớn; hoặc hoằng hoặc nghe đều đề cập đến bản tích đâu riêng gì thẳng nói làm Phật mà thôi! Cho nên đều phải căn cứ hai môn giải thích mới xứng hợp với Bất Khinh tuyên bày, mới hợp với đức Oai Âm Vương diễn thuyết, có thể cùng năm phẩm lý hợp, sau đắc lục căn mà có chỗ trở về. Nói sự nghe đầy đủ là hoàn toàn tiêu biểu Bản tích, huống chi hiệu Pháp Hoa không chuyên ở một môn. Trước tiêu biểu trong Tích nói tên Thường Bất Khinh là một người… nên tùy theo văn tướng dùng hiểu nghĩa Tứ nhất khiến hiệp ý chỉ văn đây. Tuy người thượng mạn vì đó lập danh, mà đã là Bồ-tát thì hạnh nguyện sở cảm cho nên khiến để ghi khắc thầm hội nhập việc kia. “Cho đến xa thấy…”: là tiêu biểu bản Tứ nhất, chỉ là dùng viễn mà tiêu biểu nơi viễn. Cho đến Bất Khinh tự có Tứ nhất bản địa. Cho nên, khiến cho người chưa kham hiển bản, chính dùng viễn trú tiêu biểu. Trong Tích hiển Thật còn dùng Tích bốn mà gượng độc, huống lại Bản thật có thể tức liền thọ ư! Tích hiển mà Bản mật, cho nên biết Tứ nhất là tông chỉ hoằng kinh.

Phần hai Dẫn văn phân phán vị, nói: “Không chuyên…”: là hiển bày không đọc tụng kinh cho nên dùng Bất khinh làm chuyên. Mà nói chỉ lễ lạy là dùng pháp nhập vị không chỉ như năm hạng Pháp Sư. Hoặc tự hoặc tha, hoặc tín hoặc pháp, hoặc xa xôi hoặc hiển rõ, hoặc rộng hoặc lược, cho nên chỉ tuyên một câu công chẳng lớn ư! Cho nên nay văn phán thuộc vị Tùy hỷ, làm nhân thân cận sáu căn. Có người nói: Không chuyên là tạp. Nay cho rằng: chỉ hiển không tạp, không chuyên đối chuyên.

Có người hỏi: Vì sao lễ tục? Nay vì đáp: Bồ-tát hóa duyên phương pháp rất nhiều, chỉ làm việc lợi ích cho nên thiết lập nghi thức đây.

Thấy chúng sinh lý cùng quả lý… cho nên lễ chúng sinh lễ Phật nguồn gốc ấy không sai khác, đây là tự hành. Muốn cho chúng sinh sinh mộ quả nguyện. Quả nguyện là gì? Chúng con chỉ lý người kia cao thượng cho nên lễ bái, huống chi chứng quả lý mà không tôn kính ư! Lại nói các ông đều hành Bồ-tát đạo sẽ được làm Phật, đâu chẳng kích thích chúng khiến tu Viên nhân. Đây căn cứ hiện tại thuận người theo, cũng là tín hạnh cũng là pháp hành. Xét lợi ích có thầm có hiển, hiển cận, thầm viễn, viễn như thắng ý hiện tuy không thọ, tiếng nạp ở trong lòng. Do tội hủy báng đọa vào đường ác, nghe sức thuận tùng lại gặp Bất Khinh, cho đến ngày nay lại khiến hội nhập. Do nghĩa đó cho nên người thượng mạn còn thành tự nhân viễn, nghe tin sao không có lợi ích hiện tại! Cho nên người hủy báng thành nhân “trống độc”. Rộng lược căn cứ đây có thể biết. Tự hành trang nghiêm công hóa trở về mình, tự tha huân sáng cho nên thanh tịnh sáu căn.

Có người trong đây dẫn Đại kinh nói “lễ người tri pháp”, và trong Tịnh Danh nói “Tỳ-kheo lễ thế tục”. Nghĩa đây không như vậy. Niếtbàn thường là khuôn phép hiển chí kỉnh Pháp, từ kia thỉnh lợi ích cho nên vong tình lễ cưới. Tịnh Danh nghe pháp rồi thâu hoạch ân năng, cho nên vong ân là phạm, giả thiết kính không còn khuôn pháp thường. Hoặc chánh nghĩa Đại thừa vượt ngoài phép tắc thường tục cũng không khiến đạo mà lễ nơi tục. Bất Khinh lập hạnh đều khác các nghĩa này, không vì tuyên thông Đại tiểu, không phải giáo. Có người nói: Bồ-tát không làm lễ như thế tức là có phạm. Nay cho rằng có phạm cần phải căn cứ khoa điều (điều kiện). Phạm võng không có văn nói, nay quá ít nên không chế. Lại nói Bồ-tát đối tánh tội ắt thâu hoạch, đối giá tội có siêu việt. Nay cho rằng đối với giá tội ắt siêu việt gọi là trì phải không?

Vượt không gọi là trì phá chẳng phải Bồ-tát. Quên phạm cứu giúp vật quí tại vật yên ổn, nếu vật yên ổn thì đâu cần phân biệt giá tánh! Nay lễ lạy bốn chúng cứu giúp chúng nào có tội? Cho nên Đại tiểu nhị thừa đều ngăn lễ bái thế tục, lễ còn không thọ nghĩa cứu giúp không thành.

Phần ba, “Tùy hỷ…”: căn cứ nhân pháp nêu ý tùy hỷ: Ắt đủ ba nhân, an lạc là tổng, ba nhân là biệt cho nên nói đều là Nhất thật tướng. Lại nói đều có ba nhân. “Đọc tụng…”: Biệt giải thích ba nhân. “Bất Khinh kính quí…”: giải thích câu lợi ích vi diệu của lưu thông. Trong đó đầu chính căn cứ ba, bốn để chỉ bày lưu thông. “Như đây…”: là kết thành: Đầu văn: Nếu được phép tắc ba pháp hoằng kinh thì tự tha đều cứu giúp. Phải biết ba pháp tuy thuận phẩm trước kỳ thật tức là ba nhân của phẩm này. Cho nên, cũng lại đối bốn An lạc hạnh, đây căn cứ trước có thể biết. Không thọ Tứ nhất: Lẽ ra dẫn sự chửi mắng… nương theo giải thích rõ không thọ tướng Tứ nhất, bản địa cũng như vậy. Văn chỉ lược đối kinh mà thôi. “Bất Khinh cùng đại mà gượng…”: vì xướng khiến người nghe, nên giải thích độc mạnh để làm tướng đương lai nghe pháp, đầy đủ như kinh văn nói “đời sau được lợi ích”.

“Ý nghiệp thanh tịnh…:”: Nên giải thích tướng ba nghiệp đối tướng ba lực, lại cần phải đối áo, tòa, nhà… thần thông là nhà, thuyết biện là tòa, thiện tịch là áo. Rộng đối tất cả căn cứ đây có thể thấy. Những người chê bai liền sinh tùy thuận còn đọa khổ, vậy thì đánh trống hai thứ tin và chê làm hai nhân đời này và sau.

Hỏi: Nếu nhân hủy báng đọa khổ, Bồ-tát cớ gì vì làm nhân khổ?

Đáp: Do kia không có nhân thiện nên không hủy báng cũng bị đọa. Nhân hủy báng đọa ác ắt do được lợi ích như người ngược đầu xuống đất trở lại từ đất đứng dậy, cho nên dùng chánh hủy báng để tiếp nơi tà đọa.

Việc sẽ siêng năng huân tập năm thứ hạnh: Năm hạnh của Pháp sư. Kệ văn chỉ nói mười lăm hàng rưỡi đầu tụng quả báo, bốn hàng sau tụng khuyên trì. Căn cứ tụng văn đây nên nói không tụng song chỉ, chỉ tụng song khai song khuyến hai văn. Trong tập đầu song khai, văn trường hàng có hai: Sự bản, bản sử. Nay một hàng rưỡi tổng tụng sự bản, thiếu kiếp quốc… Tiếp tụng bản sự, trường hàng có ba: Nay một hàng rưỡi đầu tụng song song nêu lên hai người. Tiếp, hai hàng rưỡi tụng nghĩa được, mất: Một hàng rưỡi tụng nghĩa được, nửa hàng tụng nghĩa mất, nửa hàng lập lại nghĩa được. Tiếp, “Tội kia…”: mười hàng tụng nêu quả báo tin và chê và kết xưa nay. “Cho đến định nghĩa là…”: Đây chính không chuyên phán xét tà, ngoại đạo. Phật quyền thật giáo chấp đều gọi là trước (chấp). “Da trâu…”: như Chỉ Quán quyển 5 nói. Do tâm chấp trước ở giáo Không, chấp trước như “da trâu”… hướng phía mặt trời thêm cứng chắc. Vong thất chánh pháp cũng như tổn hại thể, nên người nhận thọ phương tiện giáo ở vị ngoại phàm đều chưa tránh khỏi hủy báng, cho nên có không thọ lời nói Viên thật của Bất Khinh.

GIẢI THÍCH PHẨM NHƯ LAI THẦN LỰC

Giải Thích Phẩm danh (tên phẩm): “Như Lai” ở phẩm Thọ lượng bên trên đã giải thích. “Thần lực”: “Thần” tại bên trong tức thể tông, “lực” gọi là tài sử dụng tức là “dụng”. Phật thuyết bản tích, khẩu luân lực dụng đã xong ở trước. Nay lại thân luân hiện thắng dụng đây khiến chúng lưu thông giáo Bản tích, nên nói: thể sâu lực lớn. “Chữ đây…” biệt nêu Lai ý (nguyên do). Từ đây sắp xuống tổng gọi Lai ý. Đầu tiên đối trong chúng nói tất chỉ chỉ phương khác, xưa trụ chỉ bản hóa lẽ ra chẳng phải bốn chúng tám bộ. Cho nên nói “tất cả” tức văn từ: “Và các” trở xuống. Mười thần lực: Năm văn đầu chánh nêu rõ hiện tại lưu thông bản tích, năm sau tổng nêu vị lai không thôi! Lại, trong năm văn trước:

  1. Đầu tiên, khiến chúng tổng tin Bản tích, bốn văn tiếp tức là hiện tại Tứ nhất.
  2. Tiêu biểu hai môn lý nhất cảnh trí cho nên gọi là trí cảnh.
  3. Tiêu biểu hai môn giáo thích nghi tức là Giáo nhất.
  4. Tiêu biểu hai môn nhập thật tức là Nhân nhất.
  5. Tiêu biểu hai môn phá hoặc tức là Hạnh nhất.
  6. Trong môn đã chỉ năm ngàn người bị dời đổi, ba loại người thất tâm: ba loại người như đây theo lệ tức là sau khi Phật diệt độ được lợi ích.

“Nói cơ”: Cơ nghĩa đương tổng, tổng nơi vị lai Tứ nhất, tức là được lợi ích nơi Tứ nhất. Dưới trở đi nói bốn tướng sai biệt tiêu biểu vị lai Tứ nhất. Văn tự kết danh chỉ mỗi thuật điều cốt yếu khiến thành một. Do đó bốn chỉ nói một không nói Bản tích, tại vị lai còn chưa nhập thật sao luận bản kia! Nếu thấy thật cũng thấy bản kia, cho nên tổng kết nói tiêu biểu hiện tại tương lai. Trong năm văn đầu mỗi mỗi đều có Bản tích lưu thông ba tướng. Đầu văn trước nêu. “Nay kinh…”: là trình bày trước tích nói khai hiển. “Nội bí…”: là trình bày trước khi Tích hiển Bản. “Nêu ba đời…”: nêu dụng trung gian. “Người phước đức…”: ý nói thần lực đầu tiên. Văn thứ hai: Trước nêu nay thần dụng tiêu biểu. “Từ bạch hào trên…”: Nêu nơi tích môn thần dụng tiêu biểu đồng. Cảnh trí hợp cho nên ban đầu thấy Lý nhất. “Nay Bản môn…”: nêu ý đã tiêu biểu trước. Do thấy lý xa cho nên khiến tăng đạo tổn sinh đến gần nơi cùng tột. “Phân thân…”: Tướng đây đã đồng đều nơi cõi kia, lợi ích cũng vậy.

Văn thứ ba: Trước nêu danh, biện ý, thuật tướng. “Hơn bốn mươi…”: chánh thuật tiêu biểu tích. “Muốn dùng…”: nêu bản ý. Nói đủ hai: Sự tức bản tích, trao cho mọi người khiến thông nơi đời vị lai. Văn thứ tư: Đầu nêu danh biện ý. “Tùy hỷ…”: tiêu biểu Tích lợi ích. “Tùy hỷ Viên đạo…”: tiêu biểu Bản lợi ích. “Tùy hỷ các Bồ tát…”: tiêu biểu Lưu thông lợi ích. “Đây một…”: công năng lưu thông. Văn thứ năm: Tuy không phân Bản tích mà một văn gồm nhiều… năm có thể biết. Kết yếu có bốn câu: Bản tích hai môn đều có công dụng, thể hai môn hai xứ không khác. Danh đứng đầu ba thứ này mà tổng nơi ba, cốt yếu một bộ đâu quá nơi đây, cho nên tổng nắm cả để thành Lưu thông. “Bát tự tại”: Như Chỉ Quán nói. “Trong kinh chủ yếu nói…”: Là trình bày ý này. “Đạo tràng”, giải thích ở trên. Sự thậm thâm; sự tức nhân quả, nay đạo tràng là quả, quả ắt có nhân. Dùng Bồ-đề giải thích tạng: Bồ-đề là trí năng khế hợp ắt có cảnh sở chiếu, cảnh tức bí tạng, dùng năng hiển sở: Dùng chuyển pháp luân giải thích nhất thiết pháp, có pháp sở chuyển, pháp ắt có danh; dùng Niết-bàn giải thích lực dụng, lý mãn giải thích quyền nghi, xướng diệt giải thích cận nghi. Tông tuy cận viễn mà đồng gọi là nhân quả, không còn phán xét riêng.

