PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 06

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

 

PHẦN THƯỢNG

Tiếp, “Kệ” văn: Trên nói kệ văn lãnh giải đều trình bày. Trước trong trường hàng thì lấy thân làm lãnh, dùng ý làm giải hoàn toàn Tựa như đều trình bày; mà nói “hợp”: là trong lãnh hợp giải, trong giải hợp lãnh cho nên nói hợp. Nay nói “các” (mỗi đều): là ba nghiệp đều có lãnh cùng giải, mặc dù giống như hợp nêu nhưng trong mỗi một nghiệp tự phân lãnh giải, cho nên gọi là “mỗi đều”. Lược nên phân tiết, sau có thể y văn. Đã phân làm ba tức Nêu ra, Giải thích, Kết. Đầu tiên là thông nêu: “Con nghe” là nêu khẩu, “vui mừng” là nêu tâm. Nói “kiêm Phật”: là kiêm theo Phật tức là kiêm nêu thân. Đã là tổng nêu lại dùng “Con nghe pháp âm ấy…” là lãnh, “Lòng rất đổi vui mừng” là giải.

Tiếp giải thích ba nghiệp: trong một hàng rưỡi đầu tụng thân lãnh giải, thì một hàng đầu là thân lãnh, tiếp nữa hàng là thân giải. Tiếp, “Con ở…”: mười một hàng nêu khẩu lãnh giải, trong đó lại chia làm hai: Chín hàng đầu nêu thân xa, tiếp hai hàng nêu nhập pháp tánh. Chín hàng đầu chia làm hai: Tám hàng đầu nêu khẩu lãnh, tiếp một hàng nêu khẩu giải. Do lãnh mà giải (hiểu) lỗi ở khẩu xưa. Trong nhập pháp tánh lại chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu tụng nêu khẩu lãnh, tiếp nửa hàng nêu khẩu giải. Do lãnh mà giải được sở đắc từ khẩu xưa.

Tiếp, “Mà nay…”: chín hàng rưỡi tụng ý lãnh giải, chia làm hai: Tám hàng đầu tụng ý lãnh, sau một hàng rưỡi tụng ý giải. Cuối, hai hàng rưỡi tụng kết thông, có hai: Một hàng rưỡi đầu tụng kết lãnh, tiếp một hàng tụng kết giải. Lãnh là ngoài lãnh Phật thuyết, giải tức trong thọ ý Phật. Do đó trong trường hàng thì hợp, kệ tụng thì ly mà chung làm một ý. Lại tổng chín hàng rưỡi đây ý văn lãnh giải, tụng tâm đắc diệu giải bên trên. Vả lại, y văn trước đồng dùng giải làm danh, nhưng trong đó lại phải phân nhỏ, cũng có thể chia làm tám:

  1. Hai hàng đầu tụng: xưa chẳng thật.
  2. Một hàng: chánh tụng nghe diệu giải ở chu đầu, tức tụng trong phương tiện hiển thật.
  3. Một hàng: trở lại tụng trên pháp thuyết thời chu đầu lược nói mà sinh nghi hối.
  4. Một hàng: tụng chương môn chư Phật bên trên: chủng chủng lãnh khai quyền bên trên, thí dụ tụng Đàm hoa bên trên.
  5. Từ “Phật thuyết…” trở xuống một hàng tụng chương môn Phật quá khứ.
  6. “Hiện tại…” một hàng tụng chương môn Phật hiện tại, vị lai.
  7. “Như nay…” một hàng tụng chương môn Phật Thích-ca bên trên.
  8. “Thế Tôn…” một hàng rưỡi tụng hối lỗi tự trách.

Nghiệm biết đầu tiên nghi, lỗi tại mình. Trước trong thân lãnh giải: Kinh nói: “Sắc vàng ba mươi hai tướng cho đến mười tám pháp bất công…” đều như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Nay văn thuộc Viên tỷ dụ nói có thể thấy. Lại, tám mươi tướng tốt: Căn cứ văn Đại kinh nói tướng tốt của Phật thì vô lượng, đây ứng trong sắc chỉ có tám mươi. Chúng sinh thế gian thờ tám mươi thần, cho nên đức Phật có đầy đủ để sinh tôn kính. Nay kinh văn ý tổng trình bày lỗi xưa. Nhưng Tám mươi tướng tốt đều có đủ tứ Tất-đàn để lợi tha không hẳn hoàn toàn là tám mươi thần, cho nên mỗi một tướng tốt đều là biển tốt. Nay nghe khai quyền chánh lãnh lỗi xưa, là tướng tốt không thể nghĩ bàn.

“Đầy đủ như…” trong Điều-đạt nói: Ta từng ngày đêm…: Nếu các Thánh lại dùng tối sáng mà làm đêm tối, thì đối điều này tư duy đâu đủ để trình bày, cho nên trong đây nên theo sở biểu. Giải thích có hai lớp đều căn cứ giáo xưa. Trong cơ nhậm vận sâu kín có cái nghi này, vì chưa được rõ ràng nên có thuyết này. Nếu trong sinh tử có, thì là ý Đại thừa. Nếu trong sinh tử không có, thì là ý Tiểu thừa. Đã đắc Tiểu thừa rồi, không biết đây chứng tại nơi nào chấp nhận. Xưa trong căn cơ từng có nghi này đến nay, đây chính là dùng Tạng đối Diễn mà làm trong ngoài. Nếu nay thâu hoạch ngộ thì cái nghi này ắt bỏ. Lại “Sinh tử…”: tiếp theo, vì sinh tử và Niết-bàn đều gọi là đêm, được nghe lý Trung đạo gọi là ngày, đây chính Biệt Viên dùng đối Tạng, Thông tối tăm sinh nghi. Sau nghe khai hiển thì nghi này mới trừ, đây là đối Phương-đẳng Bát-nhã đều nghe: Nhưng văn sớ nói ít, lẽ ra lại nói: Thật lý trung đạo làm ngày. Tại xưa đối với Đại thừa nghe lý Trung đạo này tuy đối đã chứng mà còn tối tăm sinh do dự; chưa chứng lý Trung này như mặt trời vẫn ẩn dấu, vừa nghe lược khai vẫn còn có nghi đây, huống chi xưa ở Tiểu thừa. Nay nghe năm Đức Phật rộng hiển thật quyền mới trừ bỏ được hai nghi như mặt trời xuất hiện. Lại “Người đời…”: Ý thí dụ Thanh văn từng trải qua các pháp hội, hoặc bị la mắng hoặc được gia-bị, hoặc vui hoặc lo buồn, đến Pháp Hoa trải các đủ các gian khổ, tự hành lợi tha đều nghe biết chỉ vì cho rằng không phải nhiệm vụ của mình nên tự tha có chút sai biệt, nên cùng các vị mới bắt đầu thì khác. Cho nên biết bắt đầu từ vi tiện trải qua đầy đủ văn võ, hiểu rõ từ cạn dần đến sâu, biết vật có khả năng hay là không. Như Hương Tích Bồ-tát lại học song lưu (hai dòng), cho nên thảo sáng (mới bắt đầu) ít am hiểu các hành. Nhưng lại hai đường xen lẫn làm hơn thua không thể nhất hướng.

Nói “Năm vị đào thải”: là thông chỉ năm vị lấy làm đào thải, chẳng riêng gì Bát-nhã. Kinh nói: “Vô lậu khó nghĩ bàn…”: Xưa nói rằng vô lậu chỉ đến Vô dư, nay mới biết đến thật đạo tràng. “Hiểu ma phi ma….”: Xưa nghe khác bản, cho rằng Phật là ma. Nay mới biết vốn ngu, giác biết chỗ lầm ấy tức là Phật cho nên nói vậy. Kinh nói: “Phật dùng các món duyên…”: Trước dùng Thích-ca khai quyền giải thích chư Phật hiển thật, nói: “Ta dùng vô số phương tiện các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ…” cho đến “chương tam thế Phật”, mỗi mỗi đều nói “cũng dùng” cho đến “pháp ấy đều là nhất Phật thừa”. Trong Kết nói “Kết thành” lại có thể chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu tụng Kết, tiếp một hàng tụng Thành. Phần đầu Kết có hai: Ba câu đầu kết âm thanh Phật tức khẩu hỷ. Ba câu sau kết ý hỷ. Lại do nghe Phật, dùng kiêm thân cho nên có hoan hỷ nghi trừ, sở chứng sở thành cảm báo tác dụng. Thuật thành ba ý trên: Thấy Phật thuật thân hỷ, nghe pháp thuật khẩu hỷ, ngộ giải thuật ý hỷ. Xưa vẫn từng giáo hóa Đại, đâu chỉ ngày nay mới được thân cận ư! Tuy lại mê trong đó mà từng nghe chẳng sai lầm, tức hiển ngày nay lập lại duyên nghe; giữa đường giáo hóa (dạy) Tiểu thừa còn không làm tiểu, nay lại được nghe thì tin do bởi xưa đã được dạy. Nghiệm nay ý giải căn cứ xưa không hư dối. Nhưng thấy Phật… ba thứ thông có ba lãnh. Nói “duyên thấy Phật”: Do xưa thấy Đại thừa cho nên ngày nay đắc Thật là duyên, thật mới gọi là “thấy”. Nói “duyên ưu hối nghe pháp”: Tự mình trong đó quên đến nay, là do chấp Tiểu, lại nghe hai tô đến lược thuyết ở nay. Phàm ưu hối, đều do xưa chấp Tiểu thừa. Nói “bất hư”: Xưa vốn nghe Đại, tin nay không dối gạt.

Tiếp, “dẫn Thập trụ Tì-bà-sa luận” để giải thích “Vô thượng”; tiếp “dẫn kinh Anh Lạc” để giải thích “Đạo”, lại nhờ danh Biệt để hiển nghĩa Viên, nghĩa Viên danh Biệt tất cả đều rõ. Chỗ khác không có ý đây không thể lạm dụng. Bảy thứ vô thượng này văn chia hai lớp: Lớp đầu, một thứ trước là quả, sáu thứ sau là nhân. Hai nhân đầu là Lục hòa, hai nhân tiếp theo là Phước trí, hai nhân sau là Chứng hành. Tuy phân làm ba cặp xen nhau mà tướng và lực, cho nên sáu nhân đều gọi là Vô thượng. Vọng quả hành nhân cho nên quả trước nhân sau. Nói “Lục hòa”: Đầu tiên thọ trì vô thượng tức thân khẩu ý, do có ba hòa cho nên tự lợi ích vô thượng. Đại thừa lục hòa nhiếp trọn các pháp. Hai chướng chỉ là phiền não và sở tri, hai chướng đây nếu biệt luận thì tại Biệt Địa tiền, Vô tri chỉ là ngoại giới trần sa. Nếu thông trên dưới, thì vô tri tức nhiếp vô tri trong ngoài và do vô minh, cho nên tri chỉ là khai hợp sai khác. Trong hành vô thượng chỉ nói Thánh phàm không có ba thứ khác. Thiên là sở chứng, bệnh trẻ con là quả dụng, tu hai chứng một có hai khả năng đây, vì vậy nên chỉ nêu hai mà không liệt kê ba thứ còn lại. Lớp thứ hai, lại từ quả lập tức do sáu nhân từ quả lập xưng, tầm danh dựa theo giải thích để xuất ý chỉ của kinh. Dưới đã kết nói chủng chủng là nêu rõ vô thượng đạo, cho nên đạo nghĩa vô lượng tùy giáo nào mà thành! Cho nên nói kinh này Viên Vô thượng đạo tức là đạo của Vô thượng gia gọi là Vô thượng đạo. Mỗi mỗi Vô thượng đều đầy đủ Vô thượng của các đạo. “Xưa tuy Đại hóa…” : Giới nội vô minh cũng chưa từng phá, nên nói “Hoặc ám”. Nếu sơ tâm Viên tu thì dù chưa phá Kiến tư, chỉ nghe một câu nạp chủng vào thức thì muôn kiếp không quên mất. Dùng ám vọng minh (tối đối sáng) mà còn chẳng lầm chân ngộ thì lẽ nào lại hư dối? Huống chi là ngộ chân có thứ lớp có siêu vượt đầy đủ như trước nói. Cho nên, “Hoặc ám” là chỉ sáu căn về trước. Sáu căn tuy tức chưa phá vô minh, tương tợ địa vị bất thoái còn gọi là “Bất ám”. “Nếu đắc đại giải…”: là trưng hỏi. “Thọ ký có bốn ý…”: Đáp ý là “cần phải thọ ký”. Bốn ý thọ ký đây nói đủ tại ba chu. Tại chu giữa, trong bốn ý ấy chỉ trừ chữ “trung” trong ý thứ hai. Cho nên, đến chu cuối thì chỉ có ba không có bốn ý. Lại trong bốn ý ở đây thì ý đầu có đầy đủ ba ý dưới. Lại, ý đầu và ý thứ tư thì đối xưa, ý thứ hai và thứ ba chỉ nay. Lại ý đầu và thứ tư chỉ “tự”, ý thứ hai và thứ ba căn cứ “tha”. Lại ý thứ ba thì thông hiện tại và vị lai, ý đầu chỉ hiện tại, ý thứ hai chỉ vị lai, ý thứ tư chỉ quá khứ. Gia Tường có mười ý nhiều mà không hợp. Nay điểm thô chỉ bày, khiến biết nhiều và lược.

  1. Chứng giải bất hư.
  2. Khiến không nghi hối. Hai thứ này thuộc Thuật thành, đâu cần lại nói thọ ký.
  3. Dẫn vật sinh tin thuộc nay thứ ba.
  4. Khiến Thân-tử hâm mộ quả, đây thuộc chương đầu tán thán hai trí của năm Đức Phật, vì muốn khai quyền, kiêm khiến mộ cực. Nay đây chỉ là thọ ký tám tướng, Sơ trụ tự đắc không cần nói “mộ”.
  5. Vì dẫn tám bộ, chánh dẫn đồng loại, bát bộ là phụ. Đây đồng văn nay ý phụ thứ hai. Xưa chưa thọ ký nhị thừa cho nên nhị thừa căn tánh vĩnh viễn tuyệt dứt kỳ vọng kia, mà nay thọ ký, phụ dẫn bát bộ cho nên nói “cần phải thọ ký”.
  6. Vì dẫn vật xưa sinh cùng ý nay đồng.
  7. Hiển kinh bí mật, bí mật thuộc lý, thọ ký Tiểu thuộc sự. Lại, thọ ký thuộc hiển lộ, không gọi là bí mật, đây thuộc giáo xưa.
  8. Muốn thành Đại thừa, đây thuộc ý đầu.
  9. Hòa hội Đại tiểu nói “như xưa trách Di-lặc được nhận…”. Hòa hội là biệt danh của Khai quyền, do khai quyền nên mới được thọ ký.
  10. Vì dẫn người có duyên, cũng là ý thứ ba.

Mười ý số nhiều nghĩa ít nhưng thiếu văn ý thứ tư này. Nguyên phát tâm Đại thừa thì hy vọng được thọ ký, cho nên biết mười nghĩa đó tuy nhiều mà không đủ. Các văn của sớ kia, đây theo lệ rất nhiều, ngoài ra không thể trình bày. Chánh trong Thọ ký thì mười thứ: Hành nhân….., kinh văn đều có hai. Trong Thời tiết có thế có số, trong Hành nhân có cúng Phật và tu hành, trong Đắc quả có thông hiệu và biệt hiệu, trong Quốc tịnh có quốc danh (tên) và quốc tịnh, trong Thuyết pháp có tam thừa và nhất thừa. Kinh văn tuy không nói nhất thừa, đã đáp lời nguyện nói Tam, nói Nhất làm chánh, chánh phụ gồm đầy đủ. Trong Kiếp danh có nêu có giải, trong Chúng số có nhân có hạnh, trong Thọ lượng có thọ lượng của Phật và thọ lượng của nhân dân. Riêng luận thọ mạng sau thành Phật, cho nên trừ vương tử. Trong Bổ xứ có y báo có chánh báo, trong Pháp trụ có chánh pháp và tượng pháp. Trong Viên tịnh, “trước, lập danh cõi kia….”: là tướng. Không cao thấp gọi là “bình”, không thiên lệch gọi là “chánh”. “An ổn….”: là độ (cõi), “dùng lưu ly…..”: là nêu tướng thù thắng. Trong Thuyết pháp thì căn cứ nay Đức Thích-ca cho nên nói “cũng vậy”.

“Xá-lợi….”: là nêu thuyết ý Tam thừa. Cõi tịnh chỉ có một, đáp lời nguyện thuyết Tam, tức thiết lập tức phế bỏ.

Hỏi: Nguyện nói nơi nào?

Đáp: Căn cứ kinh Đại Bi Không Tạng nói: “Trong sáu mươi kiếp hành Bồ-tát đạo, nhân khi Bà-la-môn xin mắt, mà thoái lui. Nguyện ngày thành Phật khai pháp tam thừa”.

Hỏi: Đã được thọ ký rồi, vì sao lại trải qua bao nhiêu kiếp ư?

Đáp: Nếu thọ ký Bồ-tát thì chỉ thông đồ (đường lớn) nói “đắc vô sinh….”. Nay thọ ký Thanh-văn phải căn cứ kiếp nước, nơi Phật ứng thân thành cần có cơ duyên. Các Thanh-văn đây xưa chưa từng có hạnh của tịnh độ, nhờ thọ ký rồi sau mới cùng chúng sinh kết duyên. Căn cơ chúng sinh không đồng dẫn đến có kiếp nhiều ít. Long nữ tuy là Súc sinh mà dùng “thừa cấp” cho nên trước tu tập phương tiện. Nếu căn cứ quyền tích thì đây lại biệt luận. Lại các Thanh văn thời không đồng: Vì thích hợp chúng sinh nên tùy căn cơ dài ngắn, cơ duyên không đồng sơ trụ đâu có gì sai khác. Người đời thấy Thanh-văn được thọ ký thì cơ hiềm kiếp số dài xa, thấy Long nữ thành Phật bèn nghi thời tiết ngắn ngủi? Hoặc nghi ít lỗi mà mắc tội rất lớn, hoặc suy nghĩ ít thiện mà chiêu cảm công tự nhiên nhiều; hoặc chỉ trích Phật nói hồi hoặc bất định; hoặc trách Bồ-tát chỉ bày tích sai khác. Hoặc nghe thắng hạnh nhiều kiếp thì nghi giáo môn hư cấu, nghe chư Phật thần biến thì cho là tướng thuật thế gian bao gồm. Hoặc nghi sáu mươi tiểu kiếp coi như nửa ngày; hoặc mê một sát-na trải qua vô lượng kiếp. Nói như vậy là tà thì không thể biết số, chính vì hạt giống tà kiến mạnh, đời trước sức huân tập tu yếu, chắp tay ngay ngắn mà giữ cái tệ lậu, nhàn rỗi mà đàm luận thị phi. Chỉ tin giáo ngưỡng mộ lý, đâu cần suy đoán chủ quan. Phó duyên ích vật chẳng phải điều mà thế gian biết. Phải biết người này đâu hiểu Sơ trụ đắc tám tướng thọ ký, mười phương làm Phật thị hiện các thứ. Tuy thị hiện các thứ mà cùng Pháp thân thọ ký sai khác. Nếu không vì vật tu hạnh tịnh độ, thì nơi thành Phật vì sao chấp cõi? Trong phần “Kệ tụng”, kinh nói “Thập lực đẳng”: tức chỉ Phật quả mới gọi là “lực”. Sơ trụ phần đắc, gọi là “công đức”.

Nói “đẳng” là chẳng những chỉ cúng Phật kiêm tu hạnh tịnh độ, hoặc có thể do đắc thập lực công đức phần, thành sơ trụ thọ ký. Nếu dẫn Đại luận thì Bồ-tát có mười thứ lực phần, tức đây nêu nhập trụ Bồ-tát đầy đủ nhân thập lực. Kinh nói “Mỗi người đều cởi y trên của mình….”: Trong đây chung nói bốn chúng tám bộ và hai chúng xuất gia. Nói “y trên”: tức Đại y. Nếu luận ba y thì đều không thể bỏ, do pháp ở phướng Tây phần nhiều chỉ ba y. Như trong kinh Đại Phẩm, thì ba trăm Tỳ-kheo nghe Bát-nhã rồi đều lấy Tăng-già-lê để cúng dường. Trong Luận hoặc nói “quên tướng là pháp”; hoặc nói “ngày ấy lại đắc”. Hoặc chung nói “đó vì bao gồm tục”. Hoặc như Đại luận. Kinh nói “mà tự xoay chuyển”: là tiêu biểu nghe Thân-tử được thọ ký, pháp tánh tự nhiên mà chuyển, nhân quả y chánh tự tha đều chuyển.

Kinh nói “Tối đại Pháp luân” (Pháp luân rất lớn): “Tối” là kinh này khai trong Viên. “Đại” là Nhân (người)….bốn thứ Diệu, hoặc là mười thứ: Cảnh v.v…, hoặc là ba thứ: Phật v.v….. Luân của diệu pháp gọi là “Diệu pháp luân”. Đây lược đối đầu cuối, không thuật chặng giữa Phương-đẳng Bát-nhã, đầy đủ như trong Huyền Văn. Kinh Hoa Nghiêm nói mười việc gọi là chuyển pháp luân, đây mới thông phương. Lại nói Viên âm không còn Đại tiểu, mà chúng sinh tự sai khác. Đây chính là từ chối chê bai diệu pháp, sao gọi là xưng tán, sao cho là hoằng kinh? Bốn hàng rưỡi cuối là tự thuật: Chỉ liệt kê ba danh. Trong đó nên phân một hàng đầu tự thuật. Tiếp hai hàng rưỡi tùy hỷ. Một hàng cuối là hồi hướng. Nên cần đối với văn, vi tế thuật ý kia. Trong năm pháp (sám) hối không có ba loại này, đã dự biệt ký không có tội có thể hối. Đã thâu hoạch phần thọ ký cho nên không khuyến thỉnh, đã có chỗ đến nên lược không phát nguyện, nếu vọng cực quả chỉ trừ sám hối. Bốn thứ còn lại đều trong năm hối, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. “Như Thân-tử…”: ở trước bốn văn chỉ thuật ba đoạn: Pháp trước cùng nghe không cần thuật lại, chỉ thấy Thân-tử lãnh giải… ba thứ, con nay đồng nghe cũng nên cùng đắc đều là quyền: chỉ vì duyên thật hành chưa thuần thục, quyền hạnh đồng sinh, cho nên hơn bốn mươi năm không hiển chân thật, vừa nghe diệu lý của năm Đức Phật, bỗng nhiên liền phá vô minh, tìm kiếm có thể được thọ ký. Thật bệnh đã lành, Quyền tật cũng giảm, lẽ nào một đời giáo hóa công toàn là đảm nhiệm thật hành? Trong cụm từ “Bồ-tát cũng chưa lành bệnh vân vân”, thì “vân vân” là: lẽ ra rộng trình bày các cõi, chỉ bệnh và lành bệnh.

Trong câu “A-nan dẫn nhân duyên Không Vương mà được thọ ký vân vân” thì “vân vân” là: cũng nên vượt qua nơi đây và bốn đoạn của chu dưới, đều căn cứ Thí và Nhân duyên. “Văn sau ở trong phẩm Pháp Sư vân vân”: văn nói nhân duyên đời trước sau đó bốn chúng hoan hỷ, là chỉ đoạn đầu văn trường hàng trong phẩm Pháp Sư. Đầu tiên nêu ra nhân loại trong đó liệt kê đầy đủ hàng tứ chúng tam thừa. Đã nói: “Các loại như vậy đều ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu, một bài kệ, nhất niệm tùy hỷ”, cũng phải là văn hoan hỷ. “Nay mới vận đại bi…”: Chu đầu vốn là tự nghi, trong đây nhất hướng lợi vật mới vận đại bi, đây tức cần phải tu hạnh tịnh độ, là nền tảng của Bồ-tát hạnh. Căn cứ đây giải thích ý trước thì có thể thấy. “Có người nói…”: là người xưa nói. Thân-tử pháp thí đầu hai chu đều có một nghi, cho nên nói “mới cũ (tân cựu)”. Dùng 1200 người tại chu đầu chưa nghi, cho nên chỉ có “tân”. “Nay cho rằng thượng căn…”: là Thượng căn ban đầu nghe lược thuyết động chấp sinh nghi, nhờ chương ngũ Phật liền thâu hoạch đại ngộ. Trung căn chấp nặng khi nghe lược thuyết thì cùng thượng căn đồng nghi, tại pháp thuyết mà chưa ngộ thì nghi kia vẫn còn. Lẽ nào chẳng phải trung căn nghi nhiều hơn thượng căn? Cho nên, Thân-tử tự trình bày nói: “Con nay không còn nghi hối”.

