PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 08

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

 

PHẦN THƯỢNG

GIẢI THÍCH PHẨM THỌ KÝ

Nhà chú giải nói: Nghiệp tợ trước trái tâm phù hợp sau thuận, đã phớt qua âm sai khác đâu sai 1 vị quả ư! Cho nên thọ ký. Nay nói sự tợ trước trái tâm cơ vốn thuận, nhưng các Bồ tát lẽ nào không trước trái sau thuận ư? Cho nên biết nay thọ ký Thanh văn phải trừ thông giải thích. Giải thích tên phẩm đây thì trước là phiên dịch, tiếp là liệu giản. Trong đó đầu “Các kinh…” trước dẫn trong kinh hỏi. Đầu văn tổng nêu ý hỏi. Tiếp, “Tịnh Danh…” là biệt dẫn ba kinh. Đầu dẫn kinh Tịnh Danh: Dilặc được thọ ký đã là Bổ xứ, ắt sanh Đâu-suất làm chủ cõi trời kia. Các thiên tử kia dự biết đời sau tu kính, Di-lặc nhân vì họ nói nguyên do được thọ ký, do Bất thoái vị, rộng vì thiên tử nói hạnh bất thoái tức nhân bất thoái, mới bị Duy-ma-cật trách rằng: “Tất cả chúng sanh đều Như, các pháp Hiền Thánh đều Như, cho đến Di-lặc cũng Như. Nếu Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sinh cũng nên được thọ ký, đâu riêng gì Di Lặc”. Huống chi Như vô sanh diệt vì sao đắc ký?

Tiếp, kinh Tư Ích nói: Do ký hư giả nguyện không nghe danh.

Kinh Đại Phẩm cũng vậy. Trong đáp chia làm tám:

  1. Thông đáp.
  2. Căn cứ Nhị đế.
  3. Căn cứ Tứ tất.
  4. “Nếu thông suốt…”: là chánh căn cứ kinh này.
  5. “Các kinh khác…”: là đối các kinh để biện rõ có không.
  6. “Vốn chư Phật…”: rộng căn cứ Tứ tất.
  7. “Thọ ký…”: phân biệt năng sở khác danh.
  8. “Trung căn…”: là ý. Văn đầu, nói “kiến đây cần phải phá…”: ý nói chấp hữu kiến cần phải phá, nguyện thọ ký cần phải cho, lẽ nào có thể chuyên dẫn Tịnh Danh… ư? Nếu căn cứ kinh này thì cần phải đủ năm ý.
  1. Phá phương tiện giáo sở đắc cận ký.
  2. Phá ban đầu thọ ký sanh tâm nhiễm trước.
  3. Vì hiển Diễn môn thọ ký không có tướng thọ ký.
  4. Vì chưa hợp, thọ ký là dứt tâm hy vọng.
  5. Vì thích nghi nghe, phá chấp trước được lợi ích, nên Diễn môn phá Tiểu nghĩa kiêm tướng thọ ký của tam giáo, tứ môn v.v…

Tiếp, “Căn cứ Nhị đế”: Tứ giáo đều như vậy, đâu được dùng Chân đế nạn vấn Tục đế?. Tiếp, “Căn cứ Tứ tất”: Lược đồng Nhị đế, rộng như dưới giải thích. Đâu được dùng một nạn vấn ba? Tiếp, “Chánh căn cứ kinh này” có năm:

  1. Thông biệt.
  2. Tam nhân.
  3. Nhanh chậm.
  4. Thầy trò.
  5. Huyền ký.

Nên nói “hiện chưa” chỉ là văn lược, nhưng năm ý đây phải căn cứ kinh này để phân biệt các kinh, hoặc chậm như Thanh-văn hoặc nhanh như Long nữ. Tiếp, “đối các kinh để biện rõ có không” lại có hai: 1) Nêu nay có. 2) “Anh Lạc…”: biện không để rõ có. Lại các kinh vì đối Bồ tát, phần nhiều thọ ký quả vị pháp thân cứu cánh. Nay trong phẩm này chỉ thọ ký tám tướng, như trước sau nói. Kinh Anh Lạc nói tám tướng thọ ký: Kinh này chúng đã đều biết cho nên trong bốn câu trước, nay kinh chỉ có câu thứ ba hoàn toàn hiển lộ, trong đó không hẳn tại địa thứ bảy như trong phẩm Bất Khinh một câu thông thọ ký, cho nên các kinh thọ ký sâu. Trong bốn câu sau, thì câu đầu tuy nói viễn xứ bất giác nhưng hóa đạo đồng cho nên cũng chẳng phải bất giác. Cho nên kinh này có câu thứ ba nghĩa đồng câu đầu và câu thứ ba, vì thế biết các kinh thật nghĩa chưa thích hợp. Nói “chưa đắc Vô trước hạnh và Thất địa”: Nói “vô trước” (không chấp trước) thì phải căn cứ Thông mà phán xét. Trong Biệt Viên giáo ban đầu nhập Địa Trụ đã là “vô trước”. Hoặc là tại Biệt giáo thì căn cứ giáo đạo, nhập Vô công dụng thì mới không chấp trước cho nên căn cứ Không quán thành tựu chỉ hợp tại Thông.

Nói “Thất địa”: Ở Thông giáo, do quá Nhị thừa nên kham thọ ký. Nhưng trong luận văn, trước đã nêu bốn hạng Thanh-văn, thì hạng thoái đại, và Ứng hóa được thọ ký, hạng Tăng thượng thì quyết định không được thọ ký. Có người bào chữa nói: hạng Quyết định cũng được thọ ký. Đây cũng không đúng! Người kia chấp quyết định tức là định tánh vĩnh viễn không phát tâm, phải chỉ kinh văn nói: tuy sanh Diệt tưởng mà cõi kia được nghe tức nghĩa kia tự hoại, đâu cần biệt cầu! Chỉ dùng Diệt tưởng để giải thích phàm phu, hiểu kinh văn một cách cong vẹo khiến thành nghĩa riêng của mình! Lại, luận Bảo Tánh chỉ nói Thanhvăn xuất giới căn độn, không nói căn bại. Nói “căn bại”: Ca-diếp nơi Phương-đẳng tức là người kia, nếu đến Pháp Hoa thì bại căn trở lại, nếu nhập diệt thì xuất giới mới sanh. Sanh Công nói: Hội lý không lụy lẽ nào dung chứa có cõi nước (quốc)? Tuy nói không cõi mà không phải không cõi, không thân không danh mà thân danh càng có, cho nên quốc độ danh hiệu ứng vật mà như vậy, dẫn không đủ đó thôi! Nếu đạt ý này thì chỉ nói tám tướng dẫn dụ vật. Đây nói che khắp, Pháp Hoa luận nói: Nhị thừa có Phật tánh pháp thân cho nên được thọ ký, chẳng phải tu hạnh đầy đủ. Luận nói “chưa đủ”: là căn cứ cực quả vậy. Lẽ nào có thể không tu Tịnh-độ hạnh ư? Căn cứ đây rõ ràng, lại phải cúng Phật. Nếu người Duyên-giác nhập Thanh-văn số, thì đồng Thanh-văn, xuất hiện ở đời không có Phật thì đồng quyết định tánh.

Tiếp, “Vốn là chư Phật…” là rộng căn cứ Tứ tất, tổng có mười lớp để thành Tứ tất.

Trong Thế giới Tất-đàn có hai:

  1. Căn cứ cơ ứng tương đối.
  2. Riêng (đơn) căn cứ vật cơ, tuy nghĩa nói “đơn” mà cuối cùng thành cơ ứng, cơ cảm tương xứng như hoan hỷ.

Trong Vị nhân có hai:

  1. Cải đổi Tiểu nhập Đại tức đã sinh thiện của mình.
  2. “Thời chúng…”: là các nguyện, lại có thiện lợi tha.

Đối trị Tất-đàn có bốn:

  1. Phá ác: Bồ-tát thoái làm Tiểu.
  2. Phá ác: muốn phát Tiểu tâm.
  3. Chánh phá ác: Tiểu.
  4. Phá ác: sắp muốn chứng Tiểu. Đối trị thứ ba là đã chứng, đối trị thứ tư là đã nhập Hiền vị, cho nên khác đối trị thứ hai. Nếu đối Bồ-tát thì công kích tiểu nhân kia, các kinh khác cũng có nói. Nay nói rõ thọ ký Tiểu lại dẫn người Tiểu thừa, cho nên chỉ kinh này.

Đệ nhất nghĩa Tất-đàn có hai:

  1. Chánh giải thích.
  2. Giải thích nghi.

Nghi văn có thể thấy. “Nhưng chúng sinh…”: là giải thích, vì thành

ý Đệ nhất nghĩa. Ba Tất-đàn trước không hẳn vô sinh. Lại, trong Đệ nhất nghĩa chỉ căn cứ tự ký, ba Tất-đàn trước thì có khi kiêm tự tha, như trong Đối trị Tất-đàn thì hoàn toàn là đối tha. Trong Vị nhân, thì lớp đầu kiêm tự tha, lớp sau thì chỉ có tha. Lớp đầu trong Thế giới Tất-đàn, nếu đem hóa chủ để đối sở ký thì cũng chỉ ở tha. Tuy có mười thứ đây cũng vẫn căn cứ thọ ký Nhị thừa để thuyết. Một câu Phật thọ ký và Bồ-tát thọ ký… trong đây chưa luận. Đầu tiên trong phần Ca-diếp tụng, thì bốn hàng đầu hành nhân, tiếp nửa hàng tụng đắc quả, tiếp sáu hàng tụng quốc độ tịnh. Tiếp, nửa hàng tụng thọ mạng Phật. Tiếp một hàng tụng thời chánh tượng, tiếp nửa hàng tổng kết kiếp các cõi nước tên. Nói “Ba người được thọ ký đều có hành nhân” cho đến “số lượng”: như văn. Chỉ có Chiên-diên không có tên kiếp, nước, còn lại các văn đều đồng. Tiếp Tu-bồ-đề, văn trường hàng có thể thấy. Trong kệ, một hàng đầu răn bảo nên nghe, hai hàng tiếp hành nhân, tiếp một hàng đắc quả, tiếp sáu hàng rưỡi quốc độ tịnh, tiếp nửa hàng thọ mạng Phật, tiếp một hàng chánh tượng, thiếu tên kiếp nước. Trong phần Chiên-diên trường hàng như văn, trong kệ một hàng đầu tụng khuyên răn lắng nghe, tiếp hai hàng hành nhân, đây có ba câu nói đắc quả, tiếp ba hàng và một câu quốc độ tịnh, thiếu thọ mạng Phật và chánh tượng. Trong phần Mụckiền-liên trường hàng như văn, trong kệ bốn hàng rưỡi đầu tụng hành nhân, tiếp một hàng rưỡi tụng đắc quả gồm tên nước, tiếp nửa hàng tụng thọ mạng Phật (dài), tiếp hai hàng rưỡi tụng quốc độ tịnh, tiếp một hàng tụng chánh tượng (pháp).

GIẢI THÍCH PHẨM HÓA THÀNH DỤ

Trong phần giải thích theo Nhân duyên chia làm bốn phần:

  1. Căn cứ thí dụ giải thích danh.
  2. Dùng pháp hợp.
  3. “Tô tức…”: nói ý hóa.
  4. “Quyền giả…”: tổng kết.

Văn đầu: Do Đại Niết-bàn chẳng hóa làm nên không chuyên chế ngự địch, tức lý tánh đầy đủ các đức. Tiếp trong hợp, đầu tổng nêu. “Quyền trí…”: hợp thần lực tạo tác. “Dùng quyền…”: hợp không có mà bỗng có. “Dùng giáo…”: hợp hóa. “Phòng tư duy…”: hợp thành, bởi vì giáo không thật cho nên gọi là “bỗng có”. Nói “không phải địch ví như Kiến Tư”: Chẳng tha thứ địch gấp thấy bức xúc tư duy xa thấy tự thân ngại, tư duy không chướng ngại quả. “Phần ba: Nói ý hóa”: Tô tức thi Tiểu dẫn nhập hiển bày Đại. Hai Tô gọi là dẫn Đề-hồ mới nhập gọi là giáo đạo. “Mà nói…”: là khích giải thích thành. “Quyền giả…”: tổng kết, biện rõ khác thật. Trong bốn thứ đây, lập tứ Tất-đàn: Nếu thông phương thì nghĩa lập từ nơi quyền trí, nếu từ cơ thì nói không mà muốn thấy, thấy rồi sinh vui tức Thế giới lợi ích. Được vào “Tô tức”, tức Vị nhân lợi ích. “Phòng phi chế ngự địch”, tức Đối trị lợi ích. “Mà nói diệt độ”, tức Đệ nhất nghĩa lợi ích. Nếu từ năng dẫn quyền lập thành này, tức Thế giới hóa; vì sinh Tiểu thiện, tức Vị nhân hóa; lại trừ Kiến Tư, tức Đối trị hóa; cuối cùng dẫn nhập Đại, tức Đệ nhất nghĩa hóa.

Tiếp, “Căn cứ giáo”, Tam tạng giáo: Bồ-tát hoàn toàn chưa phát đủ vì vậy không luận. Thông giáo: Bồ-tát tuy đồng đến thành, vào mà năng xuất không đồng Tiểu, vốn xuất giới nên “một chân vào thành”, do đại bi nên không chứng Hữu dư, cho nên “một chân ngoài cửa”. Tam giới căn cơ gọi đó là con, từ lâu đã phát tâm nghĩa như vợ. Thông giáo coi Nhị thừa là ác đạo, Biệt giáo coi sinh tử là hiểm trở. Đến Niết-bàn mà không vào, cho nên gọi là “tắt qua”. Nói “không tột cùng” là đối Tiểu để nói Viên giáo. Nói “hóa”: Tại xưa thì xích đoạt, chỉ nói không kham, cũng chưa từng nói Niết-bàn là hóa, nên đến giáo nay động chấp khai Quyền, mới nói là hóa, cho đến hiển thật hóa bèn thành tựu chân tức bảo chử. Cho nên biết Tạng Thông cho là tột cùng chẳng phải hóa, Biệt giáo không phải tột cùng, không phải hóa, Viên giáo không phải tột cùng là hóa, cũng có thể là tột cùng là hóa, cũng có thể là tột cùng không phải hóa, cùng với Tạng Thông giáo nói đồng ý biệt. “Nay là…”: cũng từ phá chấp cho nên lại nói hóa, nếu khai hiển rồi thì đều là chân thật. Giải thích theo Bản tích và theo Quán tâm không ghi chép, có thể so đây biết. Cho nên nói Bản thì trụ ở thành tam đức Niết-bàn, Tích thì nhập Hóa thành. Nếu từ hóa chủ thì Tích là chỉ bày nói (thị thuyết) hóa.

“Hỏi: Phẩm này….”: người đây dựa vào Chánh Pháp Hoa mà thiết lập câu hỏi đây. Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Vãng Cổ, người hỏi dần sửa đổi nói phẩm Túc Thế, cho nên trong lời đáp không trái. Người hỏi do thuận Chánh kinh có thể hiểu bộ này.

“Lại nữa, thượng căn…”: căn cứ ba thời giải thích. Nói “Thám thủ….”: Văn kia tuy tại Pháp thuyết thuật thành mà thuật thành chánh là dẫn khởi trung căn, cho nên văn giải thích thí dụ ấu trĩ (trẻ nhỏ)… đều dẫn dụng. “Nếu từ…”: là tự căn cứ đương phẩm. Biệt luận ba thời, hai kinh đều đầy đủ. Chánh kinh từ đầu nói không bằng xứ trong kinh này, đều không nói Bảo sở. Như trong Dược Thảo không nói đất mưa, như Tín Giải, Thí Dụ đề thông ý biệt. Biệt tại Thật, cho nên Dược Thảo Hóa Thành đề biệt ý biệt.

“Hỏi: Hóa thành…”: có thể biết. “Đáp” ý: Trong văn đây thúc giục không còn hai vị, chỉ trình bày thành, sau liền hướng đến Bảo sở.

Chuẩn theo ý văn đây, nói hóa tức khai Quyền, khai Quyền tức là hiển Thật, hiển thật chỉ là nói hóa nên trước trong căn cứ giáo là Viên giáo. Cho nên, biết chính khai hiển là viên mãn. “Lại, lãnh giải…”: giải thích ngăn ngại để trình bày như sau thọ ký mới lãnh, hoặc lãnh sau ký là lãnh đủ, lãnh nghe pháp và để thọ ký. “Hoặc văn thiếu….”: thông có các ý. “Như nay vân vân” thì “vân vân” là: lẽ ra nêu tướng trước tiệm sau đốn, đầy đủ như trong văn xưa nay hai thứ đồng.

Tiếp, kệ bảy hàng tụng ba nghĩa trước:

  1. Một hàng tụng các việc thấy.
  2. Bốn hàng tụng thí dụ lâu xa.
  3. Hai hàng tụng kết xưa nay.

Kinh nói “Đức Phật kia…”: hết thảy tám tướng thùy tích là xứ, đều trước là “phá ma”, là căn cứ thuyết Pháp Hoa, cũng nên trước tiệm. Lại nói “phá ma” tợ đồng cõi uế. Nếu căn cứ thọ mạng lâu dài thì lại chẳng phải cõi uế, nên biết đồng cư tịnh uế tướng kia ngăn che nhiều. Cho nên, thành đạo… không thể hoàn toàn đồng tam tạng cõi này. Do đó biết không thể hoặc dẫn Tiểu giáo cõi đây để hiểu rõ văn kia.

Hỏi: Lúc các Phạm thiên mưa xuống các hoa Trời, hoa kia như núi, tòa vẫn còn ở dưới cội cây, tướng kia như thế nào?

Đáp: Việc bất tư nghì kia đây không ngăn ngại, liệt bày thì Phạm văn nói “mười phương”. Trong chánh bản thì trước là bốn phương, tiếp bốn hướng cạnh, tiếp trên dưới, đây thì đều tùy ý người dịch, không biết bản gốc Phạm văn thứ lớp như thế nào, nhưng chánh bản liệt số cùng đây phần nhiều khác sai.

“Tương ưng vân vân” thì “vân vân” là: Đều căn cứ các văn kệ Phạm thiên thỉnh pháp cũng cùng ý đại, tiểu, bán, mãn đồng. Nhưng đức Phật kia thuyết pháp cũng căn cứ năm vị cho nên y xưa khó hợp. “Gọi là Thị, Khuyến, Chứng vân vân”. Lẽ ra lược biện rõ tướng tam chuyển: “Thị”: “Đây là khổ”, cho đến “đây là Đạo”. “Khuyến”: Khổ nên biết, Tập nên đoạn, Diệt nên chứng, Đạo nên tu. “Chứng”: “Khổ ta đã biết không còn trở lại biết”, cho đến “Đạo ta đã tu không còn trở lại tu”. “Thị”: Nghĩa là chỉ bày tướng trạng kia. “Khuyến”: Nghĩa là khuyến kia tu. “Chứng”: Nghĩa là dẫn mình chứng kia. Đại luận Câu-xá, các văn dựa đây giải thích. Nếu dùng kinh Đại Tiểu luận nghĩa chuyển pháp luân các tướng đồng khác, đem biên soạn hết vào trong đây thì hàng trăm trang giấy đầy còn không thể chép hết. Ý khiến cho biết kia trước Tiểu sau Đại đồng cõi đây mà thôi, nên không thuật nhiều. Nay biện rõ các môn lược chỉ bày đồng khác, trong đó chia làm bốn:

  1. Căn cứ sở đối.
  2. “Vì Thanh văn…”: căn cứ sở vi.
  3. “Vì sao…”: nêu ý tam chuyển.
  4. “Hỏi…”: liệu giản.

Văn đầu có hai:

  1. Đối bốn pháp.
  2. Đối ba đạo, do trong bốn pháp nghĩa loại đồng.

Trong ý thứ ba nói “vì chúng sinh có ba thứ căn”, trong Thanh-văn thừa tự có ba căn đây, cho nên nơi Lộc-uyển chấp ngộ không đồng. Đại luận Bà-sa cũng nói ba căn, Thượng căn nghe sơ chuyển, trung căn hạ căn chuẩn theo đây biết.

“Hỏi: Ban đầu là.…”: Đã nói Thanh-văn tự có ba căn, năm người đều là căn tánh Thanh-văn. Vì đủ ba căn, lại có chư thiên tại sao không có ba ư? “Vì sinh…

Đáp”: Nhân thiên thông có ba nghĩa, gọi là tuệ, căn, đạo. Văn v.v.. không đồng, là ba tuệ. Ngộ có trước sau tức ba căn. Kíến, Tu, Vô học tức ba đạo. Sắc, Vô sắc, nghĩa chung chuẩn cũng có, nhưng chẳng phải nhân chuyển pháp luân đắc.

Tiếp giải thích mười hai hàng, chia làm hai: Đầu song nêu hai môn. Giáo mười hai: dưới Giải thích. Trong giải thích lại có sáu:

  1. Lược giải thích.
  2. “Lại giáo…”: là phân biệt năng sở.
  3. “Mười hai…”: phân biệt luân phi luân.
  4. “Nếu tác…”: phân biệt giáo hạnh.
  5. “Giáo luân…”: phán định danh thể rộng hẹp.
  6. “Hoặc thông…”: phán xét Thông Biệt.

Trong văn đầu nói “mười hai hành”: Tứ đế đều dùng thị… làm giáo, một phen chuyển đều sinh nhãn… làm hạnh. Nói “năng sở”: Tứ đế đều do đức Phật nói cho nên nói “năng”, độ nhập tâm kia cho nên nói “sở”. Nói “thị luân phi luân”: Luân dùng nghĩa phá nghiền, chỉ có giáo mà không hành thì đâu thể tồi phá mê-hoặc, nếu không tồi phá mê-hoặc thì cũng không gọi là “luân”. Đức Phật biết cơ biết thời cũng đều hành mà theo chuyển. Nay nói “phi”: Giáo từ hóa sinh, hành từ người thọ, cho nên hành luân từ người thọ, được công quy về hóa chủ. Từ Phật đắc do chưa tận lý cho nên lần nữa lại giải thích. Nếu tác hai luân giáo hạnh thì tùy theo cùng năng tồi phá mê-hoặc, huống chi giáo hạnh đều do Phật chuyển, cho nên giáo hạnh đều được gọi là “luân”, chỉ nhãn trí… không có thể riêng nên trở lại chỉ nhẫn…. Hạnh: nhãn v.v… ,căn cứ nơi đế giáo mà thành mười sáu cho nên người ba căn nghe ba phen chuyển giáo đều sinh nhãn… thành bốn mươi tám. Trong “rộng hẹp” nói “Giáo luân”: Là hóa tha trí chỉ thuộc một quyền tức năng chuyển chỉ một; sở chuyển mười hai, tức là năng chuyển thì danh hẹp thể rộng, sở chuyển thì danh rộng thể hẹp. “Hành pháp luân”: Giáo là năng thuyên, hành là sở thuyên, cho nên hành tùy giáo đều có mười hai, tuy đều có mười hai, nhưng rộng hẹp có khác; giáo định mười hai hành sinh nhãn… Nếu dùng thị… sinh nhãn…, thì số đồng danh khác.

Tiếp trong phần biện thông biệt, nói “hoặc”: là bất định từ, hoặc ba người đều nghe ba phen chuyển, hoặc một người trước sau nghe ba. Đầu, là biệt giải thích. “Nay căn cứ…”: là chánh giải thích. Sơ chuvển pháp luân đắc kiến đế giải, người hàng tam thừa mới có mười hai. “Sở bất năng…”: giải thích không thể chuyển, lại chia làm hai: Đầu, lược chỉ người kia. Tiếp, “Có giải…”: nhân đây thông biện rõ đại tiểu thông biệt. Văn đầu lại có hai: Trước, chánh chỉ người. Tiếp, “Phàm chuyển…”: nêu ý “bất năng chuyển”. Văn đầu nói “Sa-môn” nghĩa là người xuất gia trong Phật pháp, không nhờ Phật nói thì còn không biết tên, lẽ nào năng chuyển ư? Cho nên, tên “pháp luân” chỉ từ Phật đắc, Sa-môn mà còn vậy huống chi các chúng khác ư!

Có người nói “Trong ngoại đạo xuất gia, gọi là Sa-môn”. Nếu vậy thì vì sao nói “còn không thể biết”? Phải biết đó là dùng chánh so sánh tà. “Có giải” đến “ý Quyển (thu lại) và Thư (dãn ra)”: Sư nay có khi giải ý này, nhân đây thông biện chẳng phải sơ chuyển trong đó có bốn:

  1. Nêu rõ một đời thu, dãn.
  2. “Tiểu thừa…”: biện rõ thể một đời.
  3. “Mười hai…”: biện rõ danh thể đồng khác.
  4. “Lại có ba người…”: biện rõ thông biệt.