A-hàm nhờ Tiểu mà chứng Đại, kia thì từ sự, nay thì nhờ chứng lý, khai Tiểu tức Đại cho nên có thể làm chứng. Trong tụng văn, đầu tụng mười thần lực chỉ có năm, thiếu năm sau. Năm trước hiện thấy theo cần phải giữ, năm thần lực của trước sau hiện tại vị lai khác. Nêu hiện tại vị lai phỏng theo, vì vậy nên lược. “Chúc lụy…”: hai hàng tổng tụng bốn pháp, chỉ nói chúc lụy đến biên tế đủ bốn nghĩa, bốn nghĩa đều là vô biên tế. “Năng trì…”: biệt tụng. Một hàng rưỡi đầu tụng tất cả pháp, không ngoài năng hóa năng chứng sở hóa không có nhị thừa, không kiêm Đới, pháp kia bí mật vi diệu. “Khiến ta…”: kệ tụng thần lực. Đã nói hoan hỷ tức là dụng tùy thích. Tiếp một hàng kệ tụng bí yếu, danh đồng dễ thấy. “Đối các pháp…”: tụng việc sâu xa, giáo hóa các Bồ-tát rốt ráo trụ Nhất thừa, thừa là quả của nhân. Một hàng rưỡi sau tụng tổng kết, tổng kết bốn pháp. Nói “hoặc năng trì”, là trì bốn pháp vậy.

PHẦN HẠ

GIẢI THÍCH PHẨM CHÚC LỤY

Giải thích phẩm này, trước là biện rõ tha nhân để phán định phẩm trước sau. Tiếp là nay chánh văn giải thích. Văn đầu: Ngài Từ Ân ở An Quốc (tự) đều khiến đổi phẩm này ở sau Khuyến Phát. Hoặc ở trong đây có tám tướng trái, mười điều không thể, tôi tuy kiến giải sơ sài mà ít nhiều cũng có thọ lãnh, thường nghe lời Từ huấn dạy rũ lòng chỉ bày những ý chỉ “bào chữa” mà sâu xa có nơi nương Tựa. Gần đây thấy Tú Công nói Pháp Hoa viên cảnh, rộng lập các khó khăn không vượt qua qui cũ trước. Nay thu góp các điều nghe trước gồm giúp sau hiểu, tổng biệt bào chữa đó cũng có tám điều không thể.

1/ Tổng bào chữa: Xuất hiện tháp về sau phàm thuật Đa Bảo đều nói rong tháp không nói thấy Phật. Nếu dời đổi ở sau không có xuất hiện xứ tháp; là một điều không thể.

2/ Phân thân về sau phân tán phàm có thuật, chỉ luận Phật tháp không liên quan đến phân thân. Nếu đời đổi sau thì Phật không có phân tán xứ là điều thứ hai không thể.

3/ Trong văn Chúc Lụy thì Phật tán cõi uế, sắp xuống kinh văn nói không liên quan đến tịnh, nêu đời đổi sau không còn uế xứ (nơi uế) là điều thứ ba không thể.

4/ Hội bản nơi địa nhân tháp bay lên hư không Phật tán xuất tháp văn sau địa. Nếu đời đổi sau không trở lại ở nơi địa (đất) là điều thứ tư không thể.

5/ Sau phẩm Chúc Lụy kinh đã chưa hết chỉ thuật là “chúng hoan hỷ”, không nói “mà đi”. Nếu dời đổi sau thì cần phải nói thêm “mà đi”, là điều thứ năm không thể.

6/ Sau phẩm Khuyến Phát không còn văn khác kinh đã cuối cùng thì nói mà đi. Nếu dời đổi sau thì cần phải bỏ chữ “mà đi “, là điều thứ sáu không thể.

7/ Bản tích hai môn Phật sự đã xong cần có phó chúc là có Chúc Lụy. Nếu dời đổi sau thì pháp không chỗ trở về, là điều thứ bảy không thể.

8/ Chúc Lụy về sau nêu thừa thăng nhân, hoằng kinh bản sự, sự cần chúc lụy. Chúc lụy về sau thừa nương theo người, hoằng kinh bản sự, sự cần chúc lụy. Nếu dời đổi sau thì thầy trò lẫn lộn, là điều thứ tám không thể.

Tiếp, Bào chữa riêng: Thuật đủ vốn phá mỗi mỗi bào chữa:

1. Nói các bản trái nhau: Căn cứ Chánh Pháp Hoa và đời Tùy ngài Quật-đa Tam tạng thêm trong phẩm Pháp Hoa, phẩm này đều ở cuối kinh. Bào chữa nói: Chánh diệu hai bản người dịch đã khác, nên chỗ thấy đều sai biệt. Nếu khiến đồng hết, điều này không thể. Nói “thêm phẩm”: Căn cứ trong Nam Sơn Điển Lục nói: Ngài Quật-đa đem dời phẩm Chúc Lụy để sau cuối kinh, Quật-đa đã sửa đổi lại, Pháp Hộ chưa thể làm bằng cứ. Chánh bản đã ở trước kia phẩm thêm không gọi là sửa đổi. Nam Sơn đã bài xích phẩm thêm nghĩa đương hai bản đều sai. Vì sao? Vì ngài La-thập tuy sinh ở Qui-tư nhưng ngao du khắp Ngũ Thiên trúc lẽ nào riêng không thấy phạm bản Pháp Hoa ư? Ở lâu tại Trường An, lẽ nào không từng thấy Pháp Hộ dịch ư! Mà lại dịch không dụng, phải biết Pháp Hộ chẳng kham chỉ nam, nếu kham rõ chỉ nam sao văn nghĩa không bao hàm y chánh bản ư! Nếu chê văn nghĩa người sau dịch nông cạn, thì đời Tùy dịch càng nông cạn hơn trước. Nay y ngài La-thập dịch lý có thể căn cứ đây làm bằng cứ. Cho nên Duệ Công nói Phạm âm sai lầm, chính vì Thiên Trúc, Tần nói sai lầm chính vì chữ nghĩa, không thể người dịch tức liền mà viết ra. Đâu phải Thập Công cùng bốn đệ tử đốn như vậy mà không liền hiểu. Dời một phẩm an trí trong Kinh. Nếu không lường được ý chỉ trở về thì chỉ nên tôn kính mà thôi! Đâu được dùng kiến giải phàm làm thước đo lường đại hải hư không ư?

2. Nói kinh và luận trái nhau. Pháp Hoa luận nói: Lực tu hạnh có năm: Thứ năm trong sức hộ pháp nói như phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát và phẩm sau. Phẩm sau tức chỉ phẩm Chúc Lụy. Bào chữa rằng: Luận cũng có người dịch, trong khoảnh khắc đâu có nghi! Huống chi luận tuy từ Tây thiên đến mà thời dịch đã sau Chánh Pháp Hoa, chỉ là người dịch thuận với Chánh Pháp Hoa, chánh Kinh vào thời Tây Tấn dịch, luận vào thời Ngụy dịch. Đời Tùy ngài Cấp-đa thấy Chánh Pháp Hoa phẩm Dược Thảo Dụ sau có trường hàng và kệ tụng và phẩm Chúc Lụy 29 ở sau, liền dùng Chánh kinh thêm vào trong phẩm, và dời Phẩm Chúc Lụy ở sau phẩm Khuyến Phát, ngoài ra không nói gì. Khiến người đời sau nói thêm phẩm Pháp Hoa. Cho nên biết người dịch không ngại tùy theo thấy, Diệu và Chánh, hai bản đồng một Phạm văn. Bỗng có thể tin La-thập mà thôi ở Pháp Hộ, đâu được giải thích Diệu bản chuyên dùng luận làm bằng cứ. Tú công nói: “Nói phẩm sau là kinh Phổ Hiền Quán, do đồng Phổ Hiền phát khởi khiến y kinh tu quán”. Lại nói “phẩm sau”: Kia đã không xuất danh mục thì tợ như Kinh độ bất tận. Nếu không như vậy thì sao không nói và phẩm Chúc Lụy mà chỉ nói “sau” ư? Đây cũng là một ý kiến. Nhưng căn cứ Thiên Thai phân phán làm kết kinh, thì không nói ở sau phẩm Khuyến Phát.

3. Nói các giáo trái nhau: Tất cả các kinh đều ở cuối kinh vì sao kinh này riêng tại nơi đây! Bào chữa rằng: Theo lệ đồng các kinh, trái với ngăn ngại, lại rất được, tức như Đại Phẩm ở giữa có phẩm Lụy Giáo, cuối kinh lại có phẩm Chúc Lụy, không thể tất cả đều an hai nơi, như kinh Đại Bảo Tích nói bốn mươi chín hội, mỗi hội đều có văn phó chúc, đâu khiến tất cả các kinh đều như vậy. Như kinh Kim Cang hỏi danh hỏi trì, chính ở kinh không thể hết thảy khiến ở giữa. Pháp Hoa khai Quyền hiển Bản, thọ ký hàng Thanh-văn, thì đâu khiến hết thảy đều hiển Thật. Không thể ước lệ giống nhau, số kia chẳng phải một.

4. Nói hai sự trái ngược: Phân thân nếu trở lại cõi này lại là uế, căn cứ Diệu âm được răn khuyên cho nên biết cõi uế. Trong phẩm Chúc Lụy cũng khiến Đa Bảo trở về, Quan Âm không nên cho báu vật chia hai, phân hai tức Đa Bảo chưa trở lại. Bỏ đi đã đồng không nên trái ngược. Bào chữa rằng: Chỉ do chưa trở lại cho nên báu phân hai. Vì vậy chỉ nói một phần phụng cúng tháp Phật Đa Bảo mà không nói phụng cúng Phật Đa Bảo, cho nên biết sự hoàn tất là đi. Có duyên thì trụ, đối lý đâu có tổn thương. Nếu Đa Bảo tại phân thân không hợp tán, thì kinh văn chỉ nói tháp có thể như cũ. “Như cũ” chỉ là y ban đầu đóng trở lại, khiến sơ thân tán, tức nói đều trở về bản quốc. Cho nên biết tuy tức khiến tháp kia trở lại nghe kinh còn lại mà tháp đóng như cũ, như khi tháp chưa mở. Chỉ nói Đa Bảo ở trong tháp báu phát ra âm thanh. Lại nói bốn chúng nghe trong tháp phát ra âm thanh. Đại Nhạo Thuyết nói: Ở trong tháp kia phát ra âm thanh ấy. Lại đức Phật bảo “Đại Nhạo Thuyết! Ở trong bảo tháp có đức Như Lai…”, cho nên tháp chưa mở. Đại chúng chỉ nói Đa Bảo Như Lai ở trong Bảo tháp.

Tiếp tháp mở rồi, Đại chúng đều nói thấy hai đức Như Lai ở trong bảo tháp. Nếu tháp đóng sau như cuối Dược Vương nói: Đa Bảo Như Lai ở trong Bảo tháp. Diệu Âm đến đây chỉ dâng lên Thích-ca chuỗi Anh Lạc để trình bày hỏi han. Tiếp mới hỏi rằng: Đây đức Đa Bảo đã diệt độ từ lâu ở trong tháp báu có đến nghe pháp không? Vẫn đối đức Thích-ca trình bày đức Phật kia hỏi rằng: Có an ổn kham nhẫn trụ lâu chăng? Phải biết tháp đóng còn trụ mà chưa đi. Lại nói xin đức Thế Tôn hiện bày cho con được thấy. Đâu thể có hai Đức Phật cùng ngồi tòa, bèn nói xin thấy. Lại đức Phật Đa Bảo ở trong tháp báu bảo Diệu Âm rằng: Chỉ nói ông vì cúng dường đức Thích-ca… không nói phân thân, đâu có phân thân tận thấy mà không cúng dường! Lại nữa Diệu Âm muốn trở lại chỉ nói cúng dường đức Thích-ca và tháp Đa Bảo thôi! Không nói thấy Phật ở nơi kia thấy đức Tịnh Hoa Tú Vương, chỉ nói cúng dường đức Thích-ca và tháp Đa Bảo, cũng không nói thấy Đa Bảo Như Lai và dùng phân thân. Lại khi Văn-thù đến liền nói: “Đầu mặt kính lễ hai đức Thế Tôn”, sau Chúc Lụy hoàn toàn không có văn đây, cho nên tháp đã đóng phân thân đã giải tán. Nếu phân thân nơi Quán Âm cho báu vật về lý nên cúng dường không nên chỉ hai.

5. Nói hai mạng không bằng: Vì sao phân thân, Đa Bảo cả hai đều xướng giải tán, bỏ đi giữ lại không đồng. Nếp nói chỉ khiến tháp đóng nói như cũ, vì sao Chánh bản nói “trở lại bản quốc”? Bào chữa rằng: Hai mạng dù đồng, sở duyên đều sai biệt, Bảo tháp vì nghe kinh cho nên đến, phân thân vì mở tháp cho nên vân tập. Tháp đã đóng thì phân thân phải giải tán, kinh còn chưa hoàn tất cho nên tháp chưa trở lại. Phân thân đã giải tán, cõi hợp lại thường. Cho nên văn trước nói: Vì chư Phật sẽ đến ngồi; đều tịnh tám phương. Huống chi Chánh Pháp Hoa nói: Có thể trở lại bản độ. Tự ngài Pháp Hộ dịch không đúng, tại sao phê phán bản của Ngài La-thập khiến theo Chánh kinh! Nếu Chánh kinh làm chánh thì không nên dịch trùng, chỉ nói như cũ. Nếu muốn y Chánh kinh thì sao không chánh bản, khắp xem chánh bản nơi nơi trái nhau và do vọng lầm trước sau chẳng phải một? Cho nên cần dùng Chánh kinh làm chuẩn.

Lại hỏi: Đức Thích-ca xuất tháp tháp vì sao phải đóng, tháp phân thân đâu hẳn phải giải tán?

