PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 05

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

 

(Phần Thượng)

“Pháp Hoa luận nói…”: dẫn luận để giải thích:

Luận có ba văn: Văn thứ nhất: Căn cứ Tam thừa, ý muốn Nhị thừa cùng Bồ-tát thừa đồng đắc đồng có. Trong đó có hai phần: Trước, là dẫn luận. Tiếp, “Luận nói…”: là giải thích ý luận. Nói “thứ lớp”: là để khiến giải thích theo thứ lớp không trái. Căn cứ luận văn ý, thì “câu thứ nhất”: lấy “Vô thượng” làm “Khai”. Luận văn lại nói “Phật tri kiến”: Như Lai năng chứng như thật Tri (biết) nghĩa kia. Kinh văn đã nói: “vì khiến cho chúng sinh”. Nếu chỉ Phật chứng biết thì tại sao nói: “Vì khiến cho chúng sinh”? Cho nên chẳng phải nay giải thích, nghĩa không thể thông. “Câu thứ hai”: “Thị” đồng có “Vô thượng”. Đầu luận văn chỉ nói Nhị thừa cùng Phật Pháp-thân đồng đẳng, cho nên trong đây giải thích nói “tam thừa”, không riêng Bồ-tát cho nên đem Bồ-tát hợp Nhị thừa giải thích, tức là tam thừa Pháp thân đồng Phật. “Câu thứ ba”: khiến cho biết vô thượng tức là “Ngộ”. “Câu thứ tư”: chứng Vô thượng nên gọi là “bất thoái”, chứng chỉ là đắc, tức nhập Sơ trụ. Ý luận dùng ba câu trước cùng khiến đắc nhập địa vị Sơ trụ. Đầu tiên “Khai”: Chỉ cho thấy sở tri kiến là Vô thượng. Tiếp: “Thị” (chỉ) cảnh đây đồng có. Tiếp, khiến “Ngộ” đồng có. Tiếp, khiến “Nhập” cảnh đây cho nên nói Bất thoái. Đã trước căn cứ Nhị thừa cùng Bồ-tát đồng chứng, cho nên biết ý kinh trước tại Nhị thừa, nên luận văn không phân chọn định tánh, huống chi luận nói chưa thuần thục tức sẽ thuần thục, sẽ không phải không có, cho nên không được nói không có.

Văn thứ hai: Căn cứ Bồ-tát: Nghiệm biết Bồ-tát cùng Nhị thừa phải hội, nếu không cần hội vì sao biệt lập một giải thích đồng Nhị thừa? Trong giải thích câu đầu, luận không có biệt giải thích. Nay nói “như trước” là cùng Người nhị thừa đồng đắc. Độn đồng nhị thừa, bởi có nguyên do, cho nên biết trước lúc ấy chẳng phải vô thượng. Trong giải thích “Thị”, nói “Bồ-tát có nghi thì khiến biết như thật”, cho nên biết trước lúc ấy hiêp nghi chẳng thật. Nghi thông hội biệt, lý không nên như vậy. Nếu không được hội, thì lẽ nào “biết được như thật”? Huống chi biết như thật thì vẫn phải tu hành. Trong giải thích “Ngộ”, nói “Người chưa phát tâm thì khiến phát Bồ-đề tâm”, nếu không phát tâm thì không gọi là Bồ-tát. Cho nên, biết rằng: trước lúc ấy thì được gọi là Bồ-tát mà chưa phát Viên tâm. Trong giải thích “Nhập”, nói “Người đã phát tâm thì khiến nhập pháp” cho nên “người chưa phát tâm”: là chỉ Tạng, Thông. Nói “đã phát”: phần nhiều chỉ Biệt giáo. Trong Biệt giáo Tri tuy tương tợ “đã phát” mà không nhập chứng đạo, cho nên cần phải “khiến nhập” Phật tri kiến. Nói chánh duyệt xem quyền. Phải biết tam giáo Bồ-tát có nghi chưa phát, chưa nhập chân thường. Do đó luận văn hiện khiến Bồ-tát khai thị ngộ nhập, mà khổ cho ông không chịu trái với luận văn.

Văn thứ ba: Căn cứ phàm phu để giải thích. Trong luận cũng không giải thích câu “Khai”, nay cũng chỉ đồng văn thứ nhất, cho nên biết phàm phu cùng tam thừa đồng. Câu thứ hai tuy giải thích kia nói hoàn toàn đồng nhị thừa trong câu đầu và câu thứ hai. Đến câu thứ ba mới khác hai giải thích trước, cho nên biết phàm phu cùng tam thừa đồng có Pháp thân Phật tánh. Hai câu dưới nói “phàm phu cùng tam thừa biệt”, do ngoại đạo chấp thường, tất cả chúng sinh chưa biết Bồđề. Đã là phàm phu riêng một phen giải thích, cho nên biết không đắc (được) địa vị sâu xa để giải thích kia. Cho nên giải thích-câu “Ngộ” nói khiến giác ngộ, câu “Nhập” khiến nhập Bồ-đề. Nên biết phàm phu bất giác bất tri có vô thượng pháp cũng chưa từng phát Bồ-đề tâm mà đều nói cùng tam thừa đồng. Cho nên biết ba phen nhân (người) khác nghĩa đồng, vì vậy nêu câu đầu đều có thể nghĩa đồng.

Tiếp, trong câu thứ hai giải thích Bồ-tát, nói “khiến biết như thật”. “Như thật” chỉ là tên khác của Pháp thân, đây cũng là tên khác nghĩa đồng. Câu thứ ba: đối Nhị thừa không biết, cho nên nói “khiến biết”, đối Bồ-tát đã từng phát tâm thì khiến lại phát tâm, đối phàm phu thì khiến khác ngoại đạo, cũng khiến ngoại đạo ngộ. Đây thì nghĩa khác ý đồng. Trong câu thứ tư: đối Nhị thừa thoái đại thì nói “Bất thoái”, đối Bồ-tát đã phát mà chưa nhập thì nói “nhập pháp”; đối phàm phu chưa từng phát thì trực tiếp nói “Đại đạo”. Nên biết chỉ là một Tri kiến Phật vì muốn đây… nhân khác khai đồng, cho nên biết nêu tam thừa và dụng phàm phu, thâu tóm căn cơ hết sạch. Bao trùm nói chúng sinh gồm thâu lục giới tam thừa đối thật tức Thập pháp giới giải thích. Nếu căn cứ chỗ hướng đến thì chỉ một Phật giới, tức căn cứ Phật giới giải thích. Ba phen nghĩa biến khắp tức căn cứ vị giải thích. Phật giới đối chín giới lại thành ly hợp, huống chi luận giải thích bốn câu cùng nay bốn giải thích vị v.v… nghĩa đồng. “Luận mỗi một câu giải thích”: Luận trong ba giải thích mỗi một câu biệt giải thích. Nay giải thích đầu lại tách làm bốn, tức thành ba phen đều có bốn giải thích, chỉ nêu Nhị thừa để so sánh các thứ còn lại, cũng là nêu khó so sánh dễ, vì Nhị thừa khó.

Nay giải thích đầu: Trước thuộc đối luận văn. Đầu tiên dùng chứng Bất thoái chia làm bốn vị để giải thích, tức luận câu thứ tư. Đã nói bất thoái, tức khai thị ngộ nhập đều là niệm bất thoái. Tiếp nêu Phật sở chứng đắc làm bốn trí để giải thích, tức câu thứ nhất luận nói: “Trừ Nhất thiết trí ra thì không còn có sự nào khác nữa”. Tiếp, do nghĩa đồng tức câu thứ hai luận nói: “Nhị thừa Pháp thân bình đẳng hoàn toàn không sai biệt”. Nếu không quán tâm thì làm sao biết đồng? Tiếp, do “không biết xứ cứu cánh”, tức câu thứ ba. “Xứ” là sở thông, nhị thừa không biết, nay vì khiến biết. Biết là môn, môn là năng thông, cho nên làm bốn môn giải thích. Nhị thừa đã vậy, Bồ-tát, phàm phu theo lệ đều như thế, vậy thì ba loại đều cần Viên giáo, giáo môn lấy làm năng thông. Nhập quán tu trí mới có thể đến vị, tri kiến Phật cảnh. Nếu làm các giải thích khác, nói: “Vì làm tốt.…”, thì chỉ uổng thiết lập và tri kiến Phật tại đâu? Cho nên một nhà giải thích nghĩa y kinh, thuận luận, khế hạnh, đắc lý, ý Phật xuất thế lẽ nào không như vậy ư? Nay giải thích ý Phật lẽ nào có thể trái ư? Nếu mở sâu vị Địa thì phàm phu chẳng mong đợi, nếu trừ hai chương mới nêu rõ “khai” thì “thị…” ba chữ còn lại đều tại Phật địa. Đây giáo còn chẳng phân Địa tiền thì làm gì có lợi ích phàm phu Tiểu thừa ư!

Trong câu “Nay làm bốn môn giải thích vân vân”, thì “vân vân” là: Cần phải dựa theo nêu ngang dọc để giải thích ý, do trình bày ngang dọc dùng luận văn, cho nên trong luận ba giải thích mỗi mỗi theo dọc giải thích. Nay trong mỗi mỗi giải thích câu câu ngang dọc, khiến luận bốn câu cũng thành ngang dọc. Tuy có ngang dọc mà ý tại bất nhị. Tiếp, “Nay giải thích…”: là văn nay chính giải thích. Trước, lược đối xưa nay. Tiếp, “Nếu vô lượng…”: nêu dụng ý nay. Dẫn văn giải thích thành dùng luận phế lập. Ý đầu: Xưa nay, tương đối, tức rộng trong lược. Đầu nói rộng: Nói ít ý bao hàm. Đã hiển thật rồi, thì phải biết các pháp thảy đều là thật, như nay Thập diệu chính gọi là ở giữa (Trung đạo), chỉ trong danh kia mà nghĩa thì rộng; hiểu rõ văn hiển thật giống như khó dụng, cho nên lại thuận xưa, giữ lại Tứ nhất tức là rất lược. Tiếp, dùng ý nay: Rộng thì tâm trần hạnh pháp nhân lý đều Nhất thật, nơi giải thích môn thái quá trở thành thông lạm dụng, chỉ có thể quan sát chiếu, cho nên nói “có thể biết”. “Nếu làm…”: là thuật Thập diệu nay tuy không hiểu rõ câu mà đối nghĩa chẳng phải không có, cho nên trước dẫn kinh đối mười khiến thấy.

Hỏi: Vì sao kinh văn không nương Thập diệu khước từ tạp loạn?

Đáp: Sáu thứ Lý, Trí v.v… kinh đã có thứ lớp, chỉ bốn văn sau tuy tương tự mà trước sau nghĩa đều sâu tột cùng. Vì sao? Vì nếu cảm ứng thì có quyến thuộc, quyến thuộc nhận lấy ngộ thông để phát khởi. Thấy thông, thâu hoạch lợi ích bởi do thuyết pháp. Y Huyền Văn thứ lớp tự là một đường, sáu thứ không thể siêu vượt kinh văn rõ ràng.

Đầu tiên nói “phi tư lượng v.v…”: đối “Lý nhất” là Sở tư vậy. “Duy có chư Phật”: đối “Trí nhất”, là năng tri vậy. “Chỉ vì một đại sự….”: Văn nghĩa đã đầy đủ ba, lý cần phải phân biệt, văn tuy đủ ba mà ý lời tại một đại gia sự. “Sự” tức nhân quả, cho nên nói nghĩa tiện, chính là Hạnh nhất. Lại trí năng chiếu cảnh mới đạt cảnh đại, cho nên “Đại gọi là trí, lấy sự làm hạnh”. Có hai ý kia: tự hành và hóa tha đều gọi là “sự”, nay hóa tha cho nên là đại sự Phật xuất thế. Nên biết: đầu tiên là phân biệt giải thích, dùng phân chữ ở trước để giải thích ý, tiếp là theo nghĩa tiện, dùng tổng giải thích ở trước. Ở trước tuy có hai giải thích, mà tổng giải thích thì dễ thấy, cho nên nay dùng.

Tiếp “Tri kiến…”: ý chọn kinh văn từ “Muốn khiến” trở xuống, làm Vị nhất. Trong văn chỉ nói tri kiến. Vì trong mỗi câu kinh văn đều nói “Tri kiến”, tức năng tri kiến đã thuộc Trí Hạnh, Sở kiến đế lý đã thuộc Lý nhất. Tuy không phân biệt Tri kiến sâu cạn mà lại dùng Khai v.v…, đối vị đều sai biệt, cho nên thuộc Vị nhất. Tiếp, “Lại chọn kết văn” đối ba pháp Nhất. Lại dùng văn trước xem ý mà nói cho nên nói “Lại” (hựu). “Lại chọn các câu” trở xuống: là nói “xuất hiện”, là “Cảm ứng nhất”. Bốn câu đều đồng, tùy nghĩa cho nên biệt, đều là cảm ứng. Bốn cái Nhất còn lại thì có thể biết. “Kinh văn…”: là ý phế lập, tuy hiểu rõ văn không dùng nghĩa mà lý chẳng phải không, cho nên trong ba còn lại mà dùng lược. Từ “Nếu lược…” trở xuống, là muốn dùng xưa lược, lại luận bỏ chọn phân biệt lược nghĩa, còn số. Trong đó trước lược sau còn. Ban đầu phế bỏ quả lập lý, xưa dùng bốn câu đồng là Quả nhất, tuy dùng quả làm lý danh không biệt rõ nên cần phải phá mà biệt lập lý. Cho nên, y đạo lý, không có lý thì thuộc ma. Đã trong mỗi câu đều nói “Tri kiến”, cho nên sở tri kiến lẽ nào chẳng phải Lý nhất. Tiếp, “phế bỏ nhân lập hạnh”: Hạnh thì thủy chung, tức là nhân quả. Chỉ điểm Hạnh nhất tức thâu tóm hai nghĩa, tuy phế quả xứng mà chính ở Hạnh cuối cùng chỉ thêm Lý nhất làm căn bản của Giáo v.v…, khiến lý danh thông thuận với nghĩa của bốn: Khai v.v… Tiếp, “Nhân nhất…”: còn hai nhất kia.

Tiếp, chánh giải thích: Trước nêu “Lai ý” nói “Lại theo lược”, đối “Thập…” mà nói cho nên gọi là “lược”, “Thập….” vẫn còn cho nên gọi là “thả (lại)”. “Trước, giải thích Lý nhất” tự làm bốn nghĩa, nay lại làm ba: 1. Liệt kê. 2. Chánh giải thích. 3. “Sở dĩ…”: là kết yếu quy tông.

Trong phần Chánh giải thích, đầu tiên căn cứ bốn vị: Tức các bậc đối tượng của Nhãn trí, trong đó phân làm tám để xuất văn tướng.

1. Nêu như văn.

2. “Đế cảnh…”: là dùng sở y năng dụng để hiển rõ đối tượng liên quan đồng thuật “Lai ý”. Nhưng đây Tứ nhất căn cứ dưới tiêu văn đều có hai hướng: đều từ một bên, tả hữu xen lẫn nhiếp dùng biệt Tứ nhất. Cho nên, bốn tương vọng còn đều đầy đủ bốn, huống chi hai hướng ư! Vì sao? Nếu như sở tri làm lý, thì năng tri thuộc trí, năng thọ theo là Người (Nhân), năng thuyên là giáo, nay văn đầy đủ hai. Vả lại theo lý, cho nên nói Lý nhất. Nay hiển lý đây, lý không riêng hiển mà dùng trí môn quán tam, trải qua các địa vị liên quan cùng mới hiển lý. Chính là đem Nhân (người), Giáo, Hạnh ba thứ, trải qua địa vị dùng lý quán tâm là Người, bốn môn là Giáo, bốn trí là Hạnh. Ba thứ tướng do phá lậuhoặc nhập vị, dần dần đến lý. Nếu vậy về sau ba tướng thành thì cũng có thể như vậy. Vì vậy nên nay đầu tiên nêu sở y. Đế không có thể tự hiển bày, trí là năng dụng, do thấy lý cho nên nói “mới có thể”.

3. “Nhị trí…”: là phân chọn năng dụng tiến hay không? Có hai trí, bốn nhãn hay không? Chủng trí Phật nhãn tiến. Tuy thể tương tức mà hiển thù thắng cần phải phân.

4. “Kinh nói…”: Căn cứ vị dẫn văn giải thích nguyên do kia. Chúng sinh nghĩa kiêm Phật quả duy nhất tột cùng, cực quả tri kiến khiến chúng sinh liền đắc cho nên khác các kinh trước.

5. “Tam giáo…”: căn cứ giáo phán xét ý, xưa nay các sư giải thích Phật tri kiến, căn cứ làm chúng sinh thì lý kia không hiển, tự chẳng phải nay thấy ủy xuất cảnh vi diệu, tâm chúng sinh và Phật đồng một thể không sai khác, xin biết là chúng sinh có tri kiến Phật, cho nên căn cứ giáo phán xét thì lý kia rõ ràng. Trong đó trước xuất người năng tri kiến. “Lại phân đắc…”: là nêu rõ chúng sinh “khai”, hạn cuộc nơi Sơ trụ thì mới gọi là “khai”.

6. “Cho nên ký…”: là kết ý, đều là chứng vị Tri kiến Phật.

“Như điềm lành…”: là nêu sở biểu, sau định tuệ dựa vào mưa bốn thứ hoa, có thể tiêu biểu đồng quy trải qua bốn vị. Hoa đều tán Phật đến quả bất hư, lại tán đại chúng người thừa vị.

7. “Khai…”: chính giải thích, có hai: Đầu, chánh giải thích. Sau, “Nhưng Viên đạo…”: là dung thông.

Trong phần đầu “giải thích Khai” có hai: Một, lược đối. Hai, “Vì sao…”: là chánh giải thích. Trong đó lại có năm:

8. Nêu chướng của vị, Thông hoặc là Kiến, Tư, Biệt hoặc là vô minh. “Thông Biệt hai hoặc” đồng tại nhất niệm, niệm thể tức thị (đúng), thị thể phi lý. Thị sự phi thị, thị phi nhất như đồng thể làm chướng. Hai hoặc không thể phân cho nên nói “khó có thể liễu tri”.

9. “Sơ tâm…”: nêu vị dựa vào chướng, trước Tùy hỷ sơ tâm Viên Tín, là danh tự vị, Viên thọ năm phẩm vị, Viên phục sáu căn vị, đem phàm tâm đây tức vì “phục đoạn” cho nên nói “năng”. Phục thông tín thọ Tín ắt tại đầu, không đồng người đời sơ tâm tức Phật.

10. “Nội gia…”: là nêu gia hạnh trừ chướng, có pháp thí hợp, do hạnh đây nên đắc nhập Sơ trụ. Hợp nói “duyên tu”: tức chỉ trước Trụ.

Hỏi: Nếu nhập Sơ trụ mới gọi là “khai”, thì phải biết kinh này phàm phu tuyệt phần, vì sao không chấp nhận người khác từ vị cao, vì sao luận văn nói là phàm phu ư?

Đáp: Trong bốn giải thích căn cứ trí căn cứ vị, chỉ Thánh mới khai. Căn cứ quán, căn cứ môn mới thông danh tự, huống chi nói: “Vì khiến cho”. Khiến phàm nhập Thánh, lợi ích của kết duyên căn cứ đây có thể biết. Do đó bốn giải thích mới hiển bày ý này: không ngăn ngại địa vị cao, không bỏ phàm phu.

11. Dẫn chứng trừ vị, nói nhập lý nghĩa thông sâu cạn. từ đầu lập xưng cho nên lại nói Trụ.

12. “Trụ nơi…”: là kết sở biểu để lập danh.

Tiếp, trong giải thích “Thị” có ba: 1. Nêu phá chướng thì thể hiển. 2. Nêu hiển thể đầy đủ đức. 3. Kết vị danh.

Căn cứ nghĩa cũng phải như nhập Thập trụ. 1. Văn lược. 2. Đã nhập vô công dụng đạo, dưới… cũng như vậy.

Tiếp, trong giải thích “Ngộ” có bốn: 1. Nêu chướng trừ hạnh thành. 2. “Sự lý…”: nêu thể đức thu khắp. 3. Dẫn chứng. 4. Kết danh.

Tiếp, trong giải thích “Nhập” có năm: 1. Lược không có chướng trừ căn cứ trên hợp có, chỉ hợp với văn trước, cho nên chỉ nói “thể”. 2. “Tự tại…”: là tán thán thể đức. 3. “Tự tại lưu nhập…” là tán Hạnh mãn. 4. Dẫn chứng. 5. Kết vị.

Trong giải thích “Ngộ, Nhập” đều dẫn “Nhiếp Đại Thừa” tức mượn Biệt thành Viên, cho nên trong giải thích Ngộ nói “Lý Lượng bất nhị” trong giải thích “Nhập” nói “Lý Lượng tự tại”. Nên biết trong Biệt không có việc đây. Nếu vậy thì trước trong giải thích Trụ, dẫn kinh Nhân Vương nói: “Nhập lý gọi là Trụ”, căn cứ lệ nhờ Biệt, cũng có thể Thập trụ như lý, Thập hạnh như Lượng. Lượng tức Lý, cho nên gọi là Trụ. Lý tức Lượng, cho nên gọi là Hạnh. “Dung thông”: Vì nhờ biệt nên phải dung thông, trong đó chia làm bốn: 1. Chánh dung thông, tức không còn sâu cạn. 2. “Chỉ như lý…”: là nêu rõ nguyên do sâu cạn. 3. Trong dẫn chứng thì trước dẫn, sau giải thích. 4. Trong nêu Thí có khai có hợp. Trước trong “Khai” nói “sóc vọng” (rằm mồng một): “Sóc” là minh, nghĩa là ngày đầu tháng, “vọng” nghĩa là tương vọng tức viên mãn thời, nhật nguyệt tương vọng. Nguyệt (trăng) chẳng phải sóc vọng mà dựa vào sóc vọng thì trăng có tròn có khuyết, hợp văn có thể thấy. Nói “vân vân”: là nên dẫn Đại kinh Nguyệt Ái Dụ.

Tiếp trong “Căn cứ bốn trí”, đầu tiên biện sai khác, chỉ là trí Viên vị năng khế hợp. Nói “Bất như”: là không đồng, lược giản khác ở khắp. Trong Bát-nhã kia thông Tam giáo, cho nên gọi là “Thông”, nay không y đó, chỉ có nhất Viên đạo, cho nên nói “bất như”, chữ “như” cùng chung gọi. Tiếp chánh giải thích: Trước trong Căn cứ vị đã lược nêu hành tướng. Trong đây nêu lại lần nữa chỉ là trực tiếp thuật mà thôi! Có giải thích, có kết. Trong Thích có hai: 1. Chánh giải thích. 2. “Lại đạo tuệ…”: là lần nữa lại dùng ý của Nhiếp Đại Thừa luận để giải thích, có thể thấy. Đầu văn nói “tuệ nhân trí quả” đều thông tổng biệt, trên nhân quả đều thêm “chủng” cho nên được biệt danh, đều thêm “nhất thiết” cho nên thọ danh xưng “quả”. Đầu tiên nói “đạo”: Cho nên thọ danh xưng “nhân”, tuệ cùng trí nhất vãng lại rõ ràng. Nếu y theo các kinh thì chưa hẳn hoàn toàn như vậy, đầy đủ như Chỉ Quán quyển ba nói. Tiếp “Đây cũng…”: là tổng kết ý văn cũng là dung thông. Nói “kết ý”: Đã thuộc Viên trí, cho nên Lý Lượng tương tức, chẳng phải nhân quả tổng biệt mà nhân quả tổng biệt. Văn trước tuy có nói “Như lý v.v…” mà chẳng phải ý chánh văn. Nay giải thích bốn trí chánh nên dùng đó, chỉ cần dung thông thôi! Như số lượng cảnh Tục đế kia, Như đối với thật lý khế hợp kia; đều gọi là “Như”, tức đều xứng cảnh. Nhưng mỗi một vị đều đầy đủ Nhị trí, Bất nhị, song nhập. Vả lại nương bốn vị, bốn danh thì tiện. Không biệt mà biệt, trước sau lý đồng.

Tiếp, “Căn cứ môn”: Môn đã là giáo, lý nên trước liệt kê. Nay tại đây tức đều có ý kia. Nếu chuyên giải thích bốn thứ này, thì trước là Giáo, tiếp là Quán, sau mới Trí Vị. Trong đây giải thích lý, bốn đều là năng thuyên. Ở trong bốn pháp, thân cận thì liệt kê trước đầy đủ như văn dưới nghịch thuận sinh khởi. Do thân cận trước, cho nên trước là Vị, Trí , tiếp là đến Giáo, Quán. Trong Vị, Trí thì Vị làm đối tượng liên quan, Trí làm năng chứng, thì đối tượng là gần, năng chứng là xa, cho nên trước là Vị , tiếp là Trí. Trong Giáo Quán, chẳng phải Giáo không là Quán, cho nên Giáo trước Quán sau. Trong đó, cũng trước là Chánh giải thích, tiếp là Dung thông. Đầu tiên nói “hoành”( theo chiều ngang): Sơ tâm giáo pháp sở bẩm (thọ theo) đầy đủ bốn, do pháp tương vọng không còn ưu liệt, cho nên gọi là “ngang”. Nên biết Vị, Trí phần nhiều căn cứ “thụ”(theo chiều dọc). Căn cứ Quán mới thành phi dọc phi ngang, thông luận đều là căn cứ phi ngang dọc. Do luận ngang dọc nên Quán môn cũng có sâu cạn. Giáo tứ tương vọng tương tợ cũng là sâu cạn. Trong đây, phần đầu là giải thích, phần tiếp “Năng thông…”: là dùng lý nhiếp giáo, nhiếp tức dung, cho nên trong mỗi môn đều thông Trí Vị. Từ cạn đến sâu, vì trải qua hữu v.v… đều thông nơi quán để đến trú, cho nên môn thành ngang. Tuy đối Khai v.v… chỉ nêu Hữu v.v…, nghĩa đồng khai v.v…, chẳng đối sâu cạn căn cứ Vị khai v.v… Lại trong mỗi một môn đều nói: “Nhất thiết”, Bản hiển xen nhau thông xen lẫn đầy đủ. Vẫn e rằng không hiễu rõ, cho nên dưới lại dùng lý tánh dung.