Văn đầu, từ thể Tứ đế để luận thu dãn, từ không có dãn ra bốn, thu lại bốn trở về không có. Thu lại và dãn ra chỉ là ý khai hợp thôi, đầy đủ như trong Huyền Văn nói thất trùng nhị đế. Nói “đại tiểu”: Lại căn cứ Tiểu, Diễn để giải thích xuất thể, tùy biết rõ lẽ ra căn cứ năm vị bốn giáo để nêu khai hiển, đầy đủ như trong Huyền Văn và dùng thuyết trong Chỉ Quán biện rõ thể. Tiếp trong phần ba Biện danh thể, nói Mười hai nhân duyên là biệt tướng:

  1. Tổng ly mà làm ba đời.
  2. Biệt ly làm nhân hai quả năm, nhân ba quả hai, đầy đủ như trong Huyền Văn và Câu-xá… nói.

Tiếp, trong phần bốn Biện thông biệt, chia làm ba:

  1. Căn cứ Nhân duyên.
  2. Căn cứ Tứ đế.
  3. Căn cứ Lục độ.

Văn đầu văn lại có hai: Trước, đối ba người. Tiếp “Vô sinh…”: nêu ý thu dãn. Văn trước: “Ba người…”: thông biệt có thể thấy. “Tương sinh truyền truyền diệt”: Dãn ra thì truyền sinh, thu lại thì truyền diệt, đầy đủ như trong Huyền Văn dùng biện rõ hưng phế. Phần hai Căn cứ Tứ đế: chỉ dùng nhị thừa đối Bồ-tát, chỉ là văn lược, cũng nên trước nêu ly hợp. Tiếp, đối tam thừa tứ giáo, sau nêu thu dãn. Phần ba Căn cứ Lục độ: có bốn:

  1. Nêu thông tiểu.
  2. Nêu thông phàm.
  3. “Nếu vậy…”: là giải thích nghi. Trong giải thích nghi chỉ nói Nhị thừa, không nói phàm phu, vì nhị thừa còn có phần đắc.
  4. “A-tỳ-đàm…”: là dẫn tiểu chứng thông. “Kinh Bảo Vân nêu Tam thừa Tỳ-ny”: dẫn sự chứng thông. “Vân vân”: lẽ ra nêu đủ nguyên do thoát hai trói buộc của Tử và Quả (hạt và quả), trình bày đầu hiển sau. “Câu giải thoát vân vân”: Lẽ ra giải thích ba tướng giải thoát đối ba niệm xứ, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười nói, chính hiển rõ người Câu giải thoát, đầy đủ sự định gọi là “thâm diệu”.

“Các căn…”: Văn có hai giải thích: Ý, đầu giải thích tức Tương tợ vị. Tiếp, giải thích nói “Nhập cảnh giới Phật”, tức Sơ trụ vị, đầy đủ như trong Hoa Nghiêm mười thứ sáu căn, trong tụng văn dưới nói phân biệt pháp chân thật, là phân biệt nên bắt đầu từ sắc tâm cuối cùng đến chủng trí đều không ngoài thật tướng cho nên nói chân thật. “Tám vạn bốn ngàn kiếp vân vân” thì “vân vân” là: Phải nêu đủ ý thời tiết, chư Phật đâu từng không cùng đều có định? Chỉ do căn cơ chúng sinh, tại mười sáu người con kết duyên đồng hạn; thời gian Phật ấy chấp thuận đầy đủ như văn tiếp thuật. Chánh Pháp Hoa nói: “Nhập định trải qua ba mươi vạn kiếp”; không biết nguyên nhân gì mà ngài Pháp Hộ dịch số kiếp kia vừa ngắn vừa sai?!

Gặp gỡ có ba loại: Hai loại trước có thể biết, loại thứ ba đã nói: chỉ luận gặp tiểu nói trung gian, tự vọng về lúc ban đầu kết tiểu duyên. Loại người thứ ba chưa từng nghe Đại, tức liền lưu chuyển, người này tức do ban đầu nghe Tiểu làm kết duyên ban đầu. Lại ở thời trung gian chỉ tu tập theo Tiểu. Nay gặp vương tử ban đầu lại nghe Tiểu, người ấy thấy được một phần trong một đời giáo hóa của Đức Phật Thích-ca. Thấy người hàng Thanh-văn chưa phát tâm, thì liền phán rằng vĩnh viễn diệt không phát tâm, vậy thì không biết đức Như Lai giáo hóa lâu dài.

Tiếp “Vấn đáp”: Trong đáp thì căn cứ tứ Tất-đàn mà nói, văn ít không có thứ tự. Trước là Đối trị, tiếp là Vị nhân, tiếp là Ưa muốn, tiếp là Đệ nhất nghĩa.

Hỏi: Kinh này vì sao văn đến sự vui kia lại ngắn?

Đáp: Long Nữ là trong phẩm Pháp Sư, tuy không có thời tiết nhưng tính toán nên chẳng xa, trong Tiểu thừa giáo còn chỉ nói sáu mươi lần trăm kiếp xuất giới, chỉ trải qua tám, sáu, bốn hay hai tuy Đại Tiểu có sai khác cũng tại Quyền giáo, cho nên trong Thật giáo sáu căn năm phẩm một đời có thể hy vọng. Cho đến kinh Kim Quang Minh nói Nhất sinh Thập địa, cho nên ngài Nam Nhạc dùng ý kinh Phổ Hiền Quán nói: Sáu căn cực chậm không vượt ngoài ba đời. Tuy tứ Tất phó cơ mà tùy ưa có dài ngắn. Luận tự hành kia cuối cùng không có chắp tay ngay ngắn. Căn cứ luận tức là chúng sinh ý nhạo ý thú. Ý nhạo, chính là Tất-đàn ban đầu của tứ Tất, vẫn thiếu ba thứ còn lại. Nếu chỉ đức Phật khác làm bình đẳng, trọn không bằng dùng ý tứ Tất-đàn.

Hỏi: Pháp Hoa thật giáo chỉ ứng Thật thuyết, vì sao kiếp số còn ngắn nói dài ư?

Đáp: Nói quyền thật, luận thời tiết của pháp sở hành chính là dẫn dắt kẻ mệt nhọc kia tiến lên. Nên biết Quyền giáo hoàn toàn nói dài. Như luận Bà-sa nói tam kỳ và các kinh Đại thừa nói vô lượng kiếp, đây thì nhất định không thể ngắn.

Tuy trong Thật giáo có dài có ngắn. Nếu y Thật đạo thì định ngắn làm chánh, như Thường Bất Khinh bị chúng khinh hủy, chỉ trải qua bốn ngàn ức Phật thảy đều đắc độ, lẽ nào có quyết chắc trải qua nhiều trần kiếp ư? Tuy nhiên dài ngắn tại cơ, về lý lẽ nào có như vậy ư? Vì dài ngắn là căn cứ nhân (người), chỉ vì không dốc lòng tự siêng năng, cần gì luận thời khác ngắn dài ư?

“Tam thừa Thông giáo hữu dư quốc”: Một nhà (Nhất gia) nêu nghĩa dùng cõi đối giáo, đầy đủ như trong Chỉ Quán và sớ Tịnh Danh, đều có dùng giáo ngang dọc hai đối. Theo chiều ngang mà luận thì thể cõi cùng giáo tương đương, theo chiều dọc mà luận thì căn cứ cõi dụng giáo nhiều ít, thì người Nhị thừa đối với hữu dư kia đã thành người Thông giáo, cho nên nói “Thông giáo hữu dư quốc”. Cũng có ở đây đã thành người Thông, nghĩa là từ Lộc-uyển đến Phương-đẳng bộ, lại nhập Thông giáo thành người Vô sinh, cũng chẳng phải lại dụng giáo đây để đoạn lậu hoặc. Giáo đạo là hóa đạo, giáo vì hóa đạo cho nên gọi giáo đạo. “Chúng lại thanh tịnh” đến “lập”: là hóa đạo sắp xong do căn cơ chúng thành thục. Thành thục tức là Trí Đoạn hai đức đầy đủ. Nói “thanh tịnh” là tiêu biểu phiền não tận, cho nên nói “Đoạn đức”. “Chánh giải” thuộc trí, trí ắt chiếu đế cho nên nói “liễu đạt”. Nói “các thiền” nghĩa thông Trí Đoạn, giới nội hoặc tận. “Bốn bất hoại tín”: Luận Câu-xá quyển hai mươi lăm nói: Chứng tịnh có bốn thứ, nghĩa là Phật, Pháp, Tăng, Giới. Kiến tam đế đắc Pháp và Giới. Kiến đạo kiêm Phật và Tăng. Pháp nghĩa là tam đế, toàn Bồ-tát Độc giác đạo. Tín và Giới, hai thứ làm thể, bốn đều chỉ vô lậu. Luận cho rằng: kinh nói có bốn chứng tịnh, nghĩa là Phật… bốn thứ. Bốn thứ là sở chứng khi kiến tam đế thì đắc hai thứ Pháp và Giới, khi kiến Đạo đế thì kiêm đắc Phật và Tăng. Rộng như luận văn, đây hoàn toàn từ tiểu giải thích. Đây dùng Lộc uyển đối thời Niết-bàn.

Trong giải thích tiếp, chỉ có một câu thanh tịnh tại Tiểu thừa. “Tín giải…”: đầy đủ vượt qua giáo hai vị trong Tiệm giáo. Trước giải thích theo ý phẩm Phương Tiện và Thí Dụ, tiếp giải thích theo ý phẩm Tín Giải . “Nếu thế gian không có Nhị thừa…”: ý của câu hỏi là: Căn cứ lý thế gian không có một người hợp vĩnh viễn nhập diệt, hội ắt Đại, tại sao dùng thiết lập Tam? Ý của lời đáp thì có thể thấy.

Thế gian nói “nhập”: Chỉ tự mình cho rằng như vậy. Kinh văn đã nói không có Nhị thừa mà được diệt độ, lẽ nào đáng phải lập Định tánh ư? “Nếu trung gian” đến “thí dụ thứ hai”: hai thứ trung gian đây đều có hai ý. Nếu là Bồ-đề thì phải đã nhập Bất thoái vị, hoặc là sơ tâm thì không hẳn hết thoái. Nếu trú Thanh-văn hoặc là sơ tiểu, hoặc là giữa đường hai loại, đều phải thiết lập thí dụ Hóa thành. “Hỏi: Trong đây…”, tức là hỏi: Phẩm Hóa Thành chỉ nói “thủy chung tùy trục”, vì sao không có nghĩa cha con thất lạc như trong phẩm Tín Giải và kinh (sơ) nhập hỏa trạch của phẩm Thí Dụ…? Nếu các nghĩa đó không có, thì phẩm này không có tùy trục. Lại cũng nên cùng trung căn thượng căn vĩnh viễn trái; đâu được lấy đây mà ước lệ nơi kia ư?

Ý của câu Đáp là dùng phương pháp thí dụ không đồng. Văn không hợp dùng, chẳng thiếu ý, cho nên nói mà ý kia thì thông. Như nói thông là thất lạc rồi gặp nhau. Đã là trung căn ngộ rồi sau lãnh giải đối ngày nay chưa có đại tiểu hóa, trước đó gọi là “bỏ cha” và nêu lỗi thấy cha không biết. Trong Thí dụ nói “kinh nhập…”: Con tuy bỏ cha mà cha không bỏ con, thường tư duy căn cơ của con vì bắt đầu cơ sinh nên có nghĩa “kinh nhập”. Nếu luận cơ ứng kết duyên về sau, thì tại sao từng không tùy theo văn như đây ư? Trong đây đã nói trung gian gặp nhau, cho đến ngày nay gặp nhau được độ, cho nên biết trung gian không thể không có nghĩa thất lạc, kinh nhập… Phải biết “tùy trục” do kinh nhập, kinh nhập nên thấy nhau, thấy nhau do đã từng thất lạc nhau, đều nêu một biên, Đại chỉ không khác.

Tiếp, Hỏi: Đã nói “tùy trục” không nói thất lạc…, nay đã được lợi ích sao không có “thí dụ bất hư”?

Đáp: Ý nói khai hiển rồi, phần nhiều chấp tin là dễ, không cần dùng thí dụ bất hư. Lại, trên vì trung hạ chưa ngộ, nay đây tch sự đã cùng khắp. “Hai mươi hai phen”: giải thích như sớ văn dưới.

Hỏi: Năm xứ khai quyền có gì sai khác?

Đáp: Trong đó nêu đủ năm văn xứ sở, cho nên biết đây trước chỉ có bốn xứ. Bốn xứ thì có hai mươi hai phen. Chương ngũ Phật là một xứ, trường hàng và kệ tụng mỗi thứ đều có năm tức mười phen. Trong phẩm Thí Dụ thì có khai có hợp, mỗi thứ có trường hàng và kệ tụng cho nên có bốn phen. Trong phẩm Tín Giải lãnh khai hợp bên trên, mỗi thứ đều có trường hàng và kệ tụng, lại có bốn phen. Trong phẩm Dược Thảo Dụ cũng có khai và hợp, mỗi thứ đều có trường hàng và kệ tụng, lại có bốn phen. Ba lần bốn và mười tức hai mươi hai lược khai. Chỉ là động chấp sinh nghi chẳng phải chánh khai hiển, cho nên trong tụng tuy có các văn lược tụng, chỉ thuộc trong Chương Thích-ca chung làm một ý. Pháp thuyết tuy có lãnh giải thuật thành mà chẳng phải chánh khai hiển. Trong sớ giải thích phẩm Dược Thảo, tuy nói trước trí tiếp giáo, mà tổng là khai hợp, nếu đều lập thì thành nhiều phen, có gì mà không thể? Vì vậy cho nên cứ dựa vào sớ văn làm nhất định.

Trong phần giải thích “Năm trăm do tuần” trước nêu người khác giải thích:

Cơ sư thì trước thuật, tiếp phá, nói: Nay cho rằng chẳng biệt chẳng thông tức là: Thất địa đoạn tập chẳng phải nghĩa chánh Biệt. Bát địa đoạn vô minh, lại chẳng phải nghĩa Thông, chánh tợ như Biệt tiếp Thông. Luận nói: “Sơ địa Kiến đạo, Nhị địa trở đi nhập Tu đạo” là nên biết Địa tiền tức hàng phục Biệt hoặc, đăng Địa thì đoạn đồng thể Kiến Tư. Nếu không như vậy thì lẽ nào có Đại thừa Hồi hướng mà ngang bằng Tiểu thừa thượng Nhẫn. Thập trụ đã đoạn hết giới nội hoặc. Kinh Anh Lạc nói: “Thất (bảy) tâm Bất thoái chỗ nào Noãn vị gọi là Bất thoái ư? Thập Hạnh biến nhập mười phương thế giới, Đảnh pháp vẫn thoái sao có thể dạo khắp Nhẫn mà không có văn xuất (nói) quán ư? Sao có thể hồi hướng pháp giới? Kinh Anh Lạc nói Sơ địa tam quán hiện tiền, vì sao Sơ địa mới nhập Kiến đạo? Xin đem “Tứ thập tâm vị” nhất nhất để hiểu rõ văn nói phàm. Phục đoạn nghĩa khác công dụng, cách cả Trời vực. Luận trung phá ngoại, phá tiểu vốn khiến nhập chính, nhập đại vậy. Còn định tánh mà khiến vĩnh viễn diệt, Tiểu thừa tự cho là trú quả. Đại phán định cuối cùng đều sinh, nên biết sau khi diệt thì ở cõi kia được nghe, không thể lại dựa vào không nghe để luận. Luận tông đã không nói khai quyền, vĩnh viễn diệt chính là văn che thật. “Có định, bất định” chỉ có thể là kinh dùng trình bày ý chê và đoạt. Phế thiên phế Tiểu thì con đường Quyền Thật vĩnh viễn bị ngăn cách, đủ hiểu rõ ý đây các giáo tự hiển.

“Có nhà nói: “Lưu lai…”: Dựa theo luận Nhiếp Đại Thừa, sư lập “Bảy thứ sinh tử” vẫn thiếu Hữu hậu sinh tử và Vô hậu sinh tử. Lại hợp hai thứ Phản xuất sinh tử và Lưu lai sinh tử lại làm một, cho nên chỉ nói bốn; đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy ghi. Văn kia phá, nói cắt đứt hai món tử phế bỏ bên ngoài… Văn nay chính là thành tựu cắt bỏ bốn thứ, cho nên cần phải hỏi lại… Chính là lấy sinh tử làm thí dụ, vì sao hợp Phản xuất và Lưu lai? Lại không có hai thứ sinh tử khác, trung gian tức là Phương tiện sinh tử. “Có người nạn”: vấn nạn hướng Nhiếp sư. Xét nhân quả tương đương căn cứ giáo, để lập xưng nhân quả, đầy đủ như kinh Thắng Man. Kia dùng năm nhân đối hai quả. Tứ trụ tức là nhân của Phần đoạn, Vô minh tức là nhân của Biến dịch. Ông ở trên quả Phần đoạn đã lại lập Lưu lai, ở trong quả Biến dịch lại khai Trung gian, cũng ứng Tứ trụ, vô minh đều lại lập riêng. Đầy đủ như trong Chỉ Quán phá.

Tiếp, “dẫn Đại luận” hai văn chứng minh sinh tử chỉ có hai thứ. Nói “nhục thân”: Tứ trụ chưa tận, gọi chung là nhục thân. Nói “Pháp thân”: lại thông giới ngoại hai cõi đều gọi là Biến dịch và Pháp tánh thân. Đây chứng minh hai món tử, chẳng luận thân thường. Đây Đại luận chánh văn, Đại thừa sư thời bấy giờ, lẽ nào vượt quá Long Thọ? Nói A-la-hán phải xả Phần đoạn mới nhập Biến dịch. “Có người nói…”: Sở chấp của sư này tợ nghĩa Thông giáo, cho nên nói “trung gian hai nước khó qua”, do Lục địa cùng Nhị thừa ngang bằng, đến đây phần nhiều rơi vào Nhị thừa địa. “Nạn..…”: người khác nạn vấn nghĩa trước đã lập. Ông dùng Bốn trăm dụ Thất địa, cho nên Lục địa phải đối Ba trăm. Ba trăm lại cùng với Nhị thừa công ngang bằng, vì cùng Nhị thừa cùng đi ba trăm. Đến đây đi đứng không đồng, sao gọi là cùng đi? Cho nên dưới nạn rằng “không nên được ngang bằng”. Nói “Sáu mươi kiếp…”: Thanh Văn “cực lâu sáu mươi kiếp”, Bích-chi-phật cực lâu một trăm kiếp. “Nhị thừa đối Phật đạo xa xôi”: Nêu rõ hàng Nhị thừa cùng hành Bồ-tát đạo biệt, lại thủ chứng. “Nay cho rằng….”: là phá, nói “chẳng Thông chẳng Biệt”, phá nạn vấn kia. “Hai mươi hai đại tăng-kỳ” cho nên “chẳng Thông”. “Lục địa ngang bằng Nhị thừa”, cho nên “chẳng Biệt”. “Hai mươi hai tăng-kỳ”, xin kiểm chứng trong Đại luận, đây cũng tợ như nghĩa Biệt tiếp Thông.

“Có người nói…”: nghĩa Biệt không thành, không ứng Thất trụ trở lên làm “Năm trăm”. “Như Đại kinh nói: Sơ quả tám vạn kiếp đến…”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy ghi, dẫn đủ ba văn của Đại kinh. Ý của Sư đây lấy phát Bồ-đề tâm xứ làm Thất trụ trở lên. Nói “Như tam căn…”: Ý của Sư đây dùng tam chu đắc thọ ký làm “người tam căn”, do đồng đến phát Bồ-đề tâm xứ mà Đại kinh nói. Nói “Năm hạng người”: Là chỉ bốn quả mà Đại kinh nói ở trước và Bích-chi-phật. Năm hạng người này phát tâm đồng người tam chu “vượt qua năm trăm do tuần”. “Đây chấp…”: là phá trước đã dẫn, nêu tám vạn cùng tam chu không đồng. Phải biết Sư đây hoàn toàn không biết (mê) thứ vị, cũng hoàn toàn không biết “nói tám vạn”, cũng không hiểu vị Nhị thừa được thọ ký, cũng không biết giáo giới nội ngoại. Hoặc tỏa (chịu thua) hoặc dẫn ý kia đều sai biệt, cho nên phải khéo biết. “Nạn rằng…”: là ý văn nay vấn nạn: Kinh nói vì hàng Nhị thừa mà lập Hóa thành cho nên nói “Nhị địa lẽ nào vượt qua Tam thừa?”. Và nói “Bồ-tát khi đến Lục địa… ư?”. Người hàng Tam thừa bất tận trú thành, dù vào thành rồi cũng không đều đến nổi tám-sáu-bốn-hai phát tâm thì mới ra. Tiếp, “Nếu năm người….”: dù khó, dù có nghĩa đây, như trong Niết-bàn người Nhị thừa ắt đến ngoại giới mới vượt qua năm trăm do tuần, nghĩa “bất tận” như vậy, cho nên nói “ ý của Đại kinh”.

Nói “nhất ý” là: Kinh tồn tại giáo đạo, người bị độn căn lẽ nào có thể hiểu như vậy ư? Lại nữa, kinh tuy ba văn chỉ là một nghĩa, cho nên nói “nhất ý”. Nhưng ý của Đại kinh khiến ẩn xa kia nhanh chóng khiến hiện phát, lẽ nào có thể nhất hướng đợi ngoại giới ư? “Trong đây…”: là lược giải của Kim gia (tức là Trí Khải đại sư), ý hóa thành này vốn vì người đời nay trước quyền sau thật. “Nếu năm người…”: là nêu năm người đây. Nếu đối ngoại giới trải qua thời gian dài đều tự năng tiến, thì chẳng phải ý trong đây. Nếu người trước Pháp Hoa mật tiến, là tự tiến thì cũng chẳng phải ý trong đây. Căn cứ ý kinh này, đợi phế bỏ thì mới tiến, cho nên không thể nghe kinh vi diệu. Tự độ tự tiến cũng mất ý hóa thành tức mất ý kinh này. Ý kinh này là ra ở ngoại giới cũng cần phải nghe kinh, huống chi ở cõi này ư!

“Có người nói: Tam giới là ba trăm…”: Đầy đủ như trong Chỉ Quán phá, phá Nhị thừa kia không đợi khai quyền mà tự hiển thật, gọi là thường đi bốn trăm, năm trăm do tuần. “Phàm phu…”: Kim gia hợp nêu vượt qua hai chướng, diệt hai kiến, lìa nước lửa, thoát hai ngục, siêu (vượt) nhị biên, vượt tự tha, đều đến Năm trăm. “Đại Phẩm…”: đây lập nghĩa thông, khiến biết chẳng thật vì đã là nghĩa thông, cho nên hợp Nhị thừa cùng làm “Một trăm”. Luận văn dùng Nhị thừa làm Bốn trăm, cho nên đến Pháp Hoa lại phải khai lấy làm Năm trăm. Năm trăm cần phải vượt qua, đầy đủ như trong chánh giải nói. Tiếp dẫn Đại Phẩm để biện rõ không phải thật đến. Trong Đại Phẩm kia nêu rõ Thông Bồ-tát quá nhị thừa địa. Đã chưa nói rõ thành này là hóa, cho nên biết bộ kia kiêm quyền hiển thật. Nếu nói hóa thành thì phải dẫn tiến. Nếu dẫn tiến thì phải thọ ký Nhị thừa. Đã chưa thọ ký Nhị thừa, nên biết bộ kia nói thành vẫn là thật. “Đã chưa luận…”: văn nay thiết lập trình bày. Đã chưa nói thành là hóa, tức chưa khai quyền. Nếu chưa khai quyền thì nên cũng không thật. Vì sao Bát-nhã đã nêu thật tuệ, vì thật tuệ tức là Bảo sở? Đáp ý: Hiển thật nói thông khai quyền hạn cuộc mười nghĩa đây. Trong nghĩa Biệt hành nhân sáu trăm kiếp: E rằng văn lầm, lẽ ra nói sáu mươi kiếp một trăm kiếp. Thanh-văn sáu mươi kiếp, Bích-chi-phật một trăm kiếp, còn lại có thể thấy. “Nhà lửa, ba xe nay là hai trăm”: nay văn giả lập nạn. Vì sao Phẩm Thí Dụ thì ba xe cần bỏ, Hóa Thành chỉ nói ý hai 138 trăm phải tiến vì hai trăm chỉ là Nhị thừa?

“Tam căn…”: đáp. Trước, đáp ba xe: Tam thừa căn tánh đều bị lửa thiêu, đều cầu ra khỏi nhà lửa cho nên dùng du ba xe. Tiếp, “Phật đạo…”: đáp hai trăm. Nói “Phật đạo”: Chỉ Viên quả, nên Tạng, Thông Nhị thừa cách Phật quả còn xa, cho nên cần phải quá Nhị thừa hai trăm mới đến Phật quả. Nói “Phật thừa không phải chướng” là Tạng Thông Bồ-tát cũng gọi là Phật thừa, trước lúc đó đều tiến cho nên nói “không phải chướng”. Lại Tam tạng Bồ-tát nếu căn cứ đoạn hoặc kém hơn Nhị thừa, thì ba trăm cần phải ly, lẽ nào hai trăm ư? Nhưng Bồ-tát này đã phát Đại tâm, tuy chưa đoạn hoặc vẫn gọi là Phật thừa. Người thấy Phật thừa tiện làm gộp chung lại. Nếu vậy đức Mâu-ni thuyết pháp tích chứa nên đã thu nhiếp chín hội, năm trăm La-hán nên là bốn Bồ-tát. Thế phẩm nên thuyết Liên hoa tạng hải, Hiền Thánh phẩm nên thuyết bốn mươi hai vị, Định phẩm nên là Lăng-nghiêm Tam-muội, Trí phẩm nên là các Đà-la-ni. Hoặc pháp hoặc chúng kia đã không đồng, thì hóa chủ hóa sự lẽ nào có thể không khác biệt? Như vậy thì biệt tướng vô lượng vô biên, không thể nêu đủ. Bồ-tát cầu thừa đây cũng vẫn gọi là Ma-ha-tát.