Đáp: Đa Bảo bản nguyện chỉ nói dùng tháp nghe Kinh, nếu dùng thân ta chỉ bốn chúng, thì khiến phân thân vân tập. Phải biết phân thân mở tháp cho nên vân tập. Đức Thích-ca cũng vì mở tháp mà trú tại hư không, trú hư không cho nên mở tháp, tháp mở cho nên khiến ngồi. Chúc lụy cho nên xuất tháp, xuất tháp cho nên tháp đóng, tháp đóng cho nên phân thân việc xong, việc xong cho nên phải giải tán. Cho nên tháp mở đóng phân thân tụ, tán đều có nhân duyên, đâu cần nạn vấn nói hai mạng không bằng.

7. Tháp không trở lại: Phân thân chư Phật khiến đi đều trở về. Đa Bảo Phật tháp đến cuối Kinh lại không có xứ trở lại. Nếu phẩm ở sau tức xướng xong, là khi trở lại! Bào chữa rằng: Kinh xong tự trở lại đâu cần cầu xứ. Đến sau khuyến phát tất cả Đại chúng làm lễ mà đi. Làm lễ tuy không thông đối Bảo tháp mà đi khắp bao quát tất cả. Bản nguyện Đa Bảo nghe Kinh cho nên đến, Kinh nếu sau cùng sao lo không đi! Chỉ lo tháp không có nói về đi, không lo cõi không nói uế, nếu cõi sau lại uế, sao được cũng không có nhân thiên đến!

8. Nói tịnh uế không đồng: Diệu Âm khuyên răn lại chẳng phải tịnh độ, cho nên biết phân thân lâu đã trở lại quốc độ. Ngày phân thân vân tập đâu khiến thị giả đều ở Linh Sơn, tin các núi đều không mà còn có Linh-thứu. Văn-thù từ trong biển xuất hiện cũng nói Linh Sơn bỗng có hoa hiện. Cho nên Diệu Âm đến trở lại dựa xưa răn dạy. Bào chữa rằng: Kinh văn rõ ràng mà người đọc không hiểu. Kinh nói: “Dời các thiên nhân đến nơi cõi khác, chỉ lưu chúng hội đây”. Cho nên biết cõi tịnh làm an chư Phật, chúng cũ ở Linh sơn không đời đổi có thể rõ ràng. Căn cứ Văn-thù khi đến liền nói chỉ Linh Thứu trú giữa hư không. Khi Diệu Âm đến không nói trú ơ giữa hư không cho nên biết tịnh thì ở giữa hư không lại uế thì ở đất. Nay phân thân đã giải tán cho nên hết thảy đều uế, mà mất đi rồi nhận lấy lý uế trở lại. Khổ chấp Linh Sơn riêng uế, Diệu Âm khuyên răn nói đầy đủ cõi, không riêng nói núi, cho nên nói chớ khinh quốc độ kia… Vì thế, Văn-thù, Diệu Âm khi hai người đến lý kia không đồng. Muốn khiến thành một, lý ấy khó đồng.

9. Nói chúng vui trái tình: Phẩm Chúc Lụy nói khiến phân thân trở lại mà tháp không bỏ đi. Nếu chẳng phải cuối Kinh nói chúc lụy thì A-tu-la vui mừng quá sớm, vì đã chẳng nghe pháp hoan hỷ, chính là thấy Phật khách đi sinh vui an ủi rất đáng lạ. Bào chữa rằng: Đến đây vui mừng mà ganh là rất sớm, vậy cuối ba chu đều có hoan hỷ, lại sớm đối với đây sao không lạ ư! Nói thọ lượng xong trong phân biệt công đức nói: Nghe đức Phật thọ vô lượng hết thảy đều hoan ỷ. Nay bản tích đều xong lại nghe tùy hỷ việc ít công nhiều, lại nghe Pháp Sư nghe, trì hiểu sâu, lại nghe Bất Khinh năng hóa sở hóa hiện tại đời sau đều lợi ích, rõ ràng pháp hoàng kinh không có nghi thức thường cố định.

Lại thấy đức Thích Tôn hiện mười thần lực, trao cho bốn điều kết yếu, ba xoa đầu phó chúc, ba trở lại lãnh thọ việc lớn công xong, đâu được không vui mà nói rất sớm ư! Phải biết người này sau cùng đến cuối kinh cũng chưa hoan hỷ đâu có thể hoằng kinh khiến người khác vui được ư! Nói vui vì Phật khách đi đổi ở văn sau lại phải thêm tháp đi, mà sinh hoan hỷ lại càng kỳ lạ! Nghiệm đây biết tất cả đều dùng phàm tình so sánh Thánh, uổng công tích góp viết ra nói lên một điều khỏa lấp tất cả! Lại nói chỉ là trước thi thần lực cho nên thấy tịnh độ. Cõi này vốn uế sợ Diệu Âm thấy tướng cõi uế mà sinh chê dèm cho nên đức Phật răn dạy. Chẳng phải Diệu Âm đến phân thân mình trở lại mà cõi chỉ uế, như tuy tịnh độ còn thấy Linh Sơn, biến đổi không chỉ tịnh mà gồm thấy cả uế, như trên nhìn thấy dưới. Bào chữa rằng: Linh Sơn là Phật tự lưu cho nên khiến Đại chúng đều thấy. Như Lai tự nói tịnh độ, lại làm giải thích quanh co nói không chỉ tịnh, Phật nói đều khiến thanh tịnh, mới nói bản uế vẫn còn. Nếu nói trên năng thấy dưới, đối tịnh thấy uế, sao không phải Diệu Âm đối uế thấy tịnh. Lại năng thấy. Tâm kia tịnh cho nên cõi Phật chưa tịnh. Nếu còn thấy nơi uế thì biết tâm Diệu Âm bất tịnh mà Phật còn răn dạy. Diệu Âm thấy uế còn sinh chê dèm đâu được gọi là vì trên năng thấy dưới ư! Dưới sinh hạ tưởng chẳng phải thượng nhân, còn sinh chê dèm thì đâu phải thượng nhân ư!

Tiếp Thiệp Pháp Sư lại thêm hai nạn vấn tổng thành mười nạn cho nên nói mười điều không thể. Trước phá tổng trình bày. Tiếp dịch hai nạn. Trước phá: Trước kia trình bày nói: Thập công đặt phẩm Chúc Lụy sau phẩm Thần Lực, từ đó đến nay đều cùng tín thọ. Và nói biên chép thay đổi trong đó khéo đắc ý Kinh. Nếu ở sau thì liệt kê ra các chướng ngại, lược như trước đã thuật. Mà nói dùng nghĩa phán xét văn chính nên an trí đây. Chỉ vào đời Đường ngài Từ Ân pháp sư không chịu theo nghĩa đây. Pháp Sư lại nói: Diệu Âm được răn dạy nếu là uế thì Văn-thù từ biển đến đâu có Linh Sơn! Chỉ là nói chỉ lưu hội đây không nói chỉ lưu Linh Sơn. Phải biết trong ngoài đều tịnh, chỉ là vẫn theo cũ mà nói. Lại nói “phân thân tức là Thích-ca”. Nếu Đa Bảo toàn thân cũng cùng một phần. Thì đức Thích-ca Phật thân chỉ cùng một phần. Nếu thọ nhiều phần ấy là Thích-ca thọ lợi dưỡng nhiều, tu lục hòa kỉnh đâu nên như vậy ư! Cho nên chỉ cùng một phần. Lại nói: Nếu chúc lụy tại đây Như Lai đứng dậy, không nói ngồi lại, phân thân Phật đi, không nên đứng trao tặng, Quan Âm thọ thí không nên đứng thọ! Lại nói: Đại chúng đều vui chỉ chút phụng hành không nên an đây. Lại nói thần lực đi uế chưa chắc hoàn toàn trừ. Nếu cần hoàn toàn trừ thì đều ở nơi nào! Sao ở cõi tịnh mà chấp nhận uế này sinh? Bào chữa rằng: Chánh bản Pháp Hoa từ Tây Tấn đến đời Đường đều không hành dụng. Kinh Diệu Pháp đây về sau vào đời Tần dịch song truyền bá khắp thiên hạ, huống chi lưu hành ắt nhờ sức gia bị, được gia bị, đã toại ý sao có thể luận bàn nữa ư! Huống lại thọ trì ứng nghiệm vô lượng. Phổ Hiền còn trao dùng câu phù hợp mà không trách đời đổi phẩm, huống lại sau thời ấy danh Tăng thạc học kế thừa như rừng, cùng đồng ý để phẩm Chúc Lụy trong đây đâu đợi đến đời Đường mà thấy trái xưa. Nhưng kinh này dùng Thường trú Phật tánh như yết hầu, dùng Nhất thừa diệu hạnh như mắt thấy, lấy tái sinh bại chủng làm tâm phủ, lấy hiển bản viễn thọ làm mạng kia mà từ chối để duy thức diệt chủng giết chết tâm kia. Dùng Bà-sa Bồ-tát che đậy mắt kia, dùng thọ lượng giải thích nghi đoạn mạng kia, dùng thường trú bất biến cắt đứt yết hầu, dùng ba cõi tám ngục làm đại khoa, hình giống như đây làm tiểu, dùng Nhất thừa bốn đức để làm nghĩa Tiểu, không thể hội qui. Căn cứ đây để luận, theo lệ có thể biết.

Nói vẫn như xưa thuyết: Diệu Âm chưa từng đối với đều này sinh mạn. Hoặc cõi còn tịnh, đầy ở trong đó chư Phật Thích-ca và tháp, chúng lại ở trên không. Thần lực hiện mười phương thông đạt đâu cần vẫn như xưa, uổng phí răn dạy Diệu Âm! Đức Phật kia hiện thấy cao thấp không đồng, mà che khả năng Phật trí nói cõi còn tịnh, mà nói đức Thích-ca không thọ lợi ích nhiều, thuận lục hòa kỉnh thì chính là khiến Thánh bắt chước phàm. Nếu nói phân thân tức là Thích-ca, Thích-ca mở tháp tức cũng phân thân, đâu cần lại vân tập. Nếu căn cứ ứng tích đều biệt vì là phân thân sợ Thích-ca thiên nhiều mà không thọ, vì là Quán âm sợ chư Phật thọ nhiều mà không cho. Nếu Quán âm không cho chính là tiêu biểu Quan Âm thí thiên vị, đâu liên quan đến lục hòa thiểu dục. Nếu phân thân không thọ nên trước thí mà sau nhượng, vì sao chỉ phân làm hai phần ư! Cho nên biết khiến phân hai phần là tiêu biểu hiện tại tương lai. Nghĩa kia đã viên, phân thân đã đi, lý kia khéo thành đâu cần nạn vấn đây. Nếu nói không nên đứng đưa phân thân và lập thọ thí dù phẩm đời ở sau tránh khỏi lỗi đây, thọ Quan Âm thí đâu có thể còn ngồi, xoa đầu giao tế vẫn đứng xướng giải tán, sau Kinh chánh đương nêu lỗi đứng đưa, uổng phí đùa giỡn và giễu cợt tôn nghi. Đối điều này, Diệu kinh chưa thành tán thán rộng rãi, hoặc lại thuận phàm tình Thích-ca cùng phân thân ngang vai, ngồi đưa liền thành sơ sót. Cho nên, đứng đưa khách chánh đương nghĩa kia, huống đứng đưa đứng thọ, chỗ giáo nào ngăn cấm! Nói đưa, thọ không thành. Lại nói đã có chúng hỷ chỉ thiếu phụng hạnh không hợp an đây, chỉ duyên thiếu phụng hạnh cho nên không nên ở sau. Lại nói tịnh độ nơi nào dung nạp uế đây sinh, sao không hỏi kiếp thiêu trụi cỏ không đồng cháy hết tro? Lỗ chân lông, vào biển thân không tùy theo sóng, phàm các giải thích đây đều tùy tâm mình, không thuận kinh văn theo lệ kia hoặc đúng.

Tiếp biệt phá thứ chín, thứ mười. Thứ chín, Đức Phật không đến tòa nạn vấn rằng: Mở tháp mong nhờ Thích-ca vào ngồi, đóng tháp trở lại ra cũng nên trở lại tòa đâu được đứng nói các Kinh ư! Như trong Kinh Niết-bàn, Như Lai thị hiện nằm trở lại từ nằm ngồi dậy. Như lúc trà-tỳ từ Kim quan dậy bay lên Phạm cung, từ Phạm cung xuống rồi trở về bản tòa, đây lẽ ra cũng như vậy, sao việc không như vậy ư? Ngược lại phải nói: Nếu xoa đảnh rồi theo lý phải trở lại tòa, hoặc nói không có văn khiến đức Phật thường đứng, thì như Văn-thù trả lời câu hỏi xong, không có văn nói vào biển, vì sao đến đây bỗng nói từ biển đến! Lại nói từ trong biển thường nói Pháp Hoa, nói thường nói tức thường ở biển. Nếu vốn ơ biển tựa không nên liệt kê, đâu được vì Di-lặc giải thích nghi. Lại nói Kinh xong đức Phật chỉ khiến chúng đều giải tán vốn không có văn nói ngồi lại, đức Phật nên đứng đưa Thiên long Bát bộ đâu chỉ riêng đưa Đa Bảo phân thân, đứng đưa phân thân uy nghi kia ít thuận, đứng đưa Bát bộ tôn ty trái lại gấp bội, Lại vì sao không trách nói các phân thân Phật chỉ sai thị giả rải hoa cúng đem lời hỏi thăm, và nói đức Phật kia cùng muốn mở bảo tháp đây. Tức nói bấy giờ đức Thích-ca thấy phân thân vân tập cùng muốn mở tháp, không thấy thị giả đến hội nói muốn, muốn nên không thành. Pháp sư cùng kia tuy ít thân, dựa vào lý, không dựa thân mà xưa có thể nương. Lại sao không trách giáo môn đều nói Đạt-đa đời đời tạo ác, nay bỗng nói làm Thầy của Phật, lại nói cùng sư biệt ký điên đảo không thể nói đủ. Sao không trách Long nữ thành Phật rất nhanh, sao không trách Thanh văn thành Phật quá chậm?

