PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 04

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

(Phần Thượng)

Tiếp, chánh giải thích: Trong phần đầu tiên giải thích sự lý, thì trước là giải thích, sau là nguyên do. Trong giải thích thì trước là giải thích lý, nói “Lý là chân như” cho đến “là thật”: lý thật tại đâu? Tại tâm ý thức, cho nên lý không chỗ tồn, biến khắp tại sự, nên “gọi sự là quyền”. Luận Câu-xá nói: Tập khởi gọi là tâm, tư lượng gọi là ý, liễu biệt gọi là thức. Ở luận kia, nhất hướng hoàn toàn không có tức lý. Như trong Đại thừa thức thứ tám gọi là tâm, thức thứ bảy gọi là ý, thức thứ sáu gọi là thức. Giáo kia vì người mê, lại không có tức lý, cho nên giáo Thiên (lệch) Tiểu thừa pháp hữu lậu, hoàn toàn không có tánh tịnh, tức ít biết lý thường trụ. Cho nên biết hữu lậu tuy duyên tịnh…, đồng thuộc sự, đầy đủ như Sự Lý Bất Nhị Môn nêu rõ. Cho nên trong phần nguyên do, nói: “không phải lý thì không thể lập sự, sự có công hiển lý”, cho nên xưng tán phương tiện. Ai dám dùng tâm tam giới hữu lậu… để làm phẩm Phương Tiện mà được Như Lai xưng tán ngợi khen? Nếu không vậy, vì muốn cho chúng sinh thì nghĩa ấy ở đâu? Tướng thế gian thì nói làm sao để hiểu, để giải thích?

Trong phần Giải thích “Lý giáo”: Trước là chánh giải thích, tiếp “Phi giáo…” là nêu nguyên do. Đầu tiên trong giải thích lý, thì trước là lược giải thích, tiếp là dẫn lệ. Đầu tiên nói tổng sự lý trước, là hợp hoặc lý trước. Cho nên, biết: vô minh pháp tánh cho đến ngoại giới tất cả các pháp đều là sở thuyên. Tâm ý thức đây, danh cùng thể, đầy đủ tất cả pháp ngoại giới, thì ai biết giáo Pháp Hoa, dùng các pháp đây mà làm sở thuyên? Nếu không vậy thì tà kiến Nghiêm vương ác nghịch Điều-đạt từ đâu mà đắc? Tiếp, nêu lệ: Đây tức nêu giải để ví như nơi mê, khi giải lý chân tục đều đế giải do mê đắc, cho nên trong mê thì còn gọi sự lý. Do giải thích lý đây mà được thành giáo. Dùng lý vọng giáo, thì giáo gọi là Quyền. Lý tại nơi mê, thì mê cũng gọi là Thật. Cho nên gọi quyền thật chẳng phải một chỗ đắc. Quả giáo luận đàm đây năng thuyên cũng quyền, cho nên biết giáo kia chỉ giải thích lý kia, vì vậy nên Như Lai xưng tán giáo này. Nếu chẳng phải kinh này, thì ai dám tán thán giáo giải thích mê này là phẩm Phương Tiện? Nếu không vậy, thì từ Tam-muội ra tán thán cái gì?

Tiếp trong phần “Giáo hạnh”, “hành có sâu cạn”: nghĩa là Viên tiệm. Viên tiệm là gì? Nghĩa là bảy phương tiện, vẫn chỉ tiệm tiệm tức là Viên tiệm. Cho nên giáo định, mà hạnh thì dời đổi. Hạnh quyền giáo thật, vì vậy nói giáo không tiến thú, huống chi giáo giải thích thật tướng, lý thật tướng không còn sâu cạn nữa.

Hỏi: Nếu không còn sâu cạn thì lẽ ra phải không còn giải thích hạnh giáo? Đáp: Giáo có hai thứ, giáo giải thích lý không hai thì tiêu biểu giáo hạnh tự phân, chỉ duyên hạnh có sai biệt dẫn đến giải thích (thuyên) hạnh giáo có chút sai biệt. Lại nữa giáo năng thuyên cũng không tiến thú, hạnh sở thuyên tự dần sai biệt. Nếu không vậy thì Như Lai phương tiện Ba-la-mật… sở chứng thế nào?

Tiếp, “Phược thoát”: Hạnh danh còn thông vẫn kiêm trái thuận, cho nên dùng phược thoát mà phân biệt quyền thật, gọi là “phược thoát”. Lại thông xưa: Các kinh địa tiền còn tự trái lý vì chưa khai quyền, kinh này khảy móng tay đều là Phật nhân để hiển bày thật. Ai biết kinh này Phật dùng hạnh xấu cũng được gọi là thiện xảo phương tiện? Dụ Tử thi thông khắp tất cả, đầy đủ như trong Tu Tánh Bất Nhị Môn nêu rõ.

Trong phần “Nhân quả” có ba: 1. Chánh giải thích. 2. “Không có quả…” : là nêu nguyên do. 3. “Hai loại quán…”: là giải thích thành. Trong phần Giải thích thành, nói “dùng hai loại quán làm phương tiện”: lại căn cứ pháp để nêu bày tướng, mượn quyền để lệ hiển, trong mỗi một lớp thông nhiếp các giáo, lẽ nào có thể quyết định hạn cuộc riêng hai loại quán ư? Như trong Thể dụng tiệm đốn khai hợp thông biệt, cũng có các pháp giáo thể dụng… Từ thể khởi dụng, từ đốn khai tiệm, từ tiệm hợp đốn… Tiếp “Thể dụng”: lại chỉ Sơ trụ vì tùy phân quả, quả đây tức có dụng của một trăm pháp giới. Nói “lập tất cả pháp”: trước trong phần sự lý thì dùng nhiễm duyên làm tất cả pháp, ở đây thì tịnh duyên là các pháp, đầy đủ như trong Nhiễm Tịnh Bất Nhị Môn nói.

Tiếp, trong phần “Tiệm đốn”: 1. Tự tha đều có tiệm đốn. 2. Hóa tha khởi dụng nghĩa kiêm quyền thật, đều là quyền trong thể làm pháp lợi tha quyền thật đây, cho nên phải nêu rõ khai hợp. “Khai hợp”: “Tiệm tự không hợp”: là Tạng Thông hai giáo không phế bỏ Tiểu thừa. “Cũng không hợp đốn” : Tam giáo Bồ-tát không nhập thật. Tiếp, “Thông Biệt ích”: Trước nói tiệm đốn môn thì trong tiệm tuy có bán giáo mà bán ở đầu tiệm, nay bán ở sau Thông. “Tất-đàn”: tức là phán thể dụng nói ở trước cho đến Thông Biệt. Căn cứ trước để giải thích.

Tiếp, “Đương dụng…” là kết chỉ bày phương pháp. Nói “bốn câu”: là bốn câu “tương pha” v.v…, đầy đủ như trước giải thích. Tiếp trong phần “Dẫn chứng” có hai: Trước là dẫn, tiếp “Luận kia…”: là kết tán. Đầu lại có hai: Trước kinh, sau luận. Trong phần kinh: trước là dẫn một bộ, tiếp là dẫn một phẩm. “Dẫn một bộ”: là muốn lược chỉ phương tiện khắp, đầy đủ như trước đã xét. “Dẫn một phẩm”: Chánh nêu khắc thể, chỉ văn xứ, đầy đủ như liệt kê sau. Đầu, “dẫn một bộ”: thì trước là chọn lọc ý, tiếp chánh dẫn văn. Đầu chọn lọc ý: Phân chọn thông theo biệt, mười cặp, mỗi mỗi đầy đủ các giáo vị. Nếu có người không rõ sự lý cho đến Tất-đàn, thì tin không phải Phật giáo, lại từ đối đãi nhau cho nên phân chọn thông theo biệt. Tiếp, chánh dẫn: Đầu tiên trong sự lý nói: “không như tam giới”, nghĩa là không đồng. Bắt đầu từ Nhị thừa đều khác tam giới, chưa đủ để biện rõ nay. Nay từ câu trên “phi như phi dị” mà thành văn đây, cho nên cùng phương tiện giáo sự lý không đồng. Trong lý giáo, lý nói “tịch diệt”: Chân tục hai lý không thể nói. Tiếp trong giáo nêu “năm Tỳ-kheo”: đầu tiên Từ tiệm thuyết, cũng cần nên nói: Nếu người vô tánh thì vì họ nói nhân thiên, cho đến Tu-la… vì nói hạ phẩm thiện, cho đến vì nói vô tác tứ đế. Cho nên, biết: theo lý thì đều không thể nói, theo sư thì đại tiểu đều có thể được nói. Chứng giáo hạnh: Nếu nghe chứng giáo, khéo hành thì chứng hạnh. “Các ông…”: hai văn đều chứng hạnh, nên rộng căn cứ kinh này để nêu tướng khéo tu hạnh thành Phật. Nói “chủng chủng”: nghĩa bao hàm giáo hạnh, vì có nhân duyên xưa nay.

Tiếp, “Chỉ lìa”: là chứng phược thoát. “Chỉ lìa v.v…”: là trong Tiểu thừa thì lìa vọng gọi là “giải thoát”, tức dùng hư vọng, gọi là “phược”. Tiểu tuy giải thoát mà chẳng phải tất cả thoát. Tiểu thoát, đối với Đại thừa thì vẫn gọi đó là phược cho nên nói “chưa đắc”. Như thế chứng đại tiểu đều có phược thoát, chỉ nay gọi là thoát. “Tận hành…”: là chứng nhân quả, tận hành nhân, đạo tràng quả. Phải căn cứ trong đây để nêu rõ Bản tích quả biệt, cho nên nói “v.v…”. “Phật nhãn” là thể, “thấy lục đạo” là dụng. “Bắt đầu thấy” là đốn, “học Tiểu” là tiệm. Nói “v.v…”: là năm thời không đồng hội khiến nhập đốn, “Cùng tử” là khai, “phó tài” là hợp. “Hóa thành” là thông, “Bảo sở” là biệt. “Chủng chủng” là tứ Tất. Tiếp, “Biệt dẫn một phẩm”: Trước là kết phần trước sinh sau. “Chư Phật…”: là chánh dẫn, phải nhất nhất giải thích khiến nghĩa hợp mười cặp và cùng ý kinh này hợp… Đầu, dẫn “Chư Phật…” hai câu: Câu trên nêu Phật trí sở tri, cho nên nói “thậm thâm”, tức là lý. Câu dưới dẫn môn môn tức là giáo. Sở thuyên vì diệu cho nên nói “khó hiểu”, sở tri sở thuyên lý kia không sai biệt. “Nhất thiết…”: Sự lý đều là cảnh, cảnh tức lý. Trí tức năng tri vọng năng thuyên, đều gọi là lý vì đồng là sở thuyên. Đây chính dùng chữ “môn” cho nên khó giải chữ, lại phân thuộc Thanh văn bên dưới bất tri, đối Đại thừa gọi là “phược”. Đây nêu bất tri chính hiển năng tri, cho nên năng tri gọi là “thoát”. Tiếp, “Sở dĩ…”: là giải thích “nan tri” (khó biết) bên trên. Chứng giáo hạnh do năng tri thuộc tại nơi Phật, bởi do bẩm giáo có hành. Do thân cận Phật ắt được nghe giáo, “danh xưng vang khắp” ắt hạnh đầy đủ. Tiếp “Thành tựu…”: là chứng thể dụng, “thành tựu rất sâu” tức thể đầy đủ, “tùy nghi sở thuyết” tức là dụng. Nên biết trong văn lược chữ “tùy nghi”. Tiếp, “Ta từ…” là chứng nhân quả, chánh thủ thành chữ để chứng nhân đắc quả cũng là quả có nhân. “Chủng chủng…”: là chứng tiệm đốn. Các thứ chứng tiệm khiến lìa chứng đốn. “Vì sao vậy?…”: là chứng khai hợp: Phương tiện chứng khai, đầy đủ chứng hợp. Vả lại căn cứ tự hành luận hợp, tự hành đã đầy đủ lợi tha tất nhiên. “Chư Phật vì đại sự…”: là chứng lợi ích. Đại sự từ biệt biệt ắt hội thông.

“Tóm yếu mà nói…”: là chứng tứ Tất-đàn. Nói “vô lượng vô biên” là chứng ba Tất-đàn. “Thôi không cần nói nữa” là chứng Đệ nhất nghĩa, chính là chỉ lý bất khả thuyết. “Tánh tướng như vậy…”: là chứng sự. Mười giới là sự, thật tướng là lý. Nếu chấp cứu cánh… thì Không Trung là lý, Giả… là sự. Nếu đem văn đây đối quyền thật… bên dưới, thì đều căn cứ trong thể mà luận, đương bộ đã khai. Nói “Phật Phật đều vậy”: là chư Phật hiển thật đều nêu năm Đức Phật lấy làm sự đồng. Tiếp, trong phần dẫn “luận Pháp Hoa”, thì đây cùng với luận kia có một ít khác biệt chỉ có tám cặp, thiếu khai hợp phược thoát. Lợi ích tức là thông biệt, khai biệt xuất thông làm lợi chúng sinh Phược thoát cùng nhân quả có chút sai khác, cho nên không biệt đối. “Luận giải thích trí tuệ chư Phật rất sâu, là chứng rất sâu”. “Thậm thâm (rất sâu) có năm”, nay căn cứ sở chứng nên phân biệt thuộc lý. Tuy phân làm năm mà không ngoài nơi chứng. “Nghĩa”: là nghĩa vị, Phật trí đắc chứng có thật nghĩa. “ Thật thể”: nghĩa là lý sở chứng. “Nội chứng”: là tự hành khế hợp cảnh. “Y chỉ ”: nghĩa là chánh nêu lý sở y. “Vô thượng”: là tán thán lý sở chứng. Khi đến quả thì vượt quá ba, năm, bảy, chín thừa…, luận tự chuyển giải thích “Vô thượng thậm thâm”.

Nói “Đại Bồ-đề”: Luận dùng chữ “Đại” để giải thích “Vô thượng”, không phải dẫn Bồ-đề chứng vô thượng. Do câu thứ ba tự có chứng rất sâu, nên hướng đến căn cứ đương phẩm cũng dùng câu trên chứng lý, câu dưới chứng giáo. Nói “A-hàm”: Đây nói là pháp không gì sánh bằng, tức nói “giáo”. Năm câu trước chứng lý mà năng khởi giáo, gọi là “lý giáo”. Nay lý thông nhân luận văn tại quả. “Môn” là giáo trí gọi là “trí tuệ môn”. Trong đây phược thoái một cặp trong luận văn không có. Nay nếu lập, thì khó hiểu, khó nhập, vẫn thêm khó thấy, khó giác, khó biết. Trên “khó hiểu”, nói “tất cả Thanh văn Bích-chi-phật không thể biết”, đây chính là ý giải thoát. Thoát nên đối phược tức cùng phược thoát ý đồng. Luận văn hợp ở trong nghĩa A-hàm.

Luận đối với nghĩa A-hàm lại khai tám thị hiện: 1. “Phật đã từng thân cận…”: là Thọ trì đọc tụng rất sâu. 2. “Trăm ngàn vạn ức na-do-tha Phật sở tu đạo Bồ-đề”: là Tu hành rất sâu. 3. “Dũng mãnh tinh tấn”: là quả hạnh rất sâu. 4. “Danh tốt vang khắp”: là Tăng trưởng công đức rất sâu. Nay hợp luận bốn văn lấy “làm giáo hạnh quyền thật”. “Luận giải thành tựu…”: là Quyết diệu sự tâm rất sâu thứ năm. Luận “Ý thú…”: là thứ sáu: Vô thượng thậm thâm. Luận lấy “tùy nghi thuyết pháp” làm cái thứ bảy: Nhập rất sâu. Nay hợp luận ba thứ này cùng làm “thể dụng quyền thật”. Luận dùng nhị thừa bất tri làm cái thứ tám: Trụ trì rất sâu. Kinh đã không có văn, nay không có sở đối. Luận từ đây về sau lại lập bốn thứ “thành tựu công đức của Như Lai”: nhân quả quyền thật là thứ nhất. Sơ trụ thành tựu. Tiệm đốn quyền thật là thứ hai, Giáo hóa thành tựu. Trong đây thiếu một khai hợp quyền thật, còn lại cùng luận không đồng cũng không cần hòa hợp. Do luận văn tăng thêm câu, nay chỉ trực đối, như trước dẫn văn đương phẩm, cho nên nay lại hiểu rõ hiện văn. Từ trong “Chứng giáo hạnh”, thân cận ắt tu hành, tinh tấn ắt tăng trưởng. Nếu không tinh tấn tăng trưởng thì đâu có danh tốt vang khắp, cho nên hai thành hạnh đều do nghe giáo. Tiếp, trong “Chứng thể dụng”, sự tức là dụng, vô thượng cho đến nhập tức đắc thể. Đã nói thành tựu tín dụng từ thể. Tiếp, trong “Chứng nhân quả” nói “Nói Như Lai công đức thành tựu”: là công đức thuộc nhân thành tựu tại quả. Kinh nói “thành Phật đến nay” là nghiệm biết quả do nhân khắc. Tiếp, trong “Chứng tiệm đốn”, nói “giáo hóa thuyết pháp”: “Giáo hóa” thì thông nhiếp tất cả nghi thức hóa độ kiêm cả nghịch thuận. “Thuyết pháp” thì chỉ tại khẩu luân, hạn cuộc nơi thuận hóa. Nên biết ba luân đều nói thành tựu không riêng thi hạnh đốn. Tiếp, trong “Chứng lợi ích” lấy tự chứng để giải thích “lợi”, lấy lợi tha để giải thích “ích”. Vì tự chứng thật, nên nói thành tựu bất tư nghì; tùy tha quyền nên nói ngôn ngữ.

Trước nói thuyết pháp thông nơi tự tha, đây nói ngữ ngôn chỉ tại nơi tha. Tiếp, trong “Chứng tứ Tất-đàn” nói “có thể hóa”: Tứ Tất-đàn đều từ người có cơ duyên mà đặt tên, cho nên nói “có thể hóa”. Trước nói giáo hóa thông chủng thục thoát. Trong đây “có thể hóa” phần nhiều tại thục thoát. Nay nói “không thể hóa” là tương đối đến thôi! Tức là người không có cơ duyên tứ Tất-đàn. Trong “Chứng sự lý” nói “thành tựu chư Phật năng tri, thể Pháp thân”, đây chỉ quả địa Pháp thân làm lý, do tùy chúng sinh gọi đó là sự, đây cũng là pháp thân diệu cảnh sự lý đầy đủ. Nay ý thông tất cả, luận văn hạn cuộc quả, quả do đảm đương tất cả, cho nên nghĩa cũng đồng. Đây cùng Phật kinh và Bồ-tát luận văn lý nhã hợp, cho nên nói “cùng Tu đa la… hợp”.

“Kết thành ba thứ quyền thật”: Kết thành đầu số, cho nên dùng quyền thật cùng làm số kia. Hoặc thiết lập hoặc hội nhập, pháp không tăng giảm. Nếu không có văn đây thì khiến trước giải thích quyền thật chưa phân, Vả lại liệt kê mười danh, chỉ lược giải thích mà thôi! Cho nên, nay đối giáo chính là phân quyền thật. Văn tự chia làm ba: Đầu kết thành ba thứ, trong đó lại có hai: Đầu thông sau biệt, tóm thông thành biệt. Trong Thông lại có hai: Trước là Thông trong thông, tiếp là Biệt trong thông. Phần đầu, Thông trong thông: Trước nêu cho đến “cũng như vậy”: là nêu trong đó tuy nói bốn giáo đều có mười mà chính thành bốn giáo đều có hai mươi, hoặc ba mươi hoặc một trăm sáu mươi. Nói hai mươi: Tức tự mười, tha mười, do tự thông không có biệt pháp, lại dùng tự mười thông để lợi tha. Vì vậy, trong văn chỉ liệt kê mười, hoặc ba mươi nguyên do biên chép, hoặc nói là tiêu biểu bất định nên tự tha một hoặc không có bản số. Chỉ tự tha nên nay vẫn chia làm tự tha một đối: 1. Y giáo, do trong Đại Kinh có tự tha đây nhất trùng Nhị đế. 2. Y lý đã nhiếp đơn tự tha mà vì tự tha hợp, mất đơn kia gọi là tự làm một dối, hoặc chỉ mười để trong tự hợp quyền làm thật là mười thật, đối ở trong tha hợp thật làm quyền là mười quyền, tổng hợp mới thành mười cặp quyền thật. Hoặc hai mươi: Cũng đều tồn tại nơi tự tha mười cặp. Phải biết bốn giáo hoặc tám mươi hoặc một trăm hai mươi hoặc một trăm sáu mươi làm như đây cộng thành một bất tư nghì quyền thật, nghĩa là quyền trong thể để đối thật. Nếu không vậy thì chẳng phải Pháp Hoa.

Tiếp, “Lại đương giáo…”: là trong biệt giải thích nói bốn thứ làm tự hành. Trước đã nói thông: mười, mười đều thông tự tha v.v… Nay nói biệt: Trong mười phân làm bốn, hai, bốn. Cho nên biết thẳng vậy phân mười để làm tự tha, không đối các giáo, mỗi giáo đều như vậy. Lại cũng có thể dùng năm thứ trước làm tự, năm thứ sau làm tha, tương đối làm tự tha. E rằng tự tha trong một giáo còn thông tự tha tương đối, nay chia làm mười để thành ba nghĩa thì xưa nay vẫn thành biệt cho nên như vậy. Vì vậy nên bốn giáo chỉ có bốn mươi đều đầy đủ tự tha, cho nên biết kinh này chỉ thuộc trong Viên hóa tha tự hành, hóa tha mới được gọi là phương tiện. Tiếp, trong “Biệt kết” nói “hoặc thông hoặc biệt”: Chỉ ở trước thì đương giáo thông biệt, nay tổng dùng bốn giáo cùng đối tự tha, thì ba giáo là tha, chỉ có Viên giáo là tự, cho nên nói biệt. Thông biệt nói ở trước gọi là tự, cùng tha nghĩa có liên quan các giáo khác. Biệt thì buộc nơi thông biệt, tự thì chỉ có tại phẩm này, đó là Viên gia phương tiện thiết lập khai v.v…

Tiếp, “Kết thành bốn câu”: Kết hướng biệt, kết tự tha để thành bốn câu.

Hỏi: Trước lập bốn câu mỗi câu nhiếp khắp, nay vì sao phân quyền thật đều nêu tương đối làm câu, tất cả không thành?

Đáp: Tuy nhờ bốn câu kia dùng để trình bày ý nay, mà chính là phân bốn giáo, lìa nay đối câu có ba ý kia: 1. Đối luận thứ ba lìa thâu hết tất cả giáo chưa được gọi là đầu đề của phẩm này. 2. Khai xong, lại đồng văn trước viên dung tất cả. 3. Nay câu thứ ba đã thâu hết giáo, chỉ dùng quyền thật tương tức trong câu thứ ba này, thì nhậm vận thâu được ba câu còn lại. Mượn tất cả kia bởi có nguyên do. Nếu dùng bốn câu đều thông các giáo, thì tư duy đó nói năng đó. 4. Kết thành ba thứ giải thích phẩm, tức là trong văn đầu pháp dụng… ba thứ, cho nên đem ba thứ đây đều trải qua năm vị để kết tên phẩm. Cho nên biết ở trước đã giải thích là lược, dựa vào đương phần đối giáo để nói. Cho nên một nhà hiển diệu, ắt còn năm vị mới thành diệu. Cho nên mỗi mỗi giải thích biến khắp năm thời thì khiến pháp dụng và môn đến thời Pháp Hoa đều khai, khiến thành đồng thể pháp dụng môn đại xa. Hai cái trước đều thành nghĩa thứ ba.

Phần đầu căn cứ pháp dụng, lại chia làm ba: 1. Thẳng nêu năm thời. 2. “Như Lai…”: là nêu ý năm thời. 3. “Cho nên giải thích…”: là kết thành giải thích tên phẩm. Phần Thẳng nêu chia làm hai: Trước nêu ý xuất thế thiết lập quyền, sau chánh giải thích năm thời. Phần trước lại có hai: Trước nêu bản ý nhập thật, tiếp “Phật tuy…” : nêu rõ đầu văn ý thiết lập quyền, đạo tràng sở đắc thật, tu đạo đắc nên quyền. Cho nên dẫn luận Nhiếp Đại Thừa để song chứng hai văn, tức “Lý và Lượng”. Tiếp, ý thiết lập quyền là vì tiếp dẫn Tiểu thừa và độn căn. “Chẩn” là vết xe đi, mới bắt đầu đi gọi là “phát”. Tiếp, trong phần “Chánh giải thích năm thời”, nói “bày việc này”, là bày riêng nói. Cho nên đến Hoa Nghiêm kiêm thuyết biệt. Trong bộ, luận chủ tuy là Viên giáo mà căn cứ ý năm thời dùng Biệt trợ giúp Viên, hai giáo dưới cũng vậy. Đây căn cứ ba thứ pháp dụng của bốn thời trước không thể đến thật, cho nên chỉ thành nơi sơ nghĩa giải thích phẩm. Nếu đến Pháp Hoa thì dù gọi pháp dụng cũng thành pháp dụng bí diệu, tức có thể dùng dụng giải thích phẩm kinh này, thì phương pháp là danh mà ngày xưa thông bốn, nay không còn bốn, không còn ba nữa. Tiếp, trong phần “Căn cứ môn” có bốn phần: 1. Cũng thẳng lập năm thời. 2. “Từ đầu đến cuối…”: nêu ý năm thời, 3. “Giải thích phẩm nói…”: là kết thành giải thích phẩm. 4. “Trước một phen…”:cùng chương trước biện rõ sai khác. Phần một cũng trước nêu ý xuất thế thiết lập quyền, tiếp chánh nêu năm thời. Đầu văn nêu tự chứng đối với thuyết lấy làm quyền thật, cho nên nó tự chứng cũng không thể nói. Tiếp, trong nhũ giáo, không nói kiêm biệt mà thẳng nói biệt, vì từ nghĩa môn. Do đó trước giải thích pháp dụng thông bốn, nay chỉ tại ba, cho nên căn cứ năm vị giải thích môn đều từ năng thông, cho nên một Nhũ một Lạc, ba trong Sinh tô, hai trong Thụctô, Đề-hồ an trí như vậy.