“Vì sao?…”: là nạn vấn. Vì sao phàm phu giới nội khai làm ba trăm, Thánh nhân giới ngoại chỉ làm hai trăm? Ý của câu hỏi này: Lìa Phần đoạn giới nội cho nên ngắn, mê Phật đạo giới ngoại cho nên dài, vì sao khước từ ngắn? “Đây dẫn…..”: là đáp, có thể thấy.

“Nếu vậy…”: là nạn vấn nếu. Kinh này là liễu nghĩa, thì vì sao thật ít mà nói nhiều, thật nhiều mà nói ít? “Phật đạo…”: là đáp, giới nội tuy ít do có đọa khổ mà khó hành, giới ngoại tuy nhiều đã trụ pháp tánh mà dễ tiến. Căn cứ hành mà luận khó dễ, chẳng căn cứ địa gần xa, cho nên sở thuyết là chân liễu nghĩa.

“Hỏi: Hai trăm là Nhị thừa khó đi…”: ý hỏi Bảo sở tổng có năm trăm do tuần, phàm phu Nhị thừa đều phải qua, không nói phải qua Bồtát. Bồ-tát nên không phải là khó? “Bồ-tát…”: dùng Bồ-tát lập lại trưng dẫn. Nếu Bồ-tát không phải khó thì vì sao nói xin cho chúng con ba thứ xe báu? Nếu đều có cần xe thì ba người đều chướng ở Ba trăm. Đã được ra rồi nên đồng Nhị thừa. “Hai trăm là chướng vân vân”: Trước dùng Thông giáo đáp ý nạn vấn này. Phàm phu cần ra ngoài giới (cõi) cho nên Ba trăm là khó, Nhị thừa cần phải phát tâm cho nên Hai trăm là khó. Bồ-tát đã phát tâm tuy khó mà có thể qua, Bồ-tát khi ở phàm, thì đồng phàm lìa Ba trăm, không cùng Nhị thừa chứng, không lo Hai trăm là khó. Nếu bắt đầu Biệt giáo Bồ-tát thì cũng đồng phàm phu, vốn kỳ vọng nơi Năm trăm. Người Viên giáo sơ phát tâm tức gọi là đến Bảo sở. “Đại luận…”: là dẫn luận biện rõ Biệt là ý Thông giáo. Phải biết cùng Nhị thừa đồng đến nơi Bốn trăm. Kinh này riêng tại Viên giáo, hết thảy Quyền đã phế, phế rồi tất cả đều khai, đều là Bồ-tát đạo, cho nên Thất phương tiện đều vượt qua Năm trăm do tuần. Cho nên Đại luận thông nghĩa Tam thừa nơi dừng nghỉ đồng đều gọi là Bốn trăm. Bồ-tát đến vị đây có thể vào cõi, hóa độ chúng sinh, nơi bắt đầu cất chân đi, lại gọi là “Một trăm”. “Kinh này…”: nêu rõ Viên khác Thông. Trong Năm trăm thì ngôi vị ở Bồ-tát, gọi là Bồ-tát đạo. Qúa Năm trăm thì gọi là quả đạo khai quyền hiển thật. Tạng, Thông Bồ-tát là Bồ-tát đạo, nên nói “liền nhập Phật đạo”. “Vân vân”: Lẽ ra nêu rõ các giáo Phật đạo không đồng, song về sau khai quyền thì luận nhập không nhập. “Nay y…”: chính là chánh giải thích, thân cận vâng theo Thánh âm mà vẫn còn nói là “khó biết”. Tuy nói khó biết không ngoài ba thứ đây. “Hai hiểm nạn” đến “gọi là đường ác”: Ý đạo sư muốn vượt qua Năm trăm do tuần, do người Tam tạng tự đi vào chốn hoang vắng ghê sợ. Đi được ba trăm do tuần thì bọn họ sinh mệt mỏi, nên đạo sư lập hóa thành nơi hoang vắng ấy, người vào thành phần nhiều là Tam tạng Nhị thừa. Lại nói “không có người” là căn cứ lý thông nơi Thông giáo Nhị thừa. Nói “có người” là thông chỉ Diễn giáo, Viên Biệt hai giáo chẳng hoang vắng mà có người, cho nên “có chỗ nương hay không chỗ nương” đều là đường đi rộng rãi, tức Tạng Thông Nhị thừa. “Có một đạo sư” đến “sáu căn thanh tịnh”: Tức mười thứ sáu căn. Sơ trụ phần đắc tức mười sáu vương tử ban đầu kết duyên. Như các phương Phật từ nay trở về trước hoặc có thể cũng tại Sơ trụ trở lên. Nay tám phương làm Phật chỉ tại cực quả, cho nên giải thích “tuệ minh” nói rõ tam trí ngũ căn tam minh thập lực. Kinh nói “tuệ”, luận văn nói “trí”. Tùy thuận tiện mà nói đó thôi! Nhưng “minh tuệ…” cũng thông nhân Sơ trụ chân thật phần thành, do đó nên biết thông chỉ xưa nay đều gọi là “Đạo sư”, đều sáu căn thanh tịnh. Dưới giải thích nhiều hạng đạo sư đều cùng tại nơi đây.

“Chúng nhân được dắt đi…”: Trên lập nạn vấn nói: Vì sao không lập nghĩa thất lạc và kinh nhập hỏa trạch? Nay tuy không có lời nói kia mà tợ như có nghĩa đó. Vì nói người được dắt thì ý kia còn rộng, cùng người được dẫn dắt chung làm nghĩa “nhập”. Cho nên, nói biệt thí rộng tụng… .“Thứ hai: Bạch đạo sư rằng” đến “Đạo sư kết duyên”: Đây có bốn hạng Đạo sư:

  1. Thông nhân quả.
  2. Chỉ tại nhân.
  3. Chỉ tại quả.
  4. Nói “thông đồ”: thông tha nhân.

Nói “kết duyên”: Hạn cuộc thầy ta. Nói “quyền trí”: Khi dùng thiết lập Tiểu. Nói “thật trí”: dùng khi khai quyền. Bốn hạng tùy thời sai khác, người chỉ là một, đều là vương tử từ đầu đến nay. Nói “bạch kết duyên”: Ban đầu thoái về sau Tiểu cơ muốn sinh gọi là “bạch (thưa)”. Ngày chỉ cho biết thành, thì thông xưa và nay. Tuy có ba loại kia, ắt phải Thông đồ đạo sư thường tùy theo nhau. “Cảm nơi Pháp thân”: tức Đại cơ đã diệt, Tiểu cơ đang sinh, cho nên chưa thấy Ứng Phật, ngầm cảm Pháp thân, chẳng phải ẩn chẳng phải hiển ứng. “Hóa làm nói hóa”: Trước tuy nói hóa làm một thành, chính là ý luân. Cho nên biết “nói hóa” tức khẩu luân, chẳng phải ý không dùng nói, nếu nói ắt có thân luân. Thân luân chỉ căn cứ thị hiện làm thân trượng sáu. Trước cần ý luân không mưu tính mà vận chuyển. Cho nên, biết tam luân chưa từng tạm lìa. “Các ông chớ sợ…”: nghĩa bao hàm tam luân. Văn không thứ lớp, nêu hóa thành đầy đủ nghĩa tam chuyển, thì đâu cần thứ lớp.

“Trước đến Bảo sở”: Đầu văn này chính giải thích nghĩa, tại Diễn môn căn cứ cộng với Bồ-tát. Tiếp “Một thuyết…”: người khác giải thích khác. “Nếu vậy…”: văn nay phê phán điều này. Trong Tam thừa vẫn chấp nhận Bồ-tát, tợ đồng Biệt giáo, từ Giả nhập Không. Nếu dẫn kinh Thắng Man thì chỉ là Thông đồ luận thoái đại, cho nên cũng nên nói nghĩa Biệt không thành. Lại nhất vãng, vì sao? Vì trong Biệt thì hoàn toàn không làm văn nói Nhị thừa, nhưng trong Đại kinh cũng mượn Nhị thừa để phân biệt vị Biệt, cho nên lại nói vậy. “Lại nói…”: người khác giải thích. “Đại Phẩm…”: nay sư dẫn Đại Phẩm Tịnh Danh để phán xét hướng một sư. Nói “Biệt tiếp Thông”: chỉ vì vào hóa thành xong là “Thông”, rồi sau mới tiến về phía trước: là “Biệt tiếp”.

Trong kinh Đại Phẩm nêu ba hạng Bồ-tát đều nói Sơ phát tức là Bị tiếp. Như thế hàng Nhị thừa rõ ràng không có việc đây. Kinh Tịnh Danh cũng cùng nói như vậy, tợ Biệt tiếp Thông đó thôi. Lại người Nhị thừa nghe pháp bất tư nghì của Bồ-tát mà vẫn chấp Tiểu quả, chỉ ở nơi tòa đây liền bị quở trách, và thêm nói Đại. Cho nên biết từ đây mật nhờ Bị tiếp. Nếu dựa theo Huyền Văn thì đến thời Bát-nhã, tức ngầm thành Biệt nhân, cho nên hiển lộ tiếp chỉ là Bồ-tát. Nhị thừa mật đắc không nơi nào không thông. Nếu nói đến thời Bát-nhã thành Biệt nhân thì vẫn là thứ lớp mật, không phải không thứ lớp. Không thứ lớp mật thì nơi nơi hiển thật, lẽ nào chỉ Biệt ư? “Chỉ vì đối Đức Phật nay…” là giải thích nêu ý kia. “Cũng như nay người…”: Chẳng phải chánh ý văn đối thoái đại…; nhất vãng mà nói như thế. Đầy đủ nên như văn từ “Nay

hiện tại” trở xuống. Nói “Nay hiện tại….”: là chỉ trước Phật chưa khai quyền, cho nên biết cuối đời nhất thời được nghe, nghe mà sinh tin, sự cần phải gieo trồng đời trước như ý trong Niết-bàn tức mười tiên..… đến trong Pháp Hoa. Hóa đạo đã đủ cho nên ở Niết-bàn hiển lộ trong giáo. Chọn Tiểu quả: Đều biết là chân thật.

“Đại Kinh có ba văn”: ba văn này lời thì có chút khác, ý thì phần lớn đồng. Nếu đến Bồ-đề tâm thì ắt đến Bồ-đề Niết-bàn. Một văn đầu tiên là nhân, hai văn sau là quả. Trong quả đã là Trí, Đoạn hai đức, cho nên sơ phát tâm Bồ-tát có thể chỉ Sơ trụ phần đắc Trí, Đoạn. Nhưng kinh ba văn đều nói tám-sáu-bốn-hai, lẽ nào có thể nhân quả đồng kinh chấp nhận thời gian ư? Đây lại nhất vãng cho nên Bồ-đề, Niết-bàn đều thông nhân quả. Nếu giáo vẫn quyền chỉ đến Sơ trụ, dù đến cực quả giáo kia cũng quyền, đâu hẳn tám – sáu… mới đến cực quả ư? Tức là cùng Nhất sinh, bát địa sinh thân đắc Nhẫn làm ngăn ngại. “Nhưng vượt quá Năm trăm có ba nghĩa”: Trước nêu ba ý. Tiếp, “Bồ-đề tâm…”: là giải thích thành ba ý, Bồ-đề tâm tức Sơ trụ Bồ-đề, hành giả tức từ Sơ trụ khởi hành. Hai văn đều tại nhân, tức văn đầu của Đại kinh. “Đắc Phật đạo”: tức hai văn thứ hai và ba, là cực vị Bồ-đề, Niết-bàn, nhưng cần nương lý khiến nghĩa Bảo sở thông, đây cũng đâu cần dùng cực quả làm Bảo sở. Tuy có hai ý tương ưng từ đầu nói, mà bởi do Bảo chử Bồđề Niết-bàn kia danh đã thông, cho nên được hai giải thích. Cho nên từ nghĩa viên, từ sơ phát tâm ba nghĩa đầy đủ.

“Văn dưới nói…” đến “đắc Phật đạo”: là dẫn văn nay để chứng minh ba nghĩa. “Vì sao?…”: là hỏi Nhị thừa. Đáp bên dưới, là nhất vãng từ quả. “Phật thừa độ năm trăm do tuần, thoát nạn căn cơ Đại thừa phát sinh”, do văn hẹp cho nên căn cứ phẩm Thí Dụ có thể biết. “Đại kinh…”:

chính phán định chỉ đến Sơ trụ. “Đây chỉ độn căn”: Có hai nghĩa:

  1. Trong năm người, thì ba người trước độn do trụ quả.
  2. Năm người Đại thừa căn độn do giáo quyền.

Cho nên nói “Nếu như trong Tam tạng…thì lẽ nào cần tám vạn cùng mười ngàn ư?”. Nghiệm biết tám vạn… giáo kia là quyền, chưa đến ngoại giới còn nơi đây sinh Pháp Hoa liền phát sinh, lẽ nào nhất định ngoại giới chấp nhận như vậy ư? “Vân vân” là giải thích nêu nguyên do giáo quyền cần phải phế bỏ. Phải biết vị dài ngắn của các giáo phần nhiều tại giáo đạo, lẽ nào có xuất giới nghe Thắng ứng thuyết, ắt cần phải lại trải quả tám-sáu-bốn-hai! Tuy vậy nếu không giải thích không khai quyền diệu kinh đây thì đâu tiện rộng nói đây ư! Nay người căn cạn liền sinh nghi báng. Đức Phật tại thế còn trải qua hơn bốn mươi năm không hiển chân thật, nếu trừ sau khi Phật diệt độ và Thủ Lăng-nghiêm thì hủy báng cũng thành chủng, chỉ không phiền não cũ thành chủng, thì có gì nghi.

“Dần vào Phật tuệ”: Trong đây văn hẹp, chỉ nói diệt Hóa thành tức đến Bảo sở, không nói trong thành trải qua các vị, chuẩn theo văn phẩm Tín Giải thì lý ắt phải có. “Xưa hỏi”: Trước lập ngăn ngại, tiếp “Xe vì sao…”: nêu ba câu hỏi. Trong đáp thì trước đáp có không: Đầu, căn cứ Thí dụ. Tiếp, “Lý giáo…”: là căn cứ pháp. Trước thí dụ: Nay hỏi xe, thành hai thí dụ đều ra khỏi nhà ba cõi, cùng Ba trăm đều thí dụ ba cõi, có thể do đối xe khiến ba cõi cùng Niết-bàn có ngăn cách, có thể do đối thành khiến ba cõi vọng Niết-bàn tức xa xôi. Tiếp, căn cứ pháp: Thành tại ngoại giới, vì sao chấp giáo? Tức khiến lý có Trưởng giả nói xe, không nên chỉ lý giáo đâu hẳn là không có? Nhưng chỗ thí là đồng đâu được xe cách thành xa. Trưởng giả đã ngồi nơi đất trống, xe cũng lẽ ra xa, đường kia đã trải qua ba trăm do tuần thì thành cũng lẽ ra ngăn cách. Nếu nói đường kia hoang vắng nguy hiểm là xa, thì cửa nhà đều cháy tại sao có ngăn cách. Đã nạn vấn pháp dụ không thể làm chỗ nương, vì sao có không không đồng mà làm đáp ư? Nay căn cứ pháp, nương thí dụ thì mới làm thông suốt. Xưa che thật hiển quyền, quyền ẩn nơi thật, cho nên nói xe ngăn cách. Nay hiển rõ nói thành là hóa, cho nên nói chỗ đất xa xôi, lẽ nào có chấp giáo chấp lý khiến một lý là có chấp lý chấp giáo, khiến ba giáo thành không. Nếu như vậy thì xe thành đều có lý giáo, đều là có không.

Tiếp, “Xe ba…”: là đáp trong ba, một thì cũng trước là căn cứ Thí dụ, tiếp là căn cứ lý giáo. Phần đầu trong căn cứ thí dụ nói chỗ nghỉ ngơi và sở thích ba một không đồng. Xe có thể chẳng phải là nơi nghỉ ngơi, thành có thể chẳng phải là sở thích. Xe đã đều nói vận tải, dứt đông tây ruổi chạy kia. Thành nói mau được an ổn, khiến kia vui dừng ở trong đó. Tiếp, trong căn cứ pháp nói “Tận Vô sinh trí không khác…”: Đều là Thông nghĩa mất Tạng tam thừa và Biệt Bồ-tát Tận Vô sinh trí không gọi là lý. Tập tận bất tận không gọi là giáo, tri kiến đắc hay không cũng lại như vậy, vì sao ban đầu lập lý giáo? Chính dùng trí tập để giải thích! Huống chánh đương Tam tạng Nhị thừa mà chỉ dùng Thông giáo đáp nghĩa cho nên không thể. Nên biết Thông giáo ba người đều chứng Vô sinh, cho nên Tam tam nhân đồng ngồi tòa giải thoát: Một tức là nhân lý vọng nhau vọng nhân ba, lý một; Tam tạng nhân lý vọng nhau cũng như vậy. Chỉ Bồ-tát cùng Nhị thừa không được cùng đồng ngồi tòa giải thoát. Tiếp, “Ba nhà…”: là đáp động tĩnh. Thành lẽ nào không có ngày tạo lập và phải năng thông đường, xe có thể không lúc nào làm xong và vì nó đến tột cùng, cho nên biết quả. Thành được nhân xe đi đến, quả xe dẫm đạp đường thành là năng thông. Cho nên khiến đòi xe tức là cầu mong đòi thành. Diệt thành tức là đồng ban cho, hai nghĩa không sai khác, đâu đủ biện sai khác, cho nên giải thích vẫn thiếu văn thí dụ trước.

“Nạn v.v…”: Ý khiến chuẩn theo vọng văn khác nạn vấn, lược như trước biện, thuận ý chú thích đây cho nên lược luận. Tiếp, “Nay nêu rõ…”: chánh giải thích ban đầu bài xích có không. Từ “Ba xe…” là bài xích ba, một. “Hỏi: Thành cùng hai sứ…”: là phá động tĩnh, phá trong văn đầu nói căn cứ tâm chúng sinh là có: 1) Vốn có. 2) Giữa đường. Nay căn cứ giữa đường nên cả hai đều có. Lại cũng có thể nói: Nguyên phát Đại tâm, cho nên không có ở giữa dùng Tiểu tiếp, cho là có.

Tiếp, căn cứ Phật trí trước lập câu. Tiếp giải thích cũng lẽ ra lại phải nói ngược lại Thật trí nói rõ thành làm hóa, cũng không có quyền trí nêu rõ. Vì con tạo xe cho nên cũng có… nên phải nêu đủ nhiều thứ có, không. Căn cứ năng thiết lập giáo nên đều có, sở chứng lý cho nên đều không. Che thật nên có, khai quyền nên không, thiết lập quyền nên có, phế quyền nên không, đều là tạo tác cho nên có, đều là hóa tha cho nên không. Cho nên biết Pháp Hoa chẳng những hóa thành cũng là hóa xe đều tùy tiện đó thôi! Hóa thành chánh ý vì người thoái đại, lại cùng trên hỏi đối luận đồng khác, cho nên văn nay nói: Đường trước còn xa nay muốn thoái lui. Hai chu trên chưa có nói đây, chỉ nói chìm trong khổ và do bị thiêu. Đây cũng một phen xưa cũng có thể thoái đại: Lợi thông hai chu trên nguyên là tiểu, độn ứng tại thứ ba. “Ba xe thông xưa nay…”: Xưa chỉ ba vị, nay là Pháp Hoa, cho nên trong hai giáo đều có ba xe, chỉ là xưa chánh dùng, nay thuật xưa. Lại nên dùng thể ngoại thể nội gọi là tóm lược xưa nay. “Nói Hóa thành…”: cũng lại nên nói hóa thành chỉ tại nay. Nói “ý giáo”: Nếu không đối kinh này để nói ý giáo thì cũng không thể liền nói Tiểu quả là hóa, chánh khi thiết lập Tiểu nói là thật cho nên nói chưa đến đạo là hóa, đến trong kinh này khi đầu thiết lập tức nói hóa làm, vì khi Thanh-văn Đại cơ động được nói ý giáo nói thành là hóa. Cho nên biết hóa thành tại xưa đối nhân cũng ba, ba xe tại xưa đối lý cũng một.

“Hỏi: Hóa làm ba xe…”: là ý hỏi: Xe thành hai quả đều tại Niếtbàn, thành có tên hóa, xe lẽ nào chẳng hóa? Bỗng nếu chịu hóa thì đồng khác như thế nào? Trong đáp thì nhất vãng, hai luân tuy lại có chút sai khác luận kia thiết hóa ý chỉ Đại vẫn đồng. Nay từ tiện dễ thông lại từ 1 hóa nói thích nghi từ giáo.

Lại cũng nên nói ví như huyễn sĩ vì người huyễn nói, xe cũng gọi là hóa mà đối trung đạo (ở giữa đường) nói hai thành Niết-bàn cũng là giáo. Cho nên biết không thể theo Thí dụ xen nhau chấp. Lại căn cứ thanh sắc cũng tạm xét dụ cho xe, cũng thông sắc nói là thành giáo ấy như trước… “Hỏi: Thành cùng…” là hỏi. “Khiến năng…”: là đáp. Cũng lại nhất vãng thành cũng là giáo. “Cho nên…” là nêu nhân duyên Tứ đế trở lại là thành, nhà năng thuyên giáo. Thành đã có giáo, thành lại là động. “Vì sao chỉ tĩnh giáo thông nhân quả?”: là năng thuyên nhân quả! Xe thành chỉ là quả làm dụ cho nên biết đều là giáo và quả, cần gì biệt đồ? “Giáo thông hữu vi vô vi….”: cũng căn cứ năng thuyên hữu vi vô vi. Xe thành tại quả căn cứ vô vi cho nên ý cũng như trước khiến không đều chấp, cho nên lại đối quyền trí rộng phá định chấp năm xứ. Trong nêu khai quyền nói: Tuy đều đối giáo hạnh nhân lý và biết không biết, lại tùy văn tướng nhất vãng mà nói. Cho nên mỗi một văn đều cần phải đầy đủ Tứ nhất, nêu rõ Như Lai biết không biết…

“Nay vì các ông… làm đại đạo sư”: Là hợp chung nhiều người. Tức đây dùng năng dẫn để hiển sở dẫn. Nói “Hai thứ Niết-bàn…”: Trong đây có ba giải thích: Đầy đủ như văn trước căn cứ phiền não, sinh tử và trí. Văn đầu căn cứ hoặc, văn tiếp căn cứ nhị thừa là căn cứ ở trí, văn sau căn cứ sinh tử. Nói “Trung đạo vân vân” thì “vân vân” là: trung gian hai tử gọi là trung đạo. Nên biết cũng có thể làm Không, Hữu nhị biên, cộng bất cộng, chân tục, quyền thật, Đại tiểu… mà nói. “Như văn vân vân” thì “vân vân” là: khiến dẫn văn. Trên trong biếng nhác thoái lui có ba, nay lược không tụng nghĩa thứ nhất: giữa đường, lại không tụng thứ ba không thể lại tiến, văn thiếu. “Không tam muội”: Đại luận nói: “Vô tướng vô tướng” cho đến “vô nguyện vô nguyện”. Quán tâm giải thích hóa cũng phải căn cứ Viên. Trong phần tụng hợp thí. Kinh nói: “làm tất cả đạo sư”. Văn nói “hợp năm trăm”, tức thí dụ Đạo sư. Năm trăm do tuần là từ sở hành mà nói. Trong phần tụng khai trên thì không tụng nghĩa “giữa đường”, cũng là văn lược. Nên nói cũng không tụng nghĩa “không tiến”, nay tụng hợp nghĩa giữa đường. Lại không có hai thứ khác, không dọc không ngang, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai, ba nói và Huyền Văn ba pháp.