“Các vị một ngàn hai trăm đây…”: là thuật chúng đồng có nghi hoặc, sao lại nói Thân-tử nghi nhiều?

Hỏi: Phàm phu cũng có người một phen nghe liền ngộ, đã nghe lược rộng năm Đức Phật khai quyền, và nghe Thân-tử lãnh thuật được thọ ký, long quỉ còn hay dẫn theo lệ, trung hạ căn tại sao ngu độn còn mê ư?

Đáp: Đây có hai nghĩa: 1) Chấp lâu; 2) Nhập vị. Giải tức phá chấp, chấp phá thì nhập trụ. Phàm phu không có hoặc đây sẽ dễ lãnh ngộ. Hàng Thanh văn do hai nghĩa, tuy nghe mà chưa chứng, đối với hạng chấp lâu này căn tánh không đồng, cho nên chia làm ba phẩm.

Kinh nói: “Nghe những điều chưa từng nghe”: Nghe Thân-tử bốn đoạn mà giáo xưa không có, căn cứ chương môn năm Đức Phật, ta chẳng phải tri kiến Phật. Nghiệm sở đắc xưa biết là không chân thật. Nay xưa chân thật đồng khác không phân biệt, cho nên nói “nghi hoặc”. “Vì bốn chúng phổ thỉnh…”.

Hỏi: Trước trong Pháp thuyết cũng trước ba sau một, nghe đã không ngộ. Nay lại thỉnh cũng trước ba sau một, thì cùng trước có gì sai khác?

Đáp: Nói “nhân duyên” tức là trước ba sau một, đầu cuối căn do, cho nên nói nhân duyên. Chương bốn Đức Phật lược, Thích-ca hơi rộng, tuy dùng Ngũ trược để giải thích nơi Quyền, mà đầu cuối chưa rõ cho nên khiến trung căn nơi đây không hiểu. Thí thuyết nêu rõ tướng luân hồi, nêu đầy đủ nguyên do cho ba xe để ra khỏi nhà lửa, kiêm chỉ ý đòi ba cho một. Rộng trình bày đồng ban cho, con bình đẳng, tâm bình đẳng, đây mới đáp nhân duyên thỉnh.

Trong đây “bốn chúng”, ở trong chương bốn Phật trước, chẳng những hai chúng Đương cơ và Kết duyên, mà còn phát ngôn và lãnh giải, tức là hai chúng Phát khởi và Ảnh hưởng. “Đỗi”: là oán hận. “Khai thí”: Căn cứ Đại kinh dụ có thể nói “biến dụ”, thông giới nội ngoại và Đại tiểu thừa… Cũng có thể nói “phi dụ”: Thế gian không có nhà lửa đây từ đầu đến cuối và người cứu lửa ắt dùng xe vận chuyển. Trước cho sau đoạt, trước ba sau một, nhưng Thí cùng Hợp xen nhau có rộng lược. Nếu Thí lược hợp rộng, thì trước nhiếp Hợp văn đến đối Thí xong, đến Hợp lại phải đều hiểu rõ. Nếu Thí rộng Hợp lược, thì Thế Tôn đâu có thể lo lắng, phải hiểu rõ Thí hợp chỉ lược đối. Trong “Tổng thí” nói “Một môn”: Trên nói chủng chủng đối bất chủng chủng tức “một môn”. Trên nêu sở thi đối Phật đạo thuyết; Phật đạo tức là “một môn”, chủng chủng tức là thi quyền. Nay đưa ra sở hiển chỉ nói một môn; cũng là đều đưa ra khả năng kia, dùng năng đối sở, ý kia không khác biệt, tư duy có thể thấy. “Danh như khách…”: Hành thì tại ngã rồi, danh thì từ người khác truyền, Thật hành thì thân, Quyền hành thì sơ. Hành thân thì danh xa, khắp ba cõi. Hành sơ thì danh gần, chỉ tại Đồng cư. Phương tiện Thật báo thay đổi làm xa gần. Tuy là thân sơ lại xen nhau hiển danh hạnh tương xứng, người khác không lầm truyền. Bởi vì hạnh cao thì danh xa, danh dày ắt hạnh thân, cho nên dùng “xứ” để tiêu biểu đó, nghiệm danh hạnh không xen lạm. “Phong cương…”: “Phong” nghĩa là được thống lĩnh khu vực có giới hạn, “cương”: tức bờ cõi sở phong. Nhỏ thì gọi là “bang”, lớn thì gọi là “quốc”.

Lại nói: Thiên tử kiến lập quốc thì dùng nơi rất xa làm “quốc”, “tể” là chủ tể, chỗ có chủ cai trị là “ấp”, trong ấp đều ở gọi là “tụ lạc”, cho nên ấp, tụ lạc… xuống dần nhỏ lại. “Không dùng cựu thích”: Chỉ dùng hư không đối nơi Tam thiên cõi Đồng cư, thiếu hai cõi Phương tiện và Thật báo, vì vậy nên không dùng. Tiếp, dẫn ý luận: Rộng bàn đồng và khác, phàm nói lập Thí dụ thì thủ xả không đồng, luận thì nhân quả đều luận, nay tạm đơn cử nói quả báo. Vả lại thí dụ “Trưởng giả” là quả Phật, tức nghĩa tu nhân chẳng phải là điều nay luận. Trong cực quả vẫn dùng Y báo để hiển Chánh báo, cực quả nói thành ắt khắp ba cõi. Thể của cõi tuy tức ngang dọc tương “đới”, nhị mà bất nhị, nay theo dụng của cõi chỉ căn cứ dọc mà luận, cho nên rộng hẹp không đồng để hiển ở khắp. “Từ Bản thùy tích…”: Ngày nay, trước thì từ bản Tịch quang thị hiện ba cõi tích, đến hội Pháp Hoa thì nhiếp ba cõi tích, quy về bản Tịch quang. Hành sở khế lý bản, danh sở cập xứ tích. Lý khắp ba cõi, hóa cảnh ắt khắp, trọn không có hành kém mà danh rộng. Tức thể dụng tương xứng, cho nên nói không có khách chủ sai khác, tức danh hạnh thân cõi đều tương xứng. Như xưa giải thích không chọn hai cõi, chính vì dùng xứ được từ bi gia-bị làm “quốc”, thì khiến cõi Đồng cư và “ấp” không sai khác. Cho nên không biết xứ được từ bi gia-bị kia rộng hẹp, mà làm quốc, thì hoàn toàn lỗi ở Thật báo, Phương tiện. Văn vẽ rực rỡ sáng tỏ, tức văn thể phân minh tướng đáng sợ. “Dương dật” (biển lớn tràn đầy): Trong đầy ngoài đủ. Trong đầy cho nên hành khắp, ngoài đủ cho nên danh bố. “Tam hoàng”: Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế. “Ngũ đế”: Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường và Ngu. Hai thứ này đồng chỉ Sát-đế-lợi. Lại mượn đây để so sánh kia. “Hoàng” là trung, “Đế” là đức, tượng trưng thiên địa. Cõi đây các “tánh” (họ) ai mà không nương theo? Hể trước nay còn dùng thì chẳng phải là giữa đường hẻo lánh xa xôi riêng được, mà là dòng dõi của gốc kia (kỳ bản duệ). “Duệ” là y mạt (gấu áo), tức có bản (thân áo) để nương theo. Có người nói: Miêu duệ: Cỏ mới sinh gọi là miêu (mầm mống), tức bắt đầu có tánh (họ), nối dòng không lẫn lộn như mầm mống đầu nối dõi sau. “Tả điêu hữu sáp” (đuôi chim điêu cắm vào). “Điêu”: sách Thuyết Văn nói: “Điêu” tợ như chuột, xe cộ y phục rộng lớn thong thả đi. Chú giải rằng: giữa mũ tả điêu hữu thiền hầu hai bên, như (thiền) con ve sầu thanh cao uống giọt sương chứ không ăn. Lại nói “hữu sáp” (cắm vào) là cài trâm. “Tả phụ hữu bật” (phụ tá vua) là thừa tướng. “Diêm mai a hành”: là giải thích thừa tướng. Như giàu sang cao quí đáng tôn trọng thăm hỏi truyền nói, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. “A” là “ỷ”(dựa, tựa). Ỷ là ký (nhờ). “Hành” là “bình” (công bằng). Đồng lăng…..: Như Đặng Thông. Hán Văn đế mộng thấy rơi xuống giếng được Thông cứu, liền triệu Thông đến xem bói nói là không tránh khỏi chết đói, Đế liền sai người đến núi Thục Đồng đúc tiền, cung cấp thì đâu còn chết đói ư! Sau Ai Đế đăng vị mang tố cáo đúc tiền riêng dùng, nhân đó bị giam tù chết đói.

Có người nói chỉ là Văn Đế bị người khác ghen ghét, sau liền đói chết. Lại nhờ ban đầu giàu sang mà nói. Như Sách đời Tấn nói: Thạch Sùng có Kim cốc (hang vàng) tại phía Đông tỉnh Lạc Dương kéo dài sự tiến tới cũng là dẫn dắt. Nghĩa là uy do nghiêm túc vật không gắng gỏi mà thành, nghiêm cẩm tinh khiết như sương, lắng cao, cao mà lại nặng không sai mà tự đi, có thể đi vạn dặm, cũng như kho vũ khí, binh khí nào mà không có dùng thì hành động, bỏ thì cất giữ… Bạch khuê: Là ngọc tốt Thuyết văn nói: Ngọc may mắn, trên tròn dưới vuông. Bạch hổ thông nói: Ngọc trong sáng ưa chiêm ngưỡng.

“Nhất nhân (một người)”: Hiếu kinh nói Thiên tử. “Xuất thế trưởng giả”: mười văn đầy đủ. “Phật từ…”: là tánh, “công thành…”: là vị, “pháp tài…”: là (sang giàu) phú, “thập lực…”: là uy, “nhất tâm…”:là trí, “sớm thành…”: là kỳ (già), “ba nghiệp…”: là hạnh, “cụ Phật…”: là lễ, “mười phương…”: là kính, “bảy thứ……”: là qui. Nếu dùng quả vọng nhân thì nên gọi là Viên giáo từ Đẳng giác trở lại, kỳ thật nhân phát tâm cứu cánh hai không sai biệt, cho nên mười đức đây đều từ cực quả. Nếu từ đương phần quả phân quyền thật thì Quyền ba Thật một, mười đức danh đồng, danh… thể đương giáo biện rõ sai khác, cho nên khiến thật tế ba đế không đồng, cho đến sở qui nhiều ít cũng sai biệt. Sở dĩ “Trưởng giả” danh thông nay phải theo biệt, do biệt đứng đầu thông tức vượt bậc.

“Quán tâm Trưởng giả” có mười: “Quán tâm…”: là tánh, “tam hoặc…”: là vị, “tam đế…”: là phú, “chánh quán…”: là uy, “trung đạo…”: là trí, “cửu tích (lâu đã tích chứa)….”: là già dặn “đây quán…”: là hành, “lịch duyên…”: là lễ, “năng như…”: là kính, “thiên long…”: là qui. Mười đức này không ra ngoài Cảnh, Trí, Hạnh ba thứ. Tuy chưa nhập vị như vương tử ở trong thai, cho nên gọi là “quán hành mười đức của Như Lai”. Nếu đối xuất thế lại tùy giáo kia quán biệt, quả biệt; chuẩn theo giáo vọng quán nhân quả tự phân tức dùng tam quán đối nơi tứ giáo, đủ xem đức tướng để tán thán nơi quán, khiến người học sau tu nhân đầy đủ. Do quán mười đức thành quả mười đức, do năng nhất tâm chiếu đủ ba pháp, tức là quán tâm mười đức đầy đủ. Cho nên văn “dẫn Phật tử…” lấy làm chứng minh quán tâm, như trong Chỉ Quán đủ thành oai nghi. Lại mười đức đây tức mười pháp thành thừa, thứ lớp hợp thì có thủ đắc. Vì sao? Vì thật tướng tức là chánh cảnh, duyên lý khởi thệ nguyện cho nên gọi là trụ nhẫn. Do tâm an lý xứng lý hàm tàng, trừ ba đế hoặc, được phá danh khắp, Trung đạo song chiếu không tắc không thông, vô tác đạo phẩm quá Thất phương tiện, trợ giúp khiến ba nghiệp đối lý không có lỗi, đối cảnh không lầm do y chân vị. Tín giải đã sâu cho nên năng an nhẫn, không sinh pháp ái mới cảm sự cung cấp kẻ dưới. Ba giáo mười pháp triển chuyển giải thích nêu khiến thành mười pháp quán tâm của kinh này. Mười quán như đây không những ngang trong quán hạnh vị, mà từ sơ tâm đến mười quán sau đều đầy đủ. Cho nên mười đức đây nghĩa lại dọc sâu, lại cùng ngang dọc mười thừa hợp hết. Huống chi mười đức điểm tô kinh nghĩa đầy đủ. Phân lược xem khắp: Bộ phân mưu lược cho nên có xem khắp đại độ thông thấy. “Ti” : Sách Thuyết Văn nói: “ti” là tài (của cải). Sở dĩ nên lập ba loại Trưởng giả là vì: Hiệu “trưởng giả” vốn dùng thế đạo (đạo thế gian) để thí dụ xuất thế. Nguyên do xuất thế đều cần phải quán, cho nên biết thẳng nói xuất thế quán tâm, không phân quyền giáo và dùng viễn bản nhưng vẫn còn lược. Trong đây đã thành ba cách giải thích: theo Nhân duyên, căn cứ Giáo, và Quán tâm. Lược thì mười tám…: Giải thích trí năng thác (nương gá). Môn tuy lược rộng không ra khỏi nhà sở nhập. Nói lược rộng: Nhất cảnh nhất không, cũng có thể cảnh cảnh đầy đủ tất cả mười tám cho nên nói vô lượng. Như cho rằng nhất sắc nhất tâm đều đủ mười tám, như sắc đối căn, căn nội sắc ngoại và nội ngoại đều có, Không đây cũng Không cho nên nói Không Không. Nếu đắc ý này cho đến không có pháp, có pháp căn cứ đây nói có thể biết, chỉ từ tổng nói Không mười tám hữu, gọi là “Mười tám Không”, cho nên nói lược. Trong Mười tám có rộng lược nhiều ít, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói, và Pháp Giới Thứ Đệ, Đại luận rộng nêu. “Nếu luận…”: nêu phước tuệ để giải thích ruộng vườn nhà cửa. “Có nhiều ruộng nhà”: một nhà một cửa mà cửa kia còn nhiều, huống chi nhà giàu nhà rộng. Một nhà nhiều cửa lý hợp vô lượng, cửa là đường đi ra khỏi nhà, đường đi vào nhà, cho nên cửa không thể một. “Điền” (ruộng vườn): Nghĩa là phương thức nuôi sống thân mạng, đối với mạng, ruộng không thể hẹp. Lại, bao gồm khắp Quyền Thật, cho nên gọi là nhiều môn (nhiều cửa). Nếu y tứ quán đồng quán thì xa môn trạch môn (cửa xe cửa nhà) không sai khác.

“Đồng bộc” đến “đầy đủ”: “Đồng bộc” như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Xét đồng bộc: Là giúp đỡ thân mạng, cho nên biết đều là trợ giúp định tuệ nhất Thật, trợ giúp không thiếu nên gọi là “đầy đủ”. Dụng cùng quyền biến cho nên gọi là “hòa quang…”. “Huyệt huyệt”: là Thặng (dư thừa), cũng là địa vị quan ngoại nhàn rỗi, chúng sinh ở ngoài Thánh vị cho nên nói “huyệt huyệt”. Đối các giáo quán khác còn lại còn không sở thuộc, huống chi năng thuộc vị Thánh tột cùng! “Đều là trạch (nhà)”: Nhà là Chỗ ở, không ra ngoài ba cõi, từ lâu ở, cho nên gọi là nhà (trạch), thế gian đều như vậy, cho nên nói “đều” (giai). Như Lai dẫn dụ “Vật thống nhi (giống như ) gia”. “Thống” là chủ. “Gia” cũng là chỗ ở. Có người lấy đệ bát thức làm “gia” (nhà), đều là tùy mê, tại sao không tổng tám mà nói đệ bát? Đạo tràng quán ý lý là trí thông, lý đã là một môn đâu dung chứa hai, xuất ắt do môn cho nên không khác đường. Quang Trạch lấy giáo làm môn. Trạch (nhà): Là tam giới. “Chín mươi”: Văn nói theo lược, tức chín mươi sáu. Chín mươi sáu: là nhiều đường: Nếu muốn ra khỏi nhà thì chỉ dùng một cửa. Chín mươi sáu đường tuy đều nói là đường chân thật. Như theo chiều ngang qua lại rong ruổi chạy, cho nên Chín mươi sáu đạo thì kinh nói chỉ có một đạo là chánh, (dư) còn ngoài ra đều là tà. Có người dẫn nhiều luận nói: Lục sư đều có mười lăm đệ tử và Bản sư sáu, tức Chín mươi sáu. Căn cứ Kinh Cửu Thập Lục Đạo: không nói điều này, Kia luận tự là một đường, đâu có thể lục sư nhất định mỗi sư đều chỉ mười lăm đệ tử. Trong chín mươi sáu có tà có chánh, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói. “Nay nói…”: là phá hai luận già. Trong đó chia làm năm:

1. Trước phá hai sư. “Nếu riêng lý…”: trước nạn vấn đạo tràng, lý là sở thông. Nếu dùng sở làm năng, thì năng thông là sở, sao lại sở thông? Nghĩa môn không thành thì sao gọi là môn? “Riêng giáo…”: tiếp phá Quang Trạch. Nếu không vì sở lập năng đắc năng, thì chúng cuối cùng không có chỗ đến, nhưng lý không dung nạp nhiều, môn lẽ nào chỉ có một? Nay nói “một”: đầy đủ như sau giải thích. Nhà đã là nơi nghỉ ngơi thì chỉ nên dựng lập một, còn nói là có nhiều, huống chi môn năng thông tức môn Bất nhị trong kinh Tịnh Danh có tám ngàn. Nay lý giáo tương vọng không thể riêng luận.

2. “Tiếp nay dùng…”: là định tướng môn kia tức lấy giáo của lý làm môn, lý đã là một giáo không chứa hai, lại tổng làm một. Chỉ một câu đây song phá hai sư, tức lấy năng của sở, cho nên từ năng có đến. Tuy không chánh phá đạo tràng dụng trí mà trí vọng nơi giáo đồng là năng lấy, giáo năng đã phế bỏ, trí năng cũng như vậy. Nhưng trí chắc y giáo mà quán nơi cảnh, nghĩa đã kiêm năng sở, lại không thể nói đắc trí. Tuy nhiên, hiện trái kinh văn. Kinh nói giáo môn, mà Quán sư nói lý trí, cho nên cũng cùng Quang Trạch đồng hoại.

3. “Văn nói…”: là dẫn chứng, giáo là năng thuyên Niết-bàn là sở đều khác với hai sư.

4. “Môn lại có hai…” phân biệt, giải thích. Trong giải thích lại có hai: Đầu phân biệt Đại tiểu tuy đồng mà có năng sở, Đại tiểu ngăn cách như trời vực vì vậy cho nên cần phải biện rõ Quyền Thật hai năng. Nếu biết hai năng, thì hai sở có tồn tại. Nếu biết Thực sở thì năng sở quyền đều thành thực năng. Khéo biết phân biệt rồi sau mới luận hội.

5. “Nếu trạch (nhà)…”: thiết lập nạn vấn, lại dùng xưa nay đối đãi nhau làm vấn nạn. Trạch là sở xuất, xe là sở nhập, cửa nhà là đường đi ra, cửa xe là đường đi vào. Hai đường đã không đồng, ra vào đều sai khác; vì vậy cho nên cửa nhà chẳng phải cửa xe. Cho nên nay nạn rằng: Nếu cửa xe và cửa nhà là một, thì tại sao ra khỏi nhà vẫn chưa được xe?

Nếu tuyệt đối đãi thì nay nên nêu câu hỏi: Nếu cửa của xe lớn chẳng phải cửa nhà thì khi đòi cũng nên riêng có đường ra, vì sao lại từ nơi ra xin xe lớn? Trưởng giả cũng chỉ ở đây cho xe lớn (Đại). Lại, hỏi: Được trạch môn rồi mà chưa được xa môn thì trú ở nơi nào? Đáp: Đại tiểu khác đường cho nên nói “biệt”, khai tiểu tức Đại đồng khác như thế nào! Cho nên nay trình bày bài xích thì xa và trạch (xe nhà) hoàn toàn sai khác.

Khai thì hai môn không khác, nhà cùng xe một, hai môn đâu có sai khác. Cho nên tam thừa có đủ hai nghĩa: Nương giáo ra khỏi nhà không thấy tiểu xa (xe nhỏ), trung gian đã trải qua hai vị điều hòa thuần thục mới theo cha đòi xe mà trước cha đã hứa cho. Đã đòi thì phải cho, khai tiểu môn kia đều là Đại giáo. “Môn…”: tiểu lý trọn không sai biệt, tuyệt lý không hai thô diệu, thể chỉ một. “Pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường”, thì tam giới còn có gì sai khác? Nếu không trước khác thì làm sao luận đồng? Người không có khổ đối nay đều hội . “An ổn đối pháp không an ổn”: Như Lai đã trụ Niết-bàn an ổn, đối với pháp ngũ trược kia không an ổn, cơ cảm gặp nhau gọi là “đối”; nơi không an ổn cũng lại như vậy.

“Tường bích” (vách phên) dụ chi tứ đại: Ứng thông ba cõi đều giảm tổn, vô sắc tuy không có tứ đại tạo sắc mà định quả sở vị đều là vách phên. Ba cõi đều do ý thức duy trì. Nếu căn cứ các tông, thì vô sắc chẳng phải hoàn toàn không có sắc tứ đại, mà tao nhã thích hợp kia. “Muốn khiến…” là quán giải: Trước thì thông ba cõi mình người, cho nên thuộc nơi sự, đây quán thân mình tức nghĩa quán tâm. Có người đến đây lại dùng y chánh hai báo hợp dụ có gì không thể ư? Lại như thành hoại mỗi hai mươi trung kiếp. Nếu không có hữu tình thì làm sao giải thích trược? Nghĩa thiêu ít ngăn cách, cho nên không dùng. Văn nay chỉ căn cứ ba cõi chánh báo nhân quả, lấy Chánh báo nhiếp Y báo, nghĩa kia tự đủ. “Hốt nhiên (bỗng nổi lên)….”: Nếu chỉ căn cứ tiểu thừa thì vô thủy tương tục bèn thành bản hữu (vốn có), niệm niệm sinh diệt bèn là nay không có. Nay thêm Đại thừa tánh lý vốn không, do vô minh cho nên “có”. Cho nên, nói “xưa không, nay có”. Nói “vô minh” là bao hàm thô tế; nay chỉ thô là tế lẽ nào có thể có các đường khác? Nhưng nói “vốn không” thì người thường nói, đây là rất khó. Cho nên Đại kinh nói: “Vốn không nay có, vốn có nay không, ba đời có pháp, thì không có lý đó”. Nay tuy dẫn một câu cùng ba câu liên quan nhau, cho nên cần lược biện phân biệt Đại ý. Nhưng một bài kệ này bốn xứ xuất, người xưa gọi là Niết-bàn tứ trú cũng gọi là tứ xuất kệ. Cho nên biết giải thích không đúng lý thì nhà Niết-bàn nghiêng đổ. Nói “tứ xuất”: Nghĩa là Thứ chín, Mười lăm, Hai mươi lăm, Hai mươi sáu. Đại lý tuy đồng nhưng đối văn thì có chút sai khác. Thứ chín: Giải thích phẩm Bồ-tát, nghĩa sai biệt không sai biệt. Thứ mười lăm: Giải thích phẩm Phạm Hạnh, nêu đắc tức không đắc, không đắc tức đắc. Thứ hai mươi lăm: Phẩm Sư Tử Hống, giải thích hữu bất định hữu, vô bất định vô. Thứ hai mươi sáu: Phá định tánh, nêu vô tánh. Xưa nay giải thích tùy tình không đồng. Thành luận sư nói: Trước Kim cang tâm thì vô thường, thường thì vốn có nay không, vô thường thì vốn không nay có. Lại nói: Vốn có phiền não nay không Bát-nhã, như đây có không đều tại xưa, cho nên ở trước Kim Cang, sau ba đời có pháp thì không có lý đó. Địa luận sư nói: Thường pháp thể dụng vốn có nay không. Chương An vấn nạn rằng: Bản ẩn nay hiển, cũng nên hiển rồi lại ẩn. Tam tạng nói: Chúng sinh vô thủy mà hữu chung, Niết-bàn vô chung mà hữu thủy. Nay nạn vấn, pháp vô thủy chính là vô chung, pháp vô chung ắt phải vô thủy. Nếu phiền não hữu chung là pháp có thể hoại, pháp đáng hoại nghĩa ắt có thủy, hữu thủy hữu chung đều từ duyên sinh tại sao đắc Niết-bàn mà nói hữu thủy. Hữu thủy ắt chung toàn đồng phiền não. Lẽ ra nói phiền não vô thủy thể tức Bồ-đề, cho nên vô chung; Bồ-đề vô thủy tức phiền não. Niết-bàn sinh tử cũng có thể căn cứ đây biết. Nay tức căn cứ Đại, cho nên lại nói “vốn (xưa) không, nay có”. Kỳ thật vốn có, tức sinh tử là Niết-bàn; do từ mê cho nên mà nay không, lý tịnh vốn không từ mê mà nay có, cho nên nói vốn không nay có. Tiểu tông nếu nói “vốn không nay có” thì từ duyên sinh cho nên nói vô minh. Quán sát ý các sư cùng Niết-bàn lý đều không tương đương.

