PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 03

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

(Phần Thượng)

“Giáo Bồ-tát Pháp” nêu rõ nhân người sở y. Từ đây trở đi vẫn kèm (đới) danh khác để giải thích, nên thêm dùng “xứ”. “Xứ” là một pháp năng sinh, một pháp chỉ là tướng cứu cánh, cho nên nói “đế lý”, đế lý mới cùng Pháp Hoa không sai khác, cho nên Đức Phật Đăng Minh tán thán kinh Pháp Hoa cũng gọi là “Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. “Cho nên được dẫn…” đều khiến các văn lấy đó làm chứng, chứng nghĩa xứ. Do đó, tên kinh nơi Tựa chỉ nói Vô Lượng Nghĩa thôi! Vì kiêm Chánh nên “Giáo Bồ-tát Pháp” thêm “xứ”. “Thủ… Tam-muội” là đến Thông giải thích khiến hai “Xứ Nghĩa” đều cùng có ở Tựa và Chánh. Gia Tường nói: “Đây có hai nghĩa: 1. Thật tướng gọi là vô lượng. 2. Thật tướng sở sinh gọi là vô lượng”. Nay nói tên “Vô lượng” có thể gọi là sở sinh, xưng “Thật tướng” nên coi là năng sinh. Tuy lập năng sở mà đều gọi là “Vô lượng” thì chưa thể được, nếu đối pháp khác gọi là năng sinh gọi là thật tướng, đây thì có thể được. Chỉ giải thích ý Tựa như vậy thì đều không đúng. Kinh tự giải thích nói: “Vô lượng nghĩa từ một pháp sinh, sinh tức sở sinh một pháp, năng sinh tức thật tướng”. Xưa nay người tài giỏi sao được dùng năng sinh giải thích? Cho nên luận nói: Đây là lúc Như Lai muốn nói pháp đến chỗ thành tựu. Vì nói “muốn nói”, thì chẳng phải tức hoàn toàn giống. Nếu hoàn toàn giống, thì tức là “đã nói”, cho nên luận tồn Tựa, mới nói rằng muốn nói. Ý kiêm nơi Chánh, tức làm tên khác. Luận hai đường kia nay giải thích-căn cứ theo kia, cũng thuận hạ văn Tam-muội làm tán thán. Nếu sở nhập Tam-muội chỉ y sở sinh liệt danh thì nên chỉ nói vô lượng. Cho nên biết tên kinh văn tại sở sinh, ý kiêm năng xuất, thì sở nhập Tam-muội nghĩa ắt song hợp. Do đó trước hiểu, luận nói: Muốn nói kinh này thì phải trước nhập định này. Nay từ kinh tiêu biểu biên hạn, lại dùng nghĩa xứ tán thán, và dẫn văn chứng hoàn toàn tại kinh này. “Phật hộ niệm”: Quả nhân

(người) sở hộ, đã là năng sinh Vô lượng nghĩa xứ, lại là Phật sở chứng đắc, lẽ nào Phật sở chứng mà không phải thật tướng? Cho nên dẫn tự trụ mà lấy làm chứng. Xưa chưa nói, nên gọi là “hộ”, căn cứ pháp căn cứ cơ đều “hộ niệm”. Từ “Tuy muốn” trở xuống là nêu rõ ý hộ niệm, bản ý Phật muốn chỉ nói năng sinh, cho nên nói Vô Lượng Nghĩa mà thời cơ vẫn chưa phát, ẩn mà không nói, cho nên nói “hộ niệm”. “Cho nên Vô Lượng Nghĩa…” nói một hộ niệm cũng thành hai hướng. Chỉ vì kinh kia văn tuy nói “từ một xuất nhiều”, chưa nói “từ nhiều qui một”, cũng là tướng che chở, gọi là “hộ niệm”. Nếu không vậy, thì đã thuyết Pháp Hoa sao gọi là Tựa. Do vì chưa nói, nên nói “tuy muốn khai thị…”. Do chưa nói nên “hộ”, chưa tùy thích nên “niệm”. Nói “ Im lặng lâu “là từ xưa đến nay, tóm lược ý đây tư duy có thể biết. Nếu chỉ từ sở sinh chẳng chuyên Phật hộ niệm, thì tại xưa Thông thuyết không thời nào không như vậy. Cho nên Pháp Hoa luận nói: “Liên hoa” có hai nghĩa: 1. Ra khỏi mặt nước. 2. Mở bày. Kia như Hoa ra khỏi mặt nước, đây như Mở bày, do đó vẫn gọi là “liên”, cho nên, “hoa” chỉ có sai khác là chưa nở sẽ nở ra.

“Giải thích nhập định”: trước nêu định sở nhập, tiếp nêu thân tâm năng nhập. Trong phần đầu có ba: 1. Kết ý nhập. 2. Từ “Phi thiền…” : giải thích kết ý. 3. Từ “Người nghi…” : giải thích nghi. Kết ý nhập: Lại căn cứ kinh kia và định kia mà tương thành, lý có thể thấy. Tiếp, Giải thích kết ý, lại có hai: Đầu, nêu dụng của định tuệ, xen lẫn có giúp đỡ lẫn nhau đều có lực dụng. Tiếp, nêu tương tức, tức thể của định tuệ. Đầu, “tương thành”: “trước nói, sau định” là từ Tựa mà nói, “trước định, sau nói” thì như phần giải thích nghi bên dưới. Quả vị Đức Phật ắt không có trước sau, vì thuận nghi thức giáo hóa mà hiện có trước sau, xét kỹ mà luận thì thể kia tương tức. Tiếp, lập nghi: Lại y Tựa hỏi: Phàm các nghi thức giáo hóa đều “trước định, sau nói”, trong đây sao lại dùng trước nói sau định? Trong phần đáp, trước thuận ý hỏi, đáp là nghi thức thông thường của Phật, tiếp, trình bày định ý, muốn nêu một định mà nghĩa phân hai cách. Tiếp, “Thuyết kinh này….”: thuật làm ý tựa, thời nay, vì sao “trước nói, sau định”? Nghi thức thông thường thì thuyết rồi thì hội chúng đáng lẽ giải tán, cho nên lại nhập định đây để chấn chỉnh hiện chúng, chúng đã không tan được gọi là Tựa nay. Tiếp, “Vì sao…” là thuật làm Chánh ý, do nghĩa trong một định bao gồm hai ý. Ý tuy lại có hai: mà chúng lúc ấy chỉ thấy sau khi nói kinh Vô Lượng Nghĩa, Phật liền nhập định, không biết sở nhập gọi là định gì! Không biết sau định thì Phật nói pháp gì! Cho nên người kết tập lại phù hợp ý chỉ của Phật thuật lại kinh mà Phật đã thuyết, chỉ nói “Vô Lượng”, thuật sở nhập định tức thêm “Xứ”. Hoặc từ Nghĩa Xứ để xuất Vô Lượng, hiển thành ý Tựa. Hoặc thâu Vô Lượng để nhập Nghĩa Xứ, mật thành Chánh tông; tuy thêm Nghĩa Xứ nhưng chúng cũng chẳng ai biết. Nói “Nếu theo thứ tự…” cũng là thuận với nghi thức giáo hóa mà biện rõ định trước sau, tức dùng không thứ tự mà luận thứ tự, đối với Phật nội chiếu đâu có thể phân biệt giải bày. “Nếu nêu rõ văn…”: nghĩa là Như Lai lúc bấy giờ không trước chỉ bày thể định, cho nên khiến Di-lặc siêng năng đặt câu hỏi, chính là kinh gia đối trong Biệt tựa, vả lại che Biệt để theo Thông.

Hỏi: Như Đức Phật Đại Thông Trí Thắng sau khi thuyết pháp thì nhập định, gọi là định gì?

Đáp: Văn tuy nói chung: “Tĩnh thất nhập định”, nhưng lẽ nào sau khi nói Diệu Pháp, lại nhập định khác ư?!

Hỏi: Đức Phật nay sao không chuẩn theo Đức Đại Thông Trí Thắng, cũng “trước nói, sau định”, vậy thì đều dùng thuyết trước khi khai định, hay vì thuyết sau khi hợp định, làm Tựa?

Đáp: Đức Phật kia nhường Vương tử kết duyên, nay đức Phật chỉ La-vân thông hóa, nghĩa kết duyên đồng thông hóa đâu có ngăn ngại. Cho nên khiến Phật nay Tựa định kiêm Chánh, liền thành trước định sau nói. Trí định tương thành thì trước sau tại đâu? Nếu vậy thì đức Phật kia trước định lẽ nào không bao gồm hai? Chuẩn theo có nghi niệm thì kia và đây đều như vậy.

“Di-lặc…” : “ân cần” là chỉ bốn phục nghi, “lần lửa bền bỉ” là chỉ bốn phục nạn, đều kéo dài đến bốn lần, nên gọi là “ân cần”, chữ “lần lửa” nghĩa như bền chắc. Hai quyết định đều được làm Tựa, cho nên nói “nghĩa kia chuyển rõ”. “Thân tâm…” là nêu thân tâm sở y: Trước là nêu duyên do bất động, do đắc sở duyên thật tướng khiến thân tâm bất động. Tiếp, “Nói thân…” là giải thích chỗ thân tâm sở y nói trên, cho nên biết thân tâm bất động cũng do Nghĩa Xứ, nên nguồn gốc lý tánh đều gọi là “Xứ”, đối thân tâm kia giả lập hai danh xưng. Như Lai thật chứng sắc tâm thể nhất, tức sắc tâm đây là ba đức, muốn nói kinh Bản Hữu Lý Diệu Thường thì trước hết sùng sắc tâm bất động để tiêu biểu. Lại thân cùng tâm đều tiêu biểu chỉ bày Tích, nay dùng Tích tiêu biểu Bản cho nên nói “hư không thường tịch”.

Tiếp, “dẫn Phật Đại Thông nhập Pháp Hoa định, chứng thân tâm”, cho nên thể của định đây, danh thì khác mà lý thì đồng, nếu phân sở nhập thì tướng đồng thời khác. Hai câu trên chứng thân hai câu dưới chứng tâm. “Thân nếu…”: lập lại thí dụ thân tâm xứng lý. Không phải thường trụ Pháp thân thì không thể dùng Kim cang để thí dụ; không phải Bản hữu lý định, thì không thể dùng hư không để so sánh. “Vô lượng nghĩa…”: kết thân tâm này công qui về Nghĩa xứ. “Xứng làm…” là giải thích nghi. Nghi rằng: Định nếu dựa xứ, thì lẽ ra chỉ gọi là “Xứ”, đâu được lại còn gọi là “Vô lượng”? Định này, dưới sẽ giải thích. Nói “Vô lượng”: là Sở chiếu mà được tên. Sở chiếu là gì? Tức là sở sinh, cũng chẳng phải khác thời nên nói: “mà chiếu”. Vô lượng tức xứ tồn tại cũng đâu ngại gì! “Nếu tác…” : lại còn cả tên khác, định thể thân tâm bất động; hoặc đem các tướng đây để tiêu biểu tựa, tức dùng bất động đây… Chánh tiêu biểu sau Tựa sẽ nói nhất thật, nay chỉ bất động không phân biệt thời, như Nghĩa xứ. Câu trên giải thích thân, câu dưới giải thích tâm, vậy thì trở lại đối trước định, thân tâm động vận dụng phân biệt như vô lượng, trước khai sau hợp Tựa nghĩa rõ ràng.

Tiếp, lại hỏi đáp để giải thích nghi: Trước là hỏi, có thể biết. Tiếp là đáp ý: Nếu theo nghi thức thông thường khi thuyết pháp rồi thì chúng liền tan, đâu đủ làm khác thường? Nay nói pháp rồi thì nhập định biết về sau không uổng vậy, sau nếu không uổng phí thì tức trước thể định nên riêng biệt. Cho nên chúng nhóm tập, thuyết pháp, nhập định đều tiêu biểu sẽ nghe, cho nên khiến thời chúng nghiêm túc chờ đợi. Chữ “túc”: có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “Tức” và “Lục”, có nghĩa là nghiêm túc, chấn chỉnh. Bộ Nhĩ Nhã nói: Túc túc là cẩn thận cung kính. Cẩn thận cung kính tâm có sở đắc.

Hỏi: Cuối kinh kia nói “Thọ trì mà đi”, nay vì sao nói “không tan, có chờ đợi”?

Đáp: Đó là lời của người kết tập lưu thông kinh, cung kính vâng thừa tôn nghiêm ý chỉ nghe ắt phải lưu thông cho nên nói “mà đi”. Nay căn cứ kinh này không có văn tập chúng. Nói pháp rồi thì nhập định, khi xuất định liền bảo, bảo chúng tập hợp lúc trước đến nay “không tan”, đâu có gì nghi! Cho nên các kinh Hoa nghiêm v.v… đều trước dùng âm thanh, hào quang để tập chúng. “Tuy nhập, khai định…” nói khai định vẫn là ý của Tựa trước, chưa tận chỉ kia cho nên nói “tuy”. Ý đã tại hợp định thể, lẽ nào trái? Thường định mà còn chưa từng nói “từ một xuất nhiều” huống chi có ai nói “từ nhiều trở về một”, tức khai biểu hợp, cho nên cùng thường có khác. Văn-thù dẫn chuyện xưa, đã nói đều có việc như thế, cho nên biết: một định hai nghĩa không nghi, nên nói “lấy gì để chứng minh nay?” “Lẽ nào có thể lấy…”: người xưa không coi thuyết pháp và nhập định là điềm lành, bày bác chung việc đó, chính là kết tập kinh đại quyền sắp xếp, cho nên chẳng phải phàm phu thấp kém lường sánh được.

“Giải thích bốn loại hoa”: Trước nêu người xưa và kinh luận nói tên hoa bất định. Lại, Đại Bát-nhã cũng nói: “Thích ý, đại thích ý, nhu nhuyến, đại nhu nhuyến”. Nhưng các giáo không đồng, văn phần nhiều liệt kê bốn thứ. Hoặc Vân công sở cảm, nói như Vân mẫu, đây chính là nhất thời trưng dẫn mà thôi! Trong phần giải thích căn cứ theo sở biểu, bác bỏ ý xưa nói “hẹp mà không hợp”, trong đó trước là bài xích kia hẹp hòi, tiếp là bài xích không hợp. Đầu bài bác hẹp: nay mỗi một giáo có mười sáu chúng, đâu thể so sánh như xưa! Cho nên, trách rằng “thâu mười sáu chúng thuộc Tam tạng giáo mà còn không hết”, chỉ có bốn, huống chi chỉ nói mười sáu, làm sao giáo một thành mười sáu ư? Cho nên phải trải qua giáo phân một thành mười sáu, cũng có thể trách rằng: vì chúng phát khởi mười sáu cho đến kết duyên mười sáu, cho nên nói “huống gì bốn mươi tám”. Nên biết nói “bốn chúng Tỳ-kheo v.v…” tuy bao hàm phát khởi… mà không có lý hiển bày. Nếu nêu “bốn chúng phát khởi v.v… “nhiếp” bốn chúng Tỳ-kheo v.v…”, so sánh Thanh văn Bồ-tát và dùng tạp loại, thì trong loại mỗi mỗi đều đầy đủ chúng phát khởi v.v… Nhân xưa thuật bốn, cho nên phải nói “đối với các Tỳ-kheo v.v…” “Xét hoa…” là giải thích “không hợp”: Hoa đây mật báo hiện được nhân Diệu đang hướng đến quả Diệu. Xưa chỉ nói bốn là tiêu biểu cho Tỳ-kheo… cho nên dẫn đến vấn nạn hiện nay. Mưa là hoa, hoa nên tiêu biểu nhân, bốn chúng đã được, đâu cần lại tiêu biểu? Đây trách người xưa không biết rằng: mưa hoa tiêu biểu diệu nhân hiện có, khác với nhân xưa. Nếu tiêu biểu bốn chúng, chỉ hy vọng quả mới thì đâu cần mưa hoa? Đây là trách người xưa không biết rằng: tán Phật (rải hoa cúng Phật) tiêu biểu diệu quả hiện tại và đương lai, khác với quả xưa. Xưa nay nhân quả thô diệu vĩnh viễn trái, lẫn lộn đồng nhất xứng nay, xưa không theo. Lại, Sinh công cũng nói: “Biểu thị bốn quả không thật”. Đây chính là dùng văn nói Tam tạng Bồ-tát bài xích Tiểu thừa, thì biết bốn quả không thật. Còn chưa hiểu Thông giáo, thì sao có khả năng, hiển Pháp Hoa?

Tiếp, “Nay nói…” : là chánh giải thích. Trước nêu xưa Thiên nhân đối nay Viên nhân. Xưa Viên nhân không riêng biệt cho nên chỉ bài xích tam giáo… “Trong Tam tạng chỉ nói Nhị thừa” là không thể tiếp nối, nên như Huyền Văn nói: “Xưa ba nhân đại mà có khác…”. “Phật nhân”: Chỉ là viên nhân. “Tứ luân nhân”: tức Sơ trụ trở lên. “Đồng, Ngân, Kim, Lưu”: Chỉ quán quyển một nói dẫn đầy đủ trong kinh Anh Lạc. Huyền Văn lại dùng bốn câu phê phán vị. Khai trước hợp sau, như Tam thập tam thiên… Khai sau hợp trước, như Thập tứ Bát-nhã. Đều khai, như Bốn mươi hai chữ. Đều hợp, như trời mưa bốn loại hoa.

Tiếp “Văn dưới…”: dẫn các văn của kinh này, đều là nghĩa Vị. Ý trong “phần vấn đáp”, là mượn Biệt để hiển Viên. Nói “mượn Biệt”: là Viên chẳng phải không có vị, nhờ nơi thứ lớp cao thấp để hiển bày cái không thứ lớp, bình đẳng. Đây là mượn nghĩa để thỉnh hậu học lưu tâm, lấy đây làm tông chỉ. Học giả có khi cũng không phân biệt được rằng trong kinh Anh Lạc, thì “Tứ luân” là nghĩa mượn biệt. Nếu luận Viên vị Lục tức, thì cũng đủ, cần gì phải liệt kê bốn mươi hai? Do phân chân vị thì lớn, nên mượn Biệt vị để phân ra phẩm bậc, ví như hư không thì đồng một thể mà bay thì có cao thấp… Cho nên, Chỉ Quán cuối quyển sáu nói: “Có khi mượn cao để thành tựu thấp…”. Huyền Văn còn dùng danh Thông nghĩa Viên, huống chi danh Biệt nghĩa Viên ư!

Tiếp hỏi: Đã nhờ Biệt vị, Biệt có Hiền Thánh, Viên cũng có hay không? Đáp: Chỉ Huyền nghĩa tức đầy đủ trong Huyền Văn quyển chín nói. Đều là Hiền Thánh, chỉ cao thấp không đồng. Lại trong Tứ niệm xứ cũng có bốn câu phân biệt. Nếu định phê phán thì trước Trụ thuộc về Hiền. Nếu bốn câu phê phán thì chỉ là nghĩa lập, lại xen lẫn được tên. Trụ là Hiền vị, lại cách Thánh xa, cho nên gọi Hiền Thánh. Biệt địa gọi là Thánh, người Hạnh Hướng Viên cách địa đây gần cho nên gọi là Thánh Hiền. Đối với văn nay nói Viên thì Hạnh Hướng là Thánh, lại nhập Địa nữa, cho nên nói Thánh Thánh. Nếu không đối nhau thì tên đương giáo quyết định. Nếu nói trở đi, lại trải qua các giáo để đã phá luận xưa, thì tuy nói một nhân nên biết thể của nhân. Bốn giáo Bồtát, đều đối đức Phật kia, đều là một nhân và một nhân khác. Cho nên, Huyền Văn quyển mười nói: “Từ một khai một, từ một trở về một”. Đã không biện rõ khác thì Thông giáo có gì nghi! Cho nên Thông giáo nói: tam nhân đại đồng, vì đồng cho nên nhất, nên nói không ra ngoài Thông giáo. Nếu nói bốn chúng đồng là nhân Bồ-tát, thì từ sơ phát tâm không cùng với Tiểu. Ý Pháp Hoa như trước, đầy đủ như Tứ luân cho đến khai hiển.

Trong phần “Giải thích khắp cõi Phật đất chấn động sáu cách”: Đầu tiên bác bỏ ý xưa. Dùng sáu tiêu biểu cho sáu nghĩa ấy thì có thể đúng. Nói thẳng Tam thừa chỉ phá Tam tạng, thì nghĩa Nhân Quả Tam thừa chưa chu toàn hết. Cho nên dùng Tam thừa theo hai giáo Tạng, Thông và ngang dọc của Biệt để so sánh mới hiển bày Viên trải qua sáu phen phá. Thiệp Pháp sư nói: “Địa thần khiến động”, kiến giải này rất cạn. Căn cứ trong Biệt phá nói theo hai chiều ngang dọc. Lại như Chỉ Quán quyển ba dẫn. “Nay giải thích…” là chánh giải thích. Đầu văn giống như Căn cứ giáo, Kinh Thanh Tịnh Hạnh giống như Nhân Duyên. Trong đầu văn giải thích, nói “bàn bạc”: tức dáng mạo cứng chắc rộng lớn, tức người Thất phương tiện chưa phá đại vô minh. Đến hội này mới phá vô minh, vô minh khó động cũng như đá lớn. Lại, trước chẳng phải không phá bởi vì khó phá, đến nay đều phá, cho nên nói “bàn bạc”. Nếu căn cứ Trường A-hàm thì nhiều duyên đất động cũng có thể làm tiêu biểu. Kinh nói: Có sáu duyên đất động là: Nhập thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn. Tiểu giáo tuy tức không nói sở biểu mà đã là sáu tướng sau trong tám tướng, tức công dụng của địa vị sơ trụ Sơ địa. Cho nên địa vị đây đứng đầu sáu phen. Tứ luân chỉ có nhân nên từ nhân lập danh, lục động bao gồm quả nên từ quả lập danh. Lại, quả tột cùng phân biệt quả đều được gọi quả, nên gọi là quả. Phá xưa đối nay thì đầy đủ bốn giáo. Lại, Diệu giác: Tuy chưa tức nhập, đến tại không lâu, từ đầu đến cuối gồm nêu cho nên nói từ quả.

Cuối phần “Giải thích theo Bản tích” nói “vân vân”: là lẽ ra dẫn bản văn, lúc xưa ta vốn hành Bồ-tát đạo, tức bản Tứ luân, ta thành Phật đến nay, xưa sáu phen (chấn động) bổn sơ thật thành, cũng dùng tướng lành đây tiêu biểu sáu phen, cho nên hiển bày trong giáo. Văn-thù dẫn việc xưa của Đức Phật khác đồng với việc nay của Đức Phật ta trong phần Tựa, mật ý Chánh nêu Phật xưa ắt có như nay. Phật nay lẽ nào không có như xưa, xưa đã thành lâu rồi cho nên không phải là lần thứ nhất. Trong “Giải thích theo Quán hạnh”, câu đầu tổng nêu. Tiếp trong phần chánh giải thích, thì đầu tiên căn cứ động làm tiêu biểu, tiếp là căn cứ sáu làm tiêu biểu. Trong văn đầu tiên, nói tuy gồm sáu nhưng chủ yếu nói về “động”, đều tiêu biểu đương phá vô minh, gọi là “động địa khó động” tức năng biểu. “Tịnh căn chưa tịnh” tức sở biểu.

Tiếp “Phương Đông dềnh phương Tây chìm” trở xuống, là giải thích “Lục động” theo sáu phương. Đều căn cứ số sáu tiêu biểu. Tiêu biểu tịnh sáu căn, là căn cứ quán giải thích, cho nên đắc thông các vị căn cứ quán hạnh tương tợ phần chân v.v…, đều tịnh sáu căn. Trong đây, đầu tiên giải thích “Lục động” theo sự. “Phía Đông dềnh phía Tây chìm…” đầy đủ như kinh Trung Ấm v.v… Nay xét theo Quán tâm thì nghĩa lại phù hợp. Nói tiêu biểu căn: Nhãn, tĩ đã tiêu biểu hai phương Đông Tây, nhĩ, thiệt lý đối hai phương Nam Bắc, trung ương là tâm, tứ phương là thân: Thân đủ bốn căn nhãn nhĩ tỷ thiệt, tâm cũng duyên khắp bốn căn, cho nên dùng tâm đối thân mà làm dềnh chìm (dũng một), nghĩa là ở giữa (trung) đối với một bên dềnh lên và một bên chòm xuống. “Dềnh lên, ở giữa, chìm xuống”, có thể tiêu biểu sáu đến mười hai nhập. Lại “Lục động”: Nghĩa bao gồm mười tám, trong sáu kia thì ba loại trước là hình, ba loại sau là tiếng, hình thật tiếng hư. Sáu căn cũng tợ ba hình ba tiếng. Giải thích “Lục động” này theo sự, thì tân cựu giải thích không đồng. Tân nói: Động, dũng, chấn, kích, hống, bạo. Nay lại dùng theo Cựu, dao động không an gọi là “động”, tự dưới bay lên cao gọi là “khởi”, dập dềnh lồi lõm gọi là “dũng”, sáu phương ẩn chìm nổi cũng gọi là “dũng”, ngấm ngầm có tiếng gọi là “chấn”, va chạm phát ra âm hưởng gọi là “hống”, khiến chúng sinh giác ngộ gọi là “giác”. Tân dịch: “kích” như đánh đổ, “bạo” như tiếng lửa, Kinh luận lược nêu phần nhiều nói “chấn động”, tức hình tiếng ba thứ đều nêu một. Đại Kinh nói: “Sau khi Thuần-đà rời khỏi, thời gian chưa bao lâu thì đất kia bỗng nhiên có sáu thứ chấn động”. Lại, “mỗi loại chấn động đều có ba bậc” là để tiêu biểu một căn đều có ba thứ căn, thức, cảnh. Đầu văn tiêu biểu sáu cái ở giữa (trung), tiêu biểu tuy xen lẫn mà phá ắt đồng thời. “Tịnh mười tám giới”: là tiếp, biện rõ sở biểu đều phá vô minh. Cho nên, biết: chỉ là thấy ấm, giới, nhập đều thường trú. Trong câu “Tịnh mười tám giới vân vân” thì “vân vân” là lẽ ra thuật đầy đủ sở biểu để thành quán tâm, chỉ lược còn số và thiếu khuyết tâm cảnh biện rõ tướng trạng vi diệu theo thứ lớp và không thứ lớp… Cũng có thể mỗi căn đều tu tam quán như “mười tám loại động”. Trong đây chỉ căn cứ tướng năng động, sở động chỉ là một địa mà thôi! Như căn tuy sáu, mà dùng tâm phá thì hết thảy đều phá.

Trong phần “Giải thích Đại chúng tâm vui mừng”: Trước là giải thích theo Nhân duyên: Giáo xưa ở đâu từng không thấy các tướng mưa hoa v.v…, nay vui mừng hớn hở khác thường, lý ưng như “cam lồ sắp giáng xuống”. Lúc ấy chúng tuy không lượng được, ắt biết cơ duyên thành không còn lâu nữa, cơ cảm tương ưng sao nghi không giải thích. Hỏi: Như văn. Đáp: Trong lời đáp thông suốt khác thường. Dẫn Đại kinh để chứng minh như văn. Tiếp, “Nếu nói…”: là căn cứ giáo, tuy nêu đủ bốn giáo đối xưa bốn hỷ không đồng, nay thuần nhất thật hỷ không còn sai biệt. Bốn “nghĩa Nhân thiên v.v…” đều nói “động” là vì Quyền làm Thật động.