Phần bốn: Biện rõ sai khác: Cùng trước pháp dụng tuy đồng nêu năm thời, mà đây nêu năng thông đến sở thông, cho nên được biện sai khác. “Trước một phen…”: là đầu tiên căn cứ trong phương pháp nêu rõ “Như Lai năng tri năng dụng phương tiện”, pháp là năng tri, dụng là năng dụng. Chúng sinh không biết là Phật phương tiện, nay đều khai khiến chúng sinh biết. “Đây một phen nêu rõ” khiến chúng sinh thuận theo phương tiện, nghĩa là từ môn thuận theo thật, mà cũng không biết phương tiện tức là thật của sở thuận. Nay cũng khai phương tiện đó. Lại hai chương trước đều có cơ duyên ứng với hai ý, chỉ trước phần nhiều theo ứng thuyết, cho nên lại nói Như Lai, sau phần nhiều theo cơ thuyết nên nói hành. Cho nên nói ân cần tán thán đều từ Phật đắc. “Lại nữa…”: là phần thứ ba căn cứ bí diệu giải thích, do diệu nên tức, vì muốn thông bốn thời trước nên dùng Viên làm tức. Ba vì bất tức cho nên lại đối bất tức để giải thích tức, trong đó lại chia làm bốn:1. Nêu rõ ý hóa độ. 2. Trải qua năm vị. 3. “Hai ý trên…”: đối trên biện sai khác. 4. “Trên giải thích…”: là kết phẩm danh. Ý hóa độ là ý chỉ Đại, đồng trước. Năm vị, có thể thấy. Nói biện sai khác: Tuy đồng năm vị mà sở đối biệt, tuy trong các vị có tức bất tức, mà Phật thì thường tức, chúng sinh thì tự ly. Lại phàm giải thích năm vị thì chỉ được phân biệt danh, nếu thành phẩm này thì phải cần khai lại. Đây tuy căn cứ ba nghĩa trước để giải thích phẩm, thì hai nghĩa trước đến vị thứ năm đã thành khai

xong. Tuy thứ ba thuộc khai, nay lại thông trước. Bốn thứ trước cũng nói “không phải nay sở dụng”, nay cũng thành sở đãi là thô. Viên và sở nhập mới là chân thật. Sau giải thích tuy lại đối năm thời nhưng chỉ biết Đề-hồ, đều là bí diệu, khai cùng phê phán tại trong kia.

“Phần sáu: Phân biệt chiếu đế”: lại có hai phần: 1. Nêu dụng ý: 2. “Nếu thông…”: là chánh nêu chiếu đế. Phần một, ý: Trước tự tha… đã nói quyền thật từ trí đặt tên, nay biện minh sở chiếu nên lần nữa lại nêu. Trước nêu dụng trí chẳng phải không chiếu cảnh, muốn khiến dễ hiểu nên lần nữa lại nêu sở chiếu. Phần hai: Chánh nêu, chia làm ba: 1. Thông giải thích: danh thông mà giáo biệt, nếu tóm bốn làm hai thì, trong mỗi một giáo đều dùng bốn làm hai, như trong “Tự” thì quyền thật tóm làm một thật, trong “Tha” thì quyền thật tóm làm một quyền, cho nên chỉ thành hai. 2. “Nếu phải phân…”: là biệt giải thích, pháp biệt và giáo biệt, căn cứ trước có thể biết, trong đây chuẩn theo văn biệt kết ở trước, chỉ nên dùng bốn thứ: Sự, Lý v.v… làm tự chứng. Nay nói Tấtđàn, văn sợ lầm, Tất-đàn thuộc tự tha ở sau. 3. “Lại nữa Tam tạng…”: tức tổng lược bốn, nêu rõ trước là giáo biệt mà pháp có tổng biệt, nay là giáo tổng mà pháp biệt. Đây văn có ba lớp: Một là: Dùng Tam tạng làm tha; Hai là: Dùng nhị giáo làm tha; Ba là: Dùng tam giáo làm tha, và cuối cùng dùng Viên làm tự, do tha bất định, tự tha tùy thuận, cũng tiến thoái bất định. Trong lớp đầu dùng Thông, Biệt làm tự tha, vẫn là Biệt tướng tự tha, do tha chỉ có Tam tạng. Lớp thứ hai, đã dùng Thông và Tạng làm tha, cho nên chỉ dùng Biệt làm tự tha. Lớp thứ ba, đã dùng ba đều làm tha, tự tha không còn thể riêng biệt chỉ được đem ba giáo cùng Viên đối nhau nói. Cho nên, nói thu tóm ba giáo… Nhưng trong lớp đầu thì Thông, Biệt hai giáo đều có hai hướng. Thông có bất cộng cho nên đồng Biệt. Biệt căn cứ nghĩa cộng cho nên đồng Tạng. Biệt theo giáo đạo cho nên là tha, có chứng đạo cho nên đồng tự.

“Phần bảy: căn cứ các kinh”: Hỏi: Nay căn cứ các kinh trở lại liệt nêu năm vị cùng trước đâu có sai khác? Đáp: Trước dùng năm thời trải qua ba thứ: Pháp dụng, v.v… Chỉ vì thành năm thời đều có ba thứ: Pháp dụng, v.v… khiến biết Pháp Hoa ba lớp đều diệu, nên dùng năm vị trải qua các kinh, dùng bộ đối bộ mà biện thô diệu, thì sáu môn trước đều cần năm vị khiến tất cả giáo đều là ba thứ: phương pháp v.v…, đều là thô diệu sai biệt và do tất cả đều diệu. Huống chi đem các kinh mười cặp trải qua khắp năm vị, vì môn hộ biệt cho nên không cần trách đây. Như trong Huyền Nghĩa thì khoa khoa đều nêu năm vị. Nếu không có năm vị này, thì một khoa một câu, bộ nay không khác trước, cho nên nơi nơi đều nêu rõ.

Trong đó chia làm hai phần: Phần một: Nêu năm thời đầy đủ giáo nhiều ít. Phần hai: “Lại nữa…”: là lần nữa lại dùng nhiều ít mà nêu tự tha, kết thành giải thích phẩm. Phần một: Nay chánh nêu giáo vị cho nên thảy đều ở trước khiến biết lãnh giải đầy đủ vọt lên năm vị. Đầu tiên vị Nhũ chia làm năm: 1. Bán mãn. 2. Căn cứ thời. 3. Căn cứ pháp. 4. Căn cứ người, trong người lại biện sinh pháp không đồng. 5. Dẫn kinh này để phân biệt tướng vị. Bốn vị cũng như vậy. Chỉ ba vị Lạc v.v… đều thiếu người, văn bao hàm nghĩa đầy đủ. Trong vị Lạc, ứng nói căn cứ người chỉ là Nhị thừa, Bồ-tát không dùng. “Phương đẳng” ứng nói căn cứ người lại đối Đại tiểu bài xích khắp nhập Viên. “Bát-nhã” nên nói căn cứ người đới Tiểu nêu Đại, dẫn Tiểu mà trở về Đại. Pháp Hoa căn cứ người rộng ở sau nói rõ, từ “Đây thật là con ta…” Nói “chưa từng thuyết”: Thông luận thì các giáo trước đều chưa khai, biệt mà luận thì ba thứ: Giáo, Hạnh, lý trước có lẽ đã hội. Nếu khai nhân (Người) thì các giáo trước vốn khộng co, nên dùng đólàm phẩm mục. Cho nên biết không phải đồng thể phương tiện, không dùng thiết lập khai… Phần hai dùng nhiều ít đểphê phán: Trước đã ủy thác nêu rõ nhân thời pháp… đe luận năm thời dụng ý không đồng, đây lại lược thâu các pháp thời ở trước v.v… Chỉ căn cứ người, Đại Tiểu lợi độn đều nhập thật. Người kia nếu nhập, thì các thứ còn lại đều trở ve, cho nên lại lần nữa nêu rõ. “Văn nói…”: là dẫn chứng để kết tên phẩm, “v.v…”: là lẽ ra lại giải thích thêm mà các phương tiện trước đều chẳng phải ý nay, ý không khác trước nên không nêu lại lần nữa.

Tiếp, “Bản Tích”: Chưa là ý phẩm, bởi vì trong Bản tích đều có phương tiện, cho nên dựa phương tiện để nêu rõ Bản tích. Phương tiện danh đồng, mà viễn cận thì vĩnh viễn khác. Tuy vĩnh viễn khác mà không vượt qua mười cặp, vì Bản thật đắc cũng đâu ra ngoài nhân quả tự tha. Cho nên, “Ta xưa hành Bồ-tát đạo” và “Ta thật thành tựu”, tức là lý sự cho đến nhân quả. “Thành Phật đến nạy” tức là thể dụng cho đến Tất-đàn, trong đó thầy trò hai văn đều có hai. Trước nêu tự tha bình đẳng có ba, tiếp kết thành bốn câu. Văn nói về Thầy có hai: 1. Bản Tích đều có quyền thật, 2. Buộc Bản làm thật, buộc Tích làm quyền, lại trong Tích thì thô diệu đối với Bản đều thô, trong Bản thì thô diệu đối với Tích đều diệu. Cho nên nay cũng vậy, riêng chỉ “cửu thành” gọi là “tự”, nên trong “cửu thành” đều là hóa tha. Sở dĩ trung gian ngày nay dù có phế bỏ ba cũng gọi là tha. Người đời không thấy mà chỉ dùng pháp thân làm Bản, thì giáo nào lại không có? Chỉ lấp che không biết tuổi cha mẹ, nên hiển thật thành làm Bản. Tiếp, tóm lược chỉ ngoài một “cửu thành” thì đều gọi là “tha”, cho nên trong “Tự tha” chỉ tóm lược Bản Tích được, gọi là Quyền thật. “Kết thành bốn câu”: Đối thì nên nói trong Bản thì quyền thật đều thật, trong Tích thì quyền thật đều quyền, vì Thật trong Bản đối với (vọng) Quyền trong Tích, gọi là câu thứ ba. Bất tư nghì nhất, Bản tích đều đắc song phi cho nên vậy. Nói “vân vân” là khiến như những điều đối đã nói trước nay.

Tiếp, đệ tử Tích bản đối nhau đều có Quyền thật, cũng từ Bản tích lập hai danh. Nếu luận chung thì Bản và trung gian cho đến ngày nay, mỗi một tiết đều đầy đủ có bốn câu. “Cũng đủ bốn câu vân vân”: thì “vân vân” là như trước đã nói về Thầy, chỉ lấy đệ tử làm khác cho nên nói “cũng đủ”. Tuy Thầy trò đều bốn câu mà nếu ở Thầy trò dựa theo phán Bản tích thì trong Bản bốn câu đều là Bản, trong Tích bốn câu đều là Tích. Nếu lấy tên Bản Tích làm bốn câu, thì nên nói: Tích của Bản đều là Bản, Bản của Tích đều là Tích. Bản Tích đều có Bản Tích, đều bất tư nghì, tư duy có thể thấy. Lại nên chỉ dùng hai câu để phán xét, tức hai câu đầu là đầy đủ như Huyền Văn Bản môn thập diệu, cho đến nhiều ít rộng hẹp căn cứ đây có thể biết. Tiếp, “Nếu từ Phật Tích…”: là kết thành giải thích phẩm. Thầy trò từ Bản thùy Tích, căn cứ bản ý về giáo hóa, thì đã đều được gọi là phẩm Phương Tiện, huống chi Thầy trò “dẫn nhập Viên nhân” mà không gọi là phẩm Phương Tiện ư?

Có người hỏi rằng: Nay phẩm Phương Tiện lấy gì làm thể? Người khác đáp: Có người nói “Dùng Hậu-đắc-trí làm thể”. Dẫn Duy Thức nói: “Năm Ba-la-mật sau đều là Hậu-đắc-trí”. Ta nay dùng Căn bản trí làm thể.

Nay cho rằng, nói “Thể”: là chấp sở y làm dụng đương thể. Hoặc là chấp sở y tức quyền mà thật làm “Thể”, hoặc là chấp đương thể tức thật mà quyền làm “Thể”. Hai nghĩa này đối với Căn bản, Hậu đắc trí đâu thường tạm phân, huống chi chỉ nói năm thì Hậu đắc không có “Thể”, huống chi phân Bản tích. Chỉ một “cửu thành” mà làm Căn bản, còn lại đều là Hậu đắc!

Tiếp, chánh giải thích kinh văn, nói “Hoặc đến sau kệ”: là sớ thứ chín nói: Căn cứ theo ý của ngài Nam Nhạc thì chỉ đến sau kệ làm chánh. Nếu y các sư phương Bắc thì đến Tứ tín đệ tử ở sau kệ vì để nghe kinh, phán thuộc chánh thuyết. Đây phân không sai lầm cho nên cả hai thuyết còn sử dụng. Nếu không so sánh thì thuật ý dựa vào ngôn ngữ. Mặc dù so sánh, vẫn là thuật ý tuyệt ngôn ngữ. “Chư Phật nhị trí như trước nói vân vân”: Đầy đủ như ba thứ và dùng mười cặp. Nay tán thán chư Phật và dùng đức Thích-ca làm năm Đức Phật lộng dẫn bên dưới, vì chư Phật gồm bốn Đức Phật. Trên hào quang chiếu đến nơi đây đều có năm thời chính tiêu biểu năm Đức Phật nhị trí không khác. Kia đây tương vọng, nên gọi là “ngang”, xưa nay tương vọng nên gọi là “dọc”. Đây tiêu biểu Đức Thích-ca, nơi khác tiêu biểu bốn Đức Phật, tức là nêu năm Đức Phật đạo đồng.

“Luùc baáy giôø”: Laø luùc naêm đñieàm laønh hieän. “Phaät thöôøng…” là hỏi. “Đây có…” là đáp. Đáp có đầy đủ tứ Tất-đàn, xưa nay sai khác nên có xuất nhập tức thế giới. Nói “Quyết trước nhập Vô lượng nghĩa…”: đây căn cứ ý làm Tựa, chỉ trong một định nghĩa bao gồm hai hướng đều thành Thế giới. Trong “Vị nhân Tất đàn” nói “lý lịch…”: Lý lịch tức trải qua sự đối cảnh, “Pháp duyên” tức nội duyên chân lý, xuất nhập xứng lý mới sinh vật thiện, tức “Vị nhân”. Định trị tán ác, phải trước nhập định, tức “Đối trị”. Căn cứ tự tha lợi ích đều đắc thật tướng, tức “Đệ nhất nghĩa”. Nói “ai”: là tên khác của “mẫn”, là thương, thương chúng sinh khắp tất nhiên là tứ Tất-đàn. Tứ Tất-đàn đây bất tư nghì đại cảm ứng, cho nên bốn pháp đều gọi là “an tường mà khởi”. Đây nói “an” là trong an bốn pháp rồi mới khởi hóa tha.

Có người hỏi: Trong đây bảo Thân-tử cùng với Đại Phẩm có gì sai biệt? Nay đáp: Đâu chỉ Đại Phẩm, bắt đầu là từ tứ A-hàm, cuối là đến kinh này, từ Xá-lợi-phất xuất gia đến nay nơi nơi đều có bảo mỗi mỗi không đồng. Trong tứ A-hàm thì hoặc là phát khởi sinh diệt pháp luân cho nên bảo, Phương đẳng thì bài xích cho nên bảo, Bát-nhã thì gia bị cho nên bảo, nay thì kinh khai cho nên bảo:

Bản luận nói: Bảo Thân-tử, không bảo các Thanh-văn, do Thântử có trí tuệ thâm sâu. Không bảo các Bồ-tát có năm: 1. Vì các sự sở tác của Thanh văn. 2. Hồi hướng đại Bồ-đề. 3. Khiến không sợ hãi. 4. Vì muốn phát sinh khéo tư duy cho người khác. 5. Khiến không khởi tâm việc làm đã xong. Cho nên phải biết năm ý kiêm khác các kinh khác. Trước hiển lộ giáo không nói Thanh văn đắc nhập Phật trí. “Mười thứ như trong Huyền Nghĩa”: Huyền Văn thứ chín giải thích: trong dụng thì Bản tích đều có mười. Trong Tích có mười: Phế, hội, khai, phú, phá ba hiển một, trụ ba hiển một, trụ một dụng ba, trụ một hiển một, trụ phi ba phi một hiển một. Nếu trong Bản mười thì chỉ dùng Bản thế một, dùng Tích thế ba, nói có thể. Cho nên trước bảo để động mọi người. “Đây chính là kinh gia…”: Cho nên biết bốn chữ “Bảo Xá-lợi-phất” hoàn toàn là lời của kinh gia. Nên biết Kinh gia từ đó rút gọn. Nếu bảo Xá-lợi-phất, rồi dưới lại ghi mấy chữ Xá-lợi-phất nữa, thì rườm rà. Nói “Luận cùng nghĩa đây tương ưng”: là dẫn luận văn đây cũng đầy đủ tứ Tất-đàn: Đầu văn nói thế giới động và bất động sai khác. “Như thật trí…” là Vị nhân vì sinh vật thiện từ quán khởi. “Hiện Như Lai…” là Đối trị vì lực năng trừ ác. “Như Lai…” là Đệ nhất nghĩa, vì không lìa định. Cho nên văn tự giải thích là Đệ nhất nghĩa. Lại dùng tứ Tất để tổng giải thích tự tại. Nếu vậy thì tứ Tất-đàn tổng giải thích hai thứ trước nghĩa là tự tại không ngang ngược, hai thứ đây đều đầy đủ tứ Tất. “Già phu…”: Văn của luận Bà-sa nay lại chép đủ, trong Tạp Kiền-độ quyển hai mươi hai hỏi: Tất cả oai nghi đều kham tu hành, đâu riêng gì “Kết-già”? Hoặc có người nói: Chính là pháp thực hành của hằng sa chư Phật quá khứ, là pháp mà đời sau cũng thực hành. Nay là văn thứ nhất. Có người nói: “Khiến người cung kính thì chẳng phải là nghi của thế tục”. Nay là văn thứ hai. Lại nói “Năng phát tam Bồ-đề tâm”. Nay là văn thứ tư. Lại nói “Năng phá ma quân”, nay là một nửa văn thứ ba. Lại nói “Có thể ý của nhân thiên không cùng ngoại đạo”, nay là một nửa văn thứ ba. Nay làm thành tứ Tất-đàn, Cho nên, hợp luận thứ tư thứ năm làm một Đối trị, luận đối trị ở sau Đệ nhất nghĩa. “Riêng cho rằng…”: là riêng phê phán văn trước nói đầy đủ ý tứ Tất, khiến như trước đưa ra kiêm giải thích nêu bốn ý.

“Hỏi: Các kinh khác…”: Cũng là luận văn. Luận nói: Sao gọi là buộc niệm ở trước?

Đáp: Buộc tại trên mặt cho nên nói “ở trước”, trong luận đầu nói giữa chặn mày cũng như vậy.

Lại nói: Từ vô thủy đến nay nam nữ nhìn nhau khởi dục tưởng phần nhiều ở mặt. Lại nói năm căn: nhãn v.v…. năng sinh dục tâm, nói có thể biết. Nay văn phân ra ở trước, ở mặt để làm hai giải thích vì nghĩa lập. Văn đầu nói “ở trước” để làm chỗ tiêu biểu giải thích, tức ý tứ Tất-đàn. Tiếp, căn cứ nghĩa ở mặt lập bốn giải thích, tức ý tứ giáo. Đầu tiên có quay lưng có hướng đến, tức Thế giới Tất đàn, quán tịch, định sinh tức Vị nhân, trái với sinh tử ác tức Đối trị; tịch diệt có lý tức Đệ nhất nghĩa. Tiếp theo là, căn cứ giáo, “bất tịnh quán” thành rõ ràng là Sơ giáo, “cùng Không tương ưng” đâu chẳng phải Thông giáo? Vì “phân biệt” cho nên đâu chẳng phải Biệt giáo? Thật tướng tức là ý Viên giáo.

Hỏi Mặt chỉ có bốn căn, tại sao được nói sáu?

Đáp: Mặt có đủ năm căn, tức là bốn và hữu thân. Nếu khi duyên cảnh hiện lượng sắc v.v…, thì ý lại ở trên. Cho nên Câu-xá luận nói: Có thân căn chín việc, mười việc có các căn khác.

Nói “chín việc”: Tức bốn đại năng tạo là địa, thủy, hỏa, phong, và bốn thứ sở tạo là lấy sắc hương vị xúc và thân căn một, cho nên nói chín việc. Nói “mười việc”: Còn lại các căn nhãn v.v… đều đủ mười việc, như trên nhãn căn có bốn thứ năng tạo và bốn thứ sở tạo, nhãn và thân căn, cho nên thành mười. Nhãn… giác xúc, tức tánh của thân căn. “Không phải ba thứ hóa tha”: là không phải Quyền thực trong ba giáo. Trước đã nhiều phen giải thích phẩm, vả lại căn cứ một thứ dùng ba thuộc hóa tha làm Quyền. Viên là tự hành thuộc thật, cho nên văn trước đã giải thích ba thứ tự tha….Trong phần “Căn cứ đế mà giải thích” làm ba tiết giải thích. Tiết thứ ba giải thích cả ba đều thuộc hóa tha. Cao sâu ngang độ. Trong đó pháp thí hợp lấy đây để lệ cho sau, nay giải thích thật đã cùng khắp ngang dọc. Dưới giải thích quyền lý nên sâu cùng cực, dưới sẽ giải thích quyền dự thuật tướng kia. Cho nên nói “vân vân”. “Trí tuệ môn kia”: Kia chính chỉ “thật quả nhân trí.” ở trước. Nếu trí tuệ tức môn, thì môn là quyền. Nếu môn của trí tuệ thì trí tức quả. “Bởi vì là…”: trong đây nên dùng thập địa làm Đạo tiền, Diệu giác làm Đạo trung, chứng sau làm đạo hậu. Cho nên biết văn ý tại địa vị của nhân, trừ Chân như ngoại phàm có tu nhập, còn lại đều thuộc Quyền. Chỉ lấy quả vị Chân như cứu mãn làm ao thanh lương (trong mát). Đây căn cứ tự hành nhân quả tương vọng để giải thích, tức giải thích lớp thứ năm trong phẩm. Nếu thông chín địa còn lại đây thì không như vậy, lẽ nào vì Đạo tiền mà không có Thật ư? Tức là thực trong bốn cặp đầu. Lẽ nào có Đạo hậu mà không có Quyền ư? Tức là Quyền trong năm cặp sau. “Khó hiểu khó nhập…”: là lược tán thán địa vị nhân của Đạo tiền từ đầu đến cuối.

Tiếp, từ “Không mưu tính mà thấu hiểu” trở xuống: tức trong nhân vẫn chỉ sự dụng là Quyền, do nhân quyền đây đều là nhân chân thật, tức biết quyền đây do chứng thật lý. Trong văn theo dụng theo nhân mà tán thán riêng. “Thập trụ mới giải”: “Giải” là tên khác của “khai”, cho nên đem danh để đối vị. Trong luận, ở đây trước lại có ba câu: Khó thấy, khó giác, khó biết, nay nói đây là phương tiện khó giải, cũng có thể dùng đối Văn, Tư, Tu. “Bản ý pháp thân”: Nếu vọng mười phương thì không có thời nào là không ứng, nay căn cứ “phương này chưa thiết lập giáo hóa trước” cho đến “từ lâu xa chưa kết duyên đến đây”, trong đoạn này chúng sinh đều gọi là “tại pháp thân”. Không có nghĩa muốn dùng Tiểu thừa giáo hóa cho nên nói “dự định điều đó”. “Không có cơ duyên…”: Đây là từ kết duyên về sau mà nói, thời đó vẫn còn rộng. Từ “Hoa Nghiêm” trở xuống: là đời nay thiết lập giáo hóa. “Nay Đại cơ” cho đến “không biết”: là Đại cơ kích đại ứng, nên nói “khải phát”. Lẽ ra nói “muốn phát”, vì sao nói “khải” ? Do điềm lành Đại đã hiển ro, cho nên nói “khải”.