Chương An có năm giải thích:

  1. Căn cứ ba đế.
  2. Căn cứ thường vô thường.
  3. Căn cứ trí ba trí.
  4. Căn cứ Tứ Tất-đàn.
  5. Căn cứ bốn môn.

Nay văn chinh là cùng nghĩa thứ hai đồng, vốn không nay có thường tức vô thường… Riêng căn cứ Tiểu tông, chỉ nên căn cứ kệ bên dưới đầu tiên giải thích nghĩa “lâu cũ”, mà nói ba cõi vô thủy là “lâu”, chẳng phải nay tạo cho nên gọi là “cũ”. Nay khai giáo vi diệu, cần phụ tông vi diệu. Cho nên giải thích “hốt nhiên” nói “vốn không nay có”, chỉ y Chương An ý giải thích thứ hai, văn nghĩa thì hợp. Cho nên, biết lại dụng vô thường một bên, tức thường một bên nghĩa sẽ lại che phủ. Lại người khác đến đây rộng nêu bày chương nghĩa bát khổ tứ sinh, chẳng phải chánh ý văn chỉ biết mà thôi. “Không có căn cơ này là Năm trăm người” là các con nói chung. “Ba mươi người” là chỉ riêng, cho nên biết lúc trước thông năm đường, nay tại chúng Kết duyên. Nói đây không có căn cơ là từ khước chỉ trước liệt nêu, vậy thì nói Năm trăm chỉ có Chánh nhân. Luận ba mươi biệt tại Duyên và Liễu. Trong văn liệt, do năm trăm người đây là sinh cơ xứ. “Hoặc là Tiểu thừa nhiếp…”: Gặp đời có Phật đời không có Phật không đồng. “Đều nói mười”: Trong văn hợp nói hoặc mười, hoặc hai mươi cho đến ba mươi. Ý nói tam thừa đều mười mà thôi. Đều nói “trong có trí tánh”, là trí ắt đầy đủ mười, so với mười một trí trong kinh Đại Phẩm vì không có Như thật trí. Nói mười trí: Nghĩa là Thế trí, Tha tâm trí, Khổ, Tập, Diệt, Đạo trí, Pháp Tỷ trí, Tận, Vô sinh trí, lược như trong Huyền Văn Diệu trí nói, rộng như trong phẩm Trí ở luận Câu-xá nói.

Văn kia tổng làm sáu môn giải thích:

  1. Hữu lậu vô lậu.
  2. Triển chuyển tương nhiếp.
  3. Cùng tam Tam-muội tương ưng.
  4. Cùng căn tương ưng.
  5. Nêu duyên cảnh nhiều ít…

Như mười trí này thì Tam tạng, tam thừa trước sau đều tu, cho nên người tam thừa nhờ đó mà ra khỏi nhà, chẳng phải chánh ý nay không tiện rộng nói. “Thân thọ…”: đảo sở y. “Từ đây…”: là đảo tướng. Lược như trong Chỉ Quán quyển bảy văn ghi chép. Chuẩn theo kinh luận thứ lớp lập. Đây trước nên lập Ngũ đình tâm vị. Luận Câu-xá nói: Nhập tu cần hai môn là Bất tịnh quán và Sổ tức. Người tham tầm tăng thượng, như thứ lớp nên tu. Vì thông trị bốn thứ tham lại biện quán xương tiêu, rộng đến như biển. Lại lược gọi là “bắt đầu huân tập nghiệp vị”, trừ chân đến nửa đầu gọi là “đã tu thuần thục”. Buộc tâm tại mi gian (giữa chân mày) gọi là “siêu tác ý vị”. Cái gọi là tham: Hiển sắc hình sắc cung phụng xúc cảm. Với Đại luận nói sáu tức thiếu nhân tướng, âm thanh phóng túng. Sổ tức…: A-na đây nói bỏ đến, Ban-na đây nói bỏ đi chỉ là hơi thở ra vào. “Bát khổ”: là đảo quả. Đại Kinh quyển 12 nói: “Cái gọi là khổ: Lấy sự bức bách làm nghĩa”. Nói bức bách: Là ba khổ, tám khổ. Nói ba khổ: Là y ba thọ mà sinh. Khổ thọ sinh khổ khổ, sinh tại Dục giới. Khổ v.v…. ba đường cho nên gọi là khổ khổ. Tam giới đã khổ, Dục giới lại khổ, cho nên nói khổ khổ. Lạc thọ sinh hoại khổ, khi lạc hoại thì khổ… nơi ba đường cho nên nói hoại khổ. Khổ trong hành xử, gọi là hành khổ, thông đến Vô sắc. Câu-xá nói: Như để một lông mi trong lòng bàn tay thì người không biết, nếu để trên tròng con mắt thì làm tổn hại không an. Phàm phu như bàn tay, bất giác hạnh khổ như mí mắt Cho nên Đại kinh nói: Ở trong khổ các cõi dưới, ngang nhiên sinh lạc tưởng. Biệt luận tuy vậy mà thông khắp tam giới, đều đủ ba khổ. Nói tám khổ: Tức sinh….

Sinh khổ có năm: 1) Sinh khổ tức lúc đầu thọ thai. 2) Đến cuối cùng. 3) Tăng trưởng. ) Xuất thai. 5) Chủng loại.

Lão khổ có hai thứ: Niệm niệm, chung thân. Lại có hai thứ: Tăng trưởng và Diệt hoại.

Bệnh khổ: Một tứ đại không điều hòa, tức có hai thứ nghĩa là thân bệnh, tâm bệnh.

Tử khổ: Có ba: l) Nghiệp báo. 2) Ác đối. 3) Thời tiết đối dứt. Lại có hai thứ: Bệnh tử, ngoại duyên….

Ái biệt ly khổ: Xả đối tượng ái tức là hoại khổ.

Oán tắng hội khổ: Tức là khổ tâm, khổ tâm lãnh nhận nơi khổ cảnh.

Cầu bất đắc khổ: Trở lại căn cứ ái biệt ly, oán tắng hội để nói.

Ngũ ấm xí thạnh khổ: Kinh giải thích bảy thứ khổ trước là ngũ ấm xí thạnh khổ.

Ca-diếp hỏi rằng: Nghĩa ấy không đúng. Như xưa đức Phật nói tất cả chúng sinh đều mong cầu nơi sắc, sắc nếu là khổ thì không nên cầu sắc? Phật dạy: Khổ có ba thứ: Tức là ba thọ, tuy cầu không được không khổ như trước. “Nếu biết….”: khởi quán niệm xứ. Luận Câu-xá nói: Tu Ngũ đình rồi thì tiếp tu Niệm xứ, nghĩa là dùng chỉ quán tự tướng công tướng tu thân thọ tâm pháp, tự tướng biệt tu. Tất cả các pháp hữu vi đều là tướng Vô thường, tất cả hữu lậu đều là tướng Khổ và tất cả pháp tướng Không, ngoài ba thứ này đều là pháp niệm xứ thu nhiếp. Mỗi mỗi đều có ba duyên: Nghĩa là tự, tha, đều có tổng thành mười hai, từ thô đến tế. Nói tổng tướng: Hoặc tổng hai, ba, bốn, đây tổng nhưng biệt, chỉ pháp niệm tổng, đầy đủ như trong Huyền Văn tứ cú phân biệt. Tứ sinh: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, đầy đủ như trong luận Câu-xá quyển 8 phẩm Thế gian nói rõ. Luận nói: Trong đó có tứ sinh hữu tình, nghĩa là noãn…, người, bàng sinh đầy đủ bốn, địa ngục và chư thiên, trong đó có chỉ hóa sinh; quỉ thì chung thai hóa hai thứ.

“Liền rất kinh sợ” đến “có khổ”: Trưởng giả đại bi ứng Tiểu thừa và thoái tâm Đại thừa kia, đồng thời mà khởi. Nói “không vui, có khổ” nghĩa bao gồm Đại tiểu. Xưa từng nghe Đại nghĩa như có vui, thoái Đại thừa lưu chuyển quên mất quán giải kia. “Từ niệm không vui (lạc)”, chỉ có khổ kia, vì khổ cho nên thích hợp “bi”. Đại tiểu ứng pháp cần phải giải thích “xuất”. “Ta dù có thể” đến “nghĩa từ bi”: Tuy xuất mà nhập, cho nên thành “từ bi”. Tiếp, “Tuy là…”: giải thích chữ “tuy”. Trong đó trước là thông thích đại ý, tiếp là biệt thích môn sở cảnh. Đầu văn: Trưởng giả trước đã ở ngoài an ổn, tuy an ổn mà sợ, tuy xuất mà nên nhập, mới biết Như Lai thường trụ Đại bi, ở yên trong Niết-bàn mà không lìa tam giới, cho nên dùng “an ổn đắc xuất” để giải thích “kinh sợ”. Thấy con về bản chất có chí lớn (Đại) như từ lâu đã an ổn, do thoái đoạ khổ, lại khởi tiểu bi như bắt đầu kinh sợ. An ổn không lâu cho nên gọi là “tuy”. “Mà chúng sinh…”: giải thích nguyên do khiến cha kinh sợ, do chưa được cùng cha đồng an ổn.

“Như Lai…”: Nêu nguyên do vào nhà lửa là do tiểu bi. Con đã đọa khổ, dùng nơi con khổ để giải thích an ổn, cho nên nói “không bị tám khổ bốn đảo…”. Cho nên nói “Phật trí” tuy thông Bản thật, lại phân quyền tích mà làm chánh giáo. Cho nên dưới giải thích “môn” thì từ thuyên giảng tiểu thừa mà giải thích. Tiếp, “Kinh nói…”: Là biệt nêu nghĩa môn để giải thích nghi. Trước, lại nêu kinh. Tiếp, “Nay hỏi…”: Là biệt giải thích. Đầu tiên, lập nghi. “Bào chữa nói…”: là người khác tuy bào chữa vẫn chưa thông, sợ thiêu giáo có lỗi, bèn tránh giáo mà thiêu người, người còn bị thiêu thì cần gì giáo ấy. “Như môn…”: người khác lập dụ. Nay hỏi: dù khiến không thiêu, từ nhân (người) được tên, người quyết định bị thiêu không? Người nếu quyết định bị thiêu thì đâu khác Chín mươi (ngoại đạo)? Huống chi kinh nói: “Dùng Phật giáo môn xuất khổ tam giới”, thì người đâu từng bị thiêu? Nếu vậy, cả hai đều không bị thiêu thì có hai lỗi (thất): 1) Đều thường, mà đây chưa nêu thường. 2) Trái kinh. Kinh nói: cửa nhà bị cháy an ổn đắc xuất, khiến không có gì ngăn ngại. Từ “Lại hỏi…” trở xuống: lập lại ý nạn vấn: Lại lập nạn vấn thiêu cháy nhà. Nếu không cho phép thiêu giáo thì nên thường trụ, nay muốn chánh giải. “Nay giải…”: là chánh giải thích. Có thí dụ có hợp. Ý nêu Tiểu giáo đã chẳng phải sắc, tức Trung đạo pháp giới, giáo đây sao được không gọi là Vô thường? Nhưng Tiểu lý bất diệt Đại giáo ức chế. Tiểu giáo vô thường, nghĩa đồng bị thiêu, cũng như cửa gỗ. Lý chẳng phải vô thường, cũng như cửa Không. “Thiêu” và “an ổn” hai nghĩa đều thành. Nếu y cứ người xưa, thì người đã bị thiêu không được gọi là “an ổn đắc xuất”. Bản ý lập môn khiến kia không thiêu, chỉ có bị thiêu mà không có xuất thì nghĩa “môn (cửa)” không thành, “Đại kinh…”: Dẫn chứng. Kinh: Dùng nhân trước của mười tiên, nghĩa đồng năng thuyên, dùng nhân vọng quả cũng có thể mượn để dùng, như nhân Tiểu chứng Đại. Tiểu không có vô thường, thì Đại lẽ nào vô thường? “Nếu tiểu…”: đây lại đem Tiểu thông đối Diễn môn.

Nói “Văn tự tức giải thoát….”: Đại Tiểu sắc giáo đều là thường. Chỉ có tức bất tức sai khác, mới thành thiêu bất thiêu sai biệt. Tùy nghi cho nên “bất tức”, thuận lý cho nên “không thiêu”. Nay đều khai hiển tức thiêu không thiêu. “Nếu căn cứ…”: lại dùng Quyền Thật hai trí đối giải thích. Từ thi (thiết lập) Quyền biên cho nên nói “Quyền từ sở thiêu”. Đồng thể Quyền vốn tự thường trụ, dù tùy theo che phủ mà nói Quyền là sở thiêu, vẫn phải phân biệt, thì trong Quyền của ba giáo chỉ có Quyền của Tam tạng sinh diệt gọi là thiêu, hai thứ còn lại thì có chút sai khác. “Cho nên trước…”: dẫn chứng Đức Phật vốn muốn dụng Thật trí ví như kỷ án (bàn ghế), sự không thâu hoạch rồi mới thiết lập nơi vô thường, tức là sở thiêu Quyền trí. Có người nói: Căn cứ người không tin gọi là “sở thiêu”, đức Phật xưa từ đó mà xuất ra cho nên gọi là “an ổn”. Tuy là một đường không bằng văn nay. Kinh nói: “Nếu không kịp thời ra thì ắt sẽ bị thiêu cháy”. Cho nên nói “đắc xuất” (được ra) thì chẳng phải riêng trưởng giả, nói “bị thiêu” lẽ nào chỉ là kẻ không tin? Nên biết giáo pháp sinh diệt gọi là “sở thiêu”, chẳng phải do chúng sinh không tin cho nên diệt, nhà do trược (xấu) cho nên bị thiêu cháy, giáo môn tại sao có trược? Chỉ thanh giáo không trụ, nghĩa đồng sinh diệt, sinh diệt nói thiêu cho nên phải phân phán.

“Nhạo trước hi hí….”(Ưa vui chơi….): Trước là phân chữ để giải thích. “Hi” là du nhạo. Du gọi là vui thích khắp, cho nên thí dụ Kiến hoặc khắp tam giới. “Hí” tuy cũng nhạo mà tùy chỗ, chẳng khắp vì trong tam giới bị trói buộc riêng biệt. “Lại, đam miện…”: hợp chữ mà giải thích: hai chữ này nghĩa thông gọi là “nhạo”, cho nên dùng hai chữ đều thông Kiến Tu, do “trước” ái kiến đều mất đạo. Ái Kiến là Tập, Tập ắt chiêu Khổ; đầy đủ Khổ, Tập nên ắt không có Đạo, Diệt.

 

PHẦN TRUNG

“Bất giác bất tri…”: Căn cứ Tứ đế giải thích bốn câu đây. Chỉ đầu tiên nêu văn nên liệt kê đủ bốn câu, chỉ là văn lược trong đó chia làm ba:

  1. Căn cứ phàm giải thích.
  2. Căn cứ vị giải thích.
  3. Căn cứ ba đời.

Phần một lại có ba: Nêu, Giải thích, Kết.

Phần Nêu: “Đều không nói…”: là nêu Khổ. “Hỏa”: Tam giới ngũ trược bát khổ. “Không hiểu hỏa…”: là nêu Tập. Hỏa vốn năng thiêu như Tập chiêu cảm khổ. “Đã không biết…”: là nêu lỗi Đạo. Đã không sợ tổn thương cho nên nói “bất kinh” (không sợ), thương tổn tức lỗi. “Không lo đoạn… ”: là nêu lỗi Diệt. Không đạo đế thân, thì Tuệ mạng cũng đoạn.

“Chúng sinh…”: giải thích bốn câu trước. Ấm ắt là khổ giải thích khổ trước có. Đã hoàn toàn bất giác tức là không biết khổ. “Bất tri…”: giải thích Tập trước. “Bốn đảo ba độc” giải thích Tập trước có, đã hoàn toàn bất tri (không biết), cho nên không biết Tập. Ba độc là Tu hoặc, bốn đảo là Kiến hoặc. “Đã không…”: giải thích lỗi Đạo Diệt. Do bất tri khổ Tập nên Đạo Diệt đều lỗi. “Không biết Hoặc” là không biết Tập. Đã không biết tập nên không ưu lo khổ. Hoặc xâm tổn pháp thân lỗi Đạo đế, ắt tổn tuệ mạng lỗi Diệt đế.

“Như thị…”: là kết. “Do không nghe…”: là tiếp, nương vị giải thích. Trong đó, đầu tiên là dùng hai câu đầu hai lớp thuận giải thích. Tiếp, dùng hai câu sau trở lại giải thích. Đầu văn trước dùng hai câu đối nơi Văn, Tư, nên nói “bất giác Văn, Tư, bất tri Tu tuệ”, chỉ là văn lược, Tiếp dùng hai câu tiến đến Thánh vị. Tiếp trở lại giải thích: Lẽ ra nói không kiến đế cho nên “bất kinh (không sợ)”, không tư duy cho nên “bất bố”(không hãi). Trong văn phản thích, nên nói “Kiến đế tức kinh ngộ”…. Đây nêu Tứ đế quán thành Kiến hoặc và Tư hoặc cứu cánh tận. Do Hoặc tận cho nên Tứ đế hoàn toàn hiển. Bắt đầu đắc Kiến đế mê ngộ bắt đầu phân, như từ lâu mê bắt đầu chánh cho nên nói “kinh ngộ”. Lại nhàm chán sợ hãi thi đường mê mới tận (hết). Tiếp, căn cứ ba đời: Không nói quá khứ và dùng Tập, tức hiện tại quán vị lai Khổ là do hiện tại Tập. Lại quán hiện tại Khổ là do quá khứ Tập, như trong nhân duyên gọi là luân hồi. Tuy luận ba đời mà chánh là quán hiện tại Khổ; do đoạn Tập hiện tại, nay sẽ dứt khổ. Cho nên biết bất giác hiện khổ, tức Khổ Tập đều mê. Do đây năng chiêu Khổ đời vị lai, đã mê Khổ Tập, thì về lý tất nhiên là không có Đạo Diệt. Nêu hai đời khổ để nhiếp ba đời, đầy đủ như dẫn văn, cũng chỉ dùng Khổ mà nhiếp nơi Tập. Nhưng ba giải thích trước tuy lại căn cứ phàm, căn cứ vị… ba thứ. Tóm lại mà nói: Đều là mê đế, do mê đế nên tám khổ bức bách thân.

“Năm thức…”: Bức bách gần. Trược tại năm thức, gọi là “gần”, vì rất gần với mình nên gọi là “bức thân”, đồng thời ý thức đều thọ cảnh khổ, chẳng phải sát-na đầu tiên khi chưa phân biệt. Lại chỉ thể của năm thức này là dị thục bát khổ. Gần lẽ nào quá đây, cho nên đây đồng thời đâu có thể chán lo. Cho nên ở đây tâm vương tâm sở không thể do ý thức đây thành quán, chỉ có thể phân biệt để thành ba thọ. Ba thọ nghĩa thành cho nên nói rất gần với mình. Rất bức bách nên gọi là rất gần. Cho nên mỗi một khổ đều do năm thức để đối nơi cảnh. Tiếp, đến thứ sáu mà lập lại phân biệt, lại lập khổ nhân, tại sao năng sinh nhàm chán?

“Cũng nói…”: xuất các giải thích khác. Xưa kết Đại thừa gọi là “chủng”. “Công đức” tức là “pháp thân trí tuệ”, tức lấy trí này làm thể. Bị khổ bức bách, đại lý trí thừa đều gặp khổ tập. Bất giác bất tri gọi là bị lửa bức. “Nay cho rằng…”: chỉ căn cứ tên “trược”, không cần đối Đại thừa. Đã lưu chuyển rồi, thì Tiểu còn không biết, cho nên tổng các nghĩa cộng thành năm trược. Bốn câu Bất giác v.v… là Chúng sinh trược, vì bốn câu chỉ là mê nơi Tứ đế. Do mê đế cho nên Chúng sinh tức trược.

Tiếp, “Lửa đến…”: là Mạng trược: Khổ thạnh, thọ ngắn ngủi, khiến mạng thành trược. “Tâm chẳng nhàm…”: là Kiếp trược. Do không nhàm khổ, thường tại tam giới ắt gặp tam tiểu, gọi là Kiếp trược. Trong câu “Như thế cùng Năm trược tương đương vân vân” thì “vân vân” là: Ý bài xích sư xưa không cần đem đây đối Đại thừa nói. Dùng năm trược chỉ là rộng nói thấy lửa bên trên, bởi vì trên chỉ nói “thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên”. “Ông Trưởng giả đó lại nghĩ…”: Trước, giải thích “năng thi” tay và thân. Tiếp, giải thích “sở thi” vạt áo. Năng sở đều phế bỏ, cho 2 nên nói “không được”. Phần trước, văn chia làm mười phần:

  1. Nêu.
  2. Dẫn hợp thí.
  3. “Y Tam-muội…”: nêu hai nghĩa sở y.
  4. “Trí đoạn…”: nêu hai nghĩa công năng.
  5. “Đây là…”: nêu hai nghĩa môn.
  6. “Khuyến tức…”: dùng tứ Tất-đàn giải thích.
  7. “Như Lai…”: nêu ý dùng hai nghĩa.
  8. “Cho nên biết…”: là kết quy.
  9. “Cho nên văn trên…”: dẫn chứng.
  10. “Trước tán thán…”: lập lại chỉ trước chứng.

Bốn phần trước có thể biết. Phần thứ năm: “Đây là…”: Tức dùng nhân quả tương đối, Khuyến là môn của Trí, Giới (răn) là môn của Đoạn, cho nên nói “từ hai môn nhập”. Nay trong môn Khuyến lại nói Giới (răn), thì thể môn lý hợp xen nhau đầy đủ, đều một nghĩa tiện cho nên lại biệt nói. Trong phần thứ sáu: dùng tứ Tất, nói “Hai Tất-đàn này là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn mà làm phương tiện”: hai Tất-đàn là tu đắc Trí, Đoạn. Đệ nhất nghĩa tức tánh đức pháp thân. Đầu phẩm Phương Tiện do Pháp thân Trí Đoạn áp dụng cho vật không được, cho nên thôi hóa.

Hỏi: Vì sao không nói Thế giới Tất-đàn?

Đáp: Đều hai môn không đồng tùy thích đều có biệt. Lại nghe hai việc hoan hỷ đều là Thế giới, cho nên Phật thừa đây sinh thiện diệt ác, sinh khắp tám môn, Viên Biệt bốn môn đều hai đều bốn. Cho nên hai môn đây nhiếp tất cả pháp, ngoài ra như văn.