Tiếp, “Căn cứ Quán tâm giải thích”: Lại nói Đại lược để hiểu rõ Khai… Ủy luận quán pháp đầy đủ như Chỉ Quán. Quán vốn không chướng không cần dung thông, do đó ba giải thích ở trước đầu tiên không thuật lý, cho nên mỗi mỗi giải thích văn sau dung thông, đều là phụ lý, lý là chánh ý văn nghĩa. Quán thân cận dựa vào lý, cho nên đầu tiên luận lý tam đế. “Đó là…”: là kết quy, kết tam quán để quy về Khai… Tiếp, “Sở dĩ…”: là nghịch thuận sinh khởi: Đầu tiên, nêu sở do nơi năng. Tiếp, nêu năng hiển nơi sở. Tóm lại mà nói, tóm bốn giải thích để quy về lý hai. Đã biết bốn giải thích đều giải thích Khai v.v…, nên biết Khai v.v.. mỗi mỗi có bốn lớp, huống chi bốn văn thân sơ, lẫn nhiếp năng sở ánh hiển, đây chính là Giáo, Hạnh, Nhân ba thứ nhờ Lý để biện rõ. Lý đã như vậy, ba thứ còn lại theo lệ như vậy. Cho nên biết nay giống như mượn luận văn mà thầm hợp ý chỉ của luận. “Xưa phương tiện giáo…”: Biệt Sơ địa trở đi dùng phân bốn nghĩa: tức là Sơ địa là “Khai”, từ Nhị đến Lục là “Thị”, từ Thất đến Bát là “Ngộ”, Thập là Nhập. Mà Đới địa tiền chẳng phải tri kiến Phật, cho nên biệt tri kiến không thể tức vì chúng sinh khai. Đã y theo nghĩa Biệt cũng có thể Thông dùng Tam hiền Thập địa thứ lớp đối với nó. Hoặc là căn cứ sư xưa như trước các giải thích phán bốn hằng sa sau trong tám hằng sa, cho nên Biệt tri kiến, Tín phải trải qua nhiều kiếp số có thể đạt đến. Thông giáo Kiến địa là Khai, Bạc địa là Thị, ly dục là Ngộ, đã làm xong là Nhập. Trong Tam tạng giáo, nếu căn cứ Nhị thừa thì chuẩn theo Thông giáo nói. Nếu căn cứ Bồ-tát, thì Sơ kỳ là Khai, kỳ thứ hai là Thị, thứ ba là Ngộ, trăm kiếp là Nhập. Nếu kiêm Thánh vị thì dùng trăm kiếp thứ ba làm Ngộ, tam thập tứ tâm đoạn kết làm Nhập. Hai giáo này từ đầu đến cuối không nêu rõ Phật tri kiến. Vì đương giáo không thể nói. Cho nên nói: Không có và không thể đem bốn bậc của Bà-sa, ba của Bát-nhã, thứ lớp của Anh Lạc để hiểu được Pháp Hoa Tri kiến Phật. Cho nên biết tri kiến với các tên Khai, Thị v.v…, tên có thể thông dụng mà một chữ “Phật” chỉ hạn cuộc ở kinh này. Nếu kia muốn dùng nghĩa Phật thông dụng, thì dùng đương giáo phát tâm đều cầu đương giáo Phật quả, cho nên khiến Khai… cũng được gọi là “Phật”, mà cần chọn bộ chọn giáo mà thôi .

Trong phần “Giải thích Nhân (người) nhất”, nói “Chỉ giáo hóa Bồtát” là căn cứ ý Phật mà nói. “Cùng tử tự nhận mình là khách” là chuẩn theo thứ lớp mà luận. Nay từ Khai mà nói, cho nên gọi là “Nhân nhất”. Giáo, Hạnh căn cứ đây có thể biết. Trong “Hạnh nhất” , ngài Quang Trạch coi đó là Giáo nhất, tức căn cứ nay phân biệt văn cùng Quang Trạch không đồng, chẳng lập danh. Quang Trạch lập danh thì phần nhiều đồng các Sư xưa. Vì Viên cho nên nhiều tức là một sự, sở tác gọi là nhiều, một là sở vi. Một chỉ là Viên, tức là nhiều của một nhà, nhiều không gì không là một. “Cũng có thể…”: là hai hướng giải thích. Căn cứ giáo chủ, thì dùng sáu chữ “chư hữu sở tác thường vi” để nêu rõ ý nói. Ý tại sở vi cho nên nói “một”, sự của một nhà cho nên nói “sự”. Vẫn lấy sở tác làm sự, cho nên nói “giáo hóa”. “Nếu căn cứ hạnh…”: lại căn cứ hạnh giải thích, chuẩn theo ý đầu tiên ở trước. Nếu căn cứ văn trước thì đã dùng Trí làm Hạnh, đến nay giải thích Hạnh thì lẽ ra chỉ đủ bốn trí. Nếu không vậy thì dùng Hạnh ấy làm, Giáo chỉ bốn môn đây cũng như vậy, người năng lãnh thọ lại tu quán trước. Hai nghĩa dưới theo đây, giải thích lý liệt kê đủ bởi do đây. “Nhưng bốn câu…”: nay mỗi mỗi hai hướng giải thích. Nếu luận nghĩa thì có hai hướng, lại y văn nay, xưa cũng không ngăn ngại. Căn cứ xu thế của kinh văn thì sở quy cần phải y giải thích này. Văn thế tuy vậy, nếu dùng thì nghĩa kiêm thì đều đầy đủ bốn nghĩa. Từ “Chỉ dùng một Phật thừa…”: là giải thích Giáo nhất, trong đó trước là Chánh nêu Giáo nhất. Tiếp, “Từ Biệt giáo…”: là nêu “sở vô” trong Giáo nhất. Trước là chánh giải thích. Tiếp là phá ba sư. Trong phá, ngài Quang Trạch cũng còn biết không có bốn cấp Bồ-tát, nhưng Quang Trạch chỉ xưa không nêu rõ, cho nên Huyền Văn có phá.

Đây nói thiên về Hạnh còn bao quát thông biệt, chỉ do Quang Trạch cũng còn không nói thông thừa là Quyền cho nên cần phải phá, huống chi nay lại dùng Bồ-tát mà làm thứ ba. Sư thứ hai giống như Quang Trạch, cũng biết phế bỏ thiên Bồ-tát, chỉ liệt kê ba danh đối với ngài Quang Trạch, điên đảo sai khác đó thôi! “Nếu làm…”: là thông phá hai sư cũng chỉ thành phá Tam tạng Bồ-tát, chưa liên quan đến Thông, Biệt cho nên chưa hoàn toàn đúng. Sư thứ ba đồng với Gia Tường, Gia Tường còn vậy, cho nên đều không biết tam thừa cộng vị và Anh Lạc… thứ lớp hành, là phương tiện Bồ-tát. Nếu không vậy, vì sao Đại Anh Lạc quyển thứ chín nói: Tuệ phẩm trong ba đạo phẩm. Tuệ Nhãn Bồ-tát hỏi Phật rằng: “Thế nào là tam thừa? Phật dạy: Bồ-tát thừa, lại có ba thứ: gọi là Bồ-tát Đại thừa, Bồ-tát Bích-chi-phật, Bồ-tát Thanh-văn. Bích-chi-phật cũng có ba: gọi là Bích-chi-phật Đại thừa, Bích-chi-phật Bích-chi-phật, Bích-chi-phật Thanh-văn. Thanh văn cũng có ba: Thanh-văn Đại thừa, Thanh-văn Bích-chi-phật, Thanh-văn Thanh-văn. Cho nên biết Bồ-tát có ba hạng, là Biệt Bồ-tát. Như trong Đại kinh giải thích biệt năm vị, cũng dựa vào Tam thừa mà phân biệt Bồ-tát vị. Bích-chi-phật có ba là Thông tam thừa. Thanh văn có ba là Tam tạng tam thừa. Lại quyển thứ tám nói: Tuệ Nhãn Bồ-tát nói: Lại có định ý tên là Vô tận môn, siêu vượt Tam thừa thành Bồ-tát hiệu. Đã siêu vượt Tam thừa chính là siêu vượt ba thứ Tam thừa trước, không thể riêng nói siêu vượt thừa thứ ba. Kinh lại không nói siêu Nhị, Tam thừa, lẽ nào chẳng phải Viên giáo Bồ-tát thừa ư?

“Nếu vậy…”: là trong phá có bốn: 1. Phá Tam tạng Bồ-tát còn lại, còn tồn tại Tam tạng ắt tồn tại Thông Biệt. 2. “Nơi nào…”: là phá liệt danh. 3. “Nếu y…”: là ví phỏng hỏi. 4. “Nếu như…”: là kết vấn nạn. “Nay nói…”: là trong chánh giải thích không có các thừa khác… Đã nói không có các thừa khác lại nói hoặc hai hoặc ba. Nên biết ngoài ra không có các thừa khác lại không có hai, ba. Nói “các thừa khác”: Là chỉ Biệt giáo thừa trong Hoa Nghiêm. Đã biết ba vị thì có thể biết Lộc-uyển, tức đồng Tiểu thừa trong sở đối của Phương-đẳng. Cho nên trong văn nay chỉ so sánh xuất Lộc uyển. Cho nên nói huống chi Tam tạng tam! Nếu không làm giải thích như đây thì làm sao có thể hiển bày sự vi diệu của kinh bộ này khác với các kinh khác? Các chỗ khác đã không dùng giáo bộ để giải thích kinh, cho nên biết giáo bộ diệu nghĩa khó hiển bày.

“Chương tam thế Phật đều nêu Giáo nhất, Hạnh nhất”: Trong văn đều nói “Pháp ấy đều là nhất Phật thừa”, nên là văn nói Giáo nhất.

“Các chúng sinh ấy…”: tức văn nói Hạnh nhất. “Sau tổng luận…”: cuối chương Tam Thế Phật tổng nói: Xá-lợi-phất! Chư Phật ấy chỉ giáo hóa Bồ-tát là Nhân nhất. “Muốn dùng…” là Lý nhất. Ở chương tam thế, sau gọi là tổng. Nếu đương chương…, thì chúng sinh tức Nhân nhất, “Chủng trí sở tri tức Lý nhất”, nhưng căn cứ chúng sinh chủng trí thì mới gọi là Hạnh nhất. Cho nên đây đều nêu rõ không đề cập đến dưới hợp. Lại trong chương chư Phật văn đã nói đầy đủ, vì tránh văn rườm rà, cho nên trong ba đời (tam thế) thì hai riêng biệt hai bao hàm. Kinh Anh Lạc quyển mười ba nói “chín đời”, e rằng lầm, tại văn nói mười một. Kinh kia Tịnh Cư Thiên tử hỏi Phật: Nay có quá khứ chư Phật và mười phương Phật, con cũng không nghi, vì sao có chư Phật vị lai! Phật dạy: Ông vì hỏi ba đời quá khứ hay là hỏi ba đời vị lai, ba đời hiện tại? Thiên tử thưa: Con không hỏi quá khứ hiện tại, chỉ hỏi vị lai. Phật dạy: Có hai nhân duyên có vị lai Phật. 1. Chư Phật quá khứ dùng tâm từ bi nhập vào đời vị lai. 2. Bồ-tát vị lai thành Phật. Nay văn y lời đức Phật kia đáp Thiên Tử, thảy đều là đời hiện tại và trước sau đối nhau tự có ba đời, cho nên Phật dùng ba thứ ba đời để hỏi Thiên Tử. Cho nên biết tức có nghĩa chín đời. Nếu Kinh Hoa Nghiêm lại thêm câu “ba đời thuyết bình đẳng” thì hợp làm mười câu.

Hỏi: Hoa Nghiêm vì sao lại nói bình đẳng?

Đáp: 1. Hoa Nghiêm pháp tướng đến mười, khiến số viên (tròn). 2. Muốn nêu ba đời thì khó nghĩ bàn, muốn khiến lý đầy đủ cho nên cần phải mười.

Lại nữa, Hoa Nghiêm nêu chẳng những chín đời cho đến dùng bình đẳng mà nói mười thứ ba đời, cho nên biết trên nói chín mỗi mỗi ba đời, do kia muốn nêu rõ chín, ba chỉ là chín đời, chín đời chỉ là ba đời, ba đời chỉ là một sát-na, sát-na sát-na đều tận quá khứ vị lai. Đây chính là ngắn dài thu nhiếp vào nhau, nay chưa luận việc đó. Lại căn cứ ba đời chín đời hướng về nhau để luận vì dẫn đồng. Cho nên, ba đời nếu đồng tức mười phương đồng, thì trần sát đều đồng. Người đọc chỉ nói “sát thuyết chúng sinh thuyết” mà không suy nghĩ: “Nếu sát và chúng sinh đều là năng thuyết, thì sở bị (đối tượng được gia bị) là ai?”. Bởi do không nghĩ “tánh của sát và chúng sinh”, nếu hiểu được ý này, thì kia đây xen nhau hiển rõ. “Hai thì chỉ trên, hai thì chỉ dưới”: Chương Ngũ Phật môn đều đủ sáu, trong chương tổng Phật chỉ có bốn, thiếu hai cái thứ năm thứ sáu, trong chương Thích-ca chỉ thiếu thứ nhất. Trung gian tam thế Phật chỉ đều có hai. Hai chỉ tổng Phật tức hai ý đầu, hai chỉ Thích-ca tức hai ý sau. Nhưng chương tam thế hiển thật đều nói “pháp đó”, và chương Thích-ca hai chữ “như đây”, đều chỉ Quyền là Thật, cho nên gọi là “hiển thật”. Vì sao? Vì xưa thíêt lập Quyền mà còn không có tên “Quyền” huống chi có thật. Cho nên nay khai Quyền, Quyền tức là Thật, nên nói “Pháp đó đều là Phật thừa”. Vì thế, biết rằng thuật lại thiết lập Quyền kia, ý tại Khai. Chương quá khứ Phật trong đó hiển thật. Nói “Kiêm đắc Nhân nhất” cũng nên kiêm Lý, dùng chữ “kiêm” ở trên xuyên suốt ở dưới. Do kiêm nên chẳng phải chánh, cho nên văn trên nói không cùng với tổng văn hiển bày. Vị lai hiện tại cũng như vậy. Chương hiện tại Phật từ đầu tức là khai Quyền hiển Thật.

Kinh: “Xá-lợi-phất! Các đức Phật đó…” tức đương tổng văn, cho nên trong giải thích ở trước nói: “Chương tam thế Phật đều nêu Giáo, Hạnh, sau tổng nêu Nhân, Lý”. Căn cứ đây, nên trước khai chương nói: Đầu biệt sau tổng. Sở dĩ không trước khai là dưới trong tổng văn đã không tổng khai Quyền chỉ có một văn hiển Thật, nên đối ba đời đều có Quyền Thật, tổng biệt bất tiện. Cho nên hợp trong chương Phật hiện tại cộng thành văn đầy đủ, cho nên nói: “văn đầy đủ”. Nếu vậy, thì sao không chỉ hợp biên soạn trong chương hiện tại Phật làm “văn tứ Nhất” mà dùng làm tổng ư? Do đầu kinh văn tự nói: “Xá-lợi-phất! Chư Phật đó…”, cho nên biết là tổng.

Kinh: “Biết rõ các chúng sinh… sức phương tiện mà vì đó nói pháp”, tức cảm ứng đối nhau. “Biết chúng sinh…” là cảm, “chủng chủng nhân duyên…” là ứng. Kinh nói “Chủng chủng dục (những điều ưa muốn)…”: Chỉ các chúng sinh quá khứ hiện tại vị lai căn, dục, tánh ba thứ là cảm Phật cơ. Trong kinh chỉ có dục tánh hai thứ, nếu có hai thứ đây ắt có căn cho nên thêm căn đối giải thích. “Thâm tâm sở trước” tức là căn, do chủng tử đời trước khó chuyển, tùy huân tập không bỏ, nên gọi là “sở trước”, tại phương tiện giáo cho nên tập gọi là “trước”. Vì sao? Vì căn lấy năng sinh làm nghĩa, do quá khứ huân tập chủng tử thành hiện dục, dục lấy chấp cảnh làm năng, do năng chấp nơi ngũ thừa giáo, cho nên tập dục thành tánh. Tánh đối với dục, thì tánh gọi là vị lai, vị lai đối với nay thì gọi là bản tánh. Trên đã nói đến thiết lập quyền, căn cứ lý trước nêu ẩn Thật là Quyền tức là sở khai. Vì đã nêu rõ khai, tức biết từng thiết lập đều là chân thật, chỉ sợ không hiểu ý thiết lập cho nên trước nêu rõ ý kia.

Tiếp, giải thích “Năm trược”, nên đầu văn nói “Chỉ là năm trược…”, “cho nên nói chỉ một Phật thừa…”, “còn không đới hai…”, là muốn nêu thiết lập Quyền thì trước dùng Thật để so sánh. Nay trong nhất Thật còn không có Bát-nhã “đới hai”, Phương-đẳng “đới ba”, huống chi có Lộc uyển “riêng ba riêng năm”, dù thêm Nhân thiên vẫn thuộc Lộcuyển. Có người nói: Riêng năm là Tam tạng, riêng ba là Thông giáo, đây không đúng lý, Thông không biệt bộ. Đã trong tại Bát-nhã Phươngđẳng nêu rõ. Có bản sớ nói: “Không hai”: là không có hai thứ: Biệt giáo và Biệt nhập Thông. “Không ba”: là không có ba thứ: Thông giáo và Biệt Viên nhập Thông. Văn sau tự có giải thích điều này, không cần để ở đây. Nay tạm y đây. Nếu không có văn dưới thì giải thích này không ngăn ngại. Biệt, Viên nhập Thông cũng trong tại Phương-đẳng Bát-nhã nêu rõ, chỉ duyên với kia mà có Thông Biệt, cho nên có văn nói tương nhập. Nhưng riêng luận thì cùng với tương nhập đều có chút sai khác, cho nên không y đây. “Như thị: là nêu Thể tướng”: Thể và tướng của Trược không thể nêu ra đầy đủ, chỉ lược nói “như thị”. Kinh tuy không nói đủ mà Sớ văn lược thuật, trong đó trước là nêu thể kia, cho nên nói: “Kiếp trược không có biệt thể…”, lại chỉ giải thích văn cùng làm thể tướng, là văn được dẫn ở dưới. Nói “xan tham…” tức Kiến, Tu hai trược, lại nói “bất thiện” thì chung cho Kiến và Tu, chỉ có “Mạng trược” thì kinh văn không giải thích. Đã có ba thứ: Chúng sinh, v.v.. thì Mạng ắt có. “Kiếp” là thời gian dài… đến tám mươi. Kiếp là thời. Các giải thích rất rộng ở đây chẳng cần, cho nên chỉ lược luận. Nói “thời ngắn”: Như trong Câu-xá lập ba cực ít (thiểu), nghĩa là sắc, danh, thời. Sắc cực thiểu tức là cực vi. Luận nói cực vi vi kim thủy thỏ dê trâu khích trần, rận chí lúa mạch lóng tay, sau tăng lên gấp bảy lần, hai mươi bốn lóng tay bằng một khủyu tay, bốn khủyu tay làm một cung, năm trăm cung thì bằng một câu-lô-xá, tám Câu-lô-xá thì bằng một Du-thiện-na. Gọi là “cực thiểu”, tức là một chữ. Luận nói: Một chữ (nhất tự) là danh, là danh cực thiểu; hai chữ là danh, cũng gọi là danh thân; ba chữ trở lên là đa danh thân; bốn chữ là một câu, bốn câu là một kệ… Thời rất ngắn (cực thiểu) tức một sát-na. Luận nói: Một trăm hai mươi sát-na là một Đát-sát-na, sáu mươi Đát-sát-na là một Lạp-phạ, ba mươi Lạp-phạ là một Tu-du, ba mươi Tu-du là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm. “Chúng sinh trược đến giả danh”: kiến mạn là nhân, quả báo là quả. Do kiến mạn nên chiêu cảm quả sinh tử, lôi kéo nhân thành quả. Cho nên nói “lôi kéo kiến mạn…”. Trên Quả lại khởi hai trược Kiến Mạn, kiến mạn chỉ là lược nêu thể của hai đạo Kiến, Tu.

Tiếp, “Giải thích tướng của năm trược”: Trước giải thích “tướng Kiếp trược”, nói “Bốn trược…”: Không, thành, hoại ba thứ mà không có Kiếp trược. Ở trong kiếp Trụ, căn cứ kinh Bi Hoa nói: tám vạn đến ba vạn năm cũng chưa có trược, đến hai vạn năm thì bắt đầu có năm trược. Rộng nêu nghĩa kiếp, thì nông cạn dễ biết. Rút trong văn kinh luận không phiền chép đủ chỉ cần biết thế. Bốn trược tăng tụ, cho nên tiểu kiếp gọi là trược, đây là tổng nêu. Do bốn trược tụ, cho nên tiểu tam tai khởi. Tiếp, “Sân nhuế…”: nêu rõ nguyên do tiểu tai, do phiền não mạnh. Tiếp, “Tam tai khởi…”: là nêu do tiểu tam tai nên bốn trược tăng, “phiền não gấp bội” là nêu rõ do Kiếp trược nên phiền não hưng thịnh. Tiếp, “Các kiến…”: là do Phiền não, Kiếp, cho nên Kiến trược xí thạnh. Tiếp, “Thô xấu…”: là nêu do ba trược trước cho nên Chúng sinh trược, thô tệ sắc tâm ác ngũ ấm, lôi kéo ác ấm này thành chúng sinh ác. Chúng sinh là giả danh, cho nên nói “ác danh uế xứng”. Tiêu biểu tính chất, chỉ bày đức gọi là “danh”, ảnh hưởng sự tốt đẹp ngoại hình gọi là “xứng”. Nay lôi kéo thô ác làm chất ác ảnh hưởng bên ngoài, cho nên chỉ tiêu biểu “ác danh uế xứng”. Khiến năm tháng ngắn lại do bốn trược cho nên Mạng trược, tích tụ năm thành thọ, năm suy thì thọ giảm. Tuổi và thọ bức bách nhau, cho nên gọi là Mạng trược. “Các trược…”: là tổng kết. “Như nước…”: là nêu thí dụ. Do bôn (vội vã) cho nên hôn muội chỉ là trược, tức tổng thí dụ Kiếp trược. Vì Kiếp bị trược cho nên có bốn thứ còn lại cũng trược. Cho nên dùng “gió” để thí dụ bốn trược còn lại. “Sóng gió (Phong ba)…”: dùng dụ kiến mạn. “Ngư long (cá rồng)”: Dùng dụ chúng sinh. “Không thể nương cậy”: là chúng sinh bất an, chính là “tướng trược”. Do ba trược nên khiến mạng ngắn ngủi, như do phong cổ (trống gió) khiến nước vội mê, rồng cá không an vui. “Thời khiến như vậy”: lại dùng Kiếp trược để kết, “Như kiếp sơ…” lại xuất ra bốn trược tại thời Kiếp trược, cũng là do có trược. Tuy lại bốn trược đồng tại thời trược mà bốn cùng thời trược lại xen lẫn tướng trược.

“Quang Âm…”: Lại nương hỏa hậu. Hỏa tai chỉ hoại. Sơ thiền cho nên ở thời sơ thành. “Trời này bắt đầu….”, tức là Trời bắt đầu của Nhị thiền nên bắt đầu xuống nhân gian, thân có ánh sáng, còn có thể bay đi. Không có nam, nữ căn, không có ăn nuốt như vậy cho đến rừng cây đất đai da thịt, đến gạo lúa..,. nam nữ căn sinh, đầy đủ như trong A-nêlâu- đà nói, luận Câu-xá ở chương Kiếp nêu rõ. Địa tức là ác duyên, từ duyên mà nói, cho nên nói khiến như vậy. “Như Đao-lợi…”: Cũng là nêu theo lệ, lại hiển đất sinh dục ác. Đế-thích ngoại thành có bốn vườn uyển, nghĩa là các xe thô tạp hỷ, chư thiên muốn đấu tranh thì từ vườn thô ráp xuất hiện các dụng cụ chiến đấu, cần xe thì xuất hiện vườn xe. Nếu vườn hoan hỷ nhập vào trong thì sinh hỷ, Dục giới sinh dục cũng lại như vậy.

Tiếp, “Phiền não…”: Lại ở trong tổng dùng biện rõ bốn biệt: Trước

nêu phiền não, liệt kê đủ năm độn (ngũ độn sử) mỗi đều nêu một dụ có thể tư duy biết. “Hủy” (Rắn độc) nên dùng chữ bên dưới . Chữ “Nạo”: sách thuyết Văn nói “nạo” là quấy nhiễu. Tiếp, “Kiến trược…”: Là giải thích kiến trược, chỉ riêng nêu hai kiến, còn lại y mười sáu tri kiến như kinh Đại Phẩm nói: Hai kiến nhiếp trọn các kiến, huống chi mười sáu và sáu mươi hai! Không có người mà cho rằng có người, là Thân kiến. Có đạo mà cho rằng vô đạo, là Tà kiến. Lại, nên ngược lại câu này, nói: Vô đạo mà cho rằng hữu đạo là Giới thủ. Sở thông chẳng thù thắng, tức Kiến thủ. Thiên chấp hữu vô, tức Biên kiến. “Mười sáu tri kiến”: đầy đủ như trong sách Pháp Giới Thứ Đệ. Sáu mươi hai kiến có ba thứ không đồng. Nếu làm tam thế (ba đời) ngũ ấm thì đều chấp bốn câu, nghĩa là: Quá khứ như khứ…, Hiện tại thường vô thường…, Vị lai biên vô biên, và hai kiến Đoạn và thường làm sáu mươi hai kiến chỉ là hai kiến Hữu, Vô, thuộc Biên kiến Tà kiến sở nhiếp. Nếu sắc đại ngã tiểu… bốn thứ, thì dùng bốn trải qua năm ấm và ba đời thành sáu mươi và Hữu Vô hai thứ. Đây chỉ là Thân kiến Biên kiến sở nhiếp. Nếu Bản kiếp Bản kiến… sáu mươi hai, thì thuộc về đoạn, thường, biên, tà, giới thủ… Nếu làm ngũ ấm thì đều chấp ngã sở. Mỗi một ngã sở đều có ba: là Anh-lạc (chuỗi ngọc), đồng bộc (tôi tớ), quật trạch (hang nhà) trải qua bốn ấm thành mười hai và ngã mười ba, ngũ ấm hỗ luận tức sáu mươi lăm. Đây chỉ tại ngã và do ngã sở. Như trong luận Bà-sa, Sử-kiền-độ nêu mười hai nhập mười tám giới, mỗi thứ có sáu mươi lăm, cho đến Vô sắc cũng như vậy; trong Vô sắc giới chỉ tùy nghĩa giảm sắc. Tổng các kiến đây khắp nhất thiết xứ và nhất thiết pháp, cho nên nói “la võng” và “trù lâm” (lưới giăng và rừng rậm).

Tiếp, trong “Chúng sinh trược” có hai: Giải thích và kết. Trong giải thích hai lớp pháp, thí. Hai lớp pháp nghĩa là: Trước, nêu giả danh. Tiếp, nêu lưu chuyển. Trong thí dụ có hai xứ đều thí dụ giả danh, bởi vì hai xứ pháp đều giả danh. Tiếp, trong “Mạng trược” có ba: Pháp, Thí, Hợp. Thứ lớp: Sinh khởi trước sau. Trong phần “Liệu giản”, đầu tiên hỏi: nay văn giả thiết kinh này do trược cho nên không được nói Đại, lại trước thiết lập Tiểu tức trược chỉ có chướng Đại. Nếu chướng Đại thì thời thuyết kinh Hoa Nghiêm, vì sao không chướng? Nhưng trong năm trược thì Kiếp trược tự thuộc thời, không thể khiến Phật không sinh giảm kiếp. Nếu sinh giảm kiếp, thì Đại tiểu không chướng, mạng tùy pháp báo cũng không thể trừ, Phật cũng thị hiện chúng sinh thọ mạng ngắn. Chỉ phiền não kiến gọi là “chưa trừ trược”. Như trong Hoa Nghiêm cho có phàm chúng nghe kinh Hoa Nghiêm. Vì vậy nên năm trược không chướng Đại. Đã không chướng Đại thì tại sao không bắt đầu Tiệm liền nói Phật thừa, mà thiết lập Tiểu thừa ? Đáp: Bốn câu phân biệt: Dùng căn đối cõi thì chướng đều không chướng, chỉ vì khinh trọng không đồng, dùng cõi đối căn lợi độn để thành bốn câu. Một câu đầu dùng đáp Hoa Nghiêm, một câu sau đáp bắt đầu Tiệm không thuyết ý Đại thừa, hai câu giữa nêu cõi sai biệt, tức đầu cuối đều không chướng Đại, chỉ do lợi độn đầu cuối không đồng. Căn độn chướng nặng, nên ban đầu thuyết Tiểu thừa. Nói trược năng chướng, cho nên căn cứ bốn câu đều không chướng Đại, cho nên hỏi chướng Đại là một phen nói đó thôi.