Hỏi: Thật lý không động, nay sao nói động? Đáp: Động tức là phát. Viên cơ đương thành, gọi là “động thật tướng”, dùng bốn động còn lại sẽ hướng đến thật.

Văn không có giải thích theo Bản tích, Quán tâm. Nếu giải thích theo Bản tích thì: Bản, trú bất động Tam-muội; Tích, do đất động tiêu biểu phát. Nếu theo Quán tâm giải thích nghĩa “động”: thì như trong Hai mươi lăm loại Tam-muội phá tứ thiên vương Không Giả Trung động.

Trong phần “Giải thích hào quang”: Đầu văn tổng nêu phóng quang. Trong giải thích, đầu tiên là giải thích “bạch hào”, tiếp là giải thích “phóng quang”. Đầu văn chỉ có hai giải thích. Đầu song nêu hai giải thích, ứng cơ nêu Nhân duyên, thiết lập giáo nêu căn cứ Giáo. “Phá hoặc…” : nêu sự ý, hiện hào quang vốn bày tỏ hai thứ đây, đầy đủ hai thứ mới trừ nghi hoặc. Trong “Bạch hào”, đầu là theo Nhân duyên; “Lại nữa…” là căn cứ giáo. Đầu văn nêu tứ Tất-đàn: Đầu là Thế giới, “Hào quang kia…” là Vị nhân, “Phóng quang…” là Đối trị, “Hào quang chiếu…” là Đệ nhất nghĩa, bốn thứ đều tại kinh này. Tiếp căn cứ trong giáo bài xích đầy đủ tam giáo, “Nhị thừa” tức đương hai giáo trước, tuy có Bồ-tát mà đồng kiến nhị đế. “Lại nữa…” là nêu “phóng quang”, có đủ bốn cách giải thích. Trong phần giải thích theo Nhân duyên chia làm ba: Một là phóng quang, hai là thâu, ba là ý thâu phóng. Phần một ứng đủ tứ Tất-đàn, văn tướng không hiển, chỉ có thể thông khiến thấy được bốn lợi ích. Kinh Đại Phẩm nói: Mỗi một tướng đều phóng quang: Dùng thân luân tiêu biểu Bát-nhã khắp. Đại kinh nói: “Phật phóng quang từ diện môn”, Diện môn là khẩu, tiêu biểu Phật khẩu mật thuyết bí tạng. Kinh này xác định “phóng quang từ giữa chặn mày” là tiêu biểu ý tùy cơ duyên đều hiện, đều đầy đủ lợi ích tam mật tứ Tất-đàn. Tuy cả một đời đến nay, Phật dùng “tam luân” để giáo hóa, đương nhiên là có lợi ích thích đáng, nhưng không gì bằng ngôn giáo. Đến khi sắp diệt độ thì Phật phóng quang từ diện môn là tiêu biểu ngôn giáo đây lưu truyền đến đời sau. Đây lại là thông luận phóng quang. Nếu biệt luận thì căn cứ các văn nói, không chiếu vô sắc nghĩa đồng tập chúng.

Tiếp, “Thâu quang”: Đầu dẫn “kinh A-dục Vương”, phần nhiều là giải thích theo Nhân duyên, trong đây chỉ có một câu nói về “việc hiện tại” là nêu theo ý riêng. Từ “Nhập vào chân” trở đi, đều là kinh văn, đều biểu ký đương giới kia. Do đó các kinh khác thì thọ ký làm Phật đều kiêm các cõi, chỉ có Pháp Hoa này chuyên biểu Phật ký. Nói

“đương giới” là nêu các cõi đều có tử đây, sinh kia và quả vị đại tiểu. Dùng hình ảnh thu quang vào các thân phần bên dưới để biểu thị việc của các hạng chúng sinh thấp kém, là thuộc kinh Phương Đẳng, cho nên đối nhiều duyên. “Mà kinh này…”: Phật từ định dậy ắt thâu quang, thâu ắt vào nhục kế. “Lược thôi” : Cho đến khi đức Phật từ định dậy ắt phải thâu quang, vì sở biểu sự đủ để thu liễm tâm của chúng trong pháp hội khiến nhập nhất thật, cho nên phải có “thâu quang”, chỉ là văn lược. “Lại, giải thích…”: là lại giải thích ý thâu quang phóng quang, có thể thấy. Cũng là một đường, chẳng cùng tận. Dùng hiện tại chánh khiến hội tam quy nhất làm chánh, vị lai sẽ đắc làm phụ.

“Nếu một trượng sáu…” căn cứ trong giáo: Trước, là chánh giải thích ; tiếp, là nêu hào quang tiêu biểu. Trong phần Quang biểu thì trước là phá cựu, cựu nêu tuy ngang chiếu một vạn tám ngàn cõi đến Ny-tra thiên (trời Hữu đảnh) đều là điềm lành ở cõi này. Nay ý không như vậy. Phóng quang một điềm lành nghĩa thông hai cõi. Nói “do người”: Không thể hoàn toàn phá. Tiếp, “Xưa…” là xưa giải thích chỉ căn cứ một phương nêu mãn không mãn (đủ không đủ). “Nếu chiếu…” là phá, đã thuận hứa thật chiếu mười phương thì đâu được riêng dùng phương Đông làm tiêu biểu. Có người nói: “Mi (lông mày)” là chỗ phóng quang. “Mi” là mị (đẹp). Nếu người không có mi thì không đẹp. Cái gọi là “phóng”: 1. Không hạn chế chỉ chiếu đại thiên. 2. Tác ý phát động thì chiếu một vạn tám ngàn, cũng nói tiêu biểu nhất thừa. Đây là vì không biết rằng chư Phật không mưu tính mà làm, cho nên dùng do tác ý phóng quang mà giải thích công dụng của chư Phật.

“Nay nêu rõ…” là phần Chánh giải.

Tiếp, “Nếu căn cứ…” là giải thích theo Bản tích, nêu “bốn vị tăng trưởng” là bốn phương biểu thị bốn sự tu tập tăng trưởng. Nói “tăng trưởng”: Từ Tín nhập Trụ, cho đến Đẳng giác. Cho nên văn dưới nói: còn lại một đời. Tiếp, trong phần “Giải thích theo Quán tâm”nói “Các cảnh giới như thế” tức mười tám giới đều có trăm giới ngàn như. Uẩn tại mười tám, thì Phật tuệ chưa khai mở, cho nên dùng hào quang chiếu là tiêu biểu “khai”, khai tức Biệt tại Sơ trụ. “Văn nói…” dẫn cơ duyên chúng sinh trong mười cõi đều khai mười tám giới. Nói “phân văn thuộc cõi này…”: Đầu từ “Nhĩ thời” cuối đến “châu biến”, đều thuộc điềm lành thứ sáu ở cõi này, các cõi khác thì tướng lành thứ nhất chỉ từ dưới lên đến Ni-tra thiên. Văn nay dùng phóng quang này là văn thông gồm kia đây, cho nên văn kia thế mạnh cũng bao hàm dài ngắn. Nếu chấp (đoản) ngắn thì như trước liệt bày, nếu chấp dài thì phải đến cõi Ni-tra, lại đem điềm lành thứ sáu đây mà làm tổng chung các cõi khác. Nếu là tổng các cõi khác cũng có ngắn dài, chuẩn đối nhau nên biết.

“Tiếp, nêu…” : chánh nêu sáu điềm lành ở các cõi khác, chia làm hai: Trước lược, sau rộng. Trong phần lược chia làm bốn: 1. Nêu. 2. “Một là thấy…”: là liệt chương, tức đương chánh giải thích. 3. “Đã có…”: là sinh khởi sáu điềm lành. 4. “Nếu đây…” : là đối đây để nêu sở biểu của điềm lành. Tiếp, trong phần liệt chương thì chỉ nói thượng hạ mà không nói cảm ứng, bởi vì nghĩa cảm ứng thông ba cặp. Không đồng cõi này hai cặp trước đều tại sở ứng, cho nên cặp thứ ba được gọi là cảm ứng. Lại, cõi kia điềm lành đến trong cặp thứ ba sinh khởi. Nói “hành ban đầu ắt đến cuối” là chỉ xen lẫn nêu mà thôi, nêu Bồ-tát có thủy mà ắt có chung, Như Lai đã chung mà có thủy. Lại, trong cặp Nhân pháp tuy nhân chưa thông Lộc uyển, pháp chỉ đầu của nhũ vị, nhưng pháp ắt có nhân, nhân ắt đối pháp, cho nên lại đối biện. Lại, trong “cặp thượng hạ”, tuy bậc thượng nói pháp để gia-bị cho bậc hạ, mà chúng sinh được gia-bị chưa hiển, tức là tuy chưa hiển mà thủy mạt vẫn như thế, cho nên được đối đó để luận thượng hạ. Huống chi phàm các thủ đối đều là nhất vãng. Vì vậy càng phải cầu thủy chung kia. Trong “cặp đầu” có “lục thú” là rộng giải thích chương môn chẳng phải ý trong đây, cho đến ly hợp lấy làm tứ sinh, ngũ đạo, thất thức trụ… như luận rộng giải thích… Nói “tổng báo”: Điềm lành tuy có sáu nhưng lấy hào quang làm gốc (bản), hào quang tiêu biểu trí giác, hào quang chiếu kia đây. Trước, tiêu biểu hai giác, tiếp, tiêu biểu ba đồng. Trong ba đồng có hai : trước tổng, sau biệt. Trước tổng nêu đạo đồng, tướng đồng tại sao không ngoài ba loại đồng? Vì đây đồng nhưng ẩn chỉ thành hai thôi! Nếu trong sở kiến cũng thấy thọ ký cho Thanh văn. Nói thọ mạng lâu dài thì nếu Như Lai đều không sở tác, thì nghi thức giáo hóa không thành. Tuy nhiên dù thấy thọ ký tiểu trường thọ thì chúng đây cũng nghi, không biết cõi này Thanh văn được hợp thọ ký không? Đã giáo Dũng Xuất, còn Thọ lượng nghĩa như thế nào lại chưa biết, cho nên đều ẩn để sinh nghi vấn. Vănthù rộng đáp thuật đủ ba loại đồng, chúng cơ lược biết tướng sau định, cho nên biết Thông tựa văn thông mà giải thích khế hợp với Biệt lý. Do bốn cách giải thích nên Biệt tựa văn biệt mà nghĩa diệu. Do ngũ thời mà việc đáp vừa xong thì định khởi nơi đây, do sự phù hợp nơi đáp, nên biết rằng Văn-thù thấy cùng cực. Từ “tận kiến…” là biệt, tức tam đồng.

Tiếp, trong phần Rộng nói, văn đầu trước xuất cõi khác, tiếp “Nên biết…” dẫn kia theo lệ, đây là kết đầu cuối đồng. Tướng xây tháp tuy tiêu biểu hai kinh, tướng Pháp Hoa còn chưa nêu rõ, vì vậy nên chỉ thành đầy đủ đối với đã và đương hai đồng, cõi này ba đồng sẽ vẫn chưa khởi. Nói “hai cõi xuất thế ý đồng”: là đồng ngũ trược cho nên thí… không sai khác. “Khai quyền” tức là tướng Pháp Hoa, “dứt hóa” tức là trưng cầu Niết-bàn. “Chẳng phải đốn…” Pháp Hoa nhất thừa chẳng phải đốn tiệm nhiếp, nơi một khai xuất mới sinh đốn tiệm, vì vậy nên nay nói “phi đốn mà đốn, phi tiệm mà tiệm”, căn cứ đây có thể biết. “Xây tháp bảy báu”: hai kinh vị đồng, ẩn là chưa nói. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên nói: Tám người nên được xây tháp là: Phật, Bồ-tát, Bíchchi-phật, Tứ quả, Luân vương. Tháp Phật thì tám lộ-bàn, tháp của bảy người còn lại thứ lớp giảm một. Cõi đây đã vậy, các cõi khác căn cứ đây thì biết, cho nên đây phải đều là tháp Phật. “Phải biết…” dẫn kia lệ đây, tổng kết văn trước. Nói “từ một xuất vô lượng”: là bắt đầu từ Hoa Nghiêm đến Bát-nhã đến nay đều từ một pháp khai xuất. Đến thời Bát-nhã thì “đốn tiệm đã xong”, mà người không biết Pháp Hoa xuất vượt ngoài đốn tiệm. Thỉnh xem chữ “xong”. Pháp Hoa chỉ là thâu vô lượng để quy một.

Trong phần Giải thích “Chủng chủng nhân duyên”: Trong văn, tự có hai giải thích theo Thông và Biệt. Đầu nói thông, thông nơi tiệm đốn khắp bốn thời, trong bốn thời đều có cảm ứng, đối nay thì không có gì chẳng phải là nhân duyên của giáo nay, cho nên biết nhân duyên có nhiều thứ, tự hành hóa tha tự tha tương đối. Văn từ tự hành cho nên nói “thiện xưa giáo nay”. Tiếp, “Biệt thuyết…” là chánh nêu nhân duyên hiện tại, cũng có thể đây ba phen triển chuyển tương sinh, do nhân duyên phát tâm nên tin hiểu, do tin hiểu nên hành hạnh. Nếu Biệt thuyết, thì biệt chỉ tam giáo trong Bát-nhã là “chủng chủng”, cho nên nói sau Tam tạng, vì Bát-nhã bộ là Bồ-tát hạnh. “Lại căn cứ…” :vì tam giáo trong Bát-nhã mỗi một giáo đều có bốn môn và bốn Tất-đàn…, cho nên nói “lại có vô lượng tướng mạo”.

Nói “Năm trăm” : là nêu trong “cộng” môn “chủng chủng” (các thứ) rất nhiều. Năm trăm tuy là Tam tạng hữu môn, căn cứ sở chứng đồng, mà lại chứng nơi công, đến Bát-nhã đều thành Thông nhân, âm thầm được lợi ích Biệt. Nay lại từ hiển nên được dẫn đồng, vẫn cựu mới thành “chủng chủng” (các thứ). “Bất cọng” thì dễ biết, chỉ theo lệ mà thôi! “Cộng, bất cộng” danh được rút ra từ Đại luận. Đã nói sau Tam tạng, lý nên thông chỉ Phương-đẳng Bát-nhã. Chỉ nói Bát-nhã: Do Phương-đẳng ba đồng Bát-nhã ba, Tiểu đồng Lộc uyển cho nên không biệt chỉ. Người khác đối với điều này chia làm ba môn: Nhân duyên môn, tín giải môn, tướng mạo môn. Nay ngôn từ tuy như vậy mà nghĩa lý không như vậy. Nhân duyên nghĩa là cảm ứng sai biệt, Tín giải nghĩa là năng cảm bất đồng, “Tướng mạo” nghĩa là sau tín là hạnh sai khác. Các thứ bất đồng này đều gọi là “chủng chủng”. Tuy lại khác đường mà không vượt qua hai vị, cảm ứng thì xen lẫn có thưa, có dày nên gọi là nhân duyên “, năng cảm thì trong lòng lãnh thọ nên gọi là “Tín giải”, tu hạnh thì thân khẩu ngoài hiện rõ nên nói “tướng mạo”, ngoại tướng nghi mạo, nên nói “tướng mạo”.

Hỏi: Hạnh nhất giải khác tại sao hạnh biệt?

Đáp: Thấy ngoài biết bên trong, nên nói là bất đồng.

Nói “Kia nêu rõ tướng như thế”: Kia là cõi kia, hiện tướng ở cõi kia cho nên nói tướng như thế.

Tuy lại chủng chủng đồng đến Pháp Hoa, không còn các tướng nào khác. Chỉ vì chưa thấy ngồi tòa Pháp Hoa để nhập diệt tiêu biểu điều đó, cho nên chỉ nói “một nhân một duyên…” Nói “Một nhân…” cũng là cõi kia, Pháp Hoa trở về trước được gọi là “chủng chủng”. Đã hội nhập thật đồng một nhân duyên tướng mạo…, đây là tướng cảm ứng v.v…

Hỏi: Trong hào quang, sở chiếu đồng thời ngang thấy, sao được nói trước đốn sau tiệm, cho đến hội quy? Lại, trong đó thấy không hoàn toàn đốn chỉ có tiệm… ư?

Đáp: Thật như đã hỏi, thời chúng chỉ biết nhân hào quang mà được thấy. Đại thuật tại Thế Tôn, cái trông thấy chẳng phải là cảnh giới kia, nhưng khiến thấy, ý vốn làm chứng đồng. Sở phóng quang làm thành nhất thật. Sự sai khác, lý tuyệt dứt, thì chẳng phải là chỗ hào quang thấm nhuần, xa gần đã đều khiến chúng thấy nghe. Quá khứ vị lai cũng đâu có ngăn cách nơi thấy nghe, cho nên khiến cho mười phương từ đầu đến cuối sáng tỏ như trước mắt, đâu dùng phàm tình mà lường Thánh cảnh, đâu riêng gì hóa chủ Phật lực khiến thấy, đồng nghe trong chúng và để tập kinh, thời có cổ Phật ẩn tích trong đó. Trí sáng soi đương thời, thuật bày ngang dọc đây, thêm khiến cái trông thấy là phàm thánh đồng đẳng, cho nên biết chỉ y văn thứ lớp, ý kinh rõ ràng.

Tiếp “Lúc bấy giờ…” là giải thích nghi niệm trong phần Tựa. Đầu tiên, nói “chỉ thành một nghi”: Vốn nghi về sáu điềm lành, tự sức mình không gánh vác nổi mới tư duy đáp, lại tư duy có tôn kính nhờ cậy Vănthù, Văn-thù khởi tâm suy nghĩ có địa quyết nghi, cho nên niệm thứ hai ở đây tự mất, đã được có người đâu thì cần suy nghĩ lại, cho nên niệm thứ ba lúc ấy tự dứt, cho đến khi nghi vấn đầu tiên vẫn còn, cho nên nói “một nghi”.

Hỏi: Kinh gọi Văn-thù là Pháp vương tử, vậy thì các Bồ-tát đây vị nào không phải là Pháp vương tử ?

Đáp: Có hai nghĩa: 1. Trong các vương tử, suy về đức thì chỉ có Văn-thù. 2. Trong các kinh thì Văn-thù đều là vị đứng đầu trong chúng Bồ-tát.

Tiếp, trong phần giải thích “Sơ niệm”, đầu tiên là giải thích theo Nhân duyên. Nói “thần biến nội ngoại”: đây nêu biểu khác, nên đây biệt giải thích. Nếu thông giải thích, thì như kinh Đại Bảo Tích nói: “hết thảy các pháp đều gọi là thần biến”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một dẫn rõ. “Thần gọi là…” giải thích danh kiêm biện tướng. “Thủ Lăng…” là nêu pháp sở y. “Pháp vương…” là công dụng, cũng là vấn nguyên do. Tiếp, “Đến như…”: tức là căn cứ giáo cũng là lại giải thích công dụng và để vấn nguyên do. Lại, ở đây hỏi nguyên do, tuy do không thể lường thần biến, mà chánh do tự quyết vì để lợi tha cơ phát cho nên ứng phó, nhân duyên hòa hợp mà thiết lập sự hỏi này, khiến biết Di-lặc không hiểu nguyên nhân, cho nên cần phải các vị lần lượt so sánh quyết định. Tán giả, là khổ hạnh ngoại đạo và các phàm phu. Định giả là đắc thiền ngoại đạo và tín giả tập định. Thánh giả, là trong Tam tạng trừ Thân-tử ngoài các Thanh văn. “Đây là căn cứ cực xứ cũng không biết”: Phàm, nói “đến như” là chứng minh ý kia thông, cho nên bên dưới thì mỗi mỗi không biết bên trên. Nếu là cực vị, thì tất cả vị dưới đều không biết. Cho nên Bồ-tát Bổ xứ cho đến vị Tôn cực, ba vị đây, nếu còn giáo đạo ứng thông bốn giáo lần lượt xen lẫn so sánh, thì trong văn lại đúng. Nay tối cùng ở nơi địa vị cực, cho nên Bổ xứ cực không biết Tôn cực. “Lại, Di-lặc…” nghĩa đương nơi Bản tích, ẩn Bản trí sáng suốt, Tích thì đồng tối tăm chậm chạp.

Nếu giải thích theo Quán tâm, thì: Trí chiếu linh thông, lục tức tùy biến. Đầu văn nhân duyên nghĩa đối bốn Tất-đàn, nghĩa kia rõ ràng, trong ngoài sai khác cho nên thấy nghe hoan hỷ. Sáu điềm lành bên ngoài ảnh hiện rõ chúng sinh thấy thì sinh thiện. Y lý biến thông điều hòa khắp tất cả, pháp vương lý cùng cực cho nên không quá trên.

“Nếu đem kệ dưới”: hiển bày nghi niệm của đại chúng đồng Dilặc có ba: Các đại chúng cùng thấy sáu điềm lành, từ lúc nhập vị đến nay khắp trải qua nhiều hội, nên từ lâu đã biết Văn-thù thần dụng chẳng ai sánh kịp, cho nên đến khi Di-lặc hưng khởi niệm thì chúng cũng tinh thành, chuyên chú ở Diệu-đức (tức Văn-thù), khiến Di-lặc phát vấn. Trước quán Đại chúng mới tuyên bày điều nghi bền bỉ, xét biết Văn-thù là địa quyết nghi. “Cựu giải” có thể biết. Căn cứ theo ý vấn đáp nay dẫn kệ đã nói: ba niệm không chuyên Di-lặc chỉ ở nơi một việc, mặc cho phát vấn ở trước. Nói vấn đáp: Văn-thù rất có khả năng đâu riêng Di-lặc. Lẽ ra nói căn cơ chúng sinh ở nơi người hỏi và đáp, cho nên dùng bốn cách giải thích mà hiểu văn kia, tức nhân duyên… Vấn đáp đầu tiên là nhân duyên, như Văn-thù xét có khả năng vấn tật bệnh nơi Vô Cấu Thí (Duy-ma-la-đạt), vẫn bị chê trách cho nên nói: “tại vô” (ở không có). “Lại, pháp môn…” là căn cứ giáo, bốn giáo không ra ngoài quyền thật. “Lại Tích…” là Bản tích. “Lại danh…” là Quán tâm. Trong văn đầu giải thích theo Nhân duyên, văn kia tuy hẹp mà nếu nghĩa lập cũng đầy đủ tứ Tất-đàn, vấn đáp tùy thuận an vui tức là Thế giới, phó chúng hân hoan là Vị nhân, bao hàm giải thích chúng nghi là Đối trị, lập hạnh bình đẳng là Đệ nhất nghĩa.

Tiếp “Phát vấn Tựa”: Trong phần đầu trước phân biệt chọn kệ văn có không. Trước “Ý gì …” là hỏi, tiếp “Long Thọ…” là đáp. Luận văn có mười nghĩa, nay chỉ lược nêu sáu: Năm nghĩa trước tức năm văn đầu. . Khiến người đời sau đối với kinh sinh lòng tin. 7. Dễ đoạt ngôn từ chuyển thế thuyết pháp. 8. Chỉ bày nghĩa vô tận. . Nêu rõ đến người có, mà không có cách nói. 10. Như văn nay. Văn thứ sáu ấy là tổng luận tức giải thích theo Nhân duyên. Hai văn đầu là Thế giới. Văn thứ ba, năm là Vị nhân. Văn thứ tư là Đệ nhất nghĩa. “Lại vì….” thứ sáu là Đối trị, năng trừ nghi cho đời sau, còn thiếu bốn văn, thứ sáu đồng Vị nhân, thứ bảy đồng Đối trị, thứ tám, chín đồng Đệ nhất nghĩa, cho nên lược không luận. Trong Chánh giải thích, thì trước là thuật xưa, tiếp “Quán văn….” là lại tổng tâm không đúng, “Thuyết pháp…” là giải thích xuất hiển bày đúng. Trong đó, trước nêu không thiếu, tiếp nêu không thừa. Văn đầu căn cứ nghĩa ở trong hai câu đầu cho nên nói “không thiếu”, trong đó trước là lập, chỉ nêu “phóng quang, động đất” là ngọn, thì biết “thuyết pháp, nhập định” là gốc. Nếu không có định tuệ, thì đâu thể hiện biến ?

Tiếp, “Người khác không thấy…” là trách, “Nay trở lại…” là dẫn đáp để hỏi. “Lại hỏi…” là hạch xuất nơi hỏi (vấn), “Nay chỉ…” là đáp. Trước trường hàng chỉ tổng hỏi phóng quang. Nếu chấp chỉ có phóng quang là hỏi, ngoài ra không hỏi, thì ứng với không phải điềm lành, thì mưa hoa động đất còn không thành điềm lành, đâu riêng gì thuyết pháp và nhập định ư? Phóng quang đã là điềm lành cuối cùng ở cõi này, vẫn ở các cõi khác là đầu sáu điềm lành, cho nên tổng nêu một hào quang mà thông thâu sáu điềm lành ở hai cõi. Huống chi “Nếu lại…” là biệt vấn hai chữ “đạo sư” nghĩa tự bao gồm điều đó.

Tiếp nêu “Không thừa”: “Gió, đất” hai điềm lành đều có sở y. Sở y đúng, điềm lành năng y lẽ nào không đúng? Cho nên, nay nêu “không thừa”, trong đó cũng trước thuật ý không phải. Tiếp trong phần phá, một câu đầu lược bài xích. Tiếp “Gió vốn…” là phá, chia làm hai: Trước, nêu gió có hương còn gọi là điềm lành, huống chi “gió, đất” vốn để hiển bày hoa, tuy mỗi thứ có tên điềm lành mà chung thành đức hoa. Trong Chánh Pháp Hoa chỉ nói thẳng “hương”, không nói “gió”, cho nên biết gió nếu không có hương thì không thành điềm lành. “Luận về hoa trời…” là nêu rõ hương vốn thuộc hoa, hoa hương như mùi gỗ chiên đàn, cho nên nói “gió chiên đàn”. Nếu gió hương không phải điềm lành thì hoa cũng không phải điềm lành. “Đất tịnh” căn cứ đây thì biết. Trong đó chia làm bốn: 1. Tổng nêu có hương… 2. “Đây tiêu biểu…” là giải thích nguyên do xuất, nói “nhân vận chuyển đến quả” là nêu rõ hoa hương vào gió như gió đạo hương đức xông khắp cả. 3. “Kim Quang Minh…” là dẫn chứng. 4. “Cho nên dùng…” là kết thành. Dùng “hai sự” trên quả để hiển công của nhân. Do hoa có hương thơm chẳng phải riêng mình gió. Do gió thơm nên đất kia phải tịnh. Nói “hai sự”: là công đức pháp thân, công đức là nhân, pháp thân là quả. Do đạt đến quả nên thành tựu hai nghĩa: 1. Đến quả. 2. Quả tịnh. Do nhân đến quả nên khiến quả tịnh. Tiếp, hai câu là điềm lành đất động. Tiếp một hàng chúng hoan hỷ, tuy không dựa vào thứ lớp trước mà sáu điềm lành đầy đủ. Tiếp “Ba hàng đầu…” nói nghiệm chứng các điềm này. Trong phần trường hàng bên trên thì điềm lành hào quang chính là điềm lành thứ sáu ở cõi này. Theo đây tức nêu sáu điềm lành ở các cõi khác, không ánh sáng nào chiếu tới mà không thấy, cho nên cần phán định làm tổng điềm lành của cõi khác, sợ người không hiểu đến điểm xuất này, cho nên nói “nghiệm đây”. Vì thế, trong kệ nói hào quang điềm lành ở cõi này là: “Đại quang phổ chiếu” (hào quang lớn chiếu khắp).