“Trong Giải thích sở thi” văn chia làm ba phần:

  1. Xuất sở y Tam tạng.
  2. Xuất cựu giải.
  3. “Nay dùng…”: là chánh giải thích.

Phần đầu tuy y Tam tạng chỉ biện rõ vật tướng, chưa nêu pháp môn. Tiếp, trong phần cựu giải, Sư đầu tiên nói: Đại thừa nhân quả, lý tại sao không thể? Chỉ thiếu tướng thi hóa, cho nên không dụng. Sư thứ hai đã nói rút trong kinh A-hàm, không nên dùng Tiểu mà giải thích về Đại. Dù nói Đại thừa tại sao có khác Tứ giai (thành đạo)? Có người nói “giới” (vạt áo) là tay áo. Nay không dùng, lẽ nào dùng tay áo chứa đựng con (thạnh tử) để cứu lửa? Tiếp, trong phần Chánh giải thích “Cũng dùng….” là hợp thí. Phật tự giải thích nghĩa, lẽ nào đồng tình thế gian? Trong đó chia làm năm phần:

  1. Dẫn văn dưới.
  2. “Thần lực…”: là chánh giải thích, thân tay chỉ trước giải thích vạt áo…
  3. “Như Lai…”: nêu rõ dùng ba ý.
  4. “Vạt áo…” nêu ý lập danh. Ba phần trước: có thể biết.

Nói “Danh lược nghĩa huyền”: Biết và thấy là hai chữ, cho nên “danh lược”, nhiếp tất cả pháp cho nên “nghĩa huyền”, như một vạt áo cũng đủ cho nên “lược”, chứa đựng (thạnh) nhiều gọi là “huyền”. “Bốn vô sở úy” lược như trong Pháp Giới Thứ Lớp và Chỉ Quán quyển bảy nói, Trí luận rộng giải thích. Thông nói “Vô úy”: Thập lực nội sung ngoại dụng không khiếp sợ, gọi là “vô úy”. Đức Phật tự thành thật nói: “Ta là bậc nhất thiết tri nhất thiết kiến, không có tất cả Sa-môn và Bà-la-môn, hoặc Thiên; Ma, Phạm và các chúng khác nói Như Lai bất tri (không biết)”, cho đến “không có chút tướng sợ hãi”. “Dùng đối Tứ đế”: Tận khổ đạo tức Khổ đế, nói chướng đạo tức Tập đế, nhất thiết trí tức Đạo đế, lậu tận tức Diệt đế. Tứ chủng tứ đế tức bốn tứ vô úy. Nay nên tại Viên khắp tất cả bốn, ly hai làm bốn. Hai đều y đế, đế làm sở y cho nên gọi là “an”.

Tiếp, trong “Thập lực”, Thông nói “lực”: Bên trong cái mà chư Phật chứng đắc Thật trí dụng rõ ràng phân minh. Không gì có thể hơn, không gì có thể hoại được, cho nên gọi là “lực”. “Vô úy” và “lực” trong ngoài sai biệt, mỗi mỗi nhiếp khắp cho nên gọi là “hoành (ngang)”, thập lực y lý cho nên gọi là “thụ (dọc)”, thì mười xứ rõ đế lẽ nào không “đại an” ư? “Vô úy” và “lực” tuy có trong ngoài, nay đều căn cứ dụng cho nên trong ngoài đầy đủ. Năm, ba, bảy… là kết ý thi hóa. Nói “mà chúng sinh không kham”: đây chánh thiết lập Đại; nói “không kham” là chọn ý nói. “Chỉ có một cửa” cho đến “ hẹp nhỏ”: Trong đó có hai phần: 1) Chỉ trên loại đồng. 2) Phân môn giải thích. Đầu tiên nói “Nghĩa như trên nói”: Như xa môn nói trên, trong đây cũng là tuyên bày xa môn nhất Phật thừa. Hoặc là đã xuất trạch môn mà chưa nhập xa môn, dùng khó xứng cho nên gọi là “hẹp nhỏ”. Đầu tiên nói “biệt”: Biệt là dựa ba nghĩa phân chữ giải thích. Trong đó, trước là chánh giải thích. “Giáo lý…”: là giải thích lý do. Chánh giải thích: Đã là lý môn lại thuộc giáo, Tiểu tức không có căn cơ, do vô hành cho nên không nhập lý giáo, gọi là “hẹp nhỏ”. Nói “Không dung đoạn thường Thất phương tiện”: lẽ ra nói đoạn thường và Thất phương tiện, đối Thật không nhập nghĩa nói là “không dung”. Nói “Chúng sinh không thể dùng giáo lý đây để tự thông”: tức chỉ tuân theo phương tiện mà thực hành. Nói “thông thích”: Lý, giáo, hạnh ba thứ, mỗi mỗi thông nêu một môn hẹp nhỏ. Do không nhập nên không đắc đến quả. Đầu tiên, căn cứ lý, chỉ một pháp giới cho nên nói “không tạp”. Do lý nhất nên khắp thông tất cả, khiến đến lý đây cho nên nói “năng thông”. Do con không vào nên nói “khó biết”. “Căn cứ giáo”: Chỉ căn cứ Viên lý đối giáo để nêu, vì xuất nhập chỉ là lý giáo. Nói “phàm phu không biết xuất xứ” tức là không bằng nhị thừa đã từ trạch môn Tiểu giáo mà xuất. “Không biết nhập”: là không biết cửa xe (xa môn). Hai giáo nhị thừa chỉ từ môn mà xuất cho nên nói “ít biết”. Xưa giáo chưa thuyên bày thì vĩnh viễn không biết nhập. “Bồ-tát tuy tự biết xuất…”: là Thông giáo Bồ-tát. Tam tạng Bồ-tát tuy có xuất giáo trải qua ba tăng-kỳ trăm kiếp đều chưa xuất. Lại, Thông giáo Bồtát căn cứ độn căn, chưa biết nhập xứ cùng Nhị thừa đồng cho nên nói là “cũng chưa biết nhập”.

“Đoạt Thất phương tiện”: Trước cho nói phương tiện cũng nói “biết xuất”, còn chưa nhập thật gọi là “không biết nhập”. Nếu đoạt thuyết thì xuất cũng không biết. Vì sao? Vì không tự biết thượng trung hạ tánh cho nên không biết xuất, nên nói như thế. Thông biệt Diễn môn còn có thể biết nhập, nhưng “đới” giáo đạo. Cho nên, đoạt thuyết tức là Biệt giáo địa tiền đều không biết, còn không tự biết thượng trung hạ tánh, huống chi một tiếng động đất một trận mưa. Từ không biết Quyền biên mà nói “đều không biết”. Cho nên, Biệt giáo địa tiền tuy biết Trung đạo mà giáo đạo vẫn là Quyền. Căn cứ giáo đạo mà luận cho đến nhập địa. Nhập địa ắt chứng cho nên phế bỏ không luận. Tiếp, “Văn trên nói…”: dẫn văn. Người Thất phương tiện đều chưa nhập Phật thừa. “Không thể dùng giáo…”: Nói “phương tiện” ắt là dùng để thông Thật. Nếu Phật chưa khai thì đều không thể dùng giáo mình thông đến tột cùng. Nói “sẽ luận đàm”: bởi vì trước lúc ấy, chưa bài xích cho nên không nói “không có căn cơ”, lược khai phương tiện cho nên nói “sẽ luận đàm”. “Căn cứ hạnh”: có thể biết.

“Ấu trĩ (thơ bé) không biết”: Sư xưa hoặc nói thiện của nhân thiên là ấu trĩ. Nay thì Đại thiện chưa sinh tại sao gọi là ấu trỉ ? Y nay làm chánh. “Luyến trước (mê đắm)…”: Trước nêu thiện yếu cho nên chưa hiểu biết, nay nêu ác mạnh đùa giỡn cho nên bị thiêu cháy. “Nhân thời”: Khi bắt đầu thoái Đại. “Quả thời”: Thời thọ tám khổ. Thoái Đại về sau đắm nhân ái kiến. Y báo Chánh báo tức là quả ái kiến. “Dục giới” đắm Y báo. “Sắc giới và Vô sắc giới” đắm Chánh báo, cho nên nói “thiền vị, định…”. “Tướng đối trị” đến “Tiểu thừa”. Giới môn của Đại thừa gọi là đối trị, không đồng Vô thường v.v… của Tiểu thừa , cho nên dẫn kinh Đại Phẩm nói Tứ niệm xứ… đều là Ma-ha-diễn. Quán bất tịnh… năng sở đều vong đều “bất khả đắc”.

Hỏi: Nếu như vậy thì chỉ là quán lý, tại sao gọi là đối trị?

Đáp: Khi tu đối trị thì năng sở đều không, nay đây cũng vậy.

Căn cứ thiết lập Đại thừa giáo hóa lại khiến lìa trược, đối với Đức Phật chính là tướng Ma-ha-diễn, vì vậy cho nên được gọi là tướng Đại thừa trị. “Đã mê đắm…”: sở trị của Đại thì thích nghi nên dùng Đại để xả ác. “Nếu từ lâu (cửu)…”: Từ lâu trụ ở Kiến Tư, Đại tiểu đều lỗi. “Chẳng sợ” đến “như trên”: Như các văn giải thích bất giác v.v.. bên trên, rộng căn cứ phàm phu và ba đời. “Bối minh…”: Đông Tây ví như Khổ tập, nếu thấy rõ Khổ tập thì Đông Tây hướng đến sáng. Do không biết Khổ cho nên khởi nơi Tập, như mặt trời mọc hướng Đông mà rong ruổi hướng Tây. Không biết Tập cho nên chiêu cảm Khổ, như mặt trời phía Tây mà rong ruổi hướng Đông. Rong chạy nghĩa một cho nên kinh nói “hý”. Tử như qua, sinh như lại, trở lại rồi qua, sinh tử không dứt, không có thọ mạng biến dịch hai cõi kia như tốc tật (nhanh chóng). Lại từ Khổ khởi Tập như qua, từ Tập thọ Khổ như lại. Một Khổ một Tập, một Sinh một tử, cho nên gọi là chạy rong qua lại. “Tuy dùng Đại dự định thích nghi”: Nghe mà không chịu, “nhìn cha mà thôi”, như tuy thấy cha mà sợ bỏ trốn, mất cái lợi ích của thấy nghe, cho nên nói “mà thôi”. Dĩ là thôi. Lại, căn cơ bấu víu ở ứng, nên gọi là “nhìn”, cơ sinh không thọ nên nói “mà thôi”.

Từ “Đại thừa” đến “mạng cha đoạn”: Đều dùng Đại thừa làm mạng cha con, tuy Đại thừa cứu chưa được mà hạt giống không thể vong (mất ), do đó tuy muốn tiểu hóa, vì còn Đại mạng nên không phế bỏ công hóa độ. Trước nói “thiết dĩ”: đầu tiên khi thoái Đại chợt khởi năm trược, như mới bức bách thân, đại thiện dung chứa vẫn còn. Nếu lâu không xuất lưu chuyển năm trược, thì gọi là “chắc bị thiêu cháy”, tức Đại tiểu đều thất (mất). Đây nói khi khởi tiểu ứng, cho nên nói “nếu không kịp thời”. Đại thừa thiện căn lý thật không đoạn, ý khiến mau xuất ắt là do chết bức bách. Nếu lâu không xuất, thì nghĩa đồng nơi chết, cho nên nói “nghĩa chết”. Tức văn trên từ “bị thiêu” đến “nếu không kịp thời ra”.

Hỏi ý: “Được ra” và “đều bị cháy” trong ngoài nghĩa khác biệt, hai văn tương phản nghĩa kia như thế nào? Tiếp, “Trước đắc xuất…”: là Đáp ý: Pháp ứng không đồng hai nghĩa đều khác biệt, theo văn theo lý hai ý không đồng. Nếu căn cứ văn trước thì văn đã ký Tiểu (nương Tiểu thừa). Trở lại từ Tiểu giáo cửa bị cháy mà ra, thì trở lại căn cứ ngũ phần pháp thân. Nếu nghĩa kiêm nơi lý, thì pháp thông hai thứ. Nếu Pháp, Ứng tương đối; thì lý nên thường trú pháp thân đã xuất, nay luận ứng thân vật cơ thọ hóa thì cơ ứng đều cứu giúp cho nên nói “kịp thời ra”, không thọ hóa thì cơ dứt nên thôi. Khôi Đoạn, nhập diệt nghĩa “đều sẽ bị cháy”. “Bị cháy”, cho nên nghĩa sẽ là cha con mạng đoạn, lấy đây dự định thích nghi mà bức bách thúc giục.

Hỏi: Trước đã nói “được ra” là Pháp thân, Đại cùng Tiểu pháp đều không bị cháy, thì đâu cần nói “ra”?

Đáp: Chỉ do không bị cháy, gọi đó là “ra”, vậy thì Pháp thân, Ứng thân đều không bị thiêu, Ứng vốn đồng vật, từ vật nói là thiêu, theo lý thì Pháp Ứng không hoại, theo sự thì vật bị thiêu, Phật ra. Nay nói “đều bị thiêu”, ý tại đồng ra, cho nên nói: “Nếu không kịp thời ra…..”.

Có người nói: Cảm ứng đồng thời. Nay cho rằng chỉ được lý đều được ra mà mất nghĩa đều bị thiêu, cho nên dùng đều bị thiêu để chủ yếu là khiến đồng ra. “Từ Biết tâm con lúc trước…”: là nêu rõ có tiểu cơ nên tiếp dùng tiểu. Khai một làm ba, cho nên gọi là “đều”. “Lại biết” đến “tiểu mạnh”: Đại thoái cho nên yếu, Tiểu mạnh hai nghĩa : 1) Nhàm chán khổ. 2) Chính là trị. “Trong sáu tâm thoái”: Căn cứ theo ý Kinh Anh Lạc, Thân-tử trong Thập trụ tâm thứ sáu thoái. Sợ là trước lúc ấy Kiến hoặc Tư hoặc đều đoạn, khi đến tâm thứ sáu, Kiến còn chưa tận, lục tâm còn thoái.

“Tán thán ba xe”: Có người hỏi: Vì sao dùng xe thì ba, Sứ giả thì hai, thành thì một, thành thì có, xe thì không? Đều là thí phương tiện mà số không đồng? Người khác đáp có dư, nay lại vì đáp. Phàm lập thí đều từ một bên, không thể chấp một mà nghi đường khác. Cho nên một hai ba chỉ là ly hợp, vì đối tam chu thì tín giải… sai khác cho nên khác biệt đó thôi! Đều thí dụ phương tiện nghĩa kia không khác. Xe thì thông nêu phương tiện cho nên có ba. Sứ giả thì từ nạn biệt đối cho nên có hai. Thành là xứ của hai, ba cho nên một. Nên biết thành cũng từ người cho nên hai, cho nên nói chỗ nghỉ ngơi thì nói hai. Xe cũng từ nạn chỉ có hai. Sứ giả cũng nghĩa kiêm Bồ-tát. Ba thứ đây đều có Nhân (người) Lý, Giáo Hạnh. Thành hoặc nói hóa, cho nên cũng không. Xe dựa vào tạo tác, cho nên lại có. Sứ giả căn cứ Quyền đồng cho nên cũng có, Quyền chính là chẳng Thật, cho nên cũng không. Quyền Thật tương đối đều thông bốn câu, theo Quyền hóa cho nên đều có, theo Thật nghĩa cho nên đều không, đều thông Quyền Thật cho nên có không, đồng căn cứ một lý cho nên cả hai phế bỏ.

“Khuyên, chỉ, chứng”: Chỉ bày lẽ ra phải ở trước, theo thứ lớp trong kinh cho nên trước khuyên sau chỉ, cũng ưng không lỗi. Trong chứng, đều nói “cùng” (dữ): chỉ là mình đã chứng cũng khiến người khác chứng, cho nên gọi là “cùng”. Nói “Kệ trước bản lược”: thí bản chỉ nói “đó gọi là chuyển pháp luân…”. “Rộng nêu” đến “sáu câu”: Hiền hợp làm bốn, Kiến Tu làm hai. Hiền sở dĩ hợp: Pháp tứ niệm đồng cho nên làm một; Noãn, Đảnh đồng thoái cho nên làm một; Nhẫn không ngoài quán cho nên làm một; Thế đệ nhất vô thượng cho nên tự làm một. Kiến Tu đạo khác cho nên đều là một. Rộng như luận Câu-xá trong phẩm Hiền Thánh nói. Đây chỉ cần lược nêu. “Ba mươi hai đế”: Trên dưới đều có mười sáu hạnh tướng, trên dưới hợp luận, cho nên thành ba mươi hai, đầy đủ thì như trong Câu-xá, Thích Tiêm chỉ lược nêu. “Cùng Khổ pháp nhẫn không khác biệt”: Thế Đệ nhất tâm đồng sát-na này, tức nhập Khổ nhẫn, đồng quán Khổ đế. Lẽ ra nói: Trong bốn tùy quán một hạnh, cùng Khổ nhẫn đồng cho nên tổng nêu. “Rong chạy, là nhập Kiến đạo mười lăm tâm”: Sau thế đệ nhất, sát-na thứ mười sáu đều là vô lậu.

Có người nói: “Mười sáu tâm vẫn tại kiến đạo”, vì bộ khác không đồng.

“Tiện có Niết-bàn âm”: Đây căn cứ sơ chuyển mà nói. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” dùng Đại thừa quán: Phàm phụ thêm văn làm quán phần nhiều tại Viên, khiến mỗi mỗi văn không trái sự tu tập chẳng kể đến cái khác. Từ đầu đến “sở nguyện”: Tâm vọng quán cảnh, gọi đó là “nguyện”, tâm chưa xứng cảnh cho nên chẳng thích ứng nguyện. “Cảnh” đến “dõng mãnh”: Cảnh nhiều quán ít không phải dõng mãnh tiến. “Cảnh nghiên tâm”: Trở lại dùng tâm tư duy diệu cảnh mà nghiên cứu tâm, luôn luôn làm điều đó, tâm quán mới lợi. “Tâm cảnh tương nghiên”: Hướng khiến dùng cảnh nghiên cứu (tìm đến) tâm, trước lại dùng tâm quán cảnh cho nên gọi là “hỗ tương”. “Tâm vương…”: Bắt đầu tâm tu quán đều dùng đệ lục vương sở làm khởi đầu phát quán. Dù khiến quán cảnh viên dung không hai, mà kia như thô hoặc còn chưa rơi trước, cho nên vẫn đều thuộc đệ lục vương sở, cho đến chưa tịnh lục căn đến nay cũng chưa lìa vương sở. Đây là tâm vương, sở của nhà Kiến Tư. Nếu muốn căn cứ giáo thì có bốn giáo Hiền, Thánh vị biệt. “Chạy rong” không đồng nay tại Tam tạng. “Trên trong Pháp thuyết trước nêu…”: là trên chương Thích-ca tụng trong hiển thật có sáu hàng kệ. Trước, căn cứ Tứ nhất tức là hiểu rõ văn. Tiếp, căn cứ đòi xe tức là căn bản thí dụ, nghĩa là hai hàng đầu từ “Ta thấy Phật tử…” tức là nghe các phương tiện giáo trước tam Bồ-tát. Tiếp, “Ta liền nghĩ…” hai hàng và một câu, nêu chướng trừ, Phật hoan hỷ. Nói “Nay ta vui vô úy”: Tức chướng trừ cho nên vui. Nay trước nêu thoát nạn sau nêu đòi xe: trước sau đã khác lạ. Quang Trạch thẳng đem căn cơ Đại thừa để đối thoát nạn, do đó phá. Đây nêu rõ kinh văn trước sau không đồng, chẳng cho rằng chướng từ có trước sau. Do các Thanh-văn đều có trược trước trừ, thì Đại cơ nay phát. “Khổ đầy đủ…”: Do văn pháp thí, thoát nạn cùng cơ, trước sau hồi hỗ, nương đây không đồng giải thích ra bốn câu. Trước giải thích hai câu, còn lại hai câu chỉ trên. Nay hai câu: Dùng hai câu trước, chỉ kinh văn xen lẫn nhau nghĩa không thành. Muốn khiến thành thì xen nhau đối Hoa Nghiêm…, tức danh đồng nghĩa khác. Câu đầu tuy dẫn bốn đại Thanh-văn mà thông chỉ La-hán nghĩa kịp tam chu. Câu tiếp sở dẫn phàm phu lý thông đầu cuối, trong câu tiếp nghĩa bao gồm giáo Hoa Nghiêm và Pháp Hoa: là khác câu đầu trước, hai câu còn lại nói như trên, chỉ trên tụng chương Thích-ca.

Trong kệ Tứ nhất nêu ở cuối văn. Trong bốn câu liệu giản, hai câu một và hai cùng đây giống nhiều, nhưng có chút ít sai biệt cho nên lại giải thích. Câu đầu kia nói tại thời Tam tạng, chưa nói cuối Đại Phẩm… Câu tiếp chỉ nói các phàm phu trong Pháp Hoa, không nói người trong Hoa Nghiêm. Kia nói tuy thiếu, nhưng phần lớn ý chỉ đồng. Nói “Hai câu còn lại như trên”: tức câu thứ ba và thứ tư. Kia nói “chướng tức trừ, cơ tức phát”, như trong Vô-lượng-nghĩa đắc Tiểu quả, thì liền tại pháp hội nghe Đại thừa. “Chướng chưa trừ, cơ chưa phát”, như năm ngàn người đứng dậy bỏ đi, chỉ có câu thứ tư, chẳng phải người trong Pháp Hoa. “Nếu Đại căn cơ…”: lập lại chỉ kinh văn trước nay hồi hỗ. “Nếu Đại căn cơ…”: Như trước nay dẫn văn của phẩm Phương Tiện, chỉ vì văn phẩm kia, văn có trước sau, không phải cho rằng phẩm kia nói trước Đại cơ phát sau chướng trừ. Nếu trước chướng trừ: thì như văn trước dẫn nói “Nay trong thí đã…”. “ Tứ đế đồng hội Kiến đế”: Trong Kinh A-hàm cũng có “Tứ cù” dụ cho Tứ đế… Hoặc tận.

Tiếp, nêu nghĩa “Đòi xe”, nói “Nêu mười vấn nạn”: Người xưa lập vấn nạn, không chấp nhận Bồ-tát có nghĩa đòi xe, hội hai qui một. Thời đại gần đây bỏ dùng, đâu đủ làm lạ! Cho nên, nay trình bày phá, khiến có đòi có hội. Trước là thuật, tiếp là phá. “Hai vấn nạn đầu” có thể thấy. “Vấn nạn thứ ba”: Nói sở hóa là phàm phu chưa xuất tam giới, không nên có đòi, năng hóa vị ở Tam thập tam tâm, không thể nơi đây lại nói có đòi. Nếu nhập Phật quả, thì Phật quả không hai, Phật theo ai để đòi? “Vấn nạn thứ tư”: Nêu trước đoạn chánh sử, tu tập không biết tại lý không hợp nghĩa đòi, đoạn tận thành Phật, Phật lại không đòi. “Vấn nạn thứ năm”: Dẫn kinh văn nay để chứng Bồ-tát. “Vấn nạn thứ sáu”: Nói “Từ Đại Phẩm…”: Xưa để Bát-nhã ở trước Phương-đẳng, cho nên nói “Đại Phẩm về sau”. Trước dẫn ngăn ngại, nói “Pháp Hoa về trước đều là phương tiện”, trước định giao phó cho cùng tử… là thiết lập nạn, Nhị thừa lãnh thọ nghiệp đều là Bồ-tát pháp. Nếu là phương tiện thì của cải giao phó, vì sao lại nói đều là ta có? Nếu giao phó tài… là lập lại trưng dẫn. Nếu của cải giao phó là chân thật, thì Bồ-tát đối kia trước được tài vật đây đã thành chân thật, lẽ nào đến Pháp Hoa lại đòi chân thật. “Vấn nạn thứ bảy”: Phẩm Phương Tiện nói: “Hết thảy Thanh-văn Bích-chi-phật không thể biết việc ấy”, cho nên Tiểu gọi là phương tiện, cho nên phải đòi. Phật tử Đại thừa: Kệ nói: “Phật tử hành đạo rồi, đời sau được làm Phật”. Làm Phật là thật, thật thì không cần đòi. “Ba vấn nạn cuối”: có thể thấy. Xưa nay sở chấp không ngoài mười thứ này. Tiếp trong phần phá, nói riêng tổng biệt lẫn lộn, nên riêng phá. “Bác” là ban bác (loang lỗ), hình trạng không thuần cũng là lẫn lộn. Phá: cho rằng kia như lẫn lộn, chánh giải thích như thuần nhất.