Thứ mười, chúng không có lệnh ngồi. Nạn rằng: Phật ở cao xa chúng nhân thỉnh đến, nay đã trở về đất cũng nên sai bảo trở lại ngồi, sao để đứng lâu không ban cho chỗ ngồi yên! Cho nên, biết phẩm Chúc Lụy định ở sau Kinh. Ngược lại nói: Phàm nhờ sức người ắt cần phải thỉnh thêm, nếu tùy tự lực không cầu người khác cứu giúp, ở giữa không chẳng phải sức mình sánh kịp cho nên thỉnh Phật thần thông trở lại cũ (bản). Tùy theo khả năng tự lực nên không đợi Phật bảo, huống chi bản duyên Phật vào tháp cho nên thỉnh tại trên không. Nay Phật từ tòa đứng dậy đâu thể an ngồi ư! Cho nên nói tăng thêm sự cung kính khom mình cúi đầu. Đức Phật khi đã trở lại tòa thuyết pháp, chúng theo lý nên trở lại tòa. Không có văn mà luận nghĩa căn cứ đây nên biết. Lại nữa, nếu chúng không đứng, không ngồi lẽ ra vẫn ở hư không, vì sao trong phẩm Phổ Môn, Vô tận ý nói từ tòa đứng dậy! Đầu phẩm Đà-la-ni nói Dược Vương từ tòa mà đứng dậy. Cho nên biết không thể thấy lược các văn từ chối đến tòa, dời đổi phẩm đến sau. Lại tiêu đề phẩm có nói Chúc lụy khiến hướng sau trong phẩm có nghĩa chúc lụy cũng nên đều đời đổi. Nhưng phẩm Chúc Lụy tuy tiêu đề nói Chúc Lụy mà trong phẩm chỉ thông nói ta ở trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp A-nậu Tambồ-đề khó được, phó chúc cho các ông nên tiêu đề phẩm Thần lực tuy gọi Thần lực, mà trong phẩm nói vì Chúc lụy kinh này, bèn dùng bốn pháp của Như Lai Chúc lụy cho Thượng hạnh… Cho nên, lẽ ra trước dời Chúc lụy tiếp dời Thần lực biên soạn ở sau Chúc lụy. Lại đầu phẩm Chúc Lụy nói: Hiện đại thần lực, trong phẩm Thần Lực có nói Chúc lụy, vì vậy hai phẩm đều dời xuống sau. Nếu đều đổi ở sau thì không thể hai phẩm trùng lập diễn ra, không thể hai phẩm có trước sau. Nếu có trước sau thì lại mất phẩm cuối cùng. Nếu nói kinh văn thứ tư, thì Bất Khinh trở về sau tức hợp khuyến trì, việc gì dùng Thần lực mà xen lẫn giữa ư! Bảo tháp chiêu mộ tìm người tuyên bày, người hoằng chỉ nên tiếp dùng phẩm Trì tiếp tục, sau chấp nhận dùng phẩm Điều-đạt xen lẫn. Nếu phẩm kia tiếp không y La-thập thì về lý phải tất cả đều y chánh kinh. Nay kinh nói Thanh-văn có một vạn hai ngàn, Chánh kinh chỉ nói một ngàn hai trăm, tán thán đức Thanh văn bèn có mười một câu, tán thán đức Bồ-tát thì có hai mươi tám câu, cùng Diệu Kinh và, luận lại không tương quan, sao không đỗ lỗi luận trái với Chánh Pháp Hoa? Mà hiềm khích Diệu kinh trái luận.

Lại nữa trong chánh kinh nêu danh nói: Quan Thế Âm, đồng tiếng Quang Âm liền ghi chép, đời sau sao không y chữ “quang” đây giải thích nghĩa, Bảo Chưởng Bồ-tát chia ra làm hai, lại thêm Bảo ấn thủ. “Chưởng” đã là tay, lại thêm đầu thủ chia làm hai người. Tự Tại thiên tử dùng Đại phạm đội đầu. Cũng nói ba vạn thiên tử đều có tức là trở lại chữ Đại Phạm ở Phạm văn nghĩa bất tận và trong biệt Tựa không nói thuyết kinh Đại thừa tên Vô Lượng Nghĩa. Mà thẳng nói thuyết kinh này rồi thăng tòa Tam-muội, lại thiếu vô lượng nghĩa xứ Tam-muội, không biết trước lúc ấy vì thuyết kinh gì, vì nhập định nào sao không trách Diệu kinh tăng thêm Vô Lượng Nghĩa ư? Lại phóng quang chỉ nói trên đến Tam Thập Tam thiên, Ngài Pháp Hộ việc gì kiềm chế hào quang Phật? Diệu kinh nói tám trăm đệ tử. Chánh kinh nói trong mười tám người. Thông thường nói như cát sông Hằng, tất cả đều nói như cát ở sông, phẩm Tựa đã vậy, trong Chánh tông lầm không thể kể, sao không dựa vào đó mà riêng dẫn Chúc lụy. Vì vậy cho nên Chánh kinh đều chưa thể nương. Dù Thập Công đời đổi tương ưng thấy Phạm văn ý chỉ sâu xa, nếu vậy thì nghĩa rộng, sao không an ở sau phẩm khác mà quyết chắc biên chép trong đây, khiến không có các ngăn ngại như trên nói, lại dời đổi viết chép sau sinh các ngăn ngại ư? Cho nên khiến nơi lưu hành các Thánh gia bị.

Tiếp trong chánh giải thích phẩm cũng đầy đủ tứ Tất-đàn: Đầu tiên trong nghĩa Thế giới, căn cứ được tên gọi để giải thích phẩm, được tên sự biệt tức nghĩa Thế giới. Chữ “liên lụy” làm nghĩa liên đới. Chữ nên làm riêng người sau thêm chữ khẩu ý nói miệng phó chúc tức theo nghĩa lập. Trong cụm “Phiền (nhờ) ông” thì “ông” là các đệ tử. Nghĩa là liên lụy các đệ tử ở đời sau. Như là lụy mang. Tả truyện nói tướng thời động không liên lụy người sau, đây là Như Lai thích ứng thời mà hóa chỉ bày có lời khiêm nhường, lại khiến đối nơi ba đời truyền pháp không tuyệt, ba đời không đồng cũng là nghĩa thế giới. Tiếp vị nhân. Đây là đời sau tuyên bố sinh thiện. Tiếp đối trị: Khiến người đời sau thọ khiến không lầm, trị lỗi ác kia cho nên gọi là đối trị. Đệ nhất nghĩa: Khiến người đời sau phụng ý chỉ nhập trú, nhập trú liền chứng chân. Đầu hai chữ đều tại năng phó, tiếp hai chữ đều tại sở phó. 3) Chúc ở năng phó lụy tại sở phó. Tiếp trong chánh phó chúc giải thích ba nghĩa xoa đầu. Trước căn cứ sở biểu giải thích, sở phó không xem thường phải dùng cạn tiêu biểu sâu, cho nên dùng thân khẩu tâm ba thứ trao cho mới thể hiện sự ân cần. Tiếp căn cứ tứ Tất-đàn: Tức đủ lý sự. Kinh nói “hiện đại thần lực”: Như Lai trước hiện mười thứ đã tiêu biểu đương hiện lợi ích Tứ nhất xong. Mà nay lại nói hiện thần lực tức là chánh tiêu biểu thân khẩu tâm ba thứ trao cho. Từ tòa đứng dậy dùng một tay Như Lai đồng thời xoa khắp cho nên gọi là đại.

Có người dẫn trong Đại kinh nói: Bên trong có đệ tử giải nghĩa thậm thâm, không vì lợi dưỡng không sinh tranh giành, ngoài có đànviệt thanh tịnh nên Phật pháp trụ lâu. Nếu không như vậy thì pháp không trụ lâu. Đây là kinh kia răn dạy tối hậu khuyên đạo tục hoằng thông cũng là gom góp di chúc của Phật. Không đồng kinh này chính là một kỳ vọng tuyên bày thích ứng. Phương khác muốn tán hiện mười thần lực chúc lụy mười phương, đức Phật tự thân xoa đầu Bồ-tát ba phen thọ là tiêu biểu pháp ân cần. “Trí Tuệ Phật…”: Lấy giác chiếu biên thuộc nhất thiết trí thấy tất cánh không. Trí Tuệ Như Lai là Đạo chủng trí, tức lấy từ nhân đến quả được gọi là “Đạo chủng”. Đạo chủng theo Quyền, đầy đủ như trong quyển một nói, đều có thể khế hợp tu hành gọi là “Quyền”. “Ở nhà Như Lai… như vậy”: Nói rõ ba trí, tức áo tòa nhà ba thứ đều đầy đủ ba trí chỉ là ba một tương tức, ba một lẫn dung thông, cho nên trong một có đủ ba, lấy ba việc đây hoằng kinh lợi ích chúng sinh. Khiến cho họ đều đắc dụng quả địa ba trí. Cho nên biết nhà nếu không có hai thứ kia thì hoằng thệ không phổ khắp, Áo nếu không có hai thứ kia thì pháp thân không viên mãn, Tòa nếu không có hai thứ kia thì hoặc phá không cùng khắp.

“Như vậy thí chủ…”: là kết ý năng thí: Nên nói như thí chủ ấy ba pháp không thiếu tự, tha, bất không, là thí chủ cho nên có đại từ bi. Tự đã vào nhà khiến mọi người vào nhà không xẻn tiếc Tự đã mặc áo khiến mọi người mặc áo không sợ hãi. Tự đã ngồi tòa, khiến người khác ngồi tòa cũng có thể nói không xẻn tiếc. Cho nên thí ba pháp đây không còn sợ hãi, nên nói ba pháp đây hoặc thí hoặc thuyết đều đầy đủ từ bi, tức nhập thất ba pháp. “Các ông…”: Các ông đang học giáo của Như Lai nên dùng ba pháp này mà lưu thông, dùng ba pháp ba trí này nên thí cho tất cả. Cho nên kinh nói các ông tức là đại thí chủ của chúng sinh, đây nêu rõ công dụng kinh đã ắt đủ ba, ba, huống lại là pháp sở hoằng ba pháp ba trí. Mới gọi là khiến người khác đắc nơi sở hoằng. Thế Tôn dạy: Phụng hành đầy đủ. Người khác đối với điều này biện rõ phàm phu xẻn tiếc. Dẫn Thành luận nói: “Xẻn tiếc” (xan) có năm thứ: Chỗ ở, cứu người, cho vật, khen tụng, diễn pháp. Tiếc rẻ diễn pháp có bảy báo:

  1. Đời đời thường mù.
  2. Đời đời ngu si.
  3. Sinh trong nhà oán thù.
  4. Thọ thai hoặc chết.
  5. Bị chư Phật oán.
  6. Người thiện xa lìa.

Không ác nào không tạo. Nếu hiểu văn đây đều không tương quan. Nghĩa phẩm này. Lại nói “Như Lai hoặc dùng Tiểu thừa giáo hóa, thì ta thời đọa xan tham”, khuyên người hoằng pháp xả xan tham phàm phu. Đây hiểu có thể như vậy. Nếu đem đây để chứng minh khiến Phật đồng phàm phu, thì nghĩa sâu xa không thể!

GIẢI THÍCH PHẨM DƯỢC VƯƠNG

Giải thích phẩm dẫn Quán kinh giải thích danh tức nghĩa Thế giới. Từ văn đây trở xuống là đầy đủ dùng kinh này mà thành tứ Tất. “Nếu suy tìm…”: nêu đắc danh trước sau chẳng phải ý tứ tất. “Tận cùng thần lực kia”: Dùng thần thông lực Tam-muội cúng dường. “Tận hình mạng kia”: Dùng báo pháp kia tức thiêu cánh tay “Ngõ hầu khiến đệ tử…”: Người trên thực hạnh khiến dưới bắt chước theo, đây thì tự tha hai nghĩa đầy đủ. “Chư Phật…”: Khiến thuật có không. Bất Khinh cho đến Phẩm Phương Tiện đến đâu riêng Phật ư! Hạ phẩm cũng có Phật: Vân Lôi Âm Vương Phật, Bảo Oai đức Thượng vương Phật v.v… huống chi Đức Thích-ca hóa chủ đầu đến cuối (thủy mạt) thường tại, huống lại ứng dùng Phật thân độ…, nhưng cần phải nói “thượng phẩm có Bồ-tát, thì Phật sự làm chánh, hạ phẩm có Phật thì Bồ-tát sự làm chánh”. Nếu luận chung thì theo Phật. Hóa chủ thuyết tất cả đều dùng Phật sự làm chánh. Dược Vương đến lưu thông nghĩa tiện: Phật chúc lụy rồi, đại sự công xong, tùy vật thiên ưa nên thừa thừa không đồng. Chân như thật tướng là thể sở thừa, nhất thừa nhân quả là sự sở thừa, khổ hạnh… là duyên thừa thừa. Tùy một vật cơ nghi hợp, khiến người hoằng tùy duyên chẳng bằng nhau. Cho nên thể sở đều là diệu pháp. Do dựa vào nhất Thật lập nhân quả, thừa nơi sở thừa để lợi ích vật cho nên nói “thừa thừa”.

Hỏi làm ba: Đầu một lợi tha. Tiếp một tự hành. Du hóa cũng là khổ hạnh, khổ hạnh cũng có lợi tha. Trở xuống văn dưới: Như Diệu Âm… đều không ngoài tự tha, tự hành đều không ngoài trí đoạn phước đức, lợi tha đều không ngoài Tam-muội thần thông. Thông hỏi Du hóa là: Du hóa ắt đầy đủ mười pháp giới thân, đều như Diệu Âm Quan Âm, chỉ biệt nêu khổ hạnh để thích hợp, cho nên thỉnh đáp ý nói khổ hạnh.