Trước đã nói xong, đến đứng đầu điềm lành ở cõi khác, lập laị nói “Ánh sáng giữa chặn mày” là lập lại văn tổng nói điềm lành. Thiêp công đều không lập sáu điềm lành ở hai cõi. Chỉ nói đây trong hàng đầu, nửa hàng dịch đúng nửa hàng dịch sai. Lẽ ra phải nói đức Phật ở trong đại chúng nhập Tam-muội, Tam-muội đại sự, mà không nói phóng quang bởi vì văn dưới tự có. Nay cho rằng văn đây tự nó chính là tổng nêu điềm lành cõi khác, cho nên biết tự chưa hiểu ý chỉ của kinh, huống chi người dịch sai! Đã là tổng điềm lành cõi khác, do đó không phân biệt chỉ chép tại bắt đầu trong lục thú. Tức một hàng đầu tụng tổng điềm lành, tiếp tụng riêng điềm lành. Đầu tụng trong lúc thú nói lục sáu là năng thú nhân là bốn thú, và Thiên tuy tức phi nhân mà chỉ chung chủ tể chính là khắp lục thú (sáu đường). Trong đó hai câu đầu lược nêu trên dưới. “Các thế giới…” là nêu đầy đủ y báo chánh báo nhân quả. Đầu, “các thế giới”: là chỉ một vạn tám ngàn, chẳng những thấy hữu tình năng thú mà còn thấy các hữu sở thú, chẳng những thấy quả báo tốt xấu mà còn biết nghiêp duyên thiện ác, cho nên thấy lục thú chỉ là chỗ chọn căn cơ. “Lại thấy…”: nói “đấng Thánh chúa sư tử…”: “Thánh” tức là chủ “cho nên nói” Thánh chủ. Có người nói: Là chủ trong Thánh, nghĩa là chủ đối với ngoại đạo, Bích-chi-phật, La-hán, Pháp thân Bồ-tát, các Thánh. Nay gọi là chủ của Hoa Nghiêm, chủ bạn mười phương thế giới, chẳng liên quan đến ngoại đạo nhị thừa, chỉ là chủ trong các bạn Bồ-tát. “Thánh chủ” như “Sư tử” cho nên nói vậy. Sư tử nói đủ như trong Đại kinh Đại luận nói Pháp môn Sư tử. Lại, “sư tử hống”: gọi là “Quyết định thuyết”. Trong các trận mưa giáo trước thì chủ chẳng phải Sư tử hống, thuyết chẳng quyết định, không bàn luận Đệ nhất nghĩa chân thật. Tuy nói kiêm Biệt, nhưng tối sơ đầu thuần Đại, cho nên nói Đệ nhất. Các trận mưa giáo trước cũng là tạp phiền não, cho nên chẳng “thanh tịnh”. Phó cơ chưa cùng khắp thì không gọi là “nhu nhuyến”. Đều thuyên giảng Trung đạo, cho nên nói “thâm diệu”. Xứng lý đương cơ, nên gọi là “ưa nghe”. Có chỗ nói: “Trong lòng Như Lai chủng Đại thừa hưng khởi, nên gọi là “thanh tịnh”, không hung bạo nên gọi là “nhu nhuyến”. Đây là lấy báo chất của phàm phu thuộc cõi Dục và cõi Sắc để giải thích Phạm thanh của Phật, thật khổ biết bao! “Đều ở thế giới mình” : 1. Dùng một vạn tám ngàn làm “đều”. 2. Chủ bạn không đồng làm “đều”. Tin biết phải phán là Hoa Nghiêm giáo. Trước thì hai giáo và giữa thì ba vị, đều không có việc này. Hai giáo tám môn gọi là “chủng chủng”. Không có việc nhị thừa, gọi là “Phật pháp”.

“Nếu người….” là tụng Tứ đế… Người khác nếu không dùng Hoa Nghiêm để tiêu văn thì “ gặp khổ “ rồi. Nếu trước bắt đầu từ Lộc-uyển thì lẽ nào có câu văn “Đều ở thế giới mình”? Bởi vì trong tiểu thừa không có mười phương Phật. Sau đốn thì tiệm bắt đầu chỉ có Lộc-uyển Tam tạng tam thừa. Sơ thừa Tứ đế cho đến Phật tử ba tướng rõ ràng, vì sao không dùng năm thời để tiêu văn? Trong văn trước nêu hạnh năng chán, chán không khắp nên chưa được gọi là “tận”. Chán cả hai nhân và quả cho đến “nói Niết-bàn”, mới chính là chán tận cùng. Tại văn rõ ràng, khổ gồm nhân quả tức khổ Tập đế, “chán lão bệnh tử” tức Đạo đế, “nói Niết-bàn” tức Diệt đế. Cũng có thể nói : “vì nói” là kiêm Đạo đế, đạo Niết-bàn tức Đạo đế, sở chứng lý diệt tức Diệt đế. Lại, “gặp khổ” là tổng nêu, nhàm “chán lão bệnh tử” là biết Khổ, biết khổ nên đoạn Tập, “vì nói Niết-bàn” là biết Diệt, biết diệt vì tu Đạo. “Nan-đà trì giới”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. “Bích-chi-phật”: chỉ nói nguyên do đắc quả và để “cầu pháp thù thắng”. Nếu theo lệ Thanh văn thì cần phải nêu hành tướng…

“Nếu có Phật tử…”: là khai lục độ Đại thừa, “tu chủng chủng hạnh”và “vô thượng tuệ”, các giáo cùng có. Nay bắt đầu hình phàm phu Tiểu thừa cũng được tên “chủng chủng” và “vô thượng”. Không lẫn lộn phàm phu, Tiểu thừa, được gọi chung là “tịnh”. “Chẳng phải Tất cánh tịnh” : lại căn cứ Tam tạng giáo Lục độ mà nói, “như trong dược không có bệnh”, gọi là “tịnh”. Nếu muốn nơi đây biện rõ tứ Tất-đàn thì: Tam thừa hạnh khác là Thế giới, Duyên giác là Vị nhân, Thanh văn là Đối trị, Bồ-tát là Đệ nhất nghĩa. Huống chi mỗi mỗi đều đầy đủ tứ Tấtđàn. Tam thừa căn cứ giáo, chuẩn theo lệ có thể biết. Giải thích theo Bản tích Quán tâm thì cũng có thể hiểu. Văn dưới trở xuống các độ tùy văn lược để hiểu. “Lại, Thanh văn…” là căn cứ một đường đương giáo mà nói. Nên biết: Thông giáo Tam thừa, đều dùng giới nội Diệt đế làm sơ môn, Biệt giáo Bồ-tát thì dùng giới ngoại Đạo đế làm sơ môn, người Viên giáo thì dùng lấy giới ngoại Diệt đế làm sơ môn. Trong đây nêu rõ do hào quang mà tạm thấy, không hợp ý rộng cầu pháp tướng, chỉ lược có thể tiêu biểu đồng nơi lý, tức đủ. Nếu luận tu hạnh mới có thể biện rộng, thì dùng ba mươi mốt hàng rưỡi bên dưới để rộng nêu hai vị, cho nên phán định văn đây chỉ có Tam tạng. “Kết trước khai sau”: Trong kết trước, nói thấy nghe và sự, căn cứ giáo tiệm đốn đều nói: “diễn thuyết” và “vì thuyết…”, tức là nghe…

“Lại thấy có Phật tử…” tức là thấy, trong phần thấy “chủng chủng” phần nhiều đều là sự. Đại cương lược đủ nên gọi là “dường ấy đó”. Các điểm đồng thì lược cho là “ngàn ức việc”. Nói “khai sau” là tiếp sau mà nói, cho nên nói: “nay sẽ”, và trong văn “ngàn ức việc” đã xếp đặt. Nay nên cả hai buộc, cũng có thể bốn câu trước là kết trước. “Như thế…” : hai câu khai sau, nói lan cúc đây hữu tại. Từ đây xuống ba mươi mốt hàng rưỡi tụng, là phần văn chỉ nói Bồ-tát tu hành. Đã ở sau Lộc uyển lại ở trước Niết-bàn, căn cứ dưới giải thích Bát-nhã bao gồm hai tô, do Pháp Hoa tướng chưa quyết liễu. Từ chấp nhận giải thích đó, tuy căn cứ hai tô mà giáo phần nhiều tại tam, như trước phân biệt. Nên các độ căn cứ giáo trước Biệt Viên, phần nhiều không nói giáo, bao hàm hai ý: 1. Như vậy. 2. Giải thích nghĩa. Chuẩn theo bộ thì thông bốn khiến biết như trước mắt, bởi vì trong trường hàng đã nói đủ Phương-đẳng Bát-nhã. Trong phần tổng vấn, kinh nói “hằng sa”, tức là bốn phía ao A-nậu-đạt đều xuất một sông. Cửa khẩu Đông Ngân-ngưu chảy ra sông Căng-già, cửa khẩu Nam Kim-tượng chảy ra sông Tín-độ, cửa khẩu Tây Lưu-lymã chảy ra sông Phược-sô, cửa khẩu Phả-chi-ca chảy ra sông Đồ-đa, đều nhiễu quanh ao một vòng rồi chảy vào bốn biển. Trong số đó, sông Căng-già cát nhỏ mà nhiều, người ngoại đạo chấp cho là sông Phước, vào sông đó tắm rửa thì sẽ được diệt tội, đức Phật cũng thuận theo thế tục cho nên thường nói đến. Lại đức Phật thuyết pháp phần nhiều gần con sông này, cho nên lấy làm thí dụ. Dưới đây lục độ chỉ lược chỉ bày đại thể, nếu y hai vị thì nêu đầy đủ tướng kia như trong Chỉ Quán quyển hai và quyển bảy dẫn rõ.

Hỏi: Đã nói Phương-đẳng Bát-nhã thì cũng nên có đầy đủ hai giáo Nhị thừa, đâu được hỏi tổng chỉ cầu Phật đạo?

Đáp: Thật như đã hỏi, chỉ sợ văn rườm rà, lại đồng Lộc-uyển, cho nên lược không nói.

“Xe tứ mã”: Xe bốn ngựa cùng kéo nên gọi là “tứ”.Chữ “Hiệp” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “Hồ” và “Thiếp”, có nghĩa là hào phóng. “Văn-thù…”: Kinh dạy: “Qua đến chỗ của Phật”: tiêu biểu không phải qua chỗ khác, cho nên chỉ “chỗ của Phật”. Điều được hỏi là tôn quý cùng cực, nên nói “vô thượng đạo”, cái bị vứt bỏ không nhẹ, nên nói “bỏ nước vui vẻ”, thân tâm đều lìa nên nói “cạo sạch râu tóc” Như vậy hiểu giải thích, thế tục cùng có. Phàm các giải thích nói quý tại giáo tông, hiển lý tinh vi dứt sự rườm ra. “Kinh Ngũ Vương”: Đây là một quyển Tiểu kinh. Kinh nói: “Xưa có năm nước năm vua thân cận không đấu tranh, có một vị đại vương tên là Phổ An tu tập Bồ-tát hạnh, bốn vua còn lại theo tà kiến mãnh liệt. Vua Phổ An thương xót gọi đến trên điện bảy ngày bảy đêm vui thú thọ lạc. Bốn vị vua ấy nói: Việc nước rất nhiều, xin để chúng tôi về nước. Đại vương Phổ An tự tiễn và sai người hầu tiễn, đến giữa đường thì hỏi rằng: Các vị ưa thích điều gì? Một vị nói: Mong được trẻ mãi hằng ngày vui chơi xuân. Một người nói: Mong thường làm vua các thứ nghiêm (trang) sức, nhân dân theo hầu, trên đường mọi người nhìn theo. Một người nói: Mong được vợ con đẹp đẽ đoan chánh vô song. Một người nói: Mong cha mẹ thường còn, có nhiều anh em, thức ăn ngon quý, âm nhạc đầy đủ các thứ cùng nhau vui thú giải trí. Mỗi người đều nói ý mình rồi hỏi lại: Đại vương muốn gì? Đáp: Ta trước nói sở nguyện các ông không thể kéo dài, nếu ưa trẻ mãi vui chơi xuân thì đông đến khô héo, nếu ưa làm vua thì đến khi hết phước sát phạt lẫn nhau, nếu ưa vợ con đẹp… thì một sớm một mai tật bệnh chịu khổ vô lượng. Nếu ưa cha mẹ thường còn thì một sớm hữu sự, bị người bắt lấy. Bốn vị vua lại hỏi: Đại vương mong muốn thế nào? Đáp: Ta mong muốn không sinh không diệt, không khổ không vui, không đói không khát, không lạnh không nóng, còn mất tự tại. Bốn vua lại hỏi: Mong muốn như vậy ở đâu có? Nơi nào có thầy? Đại vương nói: Thầy ta là Phật, ở tại Kỳ Hoàn. Các vua vui mừng liền cùng đến chỗ Phật ngồi một bên bạch Phật và tự trách mình. Đức Phật liền vì các vua mà dạy tám khổ. Các vua và những người theo hầu, trăm ngàn vạn người đều đắc quả Tu-đà-hoàn, bỏ nước tu đạo. Tướng Đại lược đồng. Đã nói “hỏi vô thượng đạo” thì chẳng liên quan đến Tiểu quả, nhưng căn cứ “bỏ nước xuất gia” sự đồng, cho nên nay dẫn. Trong hào quang thấy cũng có tám thứ khổ, lấy làm trợ hạnh, các giáo cùng chung cho nên bỏ nước là sự đồng. Quán hạnh phải phân biệt để phân các giáo. Lại, như Trường A-hàm nói: Có bốn Luân vương, phân nơi một nước mượn người cạo đầu. Đã nói các vua căn cơ đây chẳng phải một. Văn dưới lại thấy cũng thông các căn cơ.

 

(Phần Trung)

Kinh nói: “Mặc y pháp phục”: như kinh Anh Lạc nói: “Nếu Thiên Long bát bộ đấu tranh, nhớ nghĩ đến ca-sa thì liền sinh tâm từ bi”, ý muốn cho Tỳ-kheo sao có thể không nhẫn được? Cũng khiến chúng sinh thế tục kinh mộ ưa thích, long được một sợi tơ, sừng trâu một phen chạm đến… Vua kia mến mộ cùng đây đại đồng. Trong đây chỉ hợp nêu ý sở kiến, lấy Tựa nêu Chánh. Các độ, hạnh tướng, công đức và ca-sa… chỉ là nương vào đây để rộng nêu rõ đó thôi! Nhưng chắc cần phải biện rõ hành thể hiển giáo để phân vị sai khác. “Sinh nhẫn…”: Trong văn có hai giải thích: Đầu thông dùng ba câu để giải thích ba nhẫn. Tiếp, mỗi một câu biệt đối ba nhẫn, cần phải phụ văn giải thích nêu nguyên do. Nếu phân ba nhẫn đối bốn giáo thì: Sinh nhẫn, Khổ nhẫn biệt tại sơ giáo, thông làm bốn cảnh, người nào không cần đủ hai thứ này ư! Biệt tại địa tiền. “Cầu Phật đạo”: Trong đây tuy không có mà chỉ nói ước lệ. Văn kế tiếp, tức dùng tụng kinh làm Đệ nhất nghĩa. Nếu không cầu Phật, thì nhẫn không liên quan đến tụng, cho nên lấy tụng kinh đồng nghĩa cầu Phật đạo. Đệ nhất nghĩa nhẫn thông cũng tại ba, biệt chỉ Viên Biệt cho nên khiến ba câu các giáo không đồng, như kinh Biệt Dịch A-hàm. Khi Phật ở Xá-vệ có một Phạm chí đi đến chỗ Phật, dùng các lời lẽ thô ác hủy mắng để xúc não Phật. Đức Phật bảo Phạm Chí: Như ông dùng các món thức ăn dâng lên vua và để lại cho thân tộc, các vị ấy không thọ nhận, thì vật ấy thuộc về ai? Phạm chí nói: Thuộc về tôi. Phật bảo: Đây cũng như vậy, ta không thọ nhận lời nói của ông, chúng lại thuộc về ông. Cho nên, đây không thọ nhận cũng là Sinh nhẫn, cho nên đây riêng thuộc Tam tạng giáo tại A-hàm. Thông ở Thông giáo, về lý không thọ nhận, huống chi thông dụng. Các giáo cộng đó, danh kia đã thông, cần phải giải thích tướng trạng. Tiếp đến, trong phần nói về “Tinh tấn”, thật tướng cũng có thể thông bốn biệt hai. Trong phần nói về “Thiền nói” “cách chung đều có căn bản tu”: là các giáo đều tu. Nếu thông đạt căn bản thì thành xuất thế và xuất thế thượng thượng, đầy đủ như Chỉ Quán Thiền Cảnh nêu, nay văn nói lược chỉ nói “Xuất thế Thượng thượng” và dùng “căn bản”. “Căn bản” tức Tam tạng, “Xuất thế” tức Thông giáo, “Thượng thượng” tức Biệt Viên. Lại bốn giáo đều dùng căn bản làm cảnh, cho nên giải thích hàng trước thông liên quan đến các giáo. Trong hàng trước nói “ly dục”: là theo Thông giáo. “Lại, căn bản…” là hai giáo Tạng Thông bởi vì hai giáo này đều tu căn bản bối xả… Nhưng cần phải biết: quán hạnh vẫn còn là Biệt, để biện rõ hai giáo. Biệt thì lìa Nhị thừa lại theo nạn thuyết, trung đạo ly dục, nghĩa trung đạo thông Viên Biệt, theo Viên mà thọ tên.

Lại lần nữa giải thích “thâm tu” (tu sâu): Do thâm tu nên ly dục không đồng, tức là trong Căn bản cũng nên truyền truyền làm thâm. Trong đây căn bản cho đến Nhị thừa đầy đủ sáu đến nay cũng đủ ý hai giáo Tạng Thông. Biệt giáo “ngũ thông” như văn. Cũng có thể nhường ở sơ địa trở lên. Viên giáo thì từ đầu đến cuối đều đủ lục thông, chỉ căn cứ lý viên, chẳng có lỗi thiếu sót cho nên nghĩa lập lục thông. Nếu theo Thật thuyết, thì Sơ địa, Sơ trụ phần đắc Vô lậu thông. “An thiền…” Trước trong thông giải thích thì thông sâu cạn. Nay Thượng thượng thiền thì biệt tại Biệt Viên. Trong phần giải thích “Bát-nhã hóa tha”, nói “Định tuệ đầy đủ”: là người Biệt giáo làm lợi ích cho chúng sinh, nói theo chiều ngang thì đủ các giáo cho đến Viên giáo. Nay theo Cực thuyết cho nên lần lượt so sánh cho đến Địa, Trụ thì mới đầy đủ. Vì vậy trong văn, đầu từ Sắc định cũng gọi là “đẳng”, đẳng cho nên đầy đủ, hữu lậu mà còn “đẳng” huống chi các thứ khác ư! Bối xả… gọi là “đẳng bất đẳng”, là căn cứ “Vô lậu sự thiền” để phán xét. Đã nói chán bối cho nên phần nhiều thuộc tuệ. Cửu định gọi là định, là từ danh phân biệt, bởi vì vô gián nhập. Thập nhất thiết xứ, thì tám xứ trước thuộc tuệ, hai xứ sau thuộc định. Lại, tám thứ trước tại sắc trong Sắc giới, cũng tự đắc đẳng đã như trước nói. Trước là nhân duyên. “Lại, Nhị thừa…” là căn cứ giáo phê phán, Nhị thừa tức hai giáo trước, Bồ-tát và Phật tức bốn giáo nghĩa đầy đủ. “Không quán…” : là căn cứ quán mà phê phán. “Phá ma…”: Bốn đức Phật đều có bốn tướng hàng phục ma, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Nếu đối giáo: Quán Không quán Giả thuộc Biệt giáo, quán Trung thuộc Viên giáo tức đầy đủ hai nghĩa giáo quán, cho đến Địa Trụ đều có “phá tám ma mười ma”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói. Rốt ráo phá tận, cho nên nói “phá nhất thiết ma”.

“Kích phạm…”: Tức Phạm âm chân thật vi diệu là Sở chuyển.

Đã hàng phục ma rồi thì nên chuyển pháp luân. Văn theo Thật thuyết, chỉ nói Sơ trụ. Thông luận bốn Đức Phật đều năng chuyển, cho đến chân diệu cũng thông bốn Đức Phật. Tiếp, căn cứ “không thứ lớp” nói “tùy thấy mà hỏi” là: Hỏi: Trước nêu sở kiến, phải chăng không là tùy thấy? Đáp: Đều là tùy thấy, chỉ vì hai cách không đồng. Từ biên không thứ lớp thì tùy thấy, là hơn cả. Nếu một phen thấy như thế, thì đủ trải qua năm thời, đâu ngăn ngại việc thấy theo thứ lớp hay không thứ lớp. “Sau Tam tạng…”: Đây thì hoàn toàn do đức Phật kia nói. Vả lại, như thấy người thấy hạnh thì không ngăn ngại thấy nói. “Xả thiền”: là đệ tứ thiền, cũng có thể theo Biệt Viên thì không nhớ là “xả”, quên thiền kia nên gọi là “xả”. “Bi thiền”: Luận Bà-sa nói: Sơ thiền tu Bi dễ, Nhị thiền tu Hỷ dễ, Tam thiền tu Từ dễ, Tứ thiền tu Xả dễ. Trong đây Bi thiền đã nói hóa tha, đâu riêng gì sơ thiền, cho nên trong luận Bà-sa còn có thông biệt huống chi đại giáo ư. Cho nên mỗi một thiền đều nên nói Từ cho đến Hỷ Xả. “Kinh Hoa nghiêm Tư Ích…”: Hoa Nghiêm đầy đủ có hai. Tư Ích đầy đủ có bốn. Bởi vì Tư Ích đầu quyển hai nói rõ Bồ-tát phóng quang chiếu khắp mười phương A-tăng-kỳ nước, hết thảy phiền não hết thảy tật bệnh gặp hào quang thì an lạc, phiền não bệnh khổ đều nói “hết thảy”, cho đến Phật tự phóng hào quang lục độ, người xúc chạm đến thì đều được lợi ích, cho nên đều đầy đủ bốn. Do sơ địa theo lệ Phật cũng nên không ngăn ngại, nên được dẫn. Thứ nhất nói: Đức Phật bảo Tư Ích Phạm Thiên: Năng giáo chúng sinh nhất thiết trí tâm, đó gọi là Bố thí, không xả Bồ-đề tâm gọi là Trì giới, không thấy tâm tướng sinh diệt gọi là Nhẫn, cầu tâm bất khả đắc gọi là Tiến, trừ thân tâm thô gọi là Thiền, lìa các lý luận gọi là Tuệ, lẽ nào chẳng phải Tam tạng lục độ ư? Thứ hai nói: Ta nói bố thí gọi là Niết-bàn, ngu nghĩa là đại phú, bởi vì nhập các pháp thật tướng của các pháp. Trì giới là Niếtbàn, vì không tác không khởi. Nhẫn là Niết-bàn, vì niệm niệm diệt. Tiến là Niết-bàn, vì vô sở thủ. Thiền là Niết-bàn, vì không tham trước. Tuệ là Niết-bàn, vì bất đắc tướng. Lại nói: Bố thí bình đẳng tức Tát-bànhã, cho đến Bát-nhã tức Tát-bà-nhã. Lại nói: Bố thí không thí không xam tham, cho đến Bát-nhã không trí không ngu, các thứ đây lẽ nào chẳng phải đều là tướng Thông giáo lục độ ư? Thứ tư nói: Năng thông đạt tất cả pháp không còn cái gì để xả, gọi là Đàn; thông đạt tất cả pháp không còn lậu thất, gọi là Thi, thông đạt tất cả pháp không còn thương tổn, gọi là Nhẫn, thông đạt tất cả pháp bình đẳng, gọi là Thiền, thông đạt tất cả pháp không có tướng sinh khởi, gọi là Tuệ, lẽ nào chẳng phải tướng lục độ theo Biệt Viên ư? Hoa Nghiêm nói đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy dẫn.

Lại như Địa Trì lục độ đều có chín, đây đều là tướng nhờ hào quang mà được lợi ích, do Phật dạo danh thông bi thiền không hạn cuộc. Sơ địa, Sơ trụ và thông Thất địa đều đắc nhập, cho nên làm thông giải thích. Bốn tướng đã phân, năm thời có thể biện rõ cho nên không mượn các luận rườm rà khác. “Chưa từng có ngủ nghỉ”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói, nhưng kia là phương tiện trong đây chánh tu, cũng là thông bốn giáo. Nếu trong Tiểu thừa thì như Na-luật, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Trong đây ở Đại thừa để cầu Phật đạo cho nên dẫn “Bát-chu” lấy làm hành nghi. Bát-chu dịch là Phật vị, đây nêu ra để trừ bỏ “thụy cái”, là đúng nhất bởi vì chín mươi ngày thường hành. Căn cứ theo bộ lại thông, vì thông các giáo. Không thiếu sót cho đến cứu cánh, chỉ mười giới đây danh rút ra từ Đại luận, cũng là thông các giáo, đầy đủ như trong Chỉ Quán và Huyền Văn. Nay “mười giới” trước sau đều là Bồ-tát, cho nên đều “cầu Phật đạo”. “Sinh nhẫn, Pháp nhẫn”: hợp hai nhẫn trước làm Sinh nhẫn, Đệ nhất nghĩa làm Pháp nhẫn. Nửa hàng đầu là người năng nhẫn, nửa hàng tiếp là cảnh sở nhẫn, nửa hàng dưới là dùng ý nhẫn. Ý tức kiêm Sinh pháp, cho nên biết Sinh nhẫn danh thông nghĩa biệt. Trong Tam tạng thì sinh diệt sự nhẫn làm Sinh nhẫn. Trong Diễn môn, thì Sinh nhẫn Pháp nhẫn vĩnh viễn khác Tam tạng. “Lực”: A-hàm nói: Lực có sáu thứ: Trẻ con khóc là lực, người nữ sân là lực. Quốc vương kiêu ngạo là lực, La-hán tiến là lực, chư Phật bi là lực, Tỳ-kheo nhẫn là lực.