Tiếp, lần nữa lại giải thích “Môn” ,“Quang Trạch…”: Dùng Ngũ đình… gọi là Tiểu thừa phương tiện. Nếu luận ý giáo hóa thì tán tâm búng ngón tay mà còn được gọi là “môn”, đâu riêng gì Tiểu thừa phương tiện không phải môn ư? Ý ngài Quang Trạch chưa hẳn hoàn toàn đúng, không thể hoàn toàn đoạt cho, nên nói “dữ đoạt”. Trước nêu “đoạt” là chưa có khả năng nhập Đại, bị Phật phá bỏ, đã không thể biết thì nghĩa “Môn” không thành. Cái gọi là “dữ” tức là: Tam giáo đều là môn năng thông, nhị thừa cũng đắc phần ít trong năng thông, vì chưa có khả năng nhập, còn tổn thất ở năng, còn chưa thành “năng” thì vĩnh viễn không biết “sở”. Nói “tối thiển” (rất cạn): Tiểu thừa đã nông cạn lại là phương tiện. Nói “vân vân”: “Dữ nhưng đoạt” này lẽ ra phải rộng phân năng sở thức, bất thức…, như trước dùng “Môn” để giải thích phương tiện. Từ “Nay giải” trở xuống, là rộng lập bốn câu, muốn dùng câu đầu phá Quang Trạch cho nên rộng nêu câu thứ hai thứ tư, vì không có Phật trí làm môn, nhập phương tiện trí cho nên có thể nghĩa lập. Nếu luận kinh này chỉ ở câu thứ ba, thì Ngài Quang Trạch chỉ được phần ít của câu đầu, huống lại các môn. “Giải thích của Quang Trạch” cho đến “nhất quán”: là “Không” phân ra làm Thể và Tích. Tích là chút phần trong Không. “Thập nhị môn”: Nên phân biệt mười hai môn đều có tướng phương tiện trong môn. Đối với ba, bốn môn đã có tiến không? Hội rơi tại nhất. “Nhất môn”: Phần nhiều chỉ hữu môn, bởi vì trong hữu môn dùng Thất phương tiện. Câu thứ tư: Trước đã nhập trung, cho nên nói “song chiếu”. Nếu khai hiển Trung thì tức là kinh này từ thể khởi dụng. “Khu khu”: Là dáng mạo quanh co. “Đây cần khai thác”: khai luận một câu như trước nay các giáo đều có các môn. “Vân vân”: là trong mười sáu môn thì thuộc môn nào? Nếu viên bốn môn, thì đầy đủ như Chỉ Quán quyển thứ năm. Viên giáo quán môn và giáo trí hạnh lý. Cho nên luận chỉ nói A-hàm, nói giáo là môn. Sư nay bèn dùng trí làm trí môn, ý nói sơ trụ Phật trí làm môn nhập Phật quả trí, nên từ Trụ đến Địa đều gọi là “khó”. Vì “kho” nên tán thán nhập để khiến đắc nhập. Cho nên nếu đắc môn vô công dụng đạo, thì ắt nhập Phật tuệ không chỗ nghi ngại. Thế nên, trên nói Viên nhân xứng phẩm Phương Tiện, nhân tức môn. Vậy thì khai thị ngộ nhập đều gọi là Trí tuệ môn. Từ “Sở dĩ vì sao?” cho đến “chư Phật nhị trí”: là không đồng giải thích của Ngài Quang Trạch: 1. Văn đầu nói “sở dĩ vì sao” tức nghiệm biết giải thích trên. 2. Văn dưới nói Thích-ca ban đầu tự nói “Ta từ khi thành Phật đến nay” chính là Thích-ca tự tán thán nhị trí. Nay giải thích chư Phật nói “Sở dĩ vì sao?”: là cả hai Nhị trí đứng đầu, vì sao Thật trí rất sâu? Bởi do ngoài gặp Phật nhiều. Nói “Thân cận…”: thân gần Phật ắt lãnh thọ vâng theo điều chí yếu. “Thuần hậu” ắt do tận hành. “Dũng mãnh tinh tấn tức giải thích Quyền trí” là các hạnh không ra ngoài dũng mãnh tinh tấn. Nay trên Quyền trí thêm Dũng mãnh tinh tấn, có hai ý: 1. Tâm hy vọng tồn tại. 2. Thân tâm đều cần mẫn. Nhị trí đều do tinh tấn, nhưng nay chỉ dùng hành biên đạo pháp, bởi vì thuộc Thật trí. Căn cứ danh xưng “biên”, vì thuộc Quyền trí, sợ chưa tận lý cho nên lại thêm “dũng mãnh”, dùng giải thích quyền trí. Lại dùng Thật trí sâu rộng để so sánh với Quyền trí, bởi vì Quyền trí cũng đủ ngang dọc. Cho nên cần phải dũng mãnh tinh tấn, một câu dụng phỏng theo dọc sâu, cho nên không được dùng tinh tấn để giải thích Thật trí.

Lại nữa, “khó nhập môn”: Nếu kia thoái từ phần chứng tám tướng cũng tùy số của chư Phật, chính là dùng giáo hạnh làm môn. Từ hạnh nhập chứng, chứng không phải dễ dàng, cho nên “khó nhập môn”. “Nhập rồi” thì có thể ân thấm nhuần trăm cõi, cho nên nói “vô cương” (không cùng).

Hỏi: Trăm cõi có hạn, sao nói “vô cương”?

Đáp: Giới (cõi) tuy có hạn, mà lợi ích cho chúng sinh thì không cùng. Phần chứng mà còn như vậy, huống chi luận mười phương cứu cánh quả Phật. Dùng quả nghiệm nhân, lẽ nào có bất tận hành đạo pháp, không dũng mãnh tinh tấn mà năng khiến nhị trí ngang dọc sâu rộng ư?

Tiếp, trong phần “Kết nhị trí”: dùng “thành tựu” làm kết Thật, “tùy nghi” làm kết Quyền.

Thật ắt thành tựu, Quyền ắt lợi tha, cho nên Thật trí nói “đến bờ bên kia”, Quyền trí nói “xứng cơ thích hợp”. Lại, trong Thật trí xứng lý nên “đến bờ”, “rất sâu” nên cứu cánh, đều tùy thời mà nói đó thôi! “Tùy tình…”: Pháp Hoa về trước không hiểu nghĩa nên nói “khó hiểu”. Tức chỉ giáo nay đều gồm nhập Thật, nên nói “dễ biết”. Nếu vậy, thì do nhập “không đúng” nên nói “khó hiểu”. Nếu đến kinh này thì hoàn toàn không có “không đúng”. Chỉ mượn “khó hiểu” xưa để giải thích giáo nay “dễ biết”. Dẫn “Nhiếp Đại Thừa”: Nay văn hiển liễu nghĩa chỉ y văn để xét, như thọ ký nhị thừa thúc ép tăng thượng mạn, Thật đắc thì ắt tin mà Diệt tưởng thì còn nghe. Đại Thông kết duyên, Hóa thành không thật, Như Lai thành đạo từ lâu số kiếp như vi trần. Vượt qua chỗ tối tăm của ngày xưa, trì một bài bốn câu kệ mà công không thể lường, nghe Thọ mạng lâu dài mà thâu hoạch quả báo vô biên. Lẽ nào văn dưới đây lại có nghĩa lập, khiến người nhị thừa không được thọ ký… ư! Khiến thọ lượng Phật gấp ngắn…ư! Cho nên trong Tứ ý thú, thì Bình đẳng ý thú chỉ nói chư Phật đều như vậy, không thể dùng Phật khác thế đây, cũng không thể dùng Biệt thời ý thú để giải thích thọ ký Thanh văn. Ý lạc ý thú giải thích Tích bản lâu (dài) xa. Ví có sử dụng chỉ có thể nói trước lúc ấy thì không ưa, vả lại hợp Diệt-tưởng thích nghi tùy tùng thân cận. Nếu dùng hết ý thú này để hiểu rõ văn kinh thì kinh này hoàn toàn thành thuyết bất liễu nghĩa, đều phải dùng nghĩa để xem xét văn. Cho nên các kinh trước thì tùy ý bộ nào mà văn nghĩa bao hàm. Như Chân như chân đế, Vô sinh vô diệt, Địa tiền địa thượng, Pháp thân Hóa thân, đều phải nghĩa quyết định mới liễu văn, do bộ bao hàm giáo chung, không thể dựa vào ngôn ngữ, phải theo nghĩa mà phân phán mới gọi là ý của bộ kinh.

Nói “hữu thời”: không phải là thời mà chúng kia nghe tiếp, biệt hỏi thăm quyết nghi, cho nên biết tự hành không chuyên nơi Thật, lợi vật đâu riêng chỉ có Quyền, bởi vì tự hành hóa tha đều có Quyền thật. Do đó trong Thành tựu nói: “rất sâu”. Trong Tùy nghi nói “khó giải”. “Rất sâu” đâu riêng nơi Thật, “khó giải” không chuyên nơi Quyền, cho nên chỉ dùng Thành tựu đối tự. Tùy nghi đối tha thì nhậm vận tự tha đều đầy đủ nhị trí. Nói “v.v…”: là cũng có thể câu trước kết tự hành là thật, câu sau kết hóa tha là quyền. Do tự hành, nên Quyền thật đều Thật, do hóa tha nên Quyền thật đều Quyền. Do đầu giải thích kết văn chỉ tại tự hành Quyền thật. Tuy nói “thích hợp” mà chánh nói nghĩa công thành, cho nên ý “vân vân” lại phải biệt đối, đầy đủ như trong bốn câu trước nói. Tự hành quyền thật còn khai bốn câu huống chi đối hóa tha. Hóa tha lý cần phải đầy đủ bốn, vì thế tán thán thật, tán thán quyền và trong giải thích Quyền thật. Quyền đều từ nhân, dùng giải thích nguyên do quả quyền ở trước, bởi vì quả từ nhân đắc. Cho đến trong kết nói “tùy nghi…”: Nên nghĩa kiêm cả nhân quả, bởi vì nhân quyền, dụng quyền đều gọi là Quyền, do dụng trong quyền lại thông nhân quả. Đến chương Thích-ca tán thán giải thích Quyền thật thảy đều từ quả. Đến trong phần Song kết thì Quyền chỉ nhân, song kết tán thán giải thích hai văn.

Tiếp, trong phần “Bài xích ba ý xưa”: Cựu sư cũng có người cho rằng: từ “Sở dĩ vì sao?” trở xuống, là giải thích chư Phật nhị trí…, chỉ giải thích chương Thích-ca phân văn trước trở lại, Cựu cho rằng từ “Xá-lợiphất” trở xuống, là đều thuộc Quyền, “Tiếp, Xá-lợi-phất” trở xuống, là đều thuộc Thật, cho nên khiến không đồng. Đầu khai hợp. Sự nay cho rằng: Chư Phật cũng quyền thật đều tán thán, bởi vì đức Thích-ca nhị trí lẽ nào không đồng ư? Chư Phật nhị trí lẽ nào không khác ư? Cho nên biết hai ý sau cũng không đồng xưa, đức Thích-ca cũng trước Thật sau Quyền. Nói “Chỉ y văn”: là y nay phân văn. Nói “Lại nữa, ông nói”: là trách ba thứ không đồng. Do chương môn ngũ Phật cùng hiển Nhất hóa, cho nên đắc Bản tích khai hợp tự tha không sai biệt. Đâu được ngũ Phật xen lẫn biện tại không có ư? Nhưng chẳng phải không có lý đây, chỉ không nên làm trái văn. Văn thuận nghĩa đúng thì đâu cần giải theo cách khác, cho nên nói “vân vân”. “Thí dụ”: Lại phân biệt Tiểu và Diễn (Đại thừa) cho nên nói “ba tiêu” và “như huyễn…”. Đây dụ quán Tục đế nên lại lập. Nếu dụ Chân đế và mười sáu môn thì đều lập sự lý, rộng như trong Chỉ liệu giản Quán bốn môn đều lập sự thí. Nói “Y các luận”: e rằng lầm, phải nói “bản luận”. Bản luận lược nêu từ đầu đến cuối trong Tiệm nên nói “Nhũ” và “Đề-hồ”, vẫn thiếu nói “Nhũ, thí dụ mười hai bộ kinh”. Huyền Văn cũng dùng “Nhũ” đối Tiểu. Nói “đều đạt đến biên sự lý”: lẽ ra nói “đáy biên”, hoặc thiếu hoặc lược sự biên lý đáy. “Như lai tri kiến như trước…”: Như trước nay đã giải thích tri kiến Ba-la-mật. “Như đây…”: là giải thích nghi, sợ nghi giải thích kết thật trí mà nói sâu rộng cho rằng thật trí ngôn thuyết có thể sánh kịp. Cho nên, nay giải thích rằng: Căn cứ biên của thể thật không phải ngang dọc, bài xích kia nhiếp pháp không khắp cho nên nói “ngang”, bài xích kia chiếu lý không tột cùng cho nên nói “dọc”. Rốt ráo mà nói đều chẳng phải ngang dọc. “Dựa vào ngữ ngôn”: chánh để phá nghi, nói có ngang dọc, về lý ắt không như vậy. “Vô hạn” cho nên “không ngang”, “vô cực” cho nên “chẳng dọc”. Như hộp lớn thì nắp lớn…”: là dùng trí Bất nhị xứng lý Bất nhị. “Vô lượng vô ngại”: là như Sinh số kia, vì sinh vô lượng cho nên Từ… vô lượng. Cho nên, “vô lượng” đây còn gọi là “ngần ấy”. Nếu dùng “ngần ấy” mà tán thán Quyền, thì Quyền gọi là “tiện”, dùng “vô hạn” thì gọi là “vô ngại”. Nay lại từ biên tự năng nhập mà nói, cho nên dùng năng nhập xứng vô lượng… “Chẳng những Quang Trạch” cho đến “đời Lương…”: là từ triều đại nhà Lương đều dùng câu này, lấy làm kết thật, thật vô ngại trí không còn bao nhiêu, sao nói vô lượng? Cho nên biết vô lượng dùng tiêu biểu “chẳng phải một”. “Vân vân”: là bốn giáo thật trí đều không có bao nhiêu, lẽ nào viên thật trí lại có bao nhiêu ư? “Vô lượng…”: giải thích bao nhiêu… Cho nên bốn vô lượng định tại Quyền trí. Đã nói Tứ đẳng và Tứ biện nghiệm chẳng phải thật trí, tức là vô duyên tứ vô lượng tâm nhậm vận ứng vật. Bát âm, Tứ biện, lực vô sở úy: lược như Pháp Giới Thứ Đệ và Chỉ Quán quyển bảy nói. Đại luận rộng giải thích, trong đây thì văn lược, chỉ nêu Nhạo thuyết để thuyết ba thứ trước. Văn vẫn lược Pháp chỉ nói một từ một nghĩa mà thôi! Căn cứ đây lại lược không nói, lại cùng tất cả tương tức nói. Tức nói so sánh Thông Biệt, lý hợp bốn giáo tương vọng so sánh quyết định lực vô úy v.v… “Thiền tận thật tướng của thiền…”

Hỏi: Thiền thật tướng cùng Lăng-nghiêm có gì sai biệt?

Đáp: Không đồng. Vì sao? Đối với Thiền căn bản thì đạt tức thật tướng, gọi là đạt thiền. Thủ lăng-nghiêm định bản tánh kiện tướng.

Kinh giải thoát: Cũng cùng tận nguồn gốc của tám giải thoát. “Tam-muội”: là Thiền định giải thoát. Đến Sơ trụ thời phá hai mươi lăm hữu, đã được gọi là “Vương Tam-muội” huống chi hợp quả địa mà không đắc Vương Tam-muội ư? Cho nên dưới kết nói “thâm nhập vô tế”. Cho nên biết các thiền đều vô tế. Nếu dùng căn bản tam Tammuội… mà giải thích trong đây, thì Pháp Hoa biến thành Bà-sa, Câuxá. Cho nên giải thích kinh thì trước phải biết bộ loại là thuộc thời nào. Trong thời thì tại hội nào giáo nào, như thế mới có thể phê phán giải thích pháp tướng sâu cạn.

Hỏi: Đã nói quyền trí, sao nói thật tướng?

Đáp: Quyền tự hành hoàn toàn chỉ viên nhân, thúc đẩy nhân thành quả cho nên nói thành tựu, tức hướng vô lượng đều là thật tướng, đều là quả đức, do vô lượng pháp đắc lý. Cho nên có thể dọc ngang, ngang dọc bất nhị.

“Trịnh trọng”: Hán Thư nói: “Hoàng thiên sở dĩ trịnh trọng là vì luôn giáng mạng” Nay văn trước dùng chư Phật đối Thích-ca bèn thành sáu lớp quyền thật. Vì sao trong đây lại hai lớp ư! Cho nên đây thuật nói tiêu biểu sự ân cần, một đời không có cho nên ân cần tiêu biểu, nhưng Tây phương thì nghe lại để tiêu biểu không xem thường. Cõi này căn biệt, nghe lại thì kiêu mạn cho nên văn thuật để dứt cái thấy này. “Nói lời…”: là nêu thật.

Hỏi: Đã nói “khiến vui lòng chúng”, phó vật thì phải là nêu quyền, sao nói nêu thật?

Đáp: Tâm chúng chính lấy đắc thật làm vui lòng, cho nên lại dẫn hai văn làm chứng.

“Trước trong phần tán thán…”: Đây nêu quyền thật trước sau, muốn nêu Phật nay hóa nghi đầu cuối không đồng. Các Sư xưa dùng nghĩa đức Phật nay đối với chư Phật mà làm ý đồng khác, khác thì thành lỗi. Nay biện rõ khác: Là vọng đến Phật khác vẫn đồng. “Lại nêu…”:

Trước phân làm thật thì riêng làm một câu. Nay lần nữa lại giải thích thì đứng đầu hai văn dưới đều nói tóm yếu, tóm yếu không qua quyền thật. “Riêng nêu một việc”: Là nêu thiên hiển phi, cho nên không thiên chỉ hoặc quyền hoặc thật, cho nên nói “đều” vậy “Chỉ! (thôi!)…”: chánh nêu tuyệt dứt lời tán thán, xưa chẳng thể thấy. Ý nay: Văn chỉ có hai nghĩa: 1. Tán thán, 2. “Thiết…”: là “Chỉ”. Đây chọn nghĩa tiện, nếu theo văn tiện thì nên trước là giải thích chỉ.

Tiếp, giải thích tán thán, sở dĩ theo nghĩa: Do đầu giải thích lời tán thán gồm hai chữ: “Chỉ thán”. Bảo “Thôi !” (Chỉ) là tán thán, nên nói: “Chỉ thán”. Tiếp giải thích nhất hướng để giải thích ý “thôi” tuy nói sợ tổn thương thiện căn, chính dùng “thôi” để sinh ngưỡng mộ, cho nên không giải thích, chỉ sau đó năm ngàn Tỳ-kheo dự phần, hai điềm lành là biết Phật nói âm thanh vi diệu hợp tâm chúng. Lẽ ra đối hai nghĩa chia làm ba ý: 1. Do lý vi diệu đây không thể nói cho nên “thôi”. 2. Muốn nói lý diệu, “thôi” mà tán thán nó. 3. Sắp hộ vật cơ, giống như “thôi” chưa nói, lấy một văn đầu chia hai, cho nên không đồng với Ấn sư ở dưới tự có lược nói khai nguyên do nghi thỉnh kia, cho nên kia giải thích chưa đúng. Ngài Quán sư vẫn giống như ý sau nay mà không biết thường tình có lỗi gì ắt phải “thôi”. Tiếp giải thích trong ý tán thán nói hai ý: Một là “Tu đắc”. Nói “tu đắc” thông nơi cảnh trí hạnh vị tự tha, hạn cuộc nơi quả. Hai là “Cảnh giới” thông nơi phàm Thánh thủy chung thuận nghịch hạn cuộc nơi Phật. Tiếp, “Căn cứ Phật thành tựu…”: ở trong ý thứ nhất, lại dùng hai ý “ngang dọc” để giải thích quả nhân pháp lý ngang dọc tột cùng. Thứ nhất giải thích trong ý đầu nói “Thành tựu đối bất thành tựu”: Dùng quả đối Nhân, Nhân tức Nhân nhân (người), tự tha tương đối tức là “ngang”. Cho nên, biết Nhân nhân (người) đều chưa thành tựu, nên đối giáo vị tùy theo đều phân biệt tha. Kinh, câu thứ nhất thứ ba cũng như vậy. Nay nói “Thành tựu đối bất thành tựu”, cho đến “ Nan giải đối bất nan giải”, trong đó lược hai câu cho nên nói “cho đến”. Nên nói “đệ nhất đối bất đệ nhất, hy hữu đối bất hy hữu”, vì bỏ những điều này thì ngoài đều chẳng phải đệ nhất hy hữu. Quả tột cùng trong Viên thì giáo khác không có, nói tức dựa theo để hiểu. Bốn pháp không thành tựu v.v… đối quả kiêm biện rõ nhân và các quyền. “Chỉ có Phật…” là nêu rõ dọc sâu. Câu trước đã dùng lời nói “thành tựu…” đối tha làm “ngang”. Nay có nói “rốt ráo biết hết” (cứu tận), cho nên đối Nhân nêu rõ “dọc”.

 

(Phần Trung)

Tiếp, “Các pháp…”: là giải thích “cảnh giới rất sâu”. Đây là lý bản của Pháp Hoa là đầu mối của các giáo, là chiếc chìa khóa giải thích nghĩa, là chỗ y chỉ của chúng sinh, là nơi nương tựa để phát tâm, là dụng thể của quyền mưu, là nguồn gốc của mê ngộ, là lý bản của quả đức, là cùng khắp của Nhất hóa, là cuối cùng của năm thời. Được mười nghĩa đây để hiểu rõ các sự đặc biệt điềm nhiên không lầm. Do đó trước tán thán trí năng y, tức quyền thật của năm Đức Phật. Quyền thật nương vào đâu? Cái gọi là “diệu cảnh”, cảnh không xứng, trí còn chẳng phải Phật trí, huống chi không có cảnh có thể luận thẳng nói đối v.v… Sao mà có thể hiểu trí tuệ vi diệu khó nghĩ bàn này là để rộng phá các sư vậy? Tiếp, rộng kiến lập: Huyền Văn và Chỉ Quán lấy đây làm chủ. Một nhà dụng nghĩa bao quát đầy đủ đều do đây mà sợ hậu bối còn quên chỗ quay về kia, cho nên ân cần bận rộn. Tự thân thấy người tìm giáo đây còn mê muội, cho nên cần phải tư duy. Nếu mê ý đây thì lối đi tắt của các giáo mặc cho lạc đường, dòng chảy Nhất hóa nơi đây khô cạn.

“Quang Trạch nói tam tam”: Nghĩa là nhân (người), giáo, Nhân. Vì xưa không có nghĩa quả cho nên tam thừa đều là tam, lý Nhất chẳng hư vọng. Nói “thật tướng”: Nên nói phi hư, cho nên thật, phi tướng là tướng cho nên gọi “thật tướng”. “Trong bốn Nhất thiên nêu Lý”: Căn cứ theo ý Quang Trạch, đã đồng người xưa không lập Lý nhất, chỉ nói Lý là gốc của bốn Nhất, cho nên bốn đều gọi là Nhất, đây không đề cập đến văn nay nói một trong bốn. Từ đây trở đi cho đến hết phần Bắc địa sư đều là giải thích của Quang Trạch.“Bồ-tát giáo lấy lục độ làm thể”, Quang Trạch cũng lập tam kỳ Bồ-tát, lấy làm Bồ-tát trong tam thừa, tức văn nay là Tam tạng Bồ-tát. Đời cận đại đến nay nghĩa đây hoàn toàn bỏ, năm trăm người kết tập phải trở về Ngũ thiên, hoặc chỉ hợp thoái thất đại thừa tự qui Phật đạo không liên quan đây, thì đâu những định tánh vĩnh diệt mà cũng chính là Bồ-tát Không đàm. “Vân vân” là lẽ ra nói rõ Bích-chi-phật, Thanh-văn dùng đế duyên làm thể. “Thật cảnh có bốn Nhất, dùng bốn để rộng nêu lý Nhất kia”: Nhân duyên… bốn thứ phán xét làm thật cảnh, cho nên lấy những thứ này để rộng luận đàm lý Nhất. “Ngài Sướng sư chỉ căn cứ trên Phật”, chỉ lập Nhất thật mà không có tam quyền, đối “thập lực” đều có lý đây, đối với nay bốn giải thích, Phật thừa một giải thích còn tự chưa cùng khắp. Vì không có cứu cánh Không Giả Trung… Trong đó, đầu tiên là tổng nêu tướng thập lực, tiếp là biệt đối tánh… thể làm căn bản; sau cùng là nói tổng là căn cứ tám lực trước để giải thích Xứ phi xứ, tức dùng bản mạt tổng thâu chín thứ trước. “Các giải thích ở trên đều là một đường”: các giải thích có thể thấy, vọng nay giải thích thì đều được một chút phần của trong thập giới thập như, cho nên nói “một đường”. Quang Trạch tuy giống như tự đắc tứ Thánh mà chỉ lập chín. Lại phân giải chín là năm quyền bốn thật. Bắc, Diêu hai sư tuy lập đủ mười mà không phân biệt, chỉ tại Tam thừa, lại không có Nhất thật, nhưng tóm lược các giải thích đã tùy thuận Tam thừa và dùng Nhất thừa. Tam và Nhất đều có mười thứ: Tánh, Tướng v.v…, vì sao không nói lục đạo có mười ư ? Tứ thánh là sự, từ nhân đến quả. Lục đạo cũng sự, cũng nên như vậy. Nhân quả đã đồng mười nghĩa đâu thiếu. Tứ thánh là năng chiếu, lục đạo là sở chiếu. Thập giới là sở chiếu, Phật thừa là năng chiếu. Cho nên Phật trí chiếu thập giới thập như tam đế đầy đủ. Cứu cánh… nói lý kia rõ ràng. Vì sao chư Phật đều căn cứ một đường khiến Phật cảnh trí không đầy đủ? Nay Sư không thể bài bác chi tiết, chỉ tổng phá Quang Trạch nói văn lý không thông… Lý là đạo lý, văn tức hiện văn. Văn đầu có thể thấy.