PHẦN TRUNG

GIẢI THÍCH PHẨM NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ

Trước nêu “Ngũ bách (Năm trăm)” cho nên phải làm chữ “thọ (nhận)”. Năm trăm là số, chẳng thiết yếu. “Tại hai chu trên….”: là hỏi. Tiếp, “Trên là…”: đáp, cũng đầy đủ tứ Tất-đàn. Văn đầu là Thế giới ba hạng sai khác. “Lại, trên thì…”: là Đối trị, vì trừ hiềm (nghi) ác. “Lại, mặc niệm…”: là Vị nhân, vì sinh đại thiện. “Lại, quyền thật…”: là Đệ nhất nghĩa, bởi vì lý thì chẳng nói nghĩ. “Trên vì ý gì…”: chỉ là giải thích nghi chẳng thuộc tứ Tất. “Chúng con ở nơi công đức của Phật…”: là thuật lãnh bất cập. Bên trên: trung căn nghe thí dụ lãnh đủ năm thời và Pháp thân địa, phương tiện nghỉ giữa đường thấy thắng Ứng thân. Đức Như Lai còn bài xích lãnh sở bất cập. Con nay nghe đây tuy muốn lãnh hội, lẽ nào có thể vượt quá bốn đại đệ tử? Nên biết ngoài sở lãnh thì bất cập nhiều nơi, cho nên cũng nói “sở bất năng tuyên”. Nhưng nghe Cadiếp, Thân-tử lãnh giải đầy đủ, Như Lai tùy thuật, thì chẳng phải hoàn toàn không biết ý chỉ (muội chỉ), chỉ vì ngưỡng mộ Phật pháp cao sâu cho nên chưa dám vượt qua các bậc đã ngộ trước.

“Trợ tuyên pháp của ta…”: Nếu dùng Bản vọng Tích thì lẽ nào không từng nơi Phật quá khứ hoặc trợ giúp đơn bán đơn mãn, mà phải trong mãn tương đối và khai… ư? Đối với Đức Phật hiện tại xuất hiện ở đời ác năm trược tuyên dẫn giáo hóa khai quyền phế hợp…, cho nên đều từ đồng loại để nói. Như Văn-thù dẫn việc xưa ánh sáng chiếu phương Đông, lẽ nào không có các phương khác, tức dẫn đồng theo lệ thôi! “Ngoài Đức Như Lai ra” đến “phương tiện”: là nếu căn cứ nói “trừ Đức Phật” thì Bổ xứ cũng nên không thể lường, vì kia không thể lường cho nên Bản tích cũng khó lường. Tại sao chỉ từng nơi chư Phật quá khứ? Cũng có thể bản cùng Phật quá khứ ngang bằng. Căn cứ Phật quá khứ thì bản lại khó lường. Nếu đáng thì cũng là Thầy của Phật quá khứ, đâu chỉ ngang bằng ư?

Nói “Bảy thứ phương tiện”: Lại dùng thiên viên tương đối luận cho nên biết viễn bản xa xôi man mác bởi vì khó lường. Nếu vậy thì đây là bản trong tích đó thôi! Sáu Ba-la-mật xen lẫn thâu nhiếp đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Kinh Đại Phẩm ở Phẩm Phú-lâu-na nói Lục độ xen nhau trang nghiêm. “Tại văn có thể hiểu v.v…”: Kinh văn tướng trạng đối nghĩa phân minh. Lại như các văn nêu năm thời, thuần là thiện đạo, trong đó cũng có phẩm loại sai khác không đồng. Nếu không có người nữ thì chắc không có ác đạo. Hoặc khi có người nữ cũng không có ác đạo, như nước của Đức Phật A-súc tuy có người nữ mà không việc nữ. Nước của Phật Vô Lượng Thọ thì cả hai thứ đều không có. Các tướng bất đồng không thể nêu đủ, chỉ do thừa, giới đều có ba bậc đan xen lẫn nhau, lược căn cứ đây có thể biết. “Kinh Nguyệt Tạng quyển chín nói: Pháp thực v.v…”: “Pháp thực” là nghe pháp, như ở cõi An-dưỡng người hạ phẩm sinh trong hoa sen thường nghe đức Di-đà, Quan Âm thuyết pháp. “Pháp hỷ thực”: Nghe pháp hoan hỷ, đang nghe thuộc Pháp thực, nghe rồi là Hỷ thực. “Thiền thực”: Nghĩa là dùng pháp thiền tự nuôi, không cần Đoạn thực. Hoặc có thể pháp tức là hỷ (thực). “Kinh Nguyệt Tạng quyển năm nói”: Thập thiện đều có mười công đức. Cũng cùng kinh Tịnh Danh nói thập thiện là tịnh độ của Bồ-tát, ý đồng. Cho nên mỗi mỗi cuối văn đều nói “về sau thành Phật…”.

Kinh kia quyển năm phẩm Tín Kính nói: Giới thanh tịnh bình đẳng, cái gọi là “Thập thiện nghiệp đạo thôi dứt”. Thôi dứt sát sinh thì được mười công đức. Những gì là mười:

  1. Đối các chúng sinh đắc vô sở úy.
  2. Đối các chúng sinh đắc đại từ tâm.
  3. Đoạn ác tập nghiệp.
  4. Ít bệnh quyết đoán.
  5. Thọ mạng lâu dài.
  6. Phi nhân ủng hộ.
  7. Không có các ác mộng.
  8. Không oán.
  9. Không sợ ác đạo.
  10. Lúc mạng chung sinh đường thiện.

Nếu có thể đem thiện căn dứt sát sinh này hồi hướng Bồ-đề thì ắt đến Bồ-đề, thành vô thượng trí. Đến Bồ-đề thì sẽ lìa được các binh khí gây hại, chúng sinh sống lâu, đời sau sinh về cõi đức Phật kia. Chín thiện dưới đều có mười công đức.

“Từ nếu có thể… đều đồng”, cho nên khi nhân Bồ-tát hành bất sát làm nhân tịnh độ, mà tự không sát giáo hóa người khác không sát… Bốn pháp đầy đủ, sau khi thành Phật mười loại chúng sinh đồng sinh cõi kia. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: Thập thiện là Bồ-tát tịnh độ, Bồ-tát khi thành Phật mạng sống không bị yểu ngắn bằng với chúng sinh đến sinh cõi đức Phật đó. Cho nên trong Trí Độ luận nói Bồ-tát hành nơi một hạnh đều đủ bốn pháp mới thành nhân tịnh. “Thân-tử thị hiện sân…”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai dẫn. Trong văn chánh ý nói chỉ bày vì phàm phu ngoại đạo cho nên nói tà kiến ba độc, chỉ kiêm bên ngoài thị hiện tu tập Tiểu thừa còn chỉ thông hai nghĩa cho nên lại nói. Trong cụm từ “Điều-đạt thị hiện si vân vân” thì “vân vân” là: muốn dẫn đủ sự liệt kê hạnh, kiêm các Thánh giả đều có thị hiện Tiểu thừa (thiên thị).

“Kiều-trần-như…”: Hỏi: Nếu Trần-như đứng đầu được biệt ký, vì sao không thọ ký tại chu đầu?

Đáp: Đại tiểu duyên khác nhau, hai cái bắt đầu không đồng, dẫn vật hy vọng hướng đến, hai ý đều sai khác. Pháp thùy tích không thể một chuẩn mực. “Thí thuyết có hai… hiển thật”: đều nói lãnh pháp thí cho nên trước trong khai thí bản thì trực tiếp khai quyền hiển thật, tức là ứng văn ba chu và tín giải năm trăm người lãnh giải. Ba tiết khai văn ý tại nơi đây. Nói “Thí như có người, tức người nhị thừa”: là nói căn cơ nhị thừa. Tiểu cơ đương khởi bấy giờ cũng còn Đại. “Say có hai nghĩa” cùng hai nghĩa đọa lạc trước, ý đồng. Đầu tiên là trẻ con ví như đắm ngũ dục, chỉ như Pháp Sư, Thường Bất Khinh…, hoặc một câu kết duyên. Tiếp là thiện yếu, hoặc là năm phẩm lúc đầu chưa nhập tương tợ cho nên nói “yếu”. Do kết duyên dày mỏng không đồng, bèn gọi là vô minh, lấy làm khinh trọng cho nên nói say có hai thứ. Nên biết người nghèo xưa nay say trước, như nhờ ăn đồ ngon thọ rồi mà nằm. Tam giáo trợ đạo cũng như thức ăn ngon. Lại dùng phương tiện khác trợ hiển đệ nhất nghĩa. Ăn thức ăn ngon rồi liền tiêu như phương tiện giáo chẳng rốt ráo lợi ích. Xưa tại đời Đức Phật Đại Thông chưa kết Đại duyên, đã trước trải qua trong các vị đều nghe tam giáo cho đến Pháp Hoa tuy nghe Viên đốn, chỉ thành kết duyên như hệ châu. “Châu báu vô giá… chân như báu”: Đây là căn cứ giáo, chính lấy liễu nhân mà làm “hệ châu”. Trong giáo thuyên lý, nên nói “chân như”, giáo là trí dụng cho nên nói “trí báu”. Căn cứ thọ hóa thì giáo năng sinh trí cũng gọi là “trí”. “Báu” có hai nghĩa đều là báu của Trí gia. “Buộc ở áo trong (lót)”: Ban đầu khi kết duyên đầy đủ hai áo, đủ tàm quý nên có tin ưa, mới có thể kết duyên, thoái đại đọa ác thì không có áo ngoài. Nếu căn cứ hiện tại không tin ưa thì tợ như áo trong cũng không có. Vả lại căn cứ đương thời châu buộc trong áo vẫn còn, tức cùng xưa tín đều có, nghĩa như áo trong vẫn còn, chỉ là áo rách chứ chẳng phải hoàn toàn không có áo. Cho nên bạn thân chỉ cho, lại chỉ trong áo có báu, tức là chỉ bày thời tàm tín xưa. Căn cứ thời đây mà nói thì không có áo buộc thân, lý cũng không sai.

“Đứng dậy rồi dạo đi” cho đến “cầu cơm áo Tiểu thừa”: Lẽ ra là cầu y báu ăn uống cõi trời, mà chỉ cầu áo xấu vừa đủ che thân và thức ăn đủ nuôi thân thể, bởi vì hướng đến nước khác (tha quốc). Trong văn hai giải thích nghĩa “khác (tha)” đều thành. Nếu luận có cầu thì ngày nay hơi chút cần thiết, nên nói “nhàm chán khổ…”. “Nếu ma Phật đối nhau…”: Ngày nay bắt đầu được Tiểu thừa là nước khác. Lại từ Đại tiểu để nói, cho nên biết hoặc đến nước khác cầu cứu giúp. Chẳng những cơm áo không đủ mà còn không biết mình có hạt châu trong áo. Bạn chỉ châu báu vốn ở nước mình. “Khuyên đổi ra xài, ví như được thọ ký làm Phật” tức là: Châu tuy giá trị bằng vô số báu ắt phải đổi ra mới có dụng cứu giúp. Liễu nhân nội giải tuy lại cứu cánh mà ắt do chủng dễ hiện. Lấy xưa “một phen giải tất cả giải”, mà đổi “một hành tất cả hành”, thể của châu không kiệt cạn, đổi chác cũng không cùng. Cho nên lại phải nghe phải tu thì mới hiển công dụng của thật. Như trong kinh Hoa Nghiêm được Ma-ni châu, mười loại trong suốt chữa trị mới có thể mưa báu, giải hạnh tương xứng mới kham được Phật thọ ký. Từ đây về sau tức có đầy đủ áo tịch diệt nhẫn nhục, cơm Thủ Lăng-nghiêm, vô lượng các báu tự hành hóa tha vô công dụng lập kia đây không cùng. “Ba chu đều có ý đây”: Nếu dùng hệ châu vọng hai chu trên thì pháp thuyết chỉ tại Phật thọ. Khi ban đầu ngồi dưới cây đạo thọ tư duy dùng đại, tức khi dùng pháp thuyết chưa luận Cổ Phật xưa. Lại căn cứ văn hiện tại nếu trong chu Thí dụ tại hai vạn ức Phật thì văn kia cũng chưa luận cõi điểm bụi trần, nhưng hai chu thượng trung lẽ nào cũng không có ở nơi Đức Phật Đại Thông từng buộc châu ư? Như trong Thám lãnh còn lãnh pháp thân lẽ nào chỉ đạo thọ? Lại căn cứ văn hiện tại đó thôi! Chỉ do căn lợi nghe liền tín giải không cần chỉ xưa. Vì vậy cho nên cuối cùng luận trong văn trước coi “phát chẩn học Tiểu” là trung gian, không chỉ tại thời đạo thọ. Nói “Ngày tháng năm đó…”: chỉ tại cõi uế trược không thông hai chu. “Vô lượng Phật bảo”: Bảo do trao đổi mà được, cũng có thể nói đắc Phật bảo tức lợi tha vậy.

GIẢI THÍCH PHẨM THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ

Văn đầu tiên giải thích theo Nhân duyên, ứng đủ tứ Tất-đàn: Học, Vô học biệt tức Thế giới Tất-đàn, Kiến đạo vị tức Vị nhân, Tu đạo vị tức Đối trị, Vô học vị tức Đệ nhất nghĩa. Lại đắc thọ ký tức Đệ nhất nghĩa. Căn cứ Giáo: Ba giáo như văn. Nghiên cứu Như Lai tạng… là Viên giáo. Lại như trong Thông tựa giải thích, nếu căn cứ Quán tâm, thì trong Lục tức cứu cánh tức là vị Vô học, bốn thứ còn lại gọi là học, lý tức phi học phi vô học. Lại Lục tức: Thông thì đều “phi học phi vô học”, phần chân trở đi thì “mà học mà vô học”. Trong cụm từ “Mà học mà Vô học vân vân” thì “vân vân” là: như trước lược nêu. “Hai người tại trong số trên”: Là trong đa tri thức liệt nêu, nay đắc thọ ký vì sao ở đây? Trong câu đáp, tổng luận đắc thọ ký, tại trong một ngàn hai trăm vẫn là thượng lưu trong hạ căn. Tuy có nhiều người được biết, ý là dẫn hạ căn. Nếu vậy thì không đáp câu hỏi trên. Ý hỏi vì sao không đồng chu trên, nay trong đáp chỉ nói thượng lưu trong hạ thì làm sao xứng câu hỏi, nhưng chẳng phải thượng căn là vì dẫn thật cho nên nói tứ Tất-đàn.

PHẦN HẠ

GIẢI THÍCH PHẨM PHÁP SƯ

Giải thích phẩm này chia làm hai: Đầu tổng giải thích, sau biệt giải thích. Văn đầu lại có hai phần:

  1. Giải thích năm hạng Pháp sư.
  2. Giảm số giải thích.

Phần đầu lại có hai: Đầu, xuất kinh luận dùng biện rõ ly hợp có không. Tiếp, phán xét Thông Biệt để kết phẩm danh. Trong phần đầu lại có hai:

  1. Y kinh này phân biệt làm năm.
  2. “Đại luận…”: là nêu xuất khác giải thích danh, đối nay để biện nghĩa ly hợp có không. “Cho đến như…”: là giảm số để giải thích cho nên hoặc nhiều hoặc ít, đều gọi là “Pháp sư”.

“Năm hạng đầu nêu Pháp sư”: Chưa có một văn nào biên soạn nói một, hai hạng Pháp sư, xưa nay cùng lập xưng làm năm hạng Pháp sư, kinh luận lập nhiều ít không đồng, do đó phẩm đây chỉ gọi chung là Pháp sư. Thiên Vương Bát-nhã nói: Thọ trì kinh này có mười thứ pháp:

  1. Viết chép.
  2. Cúng dường.
  3. Lưu truyền.
  4. Lắng nghe.
  5. Tự đọc.
  6. Nhớ trì.
  7. Rộng nói.
  8. Tụng.
  9. Tư duy.
  10. Tu hành.

Trong mười thứ thì thứ nhất là hạng thứ năm của kinh này. Thứ tư, thứ sáu là hạng nhất. Thứ năm thì đây hạng hai, thứ tám thì đây hạng ba, thứ bảy thì đây hạng tư. Lưu truyền thì nhiếp trong văn rộng nói, ba thứ còn lại đều nhiếp trong văn nhớ trì. Kinh kia Ức (nhớ) chỉ là thọ. Trong Đại luận phân “Thọ trì” làm hai, thì nên không được riêng nói “nhớ trì”. “Đây biệt luận…”: phán xét thông biệt để kết phẩm danh, trong đó trước phân tự tha để biệt địa vị Sư. Nói “Đại kinh phân chín phẩm…”: Vốn là biệt nghĩa, tạm mượn để chứng minh năm hạng Pháp sư. Chín phẩm chỉ là Hy liên và Bát hằng. Thứ tư thường rộng nói, trong 16 phần giải thích nghĩa một phần, nói trước không giải là: 3 hằng và hy liên, 5 hằng 8 phần, 6 hằng 12 phần, 7 hằng 1 phần, 8 hằng đầy đủ giải tận nghĩa kia, cho nên phải từ năng giải một phần nghĩa trở đi! Năng vì người khác nói tức là địa vị Sư.

Tiếp, “Thông luận…”: là xả biệt theo thông, tự tha đều đắc thọ danh phẩm này. Theo nghĩa thông biên không có một câu không đảm nhận làm Sư.

Tiếp, “giảm số” giải thích lại có bốn: Nghĩa là bốn-ba-hai-một đều là triển chuyển tóm lược nhiều thành ít đều là Pháp sư. Nói “Như sau thuyết” đầy đủ như trong phẩm An Lạc Hạnh ban đầu giải thích bốn hạnh. Bốn hạnh đã chỉ pháp sư, ở đây lẽ ra dùng bốn hạnh này để kết tên phẩm, văn không có tức lược. Đã có trước sau, trong đó theo lệ có thể biết. Nếu muốn biết thì chỉ là: trước phán xét thông biệt. Tiếp từ thông bốn để kết tên phẩm, tóm lược bốn thành ba.

Lại chia làm ba ý: 1) Ba nghiệp; 2) Ba môn; 3) Ba pháp. Mỗi mỗi đều trước là giải thích, tiếp là phán thông biệt để kết tên phẩm. Tiếp, Tóm lược ba thành hai: Nghĩa là tự hành hóa tha. Nói “không thọ ký lại”: căn cứ trước thì có thể biết cũng là trước giải thích. Tiếp, phán thông biệt để kết tên phẩm, do tự tha đây đã khắp ở ba trước, cho nên biết tự tha cũng có thông biệt. Biệt luận đều biệt thông luận xen lẫn thông, tự tha đều xen nhau kham nhận. Nay thông từ hóa tha cho nên gọi là “phẩm Pháp Sư”. Tiếp, Tóm lược hai thành một: Nghĩa là Như Lai hạnh đủ tất cả hạnh, đây y văn Đại kinh phẩm Thánh Hạnh nói. Lại có một hạnh là Như Lai hạnh, cái gọi là Đại thừa Đại Bát Niết-bàn; Niết-bàn chỉ là ba đức bí tạng cho nên nay dùng nhà tòa áo ba thứ để giải thích ba đức. Ba đức chỉ là một đại Niết-bàn. Đại Niết-bàn đây khắp tất cả nơi, khắp tất cả pháp, tổng gọi là Nhất.

Trước, giải thích. Tiếp, chỉ rộng. Trong phần giải thích chia làm hai: Đầu thông sau biệt. Thông: một hành thông đủ ba pháp: nhà tòa áo. Biệt đối chia làm hai: Trước đối, sau liệu giản. Văn đầu lại có chín, trong đó đều dùng ba pháp đối các pháp:

  1. Đối tướng thiện ác và động.
  2. “Lại từ nhẫn…”: là phước tuệ. “Trí tuệ là mắt…”: cũng nên nói mắt chân đầy đủ ắt có chỗ nương, chỗ nương đủ hai.
  3. “Lại, từ bi…”: là đối bài xích thiên kiến tà, cũng có hai: trước là giải thích, tiếp là dẫn kinh Tịnh Danh làm chứng, thắng Thiên tà, dũng mãnh tu Viên.
  4. “Lại, từ bi…”: là phá bốn ma, cũng có hai: trước là giải thích. Trong giải thích đều phải căn cứ ngoại giới viên giải thích. Tiếp là dẫn chứng Không, “vân vân” là: giải thích nêu xuất ý kia.
  5. “Lại, từ bi…”: nêu đủ hai thứ nghiêm vẫn làm hai giải thích, chỉ là dịch ngược trước giải thích, căn cứ sau vọng trước, trước nên nói từ nhẫn.
  6. “Từ nhẫn…”: căn cứ thí dụ phá lập… đủ hai theo lệ trước.
  7. “Lại, từ bi cho nên đâu có…”: là căn cứ thể dụng: Dụng tức lìa lỗi.
  8. “Xuất ba đế….”: là căn cứ danh, không đồng thứ lớp ba đế. Nhà từ bi bao hàm áo nhẫn nhục Tam-muội.
  9. “Kinh nói…”: là dẫn kinh, Vô tướng là tòa.

Phần tiếp, chỉ rộng: nói không thể hết. “Vân vân” là: đầy đủ như trong Huyền Văn nêu đủ năm hạnh nhiếp tất cả hạnh, cũng như trong Chỉ Quán nói mười thừa mười cảnh ngang dọc khắp thâu, và pháp môn ngang dọc trong khắp phá, cho đến bốn thứ Tam-muội thâu tất cả hạnh. Tất cả hạnh chỉ là một hạnh, cho nên làm chín văn để giải thích. Tiếp, “Hỏi…”: là liệu giản. Đầu hỏi: Căn cứ ban đầu giải thích phẩm thì nên nói năm hạng, căn cứ sau giảm số thì nên nói một pháp. Vì sao chỉ dùng áo, tòa, nhà ba thứ mà đối các pháp ư? Đáp: Căn cứ sự hiển lý cần phải đủ ba pháp, huống chi y văn hiện tại nên đủ ba pháp bèn vì chúng nói. Cho nên đủ sự lý hai – ba mới có thể nói pháp. Cho nên trước là sự giải, tiếp là sự lý hợp, sau riêng ước lý. Sự giải như văn. Trong hợp thích nói ba môn: thì hai môn đầu thuộc sự, môn thứ ba thuộc lý. Sự lý đều là cảnh sở mê. Đầu tiên, căn cứ khổ quả cho nên dùng Từ bi môn, khổ phải cần cứu. Tiếp, căn cứ kết nghiệp, cho nên dùng Nhẫn môn, y lý lìa. Sau căn cứ đế cảnh cho nên dùng Không môn khéo an trú nơi Không. Thứ ba, riêng căn cứ lý: Lý tức đế lý cho nên căn cứ ba đế, tức hướng thứ ba đủ ba đế. Nói “vân vân”: lẽ ra dùng nhiều thứ ba pháp đối giải thích ba thứ đây khiến thành viên dung thông thích hợp tự tại, chính là biết văn đây nhiếp tướng giáo khắp. Cho nên bên dưới tổng căn cứ giáo, nói: Phàm có nhiều cách giải thích phẩm đều căn cứ Viên giáo.

“Tiếp, Pháp…” là biệt giải thích. Hai chữ “Pháp Sư” thông suốt từ trên xuống tất cả các giải thích. Do các pháp trên là pháp của Sư cho nên nay thích danh cũng căn cứ hai hạng, cho đến năm hạng. “Nếu tự…”: là giải thích theo Nhân duyên. Đầu tiên tự tha không đồng, tức Thế giới, tức tự dùng phép tắc dạy bảo người. Tự hành thành tựu tức Sinh thiện. Hóa tha, trừ ác tức Đối trị. Tự tha đều đắc gọi là Pháp sư, là Đệ nhất nghĩa. “Phàm nhiều thứ…”: căn cứ giáo như trước nói nhiều thứ không thể thấm nhuần các giải thích khác. “Ngoại phàm…”: là nay văn chánh giải thích. Nếu vậy thì cùng xưa có gì sai biệt? Đáp: Nay nêu rõ vì tự tha nên khác với Thanh-văn. Tự hành không có lo lắng bị đuổi nhục nhã. Lợi tha không có sức, yếu đuối hèn kém, nên chỉ có một phần thoái mất tợ như xưa, cho nên nói “chưa hẳn”. Nói “ngoại phàm” đến “không lo nguy khổ”: Ngoại phàm năm phẩm vui thích phước hoằng thông pháp, Thanh-văn nhất hướng tuyệt dứt tâm lợi vật, nghe các đại sĩ bị chúng xua đuổi, tự nhìn lại mình chưa đủ sức lực, nếu không nương tựa phước đó thì bên trong ô nhiễm tịnh quán, bên ngoài chiêu cảm sự chê trách, mất đạo lợi người. Cho nên, đức Phật vì họ nói bốn An lạc hạnh khiến không phải lo ấy, xa lìa mười sự não kia nên nói “không lo”. Vừa chứng minh vừa trợ giúp: Bảo tháp chứng kinh cho nên đến, phân thân trợ khai cho nên chúng tập. Do chứng do trợ nhân vì ngưỡng mộ lưu thông. “Lại, chỉ bày phương pháp lưu thông kinh”: Mặc áo… ba thứ đầy đủ như sau nói. “Nhân bảo…”: Vốn nhờ Dược vương nhân đây bảo chúng khác, kinh này lưu thông. Đầu tiên, “bảo tám vạn Đại sĩ”: Đại luận nói: Pháp Hoa là bí mật phó thác cho các Bồ-tát. “Như nay…”: là văn gọi hạ phương, còn đợi bản quyến thuộc, nghiệm biết họ chưa kham nổi. “Tổng biệt ký”: Tổng làm bảy trăm, biệt làm kiếp quốc…

“Cho đến nhất niệm…”: Nương niệm đây chắc đắc Bồ-đề, nhân viễn không mất nhờ đây mà phát sinh, không đồng thiện khác cho nên chọn lọc. Luận cho cùng ắt phải tận hành đạo pháp của chư Phật, nhị thừa được thọ ký rồi còn trải qua kiếp số. Nhưng hiểu ý chỉ của kinh cùng đầy đủ có gì sai khác? Chỉ tự hành hóa tha khiến từ đầu đến cuối mà thôi. “Nghe một câu kinh một bài kệ”: Thông luận chỉ nói nghe pháp rất ít, nêu ra công sâu hoằng kinh, trong bộ tùy lấy một câu một bài kệ. Biệt luận khiến nghĩa hợp lưu quyền thật bản tích thập diệu, Tứ nhất. Công phước đều như vậy. Nhưng nghĩa thông Đại tiểu, cho nên dưới dẫn “Tăng Nhất Tập nói: Như dòng Tứ đế” cho đến dẫn “bốn An lạc hạnh”… Nay cũng căn cứ theo đây. Nói “đều thọ ký cho”: Ắt do kinh này thành Bồ-đề, tuy không có kiếp quốc mà sẽ được lý đồng, trong đây chấp nhận dùng Biệt thời ý thú, vì thế nên cần phải dùng nghe. Căn cứ hạnh, rộng nêu cúng dường, tuyên giảng thông lợi ích tha, nội quán đầy đủ, đủ như trong Chỉ Quán. Lẽ nào có thể chắp tay ngay ngắn chỉ ngưỡng mong sơ tâm? Trung thượng cũng vậy. Nếu không như vậy thì lẽ nào có thể chu thượng chỉ tại một người, chu trung bốn người được thọ ký ư? Nói nhờ vào việc đây bèn thông đến kia cho nên nói “cũng vậy”.