“Lìa các sự…”: Là lìa ngũ cái, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói… Một hàng rưỡi đầu, tụng nêu đối tượng lìa. Tiếp nửa hàng, nêu ý lìa. Do các giáo thiền đều lìa ngũ cái, ý tại Phật đạo. Như trong Kinh Bảo Tích, Ca-diếp nói: Có bốn pháp nhanh chóng chạy xả ly ngoài một trăm do tuần: 1. Lợi dưỡng; 2. Ác hữu; 3. Ác chúng; 4. Đồng trú mà có nhiều sự hý tiếu, hoặc là sân, đấu tranh. Lại nói: Nếu có đánh đập đại thiên thế giới chúng sinh, hoặc có ác tâm não hại người phát Bồ-đề tâm, thì tội lỗi vô cùng. “Quyến thuộc ngu si…”: Đầy đủ như Bát-chu, phải lìa người si, làng xóm… Hướng về trước cũng có phương tiện chánh tu là Biệt “Tứ sự”: ba hàng trước chánh là nêu bốn việc, hàng đầu hai việc là ẩm thực thuốc thang, hàng tiếp y phục, hàng tiếp ngọa cụ phòng xá. Trong các giáo, hoặc lại kiều lương (cầu) nghĩa (tỉnh) giếng vườn rừng ao tắm. Nay không có kiều (cầu)… Đồ ăn uống ngon, không biết sự thế nào là tốt lành? Thiêp Pháp sư đều coi thức ăn lẫn lộn (hào) là thịt, dù có một phần của chữ “hào” là chữ “nhục” nghĩa chung là thịt, cần gì đặt các thứ còn lại chuyên dùng thịt, khiến cho người đời sau ít hiểu biết sẽ nghi ngờ. Nên nói thức ăn chẳng phải ngũ cốc, gọi là “hào”, tức là thức ăn để ăn với cơm. Sách Thuyết Văn nói “thiện” là bữa ăn ngon : đầy đủ thức ăn. Chỉ nói từ thịt mà bàn về ăn, sao lại gọi là “ăn thịt”? Hoặc nói: Thịt ấy trước chưa chế (ngăn cấm). Nói thế là lầm. Đại thừa đốn chế tất cả đều đoạn thịt, tại sao luận Lăng-già trước sau chế ? Huống chi đều là trong hào quang thấy đâu phải một vạn tám ngàn cõi đều đồng chưa thiết lập chế đoạn thịt, cũng như đem thịt cúng dường Phật và tăng ư! Nói “y phục…”: Như cõi này ca-sa của Ca-diếp giá mười vạn lượng vàng, trong ánh sáng thấy hoặc đương có đây.

Tiếp, “giải thích Bát-nhã” trong hàng thứ ba nói. “Ngôn ngữ đạo đoạn”: là Tâm không chấp trước thì ắt lìa ngôn thuyết. “Ngôn ngữ đạo đoạn” là dứt hết cái “bất khả thuyết mà thuyết” của hàng thứ nhất. “Tâm hành xứ diệt”: là diệt hết cái “bất khả quán mà quán” của hàng thứ hai. Tuy cả hai sạch hết, mà nói mà chiếu, cho nên nói “thuyết bất khả thuyết, quán bất khả quán”. Ngữ này lại thông trong các giáo Diễn (Đại thừa) không chỉ hạn cuộc ở đây. Để hiểu rõ ba hàng này văn có năm điều giải thích: 1. Hiểu trực tiếp kinh văn. 2. Giải thích ba hàng toàn tại Phương-đẳng, mà nói sáu tức là năm tùy Bát-nhã. 3. Giải thích ba hàng toàn đồng Bát-nhã, “luận đàm đầy đủ…” là ý hàng đầu, “tịch diệt…” là ý hàng thứ hai, “thanh tịnh…” là ý hàng thứ ba. Do danh thuận tiện, đồng gọi là “Bát-nhã”. 4. Giải thích dùng ba hàng đủ đối ba vị. 5. Lại đồng Bát-nhã.

Hỏi: Nếu vậy thì điều thứ năm đây giải thích cùng điều thứ ba có gì sai khác?

Đáp: Điều thứ ba thì trực tiếp dùng “bất thuyết mà thuyết…” cùng Bát-nhã tương đồng, cho nên lại đối. Trong đây nhân trong điều giải thích thứ tư, lấy hàng thứ ba. Đối với Pháp Hoa, tức là do hai chữ “Diệu Tuệ” vẫn nói “thấy người, không thấy tòa”, cho nên trở lại đem hai hàng là đầu và sau quy tụ về một hàng giữa, không quán mà quán chinh là đồng Bát-nhã, tức không thấy tòa Pháp Hoa đồng. Đồng là không thấy, cho nên chưa hiểu Pháp Hoa, đều nói hoặc là ý tại nơi đây.

Hỏi: Trước phân văn riêng tại Phương-đẳng, nay giải thích đầy đủ đối ba vị ư?

Đáp: 1. Phương-đẳng đầy đủ bốn giáo, nhiếp pháp nhiều. 2. Chỉ chưa thấy tòa Pháp Hoa cho nên ở trước Pháp Hoa, từ dung chứa mà nói kiêm Bát-nhã. Nhưng lại các giáo lục độ sai biệt, là đều do Bát-nhã, cho nên luận đủ. Do đó hoặc “nói” hoặc “quán” cho đến “ngôn ngữ đạo đoạn” có trong các giáo cho nên cần phải luận đủ v.v…

Huống chỗ thấy khó lường cho nên nêu rõ đến năm phen, thâu nạp dù rộng cũng không ra ngoài các điều này. “Hai ý từ người”, là trong điều thứ tư thứ năm, chính chỉ hàng thứ ba. Trong câu “Kệ tụng đã rộng hiển nghĩa hiếm thấy vân vân”, thì “vân vân” là: Như trước lược trình bày, văn trên chỉ nói “chủng chủng nhân duyên tín giải tướng mạo”, mà chưa phân ba vị, bốn giáo riêng biệt. Người giải thích, thì ai biết ba hàng bao hàm hai vị? Lại, các kinh luận thì sáu cùng mười ly hợp không đồng Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Lại, kinh Anh Lạc nói thập độ mỗi độ đều đủ ba, nghĩa thông các ý, cho nên quyển dưới nói: Thí có ba: Tài, pháp, vô úy thí. Thi có ba: Tự tánh, thọ pháp, lợi sinh. Nhẫn có ba: Khổ hạnh, ngoại ác, Đệ nhất nghĩa. Tiến có ba: Khởi tâm Đại thệ, phương tiện tiến tới, khuyến hóa chúng sinh. Thiền định có ba: Loạn tưởng bất khởi, sinh các công đức, lợi ích chúng sinh. Tuệ có ba: Chiếu hữu, chiếu vô, chiếu trung. Nguyện có ba: Tự hành, thần thông, ngoại hóa. Phương tiện có ba: Tiến hướng đến quả, khéo hội nhập hữu vô, bất xả bất thọ. Lực có ba: Báo đắc, tu đắc, biến hóa. Trí có ba: Vô tưởng trí, nhất thiết chủng trí, biến hóa trí.

“Cúng dương xá-lợi Phật”, lược như trường hàng. Tân dịch Tốt- đổ-ba, đây gọi là Cao hiển. Phương phần: Nghĩa lập là chỗ an trí thân cốt. Thấy có tướng diệt độ thì biết Đức Phật đã Niết-bàn, tuy thấy nhập Niết-bàn, không biết sở thuyết trước đây, mà chúng bấy giờ không quyết chắc, chưa lường được nguyên do thấy, cho nên không đồng xưa sợ ngăn ngại thọ lượng. Lại nữa, như trước đã thấy hai vị Tô, lý Đại Tiểu đầy đủ nên không nói lập lại, do đó nên hoài nghi. “Chư thiên, long, thần…”: Tháp cất giữ thân giới, cho nên người cúng được phước rất lớn, không giống điện đường là nơi để hình mạo. Cho nên kinh Trường Ahàm nói: Lúc đức Phật sắp Niết-bàn có Phạm ma Tỳ-kheo… đứng trước Phật cầm quạt quạt. Phật dạy: Các vị lui đi chớ đứng trước ta. A-nan suy nghĩ: Các Tỳ-kheo này thường hầu hạ cung cấp các thứ cần dùng cho đức Phật không nhàn chán, nay cuối đời cần phải có họ cung cấp, sai khiến sao lại bảo lui ra do nhân duyên gì? Phật biết ý bảo A-nan: Nay trong thành Câu-thi-la mười hai do tuần có thiên thần Trắc Tắc cơ hiềm Tỳ-kheo này đang đứng trước Phật rằng : “Nay cuối đời Đức Phật, chư thiên thần… đều muốn cúng dường, mà do Tỳ-kheo này có đại uy đức hào quang sáng chiếu khiến ta không đến gần gũi kính lễ được”. Do đó nên Phật dạy lui ra. A-nan bạch Phật: Do nhân duyên gì mà có thân hào quang ấy? Phật dạy: Vào thời đức Phật Tỳ Bà Thi, vị ấy đem tâm hoan hỷ cầm bó đuốc sáng chiếu vào tháp đức Phật kia, khiến nay được thân thể sáng chói như vậy. Trên đến tầng trời thứ hai mươi tám, thân sáng không sánh bằng. Lửa chiếu đã vậy, các thứ khác thì căn cứ đây có thể biết. Cho nên, biết: Xá lợi ở nơi đâu thì công nơi ấy không nhẹ, khinh mạn sinh tội, tội chẳng gì lớn bằng. Như đây theo lệ kinh văn rất nhiều đâu có thể nêu hết, và chẳng phải ý chánh.

Kinh nói: “Thiên thọ vương” tức cây Ba-lợi-chất-đa-la ở Đao-lợi thiên, đầy đủ như Thích Tiêm dẫn văn Đại kinh. Kết ý văn: Chính là cúng Xá lợi, phụ là trang nghiêm các cõi nước. Nếu chỉ trang nghiêm cõi nước thì đâu cần xây tháp! “Bạch hào là gốc”: Đây là căn cứ đạo lý, bạch hào tiêu biểu trung đạo nguồn gốc của các pháp, không hẳn ban đầu, và do hào quang mà thấy cho nên coi đó là gốc. Như điềm lành ở các cõi khác, thấy lục thú đứng đầu, lẽ nào đó là gốc điềm lành, do đó các cõi khác coi Phật là gốc. Nếu luận tổng biệt vẫn đồng nhân hào quang. Nói “Phật là gốc”: Hạ phàm y Phật, người và pháp của Phật do Đức Phật từ đầu đến cuối, đầu ắt trở về cuối.

Hỏi: Các cõi khác sáu điềm lành lẽ nào có thể do ánh sáng? Cõi này chỉ nói Phật phóng một luồng hào quang, thấy cõi nước đây đâu từng liên quan đến năm điềm ư?

Đáp: Do hào quang mà thấy tất cả đều diệu, phải biết hào quang là gốc của sự thù diệu, huống chi các điềm lành đều lấy trung đạo làm gốc, hào quang tức trung đạo. Các cõi khác sáu điềm lành đều ở trong do hào quang cũng vậy. Hàng tiếp: hai câu đầu tán thán gốc của hào quang, trong đó một câu đầu và hai chữ “trí tuệ” nêu gốc của hào quang, gốc (bản) tức “thần lực trí tuệ”. Nói “chư Phật”: Là nêu nhiều để hiển bày một, chinh là chỉ đức Thích-ca. Tiếp hai chữ “hi hữu” là chánh tán thán, trước đó không như vậy cho nên nói “hi hữu”. Do hai việc nên hào quang mới “tịnh”. Hai câu dưới tán thán thể dụng của hào quang, câu đầu tán thán thể của hào quang, câu tiếp tán thán dụng, chiếu soi cõi nước. Quá một vạn tám ngàn cõi mới gọi là “vô lượng”, cho nên trước lập số. Lại, từ đó tiêu biểu so sánh chiếu các phương cũng lại như vậy, cho nên nói “vô lượng”. Trong hàng thứ ba thì hai câu đầu là lập lại nêu sở chiếu mà tán thán quá thường, tiếp hai câu nêu thấy xưng hiệu, dùng thỉnh đáp. Nói “thấy việc này”: là thấy điềm lành của hai cõi, cùng một mà giáo hóa khác cho nên nói “chưa từng”. Đã sai khác, phàm dua nịnh thì “chưa từng” không hư dối. “Xin các Phật tử…”: nghi việc không phải nhẹ, cho nên lập lại khải thỉnh, chẳng chuyên vì mình cho nên nói “chúng”.

Nói “cấu nạn”: “Cấu” là đặt điều, là nhiều, là đến bốn lần cho nên nói lũy (nhiều)… Di-lặc mỗi mỗi thiết lập câu hỏi, Văn-thù đều đặt điều kháng cự. Đây có ba ý: 1. Việc lớn ý xa. 2. Dẫn hai chúng Phát khởi và Ảnh hưởng ủng hộ. 3. Dẫn hai chúng Đương cơ và Kết duyên ủng hộ. Tuy đầu và thứ hai mà chung thành thứ ba, cho nên ba ý Di-lặc đều dựa vào cơ duyên. Vì vậy nói: Sợ chướng ngại nghe pháp căn cơ ở nhân giả và do toàn chúng, cho nên dựa vào chúng mà lật lại ba ý kia. Thỉnh ắt đáp, lần lửa cũng là bền bỉ. Bộ Quảng Nhã nói: Cương Viên. “Hủy”: Tê giác: Tợ như trâu, chỉ một sừng, tợ trâu mà chẳng phải trâu nên nói “nghi hủy”. Nay trong lòng lo lắng không quyết định, cho nên gọi là “ưu hủy”. Chữ “hạp” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ “hồ” và “lạp”, có nghĩa là “bế” (đóng). Hán Thư nói: Hạp chúng không thiếu một người, “hạp” là “tận” (toàn). Nên biết nay trong hội toàn chúng đều nghi. Trong phản đối đầu tiên, nói “Chúng chưa từng nghi”, là lại y cứ không phát ra lời để chất vấn Di-lặc. Tiếp, đợi Đức Phật từ định ra, tức là nếu Đức Phật ra khỏi định thì nghi kia tự giải quyết. Nói “thời đáp”, là lời thúc giục khiến cho kia liền đáp. Lưu sư có đệ tử hành sâu, từ chi đạo mại sơn, chia đáp vấn làm bốn: 1. Khai chương. 2. Sinh khởi. 3. “Tư duy….”: nguyên do. 4. Rộng giải thích. Trong phần sinh khởi, nói “võng tượng” cũng có thể nói phỏng tượng (hình giống như) chưa xét kỹ trạng mạo. Hai chữ “phảng phất”, xưa gọi là “phỏng Phật”, trên mở qua lại, vật phương dưới phản lại, trên tương tự, dưới không xét kỹ. Nếu căn cứ nghĩa đây thì chữ “thượng” (trên) chánh sẽ tư duy đáp, tư duy đáp điềm lành cõi này cõi trên, là ý nói năm câu. Đã đối sáu điềm lành tức là dùng năm tư duy lược sáu điềm lành đây. Đã từng nói “phóng hào quang rồi thì thuyết đại pháp”, các cõi khác sáu điềm lành lấy hào quang làm tổng, nhân hào quang mà trước thấy Thánh chúa diễn thuyết cho nên biết là đáp câu hỏi các cõi khác. Từng thuật đầy đủ chứng minh sáu điềm lành Phật Đăng Minh và hào quang chiếu. Như nay đã thấy, cho đến xuất định nói kinh, tức là trả lời cả hai câu hỏi về hai cõi. Cả hai câu hỏi ý hỏi sau định, cho nên nói đáp cả hai.

“Duy thổn (tư duy)…”: đương nhân duyên giải thích. “Nhưng Vănthù…” là giải thích theo Bản tích. Căn cứ chưa rộng thuật, giống đồng như chưa biết. Đã nói “xưa nay”, “xưa” tức rộng, chỉ vì từng chưa rõ. Nói “trước chỉ bày tư duy”, cho nên trước năm câu thì đáp Tựa sáu nghi, trong phần phá xưa trước trình bày tiếp. “Nay nêu rõ…” là phá. Trước là phá chấp, nói: “pháp thuyết kia không dùng” tức vẫn còn thí dụ; “không dùng pháp” bởi vì Bản môn thì rất sớm.

Hỏi: Đến đây còn phá “thái tảo (rất sớm)”, thì làm sao giải thích Thông tựa theo Bản tích ư?

Đáp: Thông tựa thì thông Bản Tích, Biệt tựa chỉ tại Tích môn, cho nên giải thích Thông tựa. Rộng dụng Bản môn chẳng phải là rộng khai Thọ lượng trong Thông tựa, cho đến Biệt tựa tuy có nói Bản tích, hoặc thời lại dùng thể dụng Bản tích.

Hỏi: Nếu như vậy, thì: Thí vốn là thuyết pháp bằng cách nêu Thí dụ, mà đã không dùng Pháp, sao lại dùng Thí?

Đáp: Chỉ duyên Quang Trạch thì Pháp và Thí tách rời nhau. Pháp thì Bản Tích đều luận đàm. Thí chỉ Tích môn hiển thuật. Bỏ Pháp còn Thí bởi có nguyên do. Hoặc nếu hoàn toàn chọn thì vẫn cần trách rằng: Thí vốn là thuyết pháp bằng cách nêu Thí dụ, vì sao ba thí chỉ có một thí được thọ ký? Cải đổi Tiểu thừa và phá lậu hoặc, hai pháp, mới dùng Bản tích song luận, dùng Thí trừ Pháp bởi do đây vậy.

Nhưng luận có tám câu: 1. Muốn nói đại pháp. 2. Muốn mưa đại pháp vũ. 3. Muốn đánh trống đại pháp. 4. Muốn dựng cờ đại pháp tràng. 5. Muốn đốt đuốc đại pháp. . Muốn thổi đại pháp loa. 7. Muốn không đoạn trống đại pháp. 8. Muốn diễn đại pháp nghĩa. Nay chỉ y năm câu, dùng câu đầu làm tổng, bốn câu dưới làm biệt.

Các nơi khác dùng tám câu bốn đối giải thích mà nói: 1. Phá ác tiến thiện đối. 2. Khai quyền hiển thật đối. 3. Đắc trí chứng chân đối. 4. Thuyết pháp lợi sinh đối. Vẫn nói dùng để giải thích nguyên do thì chỉ có năm câu thành hai đối rưỡi: Có phá ác sinh thiện thuyết pháp lợi sinh, khai quyền một câu, các câu còn lại thì thiếu, vẫn không có thứ lớp, người đọc nên biết. Nay nói luận văn tám câu để giải thích năm câu kinh thì biết : “không đoạn trống, đốt đuốc dựng cờ” là giải thích “trống pháp”. “Không đoạn” là nêu thể tướng của cổ (trống), “dựng cờ” là trống pháp tiêu biểu cờ, “đốt đuốc” là trống pháp phá sự tối tăm, dùng dụ giải thích dụ đạo lý. Như vậy, dựa vào năm câu để giải thích tổng biệt, thì Thông tựa đứng đầu bỗng thuận theo, biệt do nhờ sai khác không liên quan đến viễn bản. Văn-thù đáp Tích mà vẫn tự tư duy kỹ lược rộng rồi mới quyết định chính là đáp ý chỉ câu hỏi, sao được thuận theo như vậy để chỉ bày viễn bản? Nếu giải thích năm câu là để hiển Bản, thì “lược tằng, quảng tằng” đều phải biết viễn. Trong hào quang ngang thấy nên phát cận tích, trong hào quang ngang thấy còn ẩn đương đồng. Chỉ dùng xây tháp để mật tiêu biểu nhập thật, đâu được đối đây liền thấy viễn thành và cho là tháp vọt hiện đều là phân thân ư! Tư duy vì chưa liên quan đến viễn Bản, cho nên lược rộng chỉ luận bàn về cận Tích. “Giải thích sau đã hư dối…” : tức giải thích hiển viễn đã dối, giải thích khai ba cũng lầm, khai ba chỉ nên như nay tổng biệt, không cần để đối hai văn rộng lược. Nếu không như vậy thì uổng xưng quyền thật. Trong Chánh giải thích chia làm ba : 1. Thuật thẳng đại ý. 2. Chánh giải thích. 3. “Ngang dọc…” là kết ý.

Trong Chánh giải thích: Trước, là giải thích, tiếp, là kết tư duy. Văn trước lại có hai: Trước đối năm điềm lành, tiếp biệt giải thích. Đại thánh suy lường không thể không từng trải lo lắng. Đây ban đầu tư duy chính là làm nền tảng cho lược rộng hai đáp, cho nên Di-lặc tư duy điềm lành để thiết lập nghi, Văn-thù dựa vào nghi để cân nhắc việc này cho nên nội tư duy sáu điềm lành chánh hiện ở trước đức Phật xưa, suy lường Phật nay hiện sáu điềm lành và ba chu về sau, cho nên lược rộng thời phương hiển nội tư duy. Đây là cốt tủy của một kinh. Trong phần đầu có ba: 1. Đối năm điềm lành. 2. “Muốn nói…”: mỗi mỗi giải thích đều khiến tiêu biểu chánh. 3. “Như vậy…”: kết chỉ bày hữu vô. Chỉ vì giải thích dùng điềm lành tiêu biểu việc “sẽ” xảy ra, cho nên luận tám câu đều nói “muốn”. Câu đầu đáp “điềm lành thuyết pháp”, là nêu xưa nói kinh Vô Lượng Nghĩa, tiêu biểu muốn Tích môn nhập Thật. Hai thời Vô Lượng Nghĩa nghĩa đã không sai khác, thì nghiệm biết ngày nay sau khi (Phật) xuất sinh thu nhập tại sao nghi? Đại pháp lẽ nào vượt qua đây? Câu tiếp, đáp “điềm lành mưa hoa”: Tư duy xưa mưa hoa là tiêu biểu sẽ nói Viên nhân bốn vị, cho nên bốn hoa mà không phải quả. Tư duy nay hoa trời mà có bốn mưa rõ ràng thời hội một nhân, một nhân ắt có bốn vị làm thềm thang. Bốn loại mưa hoa dùng nghĩa “thiên (trời)” làm năng biểu. Câu thứ ba đáp “điềm lành chúng hoan hỷ”: Tư duy nay đồng xưa chúng thấy điềm lành vui mừng, ngầm tiêu biểu ắt hành, hành dựa vào lý giáo, cho nên tâm vui mừng trong động Viên, chướng ngầm hoại. Cải đổi quyền nhân xưa thành chúng vi diệu nay, nhân (người) ắt thọ lãnh giáo, hành, lý đều như vậy. Câu thứ tư đáp “điềm lành động đất”: Tư duy nay đồng xưa thấy động đất là tiêu biểu sẽ sáu phen phá vô minh cho nên khắp thế giới Phật chấn động sáu cách. Động tuy hình tiếng hai thứ sai biệt, lại dùng “đại cổ” tư duy, cho nên biết răn dạy binh lính quyết phá giặc lớn ở biên cương. Đất động thì trừ bỏ vô minh của lý Trung đạo, cho nên Nhị thừa xưa nay đều không có lý này. Lợi sâu xa trong Tựa mà thời chúng chưa biết. Câu thứ năm đáp “điềm lành phóng quang”: Tư duy nay đồng xưa, thấy phóng quang là tiêu biểu khai hiển đạo đồng, cho nên dùng một luồng hào quang chiếu đều khắp kia đây. Đây tiêu biểu Thích-ca, kia tiêu biểu bốn đức Phật, cho nên biết Tích môn không được đồng Bản.

Hỏi: “Đại pháp và Pháp nghĩa”, hai câu có gì sai khác?

Đáp: “Đại pháp” tiêu biểu cõi này khai hiển, “Pháp nghĩa” tiêu biểu kia đây đạo đồng. Đây chiếu nơi kia, kia đồng với đây, cho nên nói “diễn”, và một đời không tin đáp vấn có tồn tại.

Trong câu “Ý thì lại bao gồm đầy đủ, chẳng phiền nghi ngờ”, thì “bao gồm đầy đủ”: là nghiệm biết bốn điềm lành tại định, định thì không thể không có. “Thiếu một điều này, cho nên gọi là lược đáp” : Lược là rất tóm lược, một phen lược tợ như lược ở phần tư duy, nghĩa thì không như vậy. Bởi vì trong phần “lược tằng” đã có lời của Phật quá khứ, chỉ là đối với rộng thì gọi là “lược”, chẳng đối với tư duy. Vì vậy cho nên tư duy chỉ suy lường quá khứ, hiện tại, không có nói “từng thấy”, cho nên lại “lược”. Đây lược nói có hai ý kia: 1. Nói lược, là vì không từng thấy, 2. Thiếu là lược, vì thiếu nhập định.

Tiếp trong “Biệt giải thích”, lại có tổng và biệt. Tổng: vì bốn câu dưới đều là đại pháp, cho nên biết bốn câu dưới làm thành câu đầu. Nói Biệt: tức dùng mưa v.v… để phân biệt đại pháp kia, khiến nhập Trụ v.v… Vì đối bốn vị, nên gọi là biệt. Tức dùng ba thí dụ của ngài Quang Trạch, mà theo pháp này cho nên giải thích năm câu đều nương dụ theo pháp. Trước, dùng điềm lành hoa nêu ngang biệt để hiển bày dọc tổng. Do nghĩa trong câu đầu bao hàm bốn vị, cho nên tiếp là dùng mưa… để lìa tổng trước mà xuất bốn câu. Căn cứ bốn câu dưới này, đương vị tự đầy đủ từ đầu đến cuối, trong văn lại theo đối dọc để thuyết, cho nên dùng mưa hoa để tiêu biểu bốn vị. Như “thổi pháp loa”, Thông thì tiêu biểu cải đổi bốn vị, mà Biệt thì tại Thập hạnh. “Đánh trống pháp”, Thông thì tiêu biểu bốn phen phá lậu hoặc, mà Biệt thì tại Thập hướng. Diễn thuyết đã thông nói ngang rộng dọc sâu. Dọc sâu tức như mỗi một vị dọc nhập, biến thông các vị, mà biệt tại Thập địa. Cho nên bắt đầu từ “mưa đại pháp vũ” cho đến “pháp nghĩa”, nhất nhất khắp Tích môn rộng nói. Chỉ vì đối với chúng sinh đắc ích không đồng, phải từ dọc giải thích, buộc ngang theo dọc. Cho nên nhập Trụ thì tạm gọi là “pháp vũ”, cho đến nhập Địa thì tạm gọi là “pháp nghĩa”. Vì vậy cho nên Tích môn gọi chung là “mưa đại pháp vũ” cho đến “pháp nghĩa”. Nên dưới rộng giải thích mỗi một câu đều nói “vì muốn cho chúng sinh”. Sở nhập lại có siêu vượt thứ lớp không đồng, nay tạm theo thứ lớp đều nói “nay cùng xưa đồng”. Như ban đầu nêu “mưa đại pháp vũ” chỉ tiêu biểu “nhập Trụ” tức không nói “xưa nay”. Từ Tín nhập Trụ nơi nào luận sửa đổi ? Chẳng những không sửa đổi Tín mà còn chẳng đổi địa vị chân thật, không được cải đổi danh, cho nên ban đầu nhập Trụ không cần nói cải đổi. Vì thế, biết Nhị thừa độn căn, Bồ-tát xưa trước Pháp Hoa chưa phá vô minh, nay ban đầu nhập Trụ chỉ được gọi là “Khai”, cho nên “lược khai”. Lợi căn lợi ích sâu tại câu thứ hai, cho nên câu thứ hai chấp nhận có thời xưa lợi, độn Bồ-tát và người Nhị thừa. Trước mật nhập Trụ và nay tại kinh này bắt đầu nhập Trụ, đều tiến nhập Hạnh, đều gọi là cải đổi hiệu. Hoặc hiển hoặc mật, đến nay không đồng. Câu thứ ba và câu thứ tư đều chuẩn theo câu thứ hai, cho nên biết cải danh cũng thông ở sau. “Dạy bảo binh lính” cũng như vậy. Chứng vị tuy như vậy, cũng có xưa nay, nghe kinh có lợi ích mỏng nhập phẩm nhập tín. Lược thì như trước nêu hai chúng Đương cơ và Kết duyên, đầy đủ thì như trong Huyền Văn nói lợi ích diệu thuyết. Cho nên, biết như vậy trước cũng có nghĩa Thông Khai… bốn danh. “Ngang rộng dọc sâu”, là ba câu trước chẳng phải không sâu rộng, nay đến Địa vị tối đắc danh kia.