Tiếp, trong phần Phá lý thì trước dùng bốn, năm trong mười để đối vấn nạn.

“Nhân quả”: Nhân duyên là nhân, quả báo là quả. “Nếu thật…”:

là căn cứ người đối phá, lại y bốn câu năm thừa. Nếu y văn nay thì nên căn cứ thập giới để luận hữu vô. Tiếp, “Nghĩa không…”: là kết phá. Văn nói các pháp nên thâu thập giới. Thập giới thập như, thật tướng tức là thể của giới như. Nếu duy nhất chỉ bốn thì ngoài thể còn sót chín, năm, huống chi là mười. Mười đều là như. Nay muốn chánh giải, trước dẫn Đại luận tức Ngài Đạt-ma đã dùng. Dẫn ý luận, chỉ rộng làm so sánh ước lệ không phải giống chính xác. Luận đã nói mỗi một pháp đều có chín thứ, cho nên biết Quang Trạch không nên dùng bốn hoặc năm thứ mà riêng phê phán. Các sư không nên dùng ba Nhất mà mọi người đều dựa vào. Cho nên biết chỉ y thập giới thập pháp thì các nhà giải thích đều bỏ, huống lại bốn giải thích đứng đầu tuyệt xưa nay. Như đây, hiểu rõ văn mới khế hợp ý chỉ kinh. Các sư phân chia lý thú là tại sao! Đây Ngài Đạt-ma Uất-đa-la là chủ Tạp Tâm luận, Bà-sa có Pháp Cứu luận sư là chỗ nương theo của Luận chủ Tạp tâm, từ Sư đặt tên. Đã y Đại luận không riêng phân trang. Nay trong mỗi mỗi câu đều nói tức là “Tướng như vậy, v.v…” trong Pháp Hoa. Dù không theo chính xác tinh tế mà cũng tránh khỏi các lỗi trên.

Tiếp, “Nay nêu…”: trong chánh giải thích, trước là thuật nêu chương, tiếp là chánh giải thích. Văn chia làm ba ý: 1. Thuật nêu chương. 2. Dẫn lời Thánh làm chứng. 3. Chánh giải thích. Trong văn dẫn chứng hai văn đầu có thể thấy. Tiếp, trong dẫn “Ly hợp” nói: “Thôi thôi! chẳng cần nói nữa…” là dùng mười pháp này tùy tự tùy tha chỉ Phật mới hiểu rõ, cho nên nói “Pháp ta vi diệu khó nghĩ bàn”, chỉ dẫn hợp văn, nghĩa kiêm ly. Đã nói “khó nghĩ bàn”, mới có thể hợp khắp cho nên phải ly. Dẫn căn cứ trong vị nói: “Chỉ Phật cùng Phật…”: là ba đức cực lý chẳng phải là điều mà Thất phương tiện biết được.

Tuy lại không biết mà “các vị” pháp nhĩ, cho nên phân mười thứ sở thuộc không đồng. Phần chánh giải thích: Đầu trong mười giới chia làm mười:

1. Liệt kê.

2. “Pháp tuy…”: là Giới Như nhiếp pháp.

3. “Như địa ngục…”: là chỉ tướng.

4. “Cho nên Tỳ-bà-sa…”: là lấy Tiểu dụ cho Đại.

5. “Nên biết…”: dùng lý chuẩn theo lệ thì biết có Giới Như.

6. “Nếu chiếu…”: phê phán. Nói “tự vị”: Tuy nêu mười giới mà giới giới đều có mười, lại chiếu đương giới lấy chín làm Quyền, dùng một làm Thật, cho nên phải kết nói “Vô lượng trong một”. Một giới có đầy đủ mười, mỗi mỗi có mười như. Hoặc tự hoặc tha, hoặc nhân hoặc quả, tại nhất tâm, cho nên nói “Vô lượng trong một, một trong vô lượng” không thể dùng “một” nói, không thể dùng “nhiều” nói, không thể dùng “Quyền” nói, không thể dùng “Thật” nói. Nhân quả thiện ác, không hữu, đại tiểu, phàm thánh, tiệm đốn, khai hợp, tâm pháp, y chánh, một nhiều tự tại. Tất cả các pháp thảy đều “như vậy”. Thế nên: luận đàm pháp giới mà chưa cùng tâm diệu đây, thì dẫn đến khiến lầm quả sự và mê nhân lý.

7. “Nếu chiếu lục đạo…”: kiêm phá Quang Trạch. Quang Trạch đã không nêu mười giới, nay lại y kia phá. Dù cho dựa vào mười giới đều đủ mười như, thì cũng phải phân rõ ràng cảnh tư nghì. Huống chi Quang Trạch chỉ tại bốn Thánh. Bốn, năm không đồng.

8. “Sở dĩ…”: là kết vị. Trước là lần nữa lại lập cảnh nói “vô lượng trong một”. “Phàm phu tuyệt lý”: Là tự mình hèn kém không phân biệt, nên nói “tuyệt lý”, tùy tưởng mà thấy sai khác cho nên nói “tình mê”. Đã “tuyệt” lại “mê”, theo đủ thứ đây thì lợi ích gì? “Nhị thừa…”: tức nhị giáo nhị thừa. Ba đường tức là xả mà chẳng quán, tránh Không, cầu Không trở lại giúp Tiểu thoát. “Bồ-tát…”: Tạng, Thông chiếu sáu, Biệt chiếu thứ lớp, cho nên nói “không cùng khắp”, đều mê cõi mình không đạt Phật giới. Nói “bất liễu” hãy còn bao quát mười địa, cho nên nay nên chỉ Biệt địa và nhân. “Ngang dọc đầy đủ”: vô lượng trong một là “ngang”, vô lượng tức một là “dọc”. Nhiều một tương tức cho nên nói “đầy đủ”.

9. “Chỉ riêng…”: dẫn chứng kết ý, như văn.

10. “Trên Huyền Nghĩa…”: là chỉ rộng, đầy đủ như Huyền Văn cảnh diệu phần cuối nói: Duỗi ra thì đầy dẫy pháp giới, không biết từ đâu mà đến; thâu vào thì chẳng biết sở tại, không biết từ đâu mà đi. Cho đến trong giải thích pháp thì rộng giải thích thập giới thập như.

Tiếp, “Căn cứ Phật pháp giới” chia làm bốn: 1. Chánh giải thích 2. “Đây là…” là xưng tán. 3. “Theo lệ cũng…”: theo lệ, giải thích. 4. “Như Lai…”: là nêu quả kết bài xích.

Hỏi: Phật giới trong đây và Phật giới trong mười pháp giới trước, có gì sai biệt?

Đáp: Trước thì tại mê tại nhân thông ngộ thông quả. Nay chính là chỉ quả không thông nhân mê, cho nên mỗi mỗi pháp đều dùng song phi, phi tướng, phi giả, phi bất tướng, phi không. Tuy nêu song phi mà ý vẫn tồn tại ba đế.

Chín cái dưới căn cứ đây thì biết, cho đến “Bản mạt cứu cánh đẳng”. Như vậy mới gọi là “cứu cánh Phật thừa”. Thế nên đều dùng “Đại xa” văn để kết. Đây tức là văn phẩm này. Chính Phật quả gia là thật tướng của các pháp. Đối kia thí thuyết, tức trang nghiêm đại xa đi đến Đạo tràng. Đối kia đời trước tức cực quả Phật khai quyền thật. Đối Bản môn kia, tức thành Phật đã lâu khế hợp diệu pháp. Nếu chánh tông có thể biết thì lẽ nào mê lưu thông? Nói một câu một kệ càng có thể tin. Nói ba đức ba khuôn phép sáng tỏ như trước mặt. Nếu được ý này thì rộng diễn tám năm không ra ngoài nhất niệm. Trải qua năm mươi tiểu kiếp há động một sát-na? Ví như biết một đời hợp căn cơ ở tâm tính, mười phương Phật sự rõ ràng trước mắt. Pháp giới căn tánh xem mà dễ thông, tùy nghi sở thuyết đều chỉ tạng lý. Trong phần kết bài xích, dùng nhãn làm dụ: Lại dùng Tiểu thừa tuệ nhãn thấy Không, cùng mà luận nói “đắc nhất nhãn”. Sơ trụ Bồ-tát cho đến Đẳng giác còn có vô minh, nay lại bài xích phương tiện giáo, Bồ-tát chưa thấy Trung thì đều như thấy ban đêm. Tiếp, trong giải thích “Ly hợp” có bốn: 1. Chánh giải thích. 2. “Ly khai…”: nêu cảnh xưng tán. 3. “Phàm phu…”: bài xích. 4. “Vì đây…”: là tổng kết. Văn đầu chia làm ba tức ba lời, tùy tự mình mới tại kinh này, tìm kỹ thì có thể thấy. Trong “Căn cứ địa vị” có hai: Trước là chánh giải thích mười như, tiếp “Sơ vị…”: là lần nữa lại giải thích “Cứu cánh đẳng”. Văn đầu: Tướng tánh thể ba thứ cùng Phật giới nói ở trước đều có chút ít sai khác. Trước nêu đã thành Phật quả, cho nên dùng tu tánh đối luận mà đầy đủ mười pháp, nay nêu địa vị liên quan Thánh phàm. Phân đối mười pháp, mười pháp địa vị sai biệt cho nên nói “Căn cứ địa vị”. Vì ba pháp đầu chỉ có lý, cho nên vị định tại phàm. “Lực” tại năm phẩm, “Tác” tại sáu căn. “Nhân duyên” tức là Sơ trú trở lên, tu đắc duyên liễu, “Quả báo” tức là cực quả Bồ-đề Niết-bàn, Bồ-đề quả, Niết-bàn báo. Vì vậy ba pháp đầu lại ở liệt kê chung mười giới. Giới giới ba đức đồng tại lý tánh, cho nên nói “mười giới” cũng chỉ tại lý. Nếu không vậy thì vì sao nói nếu nghiên cứu thì mười giới này bình đẳng? Cho nên lý tánh ba đức văn kia tại đây. Nhưng trong các văn phần nhiều căn cứ tu tánh tướng đối biện, làm thành giáo tướng, người đọc đều biết rõ. Nay thấy văn đây nên thông suốt các thuyết. Nếu nghiên cứu đến “Quả báo như vậy”, thì ba pháp đầu đã đều tại tánh tại nhân hợp gọi là chánh. Cho nên Lực trở xuống, là thuộc tu thuộc quả. Cho nên ở vị quán hạnh trở đi nghiên cứu tánh cảnh này, có lực trừ thô hoặc và có tác tợ hành. Nếu nhập phần chân đối ba tánh kia, hợp gọi là chánh, bèn lấy chân thật trợ giúp gọi là “nhân duyên”. Đến địa vị cứu cánh, Bồ-đề gọi là “quả”, Niết-bàn gọi là “báo”. Tuy phân ra đối đầu cuối mà chính là địa vị nhân quả một Pháp giới Phật cho nên chẳng đồng người xưa dùng Quyền thật để phân chia phê phán.

“Sơ tam…” ba pháp đầu nghĩa là ba pháp trong nhân: Tướng v.v… “Hậu” tức ba pháp quả địa trong báo, cho nên biết ba đức tức là ba đế. Cho nên nói: “Sơ hậu” đến “cứu cánh đẳng”. “Sơ vị…”: là lần nữa lại giải thích cứu cánh, chia làm hai: Giải thích và kết. Trong giải thích có ba: 1. Lần nữa lại giải thích ba đức bản mạt bất nhị, kết thành cảnh tuyệt tán. 2. Lần nữa lại giải thích cứu cánh đẳng thành bất nhị. 3. Giải thích bất tư nghì. Phần đầu giải thích “ba đức”: “Ác” tức ba ác, “thiện” tức ba thiện. “Hiền” nghĩa là tiểu Hiền. “Thánh” là tiểu Thánh. “Tiểu” nghĩa là Hiền Thánh trong Tiểu thừa. “Đại” nghĩa là các vị trong Đại  thừa. Phần giải thích “Cứu cánh đẳng” lại có ba: Một, căn cứ trong Hoặc trước là lập cảnh. Hai, “Nếu mê…”: là căn cứ mê ngộ đối biện tam đế. Ba, “Lại quyền thật…” là căn cứ giáo. Sở dĩ có bốn giải thích: Nêu rõ Lý nhiếp khắp, là căn cứ mười giới mà giải thích. Nêu tự chứng cùng cực, là căn cứ Phật giới mà giải thích. Nêu Phật hóa dụng, là căn cứ ly hợp mà giải thích. Nêu ba đức biến khắp, là căn cứ các vị giải thích. Nếu xem Chỉ Quán có xen lẫn rộng hẹp, nay đủ bốn giải thích, thì đây rộng kia hẹp. Đây chỉ chánh báo không nói tam thiên, thì đây hẹp kia rộng, tên gọi tuy vậy lý ắt đều đồng, nhân ắt đủ quả, chánh chắc có y. Nhưng trong bản luận giải thích mười Như này, thì lý cùng giáo cực. Nay thuật ý chỉ luận khiến cùng một nhà ý nghĩa phù hợp. Luận nói thành tựu không thể nói hết.

“Thật tướng”: Nghĩa là thể bất biến của Như Lai tạng, Pháp thân. Phật trí biết đầy đủ thật thể này. Kinh nói: “Tướng như vậy…”, luận nói: Những gì gọi là pháp? Pháp như thế nào? Tợ pháp gì? Tướng pháp gì? Thể pháp gì? Những pháp gì là tam thừa pháp? Pháp như thế nào là khởi chủng chủng sự thuyết? Tợ pháp gì? là y ba môn được thanh tịnh. Tướng pháp gì? là nghĩa của ba loại là một tướng pháp. Thể pháp gì? là chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác. Nay cho rằng câu đầu trước nêu rõ mười Như thông tam thừa pháp. Câu tiếp: là cái gọi là tam thừa giáo sai biệt. Câu tiếp: tức là người tam thừa y giáo khế hợp thật. Câu tiếp: là khai tam thừa tướng, không có tướng khác. Câu tiếp: là khai tam thừa thể, chỉ có nhất thật. Luận lại nói: Những pháp gì? tức là pháp hữu vi vô vi. Nói pháp gì? tức là pháp nhân duyên, phi nhân duyên. Tợ pháp gì? tức là Pháp thường, vô thường. Tướng pháp gì? tức là ba tướng sinhv.v…, tức ba tướng Bất sinh v.v… Thể pháp gì? tức là ngũ ấm phi ngũ ấm.

Nay nói phen này ly khai tam thừa, lần lược biệt giải thích trở về thể thực tướng. Câu đầu: Dùng Thanh văn vô vi đối pháp lục đạo là hữu vi. Câu tiếp: Dùng Bích-chi-phật đối phi nhân duyên khác. Câu tiếp: dùng Bồ-tát pháp đối tám giới còn lại, đều vô thường. Câu tiếp: dùng tam thừa đối sáu cõi còn lại, đều là ba tướng. Câu tiếp: mười giới năm ấm đều là thật thể. Luận lại nói: Tợ pháp gì? Là pháp vô thường, hữu vi, nhân duyên. Tướng pháp gì? Nghĩa là pháp có thể thấy tướng v.v… Thể pháp gì? Là pháp ngũ ấm năng thủ sở thủ, là thể khổ tập. Lại ngũ ấm là thể đạo đế. Nay lại nói một phen đây để giải thích hai câu trên, tổng hợp tại trong câu thứ ba, vẫn tóm lược câu ba nhập vào trong câu bốn, nghĩa là pháp tam thừa đều có thể thấy. Lại tóm câu bốn nhập câu năm thành sơ khổ tập. Lại chỉ khổ tập toàn là định tuệ. Văn lại nói ngũ ấm là thể của đạo đế, cho nên biết lục đạo tam thừa vọng thật vẫn còn là Khổ tập. Luận lại nói: Lại có y thuyết, Những pháp gì? Nghĩa là danh tự cú thân. Nói pháp gì? Là y Như Lai nói pháp. Tợ pháp gì? Là năng giáo hóa có thể hóa độ chúng sinh. Tướng pháp gì? Là âm thanh nhận lấy pháp kia. Thể pháp gì? Là giả danh thể pháp tướng.

Nay cho rằng một phen mà giải thích, trở lại y năm câu, muốn dùng giáo pháp thông nói trước. Câu đầu: Thuyên giảng đủ pháp quyền thật của mười giới. Câu tiếp: Sở y đều thật, không còn các giáo khác. Câu tiếp: Nêu rõ quyền thật căn duyên thọ khổ không đồng. Câu tiếp: Nêu rõ các căn duyên hội đại hóa. Câu tiếp: Nêu năng hóa sở hóa, năng thuyên sở thuyên, đều giả thiết lập, bởi vì vọng sở chứng chỉ có chứng thật. Tin biết luận văn không thể liền phân biệt, cho nên dùng ý nay mới ứng diệu chỉ. Huống chi luận bốn giải thích tức là nhà nay bốn giải thích.

Đầu giải thích đã dùng tam thừa thể tướng đều một thể tướng, tức Phật giới giải thích. Tiếp giải thích đã dùng tam thừa đối lục đạo giải thích tức mười giới giải thích. Tiếp giải thích đã căn cứ khổ tập đối với đạo, ngoài đây ra không còn nữa tức căn cứ địa vị giải thích. Tiếp giải thích tức căn cứ năng thuyên giáo giải thích. Do giáo quyền thật nên có thiết lập, hội nhập tức Ly hợp giải thích, cho nên biết một nhà nghĩa Đại đều cùng ý chỉ luận phù hợp, vậy thì hiện văn một trăm mười tám câu bèn thành một trăm mười tám lớp giải thích mười Như. Luận văn phong phú mà người chẳng biết, nay từ tổng luận cho nên lại bốn lớp giải thích.

“Nếu căn cứ…”: là giải thích bất tư nghì: Cảnh trước tuy đã thành bất tư nghì, danh kia vẫn thông, cho nên nay lại đối tư nghì mà biện khiến biết rõ bốn giải thích trước chân thật bất tư nghì. Văn này chia làm ba phần: Một: Lược xuất thể tướng. Hai: Dẫn sự loại so sánh. Ba: Nêu lý so sánh kết. Phần một: Trước là lược xuất. Tiếp “Các kinh…”: chỉ rộng. Đầu văn trước là giải thích danh, “xuất tâm số pháp” cho nên bất khả tư, quá ngôn ngữ đạo cho nên bất khả nghì. Tiếp, “Bất năng hành…”: xuất thể. Thể phi nhân quả và phi năng thú. Hành là nhân. Đáo là quả. Thể đây không hợp nhân cùng quả. Nếu kia thuộc năng thì không liên quan đến thể.

Tiếp, nêu Thí, trong Thí có ba: Pháp, dụ, hợp. Phần đầu, Pháp: Quán sắc là thường nên không bại hoại, thường ắt có đủ bốn, bốn chỉ là tâm, bất dị cũng vậy. Thí dụ loại trong đó có hai lớp: Đầu dùng “sáng và tối” để dụ “Bất tư nghì” và “Hoặc”, đồng thể, cho nên chỉ trăng sáng, toàn sáng là tối. Tiếp “Lại, khi mặt trời xuất hiện…” là dụ chuyển tối thành sáng. Nói “thường tại”: Chỉ là tối không có tánh tối, nêu tối là sáng. Mê ngộ cũng vậy, lý tính không sai khác. Nhân vị thì sáng cùng không sáng xen lẫn không thể riêng biệt cho nên nói “cùng hợp”. Nhập phần chân vị phá một phần tối, chỗ tối bị phá thể biến thành sáng, lẽ nào có cái bị phá dời đổi đến phương khác? Không có chỗ để đến, nên nói “thường tại”. Lẽ nào trí sáng phát mà vẫn còn cái tối trước, mà nói “thường tại” ư? Tuy nói “thường tại” nhưng cuối cùng phải phá sạch, cứu cánh vĩnh viễn sạch mới gọi là “thường tại”. “Sinh tử cùng đạo hợp…” là hợp. Tiếp, “Các kinh….”: phần Chỉ rộng: như văn. Căn cứ sự để so sánh, là trong bốn thứ Bất tư nghì thiếu giải thích đức Phật, vì người đời dễ tin, vì giáo phần nhiều nói, cho nên Phật tại một trong bốn Bất tư nghì, ba loại còn như vậy, huống chi là Phật ư ?

Nói “Như A-hàm”: Như Tăng Nhất A-hàm quyển mười tám nói: Xá-lợi-phất nói: “Chúng sinh không biết thọ mệnh của Như Lai”. Phật dạy: Có bốn thứ Bất tư nghì mà Tiểu thừa chẳng biết được. Thế nào là bốn? Như văn nói. Nhân giải thích thế giới bất tư nghì, dẫn kinh làm chứng. Nói “A-hàm nói một sĩ phu”: là Tạp A-hàm cũng nói Phật tại nước Xá-vệ có nhiều Tỳ-kheo ở trong nhà ăn, tư duy việc thế gian. Đức Phật biết ý niệm đó, liền đến nhà ăn bảo các Tỳ-kheo rằng: Các ông tư duy việc thế gian không có nghĩa gì, chẳng lợi ích gì, không thuận với Niết-bàn. Các ông nên tư duy “Tác tứ Thánh đế”, đây là việc có nghĩa, có ích, chánh hướng Niết-bàn. Như thời quá khứ có một sĩ phu ở thành Vương-xá bên ao Câu-si không chánh tư duy, thấy vô số tứ binh chui vào trong sợi tơ của ngó sen, thấy rồi liền khởi niệm: Ta cuồng si ư? Mất tánh rồi ư? Thế gian không phải cuồng mà nay lại thấy. Lúc bấy giờ cách thành ấy không xa có một đại hội, sĩ phu liền đến hỏi việc như vậy. Người trong Đại hội đều cho sĩ phu ấy là điên cuồng, mất tánh, cho nên mới như vậy. Vị kia thấy Phật hỏi…, Phật dạy: Chẳng phải cuồng mà là thật, vì cách ao kia không xa có chư Thiên cùng A-tu-la đánh nhau, binh Tu-la bị bại nên vào trong tơ sen trốn đó thôi! Vì vậy nên Tỳ-kheo chớ tư duy việc thế gian chẳng phải là việc của Tỳ-kheo.

Trong giải thích “Long (rồng)” kiêm nêu có Thiên cũng có thể phun mưa tức là loài rồng vậy. “Ngũ đạo (năm đường)…”: tức giải thích chúng sinh. Luận nói: Chúng sinh trong năm đường đều có lực riêng như vậy. Trong luận Bà-sa Tạp-kiền-độ nói: Nếu nhân cúng tế chỉ quỉ thần được.

Hỏi: Là hơn hay kém?

Đáp: Chẳng hơn chẳng kém. Nếu hơn thì thiên nhân nên được, nếu kém thì địa ngục được, do đường kia có tự lực như vậy. Căn cứ lời dạy thành thật này, có thể chứng minh là người đời ví như sáu đường không thể đắc hết. Đây là Lương Võ thấy người Giang Đông phần nhiều ưa thờ cúng danh thần, cho nên dùng tương tợ Phật pháp quyền nghi thay thế.