“Cái gọi là Tổng”: Là thông lập Bồ-tát có nghĩa đòi xe thì mười nghĩa đều phá. “Đòi là cầu thỉnh” đến “gọi là cầu đòi”: dẫn trước ba nghiệp đều có văn đòi, có pháp dụ hợp. Pháp ý: là hàng tam thừa thành tựu chưa đủ, đều chưa khéo hành, đến kinh này đều phải có “đòi”. Ba câu trong Dụ thứ lớp để đối ba pháp. “Phàm cư…”: trong Hợp đầu tiên nêu ý đòi. Nghĩa “Đòi” gồm ba và dẫn văn chứng đủ từ đầu đến cuối. Do “đòi” cho nên “hứa”, do “hứa” nên “cho”. “Hứa và cho” có văn, thì đâu được không “đòi”. Đầu tiên nêu thỉnh, trung thỉnh đã nêu Dilặc ở trước, hứa lẽ nào riêng đáp lời Thân-tử? Huống chi Thân-tử thấm nhuần ân khắp thỉnh vì tự tha, cho nên nói “nguyện vì bốn chúng”. Bốn chúng lẽ nào riêng Nhị thừa? Đức Phật hứa chẳng chuyên chúng Tiểu thừa, cho nên chỉ nói chung: “sẽ vì nói…”. Văn hứa, có thể thấy. Cho nên biết tam chu thông nói tam thừa. Pháp thuyết xong Thân-tử hoan hỷ, tức đầu quyển thứ hai. Thí thuyết xong Ca-diếp hoan hỷ, như đầu phẩm Tín Giải nói: “Nghe Đức Thế Tôn thọ ký Xá-lợi-phất, thì các ngài Ca-diếp phát tâm hy hữu vui mừng hớn hở”. Nghe nói nhân duyên đời trước thì Phú-lâu-na hoan hỷ. Như đầu phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký nói: “Lại nghe việc nhân duyên đời trước, tâm thanh tịnh hớn hở”. Tiếp “Biệt bác (lẫn lộn)”: Trước phá nạn thứ nhất, nói “Tề Tam tạng nêu rõ Bồ-tát không đoạn Hoặc”: trước nói Bồ-tát chưa đến nơi hứa, do không đoạn Hoặc, cho nên không cùng Nhị thừa đồng đến nơi hứa quả. Cho nên không đòi, tức là chỉ trong Tam tạng nêu rõ Bồ-tát không đoạn, cho nên phán là “Tề”. Nói “Y Pháp Hoa có bốn câu”: nghĩa là căn cứ kinh này nên làm bốn câu thì nhiếp căn cơ mới tận. Nếu không có bốn câu thì sợ người cho rằng cơ phát chỉ tại nơi người không chướng ngại, cho nên câu thứ hai tức Tam tạng Bồ-tát. Nếu riêng Nhị thừa, thì Nhị thừa sao từng có chướng chưa trừ? Cần phải liệt kê hai câu căn cơ phát phá xưa không đòi. Nếu không đòi thì do đâu cơ phát? Nhưng cơ không động cũng có chướng trừ tức câu thứ ba vậy. Chưa phát vả lại chỉ Pháp Hoa về trước. Nếu đến Pháp Hoa thì trừ năm ngàn người bỏ đi, ngoài ra không có người nào không phát. Phá nghĩa thứ hai: ý Sư kia nói: Đòi chỉ tại Tiểu, các kinh Đại thừa đều không có nói Bồ-tát đòi quả Tiểu thừa, kinh này Bồ-tát lẽ nào ưng đòi Tiểu quả? Cho nên nay phá, nói: “Nhập Niết-bàn đã đồng, sao được không đòi?”, nghĩa là chính dùng Thông giáo phá. Ông nói Bồ-tát không đòi Tiểu quả, nhưng thông hàng Tam thừa đắc lý đã đồng, đều bị bài xích, nói: “Đều là phương tiện”. Muốn lại cầu thật lý cần phải đều đòi, Thông giáo còn đòi huống chi Tam tạng ư! Phá thứ ba: Văn kia nói: Sở hóa ba A-tăng-kỳ, trăm kiếp đến Bổ xứ, còn là phàm phu đạo lý không đòi. Đây là chê bai thái quá, lẽ nào ba tăng-kỳ trăm kiếp hoàn toàn đồng phàm? Văn vẫn không phá, chỉ phá năng hóa tam thập tam tâm kia tư duy vẫn chưa tận cho nên không ưng đòi, đến nghĩa Phật lại không đòi xe, chỉ tổng phê phán nói Thuộc tam tạng đó thôi! Cho nên “Bồ-đề thọ hạ tam thập nhị tâm” còn gọi là Bồtát, thời tiết đã ngắn, nghĩa đòi không thành, đây thì có thể như vậy.

Nói “tư duy chưa tận”, đây không nên như vậy cho nên lấy Kiếnhoặc phàm phu so sánh thì Hoặc chướng toàn tại Đại cơ còn phát, huống tam thập tam tâm? Nói “Phật không đòi”, đạo lý như vậy. Kia cũng không biết nhân không đến quả, đến tam thập tam tâm ắt không thật hành. Có thể trong đây Phật thật là ba tăng-kỳ đến quả chỉ đoạn Kiến Tu mà thôi! Lại đồng La-hán, như nói thế gian có sáu La-hán, La-hán đâu được không đòi xe ư? Chỉ do kia không biết Quyền, cho nên lại nạn vấn. Giáo kia đã Quyền, tiến thoái có ngăn ngại. Trong phá ý thứ tư, cũng trước lập lại nói: “Bồ-tát chưa đoạn tập” cho đến “đoạn tận…”: đây dùng văn thứ ba làm theo lệ. Văn thứ ba trước, nói nếu Bồ-tát tiến tới đoạn tập khí vô tri, lý hợp thành Phật, nghĩa “đòi” không thành. “Đây tam thừa…”: chánh phán xét thuộc Thông giáo, đã chưa thật Bồtát phải “đòi”.

Tiếp, dùng “cụ phược” để so sánh, phá ý thứ năm: Kia cho rằng trong tam thừa, Bồ-tát là duy nhất (chỉ riêng). Tiếp, “Bị hội…”: là phá. Dù cho phép Bồ-tát phục đoạn không đồng, nhưng vọng người Nhị thừa cũng gọi “duy nhất”. Nên biết, nói “duy nhất” là thông đối đãi Nhị thừa không hạn cuộc. Kia lấy đối tượng đối đãi là Nhị thừa, ngoài đó ra chỉ một duy nhất, mà không biết bốn giáo đương giáo Bồ-tát đều gọi là “duy nhất”, cho nên ba mà duy nhất cần đòi xe. Nên biết ba trước là đối đãi hai duy nhất, Viên giáo duy nhất mới là tuyệt đãi; như ngoài Tam tạng duy nhất, còn có tam giáo, Thông, Biệt có thể biết, như ngọc châu, trăng sáng tỏ về đêm.

“Phá ý thứ sáu”: Kia nói Bát-nhã đến Pháp Hoa một mực chân thật. “Ông không…”: là dùng cộng bất cộng để trách. “Cộng bất công” văn xuất từ Đại luận. Bất công Bồ-tát cho phép có thể không đòi, vì kia có Viên. Lại Bất cộng kiêm Biệt. Biệt còn phải đòi huống chi Cộng Bồtát, cho nên ông không biết tài sản giao phó bao gồm Cộng và Bất cộng, mà chỉ một hướng nói chân thật không đòi! Lại, nếu nói trong Bát-nhã Bồ-tát chân thật không đòi, thì nay hỏi ngược lại: Nhị thừa ở Bát-nhã được giao phó chân thật, tức đồng Bồ-tát tại sao lại cần đòi? Huống chi ông tự nói đến Pháp Hoa đều là chân thật, do ông không biết Tam-muội sai khác. Trong “Phá ý thứ bảy”, lập lại nạn vấn đã xong. Tiếp, trong phá dẫn văn Bản môn, văn Bản môn kia vì Đại tiểu mình người đều là phương tiện. Vọng bản văn kia thì Viên còn là phương tiện huống chi Thiên ư! Nay trong Tích thì tam giáo đều là phương tiện, huống chi đầu phẩm Phương Tiện nói: “Phật dùng phương tiện lực dạy cho ba thừa giáo”, sao riêng nói duy chỉ dạy cho Nhị thừa, cả ba đều phương tiện cho nên đều đòi. “Phá ý thứ tám”: Cũng trước trình bày nạn vấn. Tiếp “Ông không nghe…”: là phá, cũng nên dẫn mười nghĩa đầu của tam chu bên trên, trong đó có văn lãnh. “Phá ý thứ chín”: Đã như trước phá. “Phá ý thứ mười”: Nói cũng như là nghĩa trước, không ngoài Tam tạng, phá cũng như trước. Người đời làm rõ nghĩa phần nhiều không chịu nói theo Tứ giáo, nay chỉ phá nói “Tứ giai” và dùng Tam thừa cộng vị cùng Bồ-tát trong Hoa Nghiêm không đồng. Nếu lại không chấp nhận, thì xin xem luận Bà-sa Câu-xá và kinh Đại Phẩm hoặc trở lại Thiên Trúc! “Tự có hành thôi nghỉ…”: là đại tiểu sai biệt cho nên Tiểu thừa thôi đòi, Bồ-tát chưa thôi giáo Quyền, cho nên đòi.

“Lại, Bồ-tát…”: lại dùng nghĩa phá. Xin là tên khác của cầu thỉnh, lẽ nào có không cầu mà đắc. “Quán kỳ quỷ lũy”: “Quỷ” là dối trá; “lũy” là chồng chất. Mười nghĩa phần nhiều giả vờ chồng chất Thông Tạng, cho nên ý câu một, ba, chín, mười toàn là Tam tạng; bốn, năm, sáu rộng phụ Thông giáo; ba ý còn lại nghĩa bao hàm Tạng, Thông. Kia do thông thấy Anh-lạc, hạnh vị còn thuộc thiết lập Quyền, phi thị phát tâm cả hai không khác. Nếu là thực, thì hạnh nguyện Phổ Hiền ở kinh Hoa Nghiêm là đồng hay khác? Nên một nhà lập nghĩa biệt còn phải có “Đòi”, huống chi tại Tạng Thông, do kia lập Bồ-tát không đoạn, và do đoạn Hoặc chưa cùng tận đều không cần đòi ?! Nhị thừa đoạn Hoặc, nên cần phải đòi! Đây tức hoàn toàn mê ở đoạn Hoặc Bồ-tát cũng phải xin xe, huống chi chướng chưa trừ Đại cơ động nhân. “Nay sẽ…”: tách làm bốn câu: Đoạn, không đoạn, có đòi, không đòi. Huống lại mười sáu câu biến khắp. Căn cứ năm thời, đầu tiên chấp nhận người xưa rơi tại một câu, nếu đến mười sáu câu tức khiến không đòi thành đòi thì hoàn toàn khiến rơi vào câu nghĩa phi, vô mà có thể đắc. Trong đó trước nêu bốn câu.

Hỏi: Câu đầu cùng người xưa Bồ-tát không đòi có gì sai biệt?

Đáp: Nay biệt có ý phê phán ở Tam tạng. Kia nói tất cả Bồ-tát không đoạn cho nên đều không đòi, hoặc là đoạn chưa tận cho nên không đòi.

Lại dẫn kinh luận hợp thành Thông Tạng, do kia không biết nghĩa Biệt Viên. Nếu bản biết thì việc gì không lập? Cho nên nay đầu tiên lại tách làm bốn câu, dùng đối bốn giáo thứ lớp trải qua năm vị. Trong câu đầu vọng ba câu sau, danh đồng Sư xưa mà ý hoàn toàn khác. Một phen đối câu lại lập căn bản, gọi là “không đòi”. Do Tam tạng Bồ-tát từ đầu đến cuối không đoạn, dù bị bài xích thì cũng không thể đòi. Nhất vãng (một phen) tuy vậy, còn chưa tận lý cho nên lại khai làm mười sáu câu. Lại trong câu căn bản câu thứ hai là Thông giáo, tam thừa đều đoạn cho nên đều đòi xe. Câu thứ ba căn cứ chưa phá vô minh gọi là không đoạn, cho nên phải đòi. Đăng địa đã đoạn, cho nên không đòi. Đây thì vĩnh viễn khác xưa nay các Sư, huống chi câu thứ tư đều là pháp giới, lại làm sao đoạn đòi? Cho nên câu thứ tư mới gọi là không đòi. Trong ba câu trước, câu đầu tuy không đòi nhưng cuối cùng phải đòi, cho nên trong ba câu đều gọi là đòi. “Lợi”: thì trước đòi. “Độn”: thì nay đòi. Do cần phải khai cho nên cần phải đòi. Viên giáo còn không thích hợp đối với không đòi, thì làm gì có đòi ư? Cho nên không đồng xưa lập mười nghĩa.

Tiếp, lại tùy vị đầy đủ giáo nhiều ít chuẩn theo lệ nói, cho nên trước Pháp Hoa Tam giáo Bồ-tát hết thảy chấp nhận đòi. Hai giáo Nhị thừa căn cứ thời trước sau, hiển mật không đồng, lại căn cứ năm vị bởi có nguyên do. Hoằng cương đại thống (rộng bày cương lãnh, thống lãnh đại ý): Lại lập bốn câu để đối năm vị, chưa phân nhỏ. Nói “mỗi một câu”: tức như bốn câu trước. “Mỗi một ý”: Nếu trực đối câu thì chỉ là câu nói bốn giáo lại chia làm bốn, cho nên câu cũng gọi là ý. Ý: Chỉ là câu trong giáo, như nói “nhũ vị hai ý…”. Cho nên biết chướng trừ chỉ là Hoặc đoạn, cơ động lý hợp đòi xe. Căn cứ câu trong đây nếu từ căn bản, thì câu đầu trong bốn làm đứng đầu, lẽ ra trước từ chướng chưa trừ cơ chưa động, tách làm bốn câu, nên nói chưa trừ chưa phát, đã trừ chưa phát, cũng trừ cũng chưa trừ chưa phát. Không phải trừ, không phải chưa trừ chưa phát. Chưa phát chẳng phải tông cho nên không dụng. Văn đầu vả lại dùng trừ… đối động, tợ như trong căn bản, trên câu thứ hai khai xuất. Đã nói mỗi một câu đều khai làm bốn, chỉ là đều dùng bốn câu trong văn liệt nêu trên các giáo. Vậy thì bốn giáo đều dùng trừ…, đối động làm câu để nêu rõ đòi xe. Chính tại động, cho nên trong mỗi một giáo đều dùng trừ… đối động mà nói. Cho nên văn chỉ liệt kê bốn câu làm thử (thí), vẫn đem câu đây trãi qua năm vị để xem, khiến biết trong bốn vị các cơ chưa thuần. Cho nên có đương giáo, hậu giáo không đồng. Dựa theo ý kinh này, tuy có các giáo chướng trừ không trừ, mà cơ động ắt chỉ có Viên giáo.

Hỏi: Ba giáo trước đương giáo luận phát, trở lại đối đương giáo trừ không trừ… Đây thì có thể thấy. Nếu đều hướng về Viên cơ luận phát thì Bồ-tát thông với Nhị thừa trước bất định, Viên giáo làm sao luận bốn câu: đoạn… ư? Vì sao lại động ?

Đáp: Nên đem Sơ trụ để đối trước trụ mà luận bốn câu, tất cả phàm phu không đoạn năm phẩm gọi là “đoạn”. Sơ tâm tu quán tuy tức pháp tánh, nhưng phải tác ý đoạn cho nên tạm lập tên “đoạn”. Lục căn tức là câu thứ ba, dùng câu thứ tư làm câu căn bản Viên giáo, cần trở về Sơ trụ nên như vậy. Cho nên các câu giáo trước Pháp Hoa, thì giáo chưa dung thông, đến Pháp Hoa chỉ có bốn trừ dùng đối một phát, nên đến Pháp Hoa đều có đòi. Miệng đòi đã như vậy cơ tình có thể biết, vậy thì mỗi một vị, không vị nào có không đòi, chỉ cơ tình bí mật cho nên không luận. Do đó lại đối hiển giáo các vị để thành các câu, “đòi” cùng “đoạn” nghĩa kia rất nhiều, vì sao chỉ dùng một lời liền phê phán, cho nên nói “tông đây không thấy…”.

Tiếp, nêu “Thể, số không đồng”: Xưa trong ba sư, sư đầu nhất toàn sai, sư tiếp tợ như đương nhiên, sư thứ ba nay không hoàn toàn chấp nhận. Lý kia chưa hiển, đều do không nói Phật, Bồ-tát thừa ly hợp đầu cuối đồng khác. Sở dĩ nên hợp không hợp. “Sở dĩ…”: phá xưa. Trước, Thông không phải; tiếp, Biệt dẫn giáo. Đầu dẫn xưa ba, ba đã tại xưa nghiệm biết một tại nay. Tiếp, “Hoa Nghiêm…”: đều dẫn chứng bốn, tức năng sở liệt kê đủ. Đầu, nói thuyết; tiếp, nói xuất Thuyết căn cứ giáo pháp, Xuất căn cứ hạnh nghi. Một và ba từ ứng, thứ hai từ cơ. Nên biết định có bốn pháp. “Địa luận…”: Địa luận tại Biệt, còn liệt kê bốn quán, quán nơi Thập thiện. Nên biết các pháp đều thông bốn quán.

Anh Lạc tam thừa tức ba giáo trước. Ba đều khai ba, tức Biệt giáo thừa, bình đẳng tức Viên giáo thừa. “Nay căn cứ giáo…”: lần nữa lại dùng giáo môn để phê phán ba, bốn trước nay. Chỉ nói ba bốn mà chưa nói hơn, kém, cho nên cần giáo phán xét. Nếu tam thừa đối chân mà luận đồng khác, thì tức phán nhà đầu tiên. Phán ba, bốn, chín thuộc Biệt Viên, lại phải căn cứ Hạnh mới phân biệt Viên, nên biết Tạng, Thông đại ý cũng vậy. Tuy dẫn kinh trước đầy đủ bốn giáo, diệu bộ chưa hiển lại phải trải qua vị mới biện rõ kinh này. Trong Chánh Pháp Hoa cũng trước nói voi, ngựa, dê; sau mới đều ban cho xe đại bạch tượng, đồng một Phạm văn, ai sai ai đúng?

Có người hỏi: Ra không thấy xe cho nên liền đòi, đây chưa lập thành nên phải đòi thành ư? Nay vì đáp: Thành thì căn cứ có thí dụ, thấy tại sao phải đòi?

Hỏi: Xe thành đều là phương tiện, có không nghĩa ắt đồng, vì sao có không khác đến nổi khiến đòi không đồng?

Đáp: Xe do bài xích phương tiện, thất (mất) thật cho nên phải đòi.

Thành nếu chẳng chân thật cũng đồng với nơi xe không có.

Hỏi: Nếu vậy thì nên đều đòi, vì sao đòi không đồng?

Đáp: Xe chỉ nói phương tiện cầu thật cho nên có đòi. Thành nói thật ở gần, cho nên không cần đòi.

Hỏi: Phương tiện lược khai ba chưa thật, cho nên có đòi. Đã nghe chương Ngũ Phật, vì sao trong thí dụ đòi ư? Đáp: Trung căn mê pháp thuyết, cho nên nói xe là dối thí dụ, có không rõ ràng. Người đầy đủ trí thì không có vấn nạn đây.

Có người hỏi: Ba xe thì cho phép có thể có thượng hạ, một thành đâu được có xuất nhập ư? Đáp: Xe cũng không có văn nói có hạ, thành cũng không từng nói có xuất. Xe bị bài xích hư dối nghĩa đồng hạ căn. Thành nghe nói hóa nghĩa đồng xuất. Kia đây từ Thí bao hàm nghĩa lập, đều đã nhập chứng đều phải khai.

Đại xa bảo sở đã không sai khác, hai xứ diệu lý tại sao sai khác? “Người đời…”: là nêu rõ thể của Đại xa, nên như Huyền Văn, hiển thể biện rõ; đây vì phá xưa mà lược biện khác đồng. Trên tuy nêu số và đòi không đòi. Nếu không biện thể thì dùng cái gì để nêu nguồn gốc của giải hạnh ư? Sắp xuống các sư Chương An sở dẫn, cho nên nêu nay giải thích nói Thiên Thai sư. Đầu tiên Quang Trạch trang nghiêm tuy đều nói cao rộng, mà căn cứ quả chấp nhân đối xưa chưa dứt, cho nên Quang Trạch chỉ quả đây có năm lỗi:

  1. Nhân thừa vô thể thừa làm sao mà xuất?
  2. Danh lạm dụng Tiểu thừa quả còn phải đòi.
  3. Do dụng làm thể, năng sở không phân.
  4. Đợi xưa không tuyệt khai quyền không thành.
  5. Nhiếp pháp không khắp vì ngăn cách phàm hạ.

Biệt không nói Tận trí, huống chi Viên ư! Viên Biệt tuy có nói tên Vô sinh mà đồng ý biệt, đoạn chứng vĩnh viễn trái cho nên không dùng, huống chi dụng nay đối đãi xưa mới gọi cao rộng. Nên biết đương thể không cao rộng, trang nghiêm tại nhân quả ắt không có thể, huống chi Hạnh thì đầy đủ độ cũng chẳng phải sở nghiêm. Thượng cầu hạ hóa bốn giáo đều như vậy, huống chi chỉ biết nói kia cao rộng mà không hiểu thủy chung bất nhị. “Cựu sư không dùng công đức” ý để bài xích trang nghiêm, muốn đồng Quang Trạch lại không nói quả. Trí thuộc bạch ngưu, thể cũng không thành, lỗi căn cứ trước nói. Lại “một sư dùng Phước Tuệ” để tổng phá ba thứ trước, dẫn vô lậu căn lực… thuộc Tuệ, Thiền định giải thoát… thuộc Phước. “Lẽ nào chỉ Tuệ ư?”: Chính là bài xích ý thứ ba, phước tuệ đã chẳng phải thể xe, lại lầm dẫn văn xưa để chứng nay, sự sâu xa không thể được. Lỗi lầm v.v… lại dùng “Hữu giải”, tựa như phù hợp với ngài Quang Trạch. “Không giải” không động cho nên không dùng tức, ý nói nghĩa vận chuyển không thành, không có ý vận đều không có thể. Tận Vô Sinh trí tức “Hữu giải”, từ sở tận, sở vô mà lập danh. Lại một sư phân đối Tiểu thừa, Đại thừa chỉ dùng thật tuệ phương tiện, vận động như trước. “Riêng nói…”: Chương An bài xích chung. “Ngà…”: tuy voi mà thông biệt không đồng, thông thì đều là thân voi, biệt thì thân chẳng phải tai… Căn cứ thí dụ phá nghĩa, ý cũng có thể biết. Cho nên quên thể thì thông biệt đều mê. “Đến trong ban xe điểm xuất”: cao rộng làm thể vĩnh viễn khác các sư xưa.