Tiếp, “Suy nghĩ xưa…” : là tổng kết. “Ngang dọc giải thích suy nghĩ xong”: Nếu tổng biệt đối nhau, thì lấy tổng làm ngang, lấy biệt làm dọc. Nếu biệt thích, thì câu đầu song hiển ngang dọc hai giải thích, ba câu dưới văn chinh là nêu dọc, vị vị kiêm ngang. Thiêp Pháp sư nói: Luận giải thích văn đây lược không có công dụng nương tựa, khó có thể nương đủ, cho nên văn nay cũng không hoàn toàn xử dụng.

“Thiện nam tử”: Thiêp Pháp Sư nói: Lìa năm hạng người bất nam, trong Pháp Hoa chúng chỉ lìa bất nam, vừa mới kham thọ Thanh văn vô tác trong một duyên có ít phần mà thôi! Nay nói danh này Đại tiểu thông chung. Đến nay nên nói khai bảy phương tiện làm thiện, kham nghe độc diệu gọi là “nam”. “Nam tử” tức là trượng phu, đầy đủ như trong Đại kinh. Đại kinh vẫn bao hàm Phật tánh của Tam giáo, đầy đủ như Huyền Văn dẫn nói: Người Tu-đà-hoàn Phật tánh như (nhũ) sữa tịnh… lẽ nào trong Tiểu giáo có Phật tánh? Cho nên biết Đại kinh, sau Pháp Hoa, khai phương tiện giáo, khắp lập danh Phật tánh. Danh thông mà nghĩa biệt, nên “nam tử” thì danh thông tại năm thời, nghĩa thì biệt tại các giáo.

Tiếp, giải thích “lược tằng” đầu tiên nói “tiểu phân minh”: lại tạm theo ngôn thuyết thứ lớp dần mà nói, ý thì không như vậy. Lúc trước nói “duy thổn” (suy xét), lại tư duy rộng lược, cho nên biết “lược tằng” lại thuật tư duy. Trong đáp chỉ lược nêu điềm lành hào quang, hào quang chiếu phương khác nghĩa đương nhiên là nơi các cõi khác. Nói chung, thì đều đáp cõi này, huống chi văn nói các cõi khác văn vốn làm thành đây, cho nên biết “suy nghĩ” thì là đây, “lược tằng” thì là kia. Sở dĩ “phân kia đây” là vì trong “suy nghĩ” có nói Đức Phật nay, trong “lược tằng” có nói Đức Phật quá khứ. Dùng nay tiêu biểu đây, dùng quá khứ tiêu biểu kia. Nếu như vậy, “quảng tằng” cũng có nói quá khứ, thì vì sao song biểu? Trong đáp rộng thuật đầy đủ ba thứ đồng, có thể dùng ba thứ đồng để hiển bày đây. Lại, có nói quá khứ, và dùng quá khứ tiêu biểu nơi khác. Nếu như vậy, trong phân biệt đáp không nói quá khứ, thì vì sao song phê phán? Đáp: Nay thấy điềm lành này cùng bản không khác, bản tiêu biểu quá khứ. Ngày nay Như Lai tức hiển đây, song thuật quá khứ hiện tại cho nên tiêu biểu cả hai phân biệt. Nói “tằng kiến” (từng thấy), tức là thấy rộng, chỉ là trong cách nói trình bày thứ lớp lược rộng tăng dần, làm cách đáp, nghi thức khách chủ đó thôi. “Muốn khiến…” nói muốn khiến là luận đàm ý giáo. “Văn” tức Văn tuệ, “Tri” tức Tư tuệ. Tức khai hiển Văn Tư, cho nên nói “khó tin”. Đã có hai tuệ, ắt nhập Tu tuệ, lẽ nào Phật nói pháp khiến chỉ riêng có hai. Chỉ dùng “Tri” để giải thích “Tu” chưa thể hoàn toàn đúng, cho nên chỉ nói “Tư”. “Cũng là Tín, Pháp”: Tức viên hai hạnh. “Văn” tức Tín, Hành, như phẩm Tùy Hỷ Pháp Sư… “Tri” tức Pháp hành như phẩm An Lạc Hạnh… Lẽ nào hai hạnh hoàn toàn không có Tu tuệ, như tam chu thọ ký và công đức bản môn… đều một phen phân biệt; cho đến nói: “Nếu nghe kinh này tư duy tu tập…” Cho nên, trong kinh văn theo lệ đó không ít, vì một bộ văn hễ luận về nhập pháp thì không ra ngoài hai hạnh. Hai tuệ hai hạnh đắc nhập các vị, cho nên nói “muốn khiến” là ý thông từ đầu đến sau. Nói “Thâu vô lượng để quy về một”: Chỉ nói ý đại pháp, nghĩa đương là tổng. Tiếp, nói “Cải đổi tam thừa” : là chỉ pháp Thập hạnh; Tiếp, nói “Sáu phen” chỉ đánh trống, là Thập hướng. Tiếp, nói “chư Phật…” chỉ diễn nghĩa Thập địa. Tiếp, nói “ Khai…” : là chỉ lui lại pháp vũ Thập trụ. Cho nên, biết “lược tằng” trở lại thuật suy nghĩ kỹ, điềm lành tiêu biểu sở vi, cho nên nói “muốn khiến”. “Nhất thiết thế gian…”: Nếu không thông chỉ các vị đều khai Phật tri kiến thì lẽ nào được nói “nhất thiết…” ư? Như văn dưới nói: Tất cả thế gian nhiều oán “khó tin”. “Khó tin” nghĩa thù thắng hơn bốn mươi năm mới tin hiểu.

Tiếp “quảng tằng”: lại rộng nêu hai thứ trên. Nói “ngang dọc”: cõi này cõi kia đối nhau gọi là “ngang”; nay và xưa đối nhau, gọi là “dọc”. “Thông hiệu”: Ứng thân đều đầy đủ mười hiệu cho nên gọi là “thông”, Pháp thân đối Ứng thân mà được nghĩa lập. “Nay thân ta đây” tức là Pháp thân. Cho nên biết Ứng hiệu tức Pháp hiệu, nhưng giải thích Pháp hiệu cần phải từ pháp lập, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Lại, trong các kinh có khi liệt kê chung cả ba hiệu, tức ba hiệu đầu trong mười hiệu. Cho nên Tịnh Danh nói: “Nếu ta phân biệt nghĩa ba câu đây thì cùng tận kiếp cũng không hết”. Căn cứ ba đối với bảy, cũng là ứng có thể biết, hiệu Ứng thân vô tận huống chi Pháp thân ư! Biệt hiệu thì bất định, như Kinh Lăng Già: Phật bảo Đại Tuệ: “Ta ở trong cõi Sa-bà này có ba Tăng-kỳ trăm ngàn danh hiệu”. Cũng như trong kinh Hoa Nghiêm, Phật bảo: “Đức Như Lai ở trong tứ châu thiên hạ này có mười ngàn danh hiệu. Ở mỗi một thế giới trong mười phương thế giới, Đức Như Lai đều có mười ngàn danh hiệu. Cho đến mỗi thế giới trong mười phương tận pháp giới hư không giới, Đức Như Lai có rất nhiều danh hiệu không đồng”. Đức Phật đây đã vậy, chư Phật cũng đều như vậy. Phật hiệu đã vậy Phật thân, thuyết pháp cũng lại như vậy. Công đức của mười hiệu như Hương-khẩu Tỳ-kheo trong kinh A-Dục- Vương nói v.v… Nếu vậy, một đức Phật đây mà danh hiệu còn chẳng đồng, thì vì sao nói danh Phật đây đồng với Phật khác? Lại giải thích biệt danh, dùng định tuệ tự tha để giải thích. Đức Phật nào mà không có tự tha định tuệ đây, mà chỉ riêng nói Đức Phật Đăng Minh cùng Đức Thích-ca đồng? Đáp: Ứng Phật đắc danh tùy duyên đều khác biệt, nghĩa kia dù đầy đủ cũng không sánh bằng Đăng Minh như trong kinh LăngNghiêm: “Kiên Ý hỏi thọ lượng, Phật khiến đến Đông phương quá ba vạn hai ngàn cõi Phật, có Đức Phật hiệu Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương. Kiên Ý đến hỏi xong bạch Phật rồi. A-nan nói: Như con hiểu điều Phật nói, thì đức Phật kia là tên khác của Đức Thích-ca”. Cho nên, nói Chiếu Minh chinh là cùng Nhật Nguyệt Đăng Minh nghĩa đồng. Thiêp Pháp sư nói: “Nhật” phá sự tối tăm, “Nguyệt” tạo ánh sáng. Nhật thành nhiệt nóng, Nguyệt mát mẻ. Nhật khai các hoa hợp thanh hoa, Nguyệt hợp các hoa khai thanh hoa. “Đăng” ở nơi nhà kín năng phá tan sự tối tăm, như trí kia năng phá lậu hoặc. Tuy nhiên, hoàn toàn không hợp dụ, huống chi cũng không có thấy ba thứ đồng. Vì dựa vào nay hợp mới tại giáo này, mới có thể dựa vào định tuệ tự tha trước, cho nên nói tùy duyên mà danh xưng riêng biệt, nhưng nghĩa thì không sai khác. Tiếp, trong “Thuyết pháp đồng” tức năm thời đồng. Như Hoa Nghiêm phẩm Tứ Đế nói: “Văn-thù bảo các Bồ-tát: Tứ Thánh đế ở cõi Sa-bà đây và mười phương thế giới mỗi mỗi đều có bốn trăm vạn ức mười ngàn danh hiệu”. Kinh Đại Tập cũng vậy. Cho nên, biết các kinh Đại thừa phần nhiều là biện rõ sự sai khác, chỉ có kinh này đặc biệt là hiển đồng. Chẳng những Phật đây cùng Phật khác pháp đồng, mà còn chính mình và người đều nhập một vị. Cho nên văn dưới nói: “Nhân duyên Thí dụ đều đến Chủng trí”, vì vậy các kinh không nêu ra ý khác. “Đại thừa thất thiện (bảy thiện)”: đã nói thông Đại Tiểu thừa trong luận lại dùng ba thứ Văn Tư Tu mà làm ba thời. Thành luận lại dùng “thuyết thiếu niên, trung niên, lão niên” làm ba, không đồng người nay. Người nay thì già được nói là không phải “Thiện”. Lại, cũng dùng tam thừa làm ba, cho nên nói thông. Nay văn dùng ba đoạn làm ba, kia nói vẫn thông mà nghĩa kia thì biệt. Thời tiết đã vậy, sáu thứ còn lại chuẩn theo đây có thể biết. Nay kinh nên nói Viên thừa bảy thiện. “Bát âm (tám âm)”: 1. Cực hảo. 2. Nhu nhuyến. 3. Hòa thích. 4. Tôn tuệ. 5. Bất nữ. . Không lầm. 7. Sâu xa. 8. Không hết. Các giáo đều có cái khác nhau tùy theo sở tuyên, cho nên phán giáo không đồng. Tùy theo sở y khác nhau mà phán định Phật khác nhau. Từ xưa đến nay, giáo lý không có hai đường. “Giới nội giới ngoại…” : Biệt Viên hai giáo nhiếp hai xứ kia, tổng gọi là “mãn tự” cho nên gọi là “viên mãn”. Trong câu “Sư nói hành thiện phạm hạnh…” thì “Sư” là ngài Nam Nhạc. “Lại, sơ trung hậu thiện…”: là lần nữa lại nêu cách giải thích khác. “Kim Quang Minh”: Như Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh quyển thứ tư nói: Kinh này hy hữu khó lường.

“Sơ thiện, trung thiện, hậu thiện” nghĩa kia cứu cánh. Tuy không nói rằng lời nói kia thuộc loại xảo diệu, nhưng do các văn khác theo lệ có thể dùng ý biết. Bộ tuy là Phương-đẳng, mà nghĩa thì viên cực cho nên có thể dùng chứng minh đây. “Tiền Tâm” nghĩa là trước Trụ. “Trung tâm”: là đăng Trụ. “Hậu tâm”: tức Diệu giác. Lý giống như chưa hiển, gọi là “Bất tư nghì”. Phần chứng Định Tuệ, gọi là Trang nghiêm. Hoặc (phiền não) rốt ráo tận, gọi là “Bất hoại”. Ba điều này, Như Lai hể có thuyết thì đều đồng nhất thiện. Sơ tâm còn gọi là Bất khả tư nghì, huống lại trung hậu sở thuyết đều thiện. Cho nên cũng cùng trong Thuyết pháp đồng là Thời tiết đồng, cho nên chỉ lập ba thời, ngoài ra đều thiện. Có người nói: Câu đầu tổng, sáu câu sau biệt, cho nên lìa bảy làm mười. Vì lìa ba câu đầu, còn lại câu 4. Nghĩa sâu. 5. Ngữ xảo. . Vô tạp. 7. Cụ túc. 8. Thanh tịnh. . Tiển bạch. 10. Phạm hạnh. Phải phân chia Đại tiểu kia, trong Tiệm không nêu Phương-đẳng Bát-nhã chỉ dùng lục Ba-la-mật để phác thảo, chỉ vì là văn lược. Đã nói đáp: các việc tu hành bên trên lẽ ra đầy đủ như trên. Đốn tiệm đã đồng ngang dọc không sai biệt cho nên biết nhân ánh sáng mà ngang thấy, chẳng những là đầu mối sinh nghi để Di-lặc hỏi khác mà còn là điềm báo trước Văn-thù đáp đồng. Lại, chẳng phải chỉ hai bậc Thánh vấn đáp sâu xa phù hợp, mà còn vốn là huyền chỉ Như Lai hóa đạo, cho nên chủ bạn cùng nhau bí mật thiết lập một đường, khiến thích hợp cơ duyên chúng sinh nghe đều khế hợp.

Hỏi: Trước trong phần hỏi thì dùng Bồ-tát làm Tam tạng Đại thừa, sau Tam tạng mới nói các thứ, tức chỉ hai vị Sinh tô và Thục tô, nay tại sao lại dùng Bồ-tát lục độ để đáp các thứ?

Đáp: Phàm các vấn đáp dù là văn kệ tụng hay trường hàng đều có rộng lược, đây văn đối trên nên chia làm ba ý: 1. Trên rộng nay lược cho nên nay Tiệm ban đầu chỉ nêu Nhị thừa. 2. Trên ly nay hợp, cho nên trên Bồ-tát biệt khai Sinh tô và Thục tô, biệt nêu các giáo. 3. Bên trên nêu đủ chánh phụ, tức thông liệt kê Tam thừa. Nay chỉ luận chánh, lại nói Nhị thừa.

Hỏi: Xét văn thấy xu thế nói khiến đắc Bồ-đề thuộc về câu nói Bồ-tát, vì sao phân lìa ra, đối vị không đồng?

Đáp: Có hai thứ: 1. Nghĩa ý: thiết lập các vị trước gốc là Phật thừa, muốn khiến đắc dùng đối ý gốc. 2. Đáp ý: Hỏi đã đầy đủ ý vượt đến đầu cuối, đáp cũng tùy theo thuật đầu cuối, không thể chỉ theo văn lược khiến thiếu đại chỉ, cho nên tùy xu thế của câu hỏi dựa theo nghĩa mà có ly khai, huống chi vấn đáp đây tùy kiến giải mà biện rõ. Tin rằng chẳng phải hai Thánh hư cấu nói nguyên do, mới có thể gánh vác khéo léo giải thích văn kinh này. Dẫn việc quá khứ vô lượng kiếp xa xưa đồng với việc một vạn tám ngàn cõi ở phương Đông, nghiệm xưa hiểu văn chưa thành đáp vấn.

“Thành Nhất thiết chủng trí”: Trong văn nêu năm Đức Phật đều nói “Vì khiến…” cho đến “Chủng trí”, cho nên biết đồng. Do đó “xuất định” dẫn đồng mà lại đồng với những cái thấy trong hào quang cho nên trong văn nêu năm Đức Phật nói các thứ củng không ngoài bốn vị. Trong câu “nêu Phật nay hẳn phải cùng với xưa đồng vân vân”, thì “vân vân” là: Khiến lại phân biệt ba thứ đồng tướng trạng. Phật nay đang tại định, cho nên biết là sẽ thuyết Pháp Hoa bởi vì Phật xưa đã thuyết kinh Pháp Hoa, ba thứ đều đồng xưa. Vì thế cổ Phật sáu điềm lành và do bốn vị trước ấy mà cùng với nay, nay đồng đã đồng, chỉ có thuyết kinh Pháp Hoa gọi là sẽ đồng. Cổ sư không dùng sáu điềm lành mà nói nay đồng, đầy đủ như dưới phá. “Đầu tiên dẫn” cho đến “hỗ tương nêu”: là Văn-thù khéo nói vì tránh nhiều văn rườm rà, cho nên Văn-thù thấy thời đều đầy đủ năm vị. Nói “chỉ trước”: là dùng giữa và sau để chỉ một đức Phật đầu tiên là trước. Hai vạn là tiệm, chỉ tối sơ cho đến sau cùng. Tối hậu là đốn, chỉ hai vạn cùng với đầu tiên. “Mà không dẫn hai vạn trước…”: là lại dẫn đồng, đều là đốn khai tiệm. Quá khứ đã vậy, nghiệm thì biết cõi khác không quá một vạn tám ngàn, bởi vì ngoài quá đây thì không đồng. Nếu nói vô lượng thì tại sao ngăn ngại chiếu đồng? Nếu y hiện số thì trung gian không đồng cũng không chiếu, huống chi ngoài một vạn tám ngàn. Tuy nhiên cũng là một phen (nhất vãng) hào quang chiếu chỉ khiến thấy một vạn tám ngàn. Đáp chỉ dẫn hai vạn Đức Phật quá khứ, đủ để tiêu biểu đạo đồng, đủ để có thể giải thích nghi niệm. Cho nên, xuất định thì dẫn mười phương ba đời, đâu chỉ như trước đã thấy đã dẫn.

Hỏi: Nếu vậy thì tại sao có thể dùng số mà làm sở biểu?

Đáp: Phàm có tiêu biểu thì cũng đều căn cứ hiện số, bổng đến ba vạn lẽ nào không tiêu biểu ư? Do pháp môn tự tại vô tận, huống chi chánh vì sở biểu! Vả lại đến một vạn tám ngàn, hai vạn Đăng Minh, nếu giải thích theo Quán tâm thì vẫn tiêu biểu hai vạn, như trước hai ngàn tức hai vạn. Như Bồ-tát tám vạn, căn cứ đây nói có thể biết. Nếu đầy đủ thì dùng hai vạn để tiêu biểu, tức nêu Quyền Thật đầy đủ.

“Họ Phả-la-đọa…”: Chân Đế giải thích là một họ trong dòng Bàla-môn. Kinh Bản Hạnh Tập dịch là “trùng tràng”, chữ “trùng” là bình thanh. Hết thảy chư Phật đều không ở hai họ hạ tiện còn lại, còn dòng tôn quý là Sát đế lợi, người đa văn thì thuộc dòng Bà-la-môn. Lại, trược khó điều phục là dòng Sát-lợi, thanh dễ điều phục là Bà-la-môn.

Hỏi: Ba đồng phán xét văn, dòng họ sao làm khác?!

Đáp: Dòng họ thuộc Tổ phụ, tên thì tùy theo đức của mỗi người, dù cho dòng họ khác chưa đủ gọi là trái. Nếu tác nghĩa đồng thì đều là lý kia, tôn quý và đa văn nghĩa đồng danh biệt, như trong hợp danh, lẽ nào vì xưa nay đồng danh Thích-ca.

Nói “Năng nhân”: Cũng là căn lợi nhanh chóng không trái vật tình cho nên được người trong nước theo như chợ. Cái gọi là “không hai” tức đều viên mãn chúng tâm, cho nên gọi là “nói lời viên mãn” (mãn ngữ). Mãn ngữ chỉ là Năng nhân. “Một, tám vương tử” cũng lại như vậy. Nếu vậy thì mười phương chư Phật vị nào mà chẳng lợi căn bình đẳng? Đáp: Bản dẫn khiến đồng, cần gì phải cầu khác? Huống chi nay chỉ dùng ba thứ đồng theo lệ, danh đồng chính là từ phương tiện đến. Như năm Đức Phật dẫn đồng, mười phương đều từ đốn khai tiệm, đều khiến đến Nhất thiết chủng trí. Đây tên của tám người con, làm bốn đối để giải thích, chỉ được giải thích theo Quán tâm, ba thứ còn lại thì hoàn toàn không. Kinh dạy: “Mỗi vị đều lãnh trị bốn châu thiên ha”, có chỗ nói: “Kim luân ắt không gặp Phật”, đây thì không như vậy, các vị ấy đều không theo lệ. Nói “phát tâm Đại thừa”: Chỉ là bốn hoằng thệ, các vị Thanh-văn này ở chỗ Đức Phật Đại Thông trước đã từng phát tâm, huống chi được hội nhập mà lại gọi là Tiểu ư? Nhưng “Phát tâm”: Tuy kinh Hoa Nghiêm nêu mười thứ mà không ngoài bốn hoằng, đầy đủ thì như trong Chỉ Quán quyển một nói rộng. “Nay chưa phát tích…”: Cũng nên nói khai quyền. Nói “phát Bản” là từ chỉ bày Tích mà nói.

Hỏi: Tập kinh là ở sau phát Bản, vì sao vẫn nói Thanh văn?

Đáp: Đây căn cứ lúc Văn-thù đáp vấn, vẫn là Thanh văn.

Hỏi : Nếu vậy thì đầu kinh không lẽ nói cũng gọi là Thanh văn?

Đáp: Theo xưa liệt kê như thế, đầy đủ như trong giải thích Tựa.

Cho nên, giải thích thì trước cần phải thuận theo kinh hiện văn thứ lớp, vả lại tán thán Tiểu kia. Lại, căn cứ giáo và dùng Bản tích, lựa chọn ý văn căn cứ nay để nói.

Hỏi: Đây nói “phát Bản” cùng “phát Tích” có gì sai khác?

Đáp: Đại đồng Tiểu khác. Phát là khai. Hoặc là Tích che Bản, khai cái năng che kia gọi là “phát tích”. Tích đã phát rồi thì thấy Bản kia. Căn cứ biên hạn sở khai kia, thì gọi là “phát Bản”. Vì che Bản, nên Tích là Năng che, Bản là Sở che.

Căn cứ biên hạn sở trừ, gọi là “phát Tích”. Căn cứ biên hạn sở kiến, thì gọi là “phát Bản”. “Văn dưới”: là đầy đủ như trong phẩm Ngũ Bách Thọ Ký nói, thì biết hết thảy Đầu-giác, Thanh-văn đều là Bồ-tát. Từ “Xưa nêu” cho đến “thì có”: là giải thích nghi. Sợ nghi xưa cùng nay, nay đồng ứng tất cả đồng, vì sao nay đầy đủ năm Tựa mà xưa chỉ có hai? Đầu là hiện tướng, từ “Di-lặc nên biết” trở xuống: là hoài nghi. Từ “Lúc bấy giờ có Bồ-tát” trở xuống : là tiện luận thuyết kinh. Sở dĩ xưa chỉ có hai, là có hai ý: Trước dẫn nêu xong. Tiếp “ Đã nói…” là giải thích trong đó có hai: Một là nêu văn không nghĩa có, Hai “Lại nếu…” là nêu ẩn xưa hiện nay. Từ “Chủ yếu đáp hai lý kiêm….”: là lược. Nếu đầy đủ dẫn ba Tựa để đáp câu hỏi của Di-lặc thì trở lại thành Văn-thù dẫn xưa đáp, có gì mà không được? Chỉ Văn-thù xét biết tâm niệm của chúng lúc ấy đều hướng đến mình. Cho nên Di-lặc nói: “Bốn chúng đều mong ngóng nhìn ngài và nhìn ta”. Là do ẩn xưa ba mà chỉ thuật hai, khiến biết sau vấn đáp tức nói Pháp Hoa, khéo trình bày điều mình thấy để thỏa lòng mong muốn của hội chúng. Thích hợp thời thì có gì thêm? “Lại nếu…”: ý thứ hai, chỉ duyên không trình bày xưa đáp. Cho nên dùng lời mình đầy đủ từ đầu đến cuối. Đầu nói Pháp Hoa cuối cùng tận diệt độ, cho đến khi kết hội mới kết thuật, nói: “Nay thấy điềm lành này cùng xưa không khác…”, cho đến kệ nói: “Ta thấy Phật Đăng Minh xưa đã phóng quang như đây, bởi thế biết Phật nay, muốn nói kinh Pháp Hoa” chỉ lợi vật tùy căn cơ, đâu có nhọc phí lời. Cho nên ẩn vấn đáp chỉ thuật lại điều mình thấy. Nếu vậy thì đâu ngăn ngại thuật chúng? Đáp: Căn cứ lúc trước khi thuyết kinh Vô Lượng Nghĩa không nói có chúng vây quanh… Vả lại nói không có chúng mà nói kinh Đại Thừa Giáo Bồ-Tát Pháp, số Bồ-tát được giáo hóa đến hai mươi ức, lẽ nào phải chúng ư? Huống chi hai thứ này bao gồm ba thứ còn lại thì đâu cần thuật. Nếu vậy thì sao không thuật vấn? Đáp vấn ắt có đáp tướng tùy theo phải thiếu. Trong phần đầu nêu “người sở nhân”, thì: trước là thuật không đồng làm trưng dẫn khởi, tiếp theo là thuật Diêu sư lầm giải. Nói “nhân thác”: là người lưu thông tức chỉ Diệu Quang. Nói “không phải trực tiếp” là không như nay, Đức Phật xưa vừa xuất định thì thuyết kinh, Đức Phật nay xuất định thì trực tiếp nói với Thân-tử. “Đức Phật kia…” là tiếp nêu Diệu Quang chẳng phải là người được đức Phật kia từ định ra bảo trực tiếp. “Như nay…” là nêu rõ Thân-tử chỉ kham đối với Phật bảo, mà chẳng kham lưu thông cho nên nói “chưa chắc”. Tiếp, “nhân thác…” nêu rõ Đức Phật kia lưu thông thuộc nơi Diệu Quang cho nên nói: “chẳng ai bằng”. Tiếp, “Như nay…” là dẫn người nay lưu thông đồng với Diệu Quang kia chẳng phải không có, hoặc là bằng. Đây Đức Phật hoằng tuyên không có ai bằng Văn-thù không thể là thường cho nên nói “không như”. Tiếp “Phật nay…”: nêu Phật nay đã không tán thán Thân-tử xưa Phật sở dĩ không tán thán người được trực tiếp bảo, cho nên biết xưa nay đều tán thán người hoằng thông, cho nên nói “hà tất”. “Hà tất”: là lời không tán thán. “Văn-thù…” là lập lại dẫn tán thán người lưu thông. Tiếp, “Lại xưa…” là thuật Cổ sư, “dùng Dược Vương làm sở nhân”: là chấp nhận mà không dùng. Nay sư thấy đầu phẩm Pháp Sư nói: Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nhân Dược Vương Bồ-tát để bảo với tám vạn Đại sĩ, tức dùng Dược Vương làm người sở nhân. Nếu dẫn Dược Vương so sánh Diệu Quang, thì gần giống có thể như vậy, mất đi sâu sắc của Thân-tử thì không thể. Chỉ nói văn có nói sở nhân cũng là lời đối cáo. Lại nói có thể như vậy. Nói “dẫn xưa để chứng minh nay có chút không giống” tức là nếu dẫn xưa Đăng Minh chánh nói người đầu tiên đối bảo để chứng minh Dược Vương nay thì không giống, so sánh với Thân-tử đây thì giống. Nói “chút ít”: Cũng đồng Văn-thù. “Hoặc nói…” lại dẫn lời cổ sư. Nói “bất tiện”: là khi giải thích nghi thì Như Lai tại định, khi xuất định thì nhân căn cơ chẳng phải nhân Văn-thù. Sau khi xuất định thì chỉ nói “Bảo Xá-lợi-phất”, đâu được đem việc người giải thích nghi trong khi Phật tại định, để làm người đối bảo khi Phật xuất định ư ? “Nay nêu…” là bài xích xưa giải thích không đúng, cho nên tổng nói “không như vậy”. “Kinh nói: Lúc bấy giờ đức Phật Đăng Minh từ trong Chánh định mà dậy nhân Diệu Quang Bồ-tát mà làm…”: là trách xưa. Văn nói nhân Diệu Quang mà nói kinh, đâu được nói nhân Diệu Quang mà lưu thông. “Đây mới…” là trách hai sư. “Công” là rõ ràng, “kháng” là chống cự, hai chỗ đều là xuất định đối bảo, bảo là lời dạy bảo. Nếu dùng Diệu Quang làm lưu thông, Dược Vương làm đối bảo, thì trái kinh chống lại Phật, đâu có liên quan đến giải thích kinh. “Xưa nhân…” là dẫn các việc đồng chẳng phải chỉ một đường. Nói “Tích môn đã xong…”: chẳng phải nói Tích môn hoàn toàn xong, mà chỉ là xong chu Thí thuyết. Liền nói “Bảo Xá-lợi-phất, người vô trí đây…”. “Nay xưa…” là tổng kết bài xích. Nói “lại làm sao thắng” : là trước giải thích nạn rằng: Xưa đã phát Tích thì gọi là Bồ-tát, nay chưa phát Tích thì gọi là Thanh-văn, các việc đã đồng nên sở nhân cũng đồng. “Mà cận…” là bài xích dẫn Dược Vương. Mà cận bỏ ban đầu Chánh thuyết, viễn chọn lưu thông làm đầu. “Lúc bấy giờ…” là thuyết pháp danh đồng trong kinh, chỗ tán thán cùng Vô Lượng Nghĩa lời câu không khác. Nếu giải thích trong đây, thì “Giáo Bồ-tát Pháp” là y nghĩa tựa trước, chẳng phải ý chánh tông. Nếu làm danh khác thì cùng nay không khác, cho nên không lập lại giải thích. “Hạnh hậu không cảnh”: là sau khi thấy các thứ hạnh của thời Phương-đẳng Bát-nhã thì không thấy hội Pháp Hoa Niết-bàn, mà chỉ thấy việc xây tháp cúng dường, cho nên nói “không cảnh”. Vì vậy nên “Nay Văn-thù đáp….”: là đáp rút từ trong Pháp Hoa hội, tức là sự sau các hạnh.