Hỏi: Ngũ trược chướng Tiểu thừa không? Đã không chướng Đại, là chướng Tiểu phải không? Văn trước tuy nói Tiểu mà năng trị trược, cho nên không chướng Tiểu. Đối bốn câu trước đều không chướng Đại. Vậy thì Đại Tiểu hết thảy đều không chướng, tại sao năm trược được gọi là chướng? Cho nên đối Tiểu, lại hỏi: Nếu chướng Tiểu thì lẽ ra tất cả không nghe, nếu không chướng thì phải tất cả đều nghe, vì sao sơ chuyển chỉ là năm người ư?

Đáp: Trong đó cũng khai bốn câu, đến câu thứ tư mới gọi là chướng. Chỉ là đối căn, căn độn thành chướng. Xưa chấp thẳng nói: “Năm trược đều chướng Đại tiểu”, lý kia rất sai trái. Cho nên đầu tiên vì năm người và Thân-tử… thuộc câu đầu, nay nêu Ương-quật-bàn-đặc làm hai câu, thì tất cả Thanh-văn trừ hai thứ này theo lệ, đều thuộc thượng căn.

Hỏi: Trước, câu thứ tư dùng Thân-tử làm ngăn nặng, vì sao trong đây dùng Thân-tử làm ngăn nhẹ?

Đáp: Đối với Đại cho nên nói là nặng, đối với Tiểu cho nên nói là nhẹ.

Hỏi: Tự có… bốn câu đầu trả lời hỏi Hoa Nghiêm. Nhân đáp nêu Thân-tử nghe kinh Pháp Hoa. Bốn câu sau chỉ có nghĩa Tiểu thừa đang nơi Lộc-uyển, vì muốn phân biệt nêu xuất các bộ Đại thừa. Vì vậy nên hỏi: Hai xứ không nhiếp, vì căn lợi độn, hay vì chướng không chướng?

Đáp: Trong đáp, nói: Đây căn cứ bốn giáo, do trong Phương-đẳng, Bát-nhã nghe Đại tiểu. Đã ở thời kia, người đó không thể đắc nhập, đợi đến hai tô; hướng về trước làm độn, chỉ do đợi thời gọi là “độn” mà thôi! Hướng về trước tuy độn, mà ở đây đắc nhập, tự phán xét là lợi độn. Ở trong bốn môn vì các môn sau trội hơn các môn trước. Cho nên, trong bốn môn thì dùng môn thứ tư dời đổi biên soạn lại phần trước là muốn đối bốn căn thù thắng ở đầu. Phải biết trong đây Đại tiểu cùng hai câu trong bốn câu trước, Đại tiểu không sai khác. Trong bốn câu trước, thì hai câu giữa phân biệt ở tịnh độ, nay đều ở cõi đây. Nói “vân vân” là:

Mỗi mỗi căn ý đối mỗi mỗi môn nói nguyên do kia.

Hỏi: Trước vì sao nói căn độn ngăn nặng không nghe nơi Tiểu thừa, mà trong đây lại nói là nghe nơi hữu môn?

Đáp: Tại trước không nhập nay mới nhập, Đại tiểu căn tánh khi thuần thục thời không đồng, cho nên biết không hỏi có chướng hay không chướng, tức thảy đều đắc nhập. Chỉ vì chướng khinh trọng dùng đối căn lợi độn và thời không đồng đó thôi! Nếu đều không nghe Đại tiểu, thì không hỏi có chướng hay không chướng, tức cõi đây không có căn cơ. Đời nay chưa thuần thục, không phải thuộc về bốn câu, bốn môn không nhiếp. Trong đây chánh dùng văn Đại luận quyển hai mươi bốn trong phần giải thích mười lực, đến lực thứ tư nói: “Thế Tôn dùng trí lực ấy khéo biết căn thượng trung hạ của chúng sinh”. Nếu năm căn Tín, Tấn… và bốn căn bị ngăn che v.v… thì luận chỉ căn cứ Tiểu thừa thì nay thông Đại thừa. Cho nên biết chướng cùng không chướng, quý tại có căn, có Thừa chủng. Chướng do phá giới, đầy đủ như bốn câu thừa giới phân biệt. Dùng đối năm thời bốn giáo ba phẩm, các môn phân biệt. Chú thích “vân vân”: là do đây. Nói “tìm chi tiết”: ý sợ bỏ sót vậy.

“Hỏi: Năm trược nhất vãng (một phen)…”: Căn cứ hai câu đầu và bốn câu lập lại, thì Đại Tiểu đều không bị chướng, nay từ Đại căn có chướng, đầu tiên không nghe Pháp Hoa làm vấn, tức câu thứ tư trong bốn câu đầu nói người, ba câu trước không chướng, chỉ chướng ở câu thứ tư, nói chẳng tận lý cho nên nói nhất vãng ý trong đáp là dùng đủ văn trước ý câu thứ tư là bắt đầu chướng nặng. Tiếp, “Nếu nghe…”: là căn độn, Phật còn chưa nói. Như thầy thuốc xưa nói các tên: Thường, Ngã v.v… thuận theo đó chấp nghĩa là tên Vô thường v.v…, năng trị đối với trược, cho nên chỉ chướng Đại mà không chướng Tiểu. Như một chủng căn cơ, năm trược chưa trừ không kham nghe Đại. Đến trong Lộc-uyển dùng Tiểu trị trược, sau mới nghe Đại. Sở dĩ thấy khổ nếu không trừ thì không kham nghe thường. Chấp ấm làm đức, tức Tứ niệm xứ sở trị, nhanh quá cũng là si mê, cho nên trách thầy thuốc xưa chuyên dùng tà thường, vì không biết sữa (nhũ) là không biết dược (thuốc). Không biết bệnh… là do không phân biệt bệnh. Không biết “khai” là không biết phương pháp cho thuốc. Không hiểu ba thứ đây thì không có khách y thuật. Có hai thường không đồng, như sữa ngon dở, kiến hoặc khinh trọng gọi là căn nguyên. Trước đoạn sau dùng, cho nên gọi là khai giá. Nhị là ăn, ăn thời sai khác. Chỉ có chấp danh Thường, Lạc, cho nên nói “không biết tốt xấu”. Thuyết Ngã làm tăng thêm tà tập, nên nói “không biết căn nguyên”. Không hiểu rõ Thuyết thường thời sai khác, nên nói “không hiểu khai, giá”. Do đó kinh nói: “Nếu Phật Thế Tôn trước nói thường, thì đồ chúng thọ hóa sẽ nói pháp này đồng pháp ngoại đạo kia”, cho nên nói: “Nếu chỉ tán thán…”. “Hai loại thuốc”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói.

 

(Phần Trung)

Tiếp, “Căn cứ năm trược luận Tứ Tất-đàn”: “Kiếp trược, Mạng trược là đối Thế giới Tất-đàn”: vì kiếp mạng chỉ là y báo và chánh báo, tức thế giới. Chúng sinh tức là Vị nhân, Kiến trược là năng chấp kiến, cùng chúng sinh đồng. Do hai thứ này cho nên có sở vi cơ, tức là kiến diệt thì thiện sinh. Phiền não trược là Đối trị Tất-đàn: Như trong Ngũ đình trị đủ ba độc, chánh dùng Tiểu thừa năng trị trược, cho nên thuộc Tất-đàn thứ ba, cũng chuẩn theo ý luận lấy Đệ nhất nghĩa Tất-đàn dùng đối Diễn môn. Tứ Tất-đàn đây môn thông đáp trả câu hỏi năm trược chướng Đại, không chướng tiểu. Do văn Tứ Tất ảnh hưởng nhiều nên đứng đầu môn biên soạn giải thích.

Từ “Nếu luận nhân quả” trở xuống: lại dùng nhiều môn phân biệt năm trược: Đầu tiên là Nhân quả môn. Hai trược làm Nhân tức là Phiền não và Kiến, ba trược còn lại là Quả, nghĩa kiêm y báo chánh báo. Tiếp, “Nhất nhân…” là Nhân pháp môn. Nhân (người) nghĩa là Chúng sinh trược, Pháp là bốn thứ trược còn lại, cùng sinh tương đối cho nên đều thành pháp, đều là sở chấp của nhà chúng sinh. “Bốn pháp…”: là Pháp thời môn nên nói “Bốn pháp một thời”, văn thiếu nên lược. Thời tức Kiếp trược, bốn thứ trược còn lại thuộc Pháp. Nếu đối thời nói chúng sinh thì cũng thuộc pháp. “Hai báo chướng…”: ba chướng môn. Hai báo chướng tức Chúng sinh trược và Mạng trược. “Hai phiền não chướng”: Kiến cũng chung được gọi là phiền não, “nghiêp ở trong thời gian đó” là phiền não thấm nhuần nghiêp, nghiêp năng chiêu cảm báo cho nên nói “thời gian đó”. “Chúng sinh…”: Trung luận nói ba Giả môn, đối đãi nhau có thể biết, tức Kiếp, Phiền não và Kiến. Kiếp tức dài ngắn đối đãi, Phiền não tức trái thuận… đối đãi, Kiến tức hữu vô… đối đãi. Nếu thông luận thì đều đầy đủ ba giả, Y báo và Chánh báo đều từ ba giả mà thành. Nay từ phân biệt lại biệt thuyết cho nên biệt đối. “Chúng sinh…”: Đại luận nói ba môn Giả thiết lập: Chúng sinh hòa hợp mà thọ tên chúng sinh Mạng v.v… đều là pháp mà chúng sinh chấp, lại có sở chấp giả danh đối với chúng sinh danh cho nên nói “danh giả thông hai xứ”, xem giải thích đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói.

“Phiền não…”: là Phàm Thánh môn, “Phiền não tại phàm”: nghĩa là các phàm phu quyết định có. Nhưng Kiến ắt tại phàm, phiền não thì thông cả Thánh, như cụ phược Thánh giả và La-hán hướng. Nói “tam thông”: Kiếp giảm có Phật, kiếp tăng chỉ có phàm. Lại, giảm thì có Phật, tăng thì thông các Thánh khác. Lại tăng cùng giảm đều thông hữu vô, do Đại tiểu thừa không đồng, lẽ nào Hoa-tạng tịnh mãn đợi kiếp giảm ư? Thường tại Linh sơn, tức là nghĩa này. Chúng sinh danh đủ thông phàm thánh, mạng có phàm Thánh, báo mạng không đồng. “Mạng đoản…”: là Trường đoản môn, trong một kiếp luôn luôn sinh cho nên dài ngắn sai biệt. Đây chính căn cứ nhân (người) và do chư thiên cõi Dục thấy xứ Phật mà thuyết. Nếu luận, thì Sơ thiền tức kiếp mạng bằng, Nhị thiền trở đi thì kiếp ngắn mạng dài, cho đến cõi Vô sắc căn cứ đây nói có thể biết. “Ba thông ngắn dài”: Phiền não tại phàm thì dài, tại Thánh thì ngắn. Các kiến ở phàm phu khác thì dài, ở ngoại đạo lợi căn thì ngắn; cũng có thể tại các phàm phu thì ngắn, tại độn căn ngoại đạo thì dài; cũng có thể tại Tiểu thừa thì ngắn, Nhất sinh đoạn tại Đại thừa thì dài vì lưu hoặc nhuận sinh để nhập sinh tử. Lại Kiến tiền tận thì ngắn, phiền não hậu tận thì dài. Nay phân biệt trược nhập sinh tử thì không gọi là trược chúng sinh, căn cứ đó mà nói.

“Kiếp chỉ…”: là đới bất đới môn. Mạng là bất tương ưng hạnh pháp, cần phải đới (mang) ấm pháp mà luận thời gian dài ngắn, còn lại đều thuộc pháp chẳng phải Bất đới thời, vì chẳng phải thân cận đới cho nên chỉ tại nơi pháp. “Kiếp thông…”: là nội ngoại môn. Đại kiếp hại khí thế gian cho nên gọi là “ngoại”, tiểu kiếp hại người cho nên gọi là “nội”. Hoặc là có thể bốn trược tích tụ thời thơì thông cả nội ngoại. “Ba tiểu…”: là Hại bất hại môn. Vật tức ngoại khí, khi Đại kiếp khởi thì người đã thượng sinh, tùy ba không đồng sinh ba Thiền xứ. “Tiểu kiếp…”: là Ngũ đạo tam giới môn, chuẩn ứng biệt luận ba và năm xen lẫn nhau, cho nên hợp nêu rõ, thông cõi Sắc như trước.

Nói “Mạng thông”: Cũng nên nói bốn thứ trược còn lại thông nơi Tam giới ngũ đạo. “Mạng thông” đầy đủ như trong Câu-xá luận nêu rõ. Ngũ đạo sống lâu khác biệt nhân gian năm mươi năm…, cũng nên nói thông nơi tứ sinh (bốn loài), tứ sinh đều có dài ngắn. “Kiếp trược thì…”: là Công biệt môn. Tiếp, “Tiểu kiếp…”: là Thông biệt môn. “Từ tám vạn…”: là giải thích Đại tiểu kiếp. Nói “chánh tam độc”: Tịnh độ phương khác, như nước A-súc, cũng có người nữ không có tà dục. Nêu một căn cứ theo đó thì nhiều cõi khác theo lệ có thể biết, rộng trải qua các cõi phân biệt không đồng, cho nên nói “vân vân”. “Đốc thúc chân” là đốc thúc thật đắc, cho nên bài xích, nói “phi” (chẳng phải), thượng mạn cũng như vậy. Cuối cùng là người không thật đắc mà không tin. “Tự” cũng là “kế” (nối dõi). “Thân còn vô lượng”: Trong Tiểu thừa giáo không nói lại có giới ngoại sinh xứ, có chấp Biến dịch tại giới nội thì cũng gọi là sinh xứ. Trong Đại thừa giáo vì Biến dịch sinh xứ kia nhiều, cho nên nói “vô lượng”. Đây thuật ý bức bách, nói rằng: trong đó chỉ nói danh Tăng-thượng-mạn, ý chỉ La-hán. Nếu thật đắc thì lẽ nào có người không phát tâm Đại thừa ư? Chính dùng Đại thừa mật mà bài xích. Nếu cho rằng cứu cánh thì nên Biến dịch tận, nếu chưa tận thì vì sao không tin? “Gặp được đức Phật khác”: Văn đầu do có Phật các cõi khác, gọi là “Đức Phật khác”. “La-hán thọ thân đời trước”: trả nghiêp trước cho nên gọi là “thân đời trước”, vì là phiền não quả nên “cần phải diệt”. Nếu phiền não sở hoặc năng bất diệt thì có lỗi nhân quả không đồng. Nếu nói biên tế định lực trì khiến không diệt, thì nay hỏi biên định là Đại hay Tiểu? Nếu là Tiểu, thì Tiểu không gọi là Biến dịch, cũng không nói là vĩnh thường. Nếu nói là Đại, thì biên đại trừ, danh chỉ tại Đẳng giác, lẽ nào được sau thọ ký tức là Đẳng giác ư? Nếu Đại nhập Tiểu định, thì rõ ràng Đại không có dụng của Định. Có người dẫn “La Vân”, đây không nên như vậy. Chỉ sau khi Phật diệt độ, các A-la-hán ẩn hiển không đồng đều tùy cơ duyên, huống chi vốn là Đại Bồ-tát? Đây là trong Đại luận Bồ-tát Long Thọ giả thiết lập câu hỏi này, và muốn căn cứ Đại giáo tùy đáp đầy đủ. Cho nên, trong văn đáp nói “không sinh tam giới”, huống chi luận lại dẫn Pháp Hoa để chứng minh. Cho nên, biết rằng: nói Bạc địa thì không có giáo nào có thể căn cứ. Nghĩa “nước khác” xuất từ tha nhân, cho nên người xưa nói: Học không thầy đâu có nghĩa không gặp khó khăn. Cho nên Pháp Hoa đây chẳng phải đây thì không rõ. Lại nếu Biến dịch không ra ngoài giới mà nói “sinh trong năm đường”, nói khước từ nhập sinh tử mà dụ “kinh sợ vào nhà lửa”, thì chẳng phải văn nói một ngày Niết-bàn, liền là hư cấu. Từ “Ngài Nam Nhạc ” trở xuống: ba phen giải thích đều là Nam Nhạc giải thích.

Tiếp, trong phần giải thích nói: “La-hán nếu tu niệm Phật Tammuội…”: nếu nói niệm mười phương Phật thì đã phát Đại tâm, nếu chỉ niệm Thích Tôn thì chính là nhân Tiểu cảm Đại, cũng là cơ phát khiến như vậy. Nhưng trong Tiểu thừa các bộ không đồng, cũng có tin có mười phương Phật, tức người Tiểu thừa tu đệ Tứ thiền biên tế định lực. “Thấy mười phương Phật…”: niệm Phật quán thành cảm Phật vì thuyết. Thứ ba nêu “phàm phu”: Nêu phàm phu huống chi Thánh! Cho nên La-hán ắt không có lý không nghe Pháp Hoa. Ý “Dao sư” nói: Thật đắc La-hán không có người nào không tin, không cần gặp Đức Phật khác, gặp Đức Phật khác tức chỉ phàm phu, Nam Nhạc lẽ nào không biết: phàm phu thì sau khi Phật diệt độ năng sinh tin ư? Cho nên gặp đức Phật khác, ắt chỉ La-hán. Nên kinh Tịnh Danh nói: “Phàm phu có trở ngược lại mà Thanh văn thì không”, cho nên biết Thanh văn khó hồi chuyển mà cần phải thương nghị, phàm phu dễ thọ tại sao cần dẫn theo lệ? Từ “Có người nói” cho đến “ắt như vậy”: là ý phá Dao sư. Lập “không tin” nghĩa, cũng không như vậy, tâm chấp kiên cố ắt tại giáo xưa, không nên chứng minh đây là văn sau khi Phật diệt độ. Sư này lại dẫn chứng Thân-tử nơi Pháp Hoa ban đầu nghe văn lược khai, để chứng minh sau khi Phật diệt độ thì La-hán không thọ nhận. Ý nói gặp Phật mà La-hán còn nghi là ma, huống chi sau khi Phật diệt độ lẽ nào chịu tin thọ ư? Nay thì không như vậy, Đức Phật dự biết đôn đốc đều tin, cho nên sau khi Phật diệt độ chấp kinh quyền thuyết, nghĩa chấp nhận có thể như vậy. Trong cụm từ “Không chỉ phàm phu vân vân”, thì “vân vân”: là lẽ ra rộng nêu ý La-hán và dùng ý phàm phu tin không tin, để phá sư đây và chọn Dao sư. “Đây thẳng giải thích sai khác…” chín chữ (Thử trực dị giải bất dụng thử nghĩa dã.): E rằng phải viết chữ “bạch” chỉ hai sư trước cũng chẳng phải hoàn toàn lỗi, chỉ vì chưa hoàn toàn thuận ý kinh đó thôi! Không thể hoàn toàn phá, cho nên nói “giải thích sai khác”. Nếu luận Dao sư thấy trái văn kinh. Kinh nói “La-hán gặp đức Phật khác thì sinh tín”, mà Dao sư nói không cần (phải), Ý kinh nói “Trừ sau khi Phật diệt độ, muốn hiển bày Tứ y thông kinh công năng”, mà Dao sư không dùng Tứ y. Vì Đức Phật khác tức là La-hán ba căn nghe cùng không nghe, đều không nhờ từ biên Tứ y, nghe thì thâm sâu không thể được. Lại lấy phàm phu để so sánh, đây thì có thể như vậy, chỉ cần nói gặp Tứ y thôi! Ý sư sau nói: “Phàm phu dễ, La-hán khó”. Đây cũng nói trái kinh quyết liễu nghĩa, cho nên không dùng ý đây.

Tiếp, “giải thích kệ tụng”: “Ba loại: Thượng mạn, v.v… bốn chúng đều có”: lại phàm phu thượng mạn có năm thứ không đồng: Nghĩa là bốn thiện căn và dùng bốn quả, nghĩa thông dễ biết vả lại sau biệt nói theo phần nhiều, cho nên kinh nói: Bốn chúng Tỳ-kheo v.v… có ba lỗi này. Đối với riêng ba lỗi này vẫn từ “Phất tịch” (quét dọn chỗ ngồi) mà nói. “Che giấu lỗi”: là giải thích ba lỗi, “che giấu lỗi bày đức”: là giải thích “thượng mạn”. “Không thể tự tỉnh”: là giải thích “ngã mạn”. “Người vô tàm: là giải thích “bất tín”. “Nếu tự thấy lỗi” không có ba lỗi này thì tuy chưa chứng quả vẫn gọi là “có hổ thẹn”. “Nơi giới”: giới danh thông mười, tức như Đại luận Đại kinh nói mười thứ không thiếu không phá…, nghiệm biết ba lỗi, còn không có không thiếu, huống chi đạo công, cho nên nói “khuyết…”. “Luật nghi” có ba: Nghĩa là không thiếu, không xuyên, không phá kiêm không tạp. Nếu y Đại luận, thì không thiếu sót cái thứ ba. Nếu y Đại kinh thì không thiếu sót cương vị đứng đầu, danh đồng nghĩa khác đều có ý kia, đầy đủ như giải thích nghĩa. Nay lại y Đại Kinh dùng ba thứ: không thiếu… và định cộng, đạo cộng tức sáu giới. Cho nên biết trong sáu nếu không có hai cái sau thì còn gọi là “lậu”, huống chi đạo công định công phán xét tại Tam tạng tứ quả. Nay lại luận gần thì không có đạo, định. Cho nên người có ba lỗi mà còn không có Noãn pháp, huống chi có Tứ quả. “Hà” là tỳ vết ở bên trong viên ngọc nên nói “nội khởi”. “Tỳ” là tỳ vết ở bên ngoài viên ngọc cho nên nói “ngoại động”. Tỳ vết bên ngoài gọi là “khuyết”. Tỳ vết bên trong gọi là “lậu”. “Tiểu trong tiểu”: là bốn quả đã tiểu, bốn thiền lại tiểu, trí đã cực tiểu, huống chi thêm Tăng-thượng-mạn. “Tào khang”: Nếu y thiền thế gian để đắc vô lậu, thì như bỏ “tào” (bả) được rượu, từ văn nhập lý như bỏ hết “khang” (cám) ra thì được gạo. Đã không có vô lậu, mà ngược lại chấp thiền thế gian thì ví như bỏ rượu mà giữ bã (tào), không đắc chân lý, trái lại đề cao văn tự thì ví như bỏ gạo mà giữ “khang” (cám).

“Chúng như thế có năm ngàn”: Là lấy có hiển không, có lỗi thì không đắc. Nói “chấp văn tự” (phong văn): cũng nên lại nói “chấp thiền là thật”, ví như có bã không rượu. Trong văn có hai giải thích, giải thích đầu là chánh, giải thích sau lại kiêm thật hành Thanh-văn. Đồ chúng đó đứng dậy ra đi cũng do hiện tại chưa có căn cơ Đại thừa cho nên thoái lui, như có bã mà không có rượu, có cám mà không có gạo.

“Cành lá”: Không có tài nhập đạo.

Hỏi: “Cơ” và “khí” có gì sai khác?

Đáp: Tuy đều từ thí dụ đều có một ý, nhưng “Cơ” luận về khả năng phát, nói “khí” nghĩa là kham nỗi trách nhiệm, được thân trời người thì gọi chung là “khí”. Do chứa ba lỗi nên “khí” thành “phi hảo” (không tốt), do hạt giống đời trước gieo lại nhỏ, không có cơ có thể phát, hai nghĩa đều thiếu, do uy thần Phật nên khiến họ ra đi.

“Có ba điều khác nhau”: 1. Liệt kê. 2. Giải thích. Liệt kê nói trên có tán thán pháp hy hữu: là trong sáu đoạn của chướng chư Phật bên trên chỉ không có hai đoạn sau cho nên có tán thán pháp. Văn nói: “Diệu pháp như vậy chư Phật Như Lai đúng thời mới nói” mà không có văn nói Ngũ trược. Trong tụng không có tán thán pháp. Đầu sau: Trên trước tán thán, pháp như trước nay đã dẫn. Nói “bất hư” thì văn tiếp mới nói: “Các ông nên tin lời Phật nói không hư vọng.” Và để khai hiển, trên khuyến tín cùng bất hư hợp. Trên nói: “Các ông phải tin lời Phật nói không hư dối”. Nay cách biệt bất hư là nay trong tụng “khuyên tin” ở trước, “bất hư” ở sau. Trong đó cách biệt văn Ngũ trược, cho nên trước bốn nay năm, do tách khuyến tín làm hai. Nên nói trong khuyến tín bất hư là ngũ trược sở cách. Chương An lại nói: “Trên do Đức Thích-ca phương tiện dùng giải thích chư Phật thiết lập Quyền”: Trên giải thích chư Phật khai Quyền, văn nói: “Ta dùng vô số phương tiện các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ” để diễn thuyết các pháp. Trong kệ, như văn. “Tu đạo đắc nơi các quyền pháp”: là tự hạnh nhân mãn thì cảm quyền pháp, chính đương là quyền trong thể tự hành tức pháp thể đây cũng không thể nói. Dùng phương tiện cho nên vì chúng sinh mà thuyết thành “hóa tha quyền”, tức văn nói Chiếu chín pháp giới trở về sau.

Cho nên, biết rằng nói “lập một khai quyền”, mà đối nay bèn thành hai ý: l. Nêu cao (đằng) xưa thi Quyền. 2. Làm chỗ hiển thật. Không chỉ sở khai thì không do đâu mà thuyết Thật, huống chi chỉ cho mọi người biết Quyền là Quyền, biết đó chẳng phải cứu cánh. Đã hiển Thật rồi thì Quyền toàn là Thật. “Chiếu căn cơ của chín pháp giới thuyết Thất phương tiện”: chín là đối tượng được gia bị giáo không ngoài bảy, nói bảy gia bị chín dần dần khiến nhập thật. Nhân pháp chín và bảy cho nên lập tổng nói. “Chín pháp giới” là từ tự phần mà đặt tên. “Phương tiện” là căn cứ nơi tiến đến mà gọi. Lại, chín pháp giới là căn cứ căn cơ chúng sinh mà đặt tên. “Phương tiện” thì từ hóa chủ mà được tên. Tổng nêu không đồng cho nên nói “bảy, chín”.