“Kinh Kiến Thật Tam-muội…”: quyển nói: Trước thọ ký Bát bộ; tiếp quyển năm phẩm Không Thiên nói Không hành chư thiên thấy Bát bộ cúng dường được thọ ký, tức liền cúng dường đều được thọ ký, đồng tên là Hỏa Trì. Tiếp, Tam thập tam thiên trong phẩm Thọ Ký nói: Có tám ức chư thiên Đao-lợi thấy chư thiên trước cúng dường được thọ ký nên cũng hóa làm đồ cúng dường đầy đủ đồng thời được thọ ký tên là Nhân-đà-la Tràng, nói pháp như huyễn. Tiếp phẩm Dạ-ma Thiên có bốn ức Dạ-ma cũng thấy chư thiên cúng dường được thọ ký cũng dùng hóa sự và dùng nói kệ, cúng dường Phật rồi đồng thời được thọ ký đồng tên là Tịnh Trí. Nói “Câu-dực” : Kinh kia không có, e rằng lầm lẫn.

“Quán tâm”: Dùng nhất thật quán xuyên suốt những pháp tụng kia, cho nên gọi là nhất, là không một câu kệ nào không nhập thật. Nói “vân vân” là: nên nêu rõ tướng nhất quán. Cho đến Đại sư tụng kinh quán pháp, trở lại căn cứ tụng trì để thành tướng quán tư duy vi tế.

Khuyến phát bốn ý:

  1. Chư Phật hộ niệm.
  2. Gieo trồng gốc đức.
  3. Nhập chánh định tụ.
  4. Phát tâm cứu hết thảy chúng sinh.

Văn dưới cũng dùng bốn pháp đối khai thị ngộ nhập. Tuy là Tích cần thiết mà hiển bản rồi tức thành bản cần thiết, đầy đủ như dưới biện rõ.

“Hỷ tâm có hai”: Ngang dọc hai giải thích lại có hai:

  1. Chánh giải thích.
  2. Dung thông.

Đầu tự hai: Đầu tiên luận dọc: tùy hỷ chia làm ba:

1. Tức quyền mà thật.

2. “Tức nơi…”: là song phi, song phi tuy không khác đối với hướng thật, lại năng giải thật tức song phi. Đầu, trong nhất niệm: Không phải chỉ cần trải qua thời gian một niệm mà chỉ nhất tâm pháp, gọi là “nhất niệm”. “Tin Phật tri kiến”: Ở trong sơ tâm tin sâu diệu lý, lý đây đã là cảnh tri kiến Phật, cảnh chẳng quyền thật cho nên gọi là song phi, dùng lý hướng về nghe, nghe cạn lý sâu cho nên gọi là dọc, đây tức vị tướng sơ tùy hỷ.

3. “Lại năng…”: hướng song phi lại song chiếu, sự lý viên dung tức gọi bí tạng. “Đầy đủ phiền não…”: tuy chưa nhập phẩm mà cũng có thể thông chứng, đầy đủ tánh phiền não năng biết. Phiền não vọng tạng, tạng sâu Hoặc cạn cho nên cũng gọi là dọc. Tiếp, “Lại, nếu nghe…”: là ngang luận tùy hỷ. Trở lại chỉ trước bất nhị quyền thật, cho nên nói “nếu nghe…”.

Bốn pháp ngang luận để giải thích tùy hỷ:

  1. Tâm.
  2. Pháp.
  3. Thuyết.
  4. Người.

Nói “tâm”: Tức dùng nhất tâm hướng đến tâm khác, gọi đó là ngang. Trong đây nhất tâm không còn có các tâm khác, cho nên văn dưới nói “tức ngang mà dọc”. “Và nhất thiết pháp”: Dùng nhất thiết tâm vọng nhất thiết pháp, cũng gọi là ngang. Nhất tâm nhất pháp đều là duyên ngang, pháp thuần là tâm, tâm thuần là pháp. Cho nên dưới kết nói: “Ngang tức là dọc”. Trong đây tự nói đều là Phật pháp. Phật pháp về lý hợp ngang dọc bất nhị. “Nếu muốn…”: tiếp, căn cứ “thuyết”: Năng rộng phân biệt mỗi một tâm pháp.

“Một tháng, bốn tháng đến một năm”: Tuy văn dẫn ý căn mà chẳng phải là địa vị lục căn thanh tịnh. Nay lại dựa theo quán, “tuy chưa…”: căn cứ nhân có thể thấy. “Dẫn Đại kinh”: Đây nhất niệm ban đầu chính đang nghe ít hiểu nhiều, cũng gọi là nghe nhiều hiểu ít, cho nên lại nêu. Do bài xích nghe nhiều mà không biết nghĩa, sau sẽ lại nói. Tại quyển kinh thứ 6, ban đầu nói “thượng hạ phẩm sư” là chỉ căn cứ phàm vị để phán xét. Mười thứ cúng dường:

  1. Hoa.
  2. Hương.
  3. Anh lạc.
  4. Hương bột.
  5. Hương xoa.
  6. Hương đốt.
  7. Phướn lọng.
  8. Y phục.
  9. Kỹ nhạc.
  10. Chắp tay.

Âm nhạc như trước đã giải thích.

Tiếp, “Dược vương… người ấy tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh”: Do bi nguyện dẫn dắt, vẫn là nghiệp sinh, chưa có thông ứng. Nguyện kiêm nghiệp, đầy đủ như trong Huyền Văn phẩm Quyến Thuộc nói. “Như Thích luận nêu hữu tuệ vô văn…”: Kệ đây và kệ bốn Pháp Sư, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một nói. Cho nên, biết cũng chấp nhận là hoằng pháp. Ở trong nội giáo rộng huân tập nghĩa sai khác để trợ giúp chánh giáo. Thế gian có huân tập sách thế tục mà nói trợ chánh, thì trái lại vướng vít đến lý. “Nên biết người ấy…”: Như vua sai truyền lệnh. Nếu ứng phó theo tâm chủ thì nên được gọi là “sứ”, được gọi là “sở khiển”. Đầu, “Kinh là Như trí sở thuyết…”: là giải thích Như Lai năng khiển, năng khiển là giáo. Tiếp, “Ngày nay…”: là giải thích sở khiển, sở khiển là người. “Làm việc của Như Lai…”: là giải thích sự việc được sai khiến. Trước, căn cứ tự hành giải thích sự, Đức Phật không có các việc khác, chỉ chuyên chiếu lý. Tiếp, “Ngày nay…”: ta nay chỉ làm việc của Như Lai, chân như là lý, chiếu tức gọi sự. “ Nhất như trí…”: là căn cứ hóa tha giải thích. Như Lai lợi vật do cảnh trí bao hàm, trở lại nói lý đây, lấy làm hóa sự, cho nên biết Đại bi trở lại y Như lý chiếu Như thuyết Như, gọi là Như Lai sự. “Ngày nay…”: y lợi tha này gọi là “hành Phật sự”. “Phật thì bình đẳng, việc ác không hề hấn”: Nếu vậy cúng Phật không có phước, thì đâu cần cúng Phật? Hủy Phật không có tội thì đâu cần chế tội ư ? Đáp: Thật ra điều ấy chỉ là để so sánh, hướng đến nói không thể luận phước điền tốt xấu. Nếu căn cứ (phước) điền mà luận thì phàm xấu thánh tốt, cho nên nếu chê cúng dường thì là nặng ở phàm. “Ví như” đến “đều nhẹ” cũng căn cứ sơ tâm dễ thành hoại mà nói. Nếu căn cứ điền mà nói thì nghĩa theo lệ có thể biết. Như trong tám hạng phước điền thì chăm sóc bệnh là hạng nhất, người phần nhiều chán ghét cho nên người chăm sóc thì phước tăng, đây chính là căn cứ tâm khó dễ. Nếu căn cứ điền tại sự, thì lẽ nào một người bệnh so với Đại thánh và diệu pháp ư? Như giúp kẻ thất phu và hiến cúng người chủ, thì cách nhau trời vực, ân thất phu không thể tự che, ân chủ thấm nhuần đến muôn dân.

Tứ Tất thích nghi không thể nhất định, nhưng căn cứ công cao lý tuyệt của kinh này, thì được nói như đây, các kinh khác không như vậy. “Gánh được cái gánh trên vai Như Lai…”: Phật đắc quyền thật và phi quyền thật, ta cũng đắc pháp ấy tương xứng Phật đắc, vậy thì nghĩa tương đương gánh được cái gánh trên vai trên lưng của Phật. Cũng là dùng các pháp quyền thật của Phật, gọi là gánh được cái gánh trên vai trên lưng của Phật. Cũng là chúng sinh thường gánh nơi vai lưng, thường ngày sử dụng mà không biết. Các kinh khác không như vậy cho nên cần phải nói. Nếu không như vậy, thì lẽ nào người trì kinh mà gánh được trọn cái gánh trên vai Như Lai. Thế nên văn đây cần phải phế bỏ giải thích theo sự. Nếu không biết văn này thiết lập khai quyền thật, thì dù dùng tên quyền thật để giải thích kinh cũng chưa biết được diệu chỉ này. Kinh nói “nên đem thiên bảo (báu cõi trời)…”: trước đã nêu đồ cúng dường bậc thượng trong loài người, tiếp là dùng báu trời để so sánh, còn dùng báu trời phụng hiến cho nên nói “nên đem”, huống chi đồ cúng dường bậc thượng trong loài người. Có người nói người Tây phương đề cao những gì tốt nhất (thắng) đều gọi là thiên. Nếu vậy thì trước nói “đồ cúng dường bậc thượng trong loài người” tức là thiên cúng, tại sao lại nói nữa?

Trong trường hàng đầu tiên tán thán pháp sở trì…: Trước căn cứ năng trì tức lợi tha tin, chê để chọn người, đây nêu sở trì thì nêu nhân (người) xứ nhân quả để tán thán pháp. Trong đó trước liệt kê năm chương, tiếp nêu sinh khởi, cho nên biết nhân (người) pháp xứ ba thứ xen nhau hiển sáng mới thành nhân cảm quả. “Có sư…”: là thuật giải thích khác. “Kinh tán thán Pháp Hoa” đến “thiếu một chi tiết”: là phá. Chỉ lập quá khứ, vị lai để làm sở hiệu (đối tượng khảo sát), tức dùng Pháp Hoa làm hiện tại làm năng, sư đây thiếu sở hiệu trong đó cho nên nay nói “thiếu một chi tiết”.”Vân vân”: y dưới văn đây giải thích chi tiết xuất hiện. “Nay đầu…”: Trong đây chánh giải thích, trước liệt kê ba thời ở ngoài Pháp Hoa. Tiếp, “Đại Phẩm…”: nêu ba thời không bằng Pháp Hoa. Cho nên dùng Pháp Hoa nhân (người) pháp hoàn toàn khác các kinh. Nếu không như vậy, thì phá là muốn bài xích bẻ gãy vi diệu của Pháp Hoa, chê bai ở trong đó thì sao thành hoằng dương tán thán? Gia Tường còn vậy, huống chi các người khác! Đại Phẩm… “đới”, đủ như Huyền Văn, mỗi một chi tiết nêu rõ năm vị. Nếu không như vậy thì làm sao biết từ xưa chưa từng hiển thuyết? Tạng bí mật không vọng trao cho người, vì có nhiều oán hiềm… “Đương phong”: Pháp Hoa ở trước như trận lớn khó phá, Niết-bàn ở sau như các phe đảng không khó. Đầu tiên phong phá trước, việc này làm không dễ. “Kinh này nói đủ” đến “cũng tức là tạng bí mật”: Đầu là khai quyền cũng tức là bên dưới hiển thật. Quyền tức là thật, cho nên nói “cũng tức”. “Khi Như Lai… oán ghét”: Tư duy việc các đời trước là “oán”, ganh thiện hiện tại là “ghét”, nên chướng chưa trừ là “oán”; không ưa nghe thì gọi là “ghét”. Nay thông luận: Tích môn thì coi “Nhị thừa và độn căn Bồ-tát” là “oán ghét”. Năm ngàn người đứng dậy đi chưa đủ đáng ghét (hiềm). Bản môn thì coi “Bồ-tát trong đó lạc cận thành tựu” là oán ghét (hiềm). Toàn chúng đều không biết, đâu được cho là lạ? Nay vẫn tại tích, ý thì có thể thấy. “Lý tại khó hóa”: là nêu rõ lý đây, ý ở chỗ khiến biết chúng sinh khó hóa.

“Tứ tín…tam lực”: Trong văn có hai giải thích cùng hiển bày một ý: Đầu đối ba đức, tiếp đối ba pháp, cho nên Tứ tín là hạnh mở đầu, tứ hoằng là năng dẫn dắt, đại trí là năng khai. Cho nên tứ tín đây cần phải căn cứ Viên thừa, nghĩa là nhất thể Tam bảo nhất niệm thập giới mới là đứng đầu Viên môn tứ hoằng. Cho nên văn tiếp nói: “Tín thì tin lý, lý tức pháp thân”. Nếu có pháp thân thì có lý tánh nhất thể tam bảo. “Chí nguyện là lập hạnh”, tứ hoằng đại thệ lập tất cả hạnh. Pháp thân căn cứ sở tín, các hành căn cứ sở dẫn. Gốc các thiện tức là Bát-nhã, cho nên trong sở tín có đủ bốn pháp. Đã đối ba đức, tức từ thắng lập tên. Nếu không như vậy thì đâu có được chư Phật cõi này cõi khác hộ niệm! “Hàng sơ tâm ở đây…”: Đây dùng sở biểu như nghĩa gánh vác ở trước. Nếu không như vậy thì sắc thân “cùng ở chung” cho đến “xoa đầu” là bất tịnh, đối lý đâu có lợi ích? Các xứ sinh, đắc đạo chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn… đầy đủ trong Chỉ Quán quyển bảy nói Hóa thân tám tướng. Đây bốn tướng xứ còn nên xây tháp huống chi chỗ có năm hạng Pháp sư và kinh này hiện hữu, tức là pháp thân bốn xứ đều nên xây tháp, huống chi kinh nói “trong tháp thì đã có pháp thân toàn thân xá-lợi”. Cho nên, dẫn luận chứng Sinh thân và Pháp thân xá-lợi đều có toàn thân và toái thân. “Vân vân” là khiến giải thích ra bốn tướng. Sinh thân xá-lợi toàn và toái như đức Thích-ca, Đa Bảo. Pháp thân xá-lợi có hai: Các phương tiện giáo là pháp thân xá-lợi toái, Pháp Hoa nhất thật là pháp thân xá-lợi toàn. Bốn giáo năm thời, tùy chọn có thể thấy. Cho nên biết các kinh chỉ là phân nửa tướng toàn toái. Chỉ có kinh Pháp Hoa đây, pháp thân toàn thân hoàn toàn không có pháp khác, vì đều nhập thật.

Nhà Chú thích nói: “Trước coi người là mục đích (cá, thỏ) nên ngang bằng công của thân trượng sáu, nay coi ngôn từ là phương tiện thuyên đề (nơm lưới), cho nên cùng xá-lợi đẳng diệu”. Nếu kia không chọn lọc sự thô diệu của ngôn từ lại cùng sắc thân ngang công. Kinh này đâu khác A-hàm, Bà-sa! Cho nên biết, nhà chú giải kia không hiểu người trì và pháp, Phật cùng ở, không biết sở trì và pháp thân giới (cõi) ngang bằng. Cho nên, trong mười bảy tên của kinh Pháp Hoa, có một tên gọi là Kiên Cố Xá-lợi, toái thân xá-lợi thì thân giới không được gọi kiên cố. “Xảo (khéo) độ”: Như Chỉ Quán quyển sáu viết giải thích Xảo chuyết hai độ. Đại luận kia văn chung dùng Diễn môn làm “xảo”, nay riêng dùng Nhất thật làm “xảo”, thì có hai thứ: Đầu, liệt hai văn. “Nay nói…”: là lựa chọn ý đầu. “Lại vọng…”: là giải thích cận đương thể, trước căn cứ Thiên làm viễn, dùng Viên làm cận. Tiếp, “Nay dùng…”: là hiểu rõ ý chánh của văn, dùng nhất như thật trí làm nhân, hướng đến cận viễn hai quả Bồ-đề, cho nên nhân nêu cận quả. “Đạo tiền chân như” đến “làm Liễu nhân”: Đây dùng tu đắc đối chánh nhân kia. Duyên, Liễu trong chánh đồng thành Chánh nhân. Chánh nhân trong tu đồng thành Duyên Liễu. Căn cứ chân duyên liễu, cũng gọi “tức chân duyên liễu”, đều có thể nói “chân như duyên liễu”. Toàn tánh là tu, tức nghĩa đây vậy. Chỉ có pháp này, thế pháp không thể nhiễm, ma không thể hoại, nhị thừa không năng diệt. Đây chính dùng Bạc địa làm Đạo tiền, phát tâm về sau làm Đạo trung. Vị đạo trung phân làm hai: Sơ trụ về trước là Duyên, đăng trụ trở đi là Liễu. Một vị phân làm hai, cho nên gọi là “cũng”. Diệu giác chứng về sau, gọi là Đạo hậu, cùng trước có chút sai khác đối văn phân biệt, nên trong Thí dụ ắt phải giáo quán hai lớp mới tận lý kia. Giáo quán tùy theo cùng hiển diệu kia. Giáo quán nếu thiên thì cả hai đều không có lực. Đầu, “căn cứ Quán” trong đó đầu tiên tổng nêu quán. Nói tuy thông các mà ý lại tại Viên. “Y Thông quán…”: trải qua giáo nêu quán, cầu thể lý đồng cho nên lược bớt Tam tạng. “Pháp Hoa luận…”: Thủy (nước) như Phật tánh, nhận lấy không đồng nên nói “thứ lớp”, tức các giáo, quán tướng cạn sâu không đồng, cần phải hiểu rõ ý chỉ kia cho nên nói “phải biết”.

Trong phần “Căn cứ Giáo” có hai: Cũng trước là tổng nêu. “Tam tạng giáo môn…”: biệt căn cứ bốn vị, nay luận bắt đầu tiệm cho nên đầu tiên nêu Tam tạng. Hoa Nghiêm, sau nêu trước trong căn cứ quán. Đã nương bốn giáo cho nên nay căn cứ mùi vị để hiển bộ vi diệu. Nếu trong Chỉ Quán lại căn cứ bốn giáo. Lý cũng như vậy. Huyền Văn, tất cả đều trước căn cứ bốn giáo. Tiếp, dẫn “kinh Hoa Nghiêm” chứng minh được “nước” đồng. Tiếp, “Có người…”: Năm nhà, bốn giải thích. Ba nhà đều căn cứ năm thời để giải thích. Nhưng dùng thời không tận (hết) và không thứ lớp. Trong tiệm giáo nhà thứ nhất bỏ qua thời đầu và thời thứ ba. Nhà thứ hai bỏ qua hai thời đầu và thời thứ tư. Nhà thứ ba tuy dùng Đại Phẩm tại sau Tịnh Danh, cũng bỏ giáo trước và trái năm thời. Sinh công cùng người chú giải: Toàn trong thời Pháp Hoa phán xét cũng chưa hoàn toàn đúng còn bị người khác phá. Cho nên nói: “Cách Phật có xa gần…” Chính do ba sư trước đồng dùng năm thời làm một giải thích, Sinh Công và người chú giải, đồng đối Pháp Hoa làm một giải thích. Nay sư chấp nhận ý phá này, cho nên chép ra. Ý sư đây muốn phán xét bốn giải thích của năm sư trước, tức trước ba sau hai, cả hai theo lệ phá. Cho nên ba nhà trước dùng các kinh cách Phật xa, đối Pháp Hoa về sau đều dùng Phật quả mà làm thanh thủy (nước trong). Cho nên biết ba sư cách Phật xa.

Một giải thích gần: Hai sư sau căn cứ Pháp Hoa luận viễn cận (xa gần), bắt đầu từ đất khô, cuối cùng đến nước trong, đều ở thời Pháp Hoa. Nếu vốn y thật giáo, thì đạo lý như vậy. Nếu dùng thật đối quyền thì lý không hoàn toàn như vậy. “Tìm kinh…”: Sư nay hòa hội, do ba Sư trước chỉ ở các giáo trước, không có nước trong. Lại dùng năm thời đều có lỗi tiểu, hai giải thích sau chỉ ở trong Pháp Hoa để luận cận viễn. Lỗi nơi khai quyền, Pháp Hoa về trước là sở khai. Sư nay đưa ra hai nghĩa căn cứ giáo, và căn cứ (mùi) vị. Căn cứ giáo: tức đối ba giáo trong tiệm giáo trước là thô, cho nên lại phải chỉ có căn cứ Viên trong Pháp Hoa để giải thích. Căn cứ (mùi) vị: thì đối trong bốn vị trước, chưa chuyển là thô. Đến vị thứ năm giáo tuy đã chuyển, hoặc hành chưa nhập, cho nên cần phải đối vị thứ năm làm giải thích viễn cận. Cho nên hai giải thích thiếu một nên không thể. “Hỏi: Các kinh…”: Người khác hỏi giải thích đầu trong hai giải thích trước. Nhân hướng người khác phê phán giải thích của ba sư trước rằng các giáo cách Phật xa. Căn cứ trong văn “Đáp”, đáp đầy đủ nghĩa viễn cận. Cũng nên hỏi đủ hai ý viễn cận. Căn cứ thuần Bồ-tát và người Nhị thừa thì chuẩn theo ý vốn hóa độ, vốn cầu Phật quả đối xưa chưa khai quyền, cơ chưa chuyển cho nên nói “chưa quyết”.

Tiếp, “Hỏi: Kinh Bát-nhã vì sao cách Phật xa?”: Xưa nay cũng chấp nhận Bát-nhã năng sinh A-nậu Bồ-đề, vì sao cũng cùng các kinh đồng xa? “Đáp” ý: Đại chỉ đồng trước nhưng phân hai nghĩa: Trước căn cứ cộng Bồ-tát đồng nơi Nhị thừa, chưa khai quyền biên thì gọi là “cách Phật xa”. Tiếp, “Xét Bát-nhã…”: lần nữa lại thuận hỏi đáp, Bát-nhã chẳng cách Phật xa, năng sinh Phật pháp có gì xa? Do đầy đủ Quyền Thật hai tuệ, cho nên nêu thí dụ nói: “Như người bệnh…”. Người bệnh: Bồ-tát mới phát tâm trong Cộng Bát-nhã. “Lưỡng kiện”: Là hai tuệ. Do hai tuệ đây khiến đến Bồ-đề cho nên nói: “Khắp có thể đi xa”.