“Sáu mươi tiểu kiếp như trong khoảng bữa ăn”: sáu mươi cùng năm mươi, bữa ăn cùng nửa ngày, tợ khác chút ít đều là dài mà ngắn cho nên nói “đồng”. Sinh công nói: Lẽ nào thật như vậy ư? Chỉ là tiêu biểu tâm chí trọng pháp nên mượn thời gian nói thôi! Nếu nói mượn thời gian thì nên nói “như sáu mươi tiểu kiếp”, đâu được chỉ nói “sáu mươi tiểu kiếp như trong bữa ăn”, cho nên chỉ là tình, nghĩa là chẳng thật ngắn. Tin Kinh văn nói sáu mươi tiểu kiếp chẳng hư dối, chí nghe pháp được tăng thêm do uy Phật, một phen ngồi quên mất thời gian lâu. Các nhà chú giải, ban đầu dẫn Tịnh Danh rút kiếp làm ngày, diễn ngày làm kiếp, chính là đức Phật rút gọn coi như bữa ăn. Đây là trái kinh, nghĩa là nói bằng, cũng không bằng nói “chí trọng pháp”, chỉ vì nói dựa thời gian cùng kinh trái đó thôi! Dẫn quá ngắn ngủi, bèn nói huống chi huyền môn cận chân nhất, vì sao không dùng lịch kiếp làm số khắc ư ? Tuy lại so sánh giải thích lý xong nhưng chưa rõ. Nay là cho như người thế gian: lúc khổ thì thời gian ngắn mà thấy dài, lúc vui thì thời gian dài mà thấy ngắn. Đây cũng dài ngắn theo tình (thời gian tâm lý). Có chỗ nói “thọ nhận Phật pháp ví như thức ăn ngon nhưng chưa no, thí dụ này hơi thông suốt. Có người đối việc này lập bốn câu, như Trung luận phá. Đây thì không như vậy, ắt chẳng phải thính giả trong đó tu quán, mà chính là Phật lực mà chúng nghe quên cả thời gian. Cho nên, biết Trung luận quán pháp chỉ phù hợp với hàng độn căn đời mạt pháp thôi!

Kinh nói: “Phạm ma…”: “Phạm” tức là chủ Sắc giới, cũng là chủ tam giới, “ma” là chủ Dục giới. “Sa-môn”: Trung Hoa dịch “Cần tức”, là siêng dứt ác. “Bà-la-môn”: Trung Hoa dịch Tịnh hạnh, xuất gia trong ngoại đạo gọi là tịnh hạnh chủng. Người xưa lạm dùng đây để giải thích bốn chúng. Nếu nhiếp chúng đủ thì tại sao lại nói “và thiên nhân” ư? Chỗ liệt bày không đồng đều hướng nêu lên. Trong đây trước nêu chủ hai cõi Dục và Sắc bốn dòng họ nêu thắng, lục đạo nêu thiện, đều lại theo thắng. Lược các đường ác khác: Đều chọn người nhập Phật pháp dễ. Cổ Phật xưa đã vậy, Phật nay cũng vậy. “Ca-diếp Phật…”: Nên nêu rõ Phật cùng cõi nước có tịnh uế Niết-bàn tiến hay không, để so sánh Đăng Minh, vì vậy nên Ca-diếp dùng cõi tịnh. Pháp Hoa xướng diệt tức nhập diệt. “Phật nay…”: Cuối văn trường hàng nói: “Tức thời đức Phật Thích-ca Mâu-ni dùng thần thông lực tiếp dẫn đại chúng đều bay lên hư không, dùng âm thanh lớn bảo khắp đại chúng: Ai có thể ở thế giới Sa-bà rộng nói kinh này, nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập Niết-bàn”. Chỉ nay Phật tuy xướng mà chưa liền diệt cho nên nói “không bao lâu”. Phẩm Tín giải cũng nói: “Sắp chết không bao lâu nữa”. Do ở cõi uế nên nói bỏ (chuộc) mạng, vì lượm lặt nên giúp đỡ, luật nói thường khiến trụ thế lâu dài. Kiêm quyền nêu rõ thật trợ phát thật, Đới thật dụng quyền hiển quyền lực. Quá khứ thường, vị lai thường, đầu cuối là một. Sắc thân là thường thân bởi vì vô sinh diệt. Tuy đây không đồng mà sự xướng diệt đồng. Trong phần Thọ ký đồng, trước là chánh thuật trưng dẫn câu hỏi. “Việc xưa…” là đáp. “Nếu nói…” là nêu ẩn ý xưa. “Văn-thù khéo luận đàm không phát tích”: là nêu ẩn ý, ý đợi định khởi. Sở thuyết một đời chẳng phải không viên dung, chưa thọ ký Nhị thừa thì hóa đạo không thông suốt. Nay mới bắt đầu liền “thôi công hữu quy”, đâu thể nào Văn-thù bỗng kết thúc tận lý, cho nên ẩn sở kiến đợi Phật xuất định. Nói thọ ký Đức Tạng thời chúng không kinh (sợ) ngạc, cho nên nói “các kinh đều như vậy”. Trong câu “Người chấp giáo thì không kinh sợ vân vân”, thì “vân vân” là: lẽ ra phải trình bày ý “thọ ký, không thọ ký” trong giáo pháp một đời của Phật. Như Hoa Nghiêm pháp giới, chỗ nào không bao hàm? Cách biệt Thanh-văn kia khiến như điếc câm, phần sau tuy có thọ ký mà sự trái nghịch. Thời Lộc-uyển ban đầu nghe chuyên chỉ Tiểu thừa, thời Phương-đẳng thì còn muội, thời Bát-nhã thì còn sinh. Tuy Lăng-già Phương-đẳng có nói thọ ký Tiểu thừa, nhưng Lăng-già chính là mật đối Bồ-tát, Phương-đẳng vì bài xích bỏ Thanh-văn, cho nên một đời giáo văn rõ ràng chỉ có đây. Xin kiểm tra Đại tạng thì mới nghiệm có sở quy. Cho nên người ủng hộ chấp quyền giáo, tức Thanh-văn vĩnh viễn trú Niết-bàn, mà ẩn nói xưa thọ ký Tiểu thừa. Từ sau dùng Bồ-tát lập hiệu, hoặc sợ người nghe kinh nghi sợ giáo, hoặc sợ giũ chiếu để quên sau nghe. Đây trước chưa sợ… Văn nói nơi nơi, cho nên không lập lại luận.

Ý “giải thích nghi”: “Di-lặc” tuy ở trong số tám trăm, vì đi nhiều bỏ tu tập, cho nên gọi là “Cầu danh”. Tuy nhờ nhân xưa phụ giúp Đức Phật Thích-ca, mà đâu được như Diệu Đức các giáo luận đàm đầy đủ, huống chi từng làm thầy giải thích nghi chẳng sai lầm. Nói “mật khai thọ lượng”: Kích động trước thời chúng, mật phát nguyên nhân nghi, lẽ nào tại Già-da vừa thành đạo, mà đã làm thầy vì đệ tử, lúc ấy đệ tử đâu được gọi là tôn kính. Thầy ở hai nơi, thì ai thật nói? Đã là thầy trò không cố định thật, thì Bản tích khó nương tựa (bằng cứ). Cuối cùng cần phải khảo xét tường tận khiến lý có chỗ trở về, mật sinh nguyên nhân kia thì Bản tích mới xét kỹ.

“Chín đời tổ sư”: Nếu luận tám người con ấy đều học với của ngài Diệu Quang, thì tám người con đều coi Diệu Quang mà là Sư phụ. Đã nói tám người con lần lượt được thọ ký, tuy đồng một thầy Diệu Quang nên trước thọ ký trưởng tử, các vị còn lại thứ lớp lần lượt làm thầy. Cho nên được Diệu Quang ở đầu tám đời. Trong tám vị ấy, vị cuối cùng tên là Nhiên Đăng. Nhiên Đăng đã là thầy của đức Thích-ca, vì vậy nên Diệu Quang là tổ của chín đời. “Sinh phi sinh…”: vì thầy trò xen lẫn, nên biết thầy trò sinh thật chẳng sinh. Vậy như thế trước từng diệt, diệt cũng phi diệt, ắt từ lâu từng chứng lý phi sinh phi diệt thường trú. Tích thì thị hiện sinh diệt nên nói “phi…”. Lại, Tích thì khó lường, cho nên nói “sinh phi sinh”. Bản lý diệu cho nên nói “diệt phi diệt”. Bản tích tuy sai khác mà bất tư nghì nhất, cho nên phải dùng thầy trò phi sanh phi diệt để dự mật biểu.

“Hỏi: Di-lặc…”: Xưa tám mươi kiếp thọ lãnh lời dạy của Diệu Quang, tuy không thông lợi đâu được không nghe? Nay được Bổ xứ, trí xưa không thể quên, vì sao mà nay còn sinh nghi để hỏi?

Đáp ý: Đây y quyền đạo không theo thật hành. Thật hành tuy tức từng nghe, đâu ngăn ngại nay vẫn còn do dự. Nhưng nhớ việc xưa từng nghe trong hội Pháp Hoa được thọ ký… cũng nên nhớ xưa từng thấy tướng trong hội Pháp Hoa, nguyên do trước để giải thích nghi. Cho nên biết thật vị Bổ xứ giúp Ứng hóa Phật, chỉ bày trải qua năm vị cũng lại theo Quyền. Vì vậy trong văn, theo Quyền để giải thích.

Tiếp, tổng phần “phân minh phán” thì trước là nêu vượt ý, tiếp là chánh giải thích. Nêu vượt ý: Suy nghĩ kỹ đã suy lường xưa nay, nên biết tư duy thấy đã rõ ràng cho nên nói “không lầm”. Vì pháp đáp thì trước là trưng dẫn, sau là thêm vào, cho nên đến phán xét rõ, phải hiển bày trước chẳng nghi, nên nói “đều quyết định”. Đều nói “tiêu biểu tất cả”, tức đầu sau đều quyết, lẽ nào Văn-thù Đại Thánh trước tư duy sau sẽ thuyết? Tiếp, “Sẽ nói…”: là trong chánh giải thích. “Sẽ nói…” là sẽ nói… hợp với kinh. Khai kinh lấy đó làm tiêu biểu, khai vì hợp điềm lành, lý quyết định không nghi. “Tên Diệu Pháp…”: “Hoa” ắt có liên (sen), như nhân quyết định khắc quả, cho nên biết sẽ nhập diệu nhân, quyết định dụng bốn loại mưa hoa làm tiêu biểu. “Giáo Bồ-tát…”: Từ đây về trước các căn cơ vẫn còn cách biệt, bắt đầu trong pháp hội này căn tánh muốn thuần thục, thấy điềm lành thì vui mừng sẽ nhập Hạnh, Lý; định dùng người vui lấy đó làm tiêu biểu. “Phật Sở hộ niệm…”: trong lý sở hộ thì đất không chấn động, muốn niệm mở rộng khiến sẽ nhập quả. Nhập quả kiến lý, lý là sở hộ, cho nên dùng đất động làm tiêu biểu kia. “Kiêm tổng nhập định…”: bốn điềm lành tổng do trong định mà thành. Thuyết pháp tuy tức không chuyên do định, mà thuyết là tuệ tánh, toàn định làm thể, cho nên khai định hợp định tổng nhiếp Giáo Hạnh, Nhân, Lý.

“Có người…”: là thuật xưa, chính là hiện điềm lành thời đồng cho nên được dùng điềm lành làm nay. Tàn hết mới gọi là “đã rồi”. Vì sao Phật tại định, mưa hoa động đất rõ ràng, chúng vui vẽ, hào quang sáng đầy mà người xưa nói “đã rồi”? Là vì đặc biệt không theo văn, mà chỉ nói pháp vừa dứt! Huống chi chúng còn ngồi tại pháp hội chưa giải tán, thế nên nhiều điềm lành đều gọi là “nay”. Cho nên dẫn văn nói : “Nay thấy điềm lành đây”. Nay vì sao ngăn cách điềm lành thông suốt, mà cho rằng đây thuộc về điều sẽ đến, cho nên nói “sẽ thuyết”? Trước nói “xưa đồng vân vân” thì “vân vân” là: chánh chỉ trong đây. “Cho nên tác…”: là xác định sáu điềm lành là nay, đầy đủ gồm hai nghĩa: 1. Có văn chứng, văn nói: “Nay thấy điềm lành đây”. 2. Suy tìm lý: Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa sự xong, thì chúng vẫn còn, Phật nhập định. Lại, văn nói: “Bấy giờ Đức Thế Tôn từ tướng lông trắng giữa chân mày phóng ra ánh sáng”. Nhĩ thời là đang lúc bấy giờ. Nếu nói mưa hoa dừng đất yên tĩnh là đã đồng, thì Như Lai cũng nên dã từ định dậy.

Trong kệ không tụng phần Suy nghĩ và Lược tằng. Kệ vọng trường hàng ý rộng lược, đều có phương kia (làm) để giải thích nghĩa cho nên vì nhiếp trì. Xen lẫn còn lẫn mất, mà vẫn không mất ý chỉ, huống là đáp pháp đâu cho từng bước tiến dần. Trường hàng đã nêu khách chủ lễ túc (chân), kệ tụng chỉ nêu đại cương. Đã có “quảng tằng” phân biệt rõ, cho nên không nêu “lược tằng” và “suy nghĩ”. “Ở trong phần quảng tằng” cho đến “trung gian”: nêu trước nêu sau, trung gian so sánh có thể biết.

Tiêu biểu “Vô vấn tự thuyết”: bắt đầu phẩm Phương Tiện, Phật từ Tam-muội dậy, bảo Xá-lợi-phất…, rộng tán thán lược tán thán cõi này cõi kia, dựa nói, tuyệt nói, hoặc cảnh hoặc trí. Đây chính là căn bản của một kinh, là chức vụ chủ yếu của năm thời. Việc này không thể xem thường, cho nên phải tiêu biểu trước, tức là một trong mười hai thể loại kinh. “Hiện các…”: Đều chỉ bốn hàng cho nên gọi là “tổng”, trong đó sáu điềm lành văn tướng vẫn sai biệt. Đầu một hàng tụng thuyết pháp. Tiếp một hàng tụng nhập định. Tiếp hai câu tụng mưa hoa, chỉ thêm trống trời để trợ giúp diệu nhân. Tiếp nửa hàng tụng chúng vui. Tiếp nửa hàng tụng đất động. Tiếp một câu tụng phóng quang. Không thể phân nhỏ, chỉ nói tổng. Vì kiêm cả trống trời. Trời rồng cúng dường không rõ rệt để nói là vui. Nên lại nói là “tổng”, bởi lý do này. Trong phần tụng cõi khác: Đầu trong tụng lục thú, ba hàng chia làm bốn: Đầu nửa hàng tụng lại tổng điềm lành. Tiếp một câu chánh nêu lục thú cho nên nói “tất cả”. Tiếp trong một câu tổng nêu nhân quả sinh tử và xứ, hai chữ “sinh tử” là tổng nêu. “Nghiêp” nêu nhân sinh tử, “báo” nêu quả sinh tử. “Xứ” tức hai mươi lăm cõi, cũng cùng đây đồng. Tiếp một hàng nêu cõi sở y. Văn trường hàng trước và trong vấn đáp, đều không nói hào quang sắc màu. Đến đây mới nói, thì trước chắc là không nói. Tiếp một hàng nêu rõ các thú cúng dường, tuy nói cúng dường nhưng ý tiêu biểu căn cơ thành. Phải biết ở phần trước cũng chẳng phải không có.

Hỏi: Đã nói trang nghiêm thì là Tịnh độ, đã nói đạo đồng thì đâu liệt Tịnh độ ư ?

Đáp: Tịnh do hào quang chiếu vốn đầy đủ lục đạo. Tịnh độ thì không có tên ác đạo, cho nên biết chẳng những chỉ có sắc tịnh do hào quang mà còn có các báu đầy đủ.

“Đều cúng dường” là chỉ một vạn tám ngàn cõi. Trong câu “Căn cứ bốn giáo thì có thể biết vân vân”, thì “vân vân” là: bốn căn cơ đã khắp nơi các thú, bốn Đức Phật, cho nên bốn giáo đều có đạo chân thật, một tòa nhậm vận ba mươi bốn niệm, nhất niệm tương ưng không thêm công lực. Hai xứ Diệu giác vốn được tự nhiên, cõi khác không thấy Đại tiểu lẫn lộn. Tiếp theo “Lệ như…” dẫn lệ để giải thích “tự nhiên”, chỉ nêu Tiểu dụ Đại. “Thất sinh…”: Ý đồng trước hỏi “Nếu nói chân đạo tự nhiên ba giáo nhập chân, thì cần gì nghe pháp?”. Vì trong đáp “như thuyền thuận dòng gặp được gió”, cho nên dẫn Tiểu làm ước lệ. Như Thất sinh (bảy đời) nghe pháp mà còn “diệt” đến một đời hai đời, huống chi các Bồ-tát, lẽ ra biện minh đủ tam quả Gia-gia, Nhất lai, để so sánh Địa Trụ chân đạo vị. Nay trong hào quang thấy ứng đều là quả Phật, nghĩa có thể thông nhân. Đã có Bản tích bốn câu không đồng, sao không có một cõi bản thấp tích cao, bản cao tích thấp và cùng đều thấp, bản tích đều cao? Lý lẽ là như vậy. Cho nên, “tự nhiên” xứng theo lệ kia thật nhiều. Nếu nói Pháp, Báo thì nên căn cứ Biệt Viên, cho nên chú thích “v.v…”. Nói “đem pháp ước nhân (người)” là chỉ nói pháp sâu, không nói Bồ-tát. Căn cứ pháp nên như vậy. Thứ tư gồm ba hàng, trong đó đã nói không tụng Duyên giác, thì hàng đầu tụng Thanh-văn xong, nên nói hai hàng tụng lục độ, nếu chỉ nói một hàng thì sợ là lầm. Lại, “tụng Thí Nhẫn…” : “bốn độ” cũng e rằng lầm. Trong hàng thứ hai tụng Tiến, Giới hai độ, trong hàng thứ ba tụng Thí, Nhẫn hai độ. Còn các hàng… tụng Thiền Tuệ hai độ. Nếu cho rằng hai hàng đầu tụng Thanh-văn, thì một hàng đầu chỉ nêu thấy người, tiếp một hàng nêu sự tu hành, do nói “có các Tỳ-kheo”. Chỉ trong các văn phần nhiều không dùng Tiến, Giới để tiêu biểu nơi Thanh-văn, nhưng cũng không dùng Tỳ-kheo làm Bồ-tát. Trước trong kệ phát vấn, chỉ nói: “Hoặc lại thấy

Bồ-tát mà hiện làm Tỳ-kheo”. Tiếp, một hàng nêu Bồ-tát thừa, tức chỉ Tam tạng. Nói “đem người ước pháp”, chỉ nói Thanh-văn không nói Tứ đế. Căn cứ người nên như vậy. Thứ năm có hai hàng, nói tụng các tướng mạo trên. Lại nói lược không xây tháp: Đầy đủ như văn trên dùng đối lục độ. Lại như dùng ba hàng Bát-nhã đối Tam-muội. Cũng có thể bốn hàng từ “Hoặc có các Tỳ-kheo” cho đến “thuyết pháp cầu Phật đạo” là tổng tụng Bồ-tát tức lục độ nghĩa đủ, do hàng thứ ba là Thiền, hàng thứ tư là Trí, tức như văn trường hàng cũng trong Bồ-tát thừa kiêm Sinh-tô và Thục-tô, cho nên nói sáu Ba-la-mật. Từ “Khiến được…”: là ý Pháp Hoa, cũng chỉ là tiến thoái nhận lấy thôi! Nếu dựa theo sự phân biệt trước nay, tức là Lục độ bao hàm nhiều loại, do Bồ-tát đương ở vị Lạc và hai Tô. Tiếp, “Bấy giờ…”: một hàng rưỡi, tụng nói “truy tụng” là tụng theo vậy. Nếu căn cứ Huyền Văn thì dùng chữ “truy” đây, đều nói thoái thôi! Như nói Niết-bàn thoái phân biệt các kinh, tức thoái hướng trước, nay đây chỉ dùng nghĩa thoái sau làm nghĩa theo. “Thiên nhân…”: hai hàng và hai câu, tụng “nhân người” đồng. Kinh nói: “Từ Tam-muội dậy bèn tán thán Diệu Quang”, tán thán rồi sau mới bắt đầu nói kinh, cho nên biết chính là “đối bảo”. Cho nên không thể y xưa làm người lưu thông để giải thích, huống chi chỉ nói “chứng biết”, không nói “lưu thông”. “Chúc lũy như Di giáo”: tức kinh kia ban đầu nói: “Sau khi ta diệt độ, các ông phải trân trọng cung kính Ba-la-đề mộc-xoa như kẻ mù được sáng mắt, như người nghèo được báu vật… là thầy của các ông, như ta còn ở thế gian không khác”. Mỗi mỗi đầu văn đều nói “Tỳ-kheo các ông!”. “Có bi thương như Niết-bàn”: là khóc lóc mắt đầy lệ, toàn thân rởn ốc, máu nổi đỏ như hoa Ba-la-xa: Đây tức chí kính pháp mộ người. “Có ủy dụ cũng như kinh Di Giáo”: là cuối kinh kia nói: “Tỳkheo các ông! Chớ ôm lòng bi não. Nếu ta trụ thế thêm một kiếp nữa rồi cũng phải diệt, hợp mà không ly thì quyết không thể được. Pháp tự lợi, lợi người, Như Lai đều đã tuyên bố đầy đủ. Nếu ta trụ thế lâu nữa thì cũng không có lợi ích gì.” “Ví như nay Đức Phật phó chúc cho Di-lặc vân vân…”: Như nói hể xưng “Nam mô Phật” thì đều được gặp Di-lặc.., sau Di-lặc mới thành đạo thì nói rằng Đức Thích-ca Mâu-ni quở trách các thứ sao các ông không biết, dạy gieo trồng duyên vị lai trước, nên nay được gặp ta, tức văn Di-lặc thọ sự phó chúc.

“Ta thấy…”: bốn hàng kệ không đồng. Xưa giải thích dùng làm kết thành. Cần tụng ý phấn đáp của văn trên. Nếu nói là kết thành, thì thừa mà văn phán đáp lại thiếu, đâu được không đem tụng phán đáp ư ? Tụng trên sẽ nói kinh Đại thừa, cũng nói tên Diệu Pháp Liên Hoa. Tụng nói “Đức Phật sẽ mưa pháp vũ…”, là tụng trên nói Giáo Bồ-tát Pháp, cho nên biết sáu câu trên chỉ nêu nguyên do muốn nói, răn dạy chúng khiến sinh ngưỡng mộ. Tụng nói “Các người cầu tam thừa”: tụng trên nói Phật sở hộ niệm, vì được Phật hộ niệm cho nên được đoạn nghi. Cùng với văn trên tướng hợp hết, đâu được không tụng trên ư! Nếu làm giải thích đoạn phục nghi, thì văn lại diệu đồng. Đoạn ý thứ nhất: điềm lành vi diệu vốn tiêu biểu báo đối với pháp đồng. Đoạn ý thứ hai: Điềm lành đồng pháp ắt thật tướng. Đoạn ý thứ ba: Đến hội này đều không mong cầu khác. Đoạn ý thứ tư: ba nghi được trừ, công ở nơi Phật. “Sự cùng…”: Sự cùng nghĩa là danh đẳng tam, lý tận nghĩa là sở hiển là thể. Sự lý hợp nhất, đâu còn nghi nữa.