Có Phật Thanh-văn: Văn lược đầy đủ như kinh nêu. Có Bồ-tát và thọ lượng Bồ-tát…“Tức thời nhập Tam-muội”: Khắp hiện Tam-muội, về lý thì không có xuất nhập, tiêu biểu dụng lực Tam-muội cho nên nói “nhập”. “Dùng thần thông nguyện lực”: Nêu rõ không dùng lửa thế gian, trở lại y sở đắc Tam-muội khởi nguyện lợi tha, dùng trí quán lửa đốt cháy cảnh khó lường, cho nên khiến hào quang khởi đây chiếu sáng kia. Đức Phật cũng vì hợp chúng sinh cho nên khen ngợi. “Chân pháp cúng dường”: Trước tổng nêu năng quán sở quán, tiếp và quán tướng, nên nói chánh hiển chân pháp; do đó thiêu đốt thân gọi là chân pháp do nội quán. Sở quán là gì? Tức sinh thân đây. Do hoặc nhân cho nên hoặc quả hoặc này, nói đều dùng là hiển nhân quả đều thấm nhuần. “Lại, quán hoặc thân hoặc lửa…”: Trong đó trước nêu Pháp không. Tiếp, “Ai thiêu…” biện minh Sinh không. “Pháp không”: Đã tức là thật tướng, thật tướng không có năng sở thiêu, thân, và lửa năng sở đâu được có thiêu có năng sở ư! Tiếp, “Sinh không”: Chẳng những thân… đều là thật tướng, mà tất cả chủ tể của thân v.v… đều không, cho nên gọi là “Ai”. “Thiêu”: Lửa năng thiêu. “Đốt”: Thân bị đốt. Thân lửa đều là sự năng cúng, Phật pháp là ruộng sở cúng, chủ tể tức là người quán năng quán, thân lửa năng sở là cảnh quán vậy. Cảnh trí không hai năng sở đây vong, dùng bất nhị quán quán cảnh bất nhị, thành bất nhị hành hội bất nhị không. Khi tác quán như vậy khổ làm pháp giới. Người nghe thấy lợi ích cho nên nói thừa thừa. Nếu không vậy thì thành khổ hạnh vô ích.

Đức Phật có lời khuyên răn thật đáng trước tư duy, do đó nương Tựa nơi hiểm yếu không chiêu ngoại hạnh luận, phó hỏa không bị trong chúng cơ hiềm bởi do trong có lý quán ngoài hiểu tâm mong cầu. Cho nên Thắng Nhiệt dứt nghi cho Thiện Tài, Ni-càn-sinh giải nghiêm xí, đốc luận đạo hạnh kia mới có khắc ghi, tâm chánh hạnh chánh trí tà sự tà, hành không thể phế, trí không thể vong, kẻ hậu học không mất pháp lợi.

Có người hỏi: Luật chế thiêu thân được cỏ thơm, thiêu tay được điềm lành, trong đây tán thán thiêu việc kia như thế nào? Nay vì đáp: Đại tiểu khai chế giáo pháp không đồng, tiểu chế kết lỗi đại chế khiến thiêu. Cho nên trong Phạm Võng nói nếu không thiêu chẳng phải là xuất gia Bồ-tát; đâu riêng khiến tục mà không chế đạo. Cho nên biết thuận tiểu hành dễ không thiêu đâu khó, từ đại thành thật khó thiêu, mới không dễ. Thế gian dùng không trì làm đại thì đại tiểu đều nghiêng đổ. Tin cơ duyên cõi này đều mê đại tiểu, không biết trước tiểu sau đại y theo thứ lớp hạ nào! Trước đại sau tiểu tâm nào mà thọ! Trước tiểu sau đại khai tiểu thừa ngăn, không trước đại sau tiểu ngăn Bồ-tát khai không? Trong một giới hai chúng như thế nào? Trong một thân hai thể đồng khác. Đại thừa đối Tiểu, lấy lợi ích từ đâu! Tiểu trách Đại chiêu tổn hại sao sánh được! Cần cần (siêng năng) nêu biệt dụng làm chủng, đến sau, thừa sở thừa đều là diệu pháp, do y nhất thật lập nhân quả, thừa sở thừa kia để lợi vật. Chỉ tự đo lường đức mình, trải cảnh quán tâm cùng tâm tương ưng sẽ thuận khai chế. Nay Dược Vương đã chứng từ lâu đều vượt ngoài phương khai chế, trọng pháp quên lòng khởi nguyện thần thông, làm gương cho phàm phu kẻ dưới tư duy có thể biết. Kinh dùng Chiên đàn mà làm cây để đốt ư? Đáp: Cõi này Đại ái Đạo nhập Niết-bàn sau còn dùng chiên đàn quả thiêu, huống chi Tịnh độ kia đâu đủ là khó! Nhưng tịnh uế đều trình bày chẳng phải thế hữu (thế gian có). Đều là sức lực của bậc thánh cho nên kinh nói: “bảy vạn hai ngàn năm…”.

Hỏi: Thiêu thân chỉ trải qua một ngàn hai trăm năm, thiêu tay vì sao thời gian dài hơn?

Đáp: Trước là tự hành thân tận nhập diệt, nay vì hoằng pháp khiến vật hội tam. Cho nên nói khiến vô số… Đã nói vô số Thanh văn phát Bồ-đề tâm cho nên biết hỷ kiến đối sau khi Phật diệt độ không khiến các chúng đây trú nơi tiểu quả, cõi này cũng như vậy.

Kinh nói “thân kim sắc”: Trước đã đắc phổ hiện tức tám tướng sắc thân, cho nên biết trong đây phải ở cực quả. “Năng sinh…”: Như cha mẹ ắt dùng bốn thứ hộ hộ cho con, nay phát tâm do pháp làm sinh, đầu cuối tùy thuận làm dưỡng, khiến mãn cực quả làm thành, năng ứng pháp quả làm vinh. Tuy bốn thứ không đồng mà đều dùng pháp làm bản, lại bốn pháp đây tức tứ Tất-đàn. Thứ lớp đối cũng nên có thể biết, đây tức trước sau đều đối tứ Tất. Nhưng tức ba giáo trước đều được bốn lợi ích, nay đối Viên nói theo lệ trên có thể biết.

Hỏi: Đầu khai chương nói tán thán người năng trì vì sao hướng đến nói không bằng một câu kệ! Lại nói “pháp là thầy của Phật …” ư!

Đáp: Trước tán thán người có pháp, nay tán thán pháp tại người. Nói “đầu tán thán thể, tiếp tán thán dụng”: chẳng phải thể của tông thể, chẳng phải dụng của tông dụng, thông chỉ một bộ làm thể, ba thứ thể tông dụng trong bộ cùng có như các dụng cứu khổ ban vui v.v…

“Thập bảo sơn”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. “Dẫn Kinh Hoa Nghiêm”. Hoặc một hoặc hai: Câu-xá nói: Trước là bảy kim (vàng) tạo thành Tô-mê-lô bốn báu, vàng hoặc gồm các thứ cho nên nói một, hai. “Các kinh nói Quyền trí…”: Quyền không tức Thật đến nổi khiến giáo pháp đều chẳng tự tại, các cơ không dung thông cho nên giáo chủ khác biệt vậy. “Các kinh nêu thật trí…”: Đều là thưa ngoài quyền cho nên phá nghi không khắp, còn không sánh bằng ý kinh này thiết lập Quyền. Đã phá các nghi cho nên “tức Thật mà Quyền”, huống chi kinh này vốn vì hiển Thật, có nghi đều đoạn, cho nên nói “tức Quyền mà Thật”. Vì thế nói Quyền Thật chẳng riêng kinh này, nói tương tức xuất từ nơi đây, không thâu Tiểu cho nên sai khác. “Văn nói Học, Vô học…”: Chỉ tam giáo Bồ-tát. Vì phát Bồ-đề tâm: Kinh này là cha pháp kia nên sinh trưởng pháp kia. Xưa cho rằng chẳng phải con đến đây mới biết. Các kinh khác chủ yếu nhân nơi công dụng: Chỉ chấp phát tâm rốt ráo không biệt không đồng tam giáo chủ yếu nhân công dụng, như biệt giáo địa tiền làm phương tiện.

“Như gió…”: Sơ trụ đã nhập vị vô công dụng nên đủ chọn xe thể và đầy đủ độ v.v… Giải thích sở dĩ như gió (phong), đến nhập sơ trú vô công dụng đạo. Kinh nói “Năm trăm năm”: Trong kinh Đại Tập nói có năm lần năm trăm, đầy đủ ở văn trước. Kinh nói “Nếu có người nữ…”: Trong đây chỉ nói được nghe kinh này như lời dạy mà tu hành tức nhân tịnh độ không cần lại Chỉ Quán Kinh… Hỏi: Làm sao tu hành?

Đáp: Đã nói như lời dạy mà tu hành, tức y kinh lập hạnh, đầy đủ như trong phẩm Phân Biệt Công Đức. Thẳng quán cõi đây, bốn cõi đầy đủ cho nên thân Phật đây tức là tam thân, đại chúng đây tức là hết thảy chúng. Do lậu hoặc chưa đoạn cho nên An lạc hạnh là khí phần hạnh của đồng cư tịnh độ, cho nên không lìa đồng cư uế mà thấy đồng cư tịnh.

Hỏi: Đồng cư nhiều loại đâu hẳn là cực lạc ư?

Đáp: Vì giáo thuyết nhiều do vì vật cơ, đó là nhiếp sinh khiến chuyên chú, do duyên đời trước dày, căn cứ nhiều phần, hạ phần Đâu suất theo lệ kia không đồng chỉ tại cơ cảm.

GIẢI THÍCH PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT

Phẩm đây đầu tiên nêu đủ ba giải thích:

  1. Văn nhân duyên.
  2. “Xưa đắc…”: căn cứ giáo.
  3. “Phẩm này…”: Bản tích.

Chỉ không có giải thích theo Quán tâm. Nhân duyên rất lược. Lại nghĩa lập: Âm nhạc là Thế giới, tự tùy là Vị nhân, dâng bát là Đối trị, đạo khí là Đệ nhất nghĩa. Quan Âm có hỏi nguyên do được tên, trong đây không có, đây từ tự hạnh, dưới từ lợi tha. Lại trong Thường Bất Khinh cũng có bản sự, tức danh dùng hiển bản sự, đầu từ trong giải cuối đến lợi tha, đồng ở trong một danh. Tuy tự tha không đồng mà chủng theo danh hiệu Quan Âm bên dưới… có tên gọi là Phổ Môn thì đây cũng nên như vậy, đồng đắc Phổ hiện sắc thân Tam-muội. “Nếu vậy phẩm Dược Vương bên dưới…”: năm phẩm hết thảy đều như vậy. Dược Vương lại ban đầu hiến chú, Tịnh Đức lại chỉ thân Diệu Âm, vì vậy cho nên năm phẩm pháp môn nhất định không có hơn kém, chỉ tùy cơ tiện thừa thừa không đồng. Huống chi phẩm Phổ Môn ở giữa lý thông trên dưới dùng nhân đối pháp lý cũng cảm đều, riêng hiểu danh kia nghĩa cũng không lẫn lộn, không thể từ danh khác mà che đậy pháp môn kia. “Đương ở nơi thấp kém…”: để khuyên thành cơ duyên, là nêu rõ ý Phổ Hiện. Nếu không dùng quỷ súc làm quỷ súc chỉ tâm địa mình thấp kém thì tự che lấp dòng diệu pháp. “Tướng đại nhân…”: chia làm bốn:

  1. Giải lược giải thích, là biện tướng bất tư nghì nên gọi là “đại”.
  2. “Khắp thể…”: nương tướng sở hiện lần lượt so sánh.
  3. “Tướng đây…”: Đại tiểu đối đều.
  4. “Vấn đáp…”: giải thích nghi.

Một và hai có thể thấy. Thứ ba trong đối đều có hai: Mượn Tiểu tiêu biểu Đại, cho nên dùng tướng ứng tích, nhân phóng hào quang thuận nghĩa Sư trưởng, nhân quả chiêu nhau, chiêu ắt đến.

Nói “bản đệ tử”: Chiếu không phải không có nhân duyên vì vốn từng liên quan, gọi xưa làm bản chưa hẳn là bản từ lâu. “Bạch hào…”: tiếp nêu nhân đại thừa thực tướng trung đạo sở cảm, chiếu khiến hoằng kinh khai hiển, đây chính là nhân thù thắng quả thù thắng khiến hoằng giáo thù thắng, cho nên phóng quang. Trong giải thích nghi có hai lần vấn đáp: Vấn đáp thứ nhất: Nghi năng phóng quang.

Vấn đáp thứ hai nghi chúng sở chiếu. Đầu tiên nghi: Xét theo biển tướng bất tư nghì thông lập dùng hỏi dựa vào sự so sánh. Trong phần đáp nói “Các kinh khác nêu…”: Chiêu cảm chỗ khác thuộc sự thích nghi, vả lại từ tha nói, cho nên phủ thêm phương tiện giáo nói có hơn, kém. Lại căn cứ ứng thân hiện tướng thích nghi phủ các kinh khác khiến hoằng thật giáo, cho nên lại từ tướng đại. Đại lại từ nhân mà được biểu hiện, cho nên nói phóng quang khiến hoằng pháp này, huống chi hiển bản đã còn không có cận tích thì đâu còn Tiểu ư? Vì sao gọi phương Đông nói phương Tây: Ý hỏi: Mười phương Bồ-tát lẽ nào đều vô duyên ư! Vì sao phóng quang chỉ triệu Đông phương Diệu Âm xong. Tiếp nói Tây phương Quan Thế Âm: Trong đáp nói theo biểu hiện, trong đó có bốn:

  1. Biện minh năng biểu.
  2. “Chưa phát tâm…”: chánh nêu sở biểu.
  3. “Một Bồ tát…”: nêu ước lệ.
  4. “Thánh không…”: kết dụng ý tiêu biểu.