Luận nói: Như người không thể bay lên cách mặt đất bốn ngón tay dù trong chốc lát, mà chim thì bay trong hư không cao thấp tự tại. Trước nương một sự mưa để nói rõ các đường khác không có khả năng. Như Thiện-trụ Long vương để so sánh trí lực, biết Đế-thích muốn cùng Tu-la đánh nhau, xương sống kêu thành tiếng. Nếu khi Đế-thích muốn vào trong vườn trên xương sống tự nhiên có hương tượng hiện. Đây là sự bất tư nghì nhiếp trong đường súc sinh, như quỉ năng biến thức ăn… Lại nói: Các cõi đều có tự lực như vậy. Như Thích Tiêm nói đây có ba điều sai khác. Văn đây tụng hai trí, vọng chương đầu ở trước tán thán chư Phật nhị trí, văn đủ ba điều sai khác. Câu đầu tụng trong thật trí chỉ có hai điều sai khác. Ba câu dưới tán thán trong Quyền trí lại có một điều sai khác. Cái sai khác thứ nhất nên nói “song chích”(đôi lẻ). Tiếp, cái sai khác thứ hai: nói “khai hợp”: Trên trong văn trường hàng nhân pháp đều khai, cho nên trong chư Phật và nhị trí đều nêu tán thán giải thích kết, cho nên nói “khai”. Nay chỉ nói “thế hùng” cho nên nói “hợp”. Nhân ắt kiêm pháp cho nên nói nhân tổng. Nói “pháp biệt”: Do thời gian gia-bị cho chúng sinh khác nhau cho nên có Quyền thật. Đây biệt nhưng hợp, không có ba thứ: tán thán v.v… Cái sai khác thứ ba: nói “Nhị thừa và hết thảy chúng sinh, đồng là người không biết” thì còn chưa đủ khác, nên nói “Nhân pháp trên đều nêu” cho nên nói kia là pháp trí tuệ môn, tất cả hàng Thanh văn v.v… Nay chỉ nêu người lại là “có không” sai khác, cũng là “song chích” sai khác. Lại văn trên không phân bốn Đức Phật mà chỉ nói chư Phật, cho nên hàng trước chỉ nói “thế hùng” tức chư Phật đang hiện tại, hàng sau chỉ nói “Phật lực” không nói “ta nay”, do văn trước nói Đức Thích-ca quyền trí đầy đủ, có lực vô úy… biết là tụng Thích-ca. Lại văn trước có chữ “chư Phật”, thì có thể phân làm bốn Đức Phật, nay chỉ nói “thế hùng”, tợ chẳng phải chư Phật, nhưng dùng nghĩa để phân, vì câu “thế hùng” có chữ “thế”, có thể thuộc ba đời (tam thế). Thế ắt có phương, cho nên biết là tụng chư Phật. Hàng sau thẳng nói Phật rõ ràng có thể thuộc về Đức Thích-ca. Nói “Phật lực vô úy là quyền trí”: trước trong trường hàng chỉ trong nhân quyền, trong đây đã nói công đức. Nói “công đức” cũng phần nhiều tại nhân. “Các pháp khác (còn lại)…”: là lực vô úy trước, chỉ là tự hành, từ nhân là quyền. Vì vậy nên “các pháp khác” là hóa tha quyền. Hóa tha đây chẳng phải chỉ quyền pháp gọi là hóa tha, mà chỉ đối tự nhân gọi là hóa tha. “Chỉ nêu đầu cuối”: Vẫn trước nêu hai cái sau, từ chối nêu hai cái đầu. Cho nên, trước là nói “đại quả báo”. Tiếp là nói “nghĩa tánh tướng”. “Chữ “Nghĩa: kiêm….”:“Nghĩa” là nghĩa lý, nói chỉ một cứu cánh, có nghĩa lý Không, Giả, Trung. “Đại cùng chủng chủng…”: Đầy đủ như trong Huyền Văn. Trong phần phá giải thích của Quang Trạch, kia nói “Đại” cho nên biết là Thật, “chủng chủng” nên biết là Quyền. Nay văn ý nói: Quyền thật xen nhau mà có, lẽ nào quả báo chỉ có “Đại”, tánh tướng chỉ có “chủng chủng” ư?

Lại, giải thích trong diệu thì đại diệu tương vọng, lấy làm sáu câu. “Lục độ” đến “phát tâm”: Đoạn tức thành Phật. Như ý châu đầy đủ như Chỉ Quán và Ký. “Vô lậu bất tư nghì”: Phải biết Bất tư nghì đây là vô lậu, cho nên “vô lậu” danh đồng, ứng “tư” nghĩa biệt. Nói “Sinh xuất bốn thứ giải thích đã như trên”: tức chỉ bốn phen ở trên đã giải thích mười Như. Đây là dưới kệ văn đối. “Đãi đắc Niết-bàn”: chỉ lục độ vì đối với Nhị thừa, đây sinh tức đắc cho nên nói “đãi đắc”. “Đãi” là kịp vậy, lại nay muốn phế bỏ tiểu Bồ-tát vì là phụ (bàng), Cho nên bàng nói: “Kịp đến” hoặc “sẽ nhập diệt”. Nếu không như vậy thì nay căn cứ theo tha nhân ba câu trên chánh nêu nhị thừa, thoát phược tức là đã đắc Niết-bàn, tại sao lại nói “đãi đắc Niết-bàn”? Do nghe ba ngụy một chân, là các Thanh-văn chỉ nghe tam thừa đều là phương tiện. Phương tiện tức ngụy. Lại “nghe cần phải nói chân thật”, do đó nghi cái thật đó chưa từng nghe nói là chỉ nhất thật. Thiên nêu Nhị thừa: Người đời nếu hỏi: Nếu ba đều hội nhập thì vì sao trong đây trình bày nghi chỉ có hai? thì cũng nên phản vấn lại: Nếu Bồ-tát không nghi thì vì sao văn dưới nói Bồ-tát nghi trừ. Nếu nói nghi thông ba hạng người, hội nhập chỉ có hai, thì Bồ-tát lỗi gì mà không hội nhập? Kinh nói: “Nghi trừ”, là để giải thích “không hội nhập”. Đây chính là phá kinh, sao gọi là giải thích kinh?

“Nhất giải thoát”: Xưa giáo hóa ba hạng người đồng một giải thoát. Trong Phương-đẳng Bát-nhã tuy nghe giải thoát thù thắng mà nay từ đầu nói; lại nói đã đắc một trong ba đức tức Giải thoát, điều này không đúng. Giải thích “ba phen thỉnh”: Diêu sư, Long sư không phải không nhìn thấy nghĩa này, cho nên không hoàn toàn phá, nhưng không bằng Sư nay, vì đối với ba lần ức chế khiến ba phen thỉnh. Đây tức là giải thích văn biểu hiện đến chỗ sâu xa thấu đáo. Phàm một nhà phá nghĩa đều sợ liên lụy đến người học sau, đối kinh có vượt quá biên cương, lại phá bỏ đó, không giống người đời luôn ấp ủ trong lòng. Lại, kệ sau ba hàng rưỡi, nói: “động chấp sinh nghi”. Đến “Bấy giờ trong chúng…”: chỉ nói nỗi lòng nghi dẫn đến thỉnh. Hỏi: Căn cứ đầu phẩm khai chương nói: Đầu là lược khai tam hiển nhất. Tiếp, (nhĩ thời) “Lúc bấy giờ…” là động chấp sinh nghi. Và đến trong đây vì sao dùng “văn lược khai tam” làm là “động chấp sinh nghi”? Và “bấy giờ…” hiện lên nghi để thỉnh, là gì ư? Đáp: Chỉ nói động chấp sinh nghi, nói kiêm hai hướng vì sao? Nếu “Lúc bấy giờ trong Đại chúng…” là ý nêu do trước lược khai động cái chấp xưa nên sinh cái nghi mới, nếu tại ba hàng rưỡi kệ tụng ý nêu đây lược khai động chấp xưa kia khiến sinh nghi mới, thì lại gọi văn trường hàng vì hiện lên nghi đến nổi thỉnh, chấp đã bị động, nhân đây có nghi. Nay trước hiện nghi sau mới đến thỉnh vì vậy nên văn đây dụng hai hướng chẳng lầm. Nếu dùng văn đây làm nghĩa hiện lên nghi đến thỉnh thì nên khai chương nói: lược khai ba làm hai: Trước là trường hàng và mười bảy hàng rưỡi kệ tán thán nhị trí. Tiếp, ba hàng rưỡi: tụng chánh lược khai hiển động chấp sinh nghi. Văn nói “chấp động nghi sinh”: Do trước lược khai động cái chấp kia nên chấp động, do trước sinh cái nghi kia nên nghi sinh. Nghi đã sinh rồi, nay chỉ đến thỉnh. Thế nên đầu chương chỉ nói hiện lên nghi đến thỉnh. Người được lợi ích ngộ có sâu cạn, người sở dẫn thâu hoạch thọ ký sai biệt. Căn cứ năng dẫn quyền chúng biện rõ lợi ích không đồng, đã biết hiển lợi ích muốn biết lợi sâu kín cần phải biện rõ đợi thời.

“Bấy giờ…” tiếp nêu hai lần bảo “Thôi”: Thôi đầu tiên ý sợ hoài nghi. Tiếp Xá-lợi-phất nêu đời trước căn lợi, cho nên lại thỉnh. Tiếp Phật bảo “Thôi”, là hộ hạng thượng mạn.

Tiếp Xá-lợi-phất thuật trí tuệ lợi ích nhiều, nêu nghi lại thỉnh:Tiếp chánh rộng khai ba, có ba phần: 1. Phân chương chỉ tướng. 2. Nghĩa bốn phân biệt. 3. Y văn chánh giải thích. Phân chương có bốn: 1. Dẫn kinh nêu chương. 2. Nêu phẩm phân chu. 3. “Cũng gọi là…”: là ba chu danh khác. 4. Dẫn lệ. Lệ như kinh Đại Phẩm nói ba căn, phẩm Phương Tiện thứ hai mươi mốt nói: Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: Như lời Phật dạy hoặc rộng hoặc lược; các Bồ-tát… làm sao cầu ư? Phật dạy: Như vậy, Như vậy. Cho đến Nhất thiết chủng trí tướng như vậy. Đại Bồ-tát học là lược nhiếp Bát-nhã Ba-la-mật thì biết tất cả pháp tướng rộng lược. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát lợi căn cũng nhập ư? Phật dạy: Lợi căn trung căn, định tâm tán tâm, đều nhập môn này. Môn này vô ngại cũng như ba thứ phát tâm không đồng. Dùng mười nghĩa liệu giản, từ xưa nay văn phần nhiều có phân tranh, nay vì bình luận xét phán và để tự lập nhân làm mười môn. Nhưng mười môn đây tuy rộng lần lượt phá, mà một nhà lập chương đều theo thứ lớp, đầu muốn nêu người sở bị, trước nêu rõ pháp năng ích, cho nên trước biện ba chu thông biệt đồng khác. Tiếp biện rõ sở bị quyền thật có không. Tiếp nêu phần hai: Đối với thật hành, người đắc nhập tam chu không đồng do lậu hoặc có dày có mỏng. Tuy hiện lậu hoặc dày mỏng, cần phải biết do căn đời trước, tuy đã thành mà căn căn phải tại ngộ, đã được ngộ rồi ắt biết lãnh giải. Nếu có lãnh giải lý thì phải cùng được thọ ký. Người được thọ ký đó ngộ có cạn sâu. Người sở dẫn có thâu hoạch được thọ ký không? Chúng năng dẫn cần lợi ích có không! Đã biết lợi ích hiển, muốn biết lợi ích ngầm cho nên biện đợi thời. Đầu môn tự lập, trong văn đầu nói: “Nếu ta gặp chúng sinh…” là nói nhân duyên. Xưa từng kết duyên, tức là nhân xưa. Trung gian gặp nhau nơi nơi đều dùng Phật đạo để thành thục. Ngày nay năm thời đều nương tựa Phật đạo tức thủy chung phó vật. Căn lợi thì chưa cần thuật sự của Phật Đại Thông. Nếu nói văn đây thuộc thuyết pháp, thì mặc dù ở đầu văn thí thuyết mà phân văn vẫn thuộc sau văn pháp thuyết. Đã ở trong phần đầu thí thuyết, nên lại dùng đó. Nếu không như vậy thì chọn văn kế tiếp để dùng.

“Trưởng giả văn dĩ kinh sợ vào…”, là nói nhân duyên. Nhân xưa, duyên nay, là nghĩa cảm ứng. “Trưởng giả” thì “ứng” sở văn là “cơ”, “kinh sợ vào” tức là phó cơ. Cho nên, biết: ứng phó tức là nhất hóa ngày nay. Ý đáp: Chấp nhận đều đủ “ba căn”, pháp thuyết tự bị trong pháp thuyết có ba, hai thứ còn lại cũng vậy. Chỉ nói “ba căn” nhiếp chín tức đủ. Từ chánh lược phụ, thượng căn thì trung thượng căn là chánh, trung hạ là phụ. Cũng nên nói luận đủ thì có ba, tạm nói thượng thôi! Nếu hợp thượng căn thì thượng ba đều “bị”. Chỉ thượng căn là nhiều là chánh, trung hạ căn là lược là bên. Trung trung, thượng hạ, hạ trung, trung thượng, cũng lại như vậy. Trong nghĩa thứ hai ngài Quang Trạch có thật làm quyền sở dẫn, thì thành quyết định có thật hành, dẫn ý quyền khiến có thật. Ngài Khai Thiện nhất định chấp ý dẫn quyền khiến không thật. Nay nói “có không”, lại căn cứ thật hạnh, quyền lẽ ra tạm có đâu cần luận. “Khai Thiện” chỉ Tứ niệm xứ làm “sơ nghiêp”, cho nên nói “ngoại phàm”. Nay nói “có”, thì ai luận sơ nghiêp năng biết thường ư? Lẽ nào do mới biết khiến nay không ư? Như sự Đại Thông Phật, sao không biết? Cũng nói nay có trú địa vị Thanh-văn. Nói “đâu có”: là rất không có khả năng. Trước Pháp Hoa sở chấp là gì? “Kinh nêu rõ…”: chính bị Ngài Quang Trạch phá bỏ. Đã nói đâu chấp Tiểu quả, thì Quyền làm sao sở dẫn ư? Nay trước tổng bài xích hai nhà “nương kinh mất nghĩa”. “Nương kinh”: là ngài Quang Trạch. Kinh này hai văn được thọ ký cho nên “không”, chưa thọ ký thì “có”. Lại tại xưa cho nên “có”, nay thì “không”, cho nên nay dẫn văn căn cứ “khai” căn cứ “ký” để phá định “có” kia. Nếu vọng sau “không” mà chấp “có”, thì (lỗi) mất. “Mất nghĩa” là phá “Khai Thiện”. “Nếu định không…” là văn, đã có nhập thành thì ắt có thật hành. “Quyền hà sở dẫn”, tức là lại do Quang Trạch kết phá Khai Thiện. Cho nên nay lập thật có, cùng Quang Trạch nói đồng, ý kia thì biệt. Nay tuy nói “không”, cũng cùng Khai Thiện không đồng, vì nói từ sau được thọ ký. “Nếu định có…”: là phá chấp định có, sợ chấp sau tam chu còn có Thanh-văn. Nếu định không thì phá định chấp không. Như ở đầu phẩm Tựa nhân hào quang chiếu mà ngang thấy Văn-thù dẫn việc xưa. Đầu phẩm Phương Tiện nói một ngàn hai trăm người khi chu Pháp thuyết xong, còn tự không ngộ vẫn đợi Thí thuyết. Trong văn “túc thế” (đời trước) nói nay có trụ Thanh-văn địa, lại nêu người không biết. Nói “Xá-lợi-phất, Bích-chiphật…” cho đến lưu thông nơi nơi đều có, vì sao lại nói không? Lại nói “không”: là phá người trụ quả, định chấp vĩnh viễn diệt, chẳng phải cho là vốn không. “Nếu nói…”: là văn nay rộng nạn vấn, nay chấp nhận “thật có là quyền sở dẫn”, vẫn sợ nơi khác dùng Tam tạng Phật theo lệ. “Nghĩa đây không theo lệ…”: nay văn trình bày. Đức Phật ở quả đầu thì không có thật hành, Thanh-văn thì không như vậy cho nên “có”. Tam tạng Phật nói xuất từ nơi giáo nay, cho nên biết không phải người khác vấn. “Nơi nào”: Phật ắt tam thân viên mãn cho nên xưng Phật đây là quyền. Nếu nói ba mươi bốn tâm, thì đây chính là giáo Quyền tương tự Thật. Xưa nay người học Phật đây còn không dám gọi là Quyền, thì ai biết tịch diệt đạo tràng không thật.

“Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích, chia làm hai phần:

  1. Lập lý.
  2. Dẫn luận.

Phần Lập lý cũng có hai: Đầu, lược lập. Tiếp, nói “Nếu từ…”: Thật trí còn không có A-tỳ, lẽ nào kiến định có Thanh văn. Nếu nói thời chưa đến thì nghĩa “có” chẳng sai, cho nên Trưởng giả Phật nhãn thủy chung đều không. Dùng Pháp nhãn quán Trung thì đường cần có. “Tác nhân” cũng căn cứ trước chưa được thọ ký. Phần Dẫn luận chia làm năm phần: 1. Chánh dẫn luận. 2. “Nếu y…”: là dùng kinh này vọng luận nghĩa lập năm loại. 3. “Nếu từ..”: là phán xét. 4. “Nếu đắc…”: là kết ý. 5. “Lại nữa…”: là phán Đại. Phần Dẫn luận thì như văn. Phần hai, nay y kinh vọng luận, chỉ thêm một loại Phật đạo. Trong phần Phán xét, nói: “Nếu từ quyết định” cho đến “Bảo sở”: là căn cứ Đại tuy không chuẩn theo Tiểu nhưng vẫn có. “Thoái Bồ-đề tâm” vẫn thuộc có, là do tại Tiểu giáo. Nay luận bắt đầu nên nói thoái đại. “Thật đã vậy…”: là nêu Ứng hóa, sở dẫn hồi tâm năng hóa bản đại. Nếu tăng thượng mạn hai đường không thu nhiếp thì bản chẳng phải luận bàn. Phần năm “Lại nữa…”: là lại phán định Đại thừa có, không. Chia làm hai phần: Trước, phán xét. Tiếp, kết ý. Chỉ Ứng hóa là không, thứ tư, thứ năm đều gọi là “Đại”. Cho nên trong luận thì không nói Đại thừa chỉ nói Ứng hóa. “Nếu từ tự hành…”: là chánh chỉ Phật đạo, đây dùng danh do nhà này lập và dùng “phát tích” để giải thích nghĩa, vẫn trừ khai tam đắc thọ ký rồi, tức gọi là Sinh thân đắc nhẫn Bồ-tát. Cho nên, chọn “phát tích” là biết có “thực bản”, cũng được gọi là Đại thừa Thanh-văn. Vậy thì theo ẩn đức nên không theo phát Tích thì có, do đó được gọi là Đại thừa Thanh văn. Rõ ràng nói “phát tích” vẫn thị hiện Thanh-văn, cho nên được tên. Không đồng nơi khác giải thích rằng trong Đại thừa tự lập Thanh-văn. Từ “Nay khai tam…” trở xuống: là định chánh ý văn, cần phân làm hai hạng người, vì hạng người thoái tâm Đại thừa cùng luận không khác biệt, nay chọn Quyết định ý giống như có chút sai khác. Luận căn cứ tại pháp hội được thọ ký. Nay căn cứ theo cách chung bị khai, chúng không tai pháp hội thi được Phật lần lượt vì nói. Hoặc ở ngoại giới cũng được nghe, hoặc sau khi Phật diệt độ thúc giục khiến tin. Kinh đây nói chung nói thẳng là thọ ký. Luận nói thoái đại. Lại dựa vào một con đường, như các Thanh-văn ở trước Pháp Hoa, ai biết thoái đại? Chúng tại pháp hội Phương-đẳng đều gọi là Chủng diệt. Căn cứ ý kinh này, vì kia đây đã nghe kinh, ắt kia đây được thọ ký. Sau một phen khai, không gián đoạn như vậy, quay về cùng chưa quay về dùng phân hai nghĩa. Nên biết luận liên quan có nói đến các thứ khác, không dùng ý kinh mà cho là đồng nhau.

“Thứ ba: Hoặc có (sâu) dày mỏng”: Sư xưa dùng “hồi Hoặc” để giải thích “Hoặc”, Sư nay dùng “phiền não Hoặc” để giải thích “Hoặc” cho nên cùng xưa không đồng. Trong đó trước liệt kê giải thích của các sư xưa, lần nữa lại quán sở chứng, cho nên nói “du quán”, do “du quán” cho nên biết lý Nhất đồng. “Và kia…”: là nêu rõ nguyên nhân của Hoặc kia là do nghe giáo khác. “Dẫn ắt…”: là chánh nêu lẫn nghi sinh hoặc, giáo vốn thuyên giảng lý, năng thuyên đã ba thì sở thuyên đâu chỉ một? Nếu sở thuyên một thì năng thuyên đâu phải ba? “Chần chừ…”: là nêu tướng Hoặc kia, mặc dù “hồi hoàng” (trở lại gấp gáp) mà chưa biện rõ “được và mất”, “Theo lý…” phán xét nghĩa “được và mất”. “Theo lý mà nghi hoặc giáo” thì “được” là thuận lý. “Theo giáo mà nghi hoặc lý” thì có “mất” là trái lý. “Hàng thượng căn…” chính dùng lý giáo được mất trong Tiểu mà phán nhập Đại tam chu không đồng. Cho nên hàng thượng căn chấp một lý tình nhiều, lý gọi là gần đại. Cho nên nghe không ba mà thuận một lý do đó ngộ trước. Giáo nghi hoặc lý, ba phen nghe mới biết một lý không sai biệt, do nhân đây thành hạ căn ngộ, trung căn hai tình lực v.v… cho nên ngộ ở giữa. “Nay cho là”: là phá. Trước, tổng phá lý giáo kia xen lẫn nghi hoặc mà làm ba căn. Nếu dùng xen lẫn nghi hoặc mà làm ba căn, thì không thể chưa nghe tam chu dự đoán sinh “hồi hoặc”.

Tiếp, “Ba người…”: đủ phá hai ý: 1. Đại tiểu vĩnh viễn không liên quan nhau, 2. Phá tại Tiểu không nên nghi hoặc Đại. Đây biệt phá hai ý. Trong phần đầu lại có hai: Trước, lại định đó, nên nói “Những gì”. “Nếu hồi hoàng…”: là chánh phá, lại có hai: Trước, căn cứ Tiểu thừa phá, nghi thuộc Kiến hoặc, Sơ quả còn không phải, sao được xen lẫn nghi mà gọi là ba căn? Tiếp, “Nếu hồi hoàng Đại thừa…”: là căn cứ Đại thừa phá. Đại tiểu đã sai biệt, sao được đối với đại lý giáo mà xen lẫn nghi? Ý tiếp là dùng ý kinh này. Nếu Đại tiểu lý giáo lại xen lẫn nghi hoặc, thì ông ở chỗ nào mà nghe bài xích ba ư? Phương-đẳng tuy bài xích, Bát-nhã tuy gia thêm, đều chưa từng nói “ba là phương tiện”. Cho nên biết trước lúc ấy Đại Tiểu chưa nghi hoặc, lẽ nào có xuất nhập quán ba một chần chừ ư? “Đã dự…” dù nạn vấn trước lúc ấy đã từng có lý giáo “hồi hoặc” mà nên biết đã từng động chấp sinh nghi. Nếu đã sinh nghi thì khi lược khai tam rồi thì phải lãnh giải, sao được lược nghe? Vẫn nói bốn chúng đều có nghi? Nói “ngày nay”: là khi nghe lược khai. “Tiến thoái…”: là kết ý không phải. Tiếp, “Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích gồm ba phần: 1. Phán chánh ý. 2. Căn cứ bốn câu để phán ba căn. 3. Căn cứ ba phẩm để nêu nhập trụ.

Phần một: Trước tổng nêu căn Hoặc đều sai khác đối với người khác, Tiểu thừa căn nhất định “hồi hoặc”, lại trừ bỏ, sao được lại căn cứ Tiểu thừa để biện Hoặc? Người khác dù theo Tiểu mà nghi hoặc Đại, người kia lại không lập biệt danh của Hoặc, cho nên Tiểu “hồi hoặc” không thành dày mỏng.

Hỏi: Các người hàng Thanh văn, trước lúc ấy văn không có nói đoạn biệt hoặc vì sao nay căn cứ để luận dày mỏng ư?

Đáp: Hiển giáo tuy không có, mà căn cứ lý hợp thì có, cho nên văn bị đào thải, nghĩa đương đoạn phục, do căn không đồng nên đoạn phục cũng sai khác, dẫn đến có ba căn trước sau không đồng.

Phần hai: Căn cứ bốn câu, chia làm hai phần: Một là nêu bày. Hai là: dùng bốn câu riêng đối bốn người. Căn Hoặc đều do quá khứ huân tập, dẫn đến khiến ngộ có tam chu không đồng, do đó ba phen phân phán. Đầu giải thích thâu căn cơ khiến tận, cho nên câu thứ tư nhiếp “chúng kết duyên”. Hai câu sau giải thích bất định: ba căn đã định, chỉ câu pháp đến bốn, đem bốn phán ba cho nên từ bao hàm tiến thoái. Trong giải thích thứ hai: nên coi hai câu giữa là trung căn. Văn nói “là trung hạ căn”: hoặc bỏ chữ “hạ”, hoặc chữ “hạ căn” riêng làm câu dưới.

Phần ba: Căn cứ ba phẩm Hoặc, lại có hai: Đầu thích, sau lệ. Đầu giải thích: Tức hai vị đều có ba lớp, Nay lại nêu tam chu bắt đầu nhập Sơ trụ có ba không đồng. Hoặc tận không bằng nhau, nên khiến như vậy. Ví như dưới dùng Tiểu thừa so sánh Đại thừa. Mười sáu sát-na đều gọi là Vô lậu, đến thứ mười lăm còn thọ tên Hướng, cho nên ba phẩm Hoặc tận thì mới nhập Sơ trụ, bấy giờ bèn được thọ ký.

“Thứ tư: Chuyển căn, không chuyển căn”: Trước là thuật xưa, tiếp “Nếu vậy…”: là phá. Tuy có gọi là chuyển, khi nghe đều có thượng căn mà ba căn không thành. “Nếu chuyển…”: là phá nghĩa chuyển không thành, cũng không có ba căn. Khi tam chu ngộ đều gọi là thượng căn, lấy gì để biện tam chu ba căn? Còn lại người chưa ngộ thì không gọi là “chuyển”.