 

(Phần Hạ)

GIẢI THÍCH PHẨM PHƯƠNG TIỆN THỨ HAI

Đề Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Thiện Quyền, cho đến giải thích văn đều nói Thiện Quyền Phương Tiện. Nên biết Ngài Pháp Hộ cũng dùng Thiện Quyền mà giải thích Phương Tiện. “Thiện” là tên khác của “xảo”. Văn tự phân làm hai: 1. Lược, trong đó có hai: đầu là chánh giải thích, trong đó văn chia làm ba: Đầu một giải thích theo tự huấn, sau hai theo nghĩa. Lại, đầu hai từ tích giáo, sau một thuộc kinh nay. Tuy có ba giải thích đều dùng ba giáo mà làm phương tiện, chỉ có năng thông phi năng thông và dùng tức bất tức dị, đến thành ba giải thích. Nhưng phải lược luận ba thứ đại chỉ (ý), mới có thể tiêu văn. Nhưng trong ba thứ, đầu tiên căn cứ năng dụng ba giáo, đắc danh pháp là sở dụng, dụng là năng dụng. Tuy pháp cùng dụng đều thông bốn giáo, chỉ có phương viên sai hội khác biệt, cho nên gọi là “phương tiện” tức từ quyền mà lập danh. Quyền bất tức thật, cho nên đối xưa biện thành thể ngoại quyền thì chẳng phải ý phẩm này. Trong văn nêu Viên tức thuộc chân thật, tương đối thôi! Cho nên biết tại xưa không nên dùng bí diệu giải thích Phương tiện, chính bí mật ấy mà không nói gọi là Phương tiện, huống chi Viên nơi Tích chính là Viên của Kiêm Đới, cho nên Viên khắp đều không phải ý ở đây. Tiếp, giải thích thứ hai: Quyền thuộc năng thông ba giáo cũng được gọi là Phương tiện. Nhưng tuy bất tức mà dùng năng làm viên làm Viễn thuyên. Viên của sở thuyên cũng “đới” năng thuyên làm Phương tiện, cho nên biết đều chẳng phải ý của phẩm này.

Giải thích trước không nói ba làm năng, tức quyền thật phù hợp đều đi đến cùng cực, nên phương pháp không đồng. Đến giải thích thứ ba mới là “tam quyền tức là nhất thật”, chỉ đây tức Thật là Quyền, mới gọi là Phương tiện của kinh này. Tiếp tiêu văn: Đầu căn cứ pháp dụng, chia làm năm: 1. Pháp. 2. Nêu dụ. 3. Nêu ý dụng quyền. 4. Dẫn chứng. 5. “Nghĩa này…” : là tổng kết phi. Đầu lại có ba: Trước, giải thích theo Tự huấn. “ Phương “ là pháp vậy. Sách thuyết Văn nói là Pháp thuật. Chính là hợp với văn này. Sách Nhĩ Nhã nói là “Tắc” tức phép tắc của pháp gia, lại nói là “chánh”. Nay cũng như vậy. Pháp đó chánh nên mới hợp căn cơ, tuy chưa khai hiển mà không được không chánh. Tiếp, “Pháp có…”: là giải thích nghĩa tuy đều là pháp dụng bởi vì thiên đối viên, thiên sai viên hội, hội tuy hơn sai nhưng hội chẳng là sai, dụng hiển phi diệu. “Tam quyền…”: giải thích tướng, lại có hai: Đầu giải thích Pháp phương viên, dùng đối quy cũ mà phân thiên viên, dụng hiển phi diệu. Ba phương một viên, tuy tức bốn giáo đều gọi là pháp dụng. Chánh dùng thiên pháp gọi là “Phương tiện”. Tiếp “Hoặc là trí…” : là giải thích dụng sai hội, sở dĩ đều đặt ra nói pháp dụng là do đều khế hợp căn cơ, chẳng phải đều hội viên cho nên đều nói hợp.

1. Pháp dụng: Pháp tên tuy thông dụng đã thích hợp thời, mà chưa thuần nhất, là dùng pháp nào để hợp căn cơ nào? Cho nên dùng bốn pháp ứng phó căn cơ, sai hội không đồng. Quyền thật tương đãi thị phi, đều chẳng như trước giải thích, ý pháp đã chưa dung hợp, chúng sinh chưa thỏa thích, quy củ vẫn sai biệt. Lại nói “thiện dụng”, “nghệ” (đến): nghĩa là chỗ hướng đến, chánh là dụng, “trí nghệ” không đồng, dụng pháp không bình đẳng.

2. Thí dụ ý: Chánh thí pháp dụng không đồng, có hai lớp pháp thí, trong đó sắp đặt lấy phương pháp trong khước Viên đặt tên, lại mượn hiệu “bí diệu”. Cho nên, Viên cách Thiên cũng có Thể nội phương tiện cho nên gọi là “bí diệu”. Tên “bí diệu” giống như giải thích thứ ba, nhưng ý thì khác. Vì sao? Vì giải thích thứ ba chính là dùng khai hiển làm diệu. Trong đây chính dùng chỉ riêng Viên (độc viên) làm diệu, cho nên trong văn đây bốn giáo đều là phương pháp. Ba giáo trước chỉ gọi là phương pháp, chẳng “bí” không “diệu”, Viên giáo sau là “bí” là “diệu”. Cho nên giáo sau được gọi mới đúng tên “bí diệu”, chẳng liên quan khai hiển. Cho nên, dùng Thiên pháp ví như như dùng một ngón tay chỉ thì thấy thiên về một phương, nếu dùng Viên pháp ví như dùng năm ngón tay chỉ thì cho thấy khắp các phương.

3. Nêu ý dụng quyền: Trước chưa hợp, tức dùng quyền pháp, gọi là tùy dục.

4. Dẫn chứng: Nên dùng ba quyền làm pháp dẫn xuất, văn dựa vào Tiểu mà nói, cho nên gọi là “tam giới”, huống chi chỗ lìa không đồng, tam giới không sai biệt. Nếu đối Như Lai thì phương tiện bản nhất. Vì ý đây chưa tuyên bày, nên thuộc giáo xưa, tuy là Thể ngoại phương tiện mà về lý thì đều là bên Thể nội mà chúng sinh chưa biết. Căn cứ ý Phật mà nói, cho nên nói “xưng tán phương tiện”, do chưa khai nên chẳng phải ý phẩm này.

Tiếp, thứ hai: Căn cứ năng thuyên. Nếu lý và giáo hướng về nhau, thì bốn giáo đều luận không giáo nào chẳng là năng thuyên. Nay dùng ba đối một. Ba vì nhất thật làm thuyên, cho nên ba gọi là năng thuyên. Vậy trong ba giáo trước thì Giáo Hanh Nhân, lý đều là năng thuyên, trong đó chia làm bảy: 1. Thẳng lập ba giáo làm môn, đây giải thích theo nghĩa, không liên quan đến giải thích theo Tự huấn. 2. “Môn gọi là…”: là giải thích nghĩa “môn”, như cửa thế gian vốn là năng thông, ba thứ đều nhập thật nên gọi là “môn”. 3. “Phương tiện…”: nêu rõ ý môn. Chúng sinh không hiểu vốn là sở thông, dựa vào sở chấp đó được thành

“lộng dẫn”, chỉ vì không khéo, quanh co nên dùng “dẫn” làm “lộng” (bày trò). 4. “Chân thật…”: nêu môn dụng, tuy phi tức sở, đắc nhập do đây. 5. “Từ năng…”: nêu đắc danh. Quyền thật vẫn còn ngăn cách bởi vì căn cơ của chúng sinh sai biệt. Cho nên trước hai giải thích hiển lộ các biên và trước biệt địa, chẳng phải ý phẩm này. . Dẫn chứng ý: Nêu môn xưa kia chỉ nói năng thông, nay đây phải khai cho nên nói “khai phương tiện môn”, chẳng phải cho là ở kia đã nêu rõ khai môn. 7. “Nghĩa đây…” : là tổng kết phi.

– Thứ ba giải thích: Tức ý phẩm này. Trước hai giải thích đối xưa chỉ được gọi là thiên (lệch) gọi là môn. Bí mà không nói, nay khai thiên môn kia tức làViên sở cho nên nói bí diệu. Hiển lộ rõ ràng cho nên gọi là “chân bí”, lại chia làm sáu: 1. Thẳng lập: Đối xưa thành bí, bí kia bị khai, đối nay thành diệu. 2. “Diệu đạt…”: là giải thích công dụng: Đạt là khai dùng tiện của diệu, vì khai bí phương, ngoài diệu không có pháp cho nên nói “tức thị”. 3. “Điểm trong…”: là căn cứ nhân giáo để chỉ tướng, trong thân chúng sinh có chủng duyên xưa gọi là “y châu” (hạt châu ẩn trong chéo áo). Tự thoái lui từ xưa đến nay ở người khách say. Thiên môn mà còn không có tên Thiên môn, huống chi Viên sở. Nếu không khai thì ba quyền chưa hiển, như “hạt châu còn ẩn trong chéo áo”. Nay kinh khai đó, cho quả trí Nhất. Tác nhân cũng vậy, tư duy có thể biết. 4. “Như đây…”: là kết danh, phương pháp và môn tức là bí diệu cho nên nói “như đây”. 5. “Như kinh…”: là dẫn chứng. . “Cho nên dùng…”: là kết danh hiển thị.

Tiếp trong phần “Liệu giản” có ba: 1. Căn cứ tự tha tam ngữ, nhờ giải thích đầu tiên ở trước để giải thích ba, cho nên cái đầu tiên được khai tức cái thứ ba. 2. Căn cứ năng sơ, nhờ cái giải thích thứ hai để giải

thích văn thứ ba cho nên cái được khai thứ hai cũng tức thứ ba. 3. Căn cứ bốn câu, cùng xét xem ba giải thích.

Trong phần giải thích đầu tiên, phần “tự” có ba văn, xem văn đầu:

ba giáo nhất hướng, gọi là “tha” gọi là “quyền”, quyền thì cách thật. Giải thích văn tiếp: Dùng ba giáo “tha” cùng Viên “tự “ đối biện. Văn thứ ba: Cả ba đều trong thể đều chân thật, chỉ gọi là “tự”, ngoài “tự” không có “tha”. Tam ngữ cũng như vậy.

Phần thứ hai: Căn cứ năng sơ. Cũng tự có ba văn, đều đem hai chữ “năng sở” để xem xét năng sở thị phi. 1. Giải thích văn đầu: Lại chỉ ba giáo, chỉ là pháp dụng, vẫn còn không phải năng thông, huống chi là sở thông. Thế nên ba giáo phi năng phi sở, nên ba phương tiện thảy đều là thô. Giải thích văn thứ hai: Môn là tam giáo được là năng thông. Không nói tam giáo tức là Viên, cho nên phi sở thông, kia đã bất tức, cho nên cũng là thô. Giải thích văn thứ ba: Cũng khai hai trước, phi năng phi sở và dùng năng thông đều khai thành sơ. Trong sở thiện xảo gọi là “phương tiện”, cho nên diệu. Phương tiện khác với phương pháp và năng thông môn. “Cho nên biết…”: là kết bài xích. Trước là: kết danh thể, hoặc đồng hoặc khác. Tuy đều gọi là phương tiện, mà có ba thứ sai khác đây, lẽ nào chỉ nghe danh liền giải nghĩa kia cho nên ba giải thích đều có nói “phương tiện”. Hai là: Chẳng phải phẩm này, cho nên nói “nghĩa khác”. “Người đời…” là tổng bài xích người đời, lẽ nào Đại sư “đới” thiên tình có dựa vào bè đảng nào ư ? Kia như lý nào? Kia như văn nào? Kia như hạnh nào? Kia như chứng gì? Sinh công nói: “Thiên chân riêng đặc biệt” mà còn nói “theo xưa đề phẩm”. Nếu theo xưa đề, thì vì sao xưng tán? Nếu xưng tán xưa đâu thì lẽ nào chẳng phải hủy báng nay ư ? Nếu dùng xưa tán thán nay, lại lỗi lầm với xưa, thì khiến Quyền của Thể nội hoàn toàn thiếu, dụng của Thể ngoại lại thiếu, mới thành trong ngoài đều không có, thì làm sao được tán thán Phật quyền trí. Năm đức Phật khai triển tiện lạm sơ thi thiết, tam chu thiện xảo vẫn là. Nếu nói phẩm tuy đề xưa mà trong phẩm tại nay, thì là treo bảng nơi huyện làm hoặc loạn người đi đường.

Lại nữa, trong phần đầu giải thích đã dùng tam ngữ “tùy tha…” để thông hai giải thích sau. Giải thích kế tiếp lại dùng “môn” để thông đầu sau, lý cũng nên dùng “diệu” để thông hai trước. Văn không nêu, chỉ lược, nên nói “vân vân”. Lẽ ra nói: Đầu tiên giải thích Phương tiện là bí mà phi diệu. Tiếp, giải thích Phương tiện bí mà có thể nhập diệu. Sau cùng, giải thích Phương tiện bí tức là diệu, đây chính từ giải trong Phật để nói, nay thành hiển lộ cho nên thiếu không luận.

Phần thứ ba: Căn cứ bốn câu, đầu tiên là hỏi, y là: Chánh bản đã nói thiện quyền, nên biết “quyền” là tên khác của Phương tiện, muốn căn cứ tên khác để xem xét đồng khác, cho nên trước khởi hỏi. Trong phần đáp có bốn: 1. Nêu liệt; 2. Giải thích; 3. “Ba câu…”: là phân biệt; 4. “Cho nên Chánh Pháp Hoa…”: là dẫn chứng. Trong phần hai Giải thích, tương phá một đối phân làm hai câu: Tương tu tương tức đều là một câu, hợp bốn câu. Các văn khác hoặc lấy đây làm ba câu hoặc làm sáu câu, tùy pháp tướng kia mà lập ý không đồng. Cú pháp thường định, nay lập ba đối rồi mới khai làm bốn câu, muốn lấy bốn câu dùng đối ba giải thích, lấy ba câu trước thuộc hai giải thích đầu. Nếu chỉ làm ba câu thì lấy hai câu trước phân biệt thuộc hai giải thích trước, có gì mà không được? Chỉ vì trong tương phá văn tương biệt. Lại căn cứ tương phá tương tu cũng có thể phân làm hai câu, bốn câu thuộc trước cũng không lầm lớn, danh cú đều tùy thời không thể căn cứ một. Nói “tương phá”. Quyền cùng phương tiện, xưa nay đều có hai tên, đối xưa thì “Thiên, Viên” hai danh tương phá, đối nay thì Thiên Viên danh thể tương tức, đây đối giải thích đầu tiên nên nói “tương phá”. Tại nay thì ba giáo đều diệu, cũng gọi là quyền, cũng gọi là phương tiện. Tại xưa thì ba thứ đều thô, cũng gọi là quyền, cũng gọi là phương tiện. Cho nên, đem hai xưa xen lẫn phá hai xưa để thành hai câu tức hai tô ba giáo đối Viên giáo kia. Cho nên trong giáo xưa ba đối người Viên giáo đều thành bí diệu và vì đồng thể, nên nói “bốn thứ đều là bí diệu và đồng thể”. Vì vậy nói tương phá, chỉ là theo danh không theo thể. Nay từ danh giải thích thể kia thường định. Nói “tương tu”: Cũng đều ở hai danh xưa xen nhau lập, chỉ là ba giáo hai danh xen lẫn tu Viên giáo hai danh, vì vậy nên khác với câu tương phá trước. Tuy xưa người Viên giáo cũng thấy bốn thứ đều là bí diệu, nhưng đối giáo kia không được hiển thuyết nói tương tức, cho nên chỉ y nơi xưa đối luận, nên tương tu cũng đối ba giáo để biện một Viên. Vì sao? Vì nếu xả bỏ ba tu Viên, thì trở lại đồng câu phá. Nếu tức ba là Viên thì mới đồng câu sau, không phá không tức, từ Quyền nhập Thật cho nên được gọi là “tu”. Nếu như vậy thì hai vị ba giáo trước, lợi căn Bồ-tát có hiển lộ đắc, hai giáo nhị thừa chỉ bí mật đắc. Do đắc nhập nên tức gọi là “môn”. Nói “tương tức”: Tức chỉ là khai cho nên tương phá thuộc giải thích thứ nhất, tương tu thuộc giải thích thứ hai, tương tức là giải thích thứ ba. Nói “v.v…”: lại dùng bốn câu, căn cứ vị so sánh quyết định, hoặc khai hoặc phân biệt, đầy đủ như văn khác, căn cứ đây nói thì có thể thấy. Dưới lại rộng nêu, nên không lập lại. Phần 3. Phân biệt : có thể thấy. Phần 4. Dẫn chứng: Chánh bản gọi là “tức nay”, chinh là thể tức. Ba quyền ba phương tiện tức là một quyền một phương tiện.

Tiếp, giải thích “Phương tiện”: Cũng nên nói “Phương tiện” tức quyền, nêu kia để giải thích đây, nên không rườm rà nhiều. Phải biết Thể ngoại phương tiện tức Thể nội Quyền, danh tuy lại xen lẫn gọi, mà dưới là thể đã khai, trên thể gọi là bản thật. Do xưa phân có Thể ngoại Thể nội, thì khiến hai xứ danh dưới thể sai khác. Cho nên biết kinh này Phương tiện tức là Chánh Pháp Hoa thiện quyền, Chánh Pháp Hoa thiện quyền là kinh này phương tiện không hai không khác.

“Đê đầu (cúi đầu)…”: Còn khai Nhân thiên, huống chi ba giáo. Nếu được khai rồi thì nhất thể không khác. Trước đã ba tầng tổng xuyên suốt tám môn. Môn thứ năm bên dưới, tuy kết quyền thật mà nhờ kia tiện nêu ba phen giải thích phẩm. Chánh ý nên dùng ba thứ giải thích phẩm thông suốt tám môn. Tư duy đó không sai lầm, mới có thể giải thích, huống chi mỗi mỗi môn trong mười cặp, mỗi cặp nên hiểu ba phen giải thích. Trong một bộ trong giáo một đời không ngoài tám môn mười cặp. Tiếp, trong phần rộng giải thích, trước là phá xưa, chia làm bốn: 1. Thuật năm thời giáo phi. 2. Thuật bán mãn… phi. 3. “Lại có…”: là thuật tạp giải thích phi. 4. “Lại có…”: thuật phụ bên phi. Như vậy bốn thất đều xưng quyền thật, quyền tức phương tiện, không biết lấy gì để giải thích phẩm này? Phần đầu: Năm thời phi: Đều trước trình bày, tiếp phá. Trước trình bày thời đầu. Tiếp, “Nay gọi là…”: là phá: Đại luận phá vô thường chỉ là đối trị, đối trị thuộc sự, sự tức không thật, chỉ thành Tiểu tông phương tiện. Dù có Đệ nhất nghĩa Tất-đàn nhưng vẫn chẳng phải là hạnh môn ba Tất-đàn phương tiện, đâu phù hợp với giáo đây quyền xảo phương tiện trong Đệ nhất nghĩa! Tiếp, phá sau mười hai năm là Bát-nhã, nay không rảnh phá kia tại trước thời Phương đẳng, chỉ phá quyền thật không ngoài Thông giáo cho nên nói tức không. Dẫn ý luận: Tuy không hữu tương tức, đối với thật thành tưởng, vẫn còn chẳng phải Thật trong Bát-nhã, không thật thì không đồng thể phương tiện, lẽ nào thành phẩm Phương Tiện của kinh này?

Hỏi: Bát-nhã tam giáo đều niệm tưởng ư?

Đáp: Thông biệt đều căn cứ chưa chứng thật, cho nên văn chỉ nói “chiếu giả hữu không”. Không chưa thật, nên cố phá gọi là tưởng, Tâm cảnh chưa dung thông, nên quán gọi là tưởng. Cho nên, có tưởng quán thì chẳng phải phương tiện nay.

Tiếp, trình bày ý Tịnh Danh: Do trong Phương đẳng tự hành nội chiếu không hữu hai cảnh. Như nói tu học tam Tam-muội, không dùng tam Tam-muội làm chứng… Nạp biển pháp giới vào trong hạt cải gọi là biến động, ý cho rằng dùng quyền thật đây vượt qua Bát-nhã trước. “Nay gọi là…”: phá, có hai: 1) Đối trước, giáo trước lẽ nào không có nội chiếu ngoại biến? 2) Đương bộ trong thật đối ngoài trở lại gọi là hai, cũng chẳng phải nhập bất nhị môn của kinh Tịnh Danh. Đã chẳng phải bất nhị thì chẳng phải Viên giáo nhị đế tương tức, lẽ nào “Quyền thật bất nhị” của kinh này làm Phương tiện sao? Cũng không biết người khác chỉ cái gì làm hai và không hai, cho nên chẳng dùng. Tiếp, “Nay gọi là…”: phá kia trình bày Pháp Hoa dùng Tam tam, Tứ nhất, đầy đủ như trong phần hiển thật bên dưới nêu rõ, huống chi tuy phân quyền thật mà chưa ra ngoài giáo trước. Do không nói “tương tức” là “quyền”, nên biết quyền thật còn ngăn cách, cái gì khác thiên tiểu? Tiếp, trình bày kia phán xét Niết-bàn: Xưa Diệu giác mới gọi là thường. “Nay nêu rõ…”: là phá. Ông tuy chấp nhận Niết-bàn là thường, mà phân biệt tại Diệu giác. Vì sao? Vì đạo tiền đạo hậu chiếu chân chiếu tục, đều có thường và vô thường. Vì sao quyết định dùng Kim Cang tiền hậu để phân biệt kinh bộ? Trong bộ được lợi ích dâu phải đều là Diệu giác. “Lượng”: là số lượng và dùng thể lượng. Do cảnh thế tục kia là hữu lượng, pháp như cảnh mà chiếu là quyền trí. Đây dùng lý lượng của Nhiếp để luận phá, cho nên ý văn nay như nêu rõ thường trú, lý tánh chúng sinh vẫn còn thật vẫn còn thường, đâu phải sau Đẳng giác mới là thường ư! “Năm thời đây…”: là tổng kết vậy. Cho nên, năm thời kia quyền thật chẳng có gì khác, đều chẳng phải ý nay.

“Cho đến…”: là Phần thứ hai: Căn cứ bán mãn…, phá các tông bán mãn đầy đủ như trong Huyền Văn quyển mười nói. Năm thời đã nghiêng, các tông Bán mãn không công phá mà bại.

“Lại có…”: là Phần thứ ba: phá tạp giải thích, có bốn: 1. Biệt trình bày. 2. “Như vậy…”: là tổng phá. 3. “Quyền nay…”: là biệt phá. 4. “Đều không…”: là kết phi. Trong phần Biệt phá, nói “xứ sở”: nghĩa là trí sở thác. Xứ nêu bày cùng giả đều nói tạm thời, cho nên biết trở lại căn cứ xứ tạm thời. Hóa thành, thảo am… tức là tướng kia. “Pháp môn”: Trí sở dụng pháp tùy căn cơ chúng sinh mà thích nghi, chỉ Tam thừa nên gọi là “pháp môn”. Nói “trí năng” : là trí năng thì thiết tiến hay không! Có tức nên ở Lộc-uyển thiết lập tam thừa. Chữ “chùy” có âm đọc là phiên thiết của hai chữ Trữ và Ngụy, cũng là phiên thiết của hai chữ Trữ và Vi ; có nghĩa là quả cân. Bất cứ vật nặng hay nhẹ, khi đem cân thì quả cẫn cũng đi tới chỗ quân bình, cho nên gọi là trí xảo năng.

Trong phần Kết phi, nói “không bao hàm”: Quyền thật tự trụ không tương tức, huống chi căn cứ xứ căn cứ pháp, chỉ nói ba xe, cho nên khiến trí năng không vượt qua đây, văn không thâu nhiếp bốn giáo, lý, hành cho nên nói “không bao hàm”. Nghĩa vẫn chưa thâu nhiếp khai pháp tam nhân (người) cho nên nói không dung thông muốn hiểu rõ phẩm này thì đầy đủ như bốn câu, có pháp nào lại không thâu, pháp nào lại không dung?

Trình bày “Phụ bên năm thời phi”: Nghĩa thế mạnh phần nhiều là tốt đẹp xưa lập, cho nên nay trên dưới ba, hai xứ phá, khiến biết được mất. Như kia không mất, thì lấy gì quy tâm? Mất kia chính là trước quy tâm, phá chính là ánh sáng kia sau, trong đó có ba: 1. Lược lập, 2. “Đầu hai…”: lược phân biệt, 3. “Đây các…”: là căn cứ đế giáo trí ba tầng ba chuyển. Trước thuật lập: Ý văn đầu: Kia dùng tầng đầu hai tuệ làm căn bản, cho nên chỉ nói nhất quyền nhất thật. Ý dùng quyền là phàm phu, thật là Nhị thừa; nghĩa là Nhị thừa thật phá phàm phu quyền, mà phàm phu mê thì chưa gọi là quyền, đây cũng chưa thể như thế phụ thời Lộcuyển phi. Tiếp, “Không hữu…”: ý dùng song ly cái không hữu trước nay, mà dùng “quán Không, bất chứng” làm quyền, lấy “thiệp hữu vô nhiễm” làm thật, cho nên dùng “quán Không phi Không”, “quán hữu phi hữu” để hiển bày Trung đạo, đây chính là phụ thời Bát-nhã phi, bất tri trong Bát-nhã thì Trung đạo phi nhất. Tiếp, nói “Không hữu nội tịnh”: Ý nói lấy dứt cái không hữu quyền thật trước làm thật, lấy ngoại dụng này làm quyền, chẳng những nội tịnh song phi, mà còn năng ngoại dụng song chiếu. Trước tuy song phi chỉ đồng nội tịnh, đây cũng không biết hai giáo cùng có, đây là phụ thời Phương-đẳng phi. Tiếp, lại dùng “song phi song chiếu” này, tại Kim Cang tiền vẫn là vô thường, tại Kim cang hậu mới là thường. Đây chính chẳng phải kia nội tịnh ngoại chiếu, đây là phụ thời Niết-bàn phi. Sư đây tuy thấy thời Niết-bàn thứ năm mà không nói đến Pháp Hoa chân thật, huống chi cũng trừ thời nhũ vị. Tổng luận tuy năm chỉ phụ bốn thời.

Tiếp, thuật kia “lược phân biệt ý”: Đầu chỉ lập hai tuệ khiến tin có, cho nên chỉ trực tiếp nêu quyền thật. Tiếp, “Sinh giải”: Vốn lập hai trí, ý vốn lìa chấp, cho nên lìa nhị biên mới giải lập ý. Ý thứ ba: Lìa hai chấp nội, mới thành tự hành, lại năng không chấp biến dụng lợi ích cho người khác. Ý thứ tư: Chẳng phải chỉ ích tha mà tự tha đều quyền. Luận kia thật sự ý vốn tại cực quả, cho nên chỉ Kim Cang hậu tâm là thật. Nhưng nay nêu rõ năm Đức Phật chẳng phải không tại quả và dùng quả Bản môn cửu viễn, lý thì không như vậy. Khai phàm phu mà còn tức là chân thật, huống chi tại Kim Cang tiền vẫn cứ phân biệt là quyền. Quyền nếu chỉ tại Kim Cang tiền thì Phật vĩnh viễn không có quyền trí, làm sao để hiểu rõ phẩm này gọi là Thiện Quyền ư? Huống chi đều không phân biệt bốn tầng quyền thật là quyền hay là thật, huống chi đều không nói Pháp Hoa, hoàn toàn chẳng phải ý nay, cho nên không dùng. Trước đã thông biên rõ, cho nên nói “lược”.

Tiếp, thuật “Ba chuyển”: Trải qua đầy đủ đế v.v… Nói “Ba chuyển”: Đối với bốn lớp trước, trừ quả thứ tư, dùng ba trước làm ba, trong đó lại chia làm bốn phần: 1. Lược đối ba chuyển. 2. “Vì sao…”: nêu nguyên do chuyển. 3. “Lại như…”: là dẫn chứng. 4. “Lại tiệm…”: là thuật ý.