Tiếp, biện “Xe nhỏ và vận, không vận”, kiêm biện “nhân quả và đòi không đòi”. Nhân tiện nêu rõ khiến biết sở khai. Vì trước đòi Tiểu, thì trước phải biết Tiểu. Nói “Tám trí thông nhân quả”: Cũng nên nói thông lậu vô lậu, như tha tâm trí tức dùng pháp, loại, đạo, và Tục trí sở thành. Vì sao? Nếu tha tâm trí duyên tha Vô lậu tâm, thì nên dùng pháp loại đạo tha tâm trí để biết. Nếu tha tâm trí duyên tha Hữu lậu tâm, thì nên dùng thế tục tha tâm trí để biết. Nếu quả địa tha tâm trí, thì dùng quả địa tha tâm thế tục trí để biết. Nếu nhân nhân (người) tha tâm trí, thì dùng nhân địa tha tâm thế tục trí để biết. Tự còn lại sáu trí. Nếu là sơ quả nhân (người) đoạn kiến thì sáu trí rõ ràng thuộc nhân. Nếu là quả thứ hai, thứ ba và vì phi tưởng còn một phẩm, thì sở hữu sáu trí cũng thuộc nơi nhân, một phẩm sau cùng mới thuộc quả. Nếu y người xưa dẫn giáo phá trước nhất hướng dụng quả. “Nhưng chỉ…”: là người xưa chánh giải thích. “Nguyên nhân chủ yếu…”: là giải thích sự ngăn ngại có phụ có chánh. “Nếu nội nhân…”: lại lập nghĩa ngăn ngại. “Nhưng quả…”: là giải thích sự ngăn ngại. Quả không tự khắc, mà do nhân đến, cho nên khiến quả này đắc, gọi là “vận chuyển tốt”. Trung đạo không đạt, là tiêu biểu chẳng vận chuyển tốt. Từ “cái chủ yếu” mà đặt tên, cho nên gọi là “vận chuyển tốt”. Thừa chỉ là xa, xa (xe) vốn động vận, vận nhân đến quả được gọi là “vận chuyển tốt”. Vì có thể đều phân phát, về lý cần phải song lập. “Nếu thừa…”: người xưa thừa hướng đến chỗ giải thích, lập sự ngăn ngại đòi xe. “Xưa nói…”: là giải thích sự ngăn ngại, giải thích khước thành ngăn ngại. Ý xưa giải thích, nói “Cơ đòi có thể hiểu”: tức cơ chứa ở bên trong có thể phát gọi là “đòi”, cơ tuy có đòi chỉ âm thầm tại tâm, tình chưa do dự cho nên khiến không thuật. Tuy tình động bên trong nhưng chưa hiển rõ nơi khẩu, chỉ do tình cho nên dùng thiên nhãn quán. Tiến thoái sinh nghi tình theo Phật đòi. “Nếu tìm…”: nay phá xưa, có hai sự ngăn ngại của văn và nghĩa. Trong ngăn ngại thứ hai có bốn mâu thuẫn.

  1. Cùng đương văn diệt tưởng mâu thuẫn.
  2. “Lại, Phật…” cùng cần gặp Phật khác quyết liễu tức mâu thuẫn.
  3. “Lại, ban đầu…”: cùng dưới không thấy trên tức mâu thuẫn.
  4.  “Lại La-hán…”: Khi cùng tu nhân chưa thấy quả tức mâu thuẫn.

Hai mâu thuẫn đầu có thể thấy; mâu thuẫn thứ ba dẫn theo lệ. Lại “trái với Nhiếp Đại Thừa”: Các luận về thiên nhãn (hạ) dưới không thấy trên, ắt không có Nhị thừa thấy ở ngoài giới. “Nay nói…”: là chánh giải thích. Nói “ngày xưa”: Xưa trụ nơi tiểu giáo, vì kia bị bài xích tình có sở vọng. Căn cứ đây phê phán ý tình thông hai vị, nhân bài xích xưa giải thích tình đòi lý trái, cho nên nay là lập nghĩa tình đòi. Nếu riêng luận tình dùng ý làm lời vì nói, vì cơ Sinh do đó tình động, nên cơ tình đòi thông khắp hai tô, biệt phân hai vị. “Đòi cầu” đến “là thật”: nếu là phương tiện, thì xưa thật tại đâu! “Cơ tại Đại thừa…”: là giải thích ý cầu thật cho đến miệng đòi thì Đại căn cơ đã phát, tình cầu xưa thật ý tại nay chân thật. Đây thì cơ thật mà tình giả. “Lại, tình…”: là lần nữa lại trình bày giả để nêu thật. Cho nên tình thật mà miệng giả, cho nên khi cơ tình chưa hiển rõ nơi miệng, thì ngày miệng đòi ắt đầy đủ cơ tình. “Lục độ Thông giáo theo lệ như vậy”: Trước nay nêu rõ hai giáo Nhị thừa đã vậy, cho nên biết hai giáo Bồ-tát cũng vậy. Vì sao? Xưa năm trăm, tám ngàn người đều bị bài xích, Bát-nhã đào thải thọ lợi ích sự đồng. Đã thấy Thân-tử hiện nghi, Phật giải thích lý nên thấm nhuần rồi, im lặng tại tòa đợi Thánh trình bày thông. “Có hai chương, hai rộng, hai giải thích”: đây y chưa thứ lớp, sớ liệt kê có chút ít tợ như khó thấy. Căn cứ văn thứ tự hai chương đều nêu, rộng giải thích trong đó nêu ra.

 

 

PHẦN HẠ

Từ “ Thứ nhất: Con bình đẳng” trở xuống: là nêu hai chương môn. Nói “Các con thì tâm bình đẳng”: Trước nói các con tức đều là con, cho nên tâm ắt bình đẳng. Tâm kia nếu bình đẳng thì đối các con ắt bình đẳng. Tâm tức tâm tánh, cho nên Phật tánh bình đẳng. Do đều là con, cho nên tâm không thiên vị, tài pháp lại nhiều cho nên tâm bình đẳng. “Xe bình đẳng”: Đầu tiên nêu ý bình đẳng, vì đối tượng ban cho không có hai cho nên nói “bình đẳng”. Chỉ vì điểm sở tập đều là diệu thừa, chỉ duyên tánh đồng, nghĩa ban cho thì bình đẳng. “Mà nói…” lại dùng con bình đẳng để giải thích nghi xe bình đẳng. Đã nói “xe bình đẳng”, vì sao “đều ban cho”? Xưa huân tập không đồng, các vị chẳng phải một đến đây nói đều là nhất thừa. Vì sao vậy? Nếu một người không khắp thì không gọi là con bình đẳng. Lại nói xưa huân tập nên biến khắp các pháp. Một vật không cho không gọi là “ban cho bình đẳng”. Cái gọi là sắc tâm, nghịch thuận, y chánh, hạnh lý, nhân quả, tự tha, giải hoặc, Đại tiểu, Tuệ phước, cho nên biết: “ban cho bình đẳng” chỉ là khai tam thừa lục đạo kia, đều là nhất như. Cho nên mỗi mỗi như đều nhiếp khắp, đủ khắp, nhập khắp. Hết thảy chúng sinh ai mà không có phần tứ phương đạo tràng, sao vô lý có đại xa cụ độ ư? Đợi thời đợi duyên cho nên như vậy. Cho nên đến ngày nay mới gọi là “đều ban cho (các tứ)”.

Nói “hoành chu… (rộng khắp theo chiều ngang)”: Pháp giới tam đế đều chẳng ngang dọc, tuy không ngang dọc mà pháp giới theo khắp. Nói “ngang” thì tiện, tam đế tên khác; nói “dọc” thì tiện, bất nhị xen nhau hiển tư duy có thể thấy. Nói “Tứ biện”: gọi là Pháp, Nghĩa, Từ, Thuyết. Thất biện đại đồng. Pháp: Là tất cả các pháp danh tự phân biệt không vướng đọng, phân biệt tam thừa không hoại pháp tánh. Nghĩa: Là các pháp nghĩa rõ ràng thông đạt, biết tất cả nghĩa đều nhập thật tướng. Từ: Tức ngôn thuyết danh tự trang nghiêm tùy sở ứng mà năng khiến đắc giải. Tất cả chúng sinh khác phương, khác loại, nhiều ít rộng hẹp các đạo nam nữ, các giáo các môn ba đời, chín đời người nghe đều hiểu. Nhạo thuyết: Nghĩa là khả năng đối một chữ nói tất cả chữ, đối trong một lời nói tất cả lời, ở trong một pháp nói tất cả pháp, bất kỳ pháp nào nói ra đều là chân thật, mười hai bộ kinh, tám vạn pháp môn tùy căn ưa thích mà vì họ nói. “Tứ vô lượng”: Tứ đế làm cảnh, hai khổ hai lạc, bản là phạm hạnh bất tư nghì. Cho nên Đại kinh nói: “Từ”, nếu có, không, không phải có, không phải không, Từ như thế gọi là Như Lai từ, cho nên tam đế Từ nhiếp tứ biến. Tứ hoằng tứ nhiếp đều y cảnh phân biệt mới khác các kinh khác. Tứ hoằng đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một và quyển năm nói. Tứ hoằng đây tức là trước đến Tứ vô lượng tâm. Tứ nhiếp: Lược như Chỉ Quán quyển bảy nói. Thần thông Thất giác đều lấy vô duyên làm sở y, như Chỉ Quán quyển bảy trong phần Vô tác Đạo đế nêu rõ. “Uyển diên”: Là thêu vẽ trên mũ áo của thiên tử rủ xuống trước sau. Chẳng phải trong ý đây, đây nên làm chiếu tức chiếu ngồi nằm.

“Quán luyện huân tu”: như trong sách Pháp Giới Thứ Đệ nêu đủ danh tướng, như trong Chỉ Quán nói thiền cảnh, trong Huyền Văn định Thánh hạnh, đều là thật tướng cho nên tu, đến trong quả thiền trong thắng dụng vô tận. “Đơn chẩm (gối đỏ)”: để chống đỡ tức gối để ngoài xe, xe dừng thì phải có gối chống đỡ cho nên gọi là chi ngang (chống đỡ) chi trì (giữ gìn) ngang nêu (dơ cao). “Ví như động tịnh tương tức”: xe đi thì gối rãnh, xe dừng thì gối dựng, khi dùng thường tĩnh, khi nhàn thường động, thật thể cùng dụng cũng lại như vậy. Tự nhân quả pháp tánh không động, do đó như gió không dời đổi, vắng lặng mà đến, vạn hạnh vô tác, các trí chẳng quán. Đây thì ba đức đều bất nhị. Do ba tức một cho nên khiến như vậy. “Gối trong xe”: trí đầu, hạnh thân, “tam muội” như “gối”, chỗ dừng đắc lý pháp lý rõ ràng. “Màu đỏ sáng…”: Không có pháp khác xen gọi là “vô phân biệt”, dùng “ánh sáng” dụ trí cho nên gọi trí quang, màu chu là chính, màu tía xen lẫn cho nên dùng “màu đỏ” tiêu biểu cho ánh sáng không tạp. Ngài Nam Sơn chú thích âm kinh nói: Người Tây phương (Ấn độ) không có gối gỗ, đều dùng da màu đỏ bên trong độn lông bông chưa kéo sợi dùng để dựa ngồi nằm.

“Màu đỏ (xích)” cũng lại sáng. “Bạch ngưu (trâu trắng)” chia làm ba:

  1. Nêu công năng.
  2. “Bạch (màu trắng) là….”: là biện thể đức.
  3. “Lại, Tứ niệm…”: là luận hành tướng.

Văn đầu: Tu đắc Bát-nhã thì năng dẫn dắt Giả, Trung, tam giáo đế duyên đều đạt đến cùng cực cho nên nói “đáo”. Đây danh thông hữu 2 nên thể giản. Tiếp trong phần Thể đức, nói “bạch” là gốc của các màu (sắc bản), bản thể không dơ nên nói “bản tịnh”, tu xứng với tánh nên nói “tương ưng”. “Thể đầy đủ…”: là hiển Viên trí. Thể của phiền não vốn tịnh (Hoặc thể bản tịnh) căn cứ tánh mà luận tu thì gọi là “không nhiễm”. Đây tức bên trong thì “đầy (sung)” mà ngoài thì “sạch (khiết)”. “Lại, Tứ niệm…”: Tức căn cứ cảnh để giải thích hành tướng, “niệm” tức là trí, “xứ” tức là cảnh. Tứ quán là quán xứ, xứ quán nhất hợp, như toàn thân là trắng, tức đây quán cảnh, thiện mãn ác tận, có thể ví như “Chánh cần”, do đó mà thành. Lại khiến Dục niệm tư duy nhất tâm thành vô ký thông, hóa hóa bất tuyệt nhậm vận thường như vậy. Đi đứng tự tại cho nên gọi là xứng ý, các pháp còn lại theo lệ, như Đạo phẩm nói.

Hỏi: Trong đây đại xa đồng cho các con, các con được rồi mới đến Sơ trụ, cho đến còn tại danh tự Quán hạnh, tại sao thuần dùng nghĩa quả để giải thích?

Đáp: Dùng chứng để chỉ bày người, người hành sai biệt, hiểu rõ các nhân bình đẳng, nêu sự chỉ bày lý, cho nên chỉ bày nói “ Sở hành của các ông là đạo Bồ-tát”.

“Tâm, Phật, chúng sinh” ba thứ không sai biệt cho nên theo lý ban cho, hạnh vị bình đẳng ban cho tức quả ban cho. Quả lý tại hạnh, mới có thể gọi là “ban cho”. Lẽ nào có thể lý quả ban cho chúng sinh? “Bộc tùng (tôi tớ đi theo)”: Chuẩn đối ba đức, nên trong thể của xe phân Chánh và Duyên, đối ngưu làm Liễu. Đây thì nghĩa đương tu hai tánh một. Một lại đủ ba cao rộng không hai. Trong đây “bộc tùng” và trong kệ nói “Tấn tùng”, lời thì khác ý đồng. “Tấn” là tiến, dẫn dắt. “Thị vệ” là cung ứng hai bên. “Bộc” là hạ phẩm. Nay tập Đại thừa, tự lượng tâm mình, cùng kinh văn đây liệt kê có đồng có khác. Nếu một câu tức thị, thì là thị câu gì? Một câu tức đủ thì đâu cần các câu? Lẽ nào Đức Phật lầm nói mạnh thẳng, phiền nêu xe đến làm huyễn hoặc ngài Ca-diếp. Đây là Đại La-hán, đứng đầu chúng Tăng hơn bốn mươi năm không thọ chân hóa, mới nghe phương tiện thông đạt tán thán hai trí, lược khai hiển rồi động chấp sinh nghi tình mới do dự. Ân cần ba phen thỉnh, rộng nghe năm Đức Phật mười phen khai Quyền. Lại thấy Thân-tử ba nghiệp lãnh giải tám bộ dẫn làm ước lệ, bốn chúng đáp ân, Như Lai thuật thành phân minh thọ ký. Trải qua chồng chất hạt giống đời trước chưa khai mở, mới nghe đại xa (xe lớn) liền kham biệt ký, cho nên biết đây nương quán pháp đầy đủ, vẫn còn cắt lược, thô điểm mười quán. Nếu rộng mở hạnh tướng thì do đâu có thể đầy đủ? Không biệt giải thích tức ngộ vô sinh, vọng trên xứng giữa so sánh dưới vẫn lợi. Nếu đây một câu thí dụ xe uổng công thiết lập, thì rõ ràng Phật có làm ỷ ngữ, hoặc đưa ra lỗi của người kết tập thêm thắt, và trách lỗi dịch giả hỗn tạp. Nếu thuộc đối có nguyên do, thì hạnh nghi có thể làm khuôn phép, lẽ nào học Đại quán nhanh như vậy hoàn toàn vứt bỏ? Đã thất mất kiểm tra Đại, thì đường tắt Tiểu chẳng theo. Đại Tiểu đều vong, e rằng theo tà cứu giúp. Cưỡi xe lừa hư hoại thì vì hướng đến phương nào? Ví như quả địa phước đức viên mãn, thì Hạnh Lý cùng tột, phước thành hạnh, tuệ hướng lý. Tự hạnh đức đầy đủ, cho nên nói “nội sung (trong mập)”. Hóa tha đức đầy đủ cho nên nói “ngoại dật (ngoài đầy đủ)”. Biến nhất thiết pháp nên “tài (của) vô lượng”, đều đầy đủ hai đức nên nói “chủng chủng” . Liệt kê hai tạng, tức Hạnh xứng Lý nên Lý nương Hạnh. Lại thâu nhiếp lẫn nhau mới kham ban cho bình đẳng.

“Nhất thiết…”: là dẫn chứng hai tạng, như kia không hiểu Ấm nhập lý tạng, uổng tự gắng tu các độ hạnh tạng. Nói “Nhất thiết thú”: Văn tại kinh Đại Phẩm trong phẩm Phát Thú. Thú là thú nhập, tức tất cả pháp nhập trong một pháp. Một pháp đã vậy, các pháp cũng đều như vậy. Hạnh lý nhiếp đủ tất cả pháp. “Tất cả pháp thú” văn tướng khai hợp như trong Chỉ Quán quyển hai dẫn. “Tự hành cái hạnh lý này…”: là tiếp giải thích “sung dật (đầy đủ)”. Trước là trực tiếp căn cứ Hạnh Lý . Tiếp, “Thật trí…”: là năng dẫn dắt năng chiếu, tức là ý tu đắc tam đức. Quả cùng cực lợi vật cho nên gọi là “sung dật (đầy đủ)”. Tuy có hai giải thích mà Phật trí không khác. Trong phần “Rộng nêu tâm bình đẳng” cũng có hai, chỉ dùng tâm giải thích con, cho nên nói “tâm”. Văn đủ ba nghĩa thì mới gọi là “tâm bình đẳng”.

  1. Tài phú.
  2. Đều là con.
  3. Không thiên vị, cho nên nói “tâm bình đẳng”.

Cũng nên lại nói “Sở dĩ tâm bình đẳng” là do đều là con. Tài phú vô lượng là tự hạnh mãn. Đều là các con. Không thiên vị tức hóa duyên thuần thục. “Nếu giàu (phú)…”: ngược lại dùng nghĩa không bình đẳng để giải thích bình đẳng. Do của cải và con thiếu lẫn nhau, khiến tâm không bình đẳng. Nên biết chẳng phải con sánh kịp tài thì không bình đẳng. Vì dựa vào giáo xưa cho nên xưa Thiên giáo, thì giáo chủ và hóa cơ hai nghĩa đều thiếu. Như hai giáo, vì giáo chủ nghèo pháp tài cho nên không được gọi là “phú”. Không biết thường trụ nên không được nói “đều là con”. Dù đương giáo gọi là “con” mà thâu nhiếp căn cơ không cùng khắp, cho nên cũng chẳng phải con, tức là thành có thiên vị. Lẫn xen thiếu chẳng bình đẳng, đều thiếu, có thể biết. Biệt giáo giáo đạo

tuy nói đều là con mà hai nghĩa còn không có, chứng đạo tự đồng, phần bình đẳng không thiếu. Dưới giải thích con…, theo lệ có thể biết. Cho nên kinh này ngoài nhất Thật thì hoàn toàn không có pháp nào khác, tất cả chúng sinh đều là con ta. Duyên nhân còn thâu nơi tán thiện. Liễu chủng thông nhiếp một câu, chính là không bỏ vô gián mới xưng gọi “nhất thiết”. Cho nên Huyền Văn nêu rõ trong lợi ích thì Tựa, Chánh, Lưu thông vị lai vĩnh vĩnh (lâu dài). Trang Nghiêm Vương, Điều-đạt, Bất Khinh, Long nữ, căn cứ nghĩa thì có thể biết, huống chi ưng nói làm sao giản biệt nơi bốn thú? Giáo tùy nghi không chọn nơi thuận nghịch, đây là Đại thể đồng ban cho. Cho nên, biết rằng nói “con bình đẳng, tâm bình đẳng”, lẽ nào riêng bốn đại Thanh văn mà thôi? Vì thế, các pháp đều hàm chứa con không thiên vị.

“Nay bảy báu…”: giải thích ba nghĩa: Trước nêu “của cải nhiều”. Nói “giáo, hạnh”: Cơ ứng tương đối, lại theo văn hiện tại thì lợi ích là thuyết. Tiếp, “Mỗi mỗi…”: nêu “Chính là con” không thiên vị. Nói “mỗi mỗi”: Do đều là con. “Không sai biệt”: là do không thiên vị. “Đều ban cho bình đẳng một” chỉ là khai quyền. Tiếp giải thích nghĩa “các (đều)”, cho nên dẫn Thân-tử… Xưa huân tập không đồng cho nên mỗi đều đồng nhập thật nên bình đẳng. Lại Phương-đẳng Bát-nhã: Căn cứ pháp đã khai căn lực tự tại. Người độn căn kia đối hai vị đầu được lợi ích trong phương tiện giáo, đối kia được lợi ích các vị các pháp không đồng, cho nên đều dùng thật đương vị khai. “Sở dĩ…”: là giải thích trong nghĩa “các con”. Nói “Hai bình đẳng”: Lẽ ra chỉ nói đều là con, nói “Hai”: e rằng. Văn nêu “của cải bình đẳng” so sánh ở con đồng. Lại dùng xứ bình đẳng mà so sánh con bình đẳng. Con vốn ở một nhà, nay khắp một nước huống gì con ư! Nói “Một nước”: là cõi Tịch Quang, khắp lợi ích pháp giới lý cũng không cùng, huống chi cõi Đồng cư kết duyên người ư! Đây nêu xứ rộng, dùng so sánh người lược.

“Tiếp, giải thích…”: là chánh nêu rõ “con bình đẳng” lại dùng thí dụ “không phải con” để so sánh. Nói “không phải con” thì chê (biếm) Chánh nhân không đồng Duyên, Liễu, nên gượng nói “không phải con”. Các ấm bình đẳng không thiên vị, ví với con kết duyên. Cho nên, căn cứ “Vô duyên từ” đối bản có lý. “Đều là con ta”, là nương nghi thức giáo hóa mà nói. Lại, do đời xưa chưa kết duyên, mà làm “không phải con”. Như Lai thường hộ giúp (cấp), mà con tự không trở về. Vô duyên che phủ chung cho nên nói “chu cấp (hộ khắp)”. Nhân thiên thiện ác cùng pháp giới đồng, cho nên “xe cha coi là quả”, thì “xe con coi là lý”. Chỉ khai tình kia thì giả gọi “ban cho bình đẳng”. Chúng sinh vô tận xe cũng vô cùng, không cùng cho nên không thiếu thốn, không thiếu nên không thiên vị. Vọng mê mà nói là khai ngộ, Bản thì chẳng đóng. “Vô duyên mà còn độ”: Con Duyên nhân Liễu nhân, là trước kết duyên mà thục thoát. Con Chánh nhân chưa kết duyên, vì là hạ chủng kia, nên nói “mà còn độ”. Cho nên dùng “chủng” là để ví với trước kết duyên. Trong phần giải thích “Bất hư”, thì phần đầu là Phật hỏi: “Trưởng giả hứa ba mà nay cho một, thì có hư vọng hay không?”. Vì muốn khiến Thân-tử lãnh giải Thật, cho nên dùng hư vọng để hỏi! Đáp: Đầu tiên là thoát nạn, trong giải thích bất hư. Kinh nói: “Nếu toàn thân mạng”: nêu đủ thân mạng để ví với bạt tế. Ý nói: Toàn nơi Tiểu thừa ngũ phần pháp thân nhập Không tuệ mạng thì “đã đắc các đồ chơi (sở ngoạn)” xưa nay; huống chi nơi nhà lửa thì phương tiện cứu khổ vốn tại Đại!

Hỏi: Kinh văn tức dùng bạt tế, để ví với thân mạng. “Bạt tế” chánh nên dùng Đại để sánh với thân mạng Tiểu thừa. Vì sao Sớ văn không dùng “bạt tế” mà nói “mạng trọng thân khinh”? Bèn dùng Tiểu thừa ngũ phần làm thân, dùng để so sánh với Đại thừa thật tuệ làm mạng. Tại sao dùng Tiểu thân đối Đại mạng ư?

Đáp: Đây chính là mượn nghĩa xen nhau nói. Trong Tiểu Thừa thì tự lấy Vô lậu tuệ làm mạng, Đại thừa thì tự có bình đẳng pháp thân, đầy đủ nên dùng Đại tiểu thân mạng lấy làm đối so sánh.