Nói “không thể định phán”: Trong bảy, chín tùy những căn cơ nào; nghe những pháp nào gặp căn cơ liền hợp, cho nên nói “bất định”. “Hiện khởi…”: Niệm ắt đối cảnh cho nên nói “hiện khởi”. Nói “chủng chủng” (các thứ) cũng không ra ngoài bảy, chín! “Quá khứ…”: là giải thích “dục tánh”. “Dục” chỉ là niệm, cho nên biết chỉ là trước thì dùng hy vọng để giải thích niệm, tiếp thì dùng vui thích để giải thích “dục”. Cho nên, biết rằng: “niệm” thì nói nội tâm, “dục” thì luận đối cảnh sinh tưởng, nay chỉ căn cứ sự hâm mộ ưa thích, thông theo dục làm tên, không mượn đối niệm biện biệt, cho nên chỉ dùng dục đối tánh hai đời mà phán định.

Hỏi: Trước nói quá khứ gọi là căn, vị lai gọi là tánh, nay vì sao nói quá khứ gọi là tánh?

Đáp: Đều có ý kia. Tánh chắc không sửa đổi, cho nên từ hiện lại đến vị lai từ quá khứ đến nay, hai xứ đều được tên “tánh” cho nên như vậy. Cũng có thể hiện tại gọi là “căn” bởi vì sinh vị lai, nhưng “căn tánh” thì mới có thể xen nhau mà nêu lên. Lạc dục ắt ở hiện tại, tên “dục” tuy không từ quá khứ cũng có thể do hiện tại vọng đương lai, dùng danh lẫn xen cho nên cố lập lại giải thích nói: “Hoặc có thể huân tập dục để thành tánh, thành tánh sinh huân tập dục”. Câu trên thì hiện tại dục thành vị lai tánh, câu dưới thì quá khứ tánh thành hiện tại dục. “Vân vân”: là Hoặc có thể quá khứ dục thành hiện tại tánh, hiện tại tánh thành vị lai dục, hoặc có thể quá khứ dục thành quá khứ tánh, hiện tại dục thành vị lai tánh. Vậy thì tên “dục” tuy thông quá khứ vị lai vẫn từ hiện tại nói. Cho nên, biết rằng tên “dục niệm” định ở hiện tại. Từ “Thất phương tiện” đến “vân vân”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán tùy tự ý quán, trong quán ác. Nói thông đồ (đường thông) thiện ác là nghĩa đó. Từ “Độn căn” đến “ý thiết lập quyền”, đây là văn trường hàng, nay không nói trường hàng chỉ vì kệ cùng trường hàng không đồng, tùy sự trọng yếu thì biện rõ đồng khác. Hoặc có thể lược nêu rõ ý thì có thể biết.

“Ta bày (thiết) phương tiện đó” trở xuống: ba hàng tụng lý. Văn phần nhiều nói “thuyết” thay vì “thiết”. Nói lý đó thế nào? Như nói chưa từng thuyết vì thời thuyết chưa đến, tùy thuận thuyết v.v… cũng là dùng năng hiển sở. Căn cứ theo các lệ trước lược cũng có thể biết. Nay văn chính dùng Phật tuệ làm hạnh lý. “Thanh văn kiêm đắc Duyên giác”: Trong số Thanh-văn có người gặp Phật Duyên giác. Lại Tam tạng Thanh-văn ắt kiêm đương giáo Duyên giác. Lại Bồ-tát đã bao gồm Tạng Thông, Nhị thừa ắt đủ hai giáo. Bồ-tát không nói Biệt: Trước dùng tịnh tâm làm Biệt giáo xong. Đã dùng Thanh văn Bồ-tát làm nghĩa lập, cho đến một câu thảy đều thành Phật.

Lại, khuyên răn nói “không nghi”: Nên biết đây là lời nói rất thành thực của bậc cực Thánh mà không chịu tin. Đại kinh nói: Hết thảy Nhị thừa vị lai nhất định quy về Đại Bát Niết-bàn như các dòng nước vào biển. Lại Bồ-tát cùng Nhị thừa hợp nêu rõ. Phải biết tam thừa ắt đều được hội. “Điệp giả danh tam giáo…” Tam giáo là giả danh, giáo bản nhất thật cho nên “tam” là giả. Vì chúng sinh mà giả thiết lập Quyền: Tam tạng… Nay đã hiển Thật lại lần nữa nêu đối tượng bị trừ bỏ để chỉ bày Phật tuệ, tức câu trên đã liệt nêu. “Không hai: là không có hai thứ Bán và Mãn đối nhau trong Thông giáo”: thông chân bao hàm hai. Do thiếu Biệt giáo cho nên lại dẫn các thừa khác còn lại ở trên đến đây giải thích thành. Nói “giả” tức là Thông luận tam giáo, nói cái khác và dùng hai, ba. Lại nói “tương nhập” do có cái khác đều là giả cho nên được tương nhập. Không có cái khác thì không còn gọi là tương nhập, bởi vì thuần nhất. Đây văn nói ba vị: Sữa, Sinh tô và Thục tô xong.

“Một hàng rưỡi đầu, nêu nội tâm”. Kinh nói: “Như ta xưa đã nguyện, nay đã đầy đủ rồi”.

Hỏi: Đức Phật ban đầu lập nguyện nguyện độ tất cả chúng sinh, nay chúng sinh còn nhiều thì nguyện làm sao mãn?

Đáp: Hãy cứ theo một kỳ, nói tổng quát là: Chỉ khiến chúng sinh đắc nhập Phật thừa thì gọi là nguyện mãn. Cho nên kinh nói: “như ta không khác”.

“Nếu ta gặp chúng sinh…”: là nêu trược không chướng Đại. “Gặp”: là tận khiến nhập Phật đạo. Không trí không thọ, nên gọi là “chướng Đại”. “Chúng sinh”: Trong văn có ba giải thích: 1. Giải thích đối “tha” đắc danh. 2. Giải thích từ “tự” lập xưng. 3. Giải thích tức là công năng. Tân dịch sợ lạm xưng làm hữu tình. Tuy giản lược vô tình mà ba nghĩa đều lỗi. “Mười loại chúng sinh, Sinh tử ngắn” trong đó nói “phạm hạnh ít nói”: là ở Dục giới các địa pháp như vậy nhiều lời; do có ngôn ngữ đều do giác quán, do ít lời nên biết giác quán thiếu, phiền não tạm mỏng cho nên nói “ngắn”. “Phương”: Cũng như phương vật động tĩnh định, ở đây chết rồi định sinh lên cõi trời. “Tam giác”: Giác là tụ, tức thiện, ác, vô ký, ở trong sinh tử khắp làm ba thứ nghiệp này. Các luật luận văn phần nhiều dùng tụ gọi là giác, thiếu giải thích “tử (đỏ tím)” tức Tu-la. Tu-la có nhiều chủng loại gọi là thiên, quỷ, súc sinh như sắc đỏ tím, lại luân hồi. Như Kiến Bảo Tam-muội kinh nói: “Từ địa ngục đến, thì nghe tiếng hét bỗng gấp run sợ, mộng thấy lửa lớn thiêu cháy… Từ súc sinh đến, thì ám độn giải đãi, ăn nhiều tánh sợ, ngượng nghịu chậm chạp, hành động phần nhiều tợ như các trùng súc sinh… Từ quỷ đến, thì tóc vàng thường đói khát xan tham… Các loài khác so đây có thể biết”. Kinh rộng nói đủ.

“Ta biết…”: là biệt nêu năm trược: Trước khai chương nói: biệt nêu năm trược chướng ba, năm trược vọng ba ắt không thể chướng, vì ba sở trị là sở trị chướng, cho nên nói chướng, cũng là có trược cho nên không ba, có ba cho nên không trược, cho nên nói chướng. “Thọ thai vi hình”: Đầu văn tức căn cứ quán tâm chỉ tùy tiện thôi chỉ nói từ tâm tức gọi là quán tâm, kỳ thật trong đây vẫn đới sự giải thích. Do đây nhất niệm tâm rất vi tế cho nên khiến tăng trưởng. Tiếp, “Thọ thai…”: toàn căn cứ sự giải thích lược như trong Chỉ Quán quyển bốn nói dẫn kinh Nhập Thai. Có người lập đủ thọ thai chương môn, đối với ở đây thì chẳng phải là trọng yếu. Nay ý chỉ tại hiển nghĩa năm trược cần thiết lập Quyền, liệt kê danh mà đã nêu đầy đủ ý trược. Đâu uổng ở đây rộng kiến lập chương dài khiến mê đường, như thế nghĩa là Pháp Hoa cũng nêu rõ năm trược cùng Bà-sa không khác. Như người đời nói: “Pháp Hoa cũng nêu tam thừa”, kia lỗi như vậy. “Thọ Ấm Thân”: E rằng chỉ là Nhập Thai kinh nói tổng có ba mươi tám lần bảy ngày để luận tăng trưởng. Như luận Câu-xá… văn chỉ liệt kê năm vị nói: Đầu tiên là Yết-lặc-lam, tiếp là sinh Ác-bộ-đàm, từ đây sinh Bế-thi, Bế-thi sinh Yết-nam, tiếp là Bát-la-xa-khư. “Hoặc là nói như trong kinh Đại Phẩm nói”: tức căn cứ hai mươi thân kiến, như… đầy đủ như trước dẫn. “Thời gian dài…”: Nay văn đầy đủ hai nghĩa cho nên kiếp được gọi là trược, trong văn đầu chỉ có nghĩa thứ hai, sau trong liệu giản mới có nghĩa đầu.

Tụng “Chương quá khứ Phật”: hai hàng đầu chánh thiết lập tam, gọi “thi” (thiết lập) là “khai”. “Một hàng đầu lược tụng Tam nhất bên trên”. Trong văn dùng “Giáo, Nhân, Lý ba Nhất, kiêm đắc Hạnh Nhất”: có đủ hai ý: l. Thông kiêm, đã có ba thứ kia lẽ nào không có Hạnh ư? 2. Biệt kiêm, tức dùng hai chữ “Phật đạo” để kiêm đó, sở thú là Lý, năng thú là Hạnh.

Trong “Một hàng rưỡi đầu tổng căn cứ năm thừa” dùng “Nhân, Hạnh kiêm Giáo nhất”: Đã có Nhân, Hạnh ắt có sở bẩm tức là Giáo. Trong đây “dùng Thất phương tiện” làm “dị phương tiện”, do Tạng nhân không đồng Diễn môn, cho nên thành hoàn toàn sai khác, các văn khác phần nhiều dùng. Nay thông dụng: Chưa đồng Viên thì đều gọi là “dị”.

“Nếu có…”: “hai hàng khai Bồ-tát thừa”, trong đó hai giải thích tiến, thoái cũng có hai nghĩa. Danh xưng “năm thừa” chỉ tại Lộc uyển. “Thất phương tiện” danh thông cả ba vị. “Hành lục độ” không hạn cuộc nơi một giáo, cho nên có thể thông cả ba. Dùng Tam tạng làm bản cho nên nói “kiêm Thông, Biệt”. “Vì sao…?”: là giải thích xuất tam giáo lục độ hạnh tướng. “Phi tướng phi vô tướng thứ đệ hành”: là song phi, tức là sở tư (cái bị tách ra), cũng nên thứ lớp xuất tam đế hành tướng. Nhưng dùng tướng vô tướng cùng luận tức tam đế. Lại nhập địa tam đế không còn luận khai, nhưng trong Bồ-tát thừa cũng nói: “Xưa nghe pháp đã thành Giáo nhất” tức là: “Nếu Bồ-tát không khai thì đâu cần dẫn xưa khiến thành Giáo nhất”. Cho nên, phàm nói “xưa” thì đều đủ hai ý: l. Tại xưa nghe quyền. 2. Xưa đã từng khai. Nay chánh nói xưa nghe Quyền là xưa khai đã xong đều thành Phật đạo. Nghĩa đầu căn cứ hóa nghi nói, ý tiếp căn cứ khai xong nói. Đi xuống các thừa còn lại mỗi mỗi đều như vậy; xưa Phật cũng vậy. Trong văn Nhị thừa có Nhân, Lý, Hạnh, không nói kiêm Giáo, chỉ là lược văn. Văn Bồ-tát ở trước cũng dùng ba kiêm một sau khi chư Phật diệt độ, cúng dường xá-lợi: Nếu do hiện tại so sánh quá khứ như trong Tăng Nhất nói: Phật nhân đưa cao xá-lợi rộng xưng tán rồi, khiến nơi ngã tư đường mà khởi Thâu-bà. Phật dạy: nên xây tháp cho bốn hạng người là Luân vương, La-hán, Bíchchi-phật và Như Lai. Sau phân nói: Luân vương không cấp bậc, La-hán bốn cấp, Bích-chi-phật năm cấp, Như Lai mười ba cấp. A-nan hỏi Phật: Vì sao như vậy? Phật dạy: Luân vương tự hạnh hóa tha thường trú thập thiện, La-hán không thọ thân đời sau, Bích-chi-phật không có thầy tự ngộ, Như Lai các đức đầy đủ. Người đời trên thì chưa bằng sơ quả, lẽ nào chịu dưới bậc Luân vương, sau khi diệt độ xây tháp không biết tiến không? Động tức đều đến ba, năm, bảy, chín. Đời cận đại xây theo theo chiều dọc, nói là Phương phần mà mái đưa ra cho nên trở lại thành một tầng. Ám: Tuy mê muội lẽ nào chẳng phải tối tăm nơi sơ quả ư? Có phương phần biên nói “tạo tháp công đức”, nghĩa ấy lại lỗi, khiến người ngu chỉ lễ thầy ta, hoặc lại đối cao lễ thấp huống lại lân cận nối tiếp tôn ti không thành, ý không tiện không thể luận đủ. Dù rằng người chết mờ mịt mà rõ ràng người sống còn bận rộn, huống chi nay nói xá-lợi, hạn cuộc tại nơi Phật, cúng xá-lợi Phật phước thuộc nhân thiên, khai nhân lâu dài mới gọi là Phật đạo, huống chi nay phàm chất sinh phước sự khó. Người thiện từ đây không nên huân tập theo thế tục. “Địa sư” nói “Đồng chân địa”: địa lập danh đồng chân. Chỉ vì người xưa nói: “Trụ làm năng trụ, Địa làm sở y”, cho nên dùng tên “trụ” mà gọi là “địa”. Dưạ theo “trụ” làm tên thì từ lâu rất xa. Vì vẫn còn sâu cho nên thêm vào đó dùng “địa”. “Nay cho là….”: trách nói trái văn. Trong văn chỉ nói “đồng tử”.

Nói “dọc hẹp”: Là ngang thì thâu tiểu thiện, dọc thì thành nhân Phật, tức là ngang dọc không trái, chẳng sâu chẳng cạn mà sâu mà cạn. Nếu dùng “đồng chân” để giải thích thì chỉ có dọc mà không có ngang, huống chi dọc sâu không có thì sẽ bỏ rộng trái văn, là biết “dọc hẹp” cả hai đều có lỗi. “Đăng địa…”: là phá lỗi chỉ có sâu, vẫn lược lỗi bỏ ngang. “Nay dùng…”: là chánh giải thích thâu nơi đồng trĩ (trẻ nhỏ) để hiển ngang rộng. “Chỉ vi tế tức chấp”: dùng để biện minh dọc sâu, chấp tại vi tế sâu tức chẳng sâu, vi tế tức chấp cạn cũng chẳng cạn, “chỉ vi tế tức chấp” duyên nhân nghĩa thành, tức quán chấp, chẳng phải ở đây có thể biện. Bên dưới lệ như vậy. Cho nên nhập địa thành Phật như Tu-la qua biển, đây căn cứ kinh Anh Lạc cho nên nói “nhập địa”. “Người phàm phu” một chút thiện đi tắt thành nhân Phật, như “người qua biển lớn”. Từ “Phật phân minh…”: là lần nữa lập lý để bày xích hai lỗi. “Nếu như …”: lại nêu lỗi để bài bác. Lại theo lệ trên dưới cũng gọi là trái văn. Nếu sợ đồng tử sự nhỏ bé không xứng Phật đạo, thì tâm tán loạn một phen xướng lên làm sao hiểu rõ nghĩa dung thông? Chấp tay đưa tay cao đều ứng lý giải thích. Cho nên biết chỉ còn Phật đạo, không biết khai Quyền. “Hầu như (đãi) không nhiếp Nhị thừa”: “Đãi” là “Cơ” (gần như). “Cơ” là “Cận” (giống như). Lẽ ra nói “hoàn toàn không thu nhiếp”. Tại sao chỉ “gần như” ư? Nếu tại đồng chân thì vẫn còn không nhiếp lục địa, huống chi là tiểu đạo. “Luận sâu…”: là kết “dọc hẹp” kia. “Định rộng…”: là kết lỗi “dọc hẹp”.

Tiếp, “Vấn đáp”: Trong “đáp” ý nói “ba Phật tánh”: Quá khứ chút ít thiện nguyện trí làm ra đều hướng đến Bồ-đề, như lửa cháy hướng hư không, về lý luôn đều tắt, nước chảy về biển “pháp nhĩ” không ngừng, chỉ do nguyện trí chưa giúp, tiện phong cho quả báo, cho nên đợi nay Khai mới là “duyên nhân”. Nếu căn cứ ý hóa thì đâu đợi đây khai, nếu thuận phàm tình mà lập thì dùng cận xưng. Nay khai cận chấp pháp giới bản như, lẽ nào do phàm tình hạn cuộc nơi dòng, lửa kia, trong quan hệ tuy lập thiện không thọ báo mà không rõ thể của thiện vốn dung thông, chỉ vì chúng sinh từ vô thủy chỉ chuyển lưu vọng ngã, phàm sở tu tập chưa từng không cùng nó. Nói “Không thọ báo”, thì căn cứ vào đâu mà lập! Nếu căn cứ người đã phát tâm, thì do nguyện hạnh sở dẫn, tại sao liên quan đến thiện không thọ? Người chưa phát tâm đến thì tùy sinh thâu nạp phước, thiện này lẽ nào ngăn cấm khiến không thọ ư? Cho nên, biết rằng nói “không thọ” là thiện thể không có lực. Phải biết: người từng báo đáp, thì nhân kia đã xong, người chưa báo đáp thì chút thiện cũng không quên. Nếu từng phát tâm thì như nước ký thác vào biển. Báo đáp hạn cuộc nhân (Thù cục nhân), như quả đáp hoa, cho nên nay ở kia nhân chưa báo đáp. Khai hạn cuộc tình kia và từng thú hướng Quyền thừa đạo, dùng nhất Thật quán nhất Đại hoằng thệ nguyện, thể nghiệm điều đó, nói điều đó. Nếu không như vậy thì luống uổng nói “Thuyết khai”. Nếu không quán thì nên khéo thể nghiệm tự mình đến Bồ-đề đâu cần lại tu Bồ-đề hạnh nguyện.

Hỏi: Nếu vậy, thì vì sao bản luận nói đồng tử đùa giỡn nhóm cát thành tháp Phật … gọi là phát Bồ-đề tâm hành Bồ-tát hạnh, sở tác thiện căn năng chứng Bồ-đề? Chẳng phải các phàm phu và quyết định Thanh văn, là người chưa phát tâm, mà có khả năng đắc ư?

Đáp: Đây chính là từ khai mà nói, chẳng nói bản thiện, cho nên biết định tánh và hiện chưa phát tâm dù có thiện đời trước như cát sông Hằng trọn không có lý tự thành Bồ-đề, cho nên nói chẳng phải kia năng đắc.

Nếu chưa khai thì chỉ trong khoảnh khắc lại qua đi đã thành phi (lỗi). Nay nếu được khai thì trước đã làm thành rồi. Cho nên biết thiện thể vốn vi diệu tùy tâm của người chấp. Vì vậy cho nên khai tâm thì thiện đời trước đều thành. Tiếp, “Đại kinh…”: là giải thích nguyên do xuất duyên nhân, ba mươi hai văn liệt đủ trong bốn câu: Xưa nói “người Xiển-đề không có”: là quyết định không có tánh thiện, chỉ có cảnh giới tánh ác, năm ấm ác thôi! Người thiện căn có liễu nhân tánh, đều có chánh nhân, đều không có quả tánh. Hà Tây nói: Người Xiển-đề có ác ấm tánh, người thiện có thiện ấm tánh, đều có vô ký, đều không đồng trước. Hưng Hoàng có ba giải thích: Thứ nhất là căn cứ lý giải thích, lý chẳng thiện ác, có hai dụng kia, tức chỉ hai hạng người đều có một loại dụng thiện ác. “Đều có đều không”: là xen lẫn được có không một bên. Hai giải thích còn lại không chính yếu. Chương An nói: Đây giải thích trong sông Niết-bàn có bảy loại chúng sinh, nên nói người Xiển-đề thường chìm, người thiện thường nổi. “Đều có” là đều ở trong sông, “đều không” là đều không đến bờ, cùng dùng quả tánh làm “đều không”. Lại, căn cứ Tam đế giải thích: Người Xiển-đề chỉ có Thế đế nhân ác, người thiện chỉ có Chân đế nhân thiện, đều có Thế đế quả thân, đều không có Trung đạo nhân quả. Trong các giải thích tuy có chút ít khác nhau, nhưng một câu Người thiện kia ý chỉ đại đồng. Cái không đồng kia, nay không rảnh giải thích. Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Cho nên nay dẫn “đồng”: là chứng duyên nhân thiện.

Hỏi: Trên giải thích Tam thừa đều dùng quả thành làm câu Lý nhất, nay Nhân thiên thừa vì sao dùng Phật đạo mà làm duyên nhân ư?

Đáp: Do sở khai không đồng, trước khai hai giáo nhị thừa và dùng Thông Biệt Bồ-tát đều có lý sở chứng, cho nên khai lý Tiểu để thành lý Đại, nay khai nhân thiên Tiểu thiện đã thành duyên nhân Đại thiện.

Lại căn cứ năng hướng thiện thể chưa sâu, nếu từ biên sở thú nói đây, thì đều có lượng tính. Đây luận khai quyền đều căn cứ ở vị đã xem xét. Nếu từ tiến nhập thì tại sao riêng trụ duyên nhân ở trước mà thôi? Trong đây chỉ theo việc đã qua để nói. Việc và người vì kia đã định, không thể tồn pháp bỏ người, vì vậy cho nên khai làm duyên nhân, lẽ nào chẳng phải như người nghèo được vật báu.

Kinh nói “Bảy thứ châu báu….”: Trong Phật Địa luận không nói Mai khôi, nhưng nói Lưu-ly và Châu thể có khác, Châu tức ngọc đỏ, nay kiêm Lưu ly chỉ thành bảy báu, tách ra thành tám. Pha-lê phần nhiều sắc hồng, Xà-cừ sắc xanh trắng, Mã não sắc hoặc trắng hoặc xanh. “Mộc mật”: Tự Lâm nói: Hương mộc thiết. Ngọc Thiên nói: Cây kia tợ cây hòe mà có hương thơm. Có người nói: trải qua năm năm mới có mùi hương. “Tạo tượng là thiện nghiêp”: như Phật lên cõi trời Đao-lợi dùng sức thần túc chế dạy các đệ tử, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một nói. Nếu căn cứ Minh Tường Ký thì cõi đây có một trăm mười tám nơi tạo tượng ứng nghiệm, như tượng đá đời Ngô tạo… lại có Ngô Hưng Thái thú đeo nữ trang cho người con gái rồi tượng có cảm ứng… Lại như Tống vệ quân Lâm Khang Vương tại Kinh châu làm nhà ba gian ở trong thành, quanh vách phần nhiều có vẽ tượng Bồ-tát, đến Vệ Dương Văn Vương trấn giữ Giang Lăng phế bỏ làm nhà nghỉ ngơi, đều bằng đất bùn khô bôi thì rơi rớt nên vẽ hình trạng mới sạch rõ ràng không ô uế tổn hại, rồi bôi lại lần nữa cũng vậy vua không tin kính cũng cho là ngẫu nhiên, lại dùng bùn đặc bôi mà thấy thông suốt rõ ràng, vua lại sai hủy bỏ cho nên vách đều sửa đổi lại, sau vua bị bệnh sởi mỗi khi nhắm mắt liền thấy các tượng rất nhiều rõ ràng. Nơi ấy mới phế bỏ ở đây. Đây hoặc là người tạo tâm trịnh trọng, hoặc là người hủy rất hại, dùng khinh vọng trọng để hủy vọng thành. Phải biết tán tâm thiện vi tế không lỗi, lý không trái thuận mà tâm có đúng sai.

“Kinh Ưu-bà-tắc Giới…”: Trong đây văn ý chánh khai thiện kia không luận tội kia, nhân nêu rõ dụng liên quan tiện giải thích đó thôi! Nay cũng nhân đây y kia lược nêu, cho nên kinh kia rộng nêu tướng năm giới trì phá. Lại nói nếu không trì giới thì gọi là Cấu Ưu-bà-tắc, Xú Ưu-bà-tắc, Chiên-đà-la Ưu-bà-tắc. Nếu trì giới sát thì cho đến con kiến, như trì giới rượu thì cho đến (hạt) giọt sương, đối với năm giới nói trên nếu thêm không giới bán rượu thì gọi là sáu giới trọng. Nay xuất gia tại gia nói trì giới rượu, còn dùng rượu hòa vào thức ăn, một người phàm uống bao nhiêu giọt ư! Còn không bằng Ưu-bà-tắc giới đâu có thể hy vọng Phật đạo ư! Trong năm giới trên lại có chúng phần nhiều thất tội lỗi nơi ý, nay văn chưa tận, lại có thất ý, nghĩa là không cúng dường Sư tăng không thăm bệnh, không phát sinh sự cầu xin dư thừa là không nghinh đón, bốn chúng đã từng gieo nhân đời trước, thấy người phá giới, nói họ không như mình (không bằng mình), sáu ngày trai không thọ tám giới, trong bốn mươi dặm có giảng pháp mà không nghe, thọ nhận tọa cụ sàng tòa của Chiêu-đề tăng, nghi nước có trùng mà uống, đi một mình vào đường nguy hiểm nạn dữ, một mình ngủ đêm ở chùa ni, vì tài mạng nên đánh đập nô tỳ và người ngoài. Giữa đường thấy Tỳ-kheo, thì Sa-di không được đi trước, trong tăng làm thức ăn không được riêng cho (thầy) Bản sư ăn ngon và ăn quá phần, đi đường thấy người bệnh không được không săn sóc, không dặn dò khiến trị bệnh. Người trì giới như vậy gọi là tịnh, gọi là hương, gọi là Phân-đà-lợi Ưu-bà-tắc. Lại chế Ưubà-tắc khiến cúng dường Tam bảo hình tượng tháp miếu các thứ. Họa tượng không được dùng lẫn tạp sữa mỡ gà, cúng dường tượng thời đêm ngày không sai khác, không được dùng dầu tô bôi vào thân tượng và sữa rửa không được tạo tượng bán thân, thân tượng không đầy đủ nên cất dấu, và khuyên người sửa lại, sửa rồi phải đem ra cúng dường, lại thấy hủy tượng như hư hết không còn cách nào khác, dùng báu khắp tứ thiên hạ cúng dường, không bằng dùng các thứ công đức tán thán tôn tượng, chí tâm cúng dường, hai phước không sai khác. Người cúng dường pháp chí tâm tin ưa, thọ trì đọc tụng giải nói viết chép, như pháp mà hành và khuyên người làm, các thứ biên chép mười hai bộ kinh, cúng dường kinh như cúng dường Phật, chỉ trừ khi tắm rửa, gọi là cúng dường Pháp. Cúng dường Tăng: Cần phải cúng dường người phát Bồ-đề tâm người thọ trì giới, người xuất gia, bốn hướng bốn quả gọi là cúng dường Tăng. Nay trải qua tiểu thiện mà còn làm nhân Phật huống chi là thời gian dài chí tâm cúng dường, các thứ đây tuy thuộc tại gia Ưu-bà-tắc, và có chút ít chấp nhận chẳng phải chánh ý văn, nhưng để ngăn tội khiến trì, trì tức là thiện nhân thiên, đều có thể khai làm duyên nhân nhưng cũng đều là điểm yếu của người xuất gia tu hành có khả năng làm phép tắc qui cũ, vì vậy cho nên nhân tiện chép ra đây. Nay, kinh muốn thâu nhiếp thiện vi tế từ vô thủy đều hướng đến Bồ-đề. Nếu người đã phát tâm tùy có chút thiện thì đều là duyên nhân. Giới kinh nói: “Nơi dựng lập tượng thì phía trước không được ngồi vân vân”: là lại có nhiều duyên: Nếu nạn vua… thì tùy thời châm chước. Lại kinh Công Đức Tạo Tượng nói có mười một công đức: 1. Đời đời mắt thường trong sáng. 2. Sinh nơi nào cũng không gặp ác. 3. Thường sinh trong nhà giàu sang. 4. Thân có màu sắc vàng tía. 5. Giàu sang nhiều trân báu. . Sinh trong nhà hiền thiện. 7. Sinh được làm vua. 8. Làm Kim luân vương. . Sinh ở cõi Phạm thiên thọ mạng một kiếp. 10. Không đọa vào đường ác. 11. Đời sau sinh trở lại hay kính trọng Tam bảo. Phải biết đâu phải là thiện căn ở Dục giới nhân thiên.