Phần một có ba:

  1. Nêu hào quang là năng biểu.
  2. Nêu ý hào quang sở chiếu.
  3. “Đông là….”: nêu ý năng tiêu biểu.

“Hai, Chưa phát tâm…”: nêu trong sở biểu: Chỉ nêu đầu cuối tùy ý vận dụng nhiếp chiếu. Thứ ba: Nêu theo lệ: Diệu ý đã vậy, các nơi khác đến đều như vậy, chỉ dùng chiếu phương Đông tiêu biểu bắt đầu làm nghĩa tiện; nếu triệu phương Nam đến Bắc tứ duy căn cứ đây sẽ biết. Thánh chỉ không phiền văn nói nhiều, lý hợp mười phương đều đến, như Hoa Nghiêm, Đại Tập, các bộ Bát-nhã, hào quang và nơi hiệu triệu còn thông cả mười phương, cho nên đây chỉ dùng một phương làm tiêu biểu. Căn cứ dưới nói Quan Âm đầu giải thích “Nhĩ thời”, cũng dùng Diệu Âm đối biện. Trong đây đã dự định dùng nói phương Tây đối hỏi, cho nên có thể dự dùng phương Tây đối nêu rõ. Nói “Muốn nói việc Bồ-tát ở phương Tây, thì trước hết là triệu Bồ-tát ở phương Đông…”: trình bày do phước đã gặp được nhiều đức Phật cũng là do tuệ, chỉ là văn lược. Chánh trình bày trong phước tuệ kinh nói thảy đều là nói “thậm thâm”, cho nên là Viên tuệ, Tam-muội thuộc định đối tuệ gọi là phước, còn khác Tam giáo lẽ nào đồng thế gian có?

Lại nữa mười sáu thứ Tam-muội đều là tên khác của Pháp Hoa Tam-muội, tùy nghĩa mà nói. Nay xứng tướng Pháp Hoa Tam-muội, “Phật răn dạy” đến “mà theo khuôn phép đây”: nghiêm kính mời tiên đến. Diệu Âm địa vị cao đâu có thể gắng đợi ư! Đến đâu thấy uế đâu sinh tưởng thấp kém, chỉ Phật mượn việc răn dạy Diệu Âm mà làm quy cũ. Cho quyến thuộc của Bồ-tát mang theo. “Quy cũ” là qui mô, khuôn phép. “Xét Phật… chư Phật đạo đồng…”: Trước, chánh trình bày đồng; tiếp, kết đồng. Đầu, văn tự có ba:

1/ Nói căn cứ tòa làm răn dạy: Dựa vào không quên tướng, thân là hữu tướng lý là diệu không. Nhất trần thân đều cùng lý đồng huống chi chất thân một trượng sáu mà sinh tưởng là thấp kém ư?

2/ “Phàm sư…”: Phật và đệ tử thân đều thấp kém: Đều ẩn tịch nhẫn mà chịu nhận sự vụng về. Phàm y báo, nên trụ vô duyên an nơi cõi uế. “Đây Phật…”: kết đồng: Hết thảy ứng thân hóa nghi thị hiện nơi tích thuyết pháp đều đủ ba thứ này răn dạy chúng mà làm phép tắc hoằng kinh. Cho nên Đức Phật đây hoằng kinh cũng dạy ba ý dùng theo lệ nơi kia. Hoa nghi không ngoài Phật thân hóa cảnh quốc độ. Thọ ý chỉ đối ba lực: Bồ-tát không thể không suy tìm công hóa chủ, Như Lai trước răn dạy khuyên khiến Bồ-tát tự vận dụng, Bồ-tát suy tìm qua kia thật khó, huống chi qua lại thì cần phải lợi tha. Cho nên biết qua lại đều nhờ sức của Như Lai. Nhưng lại Như Lai gia bị nơi đáng gia bị, Bồ-tát có phần chỉ vì chưa đến tột cùng cho nên dùng tột cùng ba thêm nơi phân làm ba, khiến dùng áo, tòa, nhà làm tông yếu hoằng kinh. Cho nên biết đều là lực Như Lai khởi thần thông, các thứ trang nghiêm mới năng lợi vật. Vậy thì Như Lai dùng trung đạo, không nên năng dùng tâm từ bi gia hộ cho các Bồ-tát đầy đủ trang nghiêm cho ăn tùy cơ lợi ích.

3/ Nói “trang nghiêm”: Vạn hạnh trong nhân, hội đây, cõi kia. Nếu địa vị Văn-thù thấp, thì lời nói của Diệu Âm khi gặp đức Phật kia nói: “đến thấy Văn-thù”, lẽ nào có thể xa đến cầu thấy vị kém hơn ư? Văn-thù địa vị cao thì thấy hoa lẽ ra phải biết, tại sao còn hỏi Phật do nhân duyên gì…? Trong đáp có hai nghĩa: Văn-thù địa vị cao hoặc đồng là Bổ xứ, trong một vị phân đầu giữa cuối, hoặc đồng là cổ Phật thì không cao thấp, đồng vị ở đầu chưa dứt không biết. Thiêm là nhục vậy. Đâu phải một việc không biết mà thành khuất nhục ư! Lại đại chúng không dám hỏi Văn-thù tuy cao vì muốn phát khởi nên thị hiện làm không biết. “Thượng phẩm nói sơ đắc…”: Trên phẩm Dược Vương nói: Quá khứ tên là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Bồ-tát ở trong Phật pháp của Đức Phật Nguyệt Tịnh Minh đắc Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội, sau lại sinh ở nước kia ở nhà vua Tịnh Đức bỗng nhiên hóa sinh. Bạch vua cha rằng: Con trước đã đắc Giải nhất thiết ngữ ngôn Đàla-ni. Đã nói chuyển thân đắc nhất thiết ngữ ngôn Đà-la-ni tức giống như chuyển thân mới được. Nếu nói: Còn trước đã được tức giống như chỉ sắc thân Tam-muội sở đắc trước, Tam-muội này cũng gọi là ngữ ngôn Đà-la-ni, cho nên nói còn là sắc pháp. Nói còn là tiêu biểu cùng trước đồng, cho nên ngữ ngôn đây cùng sắc thân chỉ là khác thân khẩu, đâu có thể hiện thân không thể thuyết pháp được ư! Chỉ từ sự biệt, lý kia ắt đồng, cho nên làm tên khác hiểu văn rất tiện. Đây thì Viên môn Tam-muội Đà-la-ni ắt là thể đồng danh khác. Tam-muội từ Định, Đàla-ni từ Tuệ, tức Định Tuệ bất tư nghì cho nên được xen lẫn dụng. Căn cứ trong giải thích dưới tam luân đầy đủ. “Lại thiệt (lưỡi)…”: phán định Tam-muội và Đà-la-ni chỉ là chân vị lục căn mà thôi!

GIẢI THÍCH PHẨM PHỔ MÔN

Đầu văn không nói nhân duyên… đây thông biệt giải, đầy đủ ba cách giải thích, chỉ thiếu Quán tâm. Trong mười cặp Trí đoạn… nói, chỉ thứ lớp nêu giải thích không rảnh liệt kê trước. Nhân pháp đều nói có nhiều loại. Đều chú thích “vân vân” là đều chỉ bày nhất thật và Thất phương tiện và dùng nhân pháp trước sau vấn đáp. Trước vấn, như văn. Sau vấn đáp. Vì sao mà vì chúng sinh thuyết pháp…? Phước năng chuyển thọ La-hán còn quay về lấy phước làm thọ huống chi Phổ môn thị hiện dùng bất khả tư nghì phước chuyển thành chủng trí, tức phước trí bất nhị gọi là chuyển. Mới theo lệ chín cặp; như mưa tuôn châu báu, sở chuyển nếu thành phước bất tư nghì thì không đồng địa vị dưới. “Châu như y”: Châu có đủ nhiều đức, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói.

Nghĩa “Đào giếng…” là: Như kinh Hoa Nghiêm nói: Như có thế giới khi mới thành chúng sinh cần phải cung cấp nuôi dưỡng đầy đủ, Bồ-tát lúc bấy giờ làm thợ giỏi, trọn không tạo tác dụng cụ sát sinh. Sơ lược như trong Thích Tiêm. Đầu giải thích “Nhĩ thời”, chú giải bốn nghĩa đó là Tất-đàn. Nếu hiểu ý văn thì hiểu tứ Tất-đàn.

Nói “Bồ-tát phương Đông…”: Vì sao trước nói “triệu” nay nói “thuyết”? Đáp: Văn trước đầu nói triệu, cần phải nói triệu, nay là nói xong nên nói thuyết. Cho nên cuối phẩm nói: “Khi thuyết phẩm này”. Hai nơi đều có thời bắt đầu nghe danh tức Thế giới, đều có tùy ứng gọi là thuyết tức Vị nhân. Đều có đáp vấn đắc Tam-muội tức trừ nghi, đều có nghe phẩm được lợi ích không đồng tức đắc đạo. Kinh nói “trịch áo bày vai hữu”: Cõi này tạ lỗi mà bày vai thịt cõi kia cung kính mà trịch áo, bởi hai cõi phong tục không đồng.

Trước giải thích tên “Vô Tận Ý”, trong đó đầu tiên giải thích “Vô tận”: Trước dẫn ba kinh, tiếp tổng kết thành tam quán. Đầu dẫn Đại Phẩm không, Đại Tập giả, Tịnh Danh trung đạo. Đại Phẩm nêu Không tức Vô tận. Đại Tập nói Tám mươi Vô tận môn, đã nhiều môn không đồng tức là giả. Tịnh Danh luận nghĩa Vô tận: Không có tận và bất tận, song phi cho nên Trung. Tiếp giải thích ý trung: Trước, nêu tam quán. Tiếp, kết. Đầu tiên trong Không quán, tuy đều dẫn cảnh trí mà chánh ở hòa hợp đều không có tự tánh, trí tùy cảnh không, ý vô tận gia gọi là ý không. Tiếp, “Lại, ý…”: là căn cứ giả: Thế xuất thế là cảnh, trí tùy nơi cảnh, cảnh nhiều trí nhiều. Tiếp, căn cứ tâm trung, do năng quán tâm tánh trung nên sở quán cũng trung. Đây căn cứ trí chiếu cảnh mà nói. “Đây căn cứ…”: là kết, hai nơi kết văn đều gọi là “quán trí”, đều căn cứ năng lập vấn đáp, đều nói tuệ trang nghiêm là hỏi đáp đã là hai trang nghiêm xong, nay giải thích ý kia. Nói vấn đáp gọi là trang nghiêm, trung tuệ trang nghiêm của hai thứ Định Tuệ trang nghiêm huống chi tên hai Bồ-tát và tên Phật (danh) đều từ tuệ lập. Nhiều khổ khổ một người… bốn câu, trong mỗi một câu có khổ đều cứu giúp đều có thể trì danh. Do có năm đơn mười cặp phổ khắp cho nên niệm niệm đều lợi ích. Viên Bồ-tát đều như vậy chỉ tùy duyên thôi!

Kinh nói “Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời…”: Có người dùng ba chữ “Quán Thế Âm” soạn để đầu câu dưới, Hưng Hoàng soạn để cuối câu trên, ở đầu câu dưới lại đủ ba chữ này, cả hai đều không đúng. Dựa vào đầu câu dưới, cũng không cần đủ.

Có người hỏi: Vì sao đồng niệm mà có người thoát có người không thoát ư? Đáp: Đồng niệm là hiển cơ được thoát có xa xôi, có hiển rõ do quá khứ hiện tại duyên sai biệt, thọ lợi ích lại có đẳng cấp. Nếu cơ kia cảm dày thì định nghiệp cũng có thể chuyển, nếu quá khứ hiện tại duyên cạn thì yếu khổ cũng không nhỏ. Cũng có người nói: “Tam tai” có đại tiểu, đại là hỏa, thủy, phong, tiểu tức mạng, thân, tài. Đại thứ lớp có hai:

  1. Khi từ tiểu đến đại nghĩa có thể như vậy. Lại từ nhanh đến chậm đây chưa hẳn như vậy.
  2. Hỏa không hết đều nhanh, gió không thể đều chậm.

Tiểu cũng có hai:

  1. Từ nặng đến nhẹ.
  2. Từ khó đến dễ. Đây hoặc ứng như vậy, sự lại đầy đủ như Tạ phu v.v… Quan âm ứng nghiệm ký. Nói “trong biệt đáp có ba nghiệp cơ”: bảy nạn là khẩu cơ để xưng danh, ba độc là ý cơ khiến thường niệm, hai thứ cầu là thân cơ thường lễ bái. “Hỏa nạn”: Có người dẫn kinh Nhân Vương nói bảy hỏa không đồng:

l) Quỉ hỏa.

  1. Long hỏa.
  2. Tích lịch hỏa.

II) Sơn thần hỏa.

  1. Nhân hỏa.
  2. Thọ hỏa.
  3. Tặc hỏa.
  4. Nhân hỏa: Do khi ác nghiệp phát thân tự bốc lửa.
  5. Thọ hỏa: Như hạn hán lâu ngày thì cây tự phát lửa.

Cho đến giải thích nước thì không có bảy tướng, huống lại bảy tướng không có sở biểu đối cho nên không dụng. Nay văn đều có ba: Hỏa danh tuy đồng mà cạn sâu có khác. Nếu không như vậy thì làm sao hiển Quan Âm lực đại và công sâu của người niệm.

“Nhập Đại thừa…”: dẫn Luận so sánh lượng. “Sáu mươi hai ức” là có thuyết nói: Bồ-tát không có khác lạ, muốn khiến thiên trọng Quan Âm. Có chỗ nói: Phật pháp hai môn, nghĩa là đẳng, bất đẳng, như lễ chư Phật dạy nói công sai khác. Bình đẳng: Được phước không khác lạ. Nay hỏi: Nếu bình đẳng thì Phật đã không thiên vị không có không bình đẳng, vì sao đây không bình đẳng? Do Phật không thể có đẳng cấp, cho nên “đẳng, không đẳng” chỉ là đới duyên, tuy đới duyên cũng chưa bày làm vấn nạn, cho nên cần nương Thiên viên đây để giải thích. Chẳng những Bồ-tát các giáo chẳng phải một mà chính một giáo cũng thiết lập Tích không đồng. Đây là căn tứ cảnh mà phê phán. Nếu tâm cảnh tương đối bốn câu phân biệt, nay đây chính là biên của câu cả hai đều có. Trì sáu mươi hai ức thì tâm cảnh đều kém, thọ trì Quan Âm thì tâm cảnh đều hơn, đây tức định giáo đương giáo mà quán. Nếu câu cả hai xen nhau,tức đều là cảnh tùy tâm chuyển.