Tiếp theo là ý ước lệ: Đầu lập sự, tiếp nạn vấn. Nếu cả hai đều lợi và lợi độn vẫn còn, thì không gọi là “chuyển”.“Thân-tử một phen nghe…”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Tiếp “Chúng sinh…”: là trong chánh giải thích, có hai: Đầu là chánh giải thích, tiếp là liệu giản. Văn đầu: trước là dẫn hiện tại làm so sánh, hiện đã là duyên sở chuyển, nghiệm xưa cũng vậy. “Đời trước…” là nêu rõ đời trước chuyển ba căn đã thành, cho nên khiến ba căn trước sau ngộ nhập. Tiếp, “Thí dụ tam đao…”: “đao” như căn, “mộc” như nghi hoặc, người cầm đao như cơ, đức Phật khiến họ chặt đứt. Thọ giáo như nghe pháp, vận chặt như dụng quán, cây gãy như chứng, từng đập như chuyển, gặp để đập không đồng nên có căn lợi độn. Trong đây nghe ngộ tợ như Tín hành đều kiêm pháp, do đời trước tin pháp hồi chuyển giúp nhau không đồng. “Tin pháp…”: tướng đầy đủ như trong Chỉ Quán, đây trong một tòa không có sáu mươi bốn phen.

Ý của câu “Hỏi” là: Chưa nhập Trụ trước gọi là ba căn, tức ba căn đây nhập Trụ rồi thì về sau còn được gọi là ba hay không? “Đáp”: Ý có thể thấy.

Tiếp “Hỏi” ý là: Trước Trụ gọi là duyên, Sơ trụ gọi là Chân, chưa chứng Nhị trụ cũng gọi là “duyên tu”. Trước Trụ thì “duyên tu” đã có sai khác, trước đệ Nhị trụ cũng có sai khác ư? “Đáp”, ý: Vị đồng lý đồng không nên biệt nữa, trước Trụ chưa chứng chấp nhận có không đồng. Nhưng trước Viên trụ cũng gọi là “duyên”, thì chỉ có trong đây và Tứ niệm xứ. Vẫn đối với nghĩa Biệt giáo mà lập danh kia.

“Thứ năm: Ngộ và không ngộ”: Đầu văn nay tự lập: Trước dẫn kinh lập ngăn ngại. Tiếp, “Nếu nói…”: là nêu vượt ngăn ngại. “Nhưng kinh…”: là biện rõ biệt, cho nên nói “nghĩa chưa hẳn như vậy”. Cho nên xưa ba căn không đồng tam chu, tam chu tam thừa đều ba thành chín. “Nay kinh…”: nay nhân đây cần phải biện rõ Bích-chi-phật có không. Trước là dẫn khởi lập lại ngăn ngại, đã biết ba căn khắp ở tam thừa. Kinh này văn nào nói Bích-chi-phật ngộ? Tiếp, “Bích-chi-phật…”: giải thích sự ngăn ngại. Nói “Trung căn”: là dựa vào Tam thừa trước. Nói “tùy căn”, là do trong Thanh-văn cũng có ba căn. “Cho nên Thân-tử…”: chứng, không có riêng Bích-chi-phật. Đã nói rõ Nhị thừa đắc ngộ ba căn không đồng, Bồ-tát cũng nên khắp ở tam chu, vì sao như vậy ư? Cho nên vượt ngoài các Sư xưa, nêu rõ Bồ-tát chấp nhận có ba căn, mà đều nơi pháp thuyết đều không đến hai chu trung hạ. Nói “Vực hoài”: “Vực” là hạn cuộc bờ cõi, là phần hạn của tâm kỳ vọng. Nói “cận quả”: Kia chỉ cùng địa vị, nghĩa là lìa Nhị thừa tức cầu làm Phật, Phật quả vẫn đồng địa vị nhị thừa, cho nên nói “cận quả”. Nay nghe Phật quả tức vượt qua năm trăm (do tuần). Dù có nghi xa gần, cũng không đồng Tiểu thừa cho nên dễ ngộ. “Ba căn…”: xưa phán ba thời đồng tại pháp thuyết. “Nay nêu rõ…”: là phá. Chu đầu trước chỉ pháp thuyết, đầu và trong lược nói. Chu đầu thì tam thừa Bồ-tát đứng đầu, nhưng không cùng đầu tiên ngộ. “Nếu vậy…”: là dẫn chứng, sao được phẩm Phân Biệt Công Đức và trong Lưu thông, như phẩm Diệu Âm Bồ-tát… còn có mới ngộ Vô sinh nhẫn. “Xưa nói…”: là xưa có ý bào chữa nói: Chu đầu trước ngộ đã thành Pháp thân. “Nay nói….”: là lần nữa lại phá. “Sáu trăm tám mươi vạn ức…”: lẽ nào có thể trước là Pháp thân mà vẫn nói đắc Vô sinh nhẫn ư? Sau Vô sinh nhẫn mới gọi là “tăng đạo”.

Tiếp, “Hỏi”: Đã không chấp nhận Bồ-tát chỉ tại chu đầu, thì Nhị thừa cũng nên đến Thọ Lượng ư? “Đáp”, ý: Người không hạn cuộc ở đầu, danh không thông sau.

Hỏi: Đã đối tam chu đã đắc Vô sinh tức là Pháp thân, vì sao không chấp nhận giải thích của Sư xưa ư ?

Đáp: Ý của Sư xưa: Vốn là Bồ-tát, chu đầu nghe pháp đắc thành Pháp thân, đến trong phẩm Thọ Lượng tăng đạo tổn sinh. Nay nói Thanh-văn đến sau tuy thông là Bồ-tát, hoặc là có người chưa đắc Vô sinh nhẫn thì không gọi là “tăng đạo”, cho nên chỉ nói Vô sinh. Sư nay trước nạn vấn người xưa: Vốn là Bồ-tát còn có đến đó mới đắc Vô sinh? Như đầu giải thích trong phần Duy thổn, trước đắc Thập trụ… tự là một đường, lẽ nào khiến cho Bồ-tát đều trước ở pháp thuyết đắc Vô sinh ư? Cho nên biết căn tánh Nhị thừa được thọ ký cũng có đến sau mới đắc Vô sinh nhẫn, cho nên không thể làm một đại khái. Phải biết tất cả đều thông trước sau, chỉ sau tam chu thì không có tên Tiểu thừa.

“Thứ sáu: Có lãnh giải, không lãnh giải”: Tuy không nói cổ xưa có chấp đây mà nay dẫn phá. “Nay nêu rõ…”: là trước phá Duyên giác, tiếp là biện Bồ-tát. Văn đầu có bốn: 1. Lập ý. 2. “Thân-tử…”: dẫn sự. 3. “Lại, bốn chúng…”: là ý có. 4. “Tín giải….”: là nghĩa có.

 

(Phần Hạ)

Tiếp, trong phần biện Bồ-tát, có hai phần: Một, tổng thuật ý. Hai, “Lại ý kia…”: là biệt xuất lý do. Phần một lại có ba : 1. Nêu không. 2. Ý hoặc có hoặc không. Dễ thì không, cho nên nói “xứ xứ có văn”. Căn cứ lý hợp thì có, cho nên nói “Phạm văn…”. 3. Nêu trong “có”, nói “Bồ-tát hạnh vị…”: Bồ-tát thật địa vị cùng cực đến Diệu giác nhưng khác đối với biệt, nên gọi là “thâm”. Mới nhập thật còn chẳng sánh kịp, cho nên gọi là “tuyệt”, mới từ Quyền đến cho nên gọi là “tân”. Xưa quyền địa vị thấp, nên gọi là “tiểu”. “Nói Thọ lượng…” căn cứ lý thì trong Tích hợp đủ có lãnh giải, tân tiểu tư không dám. Cho nên dưới tổng lãnh tụng nói: “Đức Phật thuyết pháp hy hữu xưa chưa từng nghe. Thế Tôn có đại lực, thọ mạng không thể lường, vô số các Phật tử, nghe Thế Tôn phân biệt, được pháp lợi ích”, cho đến, “hoặc vô ngại nhạo thuyết”. “Ngoài ra còn có Nhất sinh tại….” tức là Bổ xứ tổng làm lãnh giải. “Tám tướng” dễ lãnh cho nên Thanh-văn lãnh giải, Pháp thân thọ ký khó chẳng phải người nông cạn lãnh giải. Nói “Lại cầu vật gì nữa v.v…”: lẽ ra lại trách hỏi: Ông chỉ biết Thanh-văn biệt lãnh, mà không thấy Bồ-tát thông lãnh? Cho nên đây ba phen giải thích nghĩa cũng như thông, ý đầu thông chỉ Tam giáo Bồ-tát, thông đều cầu Phật. Tuy là quyền nhân mà chấp nên dễ chuyển. Ý thứ hai, ba tuy nói “xứ xứ có văn”, và tiểu Bồ-tát… cho nên cần phân biệt. Tiểu ở tam quyền ngộ đại, nói lược. Cho nên nói “vân vân” là do nơi đây.

“Thứ bảy: Được thọ ký, không được thọ ký”: Cũng là xưa chấp. Đầu tiên là dẫn khởi. Tiếp theo là chánh giải thích Duyên giác như trước nhập số Thanh-văn, cho nên chỉ đối Bồ-tát, cũng chia làm ba: 1. Văn dùng ý đầu trong phần lãnh giải có, không trước nay, nghĩa kiêm ý thứ hai, Nếu đồng hai ý đầu, tức đồng ý thứ ba, nghĩa là văn đầu đều dùng ba nghĩa trước. Vì có thọ ký tức có lãnh giải. Nói “Như trước vân vân” là: Ý thứ nhất như trước lãnh giải. Trong ý thứ hai thiếu Phạm văn hoặc có, chỉ nói tùy yếu. Ý thứ hai nghĩa đồng thứ ba trước, chỉ văn trước thì thông, nay thì đầy đủ thông và biệt. Long nữ biệt, Pháp sư thông. Đã thọ ký rõ ràng, tại sao ngại lãnh giải? Ý thứ ba căn cứ cận viễn biệt, cận không ưa thích, viễn ký cũng tại Phân Biệt Công Đức. Nói “Thọ Lượng”: lần nữa lại nghe Thọ lượng cho nên được thọ ký. Đối với ý thứ ba trước, thì chỉ Sở đối biệt, trước đối tiểu Bồ-tát, đây người Tiểu thừa.

Tiếp “Hỏi”, ý: Vì sao không nói thẳng quá bao nhiêu kiếp thì đắc Diệu giác Pháp thân, mà chỉ nói Tám tướng Sơ trụ? Đây là giáo ý chánh văn của nhất gia, mà người phần nhiều không ngộ. “Đáp”, ý có hai: 1. Nêu rõ cần tám tướng. 2. Sau được Pháp thân ký. Do sau biện rõ trước nên biết là Sơ trụ. Vả lại ngang là chỉ Pháp thân bản. Cho nên biết Nhị thừa hai xứ được lợi ích, lại cho tám tướng thọ ký. Lại khiến cho chúng sinh kết nhân tịnh độ, Bồ-tát đã trải qua nhiều kiếp làm lợi chúng sinh, tùy thục tùy thoát, không mượn tám tướng thọ ký thiển cận. Nhị thừa không như vậy, nên cần biện rõ.

“Thứ tám: Ngộ có sâu cạn”: Đây không có Sư xưa, trong đó lại có bốn: 1. Lược nêu nguyên do biện có sâu cạn có sáng tối. 2. ”Đầu khai…”: là giải thích ý sâu cạn. Đã nói ban đầu nghe pháp thuyết rồi nhập Phật tuệ, nói Phật tuệ trong Trụ không chuyên một phẩm. Hoặc là chỉ có Sơ trụ hoặc là nhị, tam, tứ, cho đến thập địa, ba tiết tăng tiến lý thật như vậy. Như đã giải thích trong phần Duy thổn nói: “Truớc nhập nay nhập”, cho nên nói “nay nhập” thì bao quát bốn tiết tức Tam chu, Thọ lượng. Nhưng trước nhập hiển mật không đồng, sợ không hiểu ý trước, cho nên lần nữa lại nói đó thôi. 3. “Như nghe…”: là nêu phàm so với Thánh, nêu thô so với tế. Nếu nghe lần nữa mà không lợi ích thì ban đầu cũng uổng sự nghe, bốn tiết thêm công, lý nên tăng tiến, có khi đến Nhất sinh bởi do đây. 4. “Đơn phức…”: là dẫn sự, như lạnh được áo, lớp lớp dần hơn. “Dày mỏng”: là giải thích “đơn phức”.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao trước nói người ở địa vị chân thật này thì không còn sâu cạn?

Đáp: Nhất vãng đồng vị thật không có cạn sâu. Luận tỉ mỉ sáng tối và ánh sáng thêm vào, vì là địa vị sau khi thêm đèn sáng, cho nên lý có tăng tiến.

“Thứ chín: Quyền thật được lợi ích”: Chia làm sáu phần: 1. Nêu xưa giải thích. Nói “Có một giải thích nói”: Xưa lẽ ra có nhiều giải thích, “một” kia trái văn cho nên tạm nói một. 2. “Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích. Nói “gần viên”: “Viên” là viên mãn, lân cận địa vị viên mãn, gần Diệu giác. Nói “tế cực”: Nói rõ ở sát gần Viên. 3. “Sở dĩ…”: là nêu nguyên do được lợi ích: 4. “Văn nói…”: là dẫn chứng. Nói “hóa công”: Khi ảnh hưởng tích đã có lợi ích của giáo hóa, trước sau tăng đạo tức là lợi sâu, Quyền nhân nơi nơi được lợi ích sâu. 5. “Cho nên một âm…”: là lập lý, không hẳn đều phải đợi đến Thọ Lượng, cho nên nói “một âm”. Lại, mật ích: thích hợp nghe “lâu dài”, thời xứ không đồng, hiển mật đều khác, cho nên nói “vân vân”. . “Lại ta…”: là văn chánh chứng ảnh hưởng được lợi ích. Nếu đối với mình cũng không lợi ích, thì sao cho là muốn đắc?

“Thứ mười: Đợi thời không đợi thời”: Đầu tiên trong chánh giải thích: Trước là đại phán. Tiếp, “Nếu căn cứ…”: là căn cứ tam chu và bản. “Theo luận đợi…” trong ba chu tự luận mật, như khi pháp thuyết; mật nghe Đại xa và sự Đại Thông mà được lợi ích tức không đợi thời. Chu giữa mật nghe căn cứ nói có thể biết.

Hỏi: Tam chu và Bản là có mật thuyết, Huyền Văn sao nói Pháp Hoa chỉ hiển ư?

Đáp: Nói hiển mật, là trước lúc ấy khắp nơi viên xen lẫn không biết nhau, nay đến kinh này đồng nhập một viên, tuy mật mà hiển thuần một vị, chỉ nơi một pháp hội có đợi không đợi, chỉ biết rõ thọ ký nhị thừa, vì hiển lộ phân minh nói thọ mạng lâu dài, nơi một pháp hội đây đều nghe biết cho nên gọi là hiển.

Hỏi: Nói “chẳng hiển chẳng mật”: nghĩa là quyết định tánh, đối với bốn thời trước đã không mật ích, không đến thời Pháp Hoa lại không hiển đắc, hai nơi không lợi ích, gọi là thất thời không?

Đáp: Các kinh khác, nghĩa là bốn thời trước đã nói vĩnh viễn diệt, vì các Thanh-văn… không biết Biến dịch.

Trong kinh Tịnh Danh, ngài Ca-diếp tự trình bày rằng: Đều ứng kêu khóc chấn động tam thiên. Ở đây Đại thừa đã như bại chủng. Căn cứ kinh kia phán là bại chủng thì đâu thể sinh? mà đến Pháp Hoa đều được Phật thọ ký. Nếu vậy thì lúc bấy giờ sao Đức Phật không thọ ký liền mà khiến đợi đến Pháp Hoa? Vì hiển mật không đồng, như trước đã giải thích. Nếu đem vĩnh diệt quyền luận dùng giải thích khai hội thật kinh, kinh đã sinh rồi thì luận tại sao năng diệt? Chỉ do diệt nơi kia được nghe, các kinh khác không nói huống chi thông kinh luận, cho nên mất hiển mật cũng chẳng mất thời. Chỉ vì người hoằng giáo quanh co giải thích điều này, tức lỗi của người giải thích, không phải lỗi của Luận.

“Năm ngàn người đứng dậy bỏ đi…”: không có mật ích của bốn thời, mất hiển công nơi hội này, mất thời hóa độ này, cõi kia không mong đợi, thế nên lẽ ra là thất thời? Đáp rằng: Sau khi diệt độ lợi ích là đúng.

Hỏi: Kinh nói: Sau khi Phật diệt độ thật đắc A-la-hán chấp nhận có thể được lợi ích, người thượng mạn không thật nên chẳng phải đây thâu ư?

Đáp: Thúc giục đến gần thật, thành thật như kinh nói, thì đã thông chấp nhận gặp Đức Phật khác, cũng đâu có ngăn cách thượng mạn, như kia không phát thì đợi thời Đức Phật sau.

Hỏi: Phật nếu đại bi thì tại sao không khiến người kia không hủy báng mà sinh tín?

Đáp: Đó là lỗi của người mù, chẳng phải lỗi của nhật nguyệt, pháp giới chúng sinh chưa làm lợi ích là chúng, huống chi năm ngàn người đây đã nhuần chủng, hạ căn, sau khi diệt độ tuy lâu xa vẫn không đổi đời.

Hỏi: Thân-tử chu đầu vì hàng ba căn mà thỉnh, dưới đây tạp liệu giản, không liên quan mười môn. Nói vì bốn chúng ba căn, chu đầu khắp thỉnh Phật cũng khắp thuyết, các người chưa ngộ lại vì họ thỉnh khắp. Đã thỉnh khắp thuyết khắp, thì tại sao lại nói đức Phật đều vì họ nói ư? Đây dẫn ba phen đè nén đợi ba chu kia, Phật đã tạm đè nén dự định, tiêu biểu Thân-tử quyền năng dự tính, vì sao không mỗi mỗi thỉnh mà đầu ba chu thông làm ba căn, bắt đầu chu thí dụ thì chung vì trung hạ căn mà thỉnh, cho nên chư thiên lãnh giải. Văn sau có nói: Bấy giờ Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Con nay không còn nghi hối,….các vị tâm tự tại một ngàn hai trăm đây…”, cho nên biết là vì hàng trung căn mà thỉnh. Cho đến văn nói: “Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên kia”, tức vì hạ căn thỉnh? “Đáp”, ý có thể biết, nhưng Thân-tử giả sử dự biết tại ba, cuối cùng cần phải thỉnh khắp. Nếu vậy, chu đầu thỉnh khắp thì vì sao Phật chỉ làm Pháp thuyết ư ? Vì sao Thí thuyết lại thỉnh ư ? Thí thuyết đã vì hai hạng trung hạ căn, vì sao lại thuyết về đời trước?

Đáp: Chu đầu thỉnh khắp, nói cũng nói khắp, người nghe chưa ngộ, chính ở vật cơ, trung hạ còn mê muội nên lần nữa lại vì trung hạ mà thỉnh khắp. Đức Phật cũng khắp vì trung hạ thí thuyết cho nên bốn người trong số một ngàn hai trăm người, ngoài số này là thuộc hạ căn, cho nên đức Phật xem xét căn cơ không cần thỉnh lại, liền hứa nói: “Nhân duyên đời trước, ta nay sẽ nói”. Nếu vậy, thì cũng chưa trình bày nạn. Nếu thông bị ba căn thì đâu nói ba phen nán đợi kia ba phen thỉnh để tiêu biểu ba chu? Đáp: Xem xét vật cơ tình, lý cần phải dự chiếu cho đến vì thuyết đâu lựa chọn hạ, trung. Cho nên khi pháp thuyết đã lợi ích trung hạ, mới khiến trung hạ trở lại ba phen liền ngộ. “Vân vân” là: Lẽ nào có pháp thuyết trung hạ không nghe, lẽ nào có sơ thỉnh chuyên vì cực lợi! Rộng trách kiến giải xưa không hiểu đại đạo.

“Hỏi”: Đem hai chu: Pháp và Thí dụ, đối với nói đời trước, tợ như ba đời. Nếu thuận ba đời thì đương lai và hiện tại như thế nào? Trong “đáp”, nói “không có văn”: tức là nói Nhất vãng. Như trong thuyết pháp “sẽ vì ông nói”. Nếu đem ba xưa vọng một nay, thì nay là tương lai của xưa. Đây căn cứ dù không có phương pháp biện luận, để đáp câu hỏi vô phương, được làm thuyết này. Nếu không vậy, thì chỉ được y thường lập danh “Pháp, Thí”. Đã nói “vô phương” thì xúc chạm đến chuyển, như trong thí thuyết Đại xa vọng tiểu đại cũng là đương. Như trong Pháp thuyết, vọng ba làm xưa, thì một cũng thành hiện tại. Nay nói “Thí là hiện”: thí là hiện sự, tạm nói “hiện” đó thôi!

“Căn cứ sau vọng trước”, thì “Pháp, Thí” ở sau đời trước, cho nên lấy nói đời trước làm quá khứ. Chuẩn theo đây thì biết “Pháp, Thí” hợp đồng đương hiện. “Hỏi: Xưa do năm trược chướng Đại thừa”, là chấp của Sư xưa. “Bốn liệu giản” là nay phá kia. Nói “như trước”: là chỉ Huyền Văn trên. Năm trược có trừ không trừ, đại cơ có động không động, không được hoàn toàn nói “chướng Đại”, cũng có thể nói “như sau”, tức trong phần sau giải thích năm trược, đầy đủ trải qua năm vị bốn giáo bốn câu. “Có người…”: lại dẫn người khác giải thích. Đoạn xong Kiến hoặc, còn có Vô minh, cho nên sở chứng chân cùng vô minh đây, cùng làm chướng Đại thừa. Vô minh nêu Tu hoặc, tức không phát tâm sơ quả, cho nên dẫn Pháp Hoa luận để chứng minh. Nói “người không phiền não” vì đã đoạn Kiến hoặc. “Có nhiễm mạn”: là có Tu hoặc. “Chưa biết thường trụ”: tức là chướng Đại. “Như Bác địa không chấp”: chưa có sở chứng chưa từng đoạn kiến. Hai si hợp minh vô minh hoặc mạnh, cho nên nói “độc chướng”. Ý nói trong năm trược thì Chúng sinh trược Kiếp trược và Mạng trược, không hoàn toàn là chướng. Vì chướng là “Kiến, Tu” hai trược. “Nếu vậy…”: là người khác vấn nạn. Ý nói: Nếu hai người vô minh, hoặc cùng hoặc riêng, đều năng chướng, tức là vô minh đây. Nếu định là năng chướng thì định phải phá. Nếu nghe pháp rồi phá, thì không ảnh hưởng nghe pháp, làm gì có chướng? Nếu chưa nghe pháp mà trước phá vô minh, thì lúc nghe pháp, vô minh đã không còn, nên không gọi là chướng. Đây là ý của Tam luận sư, không hỏi nguyên do vô minh làm chướng ngại, mà thẳng dùng tự tha v.v… để vặn hỏi rằng là: Chướng có hay không? “Đáp: Đó là tha nhân… làm thông”: nghe pháp cho nên phá, phá do nghe pháp. Nói “không trước sau”: Chưa nghe pháp mà phá là “trước”, nghe pháp rồi mới phá là “sau”, trước gọi là tự phá, sau gọi là tha phá, tự tha không phá không nhân không thể. Tiếp “tuy không trước sau…”: là tuy chẳng tự tha nhân duyên cho nên phá, mà do nhân duyên cho nên cũng trước cũng sau, cũng trước cho nên tối (ám) diệt, cũng sau cho nên sáng (minh) sinh. Nay từ phá mà nói, cho nên “không trước sau”. Nay từ lập mà nói thì Vô minh nhất định chướng. Lại, cũng nên nói “tuy không trước sau, mà nghe pháp thì nhất định phá”.

Tiếp lại liệu giản (giải thích) “Tri và Bất tri”: Đầu dẫn hai kinh đều nói “tri (biết)”. Vì sao kinh này ba chu nói xong còn nói “bất tri (không biết)”? Nhưng tuy nói “biết” mà văn ý có chút sai biệt, kinh kia thuộc Phương-đẳng nên đầy đủ hai ý: 1. Đối các Bồ-tát, thì nói người Nhị thừa đầu tiên phát đại tâm, sau chung quy đại thừa. 2. “Do không ngu…”: hoàn toàn bài xích, đầy đủ như trong Chỉ Quán cuối quyển ba. Kia lạm dẫn dùng làm lời nạn vấn. “Vì sao sau ba căn…”: sau phẩm Pháp Sư mượn văn trường hàng nói: “Nếu người Thanh-văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt, thì phải biết đó là hạng tăng-thượng-mạn”. Đây dùng “thượng mạn, kinh nghi” để hiển bày “không biết”. Chỉ vì sau ba căn thảy đều phải “biết”, vì sao còn nói “kinh nghi sợ sệt” ư? Đầu tiên nghi cho rằng ba chu ban đầu động chấp sinh nghi, sau ngộ thì cho rằng ba chu lãnh giải, sau lãnh giải thì không còn nghi. Vì sao ở đây sau lãnh giải mà còn tự kinh nghi? Trong “Đáp” có hai ý: Đầu, thông nêu “biết”. Tiếp, “Phàm có…”: là phân môn biệt giải thích. Ý văn đầu: Kinh này cũng nói “biết”, trách người hỏi, vì sao chuyên dẫn văn “không biết”? Cho nên kinh này cùng thọ ký nơi nơi đều nói “biết”. Tiếp dẫn văn đây để chánh đáp nói “biết”. Sau ba căn có người không biết, tức là lời thúc giục. Những người không ngu thì đến thời Pháp Hoa thảy đều “đã biết”. Giả sử lại có người không biết, thì phán đó là hạng người thượng mạn. Đã chẳng phải thượng mạn, thì đạo lý đều “biết”, “tưởng diệt độ” mà còn biết huống chi các hạng khác ư!