Kinh nói: “Duyên” (chì): Có chỗ nói Tích, nay nói Duyên thì xanh, Tích thì trắng, Duyên (chì) thì mềm, Tích (kẽm) thì cứng đều gọi là “thanh kim” (vàng xanh). Kinh Công Đức Tạo Tượng nói: “Nếu người sắp chết nói tạo tượng” cho đến “như dùng mì bún tạo tượng” thì có thể trừ diệt được tội nặng sinh tử trong ba đời tám mươi ức kiếp. “Miếu” là Mạo. Xưa nói: Chi-đề, nay nói Chế-đa dịch là Linh miếu, nên dùng chữ “Miếu”. Ngọc Thiên và Bạch Hổ chung đều nói là chỗ ở của Tôn mạo. “Lộ-bàn là Đồng bạt”, Trường an cũng không có âm đây, hoặc thanh chuyển đó thôi! Hoặc đương thời có người truyền, Chương An tùy tiện viết. Kinh nói “bối”, hoặc nói “bối nặc”, Trung Hoa gọi là “tán tụng”, phương Tây vốn có. Trung Hoa dựa theo Lương Tuyên Nghiệm ký nói: Trần Tư vương, họ Tào tên Thực, tự Tử Kiến con thứ tư của Ngụy Võ Đế, mười tuổi đã tài giỏi về văn chương nghệ thuật, tự chế tác chuyển bảy thanh. Thực đã từng dạo chơi ở Ngư Sơn trong hang cốc, nghe tiếng tụng kinh trong cốc xa vang ra tiếng hay, liền bắt chước mà chế tác lại âm thanh ấy, Như Kinh Hiền Ngu nói duyên Linh Thanh Tỳ-kheo…

“Âm nhạc cúng dường”: Có trong chúng xuất gia âm nhạc tự tùy. Nói “cúng dường”: Tự tư duy rồi thực hành để tâm nào đi theo? Tuy có văn đây ắt cần phải lựa chọn. Kinh Phạm Võng răn dạy chế phục đâu đợi cố chấp lời nói, chỉ sợ tâm cúng dường thì nhỏ mà làm tăng thêm sự phóng dật của tự thân, tăng trưởng lòng tham mạn cho người khác, kính tưởng khó thành. Cho nên Biệt dịch A-hàm quyển năm nói: Đức Phật ở tại thành Ca-lan-đà có một kỹ nữ tên là Trường Phát bạch Phật rằng: Con xưa từng hầu hạ bên cạnh một kỹ nữ lớn tuổi, nghe nói rằng: Ở trong trường kỹ viện thi thiết các việc đùa giỡn khiến trăm ngàn người đến xem, người ấy khi mạng chung sinh cõi trời Quang Âm, nói như vậy là hư hay thật? Phật dạy: Thôi thôi! Chớ hỏi như vậy. Kỹ nữ lại hỏi lại ba lần như vậy, đức Phật đều không đáp. Lúc bấy giờ đức Như Lai nói với kỹ nữ rằng: Lúc ấy có trăm ngàn người đến xem kỹ nữ, các người ấy vốn bị ba độc trói buộc, lại tạo tác việc phóng dật, lẽ nào không tăng trưởng tham sân si ư? Ví như có người bị sợi dây gai nhỏ như sợi lông trói buộc, nếu đem nước tưới vào thì càng làm tăng thêm sự buộc chặt nữa. Vốn bị ba độc trói buộc, lại làm kỹ nhạc thì sẽ tăng trưởng mạnh lửa tam độc, sau mạng chung sinh lên cõi trời thì không có việc ấy. Người nói như vậy là người tà kiến, mắc quả tà kiến sinh vào địa ngục. Khi Phật dạy lời ấy kỹ nữ khóc lóc. Phật dạy: Vì duyên ấy nên ngươi ba phen thỉnh, ta không nói. Kỹ nữ nói: Con không được nghe Phật dạy nên con khóc, chỉ thương xót cho các kỹ nữ khác lâu nay thường nói như vậy.

Có người đến đây dẫn các kinh nói: Người nào đem hoa hương âm nhạc cúng dường: thì được Bất thoái. Như kinh Bất Thoái Pháp Luân nói: Đức Phật bảo A-nan lấy một hoa cúng dường Phật và tháp Phật thì cũng được Bất thoái, và kinh Nghiêp Báo Sai Biệt nói: Lễ bái sẽ đắc đến Đại Niết-bàn… Người kia đã làm nhân Thật, tức văn này khai thô tức Thật cho nên cùng này văn không theo lệ. Có người dẫn Đại luận nói tiểu nhân đại quả, không theo lệ cũng vậy. “Độ ngã có thể thi chúng sinh”: Nếu luận “độ ngã” nên tại cơ vật (căn cơ chúng sinh). “Thi” là thi thiết, nay đức Thích-ca nhân nghe mười phương chư Phật ủy dụ bèn xưng “Nam-mô” để đáp lời chư Phật. Cho nên, biết rằng đức Thích-ca không thỉnh chư Phật độ. Từ “Kinh Ngũ Giới” cho đến “thi Phật”: là căn cứ theo Phật cũng không có lý kinh sợ. Y trong thí dụ dưới: Trưởng giả nghe rồi kinh sợ vào nhà lửa, pháp thân tư duy căn cơ nghĩa đáng kinh sợ. “Mừng xưng Nam-mô Phật”: tức là trong đáp thuận giải thích (xưng) Nam-mô chư Phật.

“Kinh Ngũ Giới giải thích Quy mạng vân vân”: “Kinh Na-tiên…” kinh kia nói: Na-tiên lúc nhỏ có Cố Cựu làm vua nước ngoại biên, giỏi tài vấn nạn, có nhiều vấn đáp cũng có thể kiêm giải thích nghi nhỏ. Natiên nói các Sa-môn thuyết lửa thế gian nóng không bằng lửa địa ngục. Vua nói: Đem viên đá nhỏ đặt trong lửa thế gian cho đến chiều thì đá cũng không tiêu. Lấy cục đá lớn để trong lửa địa ngục Nê-lê tức liền tiêu, tại sao người chết đọa nơi địa ngục Nê-lê trăm ngàn vạn năm lại không tiêu? Na-tiên hỏi: Cá thuồng luồng ở dưới nước lấy đá làm thức ăn phải không? Vua nói: Đúng vậy. Na-tiên hỏi: Đá tiêu chăng? Vua nói: Tiêu, Na-tiên nói: Trứng cá trong bụng cá có tiêu không? Vua nói: Không tiêu. Na-tiên hỏi: Vì sao không tiêu? Vua nói: Do phước đức khiến như vậy. Na-tiên nói: Ở trong địa ngục ác nghiêp chưa hết nên không tiêu, cũng như lang sói ăn xương thì xương tiêu, nhưng sói con ở trong bụng sói mẹ thì không tiêu.

Vua lại hỏi: Phật có tướng tốt không? Đáp: Có. Vua hỏi: Đức Phật có cha mẹ không? Đáp: Không. Vua hỏi: Đức Phật cũng không có người sinh ra tợ như cha mẹ ư? Na-tiên nói: Vua thấy hoa sen không? Đáp: Có thấy. Lại hỏi: Sinh từ dưới bùn phải không’? Đáp: Sinh từ bùn. Na-tiên nói: Lẽ nào hoa sen vì sinh từ bùn mà tợ như bùn ư? Đức Phật cũng như vậy.

Vua lại hỏi: một người chết sinh ở nước Kế Tân, một người chết sinh ở ngục Nê-lê thì ai đến trước? Na-tiên nói: Như hai con chim cùng bay từ kia đến đây, một con đậu trên cành cây cao một con đậu dưới cây thấp, hai con chim cùng bay con nào xuống đất trước? Vua nói: hai con cùng xuống đất. Vua nói: Hay thay! Hay thay! Các văn khác đều chẳng phải chánh ý sớ, nhân tiện biết điều đó cũng là để tăng trí phá tà để hiển bày niệm Phật.

“Kinh Bồ-tát Xử Thai, kinh Báo Ân nói, Hoa Lâm hội…”: Kinh nói: Hội thứ nhất độ chín mươi sáu ức người, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người, hội thứ ba độ chín mươi hai ức người, đều là người sơ giáo đắc quả. Ở chỗ đức Phật kia đến thời thứ năm đều được hiểu. “Nếu theo lệ thì trên…”: bên trên văn lục độ sau kết tam giáo làm ba câu này. Nay liễu nhân trí cũng lại như vậy, đều khai thiên tiểu để thành nơi Thật, lại nói song phi bắt đầu từ Tam tạng Bồ-tát cũng khác phàm phu Tiểu thừa, cho đến Biệt giáo địa tiền đều phải khai. Nhưng cũng phải biết nguyên do khai. Nếu tâm thô cảnh diệu thì chỉ khai tâm kia, như dùng tướng tâm trì kinh Pháp Hoa, như nghe một câu, một bài kệ Pháp Hoa… Nếu cảnh thô tâm diệu, cảnh đã tùy chuyển thì không cần luận khai. Nếu tâm cảnh đều thô thì tâm cảnh đều khai, cũng có thể chỉ khai tâm kia thì cảnh đều chuyển. Đạo lý ắt phải biết khéo thể nghiệm tánh thì mới gọi là khai. Tóm lại mà nói tâm cảnh đều khai. Còn khai được bốn ác thô trí lâu xa, huống chi nhân thiên trí. Nếu không khai thì tri kiến Phật vĩnh viễn vùi chôn trong bốn ác chìm hẳn trong nhân thiên.

Hỏi đáp ý: Khai chút thiện nhỏ trong quá khứ kia chính là kích động tâm chấp trong hiện tại. Đã được quá khứ Phật khai xong. Sở dĩ sau khi Phật diệt độ nghe một câu kinh nói được thọ ký là nêu lên chìm mất huống chi sâu! Đều là dự định khai tâm kia khiến thành tâm cảnh đều diệu. Nếu có người sau khi Phật diệt độ nghe kinh này không tin, còn trao cho đức Phật sau ở trong hội Pháp Hoa vì họ khai tâm kia. Ý kinh chính nói: Ba đời đều khai, ta lẽ nào lại không như vậy?

“Chư Phật đời vị lai…” hai hàng tụng Giáo nhất. Kinh văn đã nói: “Dầu nói” và “Cho nên nói” thì biết là “Giáo nhất”. Ba câu trong hàng đầu, nói “Dầu nói trăm ngàn ức…” là chỉ Thất phương tiện hết thảy thuyết Quyền, đồng thành liễu nhân. “Kỳ thật vì Phật thừa” một câu nói rõ ý thuyết Quyền. “Chư Phật lưỡng túc tôn” trở xuống, một hàng: nêu rõ nguyên do nói Nhất. Do biết “vô tánh” mà tu tịnh duyên, khiến được thành tựu năng diễn nói thừa đây. “Biết pháp thường vô tánh…”: Đến lý Nhất thật thì Tánh tướng nhị Không. Vô tánh tánh Không tức không có bốn tánh. Đã nói “Thật tướng không có tự tánh…”, cho nên biết tức là lý tánh tánh Không. Tánh Không đã vậy, tướng Không căn cứ đây mà biết. Vô tánh cũng không có, tức là tướng Không. Cho nên biết trong kinh nói một Vô tánh là đủ hai Vô tánh, tức là Vô tánh tánh, và Vô tướng tánh. Vốn tự có cho nên nói “thường vô”. “Biết” là chiếu, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm. Trong cảnh bất tư nghì thì “Nhất niệm tam thiên phi tự tha…”: Đã không có bốn tánh thì nhất niệm cũng không có, tức là tánh Không. Đã không có nhất niệm, thì “vô niệm” cũng không có, tức là tướng Không, tức là nhị Không bất tư nghì. Nếu không hiểu nay dựa theo Trí luận, Trung luận… chuẩn theo lý theo nghĩa, duyên nơi tâm tánh, lập hai Không đây thì các thứ khác không thể chuẩn theo đây. Không phải dùng pháp tướng mà sánh kịp, cho nên nơi thật đạo cần phải “nhàn tu tánh”. Hoặc là vốn tự hai Không, tức là tánh đức. Hoặc là xét nghiệm nhập Không, tức là tu đắc. Suy xét mà không thành thì cần phải tu vạn hạnh, chánh và trợ hợp hành. Trong hạnh đầy đủ tất cả các hạnh thì mới gọi là Duyên nhân, nghe nghĩa đây rồi mới gọi là khai.

Hỏi: Thế gian nhân duyên có thể dùng bốn câu để hiểu rõ sinh vô sinh, nay tánh vốn tịnh chẳng liên quan đến duyên khởi thì đâu cần dùng bốn câu này để suy tìm ư?

Đáp: Pháp duyên khởi thế gian cũng vốn vô sinh chỉ do tình chấp cho rằng đó là sinh, lý tánh cũng vậy. Do cho rằng tự tha bình đẳng nên cần phải suy xét. Nhị Không không hiển bày thì còn phải lại tiếp tục đợi suy tìm huống chi nhân duyên ư? Tự có truyện nói đến nghĩa đây ít có người hiểu tánh tướng đây tam giả.

Hỏi: Văn nay vì sao không lập quán này ư?

Đáp: Kinh từ lợi căn thì khai.

“Phật chủng..”: Chú gia nói: Không có tánh Không hữu, thì gọi là Vô tánh. Kham nối tiếp Bồ-đề thì gọi là “chủng”. Như đây giải thích: Đây từ tu mà đắc, chưa hiểu biết tánh chủng. Gia Tường nói: “Vô tánh, là chỉ nói vô tự tánh”, lại dùng ba nghĩa mà giải thích “Phật chủng”, nghĩa là Nhất thừa giáo, Bồ-đề tâm và Như Lai tạng. Giáo và phát tâm chỉ là chủng duyên, tuy tức nói “Tạng” mà không nói “Không cùng Bất không” và Hạnh Lý, cho nên không biết trong Nhân là tại nhân nào mà thành chủng thành tánh? Cho nên, trong “ba nhân: Chánh, Duyên, Liễu” cần phải biết tánh chủng, cái gọi là ba đường. Tiếp, biết loại chủng tức đàn chỉ… Nhưng nên biết duyên khởi thông cả nhiễm tịnh mà lý chẳng phải nhiễm tịnh duyên khởi rõ ràng. Tịnh duyên khởi đây tức là nói nguyên do, nêu rõ do tịnh duyên từ nhân đến quả và lý bất tư nghì cảm ứng, cho nên lấy đây làm chủng duyên kia. Chỗ khác nói: là do thiện căn lực của hành giả. Về Như Lai thức thì văn nghĩa tương sinh, đầy đủ như văn trước phá trong giải thích “Nghe”. Ở trong đó phần đầu nói trung đạo, dưới lập bản vô tánh làm bản tánh đức, nên biết chủng này tức chủng tánh gia cho nên trở lại lập vô tánh làm gốc (bản). Vì muốn nêu rõ “tánh gia duyên khởi” nên nói “chủng”. Chủng là nghĩa sinh, tức như ở trước đã nói mười pháp giới mỗi giới như lý tánh câu tánh đều là chủng, đầy đủ như trước giải thích. “Mê lý này…”: song nêu nhiễm tịnh hai chủng duyên khởi, trước nêu nhiễm sau nêu tịnh. Trong nêu nhiễm thì do vô minh cho nên làm pháp tánh duyên, do duyên mê mà khởi chín giới, mỗi giới , tam thiên sự duyên khởi tức là tánh chủng từ duyên mê. Khởi nơi chúng sinh, tức là chân như tùy nơi nhiễm duyên.

“Giải thích lý này…” nêu tịnh duyên khởi, tức nghe Nhất thừa giáo, khởi Nhất thừa hạnh, hạnh thông nhân quả, năng thành Chánh giác. “Muốn khởi…”: Thành chánh giác rồi thì năng vì người khác mà nói, cho nên nói Nhất thừa tại Giáo nhất, tức “quả Phật chủng” từ Tịnh duyên khởi. “chúng sinh Phật chủng” từ Thuyết duyên khởi. Như thế cũng thông đường làm nhiễm tịnh, cũng có thể mười pháp giới triển chuyển xen lẫn mà luận. Nay nêu rõ Phật thừa thì phải dùng chín giới đều gọi là nhiễm. “Lại, Vô tánh… “: Dùng Duyên giúp Liễu, Chánh, nêu rõ công năng Duyên Liễu tương thành. Đối Chánh mặc dù như vậy nhưng nếu luận hạnh thể thì mỗi mỗi đều ba nhân đầy đủ tức tu đắc. Chủng quả đã thành nên gọi là “đắc khởi”. “Nhất khởi nhất thiết khởi”: là hiển tướng quả thừa. Y chánh, chủ bạn, cho đến báo đáp nhân nhất trần nhất hạnh nhất thời đều khởi. “Khởi” là thành. “Như đây…”: là kết quả thừa thành tướng, tu tánh nhất hợp không còn phân rộng nữa, tức là lý tánh ba nhân khai phát. Thông danh “ba tánh”, từ đây trở đi không thể cải đổi. Đây là giải thích kinh trực tiếp từ Khai nói, nêu đủ tu tướng, dựa theo Chỉ Quán nói mười pháp thành thừa. Trong cảnh đầy đủ kiêm tu tánh, tánh chủng, chánh hạnh làm liễu, trợ khai làm duyên, hai mươi lăm pháp là tiền phương tiện. Biện rõ chín pháp dưới, nêu xét rõ về tu phát, giáo hạnh chánh trợ đều là lý. Lý nhất tức là sở trụ pháp vị thế gian tướng thường. Nếu không vậy thì y cảnh tu tập dựa tâm không có địa, cho nên biết tu tánh đều có tự tha. Trước trong suy tìm tánh thì không nêu vị tha, y đây khởi hạnh thì mới suy tìm hạnh tha, dùng hai tha đây cộng suy tìm một tự. Nếu suy tìm tánh thì lên xuống đạt lý. Nếu suy tìm tu thì ly chấp hạnh thành. Do tánh bản vong, mất vào lúc mới tu, vậy thì hai chiếu đồng nêu, song hoặc đều bỏ. Như vậy mới hiểu rõ nhiễm tịnh duyên khởi, vô thủy vô bản đều quy Nhất như. Lại từ tịnh duyên có chỗ nói là biên, cho nên nói Giáo nhất. Cho nên Ngũ Phật nói lý Đại đặc thù mà không khác. Nếu không vậy thì lẽ nào nhân duyên sự dẫn bốn Đức Phật đồng.

Trong “Lý nhất” nói “Pháp đó trụ pháp vị…”. Đầu là “pháp” chánh chỉ Lý nhất. Thế nhân đều gọi là lý tánh bản tịnh, lý nếu bản tịnh thì cần gì tu? Nếu bản không tịnh thì tu cũng không thành. Nay nói lý tịnh chẳng phải đã tịnh. “Chúng sinh…”: là giải thích “trụ pháp vị”. “Chúng sinh chánh giác” là trùng xuất pháp đó, pháp bất xuất Như, đều Như, là “vị”, chúng sinh về lý là Phật, đã chứng lý đó, cho nên gọi là “Trụ”. Bởi vì Như là Vị nhất cho nên gọi là “vị”. Pháp tịnh hay nhiễm đều gọi là “pháp”. Nhiễm gọi là “chúng sinh”, tịnh tức là “Chánh giác”. “Chúng sinh chánh giác” là pháp năng trụ, nhiễm tịnh nhất như là vị sở trụ. Phân cuộc định hạn cho nên gọi là “vị”. Vị không có hai tên, đồng lập “nhất như”, không xuất chân như cho nên chỉ hạn cuộc đây. Hạn cuộc đây tức thông khắp tất cả; là tột cùng của hạn cuộc, là thịnh của nghĩa thông. Như địa vị vua ở thế gian là sở trụ của người, “vị” cũng là tánh bởi vì không thể sửa đổi, như tánh nhân vương trước sau không sửa đổi. Áo vải, với lên ngôi cao tột tuy tướng khác mà tánh nhất. “Thế gian tướng thường trụ”: Tướng có thể nêu cờ xí, vị có thể ở lâu. Chúng sinh Chánh giác tướng vị không hai, hiển mê tức lý, lý tức thường trụ. Phật đã khế hợp thường, chúng sinh lý ấy, cho nên Chánh giác chúng sinh tướng vị thường trú. Nhiễm tịnh tướng vị đã đồng nhất. Như vậy cho nên tướng vị lý đó phải bình đẳng. Phật y thế gian tu thành lý cùng cực, nghiệm biết thế gian vốn có lý đây, cho nên nói thường trụ.

Hỏi: Vị có thể Nhất như, tướng như thế nào bình đẳng?

Đáp: Vị thì căn cứ lý tánh, quyết không thể sửa đổi. Tướng thì căn cứ tùy duyên, duyên có nhiễm tịnh. Duyên tuy nhiễm tịnh, đồng gọi là duyên khởi. Như sóng nước có đục có trong, mà tánh ướt thì không khác. Đồng dùng tánh ướt làm sóng, nên đều dùng Như làm tướng. Đồng dùng sóng làm tánh ướt, cho nên đều lấy Như làm vị. Sở dĩ “tướng” cùng “thường trụ” danh kia tuy đồng mà nhiễm tịnh đã phân, Như vị cần phải biện rõ, huống chi danh xưng “thế gian” cũng thông nhiễm tịnh nhân quả. Vả lại, nay từ ngộ hiển mê, dùng tịnh hiển nhiễm, thì tịnh ngộ đắc nơi thường sự, mê nhiễm chỉ gọi là “lý thường”. Lại danh xưng “thế gian” thông thâu Y báo Chánh báo, danh xưng “thường trụ” không ngại hai đường cho nên nói “Lý nhất”. Nếu không hiểu như thế, thì uổng nói Khai quyền thì làm sao hiển thật? Cho nên nay hỏi pháp bị khai đó, duy nhất chỉ tin Phật nói vì cũng sửa đổi mê. Tuy bốn pháp bao hàm vì người thu nhiếp, mà đắc ý quên lời thuyết bất khả tận.

“Lại, giải thích…”: riêng căn cứ sinh để giải thích “thế gian tướng thường”. Trước đã giải thích mặc dù sự lý thông tổng, mà chưa chỉ bày một cách đích xác lý cảnh sở tại, cho nên dùng ấm nhập đối Chánh nhân mà nói, chín giới ấm nhập vị vốn thường trụ.

 

(Phần Hạ)

Tiếp “Nhưng Chánh nhân này…”: dùng Chánh ấm nhập đối tu duyên liễu, tam nhân lục pháp bất tức bất ly. Nói “Chánh nhân…”: Là xen nhau nêu nhất biên. Lẽ ra nói: “ấm nhập” cùng “tánh chánh nhân” bất tức bất ly, lại cùng tu đắc duyên liễu bất tức bất ly, chánh nhân cùng với lý lục pháp cho nên bất ly, chỉ lý cho nên bất tức. “Duyên liễu” cùng “lục pháp” cũng lại như vậy.

Hỏi: Trong văn vì sao làm thuyết thiên lệch?

Đáp: Bởi vì dễ hiển bày. Chánh vốn bất ly nay thêm bất tức, duyên liễu bất tức nay thêm bất ly. Cho nên cần phải đều đầy đủ mới gọi là tận lý. Đây dùng thí dụ Sờ voi trong Đại kinh. Văn dụ đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba dẫn chứng:

Nói “lục (sáu) pháp”: là ngũ ấm và thần ngã, cho nên sáu thứ đây cũng gọi là “chánh nhân”. Đồng thuộc khổ, cho nên cũng gọi là “duyên liễu”, kiêm Hoặc nghiêp. Trong đây phải có thông biệt hai đối. Biệt đối: Trong sáu pháp thì Hành ấm và Thần ngã là Duyên nhân chủng, số còn lại và Sắc ấm là Liễu nhân chủng, Thức ấm là Chánh nhân chủng. Nếu thông đối thì đầy đủ như văn này. Sáu pháp tánh đức Chánh nhân cùng sáu pháp tu đắc Duyên liễu bất tức bất ly, cho nên tu sáu tánh sáu nhất thể không sai khác. Phải biết rằng: Ấm nhập chỉ là thường trụ. Nếu đem văn đây cùng trong Chỉ Quán đối thông biệt, thì kia đối với ba đức bốn đức của Đại kinh đều có ý kia. “Đạo tràng…”: Quả lý trước thành cho nên nói “cửu sướng” (từ lâu thông suốt). Lại, hướng về Tịch diệt đạo tràng hơn bốn mươi năm, gọi là “cửu sướng” (từ lâu vui thích thông suốt). “Vật tình chướng nặng”: Chỉ trừ Viên trong tam vị, ngoài ra đều là chướng nặng. “Vân vân”: Trải qua bộ, căn cứ vị, phân biệt vi tế. “Văn trên có bốn”: Chuẩn theo trên thì chỉ có ba: l. Ý xuất thế. 2. Khai quyền. 3. Hiển thật. Nay đã nói bốn thì phải biết văn trên cũng có thể chia làm bốn, nên nói ý thứ tư là: Tổng dùng Nhân nhất Lý nhất, kết ba đời ở trên, có thể không như trên. Lý hợp văn biệt cho nên nay nói bốn. Lại có hai thứ không đồng: l. Trên thì trước khai quyền tiếp hiển thật, nay thì trước hiển thật tiếp khai quyền. 2. Văn trên trong Thật chỉ có Giáo Hạnh, nay đây thì Lý Giáo hoặc là Lý Hành. Không đồng không ngại nên không nói riêng.