Hỏi: Vì sao trong Pháp Hoa luận lấy sự trì Sáu mươi hai ức hằng sa danh Phật làm so sánh?

Đáp: Có người nói: Luận lầm. Nay nói không như vậy. Nay trước nêu luận văn, tiếp lược nêu giải thích. Luận nói: Thọ trì danh hiệu Quan Âm và Sáu mươi hai ức hằng hà sa danh hiệu chư Phật, phước bằng nhau: Có hai nghĩa:

  1. Tín lực.
  2. Tất cánh tri.

Tín lực lại có hai:

  1. Cầu ta như Quan Âm là rốt ráo tin.
  2. Sinh tâm cung kính như công đức kia ta cũng đắc.

Tất cánh tri: Quyết định tri pháp giới. Pháp giới gọi là pháp tánh. Sơ địa Bồ-tát năng chứng nhập hết thảy thân chư Phật bình đẳng. Thân bình đẳng: Nghĩa là chân như pháp thân. Vì vậy cho nên thọ trì Quan Thế Âm cùng Sáu mươi hai ức hằng sa chư Phật, công đức không sai biệt. Nay cho rằng dùng đây nghiệm biết, cần y Viên giải thích. Vì sao.

Vì trong hai nghĩa Tín lực căn cứ sự, tất cánh căn cứ lý, lý sự trợ giúp nhau mới thành sở niệm. Như trong Tín lực hai thứ đã nói cầu thân ta như Quan Âm tức chỉ hóa thân. Lại công đức Quan Âm cực ta cũng đắc, chính chỉ báo thân. Nguyện đều báo ứng mới thành niệm; chỉ niệm quả đức đâu cần biết lý. Cho nên tiếp nghĩa nói “tri pháp giới…”. Tiếp dẫn chứng vị tức Sơ địa. Lại dẫn phần chứng khiến người biết, cho nên biết nếu niệm Quan Âm ba thân phải từ chối lấy niệm Phật làm so sánh. Nếu dùng niệm pháp thân mà luận thì dù dẫn mười phương chư Phật thì công kia cũng đồng, đâu chỉ sáu mươi hai ư! Sở dĩ luận văn mặc dù giống như nêu kinh mà chính là tăng câu giải thích nghĩa, cũng như phương tiện sơ thêm khó giải khó biết, muốn nói Đại mới tăng ba câu mà vì trình bày giải thích.

“Ba mươi ba thân mười chín phen thuyết pháp…”: Nên đủ chỉ ly hợp vì kết nói thiếu nên chỉ có mười chín. Như tám bộ bốn chúng chỉ kết một phen nói. Kết biệt khai tổng: Trước ba mươi ba thân là biệt, cho nên kết nói: “thành tựu công đức như vậy”. Tức dùng câu này lại làm khai đầu câu tổng bên dưới, cho nên dưới tổng nói “các loại hình v.v…”.

Hỏi: Kinh này hội tam vì sao nói nên dùng tam thừa… ư?

Đáp: Hình thì khác, pháp thì một, cho nên phẩm Diệu Âm nói: Các thứ biến hóa nói là kinh điển, người không thấy cho rằng nói tam thừa, đó là lầm lẫn.

Hỏi: Vì sao trong Diệu Âm tứ thừa ở sau, Quan Âm tam thừa ở đầu, lại không có Bồ-tát ư?

Đáp: Tóm lại mà nói chẳng phải không có Bồ tát, cần phải biệt hiện chỉ là văn lược. Lại ba mươi ba thân tùy cảm một tiền ứng cũng đâu có trước sau, chỉ hai văn lẫn hiển, “Biệt văn rộng ý hẹp…”: Tách làm nhiều câu cho nên gọi là văn rộng, ý chỉ hiện văn nên nói ý hẹp. Tổng đáp văn hẹp chỉ có mười hai chữ. Nói ý rộng: Đã nói chủng chủng chỗ nào lại không bao quát. Nghe phẩm Công Đức nói Trì địa, tức là kinh Bảo Vân nói: Bồ-tát có mười pháp gọi là Trì Địa Tam-muội như thế gian địa:

  1. Quảng đại.
  2. Chúng sinh y.
  3. Không tốt xấu.
  4. Thọ mưa lớn.
  5. Sinh cây cỏ.
  6. Chủng tử sở y.
  7. Sinh các báu.
  8. Sinh các dược.
  9. Gió bất động.
  10. Sư tử hống cũng không kinh sợ.

Bồ-tát cũng như vậy, trải qua mỗi mỗi đều hợp. Nay nói dùng tám giáo phân phán mới ứng kinh này. Nghe phẩm Công Đức…: Nên đối các kinh và dùng bộ này biện minh kia được lợi ích cộng biệt không đồng.

Do phán giáo tướng kiêm Đới… sai biệt. Giáo nếu chỉ Tiểu hiển lộ cuối cùng không kết được lợi ích Đại, mật được lợi ích đại, giáo không thể truyền, giáo tuy không truyền cần phải biện rõ ý chỉ kia. Nếu như dòng Phương-đẳng, Bát-nhã do bộ chung cho nên lợi ích nghe cũng chung thì đủ hiển mật và dùng bất định. Xen nhau biết gọi là “bất định”, xen nhau mà không biết nhau gọi là “bí mật”; vậy thì trong bộ hoặc phẩm giống như Đại, lợi ích có Đại Tiểu, hoặc phẩm giống như Tiểu lợi ích cũng có Đại tiểu, hoặc gồm Đại tiểu lợi ích cũng có Đại tiểu. Đều do hướng đến ba nghĩa mà biểu, không thể chỉ đủ phẩm tướng các kinh nên cần tư duy. Nay kinh chỉ Đại, trong Đại chỉ Viên, không mật thiên tiểu, cho nên lợi ích nghe phẩm trước sau không thiên vị. Tuy ở trong viên cũng có phát tâm bất thoái và vô sinh… không cùng thiên tiểu chung. Căn cứ bộ phán xét lợi ích bởi do nơi đây. Cho nên, Phẩm Trang Nghiêm Vương tuy nói “Pháp nhãn”, danh đồng mà thể khác, nhất định chẳng phải sơ quả, cần phải phê phán làm Lục căn thanh tịnh Pháp nhãn vị, tức Thất tín trở lên. Nếu nghe Pháp Hoa khiến đắc sơ quả thì một bộ Pháp Hoa văn nghĩa đều bỏ, “Đầu, một là ngang giải thích…”: Kết trước ba lớp giải thích Vô đẳng đẳng để thành đại xa. Phật giới nhất niệm đối với lý gọi là “ngang”, Phật tâm đối với lý hai nghĩa quân bình cho nên gọi là “ngang”.

Tiếp, căn cứ sơ tâm duyên Tất cánh lý, đầu sau vọng nhau làm dọc. Ý thứ ba: Tâm cùng lý ngầm phù hợp một thể đều không thể nói, tại sao luận ngang dọc? Đầu tiên giải thích chỉ Phật tâm tức không. Tiếp, giải thích “nhất thiết Giả”. Nêu hai trước đều không thể đắc Trung. Văn sau kệ tụng Thập Công không dịch. Cận đại (đời gần đây) đều nói trong bản Phạm văn có, đây cũng chưa so với ý sâu của Thập Công. Trong Tục Tăng Truyện nói kệ là Xà-na-quật-đa dịch, nay theo bản xưa cho nên không giải thích, lại chấp bản nhân, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói.

GIẢI THÍCH PHẨM ĐÀ-LA-NI

“Tổng trì…”: hai phen nói bốn thứ kia đều là tứ Tất-đàn.

  1. Căn cứ dịch danh.
  2. “Các Sư…”: căn cứ giải thích nghĩa.
  3. “Đời ác…”: tổng nắm hai lớp, để nêu ý đương lai.

Đầu lại có hai:

  1. Chánh căn cứ tứ Tất.
  2. Đối các kinh khai giá để nêu tứ tất.

Đầu văn: Thiện ác sai biệt tức Thế giới. Tiếp, “Một phen…” đủ hai Tất, chú giải hai, ba ý kia: Năng trì thiện biên tức Vị nhân, năng ngăn ác biên tức Đối trị. Trung thiện tức Đệ nhất nghĩa, cho nên chỉ hai chữ “giá, trì” mà đầy đủ tứ Tất. Sinh công nói: “Gần tri thức thọ trì tâm mỏng yếu, cho nên buộc phải dùng chú thuật”. “Chú giải…”: Ngầm hiển sự giúp đỡ nên nói Đà-la-ni. Xem thấy Ngài Sinh Công… giải thích bỏ xa nghĩa của chú. Chú vốn vì người hoằng kinh hộ nạn, đâu chỉ buộc ở chú thuật hoàn toàn lạm xen nghĩa giả tục. Như Dược Vương dâng cúng sáu mươi hai ức pháp chư Phật thuyết, Dũng Thuyết hiến cúng hằng sa pháp chư Phật thuyết, huống chi còn hộ quốc, Tứ vương, La-sát, bảy nữ nhân đều là hộ pháp thỉnh Phật chấp thuận, sao gọi là chú thuật u mê ư? Nhưng “chú” là nghĩa vốn không hợp dịch. Như phẩm Khuyến Phát nói: Bồ-tát được nghe, phải biết sức thần thông của ngài Phổ Hiền đâu đồng với chú thuật ư! Nếu hoàn toàn không thể dịch, thì Trúc Pháp Hộ vì sao dịch? Nếu kia không hiểu không dịch ý, thì dời đổi phẩm có gì nghi ngờ?

“Đại minh… ba”: Thông luận chỉ là Bát-nhã, Bát-nhã tổng nhiếp nên gọi là chú, tổng dụng tổng trì tổng phá tổng an đều được gọi là “chú”. Chú đối với ba giáo tư duy có thể thấy; như thông biệt này lại gọi là Thông, nay Biệt ở kinh này hộ pháp. Các kinh khác tùy sự cầu đảo trừ tai ương, tăng ích lợi, nhiếp triệu không đồng; văn kia cũng đều riêng có pháp quán, do đó tân dịch đều gọi là “chân ngôn” và dùng chữ “minh” tức là: Người xưa thấy bí mật không dịch, ví như cõi này các pháp cấm chú v.v… tiện dùng tên “chú” theo lối xưa dịch. Nay nói “đều là bí mật chân ngôn chủng tử khó nghĩ bàn của Như Lai”. Chú giải “vân vân”: Khiến nói ý kia, như trước lược biết. Từ “Các sư…”: nói nghĩa của chú. Văn đầu: Vì tên vua khác lạ nên dứt ác sinh thiện. Văn thứ hai: Liền dùng tương ưng cho là Sinh thiện. Tuy có nói trị tội, chính khiến thuận giáo. Văn thứ ba là mật trị tức Đối trị. Văn thứ tư có ba:

  1. Nêu ý chú.
  2. Dẫn sự giải thích thành.
  3. “Chú cũng như vậy…”: nêu lập lại kết trước, đầy đủ bốn pháp thành Đệ nhất nghĩa. Do mật đầy đủ bốn làm Xứng lý. Đầu tiên bệnh lành là Thế giới, tội trừ là Đối trị, sinh thiện là Vị nhân, đạo hợp là Đệ nhất nghĩa. “Ba đời ác…”: ý đương lai có thể biết. Cho nên biết đây giải thích và Sinh Công giải thích hoàn toàn khác. Chú gia nói, nghĩa giúp đỡ tức chưa tổn đại nghi thức, quyết không bằng nghĩa hộ trì.

GIẢI THÍCH PHẨM TRANG NGHIÊM VƯƠNG

“Nhân duyên rút ra từ các kinh” đây chưa kiểm chứng. Văn đây cũng có tứ Tất-đàn. Đầu tiên là nghĩa Thế giới. “Lại, Trang Nghiêm…”: là Vị nhân. “Vua đây…”: là trị các căn ác tức Đối trị. “Sinh tuy…”: tức Đệ nhất nghĩa. Đầu: Quỹ âm, “quỹ” là mặt trời mặt trăng vận hạnh. “Khắc” là lậu khắc là tiếng nôn ọe. Là tướng trạng không tiến được. Ý nói một hạt cơm không tiến đường dài bị ngăn ngại nơi vạn dặm. Mười ngày là tuần chỉ chín bữa ăn, lại cản trở chí cao. Bạch hào chiếu phương Đông chiếu Diệu Âm.

1) Muốn chỉ bày sự ích lợi hoằng kinh để đệ tử gắng sức thọ pháp. 2) Chỉ bày kết hội nhập chẳng sai.

Cho nên kinh nói Tịnh Đức phu nhân, nay Phật trước phóng quang chiếu tướng Bồ-tát trang nghiêm là Diệu Âm. Thần chú hộ kinh lại từ sau nói, căn cứ trước cũng nên nói khổ hạnh. Thần chú hộ pháp hoằng kinh hiện thân thuyết pháp cả hai theo qui tắc Thầy trò, do đó nhờ chiếu đến phương Đông biết có công huân qua lại.