“Tránh khỏi tám khổ…”: là kết ý trước nói “mạng trọng thân khinh”. Nên biết: nương nơi Tiểu mạng làm Đại mạng, ban đầu dùng Tiểu để tế tồn ngũ phần thân. Đã được đồ chơi quý giá huống chi thường ở nơi nhà lửa phương tiện dạy Tiểu thừa vốn tại nơi Đại, mà nay thâu hoạch Đại, thì lẽ nào hư vọng? Tiểu thừa ngũ phần pháp thân đầy đủ như luận trong Câu-xá vân vân. “Huống chi hai vạn ức Phật…” là chỉ nhân xưa, trong Kinh chỉ dùng nhà lửa đời nay mà so sánh. Trong Sớ nói thêm nơi xưa Đại thừa để giải thích. Từ “Viên nhân thành…”: chỉ quả nay. “Không trái bản ý”: đây thuật bản ý của trưởng giả hoặc Tiểu hoặc Đại đều có bản tâm. Đại vốn là bản ý tiểu vốn chẳng phải bản ý. Hứa Tiểu mà không cho, vẫn không trái, huống chi lại cho Đại lẽ nào trái bản ý? Như hứa cho ít của cho ít thì chẳng hư vọng, huống chi cho Đại được hơn đối với xưa, lẽ nào chẳng phải bản tâm? Tin biết Như Lai vốn chẳng phải giáo hóa Tiểu thừa, do đó của cải chỉ thoát khởi nơi nghèo phân đoạn, địa vị thì siêu việt sự hèn kém của hai sinh tử, một nghĩa kiêm đủ tại sao có trái nghịch? Nhưng Tiểu thừa chẳng cứu cánh không cần lại cho nên nói “không cho”. “Vốn biết không ba” đến “bản tâm”: là ý nêu rõ không cho, xưa chẳng phải bản ý cho nên nay không cho.

Kinh nói: “Phương tiện khiến ra (xuất)”. Sớ nói: “Khiến không rơi vào đường ác”. Khiến không đọa lạc nên Phương tiện khiến ra. Phương tiện khiến ra nên khiến không đoạ ác tức là một ý. “Kết chương trước…”: là song giải thích hai kết đều an tợ. Văn tợ thiên kết, lý ắt kiêm đủ. Hai luân biệt cho nên sở đối không đồng, cho nên mượn hai luân để hiểu rõ hai kết.

Tự thể: Là cõi Thật báo. Đây là Nhiếp Đại Thừa sư theo nhân lập danh, gọi là: Hữu vi duyên tập tức nhân cõi Đồng cư; Vô vi duyên tập tức nhân cõi Phương tiện; Tự thể duyên tập tức nhân cõi Thật báo. Cũng nói pháp giới duyên tập. Nay sớ thì hai thứ trước vẫn theo xưa từ quả lập danh, một nhân sau y kia từ nhân lập xưng. Đều là diệu sắc diệu tâm báo xứ, tức đã nói là cha của tất cả thế gian cho nên biết ba cõi đều là chứng đạo sắc tâm báo xứ. Cõi Tịch Quang đã biến khắp Giá-na cũng đồng đẳng. Các thân đã cùng pháp thân lượng đồng, thì các cõi cùng cùng Tịch Quang không khác. Như bóng, như ăn, như gương soi, như bát đựng, có thể biết, tất cả chúng sinh đều có đủ các thứ đây. Quả báo chưa mãn hoàn toàn hạn cuộc nơi mê. Mê nên ấm chất hạn cuộc nơi thái hư kia, mãn nên cùng khắp pháp giới đồng lượng. Ứng ba cõi, từ hóa sự mà nói cho nên gọi là “xứ đẳng”. Đối với các sự sợ hãi bình đẳng: Lại căn cứ giới nội nhân quả mà nói, do đối với các con là sở úy cho nên nói “vĩnh tận”. Sở ly đồng thô năng ly lý cực cho nên nói vô lượng tri kiến đẳng. Có người dùng Sơ địa lìa năm sự sợ hãi, dùng để giải thích trong đây đều không liên quan nhau. Trên không bằng chư Phật, dưới vượt qua cõi lìa, vọng các giải thích nghĩa theo lệ như đây. Chỉ là trong Thí dụ nói “kinh sợ” ở trước thì: Trước, nói “tức rất kinh sợ mà suy nghĩ rằng…”. Tiếp, nói “luyến trước (chấp đắm)”, tức là lập lại giải thích sở kiến. Nay Hợp “bất giác” ở trước: Trước, nói “Chúng sinh đắm chìm ở trong đó” tức là lược, sau lại nêu rộng. Bạt khổ… ở sau: Tiếp văn này, sau mới nói “Ta là cha của chúng sinh nên cứu khổ nạn v.v…”. Từ “nên cứu khổ chúng”, đến “sức Từ”: là Đại bi, vả lại theo bạt (trừ) trược, Đại từ cho chúng đại lạc (vui lớn). Cho nên Từ là theo ý hóa, Bi là theo dụng tiểu.

Trên Thí dụ có Khuyến và Giới (khuyên răn)…: Giải thích Thí và Pháp ý có không, tức là phụ và chánh tương tức, tức là thể kia vốn đồng, huống chi hai văn đây đã là hai Tất-đàn. Nên biết khuyên thiện vốn khiến đoạn ác, đoạn ác vốn khiến khuyên thiện.

Hỏi: Hai thể đã đồng, tại sao cần lập hai Trước biện hỗ vô (xen nhau không), lẽ nào còn tương tức nữa?

Đáp: Vì môn thì biệt, hai thể thì đồng, tức tuy lại “khuyên” tức là “răn”. Chỉ là răn của khuyên; răn tức là khuyên. Chỉ là khuyên của răn, cho nên hai môn đều tồn tại không ngăn ngại thể một.

Hỏi: Nếu vậy một môn lý phế bỏ, thì tại sao sai?

Đáp: Nếu khéo thông đạt hai môn, thì một môn cũng đủ. Chỉ vì một môn nếu phế bỏ thì hai nghĩa đều thiếu, huống chi biểu hiện cha ân cần, trước khuyên lại còn răn.

Hoặc thời đều hợp với cơ nghi không đồng. Hóa thời không riêng, thì chung thành một sự.

“Ta sinh đã tận…”: tức là vô học tứ trí La-hán đều đủ, hoặc tuệ giải thoát chưa đắc Vô sinh. Nay lấy “Vô y” (không nương) là hai trí đầu cuối. “không cầu” là hai trí trung gian. Hậu hữu tức là sở y xứ. Nếu sinh đã tận thì vị lai vô y, hai trí trung gian hết nhân ba cõi gọi là “đã làm xong…” cho nên “không cầu”. “Trên có bốn vị: Chân, Tương tự v.v…”, Hiền hợp làm hai, và Thánh vị hai. Nay y ngoại phàm ở trước cũng chỉ Văn tuệ làm một, Tư Tu làm một. Bích chi là pháp hành nhân: Nhất vãng lại đối Thanh-văn nhờ giáo, do đó Bích-chi-phật tự tư duy làm pháp. Nhưng Bích-chi-phật ắt tự chứng, Thanh-văn đầy đủ Tín, Pháp. Tín, Pháp đủ như Chỉ Quán quyển năm viết dẫn văn Bà-sa luận..: Nghe pháp ít là Bích-chi-phật; hoặc nghe giáo đọa ở Thanh-văn cũng là do tin, chỉ nói “nghe ít”. Từ “Môn đây” đến “chẳng phải Phật…”: Đại luận nói: Có một đạo nhân hỏi Phật: “Đại đức, mười hai nhân duyên là do Phật sáng tác ư?”. Phật đáp: “Ta bất tác”. Lại hỏi: “Người khác sáng tác ư?” Phật đáp: “Cũng chẳng phải người khác sáng tác. Có Phật hay không Phật thì bản tánh vẫn có”. Có bốn cách trả lời câu hỏi. Đây tức trả lời theo cách quyết định. Hoặc kia rộng nêu tam tạng đế duyên, đầy đủ như trong luận Câu-xá, Bà-sa. Huyền Văn lược nêu. “Chỉ hợp…”: Do trong bốn thứ đây thì hai chánh hai phụ. Nên biết do thoát nạn nên đòi xe, do đồng ban cho xe nên hoan hỷ.

“Môn có ba nghĩa”: Trong ba đó thì “xuất biệt” là môn, “nhập” là nghĩa lập. Từ một sắc tâm nhập một sắc tâm. Môn lấy việc đi qua làm nghĩa. Chỉ vì chưa xuất thì gọi là nhập. Từ một nhập một nghĩa ngôn làm nhập, thật chẳng phải ngoài đến. Nếu tác xuất thì phải kiêm Tam tạng giáo, nay lập Thông giáo sở thuyên, vì hai giáo này sở thuyên đồng. Nói “Nếu biệt nghĩa”: là y người biệt lý. Nói “sở thuyên” là ý hiển riêng giáo môn nghĩa không thành. Kinh tuy nói giáo ắt phải đối lý, cho nên biết biệt giáo, tuy thuyên biệt lý cũng chẳng phải xa môn, chỉ đối Thông Tạng mà lập biệt danh, do duyên biệt lý cho nên gọi là Biệt. Thứ lớp đầu tiên cùng người Tạng Thông đều ra khỏi nhà lửa, căn cứ ra khỏi nhà lửa đồng, vẫn có thể danh thông. Đầu (sơ) chứng lại đồng Niết-bàn của hai giáo cho nên cũng có thể nói đắc Niết-bàn lạc. Ba đức, đầy đủ như Huyền Văn nói ba pháp và Chỉ Quán quyển ba trong phần hiển thể nói. Đây giải thích có chút khác với trước: Trước nói ý không tại ba, nay nói vốn muốn ban cho Đại, tuy lại có chút sai khác mà danh khác nghĩa đồng.

“Có một nhà rất lớn”: Có người nói: Lại chỉ một phương ba cõi cho nên nói “một”. Người khác thì rộng liệt kê lợi độn chương môn. Tam giới vô thủy làm nghĩa “lâu”.

Hỏi: Nếu theo nhân mà nói thì hoặc đương vô thủy, nếu từ y báo sơ thiền trở xuống thì hiền kiếp cận (gần) thành, vì sao gọi là vô thủy ư?

Đáp: Chúng sinh vô thủy đủ nhân tam giới; chủng Hoặc không mất nên gọi là vô thủy. Cho nên y báo xứ hoại mà lại thành.

Đệ tứ thiền trở đi đến Vô sắc giới, tuy không có tai hoại mà nhân quả tương thành đều là vô thủy vô thường. Nhưng rốt cuộc cũng không bằng căn cứ Chánh báo mà giải thích lý kia rất tiện. Niệm niệm nối tiếp: Nối tiếp nên “cao”, vô thường nên “nguy”. Ý thức ràng buộc thống ngự một thân kia cũng như cột kèo chống đỡ một nhà. “Bỉ sách: (sụp đổ)”: Trên dưới rạn nứt. Lỏa là dáng mạo.

Hai cách giải thích theo Nhân duyên và Quán tâm: như nói đầu là “điện”, bụng là “đường”(nhà) tức Quán tâm. Như nói sắc “đường”, dục “xá” tức Nhân duyên. “Mạng căn” trở xuống, văn đều nói Quán tâm. Tám loài chim dụ cho tám loại kiêu (mạn): Chỉ vì “mạn” và “kiêu”, năng sở sai biệt. Các giáo cũng dùng bảy mạn giải thích mạn, trong đây giải thích phần lớn đồng luận Câu-xá, ý kia có chút sai biệt nay lược so sánh. Nhiều tráng kiện, kiêu căng như ngã mạn cùng Câu-xá danh nghĩa đều đồng. Tráng khỏe nên ngã mạnh, tánh kiêu như đại mạn. Câuxá nói: Đối với người khác hơn mình mà cho là mình hơn, như họ tộc thấp ít còn chưa từ chối ở nhà cao như chim Kiêu còn ăn thịt mẹ huống chi họ tánh cao quý ư! Giàu sang kiêu như “quá mạn”. Câu-xá nói: Đối người hơn mà cho là mình hơn… Như người đời nghèo khổ, còn không hạ thấp với Thạch sùng huống thật giàu ư! Tự tại kiêu như “tà mạn”. Câu-xá nói: Bên trong có đức cho là mình có đức. Như bạt hựu (đức mỏng) còn không chịu khuất phục người có đức huống người có tự tại. Thọ mạng kiêu như “tăng thượng mạn”. Câu-xá nói: Chưa đắc cho là đắc, thọ mạng cao chấp thường như trẻ tuổi còn chưa chịu tôn kính bậc lớn tuổi, huống chi thọ mạng cao. Thông minh kiêu như “kiêu mạn”. Câu-xá nói: Đối người khác bằng cho là mình bằng, đối với bằng mà khinh, như sức yếu còn muốn khinh chê người huống chi thật ngang sức ư! Hành thiện kiêu như bất như mạn. Câu-xá nói: Đối người hơn nhiều phần cho là mình thua chút ít, đức nghiệp cách trời vực cho là hơi thấp đối với người cao huống chi thua chút ít ư! Sắc kiêu như “kiêu mạn”. Câu-xá nói: Sắc không bằng người mà cho là mình bằng, lậu mà tự đắc chưa chịu kém hơn huống chi dáng mạo đẹp, lược đối lại như vậy như danh không đồng. Trong đây thẳng vậy có tám việc đây, cho nên kiêu mạn chưa hẳn hoàn toàn có. Tự ái vì tham… lại dùng ba độc theo lệ giải thích đồng khác, cho nên bốn tư duy đều có hai tên đã từ đó được danh bất định. Trùng tướng trạng thú, thể quỷ, hình dáng thần, tuy tức chẳng thiết yếu mà cho khiến làm thí dụ cũng có thể lược biết. “Ngoan” tức loài rắn đen. Cho nên Hán Thư nói: Huyền ngoan phúc. Nhĩ Nhã nói: “Hủy” (rắn) dài ba tấc lớn bằng ngón tay. Ở Giang Nam gọi “Hủy” là “phúc” có răng độc trên mũi có kim châm. “Ngô công”: Là con rết, có người nói loại này năng chế ngự rắn hoặc hàng phục rắn, phần nhiều chân màu đỏ, đây nói có tổn hại không suy nghĩ đến báo. “Thủ cung” là thằn lằn, có người nói tại nhà là “thủ cung”, tại ao đầm là “yển đình”. “Dứu” tợ chuột, hoặc thứu gọi dứu, tợ như “viên” (vượn). Nếu nói Dứu, thì Ngọc Thiên nói giống như Ly cũng ăn. Trời nếu mưa thì trèo lộn ngược đuôi lên cây, có hai cánh tẻ ra dùng che hai lỗ mũi. Chữ “ly”, Thuyết Văn nói “trĩ”. “Hề”, Thuyết Văn nói là chuột nhỏ. Ngọc Thiên nói có nọc độc người và thú không thể chịu được (rất đau đớn) tức từ miệng chuột. “Chớ” (nhấm) chỉ là Tước (nuốt). Đánh tát cũng là tát, cũng là vỗ.

“Ái tâm tham…”: là dựa vào đây cùng độn sử đối biện minh, các kiến ở sau trong thần quỷ nêu rõ cũng có thể là lợi trong độn. Nếu từ độn nói đạo lý cũng là đạo lý trong độn. “Suy cầu…” là giải thích. Như tông chỉ Nho học Trung Hoa cũng chấp thiên mạng khí… đều thuộc độn sử, muốn so sánh với đại lý Tây phương thì cách nhau như trời với vực. “Nói…”: lập lại hoàn toàn giải thích độn sử. Tra: Giải thích gọi là xoa nghĩa là năm ngón tay đều nắm lại xông lên lôi kéo cũng như hướng trước là tra (cấu xé), hướng sau là kích (đấm đá). “Nhai sài (gầm gừ)”: Chữ “sài” cũng là cắn, hở môi lộ răng. “Hào phệ (gào sủa)”: Là phát ra lớn tiếng. “Ly, mị”: Là vật tinh. Thông văn thế tục nói: Quái ở núi đầm gọi là “Ly”. Tây Kinh Vũ nói: Thần núi hình như hổ gọi là Ly. Trạch thần đầu như heo hình như người gọi là “mị”. “Võng lượng”: Gỗ 50 đá biến quái. Ngọc Thiên nói là thần nước. “Phu Nhũ (ấp trứng)”: Ngọc Thiên nói Phục noãn gọi là “phu”. Thông Tục Văn gọi noãn hóa gọi là phu. Quảng Nhã nói: Phu thì sinh, Nhũ thì dưỡng. Nên loài chim sinh là Phu, Thú sinh là Nhũ. Nói “tự loại…”: Tức đồng loại nhân thì đắc quả đẳng lưu. Do con tợ cha cho nên dùng dụ. Câu-xá nói: Đồng loại nhân tương tợ, tự bộ địa đời trước, tức năm bộ chín địa, chỉ ước quá khứ lấy hiện tại làm nhân, rộng như văn kia.

“Cưu-bàn-trà”: Là loài quỷ đáng sợ, ngồi chồm hổm. Tiếp, “Nắm hai chân của chó…”: Đây có một giải thích cho nên nói một, chân chó như nhân, nắm như hủy báng, nắm chân đánh như muốn cho dứt tiếng cho nên nói: “khiến chúng thất thanh”. Nhân quả pháp nhĩ không thể do chấp không; trước lấy do bắt đánh do đó có tiếng. Như do chấp nên sở dĩ có sinh. “Dùng chân đạp trên cổ”: Tiếng kêu không tuyệt dứt nên lại dùng chân chó chặn lên cổ chó; hủy báng trên không nhân thổ lại bác bỏ không quả khổ, ví như “dùng chân đạp lên cổ chó”, mong ắt được tuyệt dứt tiếng, tiếng kêu lẽ nào không thể; bác nhân còn sinh, bác quả càng quá. “Tập bản đắc quả…”: là giải thích câu trên. Nắm hai chân chó thì lẽ nào có thể tuyệt dứt tiếng? Dua theo hủy báng không nhân quả thì làm sao có thể tránh khỏi quả. “Tập vô đắc khổ…”: giải thích câu dưới. Như đạp cổ chó muốn cho tuyệt dứt tiếng kêu, do thêm tiếng kêu lớn. Lại, hủy không có nhân khổ, chỉ chẳng phải nhân chấp nhân, tức là báng. Xưa là nhân thế gian, nay là xuất thế gian, tức đương hủy báng không có hai nhân.

“Quán giải”: Trước căn cứ sự mà giải thích, phần nhiều tại đoạn kiến cho nên nói “bác không…”. Nay căn cứ Quán giải thì nghĩa thông thường kiến cho đến tà chánh. Do đệ tử Phật cũng có tu hành lục hạnh quán, cho nên nay dụng. Nếu ngoại nhân tu thì phần nhiều chấp thường, hoặc là chấp tứ thiền cho đến Phi tưởng, là thường. Phàm nói Quán giải phải thuận bên trong. “Lại nói Quán bất tịnh…”: ý đây cũng là dùng “xuất” thanh làm “thất”; do quán cho nên sinh, ví như do đánh cho nên kêu. “Khiến không được khởi”: lại dùng tuyệt thanh để giải thích “that”, cho nên nói “bất khởi”. “Thụ (dọc) nhập…”: Như sáu mươi hai kiến tuy có nhiều giải thích, mà phần nhiều căn cứ ba đời: Quá khứ vị lai hiện tại, từ hiện tại nhập vị lai cho nên gọi là “thụ” (dọc). “Hoành (ngang) khắp…”: Như hai mươi thân kiến một ấm bốn câu. Bốn câu hướng vào nhau không còn hơn thua tốt xấu, cho nên gọi là “hoành”. “Không tu thiện pháp” là đây buông lung, cho nên không tu không phải bác bỏ không. Tuy không bác bỏ không cũng gọi là “vô tàm”. Nói “kiến thủ” là chẳng phải quả mà chấp là quả, Phi tưởng không phải quả Niết-bàn, mà chấp đó là thường. Chấp không có sắc mà chỉ có tâm, gọi là “cổ nhỏ”. Thọ tối đa trong tam giới gọi là “mạng nguy”, chấp cho là thường gọi là “giữ gìn thọ mạng”, chỉ là nghĩa chấp quả. “Phi tưởng…”: là lại giải thích lỗi lầm chấp.

“Đầu như…”: Ngã căn bản như trâu. Thế gian cho rằng sức trâu là đại tự tại, chấp ngã cũng vậy. Trong đó lại chấp ngã có không, như sinh hai sừng. “Vì thân là ngã…”: Do ngã cùng thân lại xen lẫn không và có. “Vì thân là ngã”, tức chấp ngã sở vi. “Vì ngã là thân”, tức dùng năng làm sở, thân tức là sở, ngã tức là năng; như dùng năm ấm chấp một ấm làm ngã, còn lại đều là ngã sở. Nghĩa là tôi tớ, anh lạc, hang nhà. Nếu chấp thường thì thân chẳng phải là ngã, thân đoạn ngã thường. Nếu chấp đoạn thì thân đoạn ngã đoạn, hoặc là đều thường đoạn, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm, dẫn A-hàm bản kiếp bản kiến mạt kiếp mạt kiến, nhưng kia sở chấp năng sở tuy sai khác chấp có nghĩa… “Hoặc khi…”: Là các ngoại đạo trong một thân trước sau chấp chuyển, cùng cực của sở chấp là tột cùng đến Phi tưởng, lấy sở chấp làm “đầu”. Địa kia đoạn thường lại xen nhau khởi chấp, như “đầu tóc rối tung lên”. “Chấp thường…”: Xen nhau phải trái (thị phi). Mạnh hàng phục yếu, yếu thì theo mạnh, đều phá người khác từ bản thân “như tàn hại lẫn nhau”. Chấp ngã đây, có đoạn có thường, tức biên kiến.

“Dạ xoa…”: hai câu đầu tổng kết dục, chưa phân lợi độn. “Cũng là…”: lại biệt nói ý lợi độn, cũng chỉ hai câu đầu tức câu trên lợi câu dưới độn. “Đều là hữu lậu…”: là giải thích câu thứ ba, tâm hữu lậu đều không có thức ăn đạo vị. “Cơ” là đói, vì đói cho nên sinh tử, nhanh chóng cho nên gọi là “cấp”. Kinh văn nói “Tứ hướng (bốn bề)”: Kiến hoặc tuy nhiều không ngoài bốn câu, lợi độn đều có nghĩa “đói gấp (cơ cấp)”. Kinh văn lại dùng lợi sử để giải thích. “Khuy khán”: là rình xem. Xem bất chánh do ngăn cách cửa sổ, cho nên kiến Không mà thiên lệch. Không thì chẳng có thiên hay chánh. Về lý thì chẳng thị phi, người chấp thành lỗi, nên nói tâm chấp đắm phần nhiều không hợp chánh lý. Cho nên, biết tà chánh ai không đều gọi là ngưỡng mộ đến đạo ư! Hai câu đây thông kết hai sử. Tiếp dưới hai câu thâu rộng kết phi.

“Nhà cũ mục nát ấy…”: Văn trên nói: “Nay đây ba cõi này đều là của ta cả”, đây theo Hóa chủ tóm lại mà nói, vì sinh chấp cõi. Nói “cũ mục nát” (hủ cố): là tùy thuận chúng sinh mà nói, cho nên văn trước sau nói “nước, thành, nhà…” là tùy xu thế của nghĩa, hoặc hơn hoặc kém đều thuộc chúng sinh, đều quy Trưởng giả, nhất sắc nhất hương tất cả đều như vậy. “Trưởng giả…”: là giải thích hai câu dưới. “Nội hợp” đến “xả ứng”: hợp hai câu này. Nếu dùng mười sáu vương tử làm thường giáo, thì nên nói “vương tử xả ứng”. Nay theo quả mà nói, cho nên gọi là “Như Lai”. Lại, xả ứng không cô độc do vì đại tương, cho nên biết rằng: “Chẳng những sau xả ứng thì khởi trược, mà còn chính do trược khởi cho nên xả ứng”. Cho nên biết các văn Khởi các trược, Cứu lửa, Đại hóa dự định thích nghi….ở trước, thì ý đều dò xét dùng văn Đại Thông ở sau. Căn cứ trong đây ý tùy căn thượng hạ tam chu không đồng, xét kỹ nguồn gốc kia thảy đều như thế, cho nên được thông dụng. “Thọ lượng”: Trợ giúp thành nghĩa cận (gần) thật thành đã xa trung gian thường thành. Thành tức là “xuất”. Lại căn cứ một kỳ, cho nên không gọi là nhiều. Lại che lấp bản cho nên không thể nói nhiều. “Uy thế lửa bốc cháy”: Trong đây tướng uy thế đều phải làm hai giải thích Kiến, Tu. Nên biết thông luận uy thế có hai thứ: 1) Thế phần. 2) Uy thế. Thế phần thì thông đến Phi tưởng, Uy thế thì thiêu hoại tất cả.