Nói “tối thắng”: Ý tại bất cộng, đồng nơi Pháp Hoa nên tạm nói “thắng”. Cho nên nói Pháp Hoa khai quyền không khác Bát-nhã hiển thật, nên khai quyền cùng hiển thật như trái, phải hai bên khác tên. Pháp Hoa trở lại khai quyền trong Bát-nhã, nhập Bát-nhã thật, cho nên nói không khác và dùng tên khác, do đó thông luận. Tức là bất cộng Bátnhã cùng Pháp Hoa chủng trí tại sao khác? Căn cứ “Đới Bất đới, Khai vị (chưa) khai” biệt. Không thể không có đồng khác. Các sư toàn thuận nghĩa này, nên chỉ thẳng chép ra đây mà không luận phá. “Bồ-tát…”: hợp thí. Văn đã căn cứ Pháp Hoa mà nói cho nên có thể y trước lấy làm hai giải thích. Trong giải thích “khai phương tiện môn” dùng giải thích trước, rộng dẫn liệu giản, đây là đại chỉ của Tích môn. Đại chỉ đây nếu nghiêng đổ thì lấy gì lưu thông? Trong đó trước nêu Quang Trạch, tiếp riêng phá, nói “chính là phá, chẳng phải khai”. Do Quang Trạch nói “phế trừ giáo xưa”; không nói “chính là” nên, nghĩa khai không thành. Lại, do Quang Trạch nói “xưa biệt chỉ Lộc-uyển”, cho nên biết hiểu rõ giải thích lời nói ấy không dễ dàng. Do một chữ trừ có tiện làm Tạng hay không? Gia Tường cũng nói: Khai nhị chủng là phương tiện, Thị (chỉ bày) nhị chủng là chân thật. Xưa không nói nhị chủng là phương tiện cho nên môn bế. Nay nói nhị chủng là phương tiện, cho nên phương tiện môn khai. Nay nghĩa khai khéo thành. Nhị bèn trái giáo, Kinh nói: Đức Phật dùng sức phương tiện chỉ bày dùng tam thừa giáo, đâu từng chỉ có hai? Nay văn còn có năm, bảy đều khai, đâu chỉ có ba ư? Nhưng đây chính là văn lúc chưa sửa đổi bèn khiến người sau hỗn tạp sử dụng. “Hà Tây nói: Thẳng gọi ba là phương tiện”: Ý nói xưa cho là thật không hy vọng nhập thật, cho nên môn kia còn đóng. Nay cho là phương tiện có hy vọng tiến đến thật, cho nên môn kia gọi là khai.

Trở lại dẫn đầu phẩm Phương Tiện nói: “Phật dùng sức phương tiện chỉ bày dùng tam thừa giáo”. Cho nên, Chương An thuận với giải thích này. Thế nên, người xưa lập nghĩa chọn dụng thật khó . “Có người…”: Nói thập nhị bát vạn: Chỉ là mười hai bộ tám vạn tạng thôi! “Riêng cho rằng… chẳng phải nghĩa khai thị”: Ấn sư theo Long Thọ, Long Thọ theo Viễn sư. Nghĩa này Ấn sư đã dùng giáo thân hai thứ phương tiện, cho nên biết phá người kia trộm nghĩa của hai sư Long, Ấn và đem phá nghĩa để giải thích khai môn, đâu có khác đối với nghĩa của Quang Trạch ư? Cho nên lược phá. Tuy dùng giáo thân lại tránh né hội nhập hai.

“Hỏi: Phương tiện đương thể…”: Riêng giả thiết đây hỏi muốn nêu sau đáp, riêng trong Đáp: đầu tiên chánh nêu ra hai môn, tiếp “Hai môn này…”: là giải thích hai môn, trong đó đều có hai nghĩa khai bế (mở, đóng). Nói “đương thể”: Chưa có sở thông căn cứ thể ngoại mà nói. Lại do đương giáo có thể nhập, gọi là “môn”. Nếu nói “làm thật tướng môn” thì căn cứ năng thông đến thật tướng để nói. Dẫn “tính hạt cát, quán biển”: “tính hạt cát” như Thích Tiêm quyển bốn nói. “Quán biển”: Tức kinh Hoa Nghiêm tân dịch quyển sáu mươi bảy nói: “Có thành tên là Lâu-Các, trong đó có thuyền sư tên Bà-đà-la nhóm tập các thương nhân, vì họ thuyết pháp môn nhất thiết hải”. “Hai môn này đều có khai bế”: Năng thông đương thể, pháp thể không sai biệt. Theo nay và xưa mà nói, nên xưa bế (đóng) nay khai (mở), thật tướng cũng vậy. Trong đó trước nêu đương thể, tiếp nêu năng thông hai nghĩa đều đối chân thật để nói, vì thật tướng cũng có đương thể năng thông hai nghĩa. Trong đương thể tuy cũng gọi là môn, nhưng đối thật còn đóng nên cần phải nêu khai. Nhưng chỉ vì nói Ba là phương tiện, cho nên phải nói Một là chân thật, tương đối luận vậy. “Hai là…” tiếp giải thích năng thông, tức vì thật làm môn. Căn cứ bản ý Phật đều là năng thông, căn cứ cơ duyên chúng sinh thì có hai điều giải thích: Các độn Bồ-tát cũng có năng biết ba giáo năng thông, chỉ vì trước Pháp Hoa thì cơ chưa hợp, cho nên tại xưa đều “bế”, tại nay đều “khai”, cho nên cũng cùng thật đối biện. Lẽ nào năng thông phương tiện khai. Thật tướng còn đóng phương tiện vẫn đóng mà chân thật được khai?! Đây giải thích đồng với Hà Tây. Thật tướng cũng có hai: Trước chỉ có thẳng đối phương tiện, cho nên nay tùy luận, đồng với phương tiện, cho nên nói “cũng”.

1. “Hư thông”: Giải thích thật đương thể làm môn, không ngại gọi là “hư”, không bít lấp gọi là “thông”, cho nên được toàn thể thành tựu năng thông môn, bao hàm thọ lãnh tất cả không gì ngăn cách, được gọi là “môn”. Biến khắp tất cả mọi nơi đều là môn. Vậy thì căn cứ thật không thông mà thông, cho nên nói “bất nhị” và dùng pháp giới. Pháp giới tức môn, gọi là pháp giới môn, không đồng tính hạt cát đương thể môn.

2. “Năng thông phương tiện làm môn”: Khiến phương tiện đến thật, cho nên gọi là năng thông. Nếu chẳng phải lực thật tướng thì phương tiện không do đâu mà được khai, cho nên biết chỉ Nhất thật, lý từ hai được tên. Do hư thông cho nên khiến người khác qui về như tha thân thể trói, thì bao nhiêu nguyên nhân tội đều bỏ. Ý của “Lưu Cầu”: Câu đầu chính nêu chân thật vì phương tiện làm môn, câu tiếp nêu ba phương tiện vì chân thật làm môn. “Nói chẳng phải ba…”: là nêu hai môn xen nhau khai, cho nên Lưu Cầu đều cùng ý riêng giải thích xứng hợp, chỉ lời nói lược, ý chìm ẩn, tôn chỉ kinh khó hiển bày.

“Có người nói….” Người khác lập ba chương môn xen nhau làm phương tiện “xen nhau làm môn”. Nếu so với nhà chú giải thì lời kia rất phiền, lý kia hỗn loạn. Tuy nhiên, nhiều nói ít thật không bằng giữ một. Trong đó trước là liệt nêu, tiếp, “Như dùng…”: là giải thích. Đây là trong giải thích phẩm Phương Tiện, thêm ý tam chuyển của nhà giải thích năm thời bên trên; chỉ lại thêm xen lẫn làm môn là khác. Chỉ giải thích chương đầu, hai chương còn lại chỉ liệt nêu. Ý chương đầu: Quyền bị tình lấp, nay đã khai quyền cho nên nói “thông”. Thật vốn chẳng có ba, vì vật nên nói ba, nên nói “khởi”. “Cho đến…”: hai thứ còn lại theo lệ. Trong đó trước làm lệ mẫu, tiếp “Chỉ không được…”: là nói văn ý thông tắc. Nếu muốn trình bày nêu thứ hai theo lệ, như dùng ba, một môn làm môn phi ba phi một. Do đạt ba, một thông đến song phi, tức dùng ba, một làm song phi. Do song phi cho nên khởi ba, một. Cho nên phi ba, phi một làm môn ba, một. Thứ ba chuẩn theo lệ cũng có thể thấy.

Nói thông tắc: Nếu năng thông năng khởi thì có thể xen nhau luận môn, chỉ vì không không được dùng một làm quyền, lấy ba làm thật, dùng văn Thắng Man thì chẳng phải ý này. Hai chương dưới cũng vậy, chỉ được lại xen nhau làm môn. Tiếp, riêng trong phá thì chỉ phá chương đầu, hai chương còn lại cũng theo lệ ở trong chương đầu. Chỉ phá ba làm một môn, chưa phá một làm ba môn. Văn đầu có hai lớp, đầu phá nghĩa môn, tiếp dùng nghĩa “không phải nhân” để phá. Đầu nghĩa môn: Câu đầu quyết định trong đó chỉ là câu ba thông một, phá nghĩa môn kia chỉ vì không thông mà lấp, tức tùy tự nó chẳng phải môn. Cũng nên lại nói nếu kia thông thì xưa sao không thông mà để đến nay ư? Xưa không thông thì xưa không phải môn. “Nếu khai…”: đến nay tức khai. Khai rồi thì chẳng phải ba, tại sao được dùng ba làm một là môn? Rõ ràng người khác không biết thể nội thể ngoại, cho nên cần phải phá. Căn cứ bản ý Phật vốn là thông một, cho nên khi chưa khai thì xưa nay là môn. Kia chưa nói khai, mà nói là môn, vì vậy cần phải phá. Cho nên biết ba làm một môn còn tự không thể, thì một làm ba môn tại sao đợi biệt phá? Nếu vậy thì vì sao kinh nói khai phương tiện môn ư ?

Đáp: Nếu từ ý này thì môn tuy chưa khai nhưng có nghĩa có thể khai, cũng được gọi là môn. Như vốn là cửa thì khi đóng, lẽ nào không phải cửa? Chỉ gọi bế môn, khai rồi không có ba, tại sao ngại từ xưa lấy ba làm môn. “Lại, Ba chẳng phải nhân Phật”: là phá ý đồng trước. Nếu chưa khai, thì Biệt còn chẳng phải nhân. Nếu kia khai rồi thì tán tâm vẫn phải. Tiếp, theo lệ phá hai thứ còn lại, dựa theo cái thứ nhất nên biết. “Vân vân”: là hoặc dựa theo phá chương đầu, nửa chương tiếp cho rằng thật là quyền môn và hai chương dưới. Phiền toái nghĩa mỏng không thể thuật đủ, người khác đã phá, bản thân dựa vào nay bèn có thể lại lập hai câu, phá người khác đã hoại, lập nghĩa tự thành, đầy đủ như trước giải thích.

“Hỏi: Phương tiện…”: Nay thiết lập hỏi đây là muốn khai đầu mối nghĩa của bốn câu kia, nên Sư nay nói văn trước tự có hai câu, thì lại được làm hai câu còn lại hay không? “Đây có…”: là đáp: có đủ bốn câu, hai câu sau lý không có hướng khác, chỉ nương danh nghĩa trình bày giải thích tướng câu, trong đó trước chỉ hai câu trước, tiếp nêu hai câu sau.

“Như danh…”: Tiếp dẫn theo lệ giải thích. Trước liệt kê danh, nghĩa. “Do phương tiện…”: tức theo lệ giải thích. Nghĩa là ý chỉ dưới danh, cho nên được xen nhau làm môn. Trong đó, trước giải thích phương tiện, tiếp, “Thật tướng…”: chỉ dùng theo lệ giải thích. Trước theo lệ, tiếp “Tựa của Trung luận…”: là dẫn chứng. Thật danh thật nghĩa lại xen nhau làm môn. Thật là nghĩa, Trung là danh (tên), cho nên nương danh Trung để hiển nghĩa Trung, tức danh ấy làm nghĩa môn. Văn chỉ nêu một bên. Cũng lại nên nói: cũng do thật nghĩa năng ứng danh Trung, vì danh chẳng thật không thể lập. Cho nên, nêu thật để dẫn.

“Hỏi: Có được dùng tam hiển tam…?”: Phương tiện chân thật chỉ là tam, nhất. Phương tiện chân thật đã làm bốn câu, thì tam, nhất cũng lệ theo có hai câu sau ư? “Đây cũng…”: là đáp. Nói hai như trước là ba làm một môn như dùng tam hiển nhất; một làm ba môn như dùng nhất hiển tam. “Dùng tam hiển tam…”: là giải thích hai câu sau, hai câu trước đã dùng tam, nhất, vọng nơi quyền thật danh nghĩa tương hiển. Nếu hai câu sau, thì trước tuy danh nghĩa tương đối nghĩa lập, nay không được dùng danh nghĩa để giải thích, chỉ dùng pháp thể tương đối giải thích.

Trong đó có ba phần:

  1. Đối giải thích.
  2. “Tam, nhất đã không…”: là chánh phân biệt kết.
  3. “Do nhân duyên…”: là tu tánh tương hiển.

Phần một lại có hai: Nêu và giải thích, đầu văn chỉ nêu một câu lược không nêu dùng Nhất hiển một câu. “Nói xưa…”: là giải thích trong đó đầy đủ bao hàm hai câu lại có hai: Trước nêu phi. Tiếp “Phá bệnh này…”: là chánh giải thích. Trước nêu phi: Nhờ khai hiển thuyết, phá xưa nay sai khác. Trong đó đầu nêu tướng phi, đây còn không được tam, nhất xen nhau thông, huống năng dùng tam thông tam dùng nhất hiển nhất. “Cho nên nhất…”: là kết phi. Nói Nhất phi tam, nhất…: Do tam, nhất kia đã không tương tức, nếu không khai thì tương hiển không thành cho nên một không phải một của ba nhà; ba không phải ba của một nhà. Tiếp “Phá bệnh này…”: y kinh này chánh giải thích. Trước dẫn nhất Phật thừa phân biệt nói ba, chứng tức ba của một. Tiếp, dẫn: “Sở hành của các ông là Bồ-tát đạo”, chứng tức một của ba, tức là một thiết lập ba, một của ba, chính là ba, một của khai tam hiển nhất. Câu trước hướng đến xưa cho nên nói “phân biệt thuyết tam”, câu tiếp hiển nay cho nên nói là “Bồ-tát đạo”. Xưa giáo chưa nói nên ba, một còn ngăn cách, không nói tương hiển là một; ba, một là ba, một. Do nay nói đã là ngoài một thì không có ba, đây ba là ba của một nhà, tức là do xưa ngoài một thì là ba hoàn toàn thành ba của một nhà cho nên nói “dùng tam hiển tam”. Đã khai thành một, ba ngoài ra không có một, lại là một của ba nhà, tức là do xưa ngoài ba thì là một hoàn toàn thành tức một của ba, nên nói “dùng nhất hiển nhất”. Cho nên biết do ba của thể ngoại, hiển tức một là ba; do ngoài ba là một cho nên hiển tức ba là một.

“Tam, nhất đã không…”: là phán xét kết. “Muốn khai…”: văn nhân duyên tam, nhất, cho nên trước phán xét. Nói “Tam – nhất đã không khác nhau”: phán xét trước khai hiển toàn thuộc nhân duyên. Nói “nhân duyên”: Chỉ là cảm ứng hóa nghi, cũng gọi là “tu đắc”.

“Do nhân duyên…”: là tu tánh hợp biện. Tự tánh: Tức là tánh đức, cho nên tánh đức ba, một. Tuy lại vốn có phi tu, phi tác mà chính do nhân duyên tức ba mà một. Năng hiển tánh đức tức một của ba. Lại, do tánh đức tức ba mà một; năng thành nhân duyên tức một của ba, cũng do nhân duyên tức ba của một, mới hiển tánh đức ba trong một. Lại do tánh đức ba trong một, năng thiết lập nhân duyên tức ba của một. Vậy thì, nhân duyên tức một của ba, hiển tự tánh tức một của ba gọi là “dùng nhất hiển nhất”. Do nhân duyên tức một mà ba, hiển tự tánh tức một mà ba ; gọi là “dùng tam hiển tam”. Dùng tánh hiển duyên, căn cứ nói có thể biết. Trong văn kết bên dươi thì ba một xen nhau nêu ra. Dùng xen lẫn để hiển không xen lẫn. Dùng tam hiển tam chỉ là dùng tam hiển nhất; dùng nhất hiển nhất chỉ là dùng nhất hiển tam. Tuy nhân giải thích ngại với tận căn nguyên nghĩa Diệu mà tìm được giáo môn một nhà. Nếu mê lầm ý đây thì luống phí tâm thần.

“Dẫn mười lăm chỗ để nêu rõ môn”: Tuy liệt kê đầu số cũng lại không biết thế nào là phải khai. Thế nào là đã khai, môn tướng như thế nào? Như kia không phân biệt luống công nêu ra số có ích lợi gì? Căn cứ ý văn nay nói mười lăm chỗ, trong cửa chỉ là phương tiện đều cần phải khai đầy đủ như tùy văn giải thích, trong đó có trái giải thích nay cũng nên phá. Như dẫn “phẩm Phương Tiện, trí tuệ làm môn”. Đây là đồng thể quyền trí, sao được nói là thật làm môn? Tiếp, “chủng chủng môn”, đây là quyền môn mà chỉ nói Đại thừa giáo ư? Tiếp “Chỉ có một cửa…”: không chuyên ở giáo. “Cửa bị thiêu cháy, căn cứ giới hạn tam giới”, thì đâu có thể chỉ nói từ giới hạn cõi này ra? Tiếp, “Xe tại ngoài cửa, nói tam giới”: Phá cũng đồng trước. Tiểu giáo làm môn thì chưa phán xét thiêu… Đứng ở ngoài cửa phân làm hai giải thích: Nói chánh tập tận chỉ tại ý thông, cửa bên nếu lớn thì lẽ ra đã đắc đại, “Còn ở ngoài cửa, cũng như trước” là cùng hai giải thích trước đều không tương ưng. Trong cửa như trước: Ý cùng trước đứng ngoài cửa ý đồng. Trước ở ngoài hai cửa tử, nay không thể ở trong hai cửa tử. Mở cửa cam lồ nói Đại tiểu: Là văn nói mười phương Phạm thỉnh, hoặc đang như đây. Không biết nay Đại tiểu giáo ở chỗ nào ư! Nay văn ý: Vốn vì khai môn không vì số môn, vốn là giải môn không vì biết số. Hoặc như số mà chọn lược, chọn lược rồi khai số thì cũng đâu có lỗi.!

“Xưa nói nhất thiết thế gian…”: Lại dẫn ý căn giải thích ý khai hiển, là khai các môn số của người xưa, giúp sinh đối với xưa còn chẳng phương tiện, đối nay hiến rồi đều là chân thật, huống lại tam thừa ngũ thừa…ư! Hoặc môn hoặc phi môn: Phi môn nghĩa là lý giáo Tiểu thừa sắc hương giúp sinh…, là môn tức Biệt giáo nhị quán làm phương tiện. Từ đầu nói cho nên có môn phi môn, đối nay tất cả đều là cách thông. Khuyên tu: Trú nơi ba pháp vẫn khuyên tâm không biếng nhác song sau mới nói, cho nên biết đây là hai vị đầu trong Quán hạnh vị vậy. Thế nên, khuyên hoằng Viên kinh để lợi người khác, công hóa độ trở về mình, đến Tương tợ vị, tùy ý vân dụng Diệu âm đầy khắp tam thiên, thì không phải đợi khuyên. Ở trong đó ba pháp tương vọng danh đều đủ ba: Đầu, nêu từ bi. Tiếp, ”Nếu căn cứ…”: nêu trong một đầy đủ ba: “Tu Như Lai…”: nêu nhu hòa. Tiếp “Nếu cứ…”: nêu trong một đầy đủ ba. “Nếu có thể ngồi…”: là không nêu mà thẳng nêu rõ ba trong Bát-nhã, tuy lại mỗi đầy đủ mà chỉ là một, ba. Ba còn chẳng phải ba, đâu thể tách lìa làm chín! Vậy thì Bồ-tát thường quán Niết-bàn nên khuyên người hoằng kinh mà thường quán đó. Mong người hoằng kinh quán mà hoằng đó. Nếu không quán tâm năng hoằng thì đâu hiểu lý sở hoằng, cho nên đức Phật dạy vào nhà ta mặc áo ta, ngồi tòa ta. Nếu không có ba pháp thì sao gọi là hoằng kinh? “An Lạc Hạnh…”: là dẫn phẩm dưới văn đồng. Có lợi ích thế nên khuyên người hoằng kinh y theo phương pháp. “Văn trên…”: là dẫn văn trên giải thích thành. “Năm việc”: Như trước trong lợi ích liệt kê năm việc: Thứ nhất sai người hóa v.v…

PHẦN HẠ (Tiếp Theo)

GIẢI THÍCH PHẨM HIỆN BẢO THÁP

Trong đây bốn lần nói “Kiến Bảo Tháp”. Văn dưới nói bốn phen tức tứ Tất-đàn. Trong nghĩa Thế giới đầu tiên, tên phiên dịch nghĩa có không ba đời không đồng. Thấy ắt phải hoan hỷ cho nên là Thế giới. Nói “Kinh dạy Phật có ba thứ thân”: là nói theo Phổ Hiền Quán kinh. Đã kết kinh này cho nên có thể chứng đồng. Đương Phật cũng như vậy: Vị lai có chỗ thuyết kinh Pháp Hoa thì tháp đây trở lại hiện, đức Phật kia cũng ngồi. Bản luận cũng nói kinh này làm ba thân Bồ-đề. Kinh này đã nói Sư đệ nhân quả, cho nên cổ Phật chứng, tập họp phân thân Phật. Kinh Hoa Nghiêm kia thêm bốn Bồ-tát, nói Bồ-tát nhân quả, năng thêm chỉ là tích Phật chủ bạn, cho nên không mượn nhóm tập Phật, chỉ nói mười phương xen lẫn làm chủ bạn, vẫn không nói bạn là phân thân Phật chỉ nói quyến thuộc mà thôi. Trong văn các phẩm đều nói nhóm tập các Bồ-tát. Nhà chú giải nói: Đạo chẳng tồn vong, xưa nay cùng một lý lẽ. Vậy thì đất nứt tháp vọt hiện để tiêu biểu Song lâm bất diệt, lại kéo dài tiếp ảnh hưởng vi diệu thân một trượng sáu không phải sinh cho nên nói Phẩm Kiến Bảo Tháp. Nay cho là tháp của Phật xưa, Phật nay ngồi là tiêu biểu xưa nay thật đạo bất sinh, chưa hẳn dự báo song lâm bất diệt. Nhất vãng quán đó, nghĩa là nay Phật hiện tại vào tháp của Phật xưa đã diệt độ, là tiêu biểu diệt mà bất diệt. Nay cho là không như vậy. Tháp Phật xưa hiện ra là chỉ bày diệt mà bất diệt, đức Thíchca vào tháp là chỉ bày sinh mà bất sinh. Bất sinh bất diệt cho nên đều ngồi để tiêu biểu.

Nhóm tập phân thân mời gọi bản quyến thuộc, chính hiển bày Xána chẳng thành, lẽ nào chỉ có thân trượng sáu thị hiện diệt? Người khác hỏi: Đại chúng thấy tháp vì căn hay thức hay tháp khiến thấy? Rộng căn cứ Thí loại để phá nghĩa tự tha, người này sâu xa không hiểu đại chỉ của kinh sau ba chu dù có phàm phu đều khác biệt phàm thấy, nhưng trong đó luận quán pháp gia-bị hạng độn căn đời mạt pháp. Phật hiện đời chúng đương cơ đâu nhọc thiết lập đây! Hiểu rõ kinh quán hạnh lý hợp như vậy. Phàm các nhà giải thích kinh nếu không có cái nhìn thông suốt thì khiến người hậu học sau không tập quen lề lối tông môn. Nay chinh là làm chứng kinh, phụ thêm luận sở biểu.

Có người hỏi: Mời gọi cổ Phật nhóm tập phân thân, thân vì sao nhiều, tháp vì sao chỉ một? Nay vì đáp chứng minh kinh nghĩa đủ, cho nên Bảo tháp không nhiều mà hợp nguyện của Phật Đa Bảo, cho nên phân thân không phải một. Nếu như để chứng kinh cần phải nhóm tập nhiều tháp, thì tháp lẽ nào không thể nhiều? Đã năng ứng hiện mười phương tin biết thì tháp cũng chẳng phải một, cho nên phân thân là hóa tháp cũng thích hợp quyền.

Nay từ sở biểu, một thân Đức Phật nay mà nhóm tập nhiều thân, là ngầm biểu tích dụng thì chẳng phải một. Cổ Phật nhiều, tháp chỉ thị hiện một tháp, là hiển biểu thật lý không hai, huống chi từ đất tại hư không và các thứ trang sức đều chẳng uổng vậy. Hiển rõ việc đây: ba đời chư Phật chuyển pháp luân… đều đến Pháp Hoa nói việc xuất thế, cho nên nay kinh văn thêm “Tứ chi trưng”. Dẫn “kinh Anh lạc…”: là Vị nhân, dùng để so sánh phước làm sinh thiện. “Thiện Cát hỏi…”: Phẩm cúng dường xá-lợi thứ chín nói: Đức Phật nhân Thiện Cát hỏi: “Cúng dường xá-lợi toàn thân và toái thân của Sinh thân và Pháp thân, đồng hay khác?” Đức Phật rộng so sánh, nói: “Như xây tháp cúng dường xálợi của một đức Phật đầy khắp một tứ thiên ha, không bằng cúng dường sinh thân, do sắc thân có xá-lợi. Lại xây tháp đầy khắp đại thiên để cúng dường sắc thân, thì không bằng cúng dường pháp thân, do pháp thân có sắc thân”. Nên biết thấy sắc không bằng nghe kinh, do vì nghe kinh có pháp thân. Cho nên kinh thiên, viên tức pháp thân toàn thân và toái thân, công đức không bằng nhau. “Đảnh vương…”. Từng xét nghiệm Đại thừa Đảnh Vương kinh và Phương-đẳng Đảnh Vương kinh đều một quyển, đều chưa thấy có nghĩa này.