Muốn đến, nên trước nói “muốn thấy Dược Vương…”: Hoa Đức lại được Diệu Âm dẫn dắt và vì cõi này làm chúng phát khởi. Dược Vương chính làm chủ tổng trì chung thành tựu giáo hóa của hai con, gồm làm kết hợp xưa nay khiến thời hội đều biết. Hiểu rõ nhân xưa không tin lầm hóa tích công sâu, biết quyền mưu không thể so sánh, ngưỡng vọng chủng xa khó mất. Nói duyên trước Tứ Thánh là duyên trước không đồng đắc Thánh trở về trước vì tiện phân năng sở mới chính cải tà. Lại lợi vật nhiều nguyên do, tà chánh khác lối đi, sở hóa đã thuần thục, năng hóa bỏ tà. Nay từ thị hiện tích và tùy sau nói cho nên khi thiết lập giáo hóa, một phàm ba Thánh. Nếu căn cứ lời Phật dạy thì vì muốn dẫn dắt Diệu Trang Nghiêm Vương và tất cả chúng sinh cho nên nói kinh Pháp Hoa này. Tám vạn bốn ngàn người trong cung đều kham trọ trì. Hai người con vua cùng bốn vạn hai ngàn người đều đến chỗ Phật, tức vua và năng hóa hết thảy đều quyền từ Bản mà nói cả bốn vị đều là đại Thánh, như Thắng Man thọ hóa có xứng qui tâm, nguyên vì người trong nước trước mê sau ngộ, phép tắc hóa đạo lý số như vậy. Nay từ Tích nói thọ hóa đắc ký; bốn Thánh danh sinh, sinh tuy chưa thâu hoạch, tuy thiếu sinh mà biết hóa thời chẳng còn lâu đến. Vì vậy cho nên dự biết rõ điềm lành nhập đạo ví như Không sinh… vì Không cho nên đức hiệu vô tránh dự báo trước. Các kinh khác chỉ đây là mười Ba-la-mật, chưa từng có kinh thâu sáu độ bốn hoằng, chỉ vì làm mười độ đó thôi. Cũng không là mục đích chính đối. “Trong Đạo phẩm tiết tiết có Tam-muội”, tức là: Trong bảy khoa chỉ Niệm xứ thuộc Tuệ, Chánh cần thuộc Tiến, còn lại năm khoa trong đều có định danh. Lại riêng nêu danh là nên biết tùy dụng lập danh, lý kia không khác. “Trước thưa mẹ rằng”: Cha tà mẹ chánh, cho nên trước thưa mẹ, cùng thiết lập phương pháp hóa độ. Nếu căn cứ Bản kia thì mẹ con vốn biết. Nay căn cứ hóa nghi, cơ thuần thục ứng phát, như có va chạm nhau vật khí mới thành, vì vậy cho nên nói “bạch (thưa)”. Nếu dựa vào tình thế gian thì lòng từ của mẹ, nên trước thưa mẹ, vốn từ lợi tha lại ở trước vua cha đã tin trong cung lại thuần thục; vua cha một người đâu đủ để hóa chỉ duyên nội cung chưa thuần thục do đó vua cũng đợi thời. Năng hóa hai lớp từ xa soi xét căn cơ lý, suy tìm công hóa chủ kết hợp xưa nay. Kinh nói ví như rùa chột mắt, căn cứ sự chỉ là dụ như khó gặp thôi! Nếu nói theo nghĩa sở thừa thì phàm mắt rùa cá cả hai đều hướng nhìn. Đã nói chột mắt thì thấy chẳng chánh, tại biển sinh tử mà lại tà kiến, đâu có thể gặp Phật pháp, ví như lỗ hổng Thật đế trong bộng cây nổi. “Thiện tri thức”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói kinh Hoa Nghiêm cũng nói: Như cha mẹ đạo sư thầy thuốc. Nghe phẩm lợi ích nói “pháp nhãn tịnh”: Có người nói: Sơ quả, đâu phải vua phu nhân và cùng tám vạn, đều trì kinh này đều sẽ thành Phật, mà người nghe phẩm đắc tiểu quả ư! Danh đồng nghĩa khác phải khéo châm chước, như trước đã nói. Chú thích cũng nói: Sở kiến thanh tịnh, không nói địa vị Tiểu thừa sơ quả đó vậy.

GIẢI THÍCH PHẨM PHỔ HIỀN

Tam Tất-đàn: Đầu tiên nói nghĩa Thế giới. “Bi Hoa…”: là Vị nhân. “Ta hành…”: là Đối trị. Hoặc từ hơn các người khác đặt tên chính là “Hiền”, đối tất cả gọi là “Phổ Hiền”. Nói “Tức tam tất…”: giải thích: Đã do dịch danh phát nguyện nghĩa sẽ làm tam Tất cho nên nói lại là và vì lại là hạnh nguyện, cũng nhận lấy tam Tất đều là hạnh nguyện, tức là dùng tam Tất để phán xét hạnh nguyện, chưa lập Đệ nhất nghĩa. Do giải thích “Hiền” nên nhượng Thánh mới gọi là Đệ nhất nghĩa. Cho nên Bi Hoa nói nguyện gồm cả hạnh. Ta hành mà gồm cả nguyện. “Do trước đến nay…”: là tiếp căn giáo, chia làm bốn:

1/ Người xưa giải thích phán xét thuộc Tam tạng. Do trước đến nay theo, nghĩa là từ trước đến nay đều giải thích như đây. Do Phổ Hiền danh thông nghĩa biệt, cũng nên nói thông nơi thông biệt, văn không có là lược. Cho nên biết Tam giáo giải thích Phổ Hiền đều lầm.

2/ Tiếp, “Nay nêu…”: tức theo Viên giải thích.

3/ “Nếu Thập tín…”: lại đối vị trước so sánh phá Thông Biệt.

4/ “Nay luận…”: lập lại giải thích.

Hỏi: kinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền Bồ-tát dựa vào Như Như, không dựa vào cõi Phật. Nay vì sao nói từ phương Đông đến?

Đáp: Đây căn cứ ứng tích mà theo, kia nêu sở chứng tự thể. Đã nói Đẳng giác còn có một phần báo độ thân tồn tại, Kinh từ cực lý Sơ trụ tức chứng một phần Như như Chánh là đương Viên giáo, do đó phục thông, đoạn thiên phục đoạn đến tột cùng mới gọi là Phổ Hiền. Phục là thông tại sơ, cho nên gọi là “mới phục”. Hiền ấy không phải đều khắp nên không phải tột đỉnh, không phải khắp. “Cho nên lân cận sơ…” căn cứ vị Sơ trụ, bắt đầu Thập trụ cho nên không phải tột đỉnh cuối cùng. Thập địa chỉ đoạn tận bốn mươi phẩm, không phải đoạn phục đến tột cùng, biết chẳng phải nghĩa Phổ Hiền. Bốn căn cứ vị chánh là phán xét.

Tiếp, dẫn Thích luận để chứng minh nghĩa Viên cực; luận dẫn văn Đại kinh, đầy đủ tứ Tất-đàn. “Vân vân” là: Không dự định liệt kê; tức bốn văn kia. “Tùy đi…”: đi động chỉ là tiêu biểu đi lại. “Tùy”: Chẳng phải trước có tích chứa mà sau mưa, chẳng phải trước cất giữ mà sau tâu trình cho nên dùng long vũ (rồng phun nước) dụ. Đây là tâm lực pháp lực, chúng sinh lực, ứng hóa lực dẫn đến bất tư nghì lực. Lược dùng hai lực: Oai đức thần thông trước đã nêu đủ tự tại… bốn thứ để tiêu biểu bốn đức, nay lược không có tự tại và dùng nghĩa danh tiếng vang khắp; chỉ hai mà gồm hai. Kinh văn đã nói “cùng vô số…”: đều hiện hai lực. Phải biết sở tùy đều là Pháp thân, chủ bạn đều đủ bốn đức cho nên nói là “đều”. Văn đây vì rằng tại cuối Lưu thông cho nến nói “nguyện nghe”, tức cả thỉnh Chánh tông và Lưu thông. Riêng nêu bốn câu, trong văn có hai giải thích: Chánh tông, Lưu thông.

Đầu, lại có hai: Tức Bản tích. Tích lại có hai:

1) Căn cứ khai Quyền hiển Thật.

2) Căn cứ Khai Thị Ngộ Nhập.

Câu đầu tiên, văn nói “pháp thân”. Câu hai, ba nói “Bát-nhã”. Câu thứ tư nói “giải thoát”. Hai đức trang nghiêm Pháp thân, vì vậy cho nên ba câu sau căn cứ câu đầu. Trong câu đầu, từ chữ “Viễn ác” trở xuống tám chữ tứ Tất-đàn. Tiếp, “Căn cứ khai…”: trong kinh điển bốn câu trở về hỗ tương là, do từ khai… thứ lớp. “Chỉ có ba, chỉ có bốn”: Bốn chỉ là bốn An lạc hạnh, ba chỉ là ba đức và tòa, áo, nhà ba thứ. Văn trước giải thích áo… ba thứ, đều thông hai câu đều có năng sở, nay từ một bên thì dùng Không tòa làm Bát-nhã, sở phú làm Pháp thân, năng phú làm Giải thoát. Trong đây chánh định hợp ở pháp thân đức, trước đối trong khai hiển tức hợp chánh định, nhập trong Bát-nhã, dùng một câu đây mà hai câu được danh. “Có người lạm dụng giải thích”: Giả như, có người không chịu giải thích đây là vì không chịu tự hành hóa tha, vì không chịu khai thị ngộ nhập, vì không chịu nhà, áo, tòa ba thứ, vì không chịu (hứa) phương pháp hoằng kinh. Nếu nói không phải, tức không chấp nhận chỉ vì không có văn. Nếu cho rằng kinh không có tức là không chịu, bèn cần nói lại. Nếu không như vậy thì làm sao nắm rõ Chánh tông kinh này, đến đây là lập lại thuyết đó chăng?

Đầu kinh tồn tại bốn câu Khai v.v… mà làm bốn giải thích, nay đến cuối kinh này lại chỉ bày Khai… tức trở lại giải thích, cho nên biết đầu cuối đều là thể tông dụng của kinh này. Vậy thì Tựa Chánh và Lưu thông đều là diệu pháp. Trong giáo nội pháp nói ba phen tức đọc, tụng, tư duy hai mươi mốt ngày. Có người đến đây cũng dẫn văn nói hành có năm pháp:

  1. Ba lần bảy ngày thấy (ba tuần).
  2. Bảy lần bảy ngày thấy.
  3. Một đời thấy.
  4. Hai đời thấy.
  5. Ba đời thấy.

Lại nói: Ứng có sáu pháp:

  1. Nghiêm đạo tràng.
  2. Tịnh thân.
  3. Sáu thời.
  4. Khải thỉnh.
  5. Đọc tụng.
  6. Tư duy thậm thâm pháp Không.

Tác quán như vậy thời năng diệt trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ trọng tội. Nếu vậy thì vì sao giải thích một kinh, đều không khởi tâm địa gieo vào tưởng, đến đây mới dẫn Kinh Phổ Hiền Quán. Huống chi nay tự nói đọc tụng viết chép. Muốn tu tập kinh Pháp Hoa này ở trong ba tuần nhất tâm tinh tấn thì ta sẽ cởi voi đến trước mặt người ấy. Cho nên biết nếu tu hành hoặc giải thuyết xin nương Sư này mới có đến. Do đó chẳng có Huyền Văn thì không thể dẫn dắt, chẳng phải Chỉ Quán thì không thể thông đạt, chẳng phải sớ đây không dùng trì, chẳng phải một không dùng tiến. Nếu không vậy thì dụng giáo ấy làm gì, dụng giảng làm gì? Cho nên ở Đông Kinh chùa An Quốc, Ni Tuệ Nhẫn an trí ở Đạo tràng Pháp Hoa, nay thiên hạ bắt chước nhưng mê bản kia, không biết Ni đây dựa vào bằng chứng hiện hữu nào mà tự thân cảm Phổ Hiền. Nhưng tuy có an trí nơi đạo tràng nhưng phần nhiều làm thầy cho tâm mình, huống chi nay người giảng mà muốn xem nhẹ! Lược giáo đây, bởi do không biết ý chỉ của giáo. Chợt cùng Giang Hoài hơn bốn mươi vị Tăng đến lễ Đài sơn, nhân thấy Bất Không Tam tạng môn nhân Hàm quang bèn phụng sắc chỉ ở núi tu tạo, nói cùng Bất Không Tam tạng đích thân du hành tới Thiên Trúc.

Ở kia có Tăng hỏi: Đại Đường có Thiên Thai giáo tích rất có khả năng phân biệt tà chánh hiểu rõ thiên viên, có khả năng dịch đem đến cõi này chăng? Đâu chẳng phải Trung Quốc mất pháp này mà tìm cầu bốn phương! Chẳng qua phương đây ít có người hiểu biết như người nước Lỗ thôi! Cho nên người có đức dày hướng đạo thì chẳng nên không ngưỡng mộ, kính nguyện học giả hành giả tùy sức xưng tán. Nên biết tự hành và lợi tha đều khác kinh sách khác, hoặc nói hoặc nghe cảnh trí tồn tại chăng, hoặc ngầm hoặc hiển chủng (thuần) thục có thể hy vọng, đều do người hoằng kinh, có phương pháp. Nếu trực tiếp giảng thuyết như vậy thì người hoằng kinh đâu cần khuyên răn áo, tòa, nhà ba thứ. Như Lai di giáo sao có thể coi thường như vậy ư?

Tôi xét mình tài hèn sức mọn, Kiến giải suy tìm tự cảm hổ thẹn rất nhiều vội vàng vận dụng các duyên, gắng dùng sớ giải, mặc dù có lập, phá cũng chỉ vì làm cây Viên thừa, khiến cùng người đồng chí hướng khai Phật tri kiến, quyết không thiên vị, bè phái mà chỉ muốn thuận tâm nguyện cứu giúp. Mong các vị minh giám, thấu cho lòng thành ngu muội của con :

Một câu nhiễm tâm thần
Đều giúp đến bờ kia
Tư duy hằng tu tập
Thường dùng làm thuyền bè.
Tùy hỷ thấy và nghe
Thường làm chủ với bạn
Hoặc lấy hay là bỏ
Nghe qua thấy thành duyên.
Hoặc thuận cùng với nghịch
Trọn nhân đây được thoát
Nguyện ngày tôi giải thoát
Y báo và chánh báo
Thường tuyên Kinh mầu này,
Một cõi đến một trần
Đều là vì lợi vật.
Cúi mong nhờ chư Phật
Thầm hộ trì cho con
Tất cả hàng Bồ-tát
Mật giúp sức uy linh
Nơi nơi chưa nói pháp
Đều vì chúng khuyến thỉnh.
Phàm nơi có nói pháp
Thân thừa sự cúng dường
Một câu cùng một kệ
Tăng tiến đạo Bồ-đề
Một sắc và một hương
Trọn không hề thoái chuyển.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10