Tiếp, phân môn giải thích: Đầu nói rõ biết là Thanh-văn ở kinh kia cũng không nói “biết”. Phật tại kinh kia vì các Bồ-tát nói ý nguyên do kia, cho nên nói “biết”. Đây tức đáp câu hỏi về hai kinh trước. Xưa từng phát Đại thừa cho nên nói “trước biết”, trung gian thoái Đại cho nên nói “tiếp, nêu không biết”, “sau” đến hội Pháp Hoa này bị hội thì mới “biết”. Nếu Phật còn tại thế thì tam căn được thọ ký, sau khi Phật diệt độ thì không gì là không biết. “Lại, Thân-tử…”: là lần nữa lại dẫn kinh này để chứng minh là “không biết”. Câu đầu Thân-tử trình bày một ngàn hai trăm người không biết. “Ta nay…” là đầu Pháp thuyết, tự trình bày “không biết”, đây là văn “không biết” trước ba chu, chẳng liên quan đến sau ba chu. “Lại, Đại Thông…”: đây đương “Sau ba chu” cũng có văn “không biết”. Vì sao? Vì đã nói “Lúc nói kinh này thì mười sáu vị Sa-di thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh-văn cũng có người tin (nhận) hiểu, các chúng sinh khác còn lại ngàn vạn ức chúng đều sinh nghi-hoặc”, tức là khi Đức Phật kia còn tại thế cũng có người “không biết”, nhưng cũng không được nói là “vĩnh viễn không biết”, bởi vì các vương tử vì họ mà trở lại giảng giải. Mười sáu vương tử này đương lai sẽ làm Phật. Đức Phật tuy tại thế, Tứ y hoằng kinh về lý cũng không sai. Nên biết tạm đối khi nghe Phật thuyết mà nói “không biết” đó thôi!

“Nếu chấp…”: tiếp là hòa hợp: Trong đó: Trước là tổng ý không phải. Tiếp là chánh hội. Phần trước, không chịu thiên chấp, như hai văn trước, hoặc là đầu cuối biết mà trung gian không biết, hoặc là đầu không biết sau ắt được biết. “Sinh tưởng diệt độ” mà còn nơi kia biết, huống chi Phật tại thế mà tạm thời không biết, lẽ nào được cố chấp mà sinh mâu thuẫn? Mâu thuẫn đầy đủ như trong Chỉ Quán chép. “Luận…”: là ức chế khuất phục phàm tình, sợ thành tổn hại lớn. Nói “các việc khác”: là tu hành hướng đến quả, có ích lợi thì mới nên luận. “Thanh-văn…”: lại thuận văn tranh luận của Đại kinh cho nên Đại kinh đều nói “không hiểu ý ta”. Nhưng trong kinh kia hai mươi ba cặp đều nói “không hiểu”, do đối giáo xưa cho nên trách người mê cả hai đều “không hiểu”. Nếu biết ý hóa độ thì cả hai đều gọi là “hiểu”. Tại xưa nên nói “không thành chấp”, đối với nay thì thành lỗi. Tại nay nên nói “ắt thành”, đối với sau hợp Tiểu thừa thì thành lỗi. Do Đại Tiểu giáo “khai” và “không khai” đều thông ba đời. Nếu chỉ dẫn không thành để chứng minh định tánh, thì đã đều có lỗi, lẽ nào riêng dẫn ư? Cả hai dẫn đều chấp, còn trái ý chỉ của giáo, “mê thật chấp quyền” lỗi kia chẳng nhỏ, “vong quyền chấp thật” lỗi đây còn nhẹ. Đã trình bày thật giáo thì phải nói “quyết định thành”. Hạng người không thấy thì uổng theo kinh điển Quyền dùng để chứng Thật giáo. “Nay thử…”: chánh còn giáo nay mà làm dung hội. Trước chánh dung hội, tuy có hai cái bắt đầu mà Đại bắt đầu là quyết định, lẽ nào theo trung gian chấp tiểu tình chấp tiểu diệt làm quy cũ, cho nên Đại giáo quyết định thành, không cần tranh luận, một cặp nghĩa đã vậy thì hai mươi hai cặp xin hãy theo đó mà quán. Nếu Phật Thế Tôn đều để lại văn có ngăn ngại, thì sao thành tam đạt ngũ nhãn được? Cho nên y đây thì phân biệt tranh luận tự tiêu. Dù trong hai mươi ba cặp tiểu bộ không đồng nhưng rõ ràng là dễ dàng.

Tiếp, “Nếu hiểu được ý này…”: ở trong niệm xứ mà phân Quyền Thật, cho nên biết còn nghi hối, thì “biết” cùng “không biết” hai môn không nghẹt lấp, cho nên quyền thật hai người biết không biết sai biệt.

“Có người nói…”: là dẫn xưa lược lập lợi độn hai người, cho đến giải thích ly làm bốn câu, thuần dùng Quyền nhân để chỉ rõ “biết” và “không biết”, cho nên không ứng lý. “Nay không chọn…”: làchỉ điểm hai thứ Sơ nghiêp thì sự bế tắc kia tự tiêu đâu cần lại dùng một phần đầu làm ngăn ngại, huống chi nếu nghe Pháp Hoa mà không tổng phá. Cho nên căn cứ ý nay, nêu đủ quyền thật, vì vậy nên không dùng bốn câu thuần là Quyền. Nếu theo luận: Căn cứ Thật hành đối Quyền thì đều chia làm bốn câu cho nên nói “vân vân”. Văn lại lược lập. Quyền: Trước biết, Thật: Không biết. Nương sơ nghiêp Tiểu thừa, sinh Diệt tưởng, là hiện đời không biết. Biết là hiện được ngộ, tức hai câu đầu. Câu thứ ba: đầu không biết, sau biết. Câu thứ tư: tức trong thời Phươngđẳng bị bài xích, do căn cơ chưa phát nên chẳng biết, do bị bài xích nên chẳng phải không không biết. Quyền nhân đồng với Thật, chỉ bày biết không biết. Luận rằng nội tâm kia không thời nào không biết, cho nên không dụng xưa, nơi nghĩa tự hiển rõ. Lại rộng căn cứ các giáo, địa vị nào, thời nào, hiển mật, quyền thật, biết không biết… Vọng xưa tuy vậy, nay đối thật chỉ là đầu thì không biết sau mới được biết. Nhân đây lần nữa lại liệu-giản Duyên giác. Hỏi có thể biết? Trong “Đáp”, dẫn kinh nói từ biết. Hỏi: Đây Phật cũng có nghe pháp Duyên giác, sao không khiến kia nghe Phật thuyết pháp như người Nhị thừa trong thời Phương-đẳng Bát-nhã ư ? Đáp: Người chưa đoạn Hoặc thì có thể khiến họ nghe pháp, người đã đoạn Hoặc thì tự cho là Độc giác, do đó nên biết ở đời không có hai Đức Phật.

Hỏi: Duyên giác trú tại Tiểu thừa thì có gì ngăn ngại?

Đáp: Vốn là pháp diệt, không có thầy mà riêng ngộ. Đã có Phật hưng khởi lại không bẩm thọ giáo, ra đi thì không được lãnh thọ giáo, là ngăn ngại, cho nên không đồng Phương-đẳng vốn là người lãnh thọ giáo.

Hỏi: Theo hướng nơi nào?

Đáp: Hướng chỗ không có Phật, dù ở cõi đây cũng là Phật giáo không thể sánh kịp, như vị vua có đức xuất hiện, lẽ nào sao chổi không ẩn mất? Nếu vậy, thì kia đắc thần thông lẽ nào không biết ư? Đáp: Vì hộ căn cơ chúng sinh, không hộ Duyên giác, biết cũng đâu sai. “Nguyện sinh” cho đến “thập tứ sinh”: do nguyện lựa chọn số lần sinh mà được gặp Phật. Hoặc là nguyện sinh mà sinh số chưa mãn, hoặc là sau lên cõi trời mà nguyện còn lôi kéo dẫn đến, đầy đủ như trong quyến thuộc diệu, vì vậy nên người đây gọi là Thanh văn.

Nói “Thập tứ sinh”: Nhân thiên đều có bảy, chỉ tổng lập bảy, hoặc hai mươi tám đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Nêu cực độn đến thập tứ đó thôi! Cho nên sinh chưa mãn liền thành vô học. “Nhị quả tam quả”: Như người Nhất lai và ba loại người trong Ngũ hàm. Biết Phật xuất thế còn có kẻ từ cõi trời xuống đến thân cận Phật… Nếu thượng lưu thì dù đến Vô sắc và Vô sắc Bát, đều có khởi Dục giới hóa đến gặp Phật. Nếu không gặp Phật thì cũng có thể chấp nhận đắc Hữu dư Bát, cũng gọi là Độc giác, cho nên nói nhị quả tam quả theo lệ như vậy, do theo nguyện, huống chi hai quả dục nhân thiên sinh thì nguyện cũng dễ dẫn dắt. “Biến hóa Duyên giác”: Nghĩa căn cứ theo Thanh-văn cũng đủ bốn thứ, nay văn liệt kê một nghĩa đã bao hàm ba, sở hóa gồm hai. Văn chia làm ba, ba văn đều chia hai, do ba văn đều có hai chữ. Như trong văn thứ nhất: Đầu, là thuận. Tiếp, “Lẽ nào đắc…”: là hứa. Thứ hai: Đầu, là giới (răn). Tiếp, “Ta sẽ…” là hứa. Văn thứ ba: Đầu, là chọn, Tiếp, “Ông nay…”: là hứa.

“Đại kinh nêu bốn thiện pháp”: Phẩm Đức Vương giải thích mười công đức, trong đó nói: 1. Thân cận thiện hữu. 2. Lắng nghe chánh pháp. 3. Tư duy nghĩa kia. 4. Như thuyết tu hành. Chỉ bốn pháp này là nhân Niết-bàn. Nếu nói khổ hạnh là nhân Niết-bàn, thì không có việc đó. Ba câu sau tức Tam tuệ, cho nên đức Phật dạy đó là nhân duyên gần Niết-bàn. Năm ngàn người tại tòa cho đến giản chúng, hoặc là lúc quá khứ đã có duyên hủy báng pháp, hoặc căn cơ chưa thuần thục nghe ắt sinh hủy báng, cho nên Phật biết thời dùng thần lực khiến họ ra đi. Lại như khi Đức Phật nói kinh Anh Lạc, thì năm ngàn Bồ-tát lại từ tòa đứng dậy bỏ đi. Phẩm Thí Dụ kia nhân Phật nói Pháp thân công đức, trong pháp hội có năm ngàn Bồ-tát từ tòa đứng dậy đi. Mục-liên hỏi Phật: Các chánh sĩ đây tu Bồ-tát đạo đã nhập chánh pháp tạng của Như Lai, tu hạnh quá tam thừa, vì sao khi nghe nói Tam thân thì không thọ mà thoái? Phật dạy: Thiện nam tử! Nghe nói thì bọn người này máu dồn lên mặt. Vì sao vậy? Vì người ấy trải qua vô số kiếp thường phỉ báng, bọn người ấy trong quá khứ đã ở nơi hằng sa Phật tu hạnh lục độ khởi tưởng chấp trước, có tâm hối hận, cho nên có thoái chuyển, sẽ lại trải qua nhiều gian nan cần cù. Ở nơi ngàn đức Phật trong quá khứ mà họ còn chưa được độ, bọn người ấy tu Bồ-tát đạo muốn được thành Phật trọn không thể được, như người muốn xây dựng nhà trên hư không, cuối cùng không thể thành. Nay nói đây chính là tâm Tam tạng Bồ-đề căn cơ chưa hợp thời. Nếu nghe tam thân lý hợp thì sinh hủy báng, thông tại Diễn môn sinh hủy báng nghĩa thiếu. Cho nên biết người đời nay tuy muốn phát tâm, mà không lựa chọn thiên viên, không hiểu cảnh thệ nguyện, thì đời vị lai nghe pháp, sao có thể tránh khỏi phỉ báng?!

Hỏi: Trước nói ba phen bảo “Thôi!” là để nán đợi ba căn, nay tại sao nói “vì năm ngàn người tại tòa”?

Đáp: Sau ba phen thỉnh thì năm ngàn người ắt ra đi. Chỉ hết thảy ba phen bảo “Thôi!”, dùng tương đương hai nghĩa, đối lý không ngăn ngại.

Có khi một pháp đương vô lượng duyên, chỉ hai việc đây sao đủ sinh nghi? “Năm trược chướng nhiều”: là năm trược thêm nhiều biểu hiện đủ Kiến, Tu. Lại thêm chấp mạn, cho nên gọi là “căn thâm” (sâu). Chướng tội thì căn có khi chưa thâm (sâu), cho nên chấp mạn thì mới gọi là “thâm”. “Cành lá vụn mạt”: là nếu thật đắc quả như gốc rễ cây lớn mặc sức mà làm đồ dùng. Chỉ chấp cành lá cho là có khả năng mà khinh thường gốc rễ, cho là ngang bằng, cho là vượt quá, thì gọi là “tăng thượng mạn”. “Chấp Phương tiện của phương tiện”: Bốn quả Tiểu thừa đã là phương tiện, lại đối với Noãn, Đảnh chấp là chân cực, phải biết rằng thượng mạn chẳng phải hoàn toàn không có pháp, chỉ vì ở địa vị thấp mà tự cho là tăng thượng, mà kiêu mạn với người khác, nên gọi là “tăng thượng mạn”.

“Bốn phen thỉnh”: Coi thọ ý chỉ văn nghĩa là tương đương một phen thỉnh, gồm trước chia làm bốn. “Độc cổ (trống độc)”: Đại kinh nói: Ví như có người dùng chất độc bôi vào trống, ở trong đại chúng đánh trống khiến phát ra tiếng làm cho người nghe đều chết. “Trống”: Pháp thân bình đẳng. “Độc”: Từ bi vô duyên. “Đánh”: Chúng phát khởi. “Nghe”: Chúng đương cơ. “Tử (chết)”: Phá vô minh. Đời nay phá lậu hoặc bị phá gần chết, chỉ là người đương cơ. Đời sau lậu-hoặc bị phá (viễn) xa chết, đây là năm ngàn người tuy chẳng phải đương cơ, Như Lai vì sao không gượng vì họ nói để làm nhân lâu dài? “Như Hỷ căn…”: tức người được lợi ích xa, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Trong “Đáp” nói: “Trong pháp hội cuối của kinh Hoa Nghiêm”: đây lại hoàn toàn nhờ Kết tập thuyết. Cựu Hoa Nghiêm (kinh Hoa Nghiêm sáu mươi quyển) phẩm thứ ba mươi bảy nói: Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất từ rừng Kỳ-viên đi ra, không thấy Như Lai tự tại trang nghiêm biến hóa và sư tử hống diệu công đức…, không thấy các đại Bồ-tát quyến thuộc, cũng không có trí nhãn năng kiến giác tri và sinh ý niệm, cũng không ưa nói không năng tán thán để người Thanh-văn xuất tam giới. Đây tức văn nói: “như câm như điếc”. Ở hội cuối của Hoa Nghiêm, tức sẽ bắt đầu nói Tiệm nhưng cũng đã gửi Ta-bà một kỳ vọng thiết lập giáo hóa Tiệm giáo, để thuyết dùng thông ý nay. Nên biết Hoa Nghiêm tận thời vị lai, tức là kinh này thường tại Linh Sơn, đâu khác mười phương lại xen lẫn chủ bạn. Đến phẩm thứ ba mươi tám: Nhập Cảnh Giới Phật thì Văn-thù từ lầu Thiện Trụ đi ra cùng chư thiên long… đến chỗ Như Lai đầu mặt lạy chân Phật, thiết lập cúng dường rồi dạo qua phương Nam. Bấy giờ Xá-lợi-phất nương thần lực Như Lai thấy Văn-thù-sư-lợi từ Kỳ Hoàn ra mà suy nghĩ rằng nay cùng đồng đi. Bấy giờ Xá-lợi-phất có sáu ngàn đệ tử từ phòng mình ra, lễ chân Phật rồi đi đến chỗ Văn-thù. Sáu ngàn người này đều mới xuất gia, đã từng thân cận chư Phật trong quá khứ, đều được Văn-thù hóa độ. Xá-lợi-phất vì các Tỳ-kheo mà rộng tán thán Văn-thù. Văn-thù nói với các Tỳ-kheo: Các ông khéo năng thành tựu mười thứ đại tâm thì đắc Phật địa, huống chi Bồ-tát địa. Từ xưa cùng nói thời Hoa Nghiêm dài, nếu vậy chính là giáo sau kết tập cho đến Bát-nhã mới có thể được nói khiến các Tỳ-kheo thành mười đại tâm, đây chính là nghĩa đương lúc chuyển giáo. Kết các ý đây nhập trong thời Hoa Nghiêm, cho nên nói thời dài. Phải biết dùng pháp giới mà luận thì đều là thời Hoa Nghiêm, dùng Phật tuệ mà nói thì đều là thời Pháp Hoa. Đạo lý tuy vậy, nhưng nếu căn cứ thứ lớp bộ loại thì không tiện, tức là các giáo Lộc Uyển đều nên kết lấy, chỉ là đại tiểu không đồng căn cơ thấy không bình đẳng, cho nên khiến giáo chủ nói cũng không phải một. Nghiệm Xá-lợi-phất đã có sáu ngàn đệ tử, cho nên giống như thời Phương-đẳng, Bát-nhã giáo, đâu chỉ Lộc uyển ư? Nay văn lại nói “chưa phá tiểu chấp” tức tựa như bắt đầu thời Lộc uyển. Căn cứ văn dưới giải thích Trưởng giả trong phẩm Tín Giải chỉ là căn cơ thấy mặc, cởi trước theo. Nay cũng lại nhờ Tiệm giáo Đại cuối Tiểu đầu để giải thích câu: “Nay chư Phật” đến “lựa bỏ”, bởi vì không có mật giáo đồng tịch lợi ích. Nay muốn diệt Hóa thành phế bỏ thảo am, chính là thể bình đẳng Nhất hóa. Đây còn ở Tiểu thừa khởi tăng thượng mạn, huống chi năng Đại thừa lợi ích ư! Cho nên phần nhiều người ở đây chánh thích nghi khiến bỏ đi. “Dù đi hay ở đều phỉ báng…”: nghe lược thì không hủy báng, nghe rộng ắt hủy báng cho nên nói: “đi thì có lợi ích”. Vì vậy, “độc cổ” gồm hai nghĩa hủy báng và không hủy báng. Trước nghe lược nói đã thành nhân không hủy báng độc cổ, tại sao lại cần thêm thành nhân hủy báng ư? Hai nhân không sai biệt thêm hủy báng đoạ vào khổ, không tạo nhân hủy báng thì có khi ở Niết-bàn đắc lợi ích đương cơ. Nếu thêm hủy báng thì phần nhiều mất lợi ích gần, cho nên mặc cho bọn kia đi để còn được lợi ích gần. “Hỷ căn, từ” cho nên khiến xa được lợi ích, ban cho hạt giống an lạc kia. “Như Lai, bi” nên hộ trì khiến không hủy báng, bạt (cứu) đương khổ kia.

Tiếp, “Hỏi” có thể thấy. Trong “Đáp”, “chẳng phải đương cơ…” là: Nếu chỉ dùng năm ngàn người mà làm kết duyên, còn lại là đương cơ thì năm phẩm trở lên đều thuộc đương cơ, nhưng chuẩn vọng theo văn trước, trong giải thích bốn chúng thì chúng đương cơ chính là tại Sơ trụ trở lên. Có khả nàng làm Chúng ảnh hưởng thì sáu căn năm phẩm đều là kết duyên. Chỉ là kết duyên nghĩa rộng muốn thâu tóm hạng đứng dậy bỏ đi. Dù dùng năm phẩm làm đương cơ, hạng này cũng được gọi là kết duyên. “Đã như trên nói”: như nói trong “đợi thời” bên trên, tức sau khi Như Lai diệt độ người hoằng trì kinh được lợi ích. “Xưa thời đức Phật Đại Thông…”: đầy đủ như văn trên giải thích Chúng kết duyên, cũng đem văn này mà làm chứng kết duyên. Trải qua thời gian nơi chốn như thế rồi mới được độ, sau khi Như Lai diệt độ người hoằng kinh biên được lợi ích của chúng đương cơ cũng vì rất gần, cho nên biết chúng của mười sáu vương tử kia lẽ nào không có đến nay vẫn có người chưa độ ư? Không thấy lợi ích ba đời lâu xa, mà cho là hiện khó khăn sâu xa không thể biết. Đây là Đại thánh thấy nói căn cơ, sau khi Phật diệt độ hoằng kinh thật đáng làm theo lệ. “Khi nói Đại kinh thì một vạn năm ngàn ức người…”: Sư Tử Hống Bồ-tát nói: Như Phật đã nói tất cả chúng sinh năng tin kinh Đại Niết-Bàn bất khả tư nghì như đây. Bạch Thế Tôn! Trong Đại chúng đây có tám vạn năm ngàn ức người đối với kinh nay không sinh tín tâm. Cho nên người năng tin thì bất khả tư nghì. Sớ văn thiếu tám chữ, ý sớ nói: Đã nói “ở trong Đại chúng”, lại nói “không sinh tín tâm”, cho nên biết: đã là chúng kết duyên. Cho nên năm ngàn người tuy bỏ đi mà đã nghe lược nói. “Không lâu”: ý cũng chỉ lợi ích của người hoằng kinh. “Kinh Kim Quang minh…”: quyển bảy nói “hai hạng người”: 1. Thâm tín Đại thừa Phương-đẳng. 2. Hủy báng, không sinh tin thích. Người không sinh tin thích cũng được kết duyên, cho nên dẫn làm ước lệ.

Trong phần “Chánh rộng thuyết” chia làm hai: Trước nêu rộng để khai lược. Tiếp chỉ rộng liệt kê tướng chương. Văn đầu lại có hai: 1. Đối lược khai chương. 2. “Câu trên…”: lược chỉ nguyên do rộng. Tiếp “Sáu là”: chánh chỉ tướng rộng, trong đó lại có bốn: 1. Liệt kê sáu chương. 2. Sinh khởi sáu chương, cũng gọi là ý chương. 3. “Trong năm chương…”: là chỉ năm Đức Phật có không. 4. “Lại sáu…”: là nêu đại thể sáu chương: Sinh khởi rõ ràng đại thể tùy thời, dùng sáu nghĩa đây cùng thành Đại chỉ khai hiển. Nói “lược mà không thiếu…”: năm đức Phật xen nhau lược xen nhau tồn không thiếu. “Đến” là nơi đến, cộng thành Nhất hóa đâu cần liệt kê nhiều phiền phức. Như ba đời Phật chỉ đều có hai chương, lẽ nào chẳng phải lược tối đa? Cho nên trong sáu chương khai hiển hai chương “lược mà không thiếu”. Nay Quyền đến Thật mà lược bỏ bốn chương khiến văn không nhiều. “Trước sau cũng không còn v.v…”: ý nói “không còn”. Điểm quan trọng trong sáu chương chẳng gì bằng khai hiển. Trước sau xen nhau không còn bốn chương kia, nhưng nghĩa ở sáu chương chung thành một ý. Cần phải nói đầy đủ đại thể để biện rõ lý không thứ lớp v.v… “Nay chỉ…”: là tổng, nguyên do trong chương Phật chỉ bốn mà không hai, tức bốn là chánh, hai là phụ. Phải biết năm, sáu thành tựu ba, bốn cho nên lược chỉ. Lại trong bốn trước thì ba, bốn là chánh; một, hai là trợ thành, cho nên chương Tam thế đều chỉ ba, bốn. Đức Thích-ca hóa chủ đời ngũ trược, vì thiết lập ba, cho nên lại thêm, chỉ thiếu một đoạn văn tán thán pháp thôi! Tóm lại mà nói ắt phải đầy đủ sáu, vì tránh văn rườm rà cho nên phải chỉ xen nhau.