Ý vấn nạn: Giáo cùng xá-lợi thời đồng, lợi ích đồng thì tại sao được không bằng nhau? Đáp: Xá-lợi thời đồng cũng là lực sinh thân. “Bắc địa sư…”: Phá lầm chê sai, nghĩa đương phá ác tức đối trị.

Nói “Thuyết kinh xong”: Ý nói chánh kinh đã xong. “Địa sư…”:

tiêu biểu thân bất nhị, do xứng lý cho nên thuộc Đệ nhất nghĩa. “Thích luận…”: chứng minh Địa sư sai. Sư nói là Nam Nhạc vậy. Tuy nói ba thân mà ý đem Pháp Báo thân để bài xích Địa sư. “Không đến”: Là không hợp phương Đông đến. “Không xuất”: Không ứng dõng xuất. “Nguy nguy”: Không ứng trong tháp. “Ứng thân”: Không ứng chỉ có như thế. Nếu tức là những thứ này, thì theo như Nam Nhạc thuật ba thân thắng tướng. Nếu đó thẳng nói Đa Bảo là pháp Phật, thì chắc chắn không thể. Còn chẳng phải ứng thân, lẽ nào đủ ba thân? Cho nên, biết Đa Bảo là pháp thân thì chưa cùng tận ý chỉ kinh. “Chỉ là biểu thị…”: chỉ dùng các việc của đức Thích-ca để tiêu biểu lý đáng. Vì thế, biết không phải thẳng đến chứng minh mà chính là tiêu biểu kinh thường. Cho nên Đa Bảo tiêu biểu pháp và đủ ba thân. Đa Bảo đã diệt từ lâu, nay xuất hiện chứng minh kinh, là nghĩa “sinh bất sinh”. Khi xưa diệt độ, nay còn hiện toàn thân, tức nghĩa “diệt phi diệt”. Đã không phải sinh diệt thì thường trú không đời đổi, có thể tiêu biểu Pháp thân. Đức Thích-ca nhập tháp hai thân tướng xứng, như trí xứng cảnh cho nên có thể tiêu biểu Báo. Phân thân tiêu biểu Ứng thân, văn lý tự thành. Như cảnh trí tương minh cho nên năng khởi ứng. “Tam Phật” đến “mà không một không khác”: năng biểu trong ba thân đều có ba cho nên “không một”, sở biểu trong ba đều là một cho nên “không khác”. Lại, ba thân trong năng biểu khác nhau nên “không một”, pháp thể đồng cho nên “không khác”. Lại, trong sở biểu cũng do thể đồng cho nên “không khác”, do thân khác biệt nên “không một”. Lại hóa đạo biệt cho nên “không một”, chung thành tựu đây cho nên “không khác”. Tóm lại, tức ba mà một cho nên “không khác”, tức một mà ba cho nên “không một”.

Trong cụm từ “Kiến bảo tháp vân vân” thì “vân vân” là: Ở bốn văn trước nêu bày bốn tướng để hiểu rõ bốn văn, lược như trước giải thích, bốn đều thuộc Viên. Từ “Tháp hiện ra có hai việc…”: Theo thứ tự: căn cứ giáo bản tích: Đầu, song nêu hai nghĩa; tiếp, giải thích xuất hai ý. Trong giải thích lại có bốn: 1) Chánh giải thích. 2) “Nếu tháp từ đất…”: là biện rõ đồng khác. 3) “Nếu tháp đến…”: là phân biệt hiển mật. ) “Nay chọn…”: là giải thích ngăn ngại.

Văn đâu lại có hai: Đầu, nêu tháp xuất hiện là chứng minh trước, khởi sau. Tiếp, nêu tại hư không để tiêu biểu hai ý. Cho nên, hai văn đều dùng chứng trước là đương căn cứ giáo, sau khởi sẽ là bản tích. Đầu tiên, chứng minh trước, trong đó có hai: Trước xét theo chân thật. Tiếp, căn cứ “đại tuệ”. Do hai thứ đây là Đa Bảo chứng minh nói. Văn đầu có ba phần:

  1. Chỉ ba chu đều viên thật.
  2. Biện rộng lược.
  3. Chỉ bày lưu thông.

Phần một như văn. Văn tiếp: Trước lược sau rộng. Lược: Đã lần nữa lại thuật chứng chỉ có thể theo lược, cho nên chỉ nói chân thật. Huống chi ở trung đạo và rộng đều căn cứ sở phi. Sở phi ắt nhiều, năng phi chẳng phải một. Cho nên trong ba chu tuy hoặc Tứ nhất hoặc mười hoặc nhiều, không ngoài thật tướng. Tiếp ở trung đạo trong đó, nói “Bát bất”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 6 dẫn văn Trung Luận. Trung Luận hiển lý cho nên dùng Bát bất để tán thán Phật. Tháp chứng Kinh trung đạo cũng là Bát bất tán thán thật. Cho nên việc tháp xuất hiện lại tiêu biểu Bát bất. Do nghĩa đồng cho nên nói tháp từ dưới đất vọt hiện.

“Lại chứng…”: là chỉ bày chứng lưu thông cũng là chân thật.

Hỏi: Vì sao không chứng tựa?

Đáp: Hai đoạn đã thật thì tựa kia lẽ nào dối?! Nếu vậy thì sao không đợi đến cuối phẩm An Lạc Hạnh mới vọt hiện ư? Đáp: Do trong Pháp Sư nêu đủ phương pháp người và pháp, các nhân quả Thầy trò của hiện tại, vị lai và dùng xứ sở Thiên, Long làm hộ trì, hóa nhân tập hợp nghe kinh, đủ biện minh việc hoằng kinh nên Đa Bảo xuất hiện chứng minh. Chứng rồi sai tìm người hoằng thông nên dẫn phẩm Đạt Đa đến để chứng minh lợi ích của đức Phật nay, mà khuyên lưu thông, đề cao người trong phẩm Trì để chứng minh người hoằng kinh mà khuyên lưu thông. Tuy vậy chưa có pháp bắt đầu thực hạnh hoằng thông, cho nên lại nêu An Lạc Hạnh. Nên An Lạc Hạnh chưa liên quan đến phẩm Dũng Xuất. Tiếp căn cứ “Đại tuệ”, “Chân thật”: thông tuy tứ – nhất, biệt tại sở hiển, cho nên trước tán thán Đại tuệ, tiếp tán thán pháp sở thuyết sở hiển.

Đại tuệ chỉ là chủng trí trước đã giải thích đầy đủ, nay chỉ lại cùng Bất cộng Bát-nhã biện rõ đồng khác thôi! Trong đó:

  1. Hỏi
  2. “Thích luận…”: là đáp.
  3. “Như nhất…”: là thí dụ. Bát-nhã kia và Đại tuệ đây đều năng nhập. Nói diệu pháp nhất phần thông trí.
  4. “Phải biết…”: là kết hai văn ý đồng.

Tiếp, “Khởi sau nêu bản”: Đối tích nêu bản, có thể gọi là Bản tích. Trong đó có hai: Nêu nguyên do khởi các việc sau, do tháp xuất hiện nên thỉnh mở, do tháp mở nên thấy Phật, do thấy Phật nên thỉnh gia-bị, do được gia-bị nên ơ tại hư không, do tại trên không nên bảo chúng đến, do bảo chúng nên âm thanh thông suốt, do âm thanh thông suốt nên chúng đến, do chúng đến nên sinh nghi, do sinh nghi nên vì nói. “Tỏ rõ sự phó chúc mầu nhiệm…”: lược nêu đề kinh huyền diệu tóm thâu một bộ, do nên nói “Đức Phật muốn dùng diệu pháp đây…”.

Nói “Tháp lâu xa…”: là nêu năng khởi sở biểu, tiêu biểu Bản địa lợi ích ba đời. Từ lâu đã diệt nay xuất cho nên nói “thần thông”. Hiện được lơi ích tại thuyết cho nên nói “âm thanh”, thệ nguyện không ngừng cho nên nói “tận vị lai”, dùng đây để khởi các việc kia cho nên nói “khai”.

Hỏi: Trong kinh chỉ nói “Đại tuệ chân thật”, có xứ nói “chứng minh nghe nói cho nên xuất”, đâu có nói “chứng trước và khởi sau” ư!

Đáp: Văn thì không nhưng lý thì có, từ trong đây xuất tìm tán thán chân thật, cho nên biết là “chứng trước”, như nêu rõ nguyên do khởi các việc tức là “khởi sau”.

Tiếp, tại hư không cũng đầu tiên căn cứ giáo, “Thất phương tiện” người thấy lý viên. Tiếp, “Tu đắc…” là bản tích, cũng trước trình bày tích. Tiếp, “Nếu phát…”: là nêu bản. Trong phần giải thích theo Quán tâm đã nói y kinh tu quán. Phải biết mỗi kinh đều có thể tu tập, vì sao chương sớ đều không liên quan nói? Cho nên, tông đây theo hành giải không bỏ, hiểu rõ văn, lý quán hai nghĩa không thiếu. Người mong nhớ Đạo, tôn kính còn thế huống chi mỗi lần thấy tôn chỉ đây thì hận mình chưa thấm tỏ, loanh quanh tư duy cung kính đảnh lễ kinh trọn đời. Trong đó có ba:

1. Nêu ba thân đều có năng biểu và dùng sở biểu. Đầu tiên nêu lấy quán làm nhân đắc pháp thân quả, khi đắc pháp thân không riêng chỉ pháp thân nên nói cảnh trí ắt hội nhập. “Như tháp…”: là năng biểu. “Cảnh trí…”: là báo thân. “Như Thích-ca…”: là năng biểu, “do đại báo…”: là ứng thân. “Như phân thân…”: là năng biểu.

2. “Do Đa Bảo…”: là tổng nêu tiêu biểu. Phải biết căn cứ quán trì kinh mới đủ ba thân.

3. “Kinh Phổ Hiền Quán…”: là dẫn chứng, đắc ba thứ thân đều là Phương-đẳng Đại thừa giáo.

Tiếp “Có người…”: là nêu xưa phân văn. Phẩm này trở xuống nên nói mười sáu phẩm. Trước, từ “Di-lặc hỏi” trở đi chỉ có mười phẩm. Đây là ý của Lô Sơn Long Thọ. Nói “rất sớm vân vân”: lẽ ra trình bày văn trên dưới cùng phân tề để chứng minh, thì Sư đây phân văn rất sớm. Như phá ý “Tư thổn” làm mẫu của Quang Trạch bên trên. Đây tạm căn cứ danh bản tích để phá. Nhưng căn cứ ý Sư đây nói “căn cứ thân”, dùng Đa Bảo làm bản Thích-ca làm tích. Trước căn cứ nói: Đức Thíchca tự nói ba chu khai quyền và để lưu thông, nay sở dĩ từ danh phá, là do Sư đây không biết kinh này hiển xa, các kinh khác không có, mới mong một đời và trước tích môn mới thọ danh bản; tại sao cần ở đây tức nói bản tích? Nếu ý dự định mật báo thì có thể đúng. Đối đây phân văn, cho nên trở thành “rất sớm”.

“Bảy báu làm tháp”: Tức Thất giác và Thất Thánh tài. Thất thánh tài nghĩa là văn (nghe), tín, giới, định, tiến, xả, tàm. Tùy giáo vị kia mà nêu bảy thứ sâu cạn. Đã là bảy báu của tháp Phật lại chứng minh thật kinh tức đều dùng vô tác Thất giác, Thất tài. Trong vô tác còn cần tánh đức, huống gì tu đắc. Thất giác, Thánh tài đều tu đắc. Tuy phân báu sai biệt, mà bảy báu tức tháp năng sở không sai biệt. Nhưng tháp là sở y, nghiêm là năng y.

“Cao năm trăm do tuần…”: Đã là tháp sở biểu cần đều viên giải thích. Dọc tức trong nhân vọng quả, vạn hạnh một hạnh tất cả hạnh. Báo đáp trong nhân quả vạn đức một đức tất cả tức, từ đầu đến cuối gọi đó là “dọc”. Đương vị đầy đủ gọi đó là “ngang”. Phàm tất cả hạnh trải duyên đối cảnh đế duyên độ…, đều trang nghiêm từ nhân đến quả, hoặc ngang hoặc dọc đều cần phải hữu thể, mới có thể gọi là “vạn thiện trang nghiêm”. “Địa”: Là dừng trụ đệ nhất nghĩa không, nhưng thể vô minh tức đệ nhất nghĩa không, nên vô minh vô sở phá, cũng vô sở trụ. Cho nên đệ nhất nghĩa không tức vô năng trụ, vô năng trụ nên địa đã không phá mà phá, Không cũng không trụ mà trụ. “Các món…”: Định tuệ không có nhiều đối với tối tăm, tán loạn mà nói. Lại định tuệ khắp nhiếp nên cũng nói là nhiều, đầy đủ như trong Chỉ Quán phần Nhiếp pháp nói. “Nhà Vô lượng từ bi”: dùng khám làm nhà, cho nên nói “khám thất”. Lập lại nói “cũng là”: lập lại giải thích thất (nhà), thất cũng gọi là “xá”. “Tràng” là giống như phan, như trong phần Đại Trưởng giả nói. “Chuỗi ngọc báu rủ xuống…”: Từ nhân đến quả, quả đức đều nhờ vạn hạnh trong nhân do trang nghiêm cho nên tức năng hạ hóa. Như nghiêm sức rủ xuống. “Bốn mặt…”: Tức vô tác tứ đế. Do “gió đạo tứ đế” tứ phương thổi hương thơm bốn mặt bốn đức, đầy mà lại khắp, tức là lý bốn đức thiên nhiên, nhờ tu đức để che phủ xa. “Bình đẳng có hai: Pháp bình đẳng”: Đại tuệ sở quán lý. “Đồng đắc”: Đều dùng nhân lý để đến quả. Nếu lý sở quán cùng chúng sinh sai khác thì không gọi là Đại tuệ. “Như thế! Như thế: 1) Như pháp tướng”: Tán thán Phật sở thuyết xứng thật. “2) Như căn tánh”: Đến thời thứ năm không sai cơ.

Trong “Trước, đáp câu hỏi thứ hai”: Hỏi đầu tiên nói đất vọt lên, đây nói Đông phương là đâu?

Đáp: Đông thuật bản duyên, dũng (vọt) trình bày nguyện xưa.

Nếu sở biểu, thì: Mới bắt đầu tiêu biểu “khai”, địa dũng (đất vọt hiện) là tiêu biểu “hiển”.

“Bảo các Tỳ-kheo…”: Nghiệm đủ bốn chúng đều thuyết pháp. “Nên biết là Đa Bảo”: Hỏi: Mười phương thế giới lẽ nào không có một đức Phật không được khai hiển? Không khai hiển: thì đều nên phát nguyện đâu riêng Đa Bảo? Nếu không phát nguyện thì Phật đạo không đồng. Nếu phát nguyện thì đều hợp nghe kinh. Lại chư Phật giáo hóa đều biết trước căn cơ, lẽ nào thành Phật xong mà không được khai hiển, mới bắt đầu phát nguyện?

Đáp: Đồng cùng không đồng, khai cùng không khai, có nguyện không nguyện đều là tùy duyên. Nếu thích nghi có nguyện thì thảy đều đến hết, tại sao lo không nhóm tập? Sau mới phát nguyện cũng là xét vật.

“Ba lần biến thành Tịnh độ do Bối xả…”: Hỏi: Phật có sức Lăngnghiêm Tam-muội, vì sao vẫn dùng Tiểu thừa sự thiền ư? Lại biểu hiện phá tam hoặc, lại không phải sở trị ư?

Đáp: Là định Thánh hạnh dẫn dắt nhân thành quả, quả địa sự dụng không sai ở lý, tức trong Lăng-nghiêm đầy đủ các Tam-muội. Chẳng phải lúc xưa nhân thấy thiền pháp giới, lẽ nào Bối xả… biến quá tam thiên? Nhưng hóa Phật sự nên phụ thêm tiểu danh. Cho nên trong Đại luận cũng là chuẩn theo tiểu. Vì thế, muốn được tự tại thì tu Thắng xứ, muốn đắc rộng khắp thì tu Nhất thiết xứ. Nếu chỉ tiểu dụng thì chỉ có tam thiên.

“Lại, đầu tiên một biến…”: là tiêu biểu phá tam hoặc. Vì rằng trong Lăng-nghiêm tức sự của Lý, không ngăn ngại mỗi mỗi đều phá tam hoặc, huống chi nay Tam-muội thẳng luận công dụng. Phá hoặc chính là sở biểu mà thôi; tiêu biểu trước phá rồi tiêu biểu sau lại phá. “Như ý trong Tăng dữ dục”: không hẳn hoàn toàn đồng pháp sự trong Tăng, cho nên nói “như”. Đa Bảo nguyện lực cần chư Phật tập hợp, lại khiến cho thời hội biết phân thân nhiều, cho nên chư Phật đây vì mở tháp nên vân tập. Vân tập lại không đến chỉ sai thị giả truyền lời hỏi han… tướng trạng “như dữ dục”, cho nên các thị giả chỉ trình bày hỏi thăm, không có lời thuyết dục. “Kinh Đại Tập nói: Bao nhiêu Phật dữ dục”: ở hai cõi Dục, Sắc dừng lại giữa hư không lớn, rộng vân tập mười phương hết thảy chư Phật. Quyển hai mươi mốt nói: Phương Nam có Đức Phật tên là Kim Tạng, các Bồ-tát ở cõi kia thấy hào quang rồi hỏi đức Phật kia, đức Phật kia đáp: Thế giới phương Bắc có đức Phật tên là Thích-ca Mâu-ni muốn vì đại chúng nói pháp phá đại kiêu mạn, liền sai sứ tuân theo ta sách dục, ta nay dữ dục. Các phương khác cũng lại như vậy, đều khiến một vị đại Bồ-tát cùng mười hằng sa chư Bồ-tát đồng đến cõi ấy dùng kệ tán thán, cũng không có lời thuyết dục khác nhau. Kinh Đại Phẩm cũng nói Ngàn đức Phật đồng thuyết. Nay đã khai quyền, tiếp muốn hiển viễn, khiến chư Phật đạo đồng, cho nên khiến chư Phật dữ dục.

Có người hỏi: Chúng đều ở tại hư không, phân thân vì sao còn ở tại mặt đất ư? Nay đáp: Thời chúng đã nghe tích môn khai quyền, bắt đầu nhập cõi Tịch Quang, cho nên dùng “ở tại hư không” để tiêu biểu, Phân thân chỉ bày tích đều có ở cõi sở hóa, cho nên ở tại mặt đất để tiêu biểu. Lại nữa đức Thích-ca không lâu đã hiển bản cũng trước ở hư không để tiêu biểu, đều có kia đến không cần nghi.

“Bấy giờ đức Thích-ca…”: cũng căn cứ sở biểu vì khai quyền. Đa Bảo vốn làm chứng kinh cho nên đến, nên khiến chúng thấy. Phật thân tiêu biểu thật, tháp mở tiêu biểu quyền, cho nên mở tháp tiêu biểu khai quyền, thấy Phật tiêu biểu hiển thật. Có người đối với điều này lập Bản Tích thì không đúng, vì văn nói về bản tích ở dưới.

Hỏi: Phàm nói bản tích thì bản nên thắng tích, vọng dưới bản môn thì Thích-ca hiển bản, Xá-na còn tích, vì sao tích hơn mà bản kém ư?

Đáp: Nghĩa đây không như vậy, Xá-na là tích trong tích, khi tự vọng bản, Xá-na là bản, Thích-ca khai rồi vọng tích thành diệu, Xá-na tích diệu, tích diệu còn thô, đầy đủ như trong Huyền Văn bản môn thập diệu nói.

Kinh nói “Thấy hai vị… ngồi kết già”: Pháp Hoa luận nói: Vì hiển ba thân làm thành đại sự. “Tám vạn hai vạn”: tám vạn tại đầu phẩm Pháp Sư, hai vạn tại đầu phẩm Trì. Phần thứ hai trong kệ có tám hàng rưỡi tụng phân thân Phật vân tập, văn trên có bảy. Nay tụng rất lược vẫn không có thứ lớp. Ba hàng đầu tụng ý thứ hai nên vân tập, nghĩa bao gồm Đại Nhạo Thuyết muốn thấy và vì thỉnh vân tập. Tiếp, một hàng tụng cõi tịnh. Tiếp, bốn hàng rưỡi tụng chư Phật đồng đến, nêu khó trì trong đó kinh nói tám vạn bốn ngàn đều không bằng, gọi tám vạn không hẳn hoàn toàn lớn, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một dẫn Câu-xá, các Kinh Báo Ân…, cho đến mười hai bộ cũng thông Đại tiểu, đầy đủ như Huyền Văn nói pháp Diệu. Chỉ khiến cho người khác đắc tiểu lục thần thông cũng chưa gọi là khó. Hoặc đứng nơi hữu đảnh, đây căn cứ người không đắc thông làm ví dụ so sánh. Cho nên biết Viên kinh tạm đọc tạm nói, thật là không dễ. Nếu có người năng trì thì trì Phật thân, tức là thể, tông, dụng ba thứ; y, tòa, thất ba thứ tức ba thân đó vậy.

GIẢI THÍCH PHẨM ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA

Trong chú giải bốn giải thích chỉ không có Quán tâm. Đầu tiên, trong giải thích theo Nhân duyên chỉ thông nói cảm ứng, cho nên nói “sinh thời…”:

Hỏi: Người ác xuất thế, sao gọi là cảm ứng?

Đáp: Khiến vô lượng người không dám tạo ác. “Thiên nhiệt”: Là theo sự mà nói đó thôi!

Hỏi: Vì sao không có nói tứ Tất-đàn?

Đáp: Nghĩa lập chẳng phải không có. Người thấy thích bản thân mình không làm tức Thế giới Tất-đàn, không tác thiện sinh tức Vị nhân, không tạo ác biên tức Đối trị, không chướng quả sự tức Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.

“Nhân hạnh…”: là căn cứ giáo. Lý thuận tức Viên giáo, sự nghịch tức tam giáo. Chỉ có Viên giáo ý nghịch tức là thuận, tự ba giáo còn lại nghịch thuận định. Trong Bản tích nói “đồng bệnh với chúng sinh”; Đại kinh nói Đề-đạt-đa chắc không phá Tăng. Kinh Báo Ân nói: Nếu có người nói Đề-bà-đạt-đa thật là người ác đọa ngục A tỳ, thì không có việc đó. Kinh Đại Vân nói: Đề-bà-đạt-đa bất khả tư nghì, chỗ tu hành nghiệp đồng với Như Lai. Các chương cũ, mới đều nói La-thập dịch vốn không có phẩm này, đều căn cứ Tề Tống lục nói: Chùa Thượng Định Lâm Thích Pháp Hiến ở nước Vu-điền nhận được bản Phạn văn. Chùa Ngõa Cung, Sa-môn Thích Pháp Ý đời Tề niên hiệu Vĩnh Minh tháng 12 năm thứ 8 dịch xong, vẫn tự riêng làm. Đến đầu đời Lương, có Mãn Pháp sư giảng kinh một trăm biến thiêu thân tại chùa, đem phẩm này đặt trước phẩm Trì, cũng chưa lưu hành thiên hạ. Đến cuối đời Lương, ở nước Tây Trúc có Sa-môn Câu-la-na-đà, đây gọi là Chân Đế dịch lại phẩm này, để sau phẩm Hiện Bảo Tháp. Nay cho rằng nếu căn cứ Chánh Pháp Hoa, thời Tây Tấn dịch đã có phẩm này thì bản gốc Phạn văn chẳng thể không có. Nếu quan sát phần dịch thì hoàn toàn tợ như thể văn của ngài Thập Công. Nếu cân nhắc theo ba nghĩa của Gia Tường:

1. Tương truyền ra nước ngoài, từ Lưu Sa về sau phần nhiều không có phẩm này, sợ Ngài Thập Công chưa thấy. Nay cho rằng Thập Công đích thân đến Ngũ Thiên trúc, đâu riêng gì vùng Lưu Sa.

2. Tháp Công dịch kinh phần nhiều ưa tóm lược, như lưu Trí Độ, Bách luận. Đây cũng không đúng, vì Tây phương ưa rộng, chỉ lược phần lập lại, đâu có thể hoàn toàn bỏ chánh văn một phẩm.

3. Nói rằng Bảo Tháp bảo người, thì phẩm Trì nên là bảo, dùng phẩm Đề-bà xen giữa thì hoàn toàn thành thừa kinh, tại sao đem để đây? Văn nay không thể nói Chân Đế dịch lại. Lại nói riêng ngài Nam Nhạc sắp xếp, nếu chắc Chân Đế lại dịch không hư dối, thì đâu ngăn ngại bản dịch Giang-đông chưa có? Lấy đây mà nghiệm, bèn trở thành ba người đều khế hợp kinh lý; tức đối với ba nghĩa của Gia Tường, thì hoàn toàn không thể nương tựa.