“Chỉ thượng bản hạ”: Văn phẩm Thí Dụ dưới dùng đây làm bản, thí dụ ắt có pháp cho nên gọi là “bản hạ”. “Văn nghĩa giao gia”: Trong đây chỉ dưới đến dưới chỉ đây, cho nên nói “tầm sớ…”. Chương An dự điểm khiến không mê loạn, mê loạn tại người độn lợi, vì sao lo buồn? Nhưng các sư phân thí dụ cùng pháp xen lẫn đời trước lẫn lộn ngăn cách muốn làm thí bản chấp định chẳng theo, cho nên trước trình bày “phi”, sau mới chánh giải thích. Đầu tiên sư nêu năm thí dụ: l. Thí dụ Trưởng giả tức văn “quốc ấp…”. Pháp thuyết tức chỉ văn “Nay ta cũng như vậy…”. 2. Thí dụ Tư duy cứu giúp, tức văn: “Trưởng giả suy nghĩ rằng…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Ta dùng Phật nhãn xem thấy…” 3. Thí dụ Quyền dẫn, tức văn: “Bây giờ Trưởng giả liền suy nghĩ rằng…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Ta xưa ngồi đạo tràng…”. 4. Thí dụ Bình đẳng, tức văn: “Bấy giờ Trưởng giả đồng ban cho xe…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Ta thấy các Phật tử chí cầu….”. 5. Thí dụ Bất hư, tức văn: “Xá-lợi-phất! Ý ông…”. Pháp thuyết tức chỉ văn: “Các ông chớ có nghi…”.

Nếu đối nay, thì Thí dụ thứ nhất là tổng dụ, tổng dụ có sáu: l) Lẽ nào chỉ một Trưởng giả cho nên không dùng. Thí dụ thứ hai: “Tư duy cứu giúp”, đối nay là cứu con không được, chỉ là trong Biệt thí dụ dùng lại dự định thích nghi thí dụ đó thôi! Cho nên biết rằng: chỉ nói tư duy cứu giúp thì lý đó không trọn cho nên dùng lại cứu con, trong đó có ba: Dự định thích nghi, không có căn cơ, thôi hóa độ. Không nên chỉ riêng nói tư duy cứu giúp. Thí dụ thứ ba trở đi, thì nay là từ “Ta dùng” trở đi ở trong Biệt thí chia làm sáu ý, kia chỉ có ba. Thí bản không đủ cho nên cũng không dùng. Dao sư dùng trọn chương Ngũ Phật dùng để hiển Thật. Nói “bốn chương”: Hợp chương đầu ở trong chương Thích-ca, mà dùng Quyền Thật hợp làm một chương. Dùng chương Ngũ trược làm Bất đắc thuyết nhất, lại dùng văn “đốc thúc” làm Bất đắc đều không đúng văn, cho nên không dùng. Mà nói trong thí dụ chỉ có ba thì thiếu Thí dụ thứ ba: Ý bất đắc do trong thí dụ không có văn đây, cho nên gộp chung thì không đồng nhất. Trong văn liệt kê ra bèn dùng khai quyền làm Thí dụ thứ nhất. Khai quyền tức hiển thật, nên đối với Thí dụ thứ hai Đồng ban xe lớn. Đây thì Thí bản và Thí rất là sơ lược. Nhưng trong trường hàng chương môn Ngũ Phật chư Phật, còn tổng quát lại thiếu

Ngũ trược. Ba Đức Phật căn cứ theo lệ văn kia lại lược. Đức Thích-ca hóa chủ văn tướng ít tùy thuận cho nên chỉ chọn Thích-ca chia làm bốn chương. Ngài Dao sư thì phí phạm nên không dùng. Tiếp, đến hai ngài Long sư và Sướng sư đều lập thành sáu dụ, theo cách nói tựa như sai khác mà ý kia không khác. Hai sư đều không lập Tổng thí, không thể dùng đối với phương tiện lược tụng, ở trong Biệt thí văn rộng tụng lược, sáu nghĩa trong đó vẫn trước chia làm bốn, các phần nhỏ lại nhiều. Cho nên biết hai sư đều cùng phẩm thí dụ, nghĩa không tương đương, bởi vì thí dụ ba, thứ tư chỉ là nay thí dụ thứ hai “Nghĩ Đại thiết lập Tiểu”.

Lại, văn “Bất hư” hợp tán thán pháp hy hữu mà không thuật ý kia, cho nên không dùng. Tiếp đến ngài Quang Trạch phân làm mười thí dụ nói: Đầu lập tổng thí cùng nay văn đồng, chỉ chín thí dụ dưới đối với nay tức là rộng tụng sáu nghĩa, nếu đối với văn đây thì chín thí dụ dưới chỉ nên hợp làm bốn. Trong đó Thí dụ thứ hai có bốn hàng là nghĩa nay “Thấy lửa”. Tiếp, “Ta xưa…” là thứ ba có sáu hàng rưỡi, và thứ tư có mười một hàng nêu Tam thừa hóa đắc, là nay ý “nghĩ Đại thiết lập Tiểu”. Tiếp, “Ta thấy…” là thứ năm… tổng có năm văn sáu hàng là nay ý “hiển Thật”. Tiếp, “Các ông…” là thứ mười, một văn là nay văn “Bất hư”. Các nhà chú giải nay phân nhỏ hơi giống ngài Quang Trạch, nhưng cùng “Tín giải đời trước” không đồng, cho nên không chia nhỏ. “Có người…”: đây là người khác đem nghĩa nay nhưng lẫn lộn với Quang Trạch, cho nên đem ý đây để nạn vấn Quang Trạch. Cùng là chia nhỏ tại sao không làm mười chín câu, dùng mười dụ của Quang Trạch đối nay tổng sáu biệt bốn, tổng biệt đều khai hợp có mười tám câu, thêm một câu Quang Trạch thành mười chín câu? Vì sao Quang Trạch dụ thứ nhất tức nay Tổng thí, lẽ ra chia làm sáu, Quang Trạch chỉ hợp làm một? Dụ thứ hai “Thấy lửa…”, nay trong biệt chia làm bốn thí, Quang Trạch lại chia làm chín? Một thấy lửa nay chia làm ba, Quang Trạch chỉ một. Dụ thứ ba: “Ta xưa…” tức nay văn biệt chia làm bốn trong đó dụ thứ hai Nghĩ đại cho Tiểu, Quang Trạch chia làm hai văn. Quang Trạch dụ thứ năm… đến thứ chín tổng năm đoạn văn nay hợp làm một dụ Đồng ban xe lớn, tức thí dụ thứ ba trong bốn biệt thí. Cho nên Quang Trạch dụ thứ năm: “Ta thấy các Phật tử” và thứ sáu đều dùng hai văn. “Đem tâm cung kính”, tức nay văn thí dụ thứ ba Đồng ban xe lớn trong bốn biệt thí: chia làm bốn văn, trong đó tức văn đầu trên. Thứ bảy “Ta liền…” tức nay văn trong bốn biệt thí, văn thứ hai trong văn thứ ba, tư. Thứ tám: “Ở trong các Bồ-tát…” tức nay văn thứ ba trong văn thứ ba, tư của phần bốn biệt thí. Thứ chín “Bồ-tát nghe…” tức nay văn thứ tư trong văn thứ ba, tư của phần bốn biệt thí. Thứ mười “Bất hư” tức nay một văn thứ tư trong bốn biệt thí, lại chia làm ba: Nghĩa là tán pháp hy hữu và bản bất hư cho đến lập văn đốc thúc tin. Đây chính là trong Biệt chia thành mười hai. Ngài Quang Trạch lại chia trong bốn biệt thí của văn nay trong văn thứ ba thứ tư, đầu văn là Thoát nạn, xin xe hai văn, nay đã quá chi tiết chỉ làm mười tám câu. Nếu dụ thứ sáu trong mười hai biệt lại chia làm hai thì có bốn lỗi bởi do đây. Đã chia làm hai thì thành mười ba và trong tổng sáu hợp thành mười chín, tại sao không gọi là mười chín câu ư? Nay tuy mười tám không gọi là mười tám câu, là vì Pháp, Thí đời trước tín giải không có nghĩa đây. Muốn khiến thông có lại hợp làm năm hoặc tổng biệt hai, chương đoạn đã ít trên dưới dễ đồng. Cho nên, trong văn nay có ba loại phân văn: Quang Trạch định làm mười không có thừa thiếu, tiến không thành mười chín, thoái không thành năm, tổng biệt rộng lược lại không tương đương, huống chi khai đại căn cơ lấy làm hai đoạn. Trong pháp có trở ngại nên không hợp khai. Nhưng đối với các sư thì Quang Trạch là hơn hết. Hoặc dùng đến trong sáu nghĩa, hoặc lập sáu nghĩa này tức thu nhiếp mười chín vào trong sáu nghĩa đây, vì sao không chỉ nói làm sáu nghĩa ư? Vì sao? Vì dựa vào sáu của tổng trước chấp nhận hợp làm một, trong bốn biệt chỉ tách thứ hai làm hai đoạn, tức làm năm chương, đối với một tổng trước tức thành sáu nghĩa. Nếu hoàn toàn y văn đây thì chỉ thành năm nghĩa. Người khác lại dựa vào sáu nghĩa làm lời vấn nan. “Lại, mười dụ đến nỗi so le (không đều)…”: là khai làm mười thí dụ, pháp thí hai xứ còn tự so le huống chi cùng văn Tín giải v.v… hợp ư? Cho nên “Pháp thuyết…” nêu tướng không đều (so le). Lại, Quang Trạch câu số cùng nay chia nhỏ tựa như đồng, mà chương mục chưa ổn cho nên cũng không dùng.

Dưới kết nói bốn lỗi: l. Trước sau. 2. Đại tiểu. 3. Có không. 4. Dẫn văn. Nay đầu tiên lỗi trước sau không đồng: Nếu nay trong phân biệt chia nhỏ, nghĩa thứ năm tách làm năm, sáu và văn thứ bảy làm cha vui mừng thì đối với Pháp thuyết Đòi xe, cha vui mừng trước sau, xen lẫn trở về. Nói trong Pháp thuyết Đòi xe ở trước: Trước nói: “Xá-lợi-phất nên biết ta thấy Phật tử… đến cầu Phật đạo…” hai hàng tức xin xe ở trước, tức Quang Trạch là văn thứ sáu. Tiếp một câu cuối cùng trong hai hàng một câu, mới nói “nay vui mừng”, không sợ, tức cha vui mừng ở sau. Trong thí thuyết cha vui ở trước: Trước nói: “Bấy giờ Trưởng giả thấy các con an ổn được ra khỏi nhà lửa…”. Xin xe ở sau…: Tiếp văn mới nói: “Bấy giờ các con đồng thưa với cha rằng…” Nếu trong mười thí dụ của Quang Trạch hợp ở hai đoạn năm, sáu đồng làm căn bản một dụ Xin xe và căn bản dụ Thoát nạn thì không thể nói căn bản dụ Vui mừng tức không có lỗi đây. Nói tuy muốn hợp thông mà ví như nói quanh co để thông nói “do vui nên xin, do xin nên vui”, cũng chưa tiện ổn, cho nên nói “gọi là quanh co”. “Lại, Đại tiểu…”: ở trong Đại tiểu lại làm ba lỗi. Nói trong Pháp thuyết Đại căn cơ động: Tức Đại tiểu không đối. “Nay ta vui vô úy” lại tiến dùng câu dưới nói: “Ở trong các Bồ-tát”. Cho nên biết đây là thấy Đại căn cơ động cho nên vui. Nếu nói: “Thấy các con được an ổn được ra khỏi nhà,” cho nên biết đó là thấy tiểu căn cơ thoát nạn nhà lửa cho nên vui. Tiếp, Nhân quả không đối: Trong Pháp thuyết ý nói: “do xưa không tin,” cho nên nói: “Xá-lợi-phật nên biết cho đến nay ta vui vô úy,” nên biết là nhân Đại thừa. Trong Thí nói thấy các con được ra khỏi nhà lửa, cho nên biết là quả Tiểu thừa. Trong Pháp thuyết đại chướng sắp nghiêng, vậy sau liền nói: “Bồ-tát nghe pháp ấy thì lưới nghi liền trừ,… trừ không xa”. Trong Thí thuyết nói: “an ổn được ra”. Cho nên nói Tiểu quả có ba lỗi đây, lỗi do Quang Trạch dùng văn thứ năm, sáu, bảy, cho nên làm căn bản thí dụ chưa gọi là tiện ổn. Nói “Lại có không khác”: là phá trong mười dụ kia thì thứ sáu là căn bản của thí dụ Đòi xe, trong văn Pháp thuyết không nói Đòi xe, đến trong Thí thuyết vì: “căn chẳng lợi” do đó mới có, cho nên không được dùng làm căn bản của thí dụ Đòi xe, huống chi Pháp thuyết trong đó chỉ nói: “Ta thấy các Phật tử… chí cầu Phật đạo”, chẳng liên quan đến nhị thừa đòi xe Tiểu thừa. Lỗi thứ tư: “Nếu dẫn…”: gọi là lỗi dẫn văn. Lẽ nào được lạm dụng văn nói “lai chí” liền làm căn bản thí dụ Tiểu thừa Đòi xe. Đây theo hợp trách làm bốn biệt thí, cho nên biệt thí với văn thứ ba hợp làm một văn đồng ban cho xe. Dù cho chia đây làm bốn, thì: l. Gọi là Đại thừa cơ động làm bản thí dụ Đòi xe sau chỉ không được nói Đòi xe nhỏ (Tiểu), cho nên trước căn cứ Đại tiểu, trong đó phá nói: “thí thuyết trình bày tiểu quả”, chỉ nói trình bày Tiểu mà tình thì cầu nơi Đại, tức gọi là “cơ động”, cho nên nói “sai khác không thấu hiểu ý văn”. Cho nên biết văn kia tự nó là đại cơ sắp động. “Nhưng có, không…”: văn nay tự biện rõ đồng khác có sáu. Đầu tiên trong “có, không”: nói “trường hàng có chân ngụy” tức là văn giản ngụy đốc thúc tin. Nói “trong kệ thì không”: Đây là hoàn toàn thuận xưa dùng bảy hàng kệ cuối làm pháp thuyết lưu thông. Nếu dựa vào ý này lấy bảy hàng đây làm văn đốc thúc tin, thì thiếu một ý “có, không” này. “Trong tụng có tán pháp”: Từ “Chư Phật hưng xuất…” là văn bốn nạn, trong trường hàng hoàn toàn không có. “Theo thứ lớp, phần trường hàng trước khai tam sau hiển nhất”: trong trường hàng đầu tiên nói: “Xá-lợi-phất.

Ta nay cũng lại như vậy, biết các chúng sinh có các món dục…”. Lẽ nào chẳng phải thiết lập Tam?

Tiếp, văn nói: “Như thế đều vì đắc nhất Phật thừa”, tức hiển nhất. Trong tụng, đầu tiên là tổng tụng hai hàng, thì hàng đầu hiển Thật, hàng sau thiết lập Quyền. Cho nên trước nói: “an ổn và chỉ bày (thị) Phật đạo”. Tiếp, văn mới nói: “Ta dùng sức trí tuệ biết chúng sinh tánh dục”. Nếu chấp văn Biệt thí thì trước tiên trong Ngũ trược lại chia làm ba: Mắt năng thấy cũng nên hiển Thật. Tiếp, lửa được thấy và nghĩ Đại thiết lập Tiểu đều thuộc Quyền. Nếu luận đại ý của Biệt thí, thì cũng là trước quyền sau thật. Nếu lấy tổng tụng, thì hàng trước hiển Thật hàng sau thiết lập Quyền. Trong “Khai hợp”, nói: “Đầu tiên hợp mà không khai”: là “Nếu được…” hai kệ chỉ là vì tổng thí mà làm căn bản, nên nói hợp mà không khai. Nếu dùng hai kệ tách làm sáu thì tổng cũng có biệt, vả lại từ hợp thuyết, cho nên đối với thí dụ dưới cũng lại phân. “Văn Ngũ trược tách làm bốn căn bản thí dụ”: E rằng văn lầm, lẽ ra nói ba căn bản thí dụ tức trong bốn Biệt thí thì văn đầu lại làm ba: tức là Năng kiến, Sở kiến, Kinh sợ vào. Đối văn thí dụ dưới vẫn có bốn. Kia dùng Thí dụ thứ tư rộng nêu thấy lửa, hợp tại văn thứ hai, cho nên biết chỉ có ba.

Tiếp, trong phần “Nêu Thủ xả” nói “Bốn đoạn kinh văn chia làm sáu thí bản”: “Bốn đoạn”: là Biệt bốn. “Sáu thí”: Chia Ngũ trược làm ba và ba đoạn dưới tức là sáu. “Tán pháp chẳng phải căn bản của sáu thí dụ”: ở trong bốn biệt, tách đoạn thứ tư nêu tán thán pháp, đốc thúc tin, chẳng phải căn bản sáu thí dụ dưới. Tiếp, trong phần “Tổng biệt, đầu tiên khai tam hiển nhất”: tức hai hàng đầu tổng tụng. “Bản tích”: Lại căn cứ tích luận bản tích, tức pháp thân là Bản, khởi ứng là Tích. Tức đây chương đầu chia làm ba ý: Nhãn năng kiến là Bản. Thứ ba đại bi là Tích. Thứ hai sở kiến chấp là nguyên do chư Phật thùy tích. “Vân vân”: là cần rộng căn cứ tích bản, lâu mau, xưa nay, thể dụng… để phân biệt đồng khác, đầy đủ như trong Huyền Văn quyển sáu. Lần nữa bản tích và trong Tựa trước đã lược xem xong. “Nay nói…”: là chính nêu nghĩa tông, tông chỉ biệt, cho nên nói “chinh là…”. Trước trực “Pháp thuyết…” là muốn phá các sư lập thí dụ không thể tận lý. Cho nên, trước đưa ra tam chu lý đồng, tiếp đến “Nếu làm…” là biện rõ lỗi xưa thí, nên nói nếu làm ba, sáu, mười thí dụ thì đối tam chu văn không hợp. Như trước đã nêu ngài Dao sư làm ba dụ, ngài Sướng sư và Long sư đều có sáu, Quang Trạch có mười. Nhưng nay văn chẳng phải không lập nơi các số ba, sáu mà chỉ vì phân tiết dư thiếu cùng chỗ khác không đồng.

Nói “đối tam chu thì văn không hợp”: Pháp thí không hợp đã lược như trên. Đối với văn nói “đời trước” thì chỉ có thể chia làm hai thí ba thí, cho nên phân nhiều thì không thể. Nói “Bốn người tín giải trái ly”: Nếu đối tín giải chỉ có thể tổng sáu, biệt bốn, nếu đối tha năm, ba, sáu và nay mười tám thì trái trương ly phân, đầy đủ như trước phá mười thí dụ của Quang Trạch, cho nên phá xưa đã tự lập ba… Nay lập ba, như văn dưới nói, lại nhất thời ba thí, hoặc là năm như tổng một biệt bốn. Hoặc là sáu, như tổng biệt đều sáu. Hoặc là mười, tức tổng sáu biệt bốn. Cũng có thể là mười một, tức tổng một biệt mười. Cũng có thể là mười sáu, tức tổng sáu biệt mười. Cũng có thể là mười tám, như mười tám câu trước. Chỉ bản dưới theo trên thì không tương ưng. Nếu muốn thông trên dưới không sai thì chỉ y ba tiết mà giải thích văn. Nếu ứng bốn xứ (chỗ) thì chỉ là ba thí bốn thí. Nếu chỉ tại pháp thí thì lược sáu rộng sáu. “An ổn… trụ xứ”: Đức Phật vì đã chứng cũng khiến chúng sinh trụ nơi xứ này, mà nay chúng sinh còn trụ trong tam giới là xứ không an ổn, tâm Phật đại bi đến nỗi khiến kinh sợ mà vào. Nói “Chủng chủng pháp môn tức đối bất chủng chủng”: là cũng là từ bản ý Phật để nói. Như Lai vốn dùng một môn lợi vật sự không thâu hoạch, thiết lập chủng chủng môn mà ý thiết lập Quyền vốn tại hiển Thật, cho nên nói “tuyên thị (bày) Phật đạo”. Phật đạo chỉ có Thật, dùng Quyền đối Thật, dẫn Quyền nhập Thật cho nên nói “tương đối”. Tương đối chỉ là ý cảm ứng thôi!

“Bản mạt tương thừa (nối nhau)…”: Bản pháp thuyết, mạt thí dụ… “Vân vân”: như dưới dẫn. Nói “Trong rộng tụng sáu nghĩa trên chia làm bốn”: Nếu đối bốn biệt, thì cái thứ tư phân làm ba gọi là “sáu nghĩa”. Nếu cái thứ tư làm một, thứ nhất làm ba thì chỉ gọi là “sáu thí”. Nếu nói sáu nghĩa thì không ứng với văn thí dụ, chỉ có thể tụng trên, cho nên chỉ nói sáu nghĩa. Nếu làm căn bản thí dụ thì hợp bốn, năm, sáu, chỉ làm một Bất hư. Trong đây có đốc thúc tín, đốc thúc tin tức giản lược ngụy, cho nên biết văn trên không được nói không. Vậy thì biệt sáu rộng nơi tổng sáu. Cho nên, nay chỉ hợp sáu nghĩa làm bốn. “Nếu lại chia nhỏ khai”, hoặc muốn lại phân chia nữa thì như trước trong biệt chia làm mười hai câu, vì đối các văn trên rộng cho nên khai, vì đối các văn dưới lược cho nên hợp. Xưa dùng bảy hàng cuối cùng làm pháp thuyết lưu thông, nay văn không dùng. Nếu đối với thí dụ và văn nói “nhân duyên đời trước” về sau, thì tuy giống như lưu thông mà chẳng phải lưu thông, do đó người thấy nói đời sau thì cho rằng giống lưu thông. Cho nên xưa theo lệ đó lấy làm đắc ý; văn ý không như vậy. Cuối phẩm Thí Dụ, chỉ vì Thân-tử làm tam chu thỉnh Hóa chủ, tự mình đã đắc ngộ, lại vì hàng trung căn mà lần nữa lại thỉnh thuyết thí dụ. Đã đáp thỉnh rồi cho nên dùng pháp này mà lược giao phó. Luận cho cùng thì chỉ là chỉ cho kia tội phước của tin và hủy báng. Nếu vậy, thì tại sao không đợi sau chu thứ ba, một lúc giao phó? Sau thí dụ đã giao phó pháp thuyết trước, sau vì sao không giao phó? Đáp: Đến cuối tam chu thì tự có lưu thông rộng giao phó cả Bồ-tát, đâu riêng gì Thân-tử. Như trong văn dưới: Còn không thiên vị giao phó cho Bồ-tát phương khác, đâu riêng gì Thân-tử. Cuối chu Pháp thuyết Thân-tử lãnh giải đầu tiên, tự tu hạnh mới thành chưa Thích nghi lợi vật. Song, ý chỉ Đại thừa tại Phật không cần phải khổ nhọc luận! Dùng tụng tán pháp, đốc thúc tin: Nhưng trong văn trên liệu giản “có, không” nói “trong tụng không có chân ngụy” tức không có đốc thúc tin. Nay trong đây dùng tụng tán pháp, đốc thúc tin, tức chỉ là cách chung khuyên phàm phu khiến họ sinh lòng tin, cho nên nói tán pháp khuyên tin. Do không nói “chuyên đốc thúc Thanh-văn” cho nên trước nói “không”.

“Nay chỉ tụng Số, Danh, Thể ba thứ”. Trong đây từ “Lục đạo” trở đi là tụng Ngũ trược bên trên, đây năm tức số, sáu ắt năm. Đây “bần cùng…” tức xuất thể, do năm pháp đây tức gọi là “trược”, cũng không có biệt danh. “Nêu dưới chứng trên….”: Đây dẫn văn “Trưởng giả ở ngoài cửa”, “vào” tức khởi ứng thân, “ngoài” tức Pháp thân. Lại nói Phật nhãn cho nên sở kiến căn cơ tức Phật pháp giới. “Nếu căn…”: tư duy không có căn cơ Đại thừa, mới nhập Lộc uyển. Bắt đầu Lộc uyển đã nói Viên chiếu cho đến Nhất thừa, cho nên biết Hoa Nghiêm, Phật tuệ không khác biệt, không thể ở đây gượng sinh phân biệt. Trong cụm từ “đều gọi là Phật nhãn vân vân” thì “vân vân” là: lẽ ra rộng phân biệt đây là năm nhãn thứ lớp và không thứ lớp mà biện rõ thể dụng. Cho nên, quán sắc v.v… dùng bốn nhãn, từ bản đặt tên vẫn gọi là Phật nhãn. “Bần cùng…”: là Chúng sinh trược. “Bần” là do không phước, “si” là do không tuệ, si bần chúng sinh tụ tại một chỗ cho nên gọi là “trược”. “Nhập sinh tử” là Mạng trược: Ở trong sinh tử lại thêm đường hiểm, trong đường hiểm thì mạng dễ bị đoạn, tức ở chỗ thọ mạng ngắn mà còn tương tục, là Mạng trược. “Ngũ dục” là Phiền não trược. Danh thể tối hiển. “Không cầu Đại thế Phật…” là Kiếp trược: Trong kiếp không có Phật cho nên gọi là “trược”. Bốn trược sinh đây cũng không sở cầu. Kiếp nếu có Phật thì tuy trược mà có thể phá. “Nhập tà” là Kiến trược, danh thể cũng hiển. Sáu mươi hai kiến, nhiều nên gọi là “các”. “Hoặc nói các kiến tức là thọ”: do kiến đây cho nên có ba thọ, thọ các kiến này nên nói kiến tức là thọ, ba thọ đều là khổ. Lấy khổ thọ đây muốn xả khổ thì không có việc ấy. “Nguyên lai của ngũ đạo”: là nhân trong ngũ đạo. Từ một đến một cho nên gọi là “thú” (hướng đến). “Suy” chỉ là tặc năng hao tổn. “Luận Tỳ-đàm nói: địa ngục sơ sinh niệm”: là lúc sơ sinh của tất cả các địa ngục đều có ba niệm, biết nơi đây là địa ngục, do nhân kia cho nên sinh từ nơi kia đến. Văn đây tựa như không đủ nghĩa mà đã đủ ba. “Lại nói”: cũng là văn của luận Bà-sa. “Ngũ đạo đều có tự pháp như vậy”: đầy đủ như trước trong phần giải thích Bất tư nghì. “Giải thoát đạt phần”: Niết-bàn gọi là “giải thoát”, sở tu thiện căn không trụ sinh tử gọi là “đạt”. Phần giải thoát của Thanh văn tam sinh, Bích-chi-phật trăm kiếp, gọi là “giải thoát phần”. “Đắc chánh quyết định”: là sơ quả. Luận Bà-sa nói: Thế nào là đắc thiền tức căn bản thiền? Vì sao quyết định tức là vô lậu? Dùng tâm vô lậu tu các thiền định, đắc nhập sơ quả tức thiền định đây mà được giải thoát, giải thoát là sơ quả tức quyết định. “Trong cõi trời” cho đến “cần dùng liền được v.v…”: lẽ ra nói chư thiên tự nhiên báo tướng, hết thảy y báo đều là biến hóa mà có, và sơn hà lưu xuất thật báo kia đắc. Căn cứ thời thọ báo gọi là “tự nhiên”. “Địa ngục” cho đến “trung gian có thể biết”: là trong loài người ở quá khứ có thuận hậu nghiêp, nghiêp kia chưa mãn, đến trong địa ngục, gặp duyên năng khởi các tâm như vậy, nghiêp liền thành tựu. Ở trong địa ngục không có thân khẩu hiện hành, chỉ tại khinh báo, chẳng phải vô gián. Rộng phân biệt có thể biết, cho nên nay không luận.