Nay đương giới (cõi) hai thứ thế cũng lại như vậy. Trạch (Nhà) rộng, Xá (nhà) hẹp. Ba cõi là trạch (nhà rộng). Năm ấm là xá (nhà hẹp). Nếu lại chỉ Dục giới, thì chuẩn theo lệ có biết. Do trược điên đảo cho nên thân mạng vô thường. Thế nên dùng Vô thường để hiểu rõ văn đây.

Trong “tướng bị thiêu” chia làm ba nghĩa: Hai câu đầu thuộc Kiến, tiếp một câu thuộc Tu, tiếp ba câu không ngoài nguyên do. Chuyên do nơi Kiến, cho nên lập lại nói “bàn-trà”. Lại hai câu đầu thông liệt kê cho nên nói “quỷ thần…” đồng dùng “trùng thú”. Tiếp một hàng biệt liệt kê cho nên lại nói “Cưu-bàn-trà…”: Trong hai câu đầu, câu dưới chính nêu rõ tướng thiêu đốt cho nên nói “kêu to”. Hai câu dưới trong một hàng tiếp nêu “ngu không biết đường ra”, chính do không ra nên bị thiêu cháy, cháy thiêu nên không ra được, cho nên tổng kết thuộc tướng thiêu. “Khóc lóc đồng cất tiếng”: Đây dùng “sầu, than, ưu, não” sau Mười hai chi nhân duyên giải thích văn này. Đây là người xưa giải thích khóc lóc… thông khắp ba cõi. Nay không dùng giải thích của người xưa. Chỉ tại Dục giới trong cõi Nam châu có xứ Lễ-độ, không thuộc về xứ khác. Giới thủ vốn không chấp đoạn như thế, vì nhân dự tính quả. Sắc giới lửa bốc cháy thiêu cháy chúng sinh trong đó, cũng hai câu đầu là độn sử, tiếp hai câu lợi sử. Nhưng văn nói uy thế lửa thì lược, không phân lợi độn, lẽ ra cần nói nghĩa. Cho nên, trong Dục giới cũng không phân lợi độn, nay Sắc giới cũng vậy. Tiếp, nêu rõ trong tướng mới đủ lợi độn, tức tương đoạt… Đã ở trong thiền khởi các Kiến-hoặc, đới kiến tu thiền, hoặc thiền. Đã kiến khởi hoặc thiền kiến đều phát; hoặc thiền rồi kiến, hoặc có thể kiến còn, hoặc lại đều mất. Sở chấp sai khác, đầy đủ như bản kiếp bản kiến… Nói “mặc nhiên”: Đây căn cứ Đại thừa, trong mỗi một thiền đều lập mặc nhiên. Như trong Sơ thiền thì mặc nhiên thứ sáu, cho đến Tứ thiền thì mặc nhiên thứ năm. Do chấp “mặc nhiên” nên mất Vô lậu. Y các kinh luận khác, thì đạo do chấp thiền mà làm mặc nhiên, hoặc dùng chi “Nhất tâm” mà làm “mặc nhiên”. Dục giới tham, vị lai định đã đoạn, tức là chướng tánh chưa trừ gọi “phục” là đoạn. Cho nên khi ác thú ăn, thì mới gọi là “tận”. “Dục giới” đến “như lửa mạnh…”: khói lửa bay lên do khói quá hơn lửa cho nên dùng dụ cho “Sắc”. Lại lửa mạnh khói nhẹ như Sắc khinh Dục trọng. “Thân…” là “Tứ đảo” khắp hai cõi, cho nên gọi là “bốn phía…” cũng thông dưới cũng có thể song thí hai loại Bốn phía cho nên da thịt Tứ đại ở bốn bên của thân; như bốn phía đều khổ cho nên nói “Phủ khắp bốn bề”.

“Ngô công…”: nêu việc ở không trung. Trước nói “núp trong hang” để dụ Sắc giới, nay mới “ra khỏi hang” cho nên dụ Vô sắc. Nói “không trung”, chẳng phải là hư không, vì đã dùng “trong nhà” để dụ cho Dục, “vào hang” dụ cho Sắc. Nay dùng “đất trống ngoài hang” làm Không, để dụ cho Vô sắc. Sắc giới như hang, nhàm chán xuống như bị thiêu đốt, vui thích lên như ra khỏi hang. Nếu vậy thì sân thông tam giới: Trước, trong Dục giới thì dùng “ngô công” dụ cho sân, trong đây theo lệ không riêng phân ra. Đã nói “ngô công” lại là Vô sắc, cho nên dụ cho sân của Vô sắc. Trong Sắc giới tuy không có “ngô công” mà nói “độc trùng”, tức bao gồm ngô công. Như Sắc giới, lợi gọi Tỳ-xá-xà tức gồm các loài quỷ, cho nên biết “Sân thông tam giới”. Trong Tiểu thừa nói thượng giới không có nhuế, thì chẳng tận lý. Song các phiền não khinh trọng tuy sai khác mà còn đến Đẳng giác, lẽ nào bỏ qua Vô sắc? Chỉ vì danh đồng mà thể khác, lý cần phân biệt. Nay loài bị cháy lược không có quỷ thần. “Nếu đắc…” như Vô sắc định khởi tầm tức sinh chấp cho nên gọi là “tùy”. Đã lìa duyên dưới nhất định chấp Phi tưởng, cho nên nói “Lại có các ngạ quỷ trên đầu lửa bực cháy”. Phi tưởng cũng có tám khổ: Văn đã liệt kê bảy, còn thiếu Ái biệt ly lẽ ra nói “Thất định thời khổ”. Gọi là Ái biệt ly, chỉ vì bốn khổ đầu của bảy khổ trong văn. Căn cứ thể của định kia sinh tưởng vi tế; sát-na không trụ gọi là “niệm niệm”, bệnh tử có thể biết. Tiếp, có hai khổ dùng đối tu nói tu, trên thất dưới thông được gọi là ly. Tiếp “ngũ thạnh ấm” lại căn cứ quả định. Bốn khổ trước và khổ thứ tám tại quả; Hoặc nhân hoặc quả đều căn cứ định kia, cho nên được nói như thế. “Không ở tòa Đệ nhất nghĩa Không: Là Đệ nhất nghĩa không làm trí, lý hợp cùng bi đồng thể. Nay nói không trụ trí không có bi, thường ở bi có trí, cho nên nói “bất xử”. Cho nên biết vô duyên từ bi mới có thể cùng trí đồng thể. “Xưa nói…” : Đức Phật lẽ nào không biết mà đợi người khác bảo? “Lại nói…”: Lẽ nào có vật cơ trở lại từ chối nói Phật rằng con ông? Vì dù cảm ứng tương quan để sinh, trông mong Phật vì mọi người thì có gì mà không thể được? Nhưng hiểu kinh văn nói nghe có…, từ chối như lấy dưới nói trên, cho nên không dụng. “Nay nói…”: là chánh giải thích. Phàm nói “ông”: Có thể thiết lập ở Sư, Sư tức pháp, các nghĩa khác và hai lý trên đều thành.

Hỏi: Chân như pháp giới có thể là Phật Sư (thầy Phật ), quán cơ Tam-muội ví dù gọi là pháp, chỉ là chiếu Tục, vì sao gọi là Sư?

Đáp: Quán thuộc trí, trí tức là Phật . Y Tam-muội khởi chiếu, cho nên được gọi là Sư. Tuy nói quán cơ mà chiếu thể là pháp, như Phật nhãn quán… Cho nên có nhãn này, mới có thể quán cơ nghĩa như thiếu sót.

“Lại nói…”: căn cứ Đại bi: Các nghĩa “ người khác” lại thân cận, nghĩa “ông” ít cần, vì Vô-duyên-từ hướng về Ứng thân, cho nên Vôduyên-từ bảo với Ứng thân khiến khởi hóa vật. “Vân vân”: Đối trên biện rõ sai khác, nêu ý quán sơ sài, chỉ khiến thí dụ pháp là chánh, vả lại phân biệt thành.

Hỏi: Con vốn bình đẳng ư? Trong đáp hai giải thích diệu đắc sự lý. Việc đầu đáp: Tuy chưa từng xuất nghĩa tợ như trước xuất, tuy tức chẳng phải nhập nghĩa tợ sau nhập, do xuất chưa xuất cho nên nhập tợ nhập. Lại dưới căn cứ lý giải thích: Bản tịnh cho nên xuất, vô minh cho nên nhập, cũng từ nghĩa lập, chẳng xuất chẳng nhập mà nói xuất nhập. Trong căn cứ sự giải thích, tức sau thoái đại. Do chấp ngũ dục mà làm du hý, căn cứ trong lý giải thích tức dùng hý luận mà làm “du hý”. Nói “hý luận” tức tam giới Kiến Tư. Kiến Tư tức lý cho nên xuất, lý tức Kiến Tư cho nên nhập. Như trong kinh Tịnh Danh còn dùng Tiểu chứng mà làm hý luận, cho nên nói: “Nếu nói ta đương kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, thì là hý luận chớ chẳng cầu pháp”. Cho nên ngoài thật tướng đều gọi là hý luận. Cho nên, sự lý hai giải thích đều ở thời Đức Phật Đại Thông. Tuy phát Đại tâm nhưng chưa phá vô minh, cho nên đầy đủ nơi sự lý hai nghĩa.

“Đại thiện…”: là giải thích nguyên do thoái và do đắm trước. Xưa kết duyên nông cạn gọi là “chưa đắm”, sau khi thoái lưu chuyển thì chỉ có vô minh, cho nên gọi là “vô tri”. Tức đây giải thích ý cũng đầy đủ hai giải thích, suy nghĩ có thể thấy. Bốn hàng rưỡi tụng “Ta sẽ…” bên trên: là môn răn bảo, dự định thích nghi nên lại lược phân. Một hàng đầu chánh nêu dự định thích nghi. Một câu tiếp, tổng lập sở thiêu tức là Kiến Tư. Một câu tiếp tổng nêu uy thế lửa đốt. Hai câu tiếp lược nói tướng thiêu. Một hàng rưỡi, rộng nêu sở thiêu. Trong văn lẫn liệt kê hai loại Kiến, Tư, không theo thứ lớp. Tiếp một hàng, là tụng kết so sánh. Trong đó hai câu đầu nêu đối tượng so sánh, tiếp hai câu là chánh so sánh. Do không có định tuệ, cho nên “đói khát”. Đã đáng sợ hãi huống chi lại bị chìm trong lửa thiêu hại, như khi đắc thượng giới hữu lậu định, không có vô lậu định đã bị lửa nhỏ Phạm thiên thiêu đốt huống chi rơi xuống Dục giới bị lửa lớn thiêu đốt, tức chỉ đói khát lấy làm khổ đây. Thế nên ưng cầu Đại thừa vĩnh viễn lìa khổ.

“Các con…”: ba câu không thọ tức không có căn cơ, cũng là nhỏ dại không biết. Trong văn lược cho nên chỉ nói “vô tri”. Kinh nói “Cứ vẫn còn ham ưa”, tức là: Đã không có Đại chí lại không huân tập Tiểu. Đã nói không có Đại tiểu lại chấp đắm ba cõi. Tiếp một câu trong ý thứ ba chánh là dứt hóa, Kiến Tư không ngừng cho nên dứt đại hóa. Nếu Kiến Tư không ngừng, còn có đại cơ, thì Như Lai lúc bấy giờ cũng không tiếc rẻ Đại, chỉ vì duyên Đại tiểu đều mất, chỉ có Kiến Tư cho nên ở hai đường ; lại khiến vượt ra khỏi trược, thì trước nên thiết lập Tiểu đó thôi. Ba hàng tụng trước dụ định thích nghi thì một hàng đầu nêu ý dự định thích nghi, tiếp một hàng dùng nguyên do tiểu. Do chấp Kiến Tư cho nên chỉ cho Tiểu. Tiếp nửa hàng dùng ý Tiểu thừa. Nếu không dùng Tiểu, thì Đại Tiểu đều mất, cho nên nói “sắp bị lửa hại”; hại cho nên bỏ thân, nên mất mạng. Tiếp, nửa hàng chánh tư duy dùng Tiểu. Trong Khuyến chuyển, kinh nói “diệu bảo”, vẫn thuộc phương tiện; như Diệt chỉ diệu ly. Kinh A-hàm nói diệu trong diệu… Nếu “diệu bảo” là Đại, thì vì sao đều đến chỗ cha đòi xe? Trong Thị chuyển, kinh nói “ở ngoài cửa”, như chỉ bày Tứ đế khiến biết xuất thế, cho nên lập lại trong Khuyến nói : “Các con ra đây” là khuyên hành tướng kia. Cần phải quán đế mà được ra khỏi nhà lửa. Tiếp, trong Chứng chuyển, ý kinh văn nói: “Ta khéo tạo xe để cung cấp cho tất cả”. Nghiệm biết tự mình ắt không thiếu xe, dẫn tự mình không lầm, chứng minh ban cho không dối, nên biết lấy xe mình sử dụng, khuyên kia khiến được, là nêu mình làm ước lệ cho kia. Cho nên nói “xe ở ngoài”. Kinh nói “tứ cù (ngã tư đường)” tức Tứ đế. Trước không chấp nhận làm bốn trược giải thích, tức là căn cứ ý trong đây: “Bắt đầu, ở nơi ngoài cửa”: Đầu tiên con còn ở trong, cho nên cha “đứng ở nơi ngoài cửa”, nay con đã ra khỏi nhà cho nên cha “ngồi”: Lại đại cơ chưa hợp nên nói “lập (đứng)”. Tiểu hóa đã cùng khắp nên nói “an tọa”. Cho nên, biết rằng: “đứng” là ngầm lợi, “ngồi” là hiển ích.

Kinh nói “Mà tự vui mừng nói…”: Vì được căn cơ sở hóa cho nên vui mừng. Hai vạn ức Phật sở giáo làm đại duyên kia cho nên nói “sinh”, trung gian Tiểu thừa thuần thục cho nên nói “dục (nuôi dưỡng)”. Trải qua nhiều thời thường thành thục, nuôi dưỡng không dễ cho nên nói “khó lắm”. Đại yếu ớt cho nên ngu, “tiểu” khởi trược do “vô tri”, do nhân chiêu cảm quả cho nên nói “vào nhà”. Kinh nói “Có nhiều loại trùng độc…”: hai câu thuật kia sinh khởi lửa Kiến Tư. Kinh nói “Đại hỏa…”: hai câu thuật kia bị uy thế lửa thiêu đốt. Kinh nói “Mà các trẻ con đây…” là hai câu hợp Kiến Tư kia. “ Nay Ta đã cứu chúng…”: hai câu nêu nguyên do hoan hỉ. Kinh nói “Vì thế các người ơi…” là kết ý hoan hỷ. “Biết cha…”: ba hàng tụng đòi xe, hai câu đầu nêu khi đòi xe nghiệm biết văn trên là “cha ngồi”. Tiếp hai hàng chánh đòi, tiếp hai câu kết đòi. Ở trong Chánh đòi, thì một hàng đầu là Chánh đòi, tiếp một hàng là thuật hứa. Trong “đồng ban cho” nói văn trên đến hợp có năm văn, tức không hợp giải thích “tâm bình đẳng”. Trong tụng hợp lại “không rộng nêu tâm bình đẳng”. Đã có “xe bình đẳng” ắt biết “tâm bình đẳng”. Hành đủ tất cả pháp gọi là “tàng”. Chỉ căn cứ hàm tàng làm nghĩa. Sáu căn đầy đủ tất cả pháp gọi là “kho”. Tàng thì rộng, kho thì hẹp. Cũng có thể xen lẫn luận v.v… chỉ căn cứ chứa nhiều các kho không đồng. Như căn đều sai khác tuy khác mà đều đủ, cho nên trong các căn đầy đủ tất cả hạnh. Do hành trải qua các căn tức là căn hành đều đủ các pháp, tức tàng sâu kho gần, như hành xa căn cạn. Tuy có xa gần mà đầy đủ các pháp. Căn cứ căn luận hành không còn sai biệt tự chẳng phải một nhà y kinh thuật giải thích theo lệ chương sớ. Lẽ nào có thể nghe đây dùng căn dùng hành làm tàng làm kho, đầy đầy đủ các pháp!

Ý trong kinh nói “xe lớn”: Nhân quả sở hữu tổng gọi “các báu”. Căn cứ giáo tu đắc nghĩa như tạo. Tánh tu không đồng, quyền nghi gọi là “tạo”. Hành nhiều con nhiều, nên xe chẳng phải một, cho nên sở tạo nhiều “chư” mà lại “đại (lớn)”. Lại phải chỉ bày mới biết (tử) con tu gọi là “tạo”. Vì tánh hết tu tạo, trở lại bản hữu tức thể xe. “Trang sức…” : tức cụ độ. Một hàng đầu như trước giải thích. Kinh nói “Chân châu…”: Xuất tướng tràng cái Từ môn chẳng phải một, cũng như lỗ lưới trong mỗi một lỗ đều có một chân châu, như các Từ môn đều xưng là “chân”. Văn trước chỉ nói “treo các hoa anh lạc”, chỉ là khiến người thấy vui mừng. Nay nói “Lòng thòng rũ khắp chỗ”, chính là nêu các căn cơ khắp vui mừng. Kinh nói : “Các màu trang sức…”: Câu trên nêu nơi rũ hoa, vì bày biện nên không đồng. Câu dưới nêu nhiếp vật thích nghi không chút nào thiếu. “Nhu nhuyến”: Trước nói trải chồng nay thêm tán thán mềm mại (nhu nhuyến), lại dùng vải quý tốt mà trùm phủ lên trên. Các thiền tự tại cho nên nói “nhu nhuyến”, dùng diệu che thô, như vi tế che lên trên. “Nhân”: Thuyết Văn nói là chiếu kép trong xe. Đầy đủ sự thiền có khác phàm phu tiểu thừa, cho nên nói “Bóng láng trắng sạch sẽ”. Trong phần Được xe hoan hỷ, nói “ngang vui chơi (hoành du)…”: Các pháp tại nơi một hành một pháp Quyền Thật đầy đủ. Cho nên tuy hợp nhất mà bốn tướng rõ ràng; “Bốn môn” đến “bốn mươi mốt vị” : đầy đủ như trong pháp thuyết bốn giải thích lý nhất. Vị môn hai giải thích nghĩa kia đã đủ, hai thứ còn lại đã như trước nói. Căn cứ ý giải thích trên, vốn không ngang dọc mà nghĩa phân bốn tướng, nay cũng như vậy. Vốn không có ngang dọc, nương nơi Vị môn mà luận ngang dọc cũng có thể đế là căn cứ trí. Trước từ năng chiếu, nay từ sở y, vọng trước chỉ thiếu một thứ Quán tâm. “Rốt ráo bốn đức” tức đạo tràng. “Chín thứ thế gian” : chỉ là chín giới. Bảy vọng nơi chín, chỉ trừ Tứ thú ly khai Bồ-tát. Do nghĩa con thông, cho nên thế gian theo chín. Vì nghĩa kết duyên hạn cuộc, cho nên phương tiện chỉ bảy. Kinh nói: “Tất cả các chúng sinh đều là con của ta”. Như trong Đại kinh nói tất cả chúng sinh đều đến Đại bát Niết-bàn. Con là nghĩa tại nhân, Niết-bàn tại quả. Đại thừa tông yếu chẳng vượt qua hai thứ này, đều nói là có, sao thuận quyền giáo nói một phần không ? Kinh nói “Không có chút tuệ tâm” tức là thông nói không thật.

“Các khổ…”: trong đó hai câu đầu là tổng nêu, hai câu tiếp là giải thích, hai câu tiếp là kết. Kinh nói “Tịch nhiên…”: Là tại Vương Tam-muội dụng trí tức là “an xử”. Kinh nói “Bất thoái Bồ-tát” tức bất thoái nghĩa Thông, cũng kiêm Tam tạng… Trường hàng không hợp đòi và hoan hỷ, vì thoát nạn kiêm đòi, vì đồng ban cho xe kiêm hoan hỷ. Trong hợp chỉ hợp hai sau, không hợp hai cái trước. Trong bốn đoạn, thì thoát nạn và đòi xe là phụ; ban cho đại và hoan hỷ là chánh. “Ta tuy…” là đoạn thứ ba, một hàng rưỡi chia làm hai: Một hàng đầu nêu chướng trừ, nửa hàng tiếp là toại bản tâm. “Nếu người trí nhỏ…”: bảy hàng, đoạn thứ hai, nêu đủ Tứ đế: hai hàng đầu Khổ đế, tiếp hai hàng Tập đế, tiếp một hàng Diệt đế, tiếp nửa hàng chánh nêu Đạo đế, tiếp một hàng rưỡi nêu Tứ đế đây giải thoát chẳng cứu cánh. Trong hai hàng Khổ đế: một câu đầu nêu nguyên do khổ, do tiểu trí, chỉ có thế trí chỉ kham nói tiểu. Tiếp một câu nêu do tập nặng cho nên phải nêu rõ Khổ đế. Tiếp một câu lập lại chỉ nguyên do khổ. Tiếp một câu chính nêu nói khổ. “Chúng sinh tâm hỷ…”: một hàng nêu xứng bản huân tập. Trong hai câu đầu nêu (căn) cơ, hai câu tiếp nêu ứng. Trong Ứng, nói “không khác”, là như kinh Di Giáo nói: Thật sự khổ, không thể khiến vui. Tiếp hai hàng trong Tập đế: một hàng đầu chánh nêu Tập đế, tiếp nửa hàng hiển Tập đế năng trị, tiếp nửa hàng nêu lỗi của Tập đế. Tiếp một hàng Diệt đế: Nửa hàng đầu nêu công năng diệt tập, tiếp nửa hàng đắc danh. Tiếp một hàng rưỡi, nói giải thoát chẳng cứu cánh: Nửa hàng đầu lại lần nữa nêu đắc thoát, tiếp “Người đó…”: hai câu trưng hỏi, quán đế đắc thoát gọi là thoát gì? Tiếp “Chỉ xa rời…” : là giải thích lìa giới trói buộc chỉ nêu giải thoát Tiểu thừa.

Tiếp, “Kỳ thật…”: là giải thích, “ly…”: ba hàng giải thích: một hàng rưỡi đầu dùng vô thượng đạo pháp để bài xích. Tiếp một hàng rưỡi, xuất bản tâm Phật. Nêu rõ ác số: nay văn chỉ nói thuyết bất thuyết. Có người phân chia đây nói: Trước liệt kê nhân ác, tiếp nêu quả ác. Nhân ác có mười bốn:

  1. Kiêu mạn.
  2. Giải đãi.
  3. Chấp ngã.
  4. Thức cạn.
  5. Đắm dục.
  6. Không giải.
  7. Không tin.
  8. Buồn bã.
  9. Nghi hoặc.
  10. Phỉ báng.
  11. Khinh thiện.
  12. Ganh thiện.
  13. Ghét thiện.
  14. Giận thiện.

Tiếp, trong quả ác thì trước là giải thích.

Tiếp, “Xá-lợi-phất…”: hai hàng tụng kết. Đầu lại có hai: Đầu nêu do hủy báng đọa vào đường ác. Tiếp, “Như đây…”: nêu do đọa vào đường ác, nên không được gặp Phật. Văn đầu lại có ba: Đầu tiên là địa ngục, rộng trình bày phi thời. Như dây phân văn không phải bất nhất mà không có nguyên do. Tiếp, trong Súc sinh, nói “đoạn hạt giống Phật” : chỉ là phá hoại hai nhân Duyên Liễu. Văn trước thì “đoạn hết thảy hạt giống Phật ở thế gian”. Đây thì kinh nói “Khắp khai Phật chủng trong sáu đường”. Nếu hủy báng kinh này thì nghĩa sẽ đoạn.

Hỏi: Hủy báng kinh sinh tội, không phải kinh làm duyên tội ư?

Đáp: Tội phước do tâm, kinh chỉ là duyên trợ, kia cũng như tứ đại tổn hại hay ích lợi do đây thành. Nhưng theo Phật dạy vốn ý chỉ là sinh phước. Chính là lỗi của người mê, chẳng phải lỗi của đường đi. Ba tiện nhân (người nghèo). Tiếp, văn lại có ba:

  1. Nêu không gặp Phật.
  2. Lại vào đường ác.
  3. Lại được làm người.

 


Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10