“Hơn bốn mươi năm”: Luận Pháp Giới Tánh của ngài Bồ-đề Lưuchi nói: Sau khi Phật thành đạo bốn mươi hai năm mới nói kinh Pháp Hoa. “Cửu cửu, hy sơ”: Trước lúc ấy không phải không có chỉ riêng hiển thuyết cho nên nói “hy sơ” (thưa thớt). Như Kinh Hoa Nghiêm nói Phật tuệ cách Tiểu đới Thiên, trải qua Tam-muội nay mới riêng thông suốt, đây có hai ý: 1. Lâu (Cửu) mới nói. 2. Đúng thời mới nói. Tuy liệt kê ba thứ: người đã có thể kham v.v…, mà ý nói ở thời vậy.

Hỏi: Thời Phương-đẳng Bát-nhã tuy có “đới đối” cũng nói Phật tuệ, vì sao gọi là “hy sơ”?

Đáp: Đây căn cứ nhị thừa độn Bồ-tát mà nói. Đầu ở thời Hoa Nghiêm mà không nghe, tiếp nơi Lộc uyển mà chứng nhập, sau ở nơi hai vị mà không dùng. Nay bắt đầu được nghe thì thành “hy”. Các Bồ-tát lợi căn sao từng không nghe? Chỉ dùng tăng tiến để làm lợi ích của kinh này. Nếu căn cứ Bản môn thì chẳng phải trong đây tán thán.

Hỏi: Nếu vậy thì Hoa Nghiêm cùng hai tô (Sinh tô và Thục tô) đều nói Phật tuệ, đâu chỉ có Hoa Nghiêm đã nói Phật tuệ?

Đáp: Hai tô đều có, chỉ Hoa Nghiêm tuy kiêm Phật tuệ khá thuần, từ thuần được tên.

“Ưu-đàm hoa”: Tân dịch Ô-đàm-bát-la, Trung Hoa dịch là Thụy ứng. Kim luân vương xuất hiện thì đại hải giảm bớt. Kim luân lộ hiện thì hoa này mới sinh, điềm báo trước làm Kim luân vương. “Điều thục”: Cũng có thông biệt. Thông thì hai chữ thông nơi hai vị. Biệt thì “Điều” nghĩa là điều phục bài bác như Phương-đẳng, “thục” là thành thục, tức nói thêm. Trong cụm từ “Đề-hồ vân vân”, thì “vân vân” là: Rộng căn cứ ba vị, nêu nguyên do không nói, như các văn trên cho nên không lập lại. Trong cụm từ “gọi là “Linh” vân vân”, thì “vân vân” là: Nên nói “linh” tức linh thông bởi vì thông tất cả. Tùy nghĩa tiện cho nên “Linh tự tại sau”. Từ danh tiện cho nên “Linh ứng tại trước”. Có thực hành pháp quán đây cho nên được Phật thọ ký, cũng gọi là “thụy” (điềm lành). Có thực hành pháp quán đây thì sau mới đắc quả, cho nên gọi là “hoa”. Tam quán thành rồi thì chân nhân mới hiện. “Ba ngàn” là tiêu biểu thật có thể bao gồm. “Lý này…”: là lý giáo hạnh nhân.

Nói “trái, ngược”: Dùng “trái” dùng “ngược” để giải thích “thuận, chánh”. Do xưa trái ngược nên nay trái ngược. Xưa nghịch tức thuận thì sao trái ngược ư? Đều nói “chí”: thật là cùng cực. Như “chí” đến kinh này thì không quá trên, cho nên đều nói “chí”. “Trở lại chỉ…”: là giải thích ý khuyên tin. Vì sao khuyên tin? Vì muốn nêu “xưa thô tức diệu”, sợ chúng sinh sinh nghi cho nên dự định khuyên răn. Nói “bốn thứ”: Chỉ trên đã nêu “Lý này” trở xuống là bốn văn, cho nên nói “khách làm…” mà không nói “người ….” chỉ nói “bốn thứ”, vì nói “khách làm” mà bao hàm bốn thứ. Cho nên tổng làm xuyên suốt. Sở dĩ xưa để “khách làm” nay thành bốn thứ của con Trưởng giả. Lại không sửa đổi hoàn toàn thành bốn thứ diệu, cho nên nói “việc các ông làm…”.“Tin không có v.v…”: là thời Phật tại thế mà còn chỉ dùng nhân (người) hiển pháp. Đời mạt pháp lẽ nào có thể pháp diệu nhân thô? Nếu nói Đại quyền ắt không dùng thiện mà lạm xen nơi ác. Thần dù sai khác, Tích đều siêu vượt hai đường. Thế gian nói siêng học không bằng chọn thầy, cho nên nói “Các ông nên tin lời Phật dạy”. Đầu tiên nêu Phật đạo cực kỳ khó biết, là ý thiết lập quyền. Bởi vì trong các giáo không thiết lập danh, nay muốn nêu “khai” cho nên trước trình bày sở khai, tức là sở thi (thiết lập). Cho nên Huyền Văn nói: Vì Thật mà thiết lập Quyền, thì ý tại nơi Thật. Khai Quyền hiển Thật thì ý tại nơi Quyền. Phải biết dùng Thật làm Quyền, Quyền gọi là ẩn Thật. Khai Quyền hiển Thật, ngoài Thật không còn có gì khác. Ẩn cùng hiển lợi tại tình thức của chúng sinh, thường trụ nguồn gốc chưa từng tăng giảm, cho nên trước chưa khai, chẳng những không nói “hiển thật” mà cũng đều không nói “thiết lập Quyền”, cho nên nói “thích hợp Quyền”, tức cần hiển Thật. Nên biết đây là thủ đắc tông chỉ của Pháp Hoa, nguyên do của Thật giáo, là chỉ quy để giải thích nghĩa, phủ tạng của các hạnh. Nếu không thể nghiệm được mà chỉ thi hành vận dụng suông, hễ đạt đến ý đây, thì đều là người siêng năng. E rằng học giả tông này lạc mất ý chỉ của Kinh.

“Vì sao vậy?…”: ứng giải thích chư Phật. Nói “Ta dùng…”: là dùng “ta” để giải thích kia. “Mượn đây”: Đã đem tự Quyền mà giải thích kia. Chữ “tá” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “tử” và “dạ”, đọc khứ thanh, có nghĩa là “mượn”. Ý chính là dẫn kia chứng minh đây, cho nên tạm dùng đây giải thích kia, ý cũng nêu đạo đồng. Kia đây đều thiết lập khai. “Pháp đó…”: Nếu kết khai Quyền thì hai chữ “pháp đó” chỉ các pháp diễn thuyết trước nay. Trong phần “Nêu Nhân pháp” nói: “Nêu vô phân biệt pháp” là đem “pháp đó” trước nay mà hiển thật pháp, cho nên nói “pháp”. “Chỉ có chư Phật” là nêu “nhân” (người). Chính là pháp trước nay cho nên nói “năng biết”. “Trừ chư pháp…”:

Nếu vậy thì ngoài Pháp Hoa ra, đều là ma sự ư? Không như vậy, chỉ vì Quyền trong các giáo trước thì ma cũng nói được, chỉ một Thật đây thì ma vĩnh viễn không lường tới được nên đều nói “trừ” đó thôi! Cho nên mê hoặc A-nan thời cũng nói trung đạo, chỉ trừ ma kia mà khai pháp kia. “Chẳng phải năm, bảy, chín…”: Vì ba, năm… đều là phương tiện, cho nên đều nói “chẳng phải”. Tam tạng Tam thừa thêm Nhân Thiên là năm, thêm Thông giáo Nhị thừa là bảy. Chỉ hội Nhị thừa, tại sao nhị thừa ư? Do công nhị thừa và Nhị thừa trong luận Bà-sa hoàn toàn sai khác, Bát-nhã không cùng Nhị thừa kia, cộng cho nên nay hỏi. Nếu Tam tạng Tam thừa không cần hội nhập thì bốn thềm bực của Bà-sa tức là quả cứu cánh viên thường? Hoặc chỉ trở về quả này tức là cộng Phật của kinh Đại Phẩm, vì không làm vị Diệu-giác của kinh Anh Lạc? Hay là quả Phật giá-na của kinh Hoa Nghiêm? Thêm Thông, Biệt Bồ-tát thành chín. Nếu nghĩa phân chia Hạnh, Hướng thì mới thành mười một. Các thứ đây đều là cái khác của “bị hội”. Bởi vì hợp các cái khác cho nên gọi là một. Một thể thâu nhiếp các cái khác, nên gọi là Đại. Đại tức Viên diệu Nhất thừa của kinh này. Vị đây cùng viên Hoa Nghiêm đồng.

“Nghi thức”: là chỉ dùng tướng khai hợp làm pháp thức oai nghi. “Nay khai tam”:, là khai tam tại xưa. Mà nói “nay”: Chỉ nay nhất hóa, từ Nhất thừa khai cho nên gọi là “nay”. “Như trong Thích luận…”: Đầu văn vừa nói “chư Phật đại sự”. Nay văn lại nói “Vì sao gọi là chư Phật đại sự?…”. Phật sở tôn trọng cho nên thường nói đó, cho nên dẫn làm ước lệ. “Vân vân” là: Luận lại có văn, cũng nói như vua ưa lập con ruột của mình làm Thái tử, gọi là “luôn luôn cho…”.

Tiếp trong Nêu hiển thật, xưa dùng bốn Nhất đây để hiển thật. Nay dùng bốn thứ: Khai, thị… đều là Lý nhất. Sư xưa không có, chỉ vì người nói người thọ đều nương trên lý mà lập nhân quả. Sư nay ở đây lập Nhân quả môn để giải thích khai…, vẫn không bằng ngài Quang Trạch, ở trọng Biệt tựa dùng Bản tích môn mà giải thích bốn câu, Biệt tựa tuy là tựa Tích môn vẫn ở đầu một bộ, lẽ nào ban đầu Pháp thuyết lại phân chia nhân quả ư? Lại chánh là “Nhân môn”: từ đệ tử là nhân mà nói. Nói “Quả môn”: từ Thầy là quả xa (viễn), sự thật đó đầy đủ theo như Huyền Văn. Nếu vậy tức trái ngược lại trưng dẫn của sư xưa. Bản môn đã di dời đến Tích môn đây lý hợp như trước, không thể Bản tích lần nữa lại mở ra khiến Bản môn theo nghĩa “dài”. Nếu kia song nêu Bản tích thì nghĩa trong phẩm hỗn hợp, lẽ nào có thể song song nêu, nơi đây dưới biệt sinh nhân duyên, huống chi giải thích Tứ nhất không bằng Quang Trạch. Nói “Phương dưới v.v…”: Là nêu nguyên do bản biệt để trách giải thích xưa. Tháp hiện để chứng minh trước kiêm là sau khởi, cho nên bảo tháp xuất hiện là nguyên do bản viễn, Bồ-tát từ đất vọt lên là nguyên do bản cận. Hai lý do chưa đến thì sao được biện bản?

Tiếp, trình bày Quang Trạch. “Nay cũng không dùng…”: là phá. Đầu tiên làm nghĩa nhân quả trái nhau tức phá tam tuệ tại nhân. “Lại tam tuệ…”: chỉ căn cứ nơi nhân, do nhiều thứ tam tuệ tức giả sử hỏi: Dù dùng tam tuệ mà cần chọn tam giáo, tam giáo tam tuệ còn chưa nhập nơi Thánh vị đương giáo, huống chi Thánh vị Viên giáo ư! Cho nên lại giả sử nói: Nếu là Viên tam tuệ thì địa vị này cũng chưa Khai tri kiến Phật, cho nên hai giáo trước và Biệt địa tiền không có Tri kiến Phật.

“Nếu là tam tuệ khác….”: là kết nạn. Câu đầu kết chẳng phải Tri kiến Phật. “Nếu làm…”: là tự trái mênh chương. Nói “vân vân”: Cần phải biện rộng cái ý không thể dùng, đem giáo và lý để chứng minh ý không dùng. Để phá “Địa sư” thì trước thuật, tiếp phá. Trước thuật nói “Đệ ngũ hằng…”: Kia căn cứ Đại kinh phẩm Tứ Y thứ sáu nói: Thiện nam tử! Nếu chúng sinh nào ở nơi một hằng hà sa chư Như Lai phát Bồ-đề tâm, thì sau mới có thể ở trong đời ác không hủy báng kinh này, ưa thích kinh này nhưng không thể vì người phân biệt diễn thuyết. Ở nơi hai hằng sa chư Phật, chánh hiểu, tin ưa nhưng cũng không thể nói rộng. Ở nơi ba hằng sa chư Phật, thọ trì viết chép, tuy vì người khác nói mà không thể giảng nghĩa sâu. Ở nơi bốn hằng sa rộng nói, trong mười sáu phần thì giảng nghĩa một phần. Ở nơi năm hằng sa giảng nghĩa được tám phần. Ở nơi sáu hằng sa giảng được mười phần. Ở nơi bảy hằng sa giảng được mười bốn phần. Ở nơi tám hằng sa giảng được mười sáu phần, giải thích đầy đủ tường tận nghĩa thú kia, đó gọi là Như Lai thường hằng bất biến. Các câu sau, từ “hai hằng sa” cho đến “tám hằng sa”, mỗi câu đều có cấu trúc tương tự câu đầu (một hằng sa), không lập lại phần giống, chỉ nêu phần khác. Kinh văn trước một hằng sa, lại nói: “Nếu chúng sinh… một sông Ni-liên…” chưa có thể tin thọ, tổng cộng thành chín đoạn. Do sông Ni-liên, gần thành Câu-thi-la, nhỏ hơn sông Hằng. Nói “phát tâm”: Có người nói: Gặp một đức Phật phát một đại nguyện rải xuống một hột cát. Dù gặp nhiều đức Phật mà không phát nguyện, thì cũng không rải xuống một hạt cát. Dù có phát tâm không thấy Phật cũng không rải xuống một hạt cát. Thấy một đức Phật dù phát nhiều nguyện cũng chỉ rải một hạt cát. Một phen phát tâm thấy nhiều đức Phật cũng chỉ rải xuống một hạt cát. Như vậy tích chứa số đến tám hằng sa… là để nêu rõ nhập vị đầu dễ sau khó. Đầu tiên tăng lần thứ nhất tức được tám phần, sau lần này thì chỉ có thể tăng hai phần. Hai lần tăng này như đến Thái úy thì dễ, Thừa tướng thì khó. Nói mười sáu phần: Như thế gian cân mười sáu lạng làm một cân. Cho nên trong Đại luận nói: Phật nói Điệp Phúc ngoại đạo (cho là tài trí hơn người): Ông nếu xuất gia, so sánh với trí tuệ của Xá-lợi-phất thì trí tuệ của ông không bằng một phần mười sáu của Xá-lợi-phất. Phương Tây khi so sánh thì phần nhiều dùng ý đây. Người xưa cho rằng năm hằng sa tại Hiền vị, dùng “sáu, bảy, tám phần” đối với Sơ địa trở lên, đến Thập địa thì dùng đối “mười hai – mười bốn – mười sáu phần”. Phải biết ý xưa nói: nhiều lần phát tâm là tại phương tiện giáo, Thật giáo thì tâm kia không nhiều lần phát. Đối với giáo nay thì không thể nhiều lần phát mà phân biệt khai…, lại căn cứ Hiền Thánh lập vị không đồng.

Hỏi: Kia nhiều lần phát tâm đều nói đối kinh Niết-bàn hiểu được bao nhiêu phần, tại sao phán định là phương tiện giáo?

Đáp: Danh Niết-bàn đã thông, sở duyên sinh giải cũng khác. Dù chẳng phải hai giáo trước, cũng chỉ thành Biệt giáo giáo đạo. Lấy đây mà nói, thì giáo tướng khó biện, huống chi sư xưa đối vị tự hiểu kinh kia.

Nếu ở vị Kiến, Tư, Đoạn thì không thành nghĩa Biệt, không thể Thông vị mà hiểu rõ Viên khai… Nếu đồng thể Kiến, Tư tận thì chẳng phải Lục địa. Cho nên biết hiện tại năng tin Như Lai trí tuệ thậm thâm cảnh giới thậm thâm, lý thì không dễ dàng, Hoa Nghiêm dung thông cực đốn thuyết, còn lạc mất chỉ quy. Pháp Hoa chỉ hiển Nhất thừa, không thể hội đó thành tiệm. Lại có Tiên tuệ khai thiện trị thành, đều có phân biệt giải thích, đều chẳng phải ý nay. Chương An nói: Tam thập tâm là Y thứ nhất, năm hằng sa, Sơ địa trở đi là Y thứ hai đều là địa vị Sư. Ý dùng Y thứ nhất đủ phiền não tánh làm địa vị đệ tử, Chương An cũng tự căn cứ kinh kia để phân biệt địa vị. Nếu phán khai…, thì đây cũng không phải thế. Vì sao? Vì muốn phán xét bốn y cần phải căn cứ bốn giáo, đều không thể dùng đây phán xét là khai… Bốn y thông phàm, khai…, chỉ có Thánh. Thánh lại căn cứ theo Viên. Cho nên bên dưới kết nói “không cùng kinh hội”.

“Dẫn kinh…”: Đại kinh đối Địa tiền là Văn Kiến, tức Biệt giáo địa, sao lại được chứng Thông? Đăng địa nhãn kiến tức Phật nhãn, cho nên Lục địa Tư tận toàn tại Thông giáo. Từ xưa đến nay chỉ biết dùng Địa để giải thích Địa, mà toàn không biện rõ sở tại của địa. Nói “vân vân”: là rộng lập lý giáo để phá sư xưa, lược như thuật trước nay. “Nạn đây đồng trước”: Nạn đồng Quang Trạch dùng tam tuệ. Lại phá tam tuệ cho nên nói “đồng trước”. Cũng lại nên nói: Ngũ trược trước trừ, tại sao chỉ giáo nay? Nếu giáo nay trừ trược thì phải mới thành Thanh-văn. Nếu mới trừ trược thì làm sao tri kiến Phật hiển ư? Uế trừ lý hiển, nạn cũng như vậy.

Tiếp, “Có người…”: hai sư đều dùng Pháp Hoa làm nhập, khiến Pháp Hoa thành cực, khước từ ba lỗi trước, tri kiến Phật đều nơi kinh này. Khai… lẽ nào có thể phân thuộc giáo khác, tức thành giáo khác có Tri kiến Phật? Bởi vậy nói Biệt giáo là Tam thừa Biệt, tức chỉ Lộc uyển. Hai sư đều dùng Thông giáo Tam thừa mà làm Bát-nhã. Nói “ức dương”( khen chê): là căn cứ trong kinh Tịnh Danh chê bai khuất phục Thanh Văn và tán dương Bồ-tát. Đây do không hiểu kinh kia cũng có chê bai khuất phục Bồ-tát, không phải chỉ có tán dương. Cho nên nay tám chữ phán xét hết lý kinh, đó là “chê Tiểu, trách Thiên, khen Đại, mộ Viên”. “Tách ra” cũng như phân ra, như xé lụa, tức bốn câu không thể phân. “Có người nói: Tam thập…”: Thông không có Địa tiền vị tam thập tâm cho nên gọi là “hiệp Biệt”, chỉ nói Sơ địa Lục địa cho đến Thập địa gọi là “bàng Thông”. “Chưa thấy Pháp Hoa kỳ dị”: Kinh khó tư duy, chẳng phải phàm phu lượng được, căn cứ Thánh tán thán lựa chọn Thầy trò có thể biết, nay y nghĩa phụ văn lược. Có mười cặp để biện rõ tướng đặc thù, cùng Nhị thừa cận ký khai Như Lai viễn bản. Tùy hỷ tán thán người thứ năm mươi, nghe được lợi ích đến nhất sinh Bổ xứ. Thích-ca chỉ Ngũ nghịch Điều-đạt làm bản sư, Văn-thù dùng Long nữ tám tuổi làm sở hóa, phàm nghe một câu đều được thọ ký. Thủ hộ kinh nói công không thể lường, nghe phẩm rồi thọ trì thì vĩnh viễn từ bỏ thân nữ. Nếu nghe đọc tụng mà không già không chết, thì năm hạng Pháp sư hiện thâu hoạch tương tợ, bốn hạnh an lạc mộng nhập Đồng luân. Nếu não loạn thì đầu bể thành bảy phần, có cúng dường thì phước hơn mười hiệu, huống chi đã, nay, sẽ nói sự tuyệt diệu một đời giáo hóa. Tán thán giáo pháp kia bảy thí dụ xưng tán. Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất A-dật-đa không biết một người. Phương Đông Liên Hoa Long Tôn Vương chưa biết tướng Bản, huống chi Tích hóa nêu ba ngàn chấm điểm. Bản thành dụ năm trăm vi trần, bản tích sự ít hiếm các giáo không nói, như văn đây… căn cứ theo kinh vẫn có, lại y ý chỉ trước nay thì chẳng có gì cho là kỳ lạ.

“Có người dẫn Hoa Nghiêm…”: ý người khác là lại trách các sư. “Địa tiền có tứ thập tâm” vị, tại sao không dùng đó để giải thích Khai tri kiến Phật, mà chỉ dùng Địa tiền tam thập vị ư? Phá có hai lỗi: 1. Lầm dụng Hoa Nghiêm Thập tín. 2. Hiền vị chẳng phải Tri kiến Phật. Nói “Hoa Nghiêm không nêu rõ Thập tín”: Người xưa cũng dùng Hoa Nghiêm Trụ tiền tu mười phạm hạnh Không, tức nhập Sơ trụ, đem mười phạm hạnh Không đối với vị Thập tín. Nay văn phá là kinh không có tên “Tín”, nên nói “không có”. Các vị theo “Nhiếp Đại Thừa luận” thì đầy đủ như Thích Tiêm dẫn. E rằng: chính là “Thập địa luận”, dư chữ “thất” trong cụm từ “Thập thất địa luận”. “Có người…”: là phá, dùng “luận tứ trí”: Sư kia dẫn nói: “Tổng biệt nhất thời”, muốn giải thích bốn câu khiến không có trước sau, không có ý khước từ thành nghĩa cao thấp không đúng (đương). Nay chia làm hai phá: 1. Chỉ nói Tứ trí nhất thời mà không phân vị biệt. 2. Tứ trí tại quả khai… thông nhân. Do đây không đúng, nên nay không dùng. Lại căn cứ Chỉ Quán dẫn luận Tứ trí, do nhân quả kia đều có tổng biệt. Nếu chỉ chỉ quả Tứ trí thì địa vị cao. Nay lại thẳng dùng quả trí để trách kia. “Tứ trí”: Nghĩa là Đạo tuệ, Đạo chủng tuệ, Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí. Tứ trí này tại quả nhất thể đầy đủ. Nếu bốn thứ: Khai, v.v… là trong dọc mà luận ngang thì phải bốn vị riêng đối bốn trí. Dù nhân quả tương đối đều có tổng biệt, chỉ thành nhân quả, tại sao gọi là “khai”?… “Có người nói phi Không phi hữu….”: Ý dùng lý song phi hiển làm “Khai”, chẳng xuất không hữu, phân minh chỉ lý năng không năng hữu, cho nên gọi là “Thị”. Thấy không hữu này không lìa lý mới chính là “Ngộ”. Lại hiểu lý đây không hai mà hai, mới gọi là “Nhập”. “Người này…”: là ý pha: Nói “không hữu” là “căn cứ hai đế”, tuy làm bốn lớp mà chỉ là hai lý không hữu mà thôi! Thất lý sâu cạn, mê thể không hữu, chỉ liệt kê không hữu, uổng phân làm bốn lớp cho nên không có Thể trung đạo, uổng dùng song phi, không xuất nhị thừa, e rằng liên quan đến Thông giáo.

“Có người nói: Đạt tam đế…” Tuy nêu tam đế mà không biện điều hòa, tức mặc cho phân mở. Biệt nhân sơ tâm đâu từng không thấu đạt lý tam đế, gọi đạt là khai mà không gọi khai! Đến địa vị Thập hạnh phân minh thấy giả, đến Hồi hướng vị quán không có một và khác. Nếu nhập Sơ địa thì mới thuận dòng pháp, như thế đâu có thể tránh được Biệt nghĩa, cũng chưa có thể biện rõ tướng biệt của Khai…, chẳng phải sơ tâm rốt ráo không biệt cho nên không phải Phật giới.

Tiếp, “Có người giải thích…”: Dùng tổng biệt tứơng để giải thích “Tri kiến”. Người này không biết luận nói: “Nhất thiết trí là trí Thanhvăn, không nên lấy đây làm “Tri” (biết), Nhất thiết chủng trí ở sau hai trí thuộc Biệt Phật trí, không nên lấy đây làm Viên Phật “kiến”. Lại người xưa nói “Kiến” nhất thiết, tiện lấy làm tổng, do có nói “chủng” bèn phán làm biệt. Đây cũng không thấy văn Đại luận nói Viên. “Thích luận nói….”: Vì muốn người dễ hiểu cho nên phân thuộc ba hạng người, so sánh kia phân ba điều Đại tiểu nhân quả, thì hoàn toàn sai khác, vì sao đem giải thích Viên Phật tri kiến? “Có người giải Tận trí….”: “Tận, Vô sinh” là tên xuất từ Tam tạng, nói Vô sinh hơi thông nơi Tam. Nói “căn cứ thanh tịnh” đều phán thuộc Thông Phật. “Như trên…”: Đều không thấy đại ý Pháp Hoa. Tổng thì như Huyền Văn, đại ý mới rõ. Lược thì như sớ này giải thích phẩm Phương Tiện, đến đây chỉ biết nghĩa Phật tri kiến.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10