“Trung ấm treo lộn ngược”: Luận Câu-xá nói: Thiên đạo thì trung ấm đầu hướng lên, ba đạo kia thì nằm ngang, địa ngục thì quay xuống dưới. Đây căn cứ loài người thì Trời ở trên người. Bàng sinh và quỷ cùng ở châu này, cho nên không phải lên, xuống. Ngục tại dưới châu này, cho nên nói đầu quay xuống. Từ địa ngục đến sinh trong loài người, thì lý hợp đầu hướng lên; quỉ, súc sinh cũng như vậy. Từ cõi trời đến sinh trong loài người thì đầu kia ắt quay xuống. Các nơi khác đều theo lệ đây. “Ban đầu đem tội nhân đến chỗ Diêm vương…”: Hữu tình, phi tình đều bị cộng nghiêp chiêu cảm mà làm tâm biến đổi. “Ban đầu đều là chánh ngữ…”: Đầu tiên đến địa ngục như ngôn ngữ vốn có; sau thì chỉ là các tiếng ba ba (sóng âm) không còn có thể rõ. “Thời kiếp sơ…”: Trong các giáo tướng thì súc sinh có thể nói, đều là thời này. “Hậu sinh nói Tổ phụ” là theo ban đầu mà đặt tên. Thứ hai, hậu sinh cũng là tổ phụ của hậu sinh. “Trước là nhân duyên…”: Từ dẫn “kinh A-hàm” trở xuống tức giải thích theo Quán tâm. Trong nhân duyên trước cũng đầy đủ ý tứ Tất-đàn: Ngũ đạo không đồng tức Thế giới Tất-đàn. Nhân (người) là sở vi , tức Vị nhân Tất-đàn. Ác là sở phá, tức Đối trị Tất-đàn.

Thiên là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. “Hậu tợ quán tâm”: Từ tâm phân biệt nghĩa, nghĩa đương quán tâm. Lục đạo không đồng, lược như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Các luận và các kinh Tiểu thừa phân biệt rất rộng, không cần thì không liệt kê.

“Ta xưa ngồi đạo tràng…”: Căn cứ dưới dẫn ý Tiểu Vân sớ chỉ Hoa Nghiêm. Cho nên Địa luận nói: Sau khi Đức Phật thành đạo tuần thú hai nói kinh Hoa Nghiêm. Người đời giảng nói thì trách kinh Pháp Hoa ứng lời Phật dạy. Hoặc trách Địa luận lỗi nơi Viên tông. Nay hỏi: Tuần thứ hai nói kinh Hoa Nghiêm như trên dẫn và ba tuần trong kinh Pháp Hoa có gì sai biệt? Dù dài ngắn không đồng và sở thuyết đều khác, chỉ là cơ biệt hiển mật có khác. Thời thuyết đã vậy thân tướng cũng thế. Phải biết kinh Pháp Hoa là Báo Phật sở thuyết. Như luận nói: Báo Phật Bồ-đề như kinh nói “Ta thành Phật đến nay…”, Ứng Phật Bồđề thì chỉ Già-da. Cổ Đức đều nói: Già-da đã chẳng phải thì thời gian dài kia tại sao riêng đúng? Tức thành pháp Phật thuyết. Địa luận đã nói Tuần thứ hai chính là tiêu biểu Ứng Phật nói, đâu phải Báo Phật thành và để thuyết pháp ắt là tuần thứ hai! Theo lý mà nói thì kia đây không sai khác, căn cơ thấy chẳng phải là một, Đại tiểu phân đường. Tiểu thừa thấy ba tuần dừng lại, Đại thừa thấy từ đầu đến cuối không thay đổi, cho nên nói “tuần thứ hai” là biết chẳng tận lý. Nếu nói không khởi đạo thọ mà dạo đến Lộc uyển, thì đây tức trong Tích, Viên Phật thành tướng. Lại căn cứ ý của bộ thì nghĩa kiêm nơi Biệt. Tiểu căn cơ thấy có quần áo rách rõ ràng, nay đây chính sẽ giáo hóa Tiểu thừa đầu tiên. Đạo tràng tại Tây Nam nước Ma-kiệt-đà cách sông Ny-liên-thuyền không xa. Tây Vức ký nói: Chung quanh cây Bồ-đề chất đầy đá gạch cao ngất kiên cố, chiều Đông Tây rộng, chiều Nam Bắc hẹp, chu vi hơn năm trăm bộ, chính giữa có tòa Kim Cang. Đây tức đạo tràng của hóa Phật trong Tích.

“Giải thích theo Quán tâm Thọ (cây): Nhờ sự thấy lý, Đức Phật lẽ nào không như vậy? Vì sao Đức Phật không quán nhân duyên ư? Vì đây ở Tiểu thừa. Nếu căn cứ Hoa Nghiêm là tối sơ, thì đều phải căn cứ Viên Biệt để phán xét. “Kinh hành”: Đây cũng là giải thích theo Quán tâm. Nếu chỉ giải thích theo sự, thì chỉ là tiệm sơ, nên lại phụ quán căn cứ pháp tướng mà nói. Vì thế nói “Đạo phẩm…”: là giải thích theo sự. “Kinh hành”: đầy đủ như luật văn Uy Nghi kinh…, đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói “Xưa ngồi đạo tràng…” văn đầy đủ bốn giải thích. Đầu tiên nói “giả thời…” tức Thế giới, “đắc đạo” tức Vị nhân, “cảm ân báo đức” tức Đối trị, “muốn dùng Đại nghĩ” tức Đệ nhất nghĩa. Nếu 78 căn cứ giáo, thì ứng với bốn Đức Phật mười hai nhân duyên. Lại dùng Nhân duyên giải thích “cây”, như trong luận Bà-sa thì Vô minh làm căn (gốc)…, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Nên vi tế giải thích nêu ra để đối văn nay, tức Vô lậu cùng Thật tướng đều được gọi là “rừng”. “Ba mươi bảy phẩm là hành đạo pháp”: đạo phẩm tức định tuệ quân bình gọi là hành đạo pháp, huống chi bảy khoa đều là sở hành! Tức là dùng chân định tuệ để bước trên đất thật tướng, lý nhiếp các pháp cho nên nói “nhất thiết”. Đầu tiên an nơi đất này cho nên nói “đắc đạo”, muốn khiến người khác làm trước mình phải tiêu biểu mới mong dưới làm theo. “Cây đất…”: khởi hỏi. “Kinh Vị Tằng Hữu…”: là đáp.

Kinh nói “Trong ba tuần…”: Lại dùng tam thừa mà làm ba căn, do mới thành đạo suy nghĩ thông suốt căn cơ, đầy đủ như văn trước nói: Suy nghĩ độ hai Tiên nhân. Ý Tiểu Vân sớ, là căn cơ chúng sinh tự chưa kham nổi Pháp Hoa, không hẳn ở sau, cho nên dẫn văn sau: đức Phật kia mới thành đạo liền nói Pháp Hoa. Do nay theo lệ đó cho là có căn cứ. Cũng như trong phẩm Phương Tiện, “Nếu chỉ tán thán Phật thừa thì chúng sinh không kham nổi, mới bắt đầu ưng đồng chư Phật mà thiết lập quyền hóa”. Cho nên, nói: “sau ở thành Vương-xá”. “Nếu suy tìm..”: Chương An thông giải thích, hai nơi không khác không thể hoàn toàn sai, cho nên chỉ nói “nếu suy tìm”. Nay phải biện rõ sự sai biệt, vì sao? Nếu dùng Phật tuệ làm Pháp Hoa thì từ đầu đến cuối đều có, nếu dùng hội quy làm Pháp Hoa thì cuối có đầu không. Cho nên biết Dức Phật kia dưới cây Bồ-đề, đầu tiên nói Phật tuệ làm Pháp Hoa, mà Tiểu Vân chưa hiểu ý chỉ đây, liền dùng sơ thành đạo để hiển thuyết hội quy, là không đúng. Cho nên căn cứ theo đây văn lý đều thông, nếu mật nói thì chẳng phải đây luận bàn.

“Ác Sinh vương”: Ca-lợi vương. “Phật thệ”: Khi vua hại Phật, Phật phát đại nguyện: Ta nếu đắc đạo sẽ độ nhà vua trước. “Cam lộ: Chân đế.

“Hỏi: Sao ban đầu độ năm người…?”: trong đáp có sáu văn.

Câu hỏi tuy liên quan đến năm, mà ý chánh là hỏi người, cho nên đều lấy “người” đáp. Tiếp, “Luân vương…”: nêu ba việc để hỏi. Trong đáp có nhân của Luân vương là thiện nghiêp, nhân của Kiều-trần-như là danh dự nghiệp, nhân Phật là xưng tán nghiệp. Cho nên nói Ni-tra.

“Hữu đảnh”: là Phi tưởng, vì hiển bày âm thanh Phật, chúng sinh ở cõi kia không có nhĩ thức chứ chẳng phải tiếng không đến. Sắc giới chỉ không có hương vị hai thức, còn ngoài ra đều hành. Tuy có ý tứ Tấtđàn, mà tóm lại chỉ là vì hiển bày báo đời trước không đồng, dẫn đến khiến tiếng vang đến xa gần không đồng. “Nếu y…”: là căn cứ giáo. Trong hai cụm từ “đến Ny-tra vân vân” và “thế giới Ny-tra vân vân”, thì “vân vân” là: lẽ ra nêu rõ Ny-tra trăm ức, Ny-tra mười phương, Nytra đến khắp pháp giới, để phân bốn giáo: Đầu văn là Tạng. Trăm ức tức là bắt đầu Đại thừa Thông giáo, mười phương và khắp pháp giới tức Biệt và Viên. Vì một thành tất cả thành, mười phương trần sát khởi bốn oai nghi, xen nhau làm chủ bạn. “Sơ chuyển pháp luân… bốn xứ… định”: tiếng đã phân làm bốn, xứ cũng nên như vậy.

“Đại thần biến”: Chẳng phải cho là tiểu vì tiểu thiên lệch đối một cơ, như hóa Ca-diếp đế hiến đá vuông, nơi ấy ắt nhất định. “Lại, trừ chuyển pháp luân….”: Tiệm sơ thì định, đây bắt đầu hóa tà nơi kia ắt định. Thông luận một đời, cho nên có thể không định. “Xưa nói tư duy lý giáo…”: Tức dùng ba tuần (hai mươi mốt ngày) dụng đối Đại thừa Lý, Giáo, Hạnh ba thứ, đều không có căn cơ không thọ. “Lại nói khuyên răn”: cũng là sư đây, tức như Thí dụ và Tín giải hai môn Đại thừa đều có dự định thích nghi, không căn cơ, thôi hóa độ. Dùng đối ba thứ đây, cũng có thể như vậy. “Ý của Dao sư”: cũng nói nghi thức giáo hóa chúng sinh, tư duy mà tiêu biểu lý sâu, đâu cần sự, sâu khiến Đại thánh tư duy mà sau hành. “Tiêu biểu Phật bắt đầu tam chu thuyết…”: đây cùng ý kinh Nhân Quả phần lớn đồng. Tứ phần luật Tát-bà-đa đều nói sáu tuần, Hưng Khởi Hạnh kinh nói bảy tuần, Ngũ phần nói tám tuần, Đại luận nói năm mươi tuần. Địa luận… đều nói hai tuần, căn cơ thấy không đồng không nên hòa hợp. Nay lại là giáo tột đỉnh sau cùng cho nên lại y cứ đây. Trong “giải thích theo Quán tâm” lại căn cứ bốn quán để chỉ rõ hóa nghi tức bốn giáo quán bởi vì tối hậu nói pháp phân tích. “Các Phạm vương tuy thỉnh Đại thừa”: hỏi: Làm sao biết được Phạm vương thỉnh Đại thừa? Đáp: Căn cứ lời Phật đáp rằng: Nếu chỉ tán thán Phật thừa… “Nay muốn” cho đến “thủy chung đắc độ”: Nếu không trước Tiểu thừa thì Đại Tiểu đều mất, nếu trước dùng Tiểu thì sau cùng ắt Đại lợi ích.

“Các pháp tịch diệt…”: Hỏi: Trong đây ba giải thích nghĩa có gì sai khác? Đáp: 1. Nhất thuyết dùng quyền thật tương đối, tức thật không thể nói, nói thì thuộc Quyền. Tam quyền là số, cho nên Nhất thật chẳng phải số. 2. Sinh diệt bất sinh diệt tương đối, tức bất sinh diệt không thể tuyên bày, đây là Tiểu Đại tương đối, cũng là sự lý tương đối, cho nên hướng tam thừa mà nói thông chỉ Đại giáo. Đây căn cứ Lý thật Giáo quyền đối nhau mà biện. 3. Tức là lý thiên chân, đối thiên bốn môn, lý thiên chân cũng không thể tuyên bày, vậy thì Đại tiểu hai lý đều không thể nói, phương tiện vì chúng sinh đều có thể được nói. Tuy đều có thể nói Phật ý tại Đại thừa, mà chúng sinh đối thật đều chẳng thích hợp, cho nên tư duy phương tiện chẳng phải nói sinh diệt.

“Thọ hành ngộ nhập”: Căn cơ hợp tức “thọ”. Từ nghe quán chuyển tức Noãn pháp trở đi, gọi đó là “hành”. Nếu chuẩn theo Hữu tông thì thời tiết tuy ngắn mà không ngăn ngại đầy đủ trải qua các vị Nội phàm Ngoại phàm, đến Thế Đệ nhất gọi đó là “ngộ”. Nếu đắc Sơ quả thì gọi là “nhập”. “Chuyển Phật…”: Đây có hai nghĩa: Nếu căn cứ vượt thời tiết thì thông bốn Như Lai, các pháp đầy đủ tùy gọi mà đến, phàm có nói gì đều là hóa tha, đối tự chứng nói. Nếu dùng viên tự đối tam giáo tha thì đây là căn cứ pháp, cũng gọi là tha. Nay từ đương phần căn cứ tiệm sơ nói, đây là Phật nội chứng cho nên nói “trong tâm”. Chứng có quyền thật, quyền pháp lợi vật cho nên gọi là “tha”.

“Niết-bàn âm”: Do đệ tử thọ hành, phiền não đoạn, ở Niết-bàn, danh sinh cho nên danh làm âm. “Âm” là thanh giáo, là bắt đầu của các giáo cho nên nói “khởi tự nơi đây”. “Tam bảo do đó hiện ở thế gian”: Cũng căn cứ tiệm ban đầu, vả lại tại Tiểu thừa chưa luận nhất thể. “Từ kiếp lâu xa đến nay”: Nói “lâu xa” là căn cứ bên dưới nói nhân duyên đời trước, chính chỉ Phật Đại Thông về sau, do Tiểu thừa thuần thục nên dùng một văn giải thích hai nghi kia. “Văn trên gồm có ý kia”: Tam thừa hạnh nhân đều là Phật tử. Chương chư Phật trên cũng nói “có Phật tử tâm tịnh…”, đều chỉ thời xưa giáo nghe phương tiện đã gọi là “Phật tử”, nhưng nơi giáo xưa chưa thể nói rõ. “Ta liền…”: một hàng cũng chỉ Chủng trí… dùng năng hiển sở, sở tức lý. “Lại, căn cứ…”: là lần nữa trong phân văn nói Đại thừa cơ phát cũng gọi là Đòi quả.

Hỏi: Văn trước vì sao bài xích Quang Trạch, nói trong văn pháp thuyết không có Đòi xe ư?

Đáp: Quang Trạch nếu nói tình đòi Đại thì không có lỗi. Nếu dụng làm căn bản cho thí dụ Đòi tiểu quả bên dưới, thì cần phải phá, phá kia dẫn văn cũng lại như vậy.

“Đây nên có bốn câu”:

Hỏi: Văn trước đã căn cứ bốn câu đối căn, trong đây tại sao nói bốn ư?

Đáp: Trước thì đầu tiên đối Nhũ, Lạc đều làm bốn câu, phân biệt Đại tiểu kia bị chướng không đồng, lại dùng bốn câu giải thích xuất Sinh tô và Thục tô, thông đối các giáo bốn căn nghe pháp, tiến hay không có khác có đồng, cho nên trước thì ban đầu lập lại chỉ câu thứ tư ở trong Pháp Hoa. Các văn khác phần nhiều ở bốn vị trước, nay thời thứ năm mới đối khai ba, riêng một là đại. Nói “tức phát”: Chỉ không khởi đương tòa, thì gọi là “tức”, từ tòa kia đến thì đều là trải qua thời gian (kinh thời), chỉ không vượt qua vị cho nên gọi là “tức”.

“Đòi (sách) có ba ý”: hai ý Đòi đã nói tại cơ tại tình. Trong cơ chỉ nói có nghĩa cảm quả, trong tình đã nói mật cầu mà thôi, cho nên hai ý Đòi trước ở xưa, nói “phát” chỉ ở nay. Xưa nói tuy tức thông nơi bốn vị, mà đây chỉ thời gian mà hai tô đều nghe Đại vì vậy cho nên được nói có hai ý Đòi. Lại nói hai ý Đòi có thông có biệt. Thông thì đều thông hai vị, cơ thì sâu kín ở bên trong, tình thì trong động ở giữa, hai vị đều như vậy cho nên nói thông. Biệt thì hai ý Đòi biệt đối hai vị, ở trong thời Phương-đẳng nghe bất tư nghì, tuy bài xích là phi chẳng có đại lợi , bị bài xích mà không hủy báng tức nghĩa đương nơi Đòi (yêu cầu). Cho nên, biết không hủy báng lý tại hữu cầu. Ở thời Thục-tô là thời Đại dẫn dụ rửa bỏ. Tuy không hy vọng lấy mà chuyển giáo tình thân, dù không nói rõ mà nghĩa Đòi dần dần cần thiết, tuy hai thứ không đồng, cơ xa tình gần. “Đắc, bất đắc”: Là riêng Bồ-tát cũng lợi Thanh-văn, trong tình tiến thoái nghĩa đương nơi Đòi, vậy thì “tình đới cơ” thảy đều nhất định phải ở xưa. Cho đến Bát-nhã thì biệt thọ tên gọi “tình”, đến khi lãnh giải thì dùng cái được để hiển cái mất, cho nên nói “muốn dùng hỏi Thế Tôn là mất hay không mất”. Thỉnh đòi tuy tức mà chỉ có tại giáo nay, cho đến khải thỉnh nói thì cơ tình ắt đầy đủ. Từ chỗ mạnh miệng xin thỉnh, cơ tình cũng sai khác, xưa chỉ ngầm phục ở trong lòng, đối nay mới trợ giúp hiển rõ nơi miệng ba phen đòi xin đều bấu víu ở Thánh, đến (phó) cũng tự phân hiển mật, thời thuần thục đã hội nhân bên trong đầy đủ, nghe lược nói bởi vì ngoại duyên đầy đủ, nhân duyên đủ nên phát ra lời nói ở đây.

“Hỏi: Xưa ra khỏi nhà…”: là nêu trong phẩm Thí Dụ để hiển bày nay. Kia nói “Các con đến chỗ cha xin ban cho chúng con ba thứ xe báu”, nay sao lại nói “Cơ… đòi thật” ư?

Đáp ý: Khi chưa ra khỏi nhà nghe hứa, khi ra rồi thì không thấy xe đã hứa cho, chỉ thấy người hứa, nên theo người hứa mà đòi cái xưa đã hứa, đã hứa mà không cho ắt có điều sai khác. Cho nên, đòi xưa tại nay vốn là ý cầu xin cái khác.

Nay hỏi: Lộc-uyển thì ra khỏi nhà chỉ bảo đảm Tiểu quả đâu từng đòi xe ư? Đáp: Nếu tại pháp thuyết, thì đến thời Lộc-uyển nghĩa đang ra khỏi nhà. Lại trải qua hai vị hai lần đòi xin tại trong lòng, chỉ thí dụ ngắn mà bao hàm nghĩa dài, đến đầu thời Pháp Hoa, cho nên thí dụ nói các con đến chỗ cha đòi xe, cha bèn cho nhưng đều ban cho xe lớn. Cho nên kia thí dụ ý bao gồm hai tô.

Phẩm Tín Giải thì thí dụ dài mới khai thể mạng, cho nên phẩm Thí Dụ văn nghĩa bao gồm ba phen đòi xin, phải biết lẽ nào cùng Quang Trạch làm bạn được? “Đều dùng tâm cung kính….”: Ý người khác nói căn cứ cơ luận đến, thẹn Tiểu mộ Đại, là Bát-nhã Phương-đẳng. Cho nên nay phá Cơ, thân đều đến Bát-nhã Phương-đẳng, huống chi Pháp Hoa ba nghiệp đều lãnh thọ. Vả lại, giải thích nghĩa thỉnh cho nên nói cơ tình, đến ắt ba nghiệp không thể thiên lệch. “Nay hành dữ thọ ký…”: là tùy tiện thọ ký, lại thọ tám tướng cho nên nói “hành dữ”, lại thọ ký Đại thừa chỉ tại phân biệt công đức, trong đây lại tiểu thừa cho nên nói hạnh cùng. “Xưa chân xưa thành…”: “Xưa chân” chỉ lý, “xưa thành” chỉ quả, xưa La-hán… đã đều là thật, đều được “chân, thành”. Nay Tam thừa đều bài xích thì hai nghĩa đều mất (thất), cho nên nói “cuối cùng biết tại đâu?”. “Lại, Tam thừa đồng học một đạo…”: Đây tức thuật lại thông tam thừa nghi, đã đồng một lý thì chứng chân không sai khác. Chân tuy không khác mà Bồ-tát lúc xưa đã từng được thọ ký. Nếu đã được thọ ký thì vì sao mà nay đều bài xích là phương tiện? Nếu đều là phương tiện thì xưa không nên biệt, cho nên nói: “sao ý có biệt?”. Vì vậy, nên nghi xưa nay, hoặc hai hoặc ba hoặc lý hoặc hạnh. Đã đều là phương tiện thì mất cái chất phác thật chứng, sao lại không nghi? Văn trước nhiều nơi thông bài xích tam giáo, trong đây chỉ bài xích Tạng, Thông hai thứ.

  1. Tam thừa đồng chứng chân đế.
  2. Chứng hai giáo này đều là quyền.

Nếu lại căn cứ biệt: Đương giáo trong luận tự có chân thật, đã đới phương tiện thì đầu cuối hạnh sai khác. Thông đều nghe bài xích đó cũng sinh nghi. “Như thị Diệu pháp”: Đầy đủ như trong Thích Tiêm nói, cho nên nói: chỉ là “pháp Quyền thật”.

Tiếp “Như tam thế…”: trong “dẫn đồng chư Phật” văn đầy đủ hai giải thích. Trước thì căn cứ “Vì Thật thiết lập Quyền”, sau thì căn cứ “khai Quyền hiển Thật”. Lại, văn đầu căn cứ giáo ba quyền một thật. Văn sau căn cứ lý cho nên “có quyền có thật” làm Quyền, “Quyền thật không hai” làm Thật. Đây giải thích thứ hai chỉ là hiển lý Thật giáo trước tức là Quyền thật không hai. Kinh nói: “Huyền viễn…” là: Nếu chuẩn theo kiếp đây sáu, bốn, hai vạn. Vọng dưới Phạm thiên một trăm tám mươi kiếp không vô hữu Phật vẫn chưa gọi là xa, sau đời Phật Dilặc giảm mười lăm kiếp. Chín trăm chín mươi lăm Đức Phật thứ lớp xuất hiện, nên không nói đây. “Phương tiện có thể là quyền giả”: ý nêu giáo trước có thể là quyền lập, căn cứ bản hoài của Phật tuy chẳng hư vọng, dùng thật vọng giả cho nên gọi là “quyền giả”. Thiết lập rồi, lại phế bỏ, cuối cùng trở về chân thật. Nay đã nói Thật, cho nên khuyên chớ nghi. “Xưa từ các ông…”: lại trình bày cựu giải trước tuy lược phá mà đều là một đường, cho nên lại dẫn khiến biết đồng hay khác. Nếu ưa đắm các dục đến nỗi xen nhau chọn lựa sai trái thì phàm phu tiểu thừa đều xả bỏ mới có thể kham thọ ký.

 

GIẢI THÍCH PHẨM THÍ DỤ THỨ BA

Có người đối với đây lập “Lai ý” ( dụng ý của phẩm), nói: “Đại thừa, phàm không thí dụ”, có lẽ có thí dụ thì thành Tiểu thừa. Có người nói: “Phật pháp nhiều môn, mỗi môn đều có thí dụ”. Đây thì có thể như vậy. Nói “Trước tiên là Tổng thích”: Hai chữ “tổng thích” thông quán (đứng đầu chung cho) bốn cách giải thích. Hoặc nay hoặc xưa dùng nhân duyên… đều có sai biệt. Đầu phẩm tuy kiêm văn của chu thứ nhất, mà giải thích đề thì lại nương ý của chu thứ hai, cho nên nói “hạng trung hạ căn chưa thông đạt. . .”. Đầu tiên tổng chia làm ba:

  1. Chữ: huấn.
  2. Giải thích huấn.
  3. Dụng ý.

Tiếp, trong giải thích huấn, “Mượn đây…”: là giải thích chữ “Thí”. “Nương cạn..”: giải thích chữ “Dụ”. Ngọc Thiên nói: Dùng loại so sánh gọi là “Thí”, khai hiểu khiến ngộ gọi là “Dụ”. Đã hai chữ song đề nên có chút sai biệt, đầy đủ như giải thích “huấn”, cho nên dùng so sánh hiểu để huấn thời chúng, đây gọi là nhà xe trong cõi người tức giới nội. Kia gọi là Phật sự giới ngoại, mê ngộ, cạn sâu có thể biết. Kia chỉ Phật thừa nghĩa sâu duy nhất, cho nên mê cùng ngộ chỉ có Tiểu đối Viên. Cây, cửa, gió, trăng chỉ có lý Viên giáo. “Trước rộng…”: nêu Dụng ý cũng là kết trước sinh sau. Câu đầu kết trước, “giữa cuối…” là sinh sau. Cho nên biết cơ tuy không dứt, lại đợi bi trí không dứt mà trung cơ sẽ sinh. Lại “rung cây, nhấc cửa”, khiến ý “gió, trăng” hiện rõ. Nhưng pháp nói thật tướng đâu ẩn đâu hiện, như gió lâu chẳng lúc nào dứt, trăng trên không thường lơ lững, chỉ vì hạng trung hạ, căn cơ Đại thừa chưa khai mở, che tình còn lấp cho rằng trăng ẩn gió dừng, nên tạm lưu lại ở hai đường đây mà cần phải rung cây, nhấc cửa. Bốn cách giải thích theo Nhân duyên, v.v… thì ý chỉ Đại thừa đều rõ. Cho nên dùng hai chữ để tổng đứng đầu các giải thích.