Phần đầu lại có hai: Một là: Chánh căn cứ “đế”. Hai là: Lệ giáo trí. Một, nói “đế” tức là hai đế, quyền thật làm bản, cho nên trước căn cứ đế để phân biệt cảnh, cảnh tức chân tục. Trong đó trước nêu, tiếp đối hai đế. Hai đế nói đồng sâu cạn đều khác, vả lại phân biệt lớp đầu một thật một quyền, chỉ gọi hai đế dùng hai đế đây làm tín bản (gốc tin), tức là chuyển phàm mà thành tiểu thánh. Tiếp, Lớp thứ hai: Chuyển hai đế trước đều gọi là “Tục”, song phi hai cái trước mới gọi là “Chân”. “Chân” đây chỉ là lìa chấp mà thôi! Lớp thứ ba: Trước trình bày lại cái Không hữu trước, chia làm hai: Trình bày lại cái không hữu trước là Tục. “Song phi bất nhị”: nêu lại song phi trước là Chân, tức là Chân tục này đây lại chuyển thành tục, cho nên nói “Nhị bất nhị đều là tục, phi nhị phi bất nhị là chân”. Lớp quả thứ tư : là ngoài ba chuyển đã song phi lý cực, chỉ có nhân quả tương vọng quyền thật, cho nên “không nói”. Tiếp, “Lệ giáo, trí”: Nêu rõ sở thuyên đây dùng làm sở quán. Đã có ba chuyển, thì năng thuyên năng quán lẽ nào không có ba ư ?

Trong phần thứ hai “Nêu nguyên do chuyển”, nói “Vị nhân” (vì người): ba lớp hai đế đều phù hợp căn cơ chúng sinh, cơ tức là người, người có ba hạng, đây không chỉ “Vị nhân” trong tứ Tất-đàn, nên trước sau không ngoài hai đế. Vả lại căn cứ tùy căn cơ, lại gọi là “Vị nhân”. “Dẫn chứng”: Nói “thường nương tựa”, không vượt qua ba thứ này, cho nên chỉ đối nó lại lần nữa, nêu Phật giáo sở y, chứng ý căn cứ đế nêu ở trước. Tiếp, “Lại nữa, Phật giáo…”: là lại dẫn tổng ý làm chứng, tức chứng ý căn cứ giáo nêu ở trước, trong giáo trình bày không ra ngoài ba thứ này, cho nên nói “ba môn”, giáo tức môn. Tiếp, “Lại tiệm…”: là căn cứ ý Phật hóa mà tổng thuật ba thứ giáo, trí, đế nêu ở trước. Ý hóa độ năng sở không ngoài ba thứ này. Đầu tiên, khiến phàm phu xả Hữu nhập Không, tức ban đầu chế Tiểu. Tiếp, phá chấp Không của nhị thừa, cho nên Không hữu đều xả. Ý nói tiểu Bồ-tát vậy. Tuy xả Không hữu mà chưa thấy Trung đạo, Xưa Bồ-tát vậy. Chỉ vì vị theo thứ tự đñeå phaân ñaïi tieåu, khoâng luaän bieát Trung khoâng biết Trung đạo…

Tiếp “Hoặc là xả…”: là trung biên đều mất, tức đại Bồ-tát, hoặc là chỉ Bát địa, Sơ địa, Thập địa Đẳng giác. Tiếp “Đây là…”: lại dùng ngũ thừa để phân biệt ý giáo hóa trước nay. Ý nói: Phật tại thế ý giáo hóa không ngoài năm thừa. Đối ba lớp trước thì lấy phàm phu làm Nhân

Thiên, Nhân Thiên sinh tín phá Hữu nhập Không để làm Nhị thừa. Tiếp “Lại vì..”: là căn cứ ba Giả để phán xét. Đây giống như người theo thứ lớp tu trung, trước phá ba Giả trong đây một phen chỉ thêm ba Giả còn lại không khác, chỉ là phân biệt giáo trước nay là năm thừa. Đầu tiên phá Hữu ắt đủ ba Giả, cho nên ban đầu dùng ba Giả làm tục, các ý đều đồng. Nhưng trong các phen tuy không nói Giả mà Tục đế của lớp đầu, lý phải là giả. Lại các phen trước không nói lớp đầu, nguyên vì tu trung chỉ là văn lược. Cho nên, phá giả tu trung, phần nhiều là ý của các sư thuộc phái Trung luận. Lớp thứ ba, nên nói: Chẳng phải ba thứ Giả Không Hữu, mà là hai thứ phi Không phi Hữu là bất nhị (không hai). Nhị bất nhị là tục, phi nhị phi bất nhị là chân. Căn cứ theo trước thì có thể biết, cho nên không nói lại.

“Nay nêu rõ…”: chỉ tổng lược phá, chia làm năm phần: 1. Lược phi. 2. “Kinh nói…”: là dẫn văn chánh chỉ bày. 3. “Lại, ban đầu…”: là kết phi chỉ lỗi. 4. “Như Thiên Thân…”: là dẫn lệ. 5. “Phải biết…”: là kết chỉ bày. Phần một: Lược phi: Phụ bên dụng ý năm thời, dựa vào tên năm thời ngầm làm giải thích của mình. Nay dùng trong mỗi một thời ngang luận quyền thật thể dụng nhiều ít. Ý nêu xảo dụng của Như Lai khó nghĩ bàn, xảo dụng không lập chỉ thành Tiệm thứ, cho nên nói “phi”. Sau căn cứ ba chuyển lại trừ quả địa. Ý muốn phỏng theo làm trí đế lìa chấp, dùng nhân để hiển bày quả, không ý cũng chẳng thành Tiệm thứ. Tiếp, dẫn văn chính chỉ bày: Nay dùng năm thời tám giáo tương nhập mới thành Nhất thật, trong mỗi một thời ngang dọc xen lẫn, chỉ đến Pháp Hoa thì đế trí mới thuần nhất. Vẫn biện rõ khiến thành tướng phương tiện, nên đầu phẩm Phương Tiện tức tán thán trí đế phương tiện của năm Đức Phật, cho nên phẩm đề cần y viên đốn. Kinh nói: “Đều được nhìn thấy ông” cho đến “quả mới thường”. Kinh khiến bỏ phương tiện, ông mới bỏ liền dụng. Đại kinh nói “tự chỉ Pháp Hoa làm cùng tột”, ông bèn chỉ Kim Cang hậu tâm, lẽ ra khai các giáo ông mới phế phế bỏ đñoù. Tieáp, trong phaàn “Chæ loi”, nói “tín giải hóa quả” tức trước lớp thứ tư thì thủy chung đều tiệm nhập. Tiếp, “Vì sao liên quan…”: là chánh chỉ lỗi kia, cho nên ngoài Gia Tường lại nói: “Thân cùng thừa đều tác bốn câu”.

Thừa bốn câu là:

1. Ba là phương tiện, một là chân thật, khiến xả ba chọn một. Đồ chúng thọ lãnh giáo, tuy lại bỏ ba mà được ban cho nhất thật. Thô hoặc tuy bỏ mà tế hoặc chẳng bao lâu sẽ sinh. Nay hỏi: Đến hội Pháp Hoa nếu đã bỏ ba thì ở xứ nào mà ban cho nhất thật? Nếu chưa đến Pháp Hoa, trước đó lại không bỏ giáo ba; thì người Thanh-văn đối trước Pháp Hoa, Kiến tu lâu phá, đến đây vì sao tế hoặc chẳng bao lâu sẽ sinh? Ban cho Thật là thế, thì như thế nào là hoặc nhiếp? Lẽ nào có tế hoặc do nghe pháp sinh?

2. Lại nói vì đối phá, cho nên nêu ba cùng một đều là phương tiện. Nay hỏi: Không xét kỹ ba, một đều là phương tiện, vì ở trước kinh Pháp Hoa hay đến hội Pháp Hoa? Vậy trước đó còn mê ba là phương tiện, sao từng nói một cũng là phương tiện? Cho nên, phẩm này ban đầu chỉ nói ngày xưa phương tiện chỉ bày ba, đích xác thì không có ba, một, đều gọi là phương tiện, nói đối phá là ở hội nào?

3. Người lãnh thọ giáo mới biết ba, một đều là phương tiện, liền ban cho hai phi mà làm lý cùng cực.

Nay hỏi: Ba chu, thì chu nào là văn lãnh thọ hai phi? Trước đó, Nhị thừa mà còn không có hai trước, huống chi song phi ư? Nếu hàng Bồ-tát nơi nơi đắc nhập, thì đâu cần Pháp Hoa? Ba lại dùng ba, một làm hai, hai phi làm bất nhị; nhị và bất nhị đều là phương tiện, phi nhị và phi bất nhị đều là chân thật, phá cũng căn cứ theo trước trưng dẫn người và xứ.

4. Nhị cùng bất nhị và dùng hai phi, vẫn thuộc bốn câu, vẫn chưa tránh khỏi danh ngôn, đều gọi là phương tiện. Các pháp tịch diệt không thể ngôn tuyên, chính là chân thật.

Nay hỏi. Từ Tam-muội ra bảo tam chu hiển bản, là thuyết hay không thuyết? Nghĩa tịch diệt trùm khắp đâu chỉ có Pháp Hoa ư! Lý trong giáo bản tự vô ngôn, huống chi đại thừa không thể nói, trước vì năm người (Thừa) huống chi nay rộng nêu năm Đức Phật khai Quyền biện rõ giáo Quyền thật. Quyền thật đã hiển, sao lại nói “ban cho”? Nói “ban cho ba”: thì mê giáo mê tình. Nay căn cứ bộ phán giáo, hiểu rõ tên “Phương tiện” cần có chỉ qui, lẽ nào luống sót lời? Dùng lời theo lời thì mê mãi mãi vẫn chưa trừ được, tuy ngàn vạn lần phá cuối cùng cũng không tận dứt. Bốn câu của Thân thì căn cứ đây có thể biết, huống chi đầu đề phẩm này là “Phương Tiện”, nên dùng phương tiện để giải thích phẩm này, mới là thật giải thích không trái đề phẩm. Cho nên, biết Gia Tường thân thấm nhuần diệu hóa nghĩa đã rưới mầu nhiệm. Chương xưa nêu trước là hạnh lý phải nương theo phá, biết đại ý chỉ đây thì thầy trò có thể thành tựu. Căn cứ một đường hướng này thì các thứ còn lại cũng có thể rõ. Cũng như ba thứ pháp luân không trái với thừa lãnh, Đại sư gọi là “đốn nhũ”, kia dùng căn bản đặt tên, Đại sư dùng ba vị làm cành nhánh, kia cũng dùng Đề-hồ làm gốc trở về.

Nay hỏi: Phàm nói căn bản tức nói năng sinh, năng sinh bắt đầu thành, sau nhiếp trở về bản, bản vẫn chẳng phải bắt đầu, hai lời nói trái nhau, cành gốc không lập, nhiếp cũng không đúng, huống chi căn bản hai phần nhiếp trở về còn một, một là căn gốc, hai thì gọi là cành. Vậy thì gốc rễ xưa nay là cành, nên phải hợp đầu mà theo ở sau cho nên khai cành Hoa Nghiêm Biệt để nhập gốc Pháp Hoa Viên, huống Hoa Nghiêm Biệt Viên đều thành cận tích. Nghĩa căn lại hoại Phap Hoa bản thành. Lại, nói “ba vị là cành ngọn”: Lộc uyển có thể vậy, hai tô như thế nào? Nếu hai tô Viên Biệt là cành, thì Hoa Nghiêm đâu thể thành gốc? Nếu vậy, chính thành “hội bản qui bản”, hoặc tức “hội cành qui cành”. Nếu Pháp Hoa không liên quan đến Hoa Nghiêm thì khiến hai bản vĩnh viễn sai khác, sao được gọi là “hội mạt qui bản”? Huống chi trong bộ Pháp Hoa không có văn nhập Hoa Nghiêm, chỉ có nhập Phật tri kiến, huống chi văn nêu Niết-bàn chung cực năm vị . Bản sư sở sư xưa nêu cần phải sửa đổi. Nếu y xưa lập, thì nghĩa Thầy trò không thành. Thuyết để khuất phục thì chẳng có gì để làm, thuyết để tôn kính trên đầu thì nương tựa cái gì?

Phần thứ tư: Dẫn lệ. Dẫn hai văn làm lệ: Tức là kinh này thì Thể nội phương tiện là loại được lưu truyền. “Kinh Đại Thừa Phương Tiện nêu mười thứ phương tiện”, chưa kiểm chứng. Phần 5. “Phải biết…”: là tổng kết chỉ bày bài xích phi. Nói “như hư không như biển lớn”, là tổng bao hàm các kinh đều quy về kinh này. Các kinh ví như hình sắc như dòng chảy. Kinh này ví như hư không như biển lớn. “Nay nêu rõ…” chính giải thích có hai: Trước thông, sau biệt.

Phần Thông có ba: 1. Liệt kê. 2. Giải thích. 3. “Nếu tất cả pháp…”: là dùng tứ nhiếp pháp để biện rõ công dụng của pháp. Trong phần giải thích, bốn câu đều trước là nêu tiếp là dẫn văn giải thích. Câu đầu: đã dẫn văn nói “Các pháp…” Do có nói lên, lại theo có thuyết, có nói thì không ngoài ngàn như trăm giới. Câu thứ hai: gồm dẫn năm văn đều chứng nhập thật vả lại dùng nhập chứng đối thuyết làm thật. Văn đầu: ý gia bị cho căn cơ, văn thứ hai: là gốc các pháp, văn thứ ba: là tông hóa nghi, văn thứ tư: là nguồn gốc bản hạnh, văn thứ năm: là lý vong giáo, các văn đều dùng nhập chứng làm thật. Cho nên biết rằng: có nói, không nói đều dùng chân thật làm gốc. Trong câu thứ ba dẫn chứng ý: Các pháp là quyền, thật tướng là thật, thật tức câu thứ hai, quyền tức câu đầu, hợp hai câu đó cùng làm câu thứ ba, vì hai môn đầu không có biệt pháp, “Lệ như…”: dẫn lệ. Giả tưởng cho nên hư dối, trị dục cho nên thật. Chỉ nhất quán này là thật là hư, thì một pháp cũng quyền cũng thật có sao đâu? Câu thứ tư : dẫn văn tức chỉ lý Trung, lý hư thật… nhị đế khó nghĩ bàn, song phi hai đế này để hiển diệu trung, cũng không khác với ba môn trước, bốn môn lý đồng cho nên đều nói “tất cả”. “Nếu tất cả pháp…”: là phần 3. Biện công dụng, lại có hai: Một, chánh biện câu nhiếp pháp công dụng. Hai, “Thẳng nêu…” là nêu ý câu kia. Văn đầu, chỉ bốn câu đây còn lẫn nhiếp lẫn phá, quyền thì đều quyền cho đến đều là phi quyền phi thật, huống chi các pháp khác không nhiếp phá ư? Huống chi ngoài bốn câu không còn có pháp, như đây mới thành phá lập của kinh này, lẽ nào cùng với phá lập của các sư đồng ư? Phải biết các sư đã không biết nơi quyền thật, dù nói Thật nhưng vì chưa phân phán, cho nên thật nghĩa không thành, huống kia kia tương vọng xen lẫn thôi mê thật, vì vậy đều là câu đầu sở phá cho nên nói “đều là quyền”. Câu đầu tiên còn vậy huống chi ba câu ư! Cho nên Quyền thật của các sư đều đắc chút phần quyền mà thôi.

Nói “Như Lai sở thuyết”: nêu quả để so với phàm, Phật có sở thuyết mà còn đều là quyền, lẽ nào đời mạt pháp, phiếm bàn mà tự nói là chân thật, không suy nghĩ Thánh hóa chỉ tiến cử thân thể phàm phu. Câu thứ hai: Thật tức cứu cánh. Quyền của Phật thuyết mà còn phải nhập thật, huống chi các quyền khác, thật mà không nhập ư? Cho nên biết hết thảy chỉ có Nhất thật. Nói “tổ hang (sào quật)” Sách Thuyết Văn nói: Chim ở cây gọi là “tổ”, thú ở trong hang gọi là “hang”. “Bảo” là trú trước. Hiểu thông đại chỉ phải xứng tâm Phật, chỉ giữ một góc thì như “giữ gìn hang ổ”. Câu thứ ba, thứ tư căn cứ nói có thể biết. Cho nên, văn này mỗi một câu đều trùm khắp. Nếu thu nhiếp khiến có thể biết, thì chỉ là ba trí chiếu ba đế cảnh, gia bị cho ba hạng căn cơ. Cơ biến, pháp biến, lý biến sự biến, đều nói tất cả sở dĩ có thể biết. Do “một không tất cả không” nên tất cả đều Thật. Vì “một giả tất cả giả” nên tất cả đều Quyền. Hai câu thứ ba và thứ tư chỉ là Trung trí song chiếu song phi. Trong do ba đức ba thân đầy đủ, cho nên khiến ngoài dụng ngang dọc hiển mật, làm thành ý phá lập của kinh này. Do đối xưa cho nên phải làm bốn câu, Thông luận đại cương pháp tướng tuy vậy, biệt luận phẩm này chỉ tại câu thứ ba, cũng quyền một câu rưỡi gọi là phẩm

Phương Tiện. Do đối tự chứng thật trí nói, cho nên phải nói nửa câu thứ ba, vẫn phải nhiếp ba thứ còn lại kia và nửa câu nhập vào một câu rưỡi đây, mới có thể được gọi là phẩm Phương Tiện này. Nếu chuyên bốn câu đều nhiếp tất cả còn chẳng thải thông phương, huống chi các Sư biến kế quyền giáo của các sư, cho nên nói “không được nhất hướng”. “Thẳng nêu…”: là tiếp nêu ý câu: Như trước đã giải thích tuy lại lược dẫn lược giải thích tướng trạng, vẫn thành “thẳng nêu” để biện rõ tướng câu, chưa kịp dung thông dể luận huyền chỉ. Hoặc phá hoặc lập mà còn đã không bỏ sót, không thiên một câu không đắm trệ một góc cho nên nói “còn tự như thế”, huống chi dùng đại chỉ mà xa quán, chẳng hạn cuộc một phương cho nên nói “huyền lãm”. “Phương”: Nghĩa là một người một hạnh. Cái gọi là “một lý một giáo”, là tùy lập tùy nhiếp tùy phá tùy vong. Thủ xả tự tại, cho nên nói “khoáng đãng”. Vượt khỏi ám trệ, gọi là “cao minh”, lại cùng tận viễn giáo gọi là “xa quán”. Xét lý sâu là “huyền lãm”. Dụng ngang khắp là “khoáng đãng”. Chỉ dọc thấu triệt là “cao minh”, hiển một nhà tiêu thông cho nên nói “như thế”. Nếu làm chữ “huyền”, thì ý cũng có thể thấy. Người khác không thấy đây thì dùng cái gì để giải thích phẩm Phương Tiện? “Huống chi luận chỉ thú”: Vì phá lỗi xưa, vả lại dùng giáo tướng quyền thật phá lập khai thị ẩn hiện dư thiếu hành tàng. Nếu hạnh giải kiêm luận tự tha hợp nói, thì chịu nhận văn trước nay để luận ý chỉ kia. Tóm lược sự trước nay để luận thú hướng kia phải hiểu bốn câu chỉ một pháp tánh. Pháp tánh chỉ là chân như thật tướng như như Niết-bàn. Do thể Pháp tánh không trái các pháp, không thọ các pháp, không trụ các pháp, không nhập các pháp, cho nên mỗi một danh tự, mỗi một tâm pháp, mỗi một câu kệ, mỗi một nhân quả, mỗi một phàm Thánh, mỗi một y chánh, cho đến mười cặp đều là pháp giới, tự tại vô ngại nghĩa kia có thể thành, đầy đủ trong trong Bất Nhị Thập Môn nói. Hoặc bản hoặc mạt, thể lý không khác, nói mà không nói, không nói mà nói, chiếu tánh không xa, tự tại vô cùng. Dù rằng vô cùng nhưng không ra ngoài bốn câu, bốn câu không câu, không câu mà câu, câu câu thâu khắp cả mười phương Phật pháp. Chỉ vì giáo, trước thời Pháp Hoa giáo bốn câu, mỗi câu chưa thông suốt, đến nơi hội này thì một vị không khác… Đầy đủ như trong phẩm Dược Thảo Dụ, sai biệt tức vô sai biệt, vô sai biệt tức sai biệt.

Tiếp, khai chương biệt giải thích: Đã biết các pháp hỗ dung biến nhập, nêu Thật tức có Quyền trong Thật, chính là chỉ Quyền đây gọi là phẩm Phương Tiện. Nêu “Quyền tức là Bất tư nghì quyền”, thì Quyền đây có thật, mới dùng quyền đây gọi là phẩm Phương Tiện. Nêu “cũng Quyền cũng Thật”, thì đều có chỗ trở về, đây chính cả hai tương tức cũng nhiếp cả hai cả ba, cho nên gọi phẩm Phương Tiện. Cho nên dụng tức phương tiện chân thật, gọi là phẩm Phương Tiện, nêu phi Quyền phi Thật thì chỉ là lý Phương tiện, lý nhiếp ba câu đều gọi là phẩm Phương Tiện.

Hỏi: Nếu vậy câu câu đều trùm khắp đều là phẩm Phương Tiện, thì đâu cần câu thứ ba?

Đáp: 1. Danh tiện thì đầy đủ quyền thật. 2. Nghĩa tiện thì sở nhiếp trùm khắp. Các câu khác nghĩa tiện mà danh không tiện, ba câu còn lại tuy có nghĩa quyền danh quyền mà không như câu thứ ba tức danh tức đủ. Dụng đây tức thật, mà quyền làm phẩm này. Cho nên mười cặp dưới, mỗi cặp đều đủ danh quyền thật, đều chọn “tức Thật mà Quyền” làm phẩm Phương Tiện, huống chi ba câu đầu tổng giải thích đều xuyên suốt mười văn tám môn.

Nếu không vậy, thì chẳng phải phương tiện sự lý cho đñeán Taátñaøn, khoâng phaûi lieät danh cuûa phaùp töôùng trong phöông tieän, cho ñeán chaúng phaûi baûn tích möôi nghĩa của kinh này, mười nghĩa không hai bản tích tợ như khác. Bản tích, tuy khác mà bất tư nghì nhất, mười nghĩa tướng biệt mà Thực tướng nhất như. Vì chúng sinh nên liệt giải thích Sinh khởi cho đến Bản tích, Sự lý cho đến Tất-đàn không đồng, đạt ý quên lời, giải thoát ngôn thuyết . Nếu thấy ý đây thì thường im thường nói, nói làm không trái, vẫn dùng ý chỉ đây mà làm cảnh quán, khiến cảnh quán kia chiếu rõ có thể thấy. Các chổ giải thích không có nguyên do nơi đây, như đây giải thích mà còn sợ là hữu lậu, huống chi các nhà giải thích đơn độc nông cạn. Dù nêu nhiều nhưng pháp tướng đại tiểu khó phân, tuy phán giáo thời mà Pháp Hoa chưa hiển. Nếu cho rằng kinh Pháp Hoa cùng các kinh khác đồng vị, thì chỗ thuyết ba không có, thì lời nói ấy ở đâu? Nhưng trong tám môn này thi bảy môn trước là Tích, môn thứ tám là Bản môn, bản tuy chưa đến mà quyền thật lý khắp. Cho nên văn dưới nói: “Ta dùng phương tiện này, chư Phật cũng như vậy”. Cho nên tên gọi Phương tiện thông Bản tích. Đây đã huyền thích không đồng tiêu văn cho nên không đồng với ngài Quang Trạch phân biệt câu.

Lại nữa, ý của tám môn đây theo thứ lớp: Nếu không Liệt danh thì không dùng Giải thích. Nếu không Sinh khởi thì mê nơi thứ lớp thuyên. Giải thích chánh chỉ bày tướng trạng của mười văn. Dẫn chứng vì phòng người không tin, kết quy là nêu ý gốc của phẩm, phân biệt vì khiến giải thích phẩm có chỗ trở về, phán xét giải thích khiến biết thô diệu đều có, như vậy mới hiển bày ý chỉ sâu xa của phẩm. Lại chuẩn bị

biện Bản tích khiến biết bản địa quyền thật tự tha, mới hiển con đường Đại hóa gần, xa. Trong Liệt danh cần phải sắp xếp nhất nhất đều nêu quyền thật, như nói “Sự lý quyền thật” cho đến “Tất-đàn quyền thật”, tức là sự quyền lý thật, cho đến Tất-đàn ba quyền một thật. Lại dùng ba thứ giải thích phẩm, phân chia mới thành phương tiện của kinh này. Cho nên luận nói: “Từ đây trở xuống thị hiện tướng nhân quả kinh này”. Cho nên trong mười cặp thì năm cặp đầu là từ nhân đến quả, năm cặp sau thuộc thắng dụng của quả, huống chi một bộ văn cũng có thể Bản tích mà phân nhân quả. Cho nên, biết: trong nhân nếu không có bốn cặp trước thì nghĩa nhân cạn hẹp. Nếu không có năm cặp sau thì dụng quả thô cận. Trong đó, giáo là thánh hóa. Vả lại, dùng người thọ mà đặt tên, không đồng người đời lấy giáo làm nhân, Phật trí làm quả. Cũng không đồng ba, bốn môn v.v… của người khác. Còn lại như dưới kết quyền thật nói. Ở cuối phần “Sinh khởi”, trong câu “đó là mười chương thứ đệ vân vân”, thì “vân vân” là: Lẽ ra mỗi một chương đều thuật tướng sinh khởi, suy tìm kỹ thì có thể thấy. Lại nữa văn nêu năng hóa, nghĩa phải đối sở. Cho nên năm cặp sau chỉ một cặp trong thể dụng là đối sơ, còn lại bốn cặp, đều từ năng đối mà đặt tên. Lại, đây cũng cùng mười diệu nghĩa đồng. Nếu không vậy, thì ai biết phương tiện cần đủ mười pháp? Ai biết nghĩa mười pháp biến khắp một kinh? Nếu không có mười pháp mà lại thành kinh văn thì không thuyên giảng nhân quả và dùng năng sơ. Cho nên mười cặp đều cùng tận đến cốt yếu, mới là mười cặp của kinh này. Nếu vậy một kinh từ đầu đến cuối đều gọi là Phương tiện, đều chỉ giáo trước lấy làm sở khai, rồi mới có thể gọi là phương tiện của kinh này. Cho nên, biết rằng: trong Tựa thì Chứng tín là Phát khởi phương tiện. Thí dụ chỉ là So sánh phương tiện, Nhân duyên chỉ là Vãng tích phương tiện, Bản môn chỉ là Cửu viễn phương tiện, Lưu thông chỉ là chư Phật Bồ-tát thông pháp phương tiện, do phương tiện đó nên gọi là chân thật. Nếu hiểu được ý đây, thì như xem quả trong lòng bàn tay, thì một bộ Pháp Hoa tâm có thể biết, một đời giáo môn sát-na liền biết, nhân quả tự tha công thành một pháp, mười phương ba đời không chứa mong cầu khác. Dùng thập pháp thừa mà quan sát, Pháp Hoa Tam-muội hợp đủ thì có đủ vô thượng Phật quả, đường tu có thể kỳ vọng, có mắt chư Hiền xin thương xót xem xét.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10