Tiếp, Biệt giải thích: Đầu tiên trong Nhân duyên đều dùng bốn pháp thế gian để dụ cho bốn pháp của một Thực. Trong nghĩa Thế giới đầu tiên thẳng nói “thế pháp”, bởi vì thế pháp đứng đầu ba pháp. Nghe thí dụ sinh vui gọi là “Thế giới”. Sở dĩ nói ba thứ bên dưới đều là thế pháp, chỉ vì sinh… biệt đắc ba tên dưới, cho nên ba loại dưới đều do nghe thí dụ mà sinh vui… Nhân đã từng có cha con thế gian, nay nghe thí dụ nói: “Ta là con thật sự của Phật, Thanh-văn cùng Phật thiên tánh không khác”, chỉ có tại kinh này, nên nói “chưa từng có”. Bởi vì ngày mật sai, còn không có tâm cho làm thuê làm mướn, cho nên khi lãnh nhận gia tài đâu có sinh niệm là vật của mình, mà đặc biệt do thiên tánh liên quan nhau, bèn được dự báo gánh vác. Trước lúc đó, lo lắng hối hận đến đây mới trừ bỏ, khi nói thí dụ mới gọi là chân tử (con chân thật). Nay mới được ngộ càng thêm hớn hở vui mừng, đây chỉ nghe thí dụ sinh cái vui chân thật tức văn tín giải ban đầu hoan hỷ, cho nên Đại tiểu hai thừa đều gọi là hoan hỷ. Tiếp trong Vị nhân nói: Thế sinh pháp tức của cải cho nên nói: quý giá ưa thích. Xuất thế pháp sinh tức tam thừa pháp, đứng đầu trong sinh thiện lẽ nào vượt qua đây? Cho nên xưa ba xe trân báu vi diệu thâu nhiếp. Việc các ông làm là Bồ-tát đạo. “Thế diệt pháp”: Trong nhà các tai họa có thể thoát ra được. “Xuất thế diệt pháp” nghĩa là Hoặc đoạn. Vô lậu thuật xưa, trừ bỏ lo buồn chỉ nay. Bạt khổ vốn tại đồng ban cho xe lớn, tốt nhất trừ ác chẳng gì bằng đây. Xưa phá Kiến tư thông luận nay đều là trừ ác. “Thế bất sinh diệt” tức xe lớn, cha vốn có cho nên “bất sinh”, đến chỗ bất hoại cho nên “bất diệt”. “Xuất thế bất sinh bất diệt”: Tánh đức vốn có cho nên “bất sinh”, tu đắc quả thường cho nên “bất diệt”. Do trong Tín Giải nghe thí dụ thì hoan hỷ… cho nên tứ Tất-đàn đều thí dụ cha con. Nhưng ba Tất-đàn trước tựa như căn cứ thi quyền, Đệ nhất nghĩa Tất-đàn mới căn cứ khai hiển. Phải biết ba Tất-đàn trước tức lộng dẫn của Đệ nhất nghĩa. Cho nên, dẫn tâm trước đều ham thích và để thoát nạn nhà lửa. Nếu khai hiển rồi thì đều là xe lớn. Lại tứ Tất-đàn đều có một pháp một thí, trong pháp hoặc dùng văn pháp thuyết, Thân-tử lãnh giải và lại trợ giúp thành lời kia. Nếu thẳng tiêu hai chữ thì đâu đủ đề phẩm, cho nên kết nói “một âm khéo dụ”. Đây thì ngăn đâu phải từ đầu đến cuối một âm. “Một âm” thì chỉ có thật, “Khéo dụ” thì kiêm quyền. Quyền dẫn về Thật cho nên không đồng xưa thuần dùng một âm, cho nên thí dụ nghĩa bao hàm bốn thứ: Nhân duyên v.v… Nếu không như vậy, thì làm sao hiểu rõ tiểu xa, đại xa, nhà lửa, nhà cha ở.

“Trung hạ được lợi ích”: Hỏi: Hạ căn chưa ngộ vì sao nói lợi ích?

Đáp: Pháp Thí được gia-bị chung cho hàng trung hạ tự mê, cho nên hạ căn nghe Pháp Thí, trung căn nghe Pháp thuyết, tuy chưa hiển ngộ cũng đều lợi ích ngầm. Cho nên đến Thí và nhân duyên túc thế (đời trước) thì thâu hoạch ngộ.

Cho nên căn cứ Giáo… ba thứ đều phải căn cứ thí dụ. Thí đã ba xe, một xe xưa nay tương đối, pháp cũng hoặc Quyền hoặc Thật đều liệt kê thiên viên. Nếu không như vậy thì khai là khai cái gì? Vốn hứa cho ba xe, đòi mà không cho, cho đến vì nói đồng ban cho xe lớn. Phải biết xe kia vốn là ba, một. Vì vật phương tiện quyền lập ba tên. Ra khỏi nhà, phá bỏ quyền phá ba chỉ có một. Tam tạng giáo, là giáo đầu tiên của bốn giáo, nói thí dụ “Bồ-tát cỡi xe trâu v.v…”: Đây Bồ-tát từ đầu đến cuối đều hóa tha, rất được danh kia. Thông giáo thí dụ nói “Ba người đồng sợ..”: Tam tạng Nhị thừa lý cũng nên như vậy, vì đối đầu cuối một hướng lợi tha cho nên hai giáo kia lại nói “tự tế” (cứu giúp). Giáo này Duyên-giác tự, tha kiêm lợi ích hơn hàng Thanh-văn, cho nên nói: “cùng chạy nhanh cùng nhìn ngoảnh lại”. Thương các Bồ-tát yếu kém cho nên có nói “cùng”. Tự hành cho nên “chạy nhanh”, kiêm tha thì mới “nhìn ngoảnh lại”. Bồ-tát tự hành đã mãn, chỉ lấy lợi vật làm hoài bảo, vì vậy cho nên chỉ nói: “Toàn chúng chạy ra”. Trong Biệt giáo ban đầu bài xích hai giáo tam thừa đều gần.

Tiếp, “Bồ-tát…”: là chánh giải thích. Đối trước đã liệt kê câu câu đều quyết chắc. Căn cứ “đại tượng” nói cho nên gọi là “biên đáy”. “Đại Phẩm…”: chứng minh đối hai giáo nhị thừa trước lược chọn. Thông giáo Bồ-tát đối Thông Nhị thừa, đoạn chứng đã đồng lược, không có hình trạng bài xích, cho nên biết là Biệt Bồ-tát bài xích hai Nhị thừa. Cho nên dùng “lửa đom đóm đối mặt trời” làm biệt, làm thí dụ. Căn cứ nghĩa lược thí dụ nên đối “xe trâu” để phân biệt Bồ-tát, bởi do chứng kinh may mắn có thí dụ tam thừa đều khác. Hai giáo tam thừa ngoài thí dụ lại có riêng Bồ-tát thí như đại tượng (voi lớn). Và lấy “đom đóm, mặt trời” dùng để bài xích nhị thừa. Lại, “Bắt đầu thấy…”: là trong Viên giáo trước chỉ Hoa Nghiêm. Và “Vì chưa nhập…”: nêu rõ ý kinh này. Hai nơi hóa sự đều không cần thí dụ, tức Hoa Nghiêm lợi căn và Pháp Hoa ở chu thượng.

“Như nay…”: nêu lý hai nơi.. bình đẳng, tuy tức hóa nghi trước sau mà đầu cuối lý nhất. Ban đầu tức Hoa Nghiêm, nay thì Pháp Hoa. Chỉ duyên “Tuệ Như”, cho nên lý đồng, cho nên nói “không hai không khác”.

Hỏi: “Không khác và không hai”, hai thứ này có gì sai biệt?

Đáp: Trọng yếu dùng “không khác” để lặp lại nơi bất nhị, do “không khác” cho nên mới gọi là “không hai” (bất nhị).

Từ “Thượng căn lợi trí” cho đến “không cần thí dụ”: lại nêu hai xứ (nơi) hiển chu thượng trong đó đắc ngộ, là biện rõ sự sai khác. “Chỉ vì…”: là nêu nay có trung hạ căn, cho nên phải thí dụ. Nhưng trong Hoa Nghiêm đều là thí dụ, chỉ vì kia nhập đạo không chánh do đây, như nay Đàm hoa làm thành Pháp thuyết. Nói “động chấp…”: Thượng căn nhất xứ, trung căn hai xứ, hoặc nói năm xứ. Trong rộng có trường hàng kệ tụng đều là pháp thuyết lãnh thuật hai văn. Hạ căn tam xứ (ba chỗ) hoặc nói mười một xứ. Ở năm xứ trước, lại thêm trong Thí thì lãnh thuật đều có trường hàng kệ tụng, cho đến hạ căn hai mươi hai phen khai quyền hiển thật, đầy đủ như cuối phẩm Hóa Thành nêu. Do chưa ngộ cho nên mê nơi pháp thuyết quyền thật kỳ đạo (đường rẽ). Ta xưa cùng kia đồng ở nơi hạng Vô học, kia được thọ ký thuật, riêng ta chưa được thấm nhuần. Ban đầu nghe lược nói rồi thì trong lòng tiến thoái, đó là cực quả hay là phương tiện gì? Là vĩnh viễn tại tiểu thừa hay là (đương) sẽ thành Đại thừa? Lại nghe năm Đức Phật, mà nghi vẫn chưa trừ cho nên lại phải dùng thí dụ xe để dẫn, cho nên gọi là “Viên thí” (thí dụ trong Viên giáo).

Người đời nói: “Thiên Thai ức chế Hoa Nghiêm”, chính là do không giỏi về các tông khác cho nên nói như vậy. Đã xét Phật tuệ hai kinh không sai khác, chỉ bộ vọng bộ đều có chút sai khác. Đã không thể chỉ Lộc uyển là bắt đầu, lại nói “nghe ta” mà các nghĩa khác không thành! Thiêp Công nói: Pháp Hoa, Hoa Nghiêm rộng lược sai biệt. Đây ngửi mùi hương chiêm-bặc lưu toả mà chưa cùng tận ý chỉ vi diệu của các mùi hương, do không thể tư duy tường tận tông này. Rộng lược tuy như vậy, Kiêm và Đới thì như thế nào? Hiển bản chưa rõ thọ ký tiểu chẳng theo lệ, cho đến văn dưới mười nghĩa đồng khác. “Trì trù”: là như do dự. “Kỳ đạo”: Bộ Nhĩ Nhã nói: đến chỗ có hai, gọi là “kỳ”.

“Bản tích quán tâm vân vân”: Đều phải căn cứ thí dụ Bản tích đầy đủ như Liên hoa tam thí Huyền Văn quyển bảy. Nếu muốn tiến mượn sơ thành thiết lập giáo thì lẽ nào không có một, ba, cho nên ngàn cành vạn lá đồng tông một gốc rễ, cho đến năm trăm, ba ngàn trần điểm có thể dùng ý biết. Quán tâm thí dụ: “Không” ví như bạch ngưu, “Giả” ví như cụ độ, “Trung” ví như thể của xe, cho đến huyễn Không, huyễn Giả, huyễn Trung. Tiếp, “phân văn giải thích”: Sắp xếp thí dụ, vả lại giải thích phần còn lại của phẩm trước. Đầu tiên trong lãnh giải: Sắp xếp trước Thí thuyết v.v… : Có người nói: Vì Thí làm Tựa thì nên nạn vấn rằng: Tín giải Dược thảo Thọ ký cũng nên sắp xếp trong phẩm Hóa Thành vì hóa thành làm tựa. Từ “Trường hàng lãnh cùng giải” đến “đều trình bày”: Trường hàng ba nghiệp đều có Nêu ra, Giải thích, Kết. Hai văn Nêu ra và Kết đều đầy đủ ba nghiệp mà không phân lãnh giải, chỉ trong Giải thích lấy thân nghiệp làm “lãnh”, khẩu, ý làm “giải”. Bắt đầu “Nay con theo đức Thế Tôn..” là lãnh. Từ “Vì sao vậy? Vì xưa con theo Phật…”: là giải. “Kệ đều trình bày”: Ba đoạn mỗi đoạn có hai, đến trong kệ dưới mỗi mỗi điểm xuất ra. “Một hạnh” (hạnh phúc, may mắn): Nghĩa là một nghiệp gặp vui, nay ba nghiệp đều vui mới thành ba hạnh. Ta nay thân đã gần gũi Phật huống lại nghe pháp, nghe pháp tức là khẩu vui, được hiểu tức là ý vui. Lại xưa chỉ cơ tình, cơ tình ở trong gọi là “một hạnh”. Nay do miệng thỉnh, ba nghiệp đều vui cho nên nói “ba vui”, quá ý đã mưu tính cho nên gọi là “hạnh”. Cho nên văn dưới nói: chẳng phải trước mong cầu mà nay tự đắc. “Biện” là vỗ tay múa, tức tâm, miệng vui sướng đến nỗi hiện ra ngoài, do hai động hình, cho nên cả ba đều động. “Văn nói…”: dẫn chứng, là chánh chứng “ba vui”. Văn tuy lại liệt kê ý, khẩu hai vui, mà có hai ắt có ba, lý số phải như vậy; trong ngoài sai khác, cho nên tức thế giới. Lại, đây bốn văn nên căn cứ phẩm trước, mà nay ba văn sau căn cứ Tín Giải: Khai hiển nghĩa đồng kia đây, thông dụng ý đồng, thời khác cũng nên không sai. “Bỏ nghèo, thọ nhận giàu”: Khai Tam tạng trân báu, đắc chân thật thiện lợi, là tốt nhất trong Sinh thiện. “Ưu hối đều bỏ…”: Khai hai vị. Vĩnh viễn trừ ưu nghi cho nên trừ ác nghèo. Ta nhớ xưa ở thời Phương-đẳng thì bị bài xích cho nên “ưu”, đến thời Bát-nhã thì “hối” vì đã trụ Tiểu thừa. Thời Phương-đẳng thì bị bài xích, cho nên “nghi”. Thời Bát-nhã thì không chấp, cho nên “nan” (khó). Trược là “ngoại chướng”, Tiểu làm “nội chướng”. Lại, bị chê trách không thọ, gọi là “ngoại chướng”. Được thêm mà không nhận lấy, gọi là “nội chướng”. Nay thì không có lỗi của ba cặp này, cho nên nói “đại lãng”, trú nhất thật đệ nhất nghĩa.

Tiếp trong phần “Căn cứ Giáo”: văn đầu tiên theo cách chung giản thể của vui xưa, cho nên trước trình bày xưa là Tiểu thừa. Tiếp, “Nay nói…”: là giản lược khác, tức lược không hiển có. “Hoặc là Khổ nhẫn …”: là chánh giải thích vì rằng cái vui thế gian từ lâu đã trừ. Tạng, Thông hai vui từ lâu đã đắc. “Hoặc là nhị Không….”: giáo đạo lại chẳng phải là đối tượng để làm theo, trải qua ba giáo bỏ đi bởi vì có nguyên do, vì không phải là điều mà nay muốn nêu, đó là chỉ có vui Viên giáo. Như cái ao ít nước, như phàm phu không thấm nhuần, thì không có trí xuất thế gian. Trong Viên giáo: Đầu tiên là vị, tiếp là nhân. “Sơ trụ gọi là Hoan hỷ”: là nghĩa lập. Vì ba pháp khai phát cùng Sơ địa không khác, cũng gọi là Hoan hỷ. “Thân-tử” đến “hoan hỷ”: chưa dám định phán cho nên hoặc là hai cách. “Siêu nhập” tức Hạnh, hoặc là Hướng, hoặc là Địa. Dù không siêu thì cũng nhập sơ trụ, gọi là Hoan hỷ. Các nhà chú thích nói thẳng: Nghi lo ngoài đã trừ thì vui trong tâm phát sinh, bất giác chân dẫm đạp cho nên nói “dũng dược (hớn hở)”, nên phải phân giáo mới biện rõ tốt xấu (ưu liệt). Cho nên A-la-hán không có cái vui trong ba cõi. Nói “dũng dược”: là biệt Hoặc (lậu hoặc) đã huân tập ngoài diệu pháp được gia-bị. “Giải thích theo Quán tâm thì lại không ghi chép vân vân”: là lẽ ra giải thích Vui theo nhất tâm tam quán lục tức. Tiếp, giải thích “Uy nghi bên ngoài”, đây là sự kinh gia giải thích có thể hiểu, nơi khác dù có nêu ra chỉ nói biểu hợp chứ không biết năng sở, đó là trí gì và hợp lý gì? Nay tiêu biểu khác các bộ mà trong văn còn lược, rộng xem xét thì như giải thích phẩm Phương Tiện. Trong đây cũng xem xét hướng Phật vì nay biết là thật. “Chắp tay hướng Phật” thì giáo nào chẳng có mà nay tiêu biểu chỉ có Phật quả? Phải biết: xưa hướng chẳng thật, nay khai vì rằng thật hướng tiêu biểu phi thường, trong Tựa báo điềm lành cũng lại như vậy. “Chiêm ngưỡng tôn nhan…”: Trước nay tuy chắp tay là tiêu biểu Thật không hai, mà không thể nêu bên trong tâm đã hiểu cho nên hướng mà lại chiêm ngưỡng. Dựa vào “thấy tôn nhan” để tiêu biểu “hiểu”, biết là Phật chẳng phải ai khác, như chẳng phải quyền chỉ có thật. Cho nên biết, bên ngoài thấy Phật, mà cũng chính là ý không tư duy khác, tức tiêu biểu thấy tha thật cảnh mà tự khai tri kiến. “Ý giải…”: là phân ra thân và ý để đối lãnh giải. Vì nói xen nhau nêu hai nghiệp đều lãnh giải đủ quyền thật. Cũng căn cứ sở biểu để phân biệt thân ý, cho nên dùng “chắp tay” tiêu biểu thân, “chiêm ngưỡng” tiêu biểu ý. Xưa thân cách xa Phật như hai bàn tay tiêu biểu quyền, nay thân thấy Phật chắp tay là tiêu biểu thật. Cho nên, nói tức Quyền mà Thật. Ý cũng như nói xưa chưa hiểu (giải) Thật, nay lấy niệm mà tiêu biểu, cho nên nói giải thật tức là quyền, nên nói “xen nhau nêu”. “Bạch Phật…”: Nói miệng lãnh giải, là đối kinh gia kia. Nay lấy tự trình bày mà làm miệng lãnh giải, lãnh ắt đầy đủ ba chẳng riêng gì miệng. Cho nên ba phần: Nêu, Giải thích, Kết đều đầy đủ ba. Trong phần “Nêu”: “ba”, đã nói “Bạch Phật” thì nên chỉ ở miệng, tại sao nói ba? Nhưng nói “lãnh”, thì ắt trước biểu hiện nơi miệng vì miệng thuật lại sở đắc, lẽ nào chuyên một đường? Thế nên thuật đủ “sở tòng, sở văn” và sinh hoan hỷ, ba nghiệp đầy đủ.

Tiếp, trong phần “Giải thích” thì trước là giải thích thân, nói: “Như mặt trời chiếu núi cao, mật có nghĩa nghe”.

Hỏi: Mật thông Lộc-uyển và dùng hai tô, vì sao riêng nói “núi cao chiếu trước”?

Đáp: Đây đối Tiểu thừa hiển bày điếc câm, bộ chỉ có Đại thừa, cho nên hiển hoàn toàn không có, tạm nói “mật” đó thôi! Lộc uyển có mật căn cứ theo lệ có thể biết. “Thọ ký chỉ Phương-đẳng”, có chỉ Ahàm thọ ký Di-lặc, A-hàm chưa từng nêu Tri kiến Phật có lỗi gì ư? “Con thường ở một mình, tư duy quá sở”, “sở” tức “núi rừng”, cũng nên nói “hành…”: là tư duy quá nghi. “Nghĩ như vầy…..”: Là tư duy quá tâm; nay tư duy chỗ ở, uy nghi và tâm niệm ngày xưa đều là lỗi, cho nên nói “tư quá (tư duy lỗi)”. “Đồng nhập…”: là xuất tướng lỗi kia, chỗ ở… có lỗi là do chấp pháp tánh.

Hỏi: Giả sử xưa nhập Tiểu thừa pháp tánh, thì có lỗi gì?

Đáp: Chỉ vì cho rằng cùng Bồ-tát đồng nhập, mà đối ba giáo để biện rõ lỗi mình, nghi Phật có thiên vị, do đó thành lỗi. Do vì không biết ngoài Tiểu pháp tánh, biệt có diệu lý mà Bồ-tát chứng đắc. Cho nên Tam tạng Thanh-văn cho đến Phật không có biệt pháp tánh.

Đức Phật ấn chứng cho Ca-diếp đương giáo luận đồng, tức nghĩa này vậy. Thông giáo ba người đều ngồi tòa giải thoát, trung luận thật tướng ba thừa cùng đắc, vậy thì ba thừa Thông giáo pháp tánh, cũng cùng Tam tạng pháp tánh không khác. Các người Thanh-văn tuy tại lực… mật thành người Thông giáo, chưa nói hợp hiện rõ, gọi là tiểu nhập đại, cho nên nay sở luận vẫn tại Tam tạng. Thuật lại ban đầu gặp Ác-ty và nghe cậu luận nghĩa đắc pháp tánh thì chẳng liên quan, nghe diệu mới nhập viên thường.

Tiếp, “Do ta mê quyền…”: là thuật nguyên do lỗi. Do mê quyền cho nên cho rằng pháp tánh đồng, đâu có liên quan đến sở Hoặc lý Nhất giáo tam? Do mê hoặc thật cho nên chỉ quyền là thật, đâu có liên quan đến Thế Tôn thiên thọ ký Bồ-tát? “Vì sao vậy…”: là dẫn nghĩa chờ đợi, tự trách. Tiếp, “Sở nhân hai nghĩa…”: là chánh giải thích sở nhãn. Đầu tiên nêu hai nghĩa, nếu biết sở chứng không thật thì nên đợi nói nhân thật, nếu biết đã tại phương tiện thì hiểu tức Thật là quyền. “Đầu tiên chiếu…”: giải thích “nếu như vậy”. Nói “vội vàng” tức chẳng những Lộc-uyển mà còn chỉ hai tô, bởi vì trong hai vị đây cũng có sơ đắc tiểu quả, nhưng trong y văn thì hai tô đều ở giữa hai cột mốc. Nếu Lộc-uyển có sơ chứng thì cũng có thể dùng hai tô để giải thích nghĩa dừng lại. Nhưng hai tô căn cơ lẫn lộn, cho nên dùng từ đầu đến cuối để giải thích nghĩa dừng. Do trong Nhũ kia Viên thuyết Phật nhân, ta tự không đối, lỗi không thuộc người khác. Kinh nói “ắt dùng Đại thừa”: Lời thông các giáo, ý thì không như vậy, tuy chỉ vì phát Đại thừa mà tâm thì không “chết”. Nay thì giản biệt ý chỉ có tại Viên. Nên biết “sở nhân” không xuất nhân quả và dùng nguyện hạnh.

Hạnh tức Lục độ, nguyện nghĩa là Tứ hoằng. Cho nên trong Phật Địa luận thông nhân ba thứ: 1. Ứng đắc nhân: nghĩa là Bồ-đề tâm tức Tứ hoằng. 2. Gia hạnh nhân: nghĩa là các Ba-la-mật, Lục độ cũng thâu nhiếp các hạnh. 3. Viên mãn nhân: tức chỉ Phật quả. Thông lấy quả, quả làm kỳ hạn của nhân, cho nên cũng gọi là nhân. Xét kỹ mà luận thì chỉ tại hai thứ trước, thành tựu Bồ-đề tức là quả.

“Mà nay được từ Phật là kết thân hỷ”: Đầy đủ như trước giải thích. “Đoạn các nghi hối…”: Thông thì thông chỉ hai tô thời thấy việc của Bồtát, Biệt thì chỉ tại lược thuyết thời bài xích làm phương tiện, lại thông nói các Phương-đẳng thắng cảnh chẳng phải một, Bát-nhã pháp tướng bao gồm thông. Phàm có thấy nghe đều là cảnh sinh nghi, do cảnh nên sinh nghi, do nghi nên hối, nay nghe pháp thuyết hối hận lỗi hai lần chờ đợi. Lại do rộng nói nghi hối đều trừ. Do xưa tuyệt phân hai nghĩa đều liên quan, ngày nay mới biết chân thật là đồng. Đầu tiên căn cứ ba câu kết thành ba văn, văn đã phân minh trên dưới có Tựa. Lại do ba nên thành Phật pháp có phần. Phần tức Sơ trụ phần chân vị. Không cần “Từ miệng Phật…”: là đối ba tuệ, văn không từ sinh ba tuệ mà kéo dài cho nên nói “văn tận, lý rõ ràng”, đây tức là lý của đạo lý. Nói “Lại dùng tứ Tất-đàn”: Lại trở lại hướng trước hiểu rõ các văn lãnh. Đầu tiên nêu ba vui là Thế giới Tất-đàn, dũng dược tức hoan hỷ. “Vì sao vậy…”: Dùng văn giải thích thân khẩu hỷ làm Vị nhân Tất-đàn. Ba nghiệp tương vọng thân khẩu lại từ Sinh thiện thuyết. Cũng nên từ Phá ác thuyết dùng lam Đối trị, không đề cập đến ý hỷ vì nghĩa phá ác mạnh. Nếu như vậy thì ý hỷ cũng là khả năng tốt nhất sinh hỷ cho nên lại một phen đến. Tiếp, “Ta từ…”: dùng giải thích ý hỷ làm Đối trị, tự trách trừ nghi tức nghĩa phá ác. Tiếp dùng văn thành tựu làm Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. “Chân Phật tử”: Do nhập lý cho nên thành đệ nhất nghĩa. “Lại, căn cứ hỷ tâm làm tứ Tất-đàn”: Tuy lại nêu ba và dùng ba nghiệp lãnh cùng giải mà tóm lại không ra ngoài hỷ. Cho nên, đơn cử từ hỷ để luận bốn lợi ích: “Động vui” là lợi ích Thế giới. “Chưa từng có” là nêu rõ sở đắc hỷ, tức Vị nhân. “Động giác quán” là nêu rõ phá hỷ xưa, tức Đối trị. “Động nơi hình” là nêu rõ biệt lý hiển, tức Đệ nhất nghĩa. “Vân vân”: là khiến y văn đây giải thích tướng tứ Tất-đàn. Lại thông luận: Vì rằng tướng vui khác thường, cho nên tâm hình đều động. Khác thường cho nên là Thế giới Tất-đàn, động vui cho nên là Vị nhân, trừ nghi cho nên là Đối trị, nhập lý cho nên là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10