Thiêp Pháp sư nói: Không hợp để đây, thọ ký Điều-đạt nên để trong phẩm Thọ Học Vô Học ký, sau Trí Tích về sau nên để trong phẩm Thần Lực. Nay cho là nếu vậy thì Vu-điền lẽ ra đem cả hai bản kinh đến, Pháp ý bèn trở thành có lỗi bổ sung. Nếu vậy thì sao không thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa trong phẩm Thọ Học Vô Học ký? Vô Học đem nhập vào trong một ngàn hai trăm, Học nhân tự làm một phẩm, huống chi là Đề-bà-đạt-đa không thể nói đắc quả ư! Mà bỗng đặt trong Học, Vô học thì hai còn hai mất: Văn nói: Kinh này trải qua năm năm dịch, Đông An Pháp sư nói trải qua bảy năm ba tháng mười sáu ngày dịch xong. Ngài Tuệ Viễn dịch tựa kinh đồng nói dịch xong vào tháng 2 năm Hoằng Thủy thứ mười; việc không đồng chưa thể truy tìm. Ngài Trúc Pháp Hộ dịch xong vào ngày 11 tháng 8 niên hiệu Thái Khang, làm thành mười một quyển, gọi là Chánh Pháp Hoa, cũng nói tám quyển, cũng rút ra trong Nhiếp Đạo chân Lục, hai bản này vẫn còn.

Tiếp, có Sa-môn Chi Đạo Căn thuộc đời Tấn niên hiệu Hàm Khang dịch làm năm quyển gọi là Phương-đẳng Pháp Hoa. Có Sa-môn ngoại quốc tên Chi Cương Lương tiếp đời Ngụy niên hiệu Cam Lộ tháng 7 ở Giao châu dịch, Sa-môn kia tên Thích Đạo Phu viết chép chia làm sáu quyển tên Pháp Hoa Tam-muội, rút ra trong Diệu Lục Ngụy Lục. Vũ Khưu Đạo lượng nói có năm bản, gồm bốn bản như trước và thêm một bản Tát-vân Phân-đà-lợi, đã có ở đời bèn thành ba bản còn giữ. Ngài Duệ Công mở ra Cửu triệt. Ngài La-thập vừa dịch xong thì Duệ Công liền đem giảng, khai làm Cửu triệt, người bấy giờ gọi tên ngài là Cửu Triệt Pháp sư: Hôn Thánh tương khấu triệt tức phẩm Tựa, tiếp có bảy triệt tức là phần Chánh tông:

  1. Là Thiêp giáo qui chân triệt vì hàng thượng căn tức phẩm Phương Tiện.
  2. Hưng loại tiềm chương triệt vì hàng trung căn tức phẩm Thí Dụ.
  3. Thuật cùng thông tích triệt, trung căn lãnh giải, là phẩm Tín Giải.
  4. Chương nhân tiến ngộ triệt, vì hàng hạ căn, tức các phẩm Hóa Thành, Thọ Ký.
  5. Tán dương hành lý triệt, tức phẩm Pháp Sư vì Như Lai sứ.
  6. Bản tích vô sinh triệt, tức phẩm Đa Bảo, Đa Bảo bất diệt, Thíchca bất sinh, Đa Bảo là bản, Thích-ca là tích, bản đã bất diệt, tích lẽ nào có sinh? Bản tích tuy khác nhưng bất tư nghì nhất.
  7. Cử nhân trưng quả triệt, tức các phẩm Dũng Xuất, Thọ Lượng: Di-lặc nêu nhân trưng quả, Phật nêu nguyên do thọ lượng nhân quả.
  8. Xưng dương viễn tế triệt, tức phẩm Tùy Hỷ cho đến hết kinh thuộc phần lưu thông. Danh mục rất hay mà tông thể không hiển.

Duệ Công lại có hai mươi tám phẩm sinh khởi, rất có rõ ràng như trước mắt đối nay không ngại, nhưng tôn chỉ phẩm chưa được rõ, mà mục đích không nói đến viễn bản chỉ nói đến nhân quả, tại sao thành phát tích? Tứ độc: Giang, Hà, Hoài, Tế; ý nói thiên hạ đại đồng. “Đềbà-đạt-đa… làm ngũ nghịch”: Câu-xá luận nói: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Nay đầu tiên nói phá Tăng, lược như trước trong duyên Mục-liên và Chỉ Quán quyển một nói. Xuất huyết: Như đức Phật ở ao A-nậu-đạt bảo Xá-lợi-phất: Đời xưa ở La-duyệt-kỳ có trưởng giả tên là Tu-đàn giàu sang bảy báu có người con tên là Tu-ma-đề, sau khi cha mạng chung có người em khác mẹ tên Tu-na-xá, Tu-ma-đề lập kế không chia gia tài cho em khác mẹ ấy và muốn giết hại em, liền nói với em rằng đến núi Kỳ-xà-quật cùng anh nói chuyện, người em nghe theo liền đến đúng hẹn, người anh đẩy em xuống vực núi bị đá đè chết. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất, trưởng giả lúc bấy giờ nay là Đại Vương, Tu-ma-đề tức là thân ta, người em khác mẹ tức là Điều-đạt, do nhân duyên đó nên trải qua vô số kiếp ta bị đọa trong ngạ quỉ vào trong địa ngục. Do duyên còn sót lại nên ta ở trong núi Kỳ-xà-quật kinh hành, Đề-bà-đạt-đa ở trên núi cao đem tảng đá dài ba trượng rộng một trượng sáu ném lên đầu ta. Thần núi Kỳ-xà-quật tên là Bễ-la lấy tay đỡ đá nên viên đá nhỏ rơi xuống làm tổn thương ngón chân cái của đức Phật làm chảy máu. Kinh Hưng Khởi Hành nói: Đề-bà-đạt-đa xúi A-xà-thế thả voi say hại Phật, đầy đủ như trong Thích Tiêm quyển ba nói. Các văn khác có thể thấy, nêu đủ trong các kinh luận. Luận Câu-xá Phẩm Nghiệp nói: Ngũ nghịch đều là nghiệp chướng. Nhiếp căn cứ xứ, người thì trừ Bắc Câu-lô châu, xét theo người trừ Phiến-đệ, bốn thân một ngữ nghiệp, ba sát một hư cuống một sát sinh gia hạnh, vô gián một kiếp thuần thục, tùy tội tăng thì khổ tăng. Nhập Tỳ-kheo phân hai dùng làm sở phá Tăng.

Nói “Nếu làm…”: như văn. Điều-đạt chỉ có ba nghịch: phá Tăng, làm Phật chảy máu giết A-la-hán, và hai phương tiện giết: thả voi say, tẩm độc vào móng tay. Chánh gồm phương tiện lại nói năm, có đồng loại ngũ nghịch là ô nhục mẹ, Vô học ni, sát trú định Bồ-tát và Thánh giả Hữu học, sát Thánh giả Hữu học, là sát đồng loại La-hán, đoạt duyên tăng hòa hợp, là phá tăng đồng loại, phá hoại Tháp là xuất huyết đồng loại (đồng loại với làm thân Phật chảy máu: Không dùng voi thả tẩm độc và móng làm đồng loại tức, kia là phương tiện chẳng phải đồng loại. Nhập Đại Thừa luận hỏi: Đề-bà-đạt-đa kia đời đời bị Phật oán vì sao gọi là Đại Bồ-tát? Luận đáp: Nếu là oán tại sao mà được đời đời gặp nhau, như hai người cùng đi Đông Tây mỗi một bước chuyển xa đâu được gọi là bạn. Duyên ngũ nghịch đương nhân duyên giải thích.

“Nếu giải thích theo Bản tích”: Trước trong chú thích Đề, lại đều lược thuật xong. “Lai ý của phẩm này…”: riêng nêu “Lai ý”. Nghiệm thấy ba ý của Gia Tường, hoàn toàn không có nguyên do. Trong cụm từ “Có thể dùng ý mà biết vân vân” thì “vân vân” là: lẽ ra lần nữa lại trình bày Văn-thù là du phương Đại sĩ, hoằng kinh khắp mười phương cho đến vào biển chỉ thường tuyên giảng kinh Pháp Hoa, cho đến tất cả các kinh Đại thừa, Văn-thù đều là chúng phát khởi. “Độ có nghĩa rất nhiều…”: Đại luận bắt đầu từ quyển mười lăm cuối đến hai mươi mốt rộng giải thích Lục độ, trong mỗi một độ đều còn các giải thích. Đây góp đại lược kia, văn tương hiển ghi chép chia làm bốn loại, cũng chẳng phải nhất xứ thứ lớp nêu bày. Nếu muốn dựa theo biết thì tìm bản văn luận. Các nhà lấy bỏ rộng lập nghĩa môn, tạp dẫn đại tiểu không thể nhậm chứng cứ, không biết vì sao là Thích-ca sở hành đầy đủ, khiến một nhà lập giáo thì thể tướng có thể biết. Tích chỉ bày bốn tướng, Bản hạnh chỉ có Viên. Đầu tiên, trong Tam tạng có hai phần:

  1. Lược giải thích.
  2. Phân biệt. Phần đầu lại có hai:
  3. Thẳng nêu sáu tướng.
  4. Lược thập thiện làm lục độ, do lục độ đây thuộc pháp thế gian, vả lại vì thập thiện thế gian mà dùng đối. Phân biệt: Dẫn kinh Thiện Giới tự khai ba thứ: Trong văn trước nêu “Đối trị” tức sở trị. Tiếp “Tướng sinh”: Căn cứ hành thứ lớp. Trong “Quả báo”: nói “đầy đủ” nghĩa là các căn đầy đủ, “Sắc” nghĩa là đoan chánh, “lực” thuộc tinh tấn. “Nếu nói….”: nói sáu độ mỗi độ đều có mười gọi là xuất Địa Trì Hoa Nghiêm. “Kinh Nguyệt tạng…”: thuộc Viên giáo. Trong đó trước trách tâm thế gian. Tiếp khiến y đệ nhất nghĩa để thành Ba-la-mật: Nghĩa là chỉ dùng sơ tâm nhất niệm đầy đủ thì một sắc một hương đều là Thập độ.

“Hoa Nghiêm…”: nhờ giáo đạo kia địa vị sâu xa để chứng minh sơ tâm của người Viên giáo, nghiệm biết Hoa Nghiêm còn nơi giáo đạo, biệt nghĩa nêu rõ. Nếu nói theo Viên cực thì lẽ nào đến thất địa mới đủ mười ư? Cho nên trong kinh Địa Trì nói niệm niệm đầy đủ mười. Sáu cùng mười khai hợp không đồng, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Nếu niệm niệm đủ mười thì hạnh nào niệm nào lại không đủ mười? Một hạnh tất cả hạnh là nghĩa đây vậy. Trong kinh dùng (do) trì Bát-nhã để so sánh vượt qua xả hằng sa thân, chính là do thật hành “đối sự xả” mà nói đó thôi! Nếu sáu đều là pháp giới, thì đây không như vậy. Cho nên không thể dùng ba sự đều không và dùng thứ lớp sinh ra các hạnh mà so sánh. Lại, sáu độ đây các văn trên dưới đều lược giải thích xem văn ý ấy tùy sự đều khác biệt. Nếu trong Tựa thấy theo chiều ngang chỉ là hiện tướng phát Di-lặc nghi, Văn-thù dẫn xưa, nói các thứ là dẫn đồng. Chương quá khứ Phật là khai ngũ thừa, văn Bồ-tát nói lục độ rất lược. Trong Dược Thảo Dụ nói ba ngôi vị Bồ-tát mà không nói hành tướng, ý để biện minh nghĩa sai biệt và không sai biệt. Phẩm Phân Biệt Công Đức lược nêu năm độ, là so sánh bản, cũng chẳng phải chánh ý, nên không có hành pháp. Chỉ trong đây kinh văn tuy lược nêu mà chánh nêu tướng hành nhân đến quả, cho nên giải thích tùy liệt nêu khiến tất cả hạnh hội nhập nhất thừa.

“Ba mươi hai tướng”: Các giáo nêu bày sự tu đắc không đồng, phần nhiều ở giáo đạo. Nếu thật đạo: Chỉ là phát đắc không cần đều tu, như dưới Long Nữ tán thán Phật trong kệ nói. Tự không thấu đạt sâu xa thì sao có thể đầy đủ tướng. Đủ như trong Chỉ quán quyển một, trong “kiến tương phát Bồ-đề tâm” đã lược biện rõ. Nay văn tuy tức đối đủ bốn tướng, ý tại phát đắc. Cho nên văn tiếp nói thật tướng là viên giáo tướng bản, tuy tu phát không đồng mà tướng thể phần nhiều đồng. Nay văn phần nhiều tại Đại luận kiêm tại các kinh. Pháp Giới Thứ Đệ nêu đủ danh xong. Nay cùng văn kia nhưng có đồng khác. Nay thừa có hai tướng. Lại gót chân thẳng, mắt cá chân không hiện đỉnh đầu sáng, có chữ Vạn, và tóc xanh, năm tướng đây trong Pháp Giới Thứ Đệ không có. Trong Pháp Giới Thứ Đệ có tướng ánh sáng dài một trượng, và tướng tốt của dịch vị tiết trong cổ, hai tướng đây văn nay không có. “Tam mươi vẻ đẹp”: văn cũng không đồng, chỉ là kinh, luận dịch khác. Chẳng phải hóa sinh của thai, noãn, thấp, hóa tức là không đồng hóa sinh của tứ sinh nội giới như chư thiên hóa sinh vẫn ở đầu gối cha… chư Thiên sinh còn thế huống đồng trong bốn loài ư! Nay đây bỗng nhiên mà có. Như trong phẩm Dược Vương nói: Ở nơi Vương gia Tịnh Đức bỗng nhiên hóa sinh. Cũng gọi là thấp noãn…: chỉ do hoa sen ở nơi ẩm ướt chưa nở cũng như thấp sinh, noãn sinh bao hàm nghĩa trong hoa như thai. Kinh Đại Bảo Tích nói: Bồ-tát thành tựu tám pháp thì ở trước chư Phật hoa sen hóa sinh:

  1. Cho đến rất mạng cũng không nói lỗi người.
  2. Hóa người khiến quy y tam bảo.
  3. An trí tất cả nơi Bồ-đề tâm.
  4. Phạm hạnh không nhiễm.
  5. Tạo hình tượng Phật tôn trí trên tòa hoa.
  6. Năng trừ các ưu não cho chúng sinh.
  7. Đối với người cố cao ngã mạn thì tự khiêm hạ mình.
  8. Không xúc não người khác. Một kinh đây tuy vậy mà do các kinh luận tùy nghi nói. Giả sử tất cả kinh luận nêu bày duyên sinh hoa sen đều là văn nay, thì nghe phẩm công đức tức đều vượt qua. Cho nên, hoa sinh tuy đồng bản duyên sai biệt. “Vân vân” là: cũng có thể giải thích ngăn trái ý văn nay.

“Lúc đó ngài Văn-thù sư-lợi…”: là tìm đến. Có người hỏi: Trong Tựa nói tại tòa, nay vì sao nói từ biển đến? Nay là đáp: Lẽ nào đem phàm tình mà đo lường cảnh Thánh? Không khởi hội đây, ở nơi biển hóa vật, nghĩa cũng đâu ngăn ngại! Cũng đâu phải tại Tựa một kỳ lợi ích xong. Khi bỏ đi đâu cần thiết bạch cho biết, thời đến đại lợi mới sinh cho chúng, tự mình từ biển mà đến. Nếu theo lệ từ đất hiện lên Bồ-tát dùng lợi tán thán thì kinh đây rất lược. Hoặc đương kia có văn rộng đủ có nói xuất khỏi hội mà truyền đến đây, thì lược bớt vậy.

Hỏi: Ngoài tam thiên đều có bốn trăm vạn ức, không còn đại hải, Văn-thù vì sao vẫn nói từ biển đến?

Đáp: Sự giải thích chưa sai, huống chi là bất tư nghì, Nay có ba nghĩa thông việc đó:

  1. Đã dời thiên nhân và biến đại hải, từ nơi bị đổi đời mà đến, nên không xa khuất.
  2. Biển dù đổi dời mà Long cung bất động, Rồng cho rằng bất động mà chỗ ở đã biến đổi. Từ chỗ “biến mà không biến” mà đến thì có gì không thể ư?
  3. Vô duyên: Chịu tùy theo, hữu duyên nay đến, đây bất tư nghì núi biển rõ ràng tự nhiên, khiến chúng không thấy, chỉ là biến thấy chẳng phải cho là cải đổi thể Văn-thù.

Đã không khởi mà đến, cõi kia cũng tức uế mà tịnh. Cho nên Tịnh Danh nói di (dời), đến cõi khác đều không khiến người có tướng qua lại, trong đây chính là khiến có tướng qua lại mà bản không dời đổi, nên biết ứng có cơ thì cõi biến, chúng dời mà vẫn còn đến! Kia vô duyên, cõi trở lại, chúng lại đến mà không đến. Do đó lý tuy bất động, hóa sự thành phép tắc, cho nên khiến chỗ thấy không đồng thời qua lại sai khác. Bồ-tát hóa nghi còn như vậy, lẽ nào Phật thiết lập biến đồng với phàm ư?

Hỏi: Không khởi mà lại, vì sao nói đến?

Đáp: Chỉ bày kia đây chúng biết công lực của kinh, biết thọ bẩm lợi ích của giáo, cho nên phải nói “đến”. Không đi mà đi, không đến mà đến, đều vì lợi ích chúng sinh, tại sao cần nạn vấn như thế? Cho nên biết cõi khác chưa hẳn thấy đến, kia không thấy đến, đây không thấy đi, không đến không đi mà sự đổi dời rõ ràng. Như Tịnh Danh ngón chân chạm đất.

Lúc bấy giờ đại chúng tự thấy ngồi tòa sen báu mà cõi uế như cũ. Trong kinh Văn-thù tán thán Long Nữ không ngoài các hạnh hoằng thệ định tuệ. “Trí tuệ…”: là tuệ. “Thâm nhập…”: là định. “Từ niệm…..”: là thệ, “công đức…”: là hạnh. Dưới các văn có theo lệ này, căn cứ đây nên biết. Chánh chỉ bày trong Viên quả, nói Long Nữ thành Phật.

Hỏi: Vì không xả phân đoạn liền thành Phật ư? Nếu không tức thân thành Phật thì đây là Long nữ thành Phật và Thai Kinh kệ nói làm sao thông ư?

Đáp: Nay Long Nữ văn từ quyền mà nói để chứng minh Viên kinh thành Phật nhanh chóng. Nếu Thật hạnh không nhanh thì Quyền hạnh theo đó dẫn. Vậy thì Quyền Thật nghĩa đồng, lý không uổng vậy. Cho nên Thai Kinh kệ từ Thật được nói. Nếu thật đắc thì từ lục căn tịnh đắc Vô sinh nhẫn, ứng vật thể hiện dung mạo đẹp đẽ, khởi thần biến, hiện thân thành Phật và chứng Viên kinh.

Đã chứng Vô sinh thì lẽ nào không thể biết vốn không xả thọ, đâu ngại xả đây đi đến kia. Các giáo còn lại thì phàm vị đến trong hội đây, tiến đoạn vô minh cũng lại như vậy. Phàm ước lệ như đây ắt phải quyền thật bất nhị, dùng giải thích nghi ngại. Nói “quyền xảo”: tức không hẳn chuyên chỉ làm quyền giải thích, chỉ nói Long Nữ đã đắc Vô sinh thì căn cứ thể dụng mà luận quyền xảo. Không phải cho rằng chuyên căn cứ Bản tích làm quyền xảo. Cho nên quyền thật hai nghĩa lực kinh đều thành. Người khác giải thích như thế. Hoặc nói “Thất địa thập địa…”: không thể hiển bày lực dụng của kinh.

GIẢI THÍCH PHẨM TRÌ

Có bản nói Khuyến Trì, nghĩa phải đều còn, tùy đề đều được không so sánh từ đầu, cho nên văn chia làm hai đoạn: Nếu muốn ở đây lập tứ Tất-đàn thì, hai giải thích tợ Thế giới, Hai vạn tợ Vị nhân, Tám mươi tợ Đối trị, ý Phật tợ Đệ nhất nghĩa. Cho nên ý Phật nói song song chỉ hai đoạn. Trong Ni thỉnh ký nên khai văn đây làm bốn: hai phần trước Ni đều có thỉnh và ký. Phần ba Các Ni lãnh giải. Phần bốn Các Ni phát thệ. Kinh nói “di mẫu”: Bản Hạnh Tập nói: Thích chủng Thiện Giác sinh tám người con gái. Lúc bấy giờ bốn anh em Tịnh Phạn vương mỗi người thâu nạp hai người nữ. Tịnh Phạn vương phi, tức Ma-da và Ái Đạo. Ma-da sinh xong bảy ngày sau thì mạng chung sinh lên cõi Đaolợi. Ái Đạo là dì cho nên nói “di mẫu”.

Tiếp, hỏi đáp: Trong đáp nói vì dẫn ban đầu hành và khai An lạc hạnh: Ban đầu hành, thấy các đại đức còn không thể ở cõi này hoằng kinh, huống chi chúng con ư? Vì vậy cho nên cần phẩm An Lạc Hạnh tiếp theo sau làm pháp tắc ban đầu hành. Lẽ nào được hạ phương chưa xuất mà dự nói dũng xuất sở hành? Nếu như vậy thì đầu phẩm, Văn-thù lẽ ra hỏi Bồ-tát Dũng xuất, đương hành hạnh gì, mà chỉ nói ở đời ác sau… ư! Bỗng nghe “dũng xuất” thời chúng lẽ ra hỏi dũng xuất là ai?!

Tiếp kệ tụng: Là cô khởi kệ, nói “các Bồ-tát… thỉnh hộ trợ hoằng kinh”, tức là tự thuật phương pháp hoằng kinh. Vì bởi Đức Phật trong phẩm Pháp Sư đã nói phương pháp xong. Phẩm Kiến Bảo Tháp chiêu mộ tìm người dùng phương pháp. Phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa dẫn xưa dùng phương pháp. Thích-ca tức là bẩm thọ phương pháp nhiều cho nên nói “dùng thân làm sàng tòa…”. Phẩm Trì tức nói phương pháp ở đời ác. An lạc hạnh là phương pháp bắt đầu hành, nên nói trú Nhẫn nhục địa v.v…, đầy đủ như phẩm sau nói. Nếu không như vậy thì hoằng kinh không có phép tắc, không có phép tắc hoằng kinh đây không có việc ấy. Như thân trần vào trận ắt bị tổn thương không sai. Nói “mặc áo giáp” tương ưng nghĩa không uổng lập. Mười bảy hàng đầu nói mặc áo nhẫn nhục có ba:

  1. Một hàng tổng luận thời tiết để nêu rõ mặc áo.
  2. “Có những…”: chín hàng biệt nêu cảnh sở nhẫn.
  3. “Chúng con…”: bảy hàng nêu ý mặc áo.

Phần một như văn. Phần hai văn có ba: Một hàng đầu nêu chung người tà, tức chúng thế tục. Tiếp một hàng nêu hạng tăng thượng mạn trong đạo môn. Bảy hàng sau nêu tăng thượng mạn giả Thánh. Cho nên, trong ba loại người đây thì: thứ nhất đáng nhẫn, thứ hai nặng hơn trước, thứ ba quá sâu, vì càng về sau càng khó nhận thức. Văn thứ nhất và thứ hai như văn, trong văn thứ ba nói: “Kinh Bảo Vân quyển sáu nói A-lannhã…”: thì e rằng lầm, vì văn ở quyển thứ năm. Trước giải thích danh: “A” là “vô”, “Lan-nhã” gọi là “tránh”(tranh cãi). Trong văn nói sự, có sự cho nên tranh cãi. Nay y kinh, trước thì nêu chánh hạnh, tiếp mới biện rõ tà. Đầu văn nói “trú A-lan-nhã”, là không cùng thế gian tránh luận, “không gần không xa” là để tiện việc khất thực, có bóng cây che, có nhiều hoa quả đầy đủ nước sạch, không nạn sự không hiểm trở dễ bước lên, một mình không có bạn tụng sở văn… Có vua Đại thần trưởng giả… đến tìm đến, liền nói rằng: “Hay thay! Hay thay!”. Nếu đến trú xứ thì nên mời ngồi, nếu họ không ngồi thì chớ tự ngồi một mình. Nếu không vì chỗ ngồi xấu, thì nên dùng mọi thứ an ủi và vì họ nói pháp, nếu họ không ưa nói rộng thì nên nói lược… Nếu không như vậy thì chẳng phải hạnh Lan nhã. Phàm ở Lan-nhã là vì điều phục phiền não. Tự đề cao mình, chê bai người, thì chẳng phải hành Vô tránh, chưa biết ý chắp tay cung kính là gì! Khinh, ngông thầy bạn, ngạo mạn vương thần, huống khiến cho người không biết cho là Thánh, khiến người có mắt thì trong tâm lạnh giá, thì hạnh La-vân vĩnh viễn sai trái, đức của Không sinh ở đâu? Chỉ do tâm không có nội thật, chuyên đem thân mưu tính việc hư dối bên ngoài, luận thuần đạo kia, không có gì để nói! Xét như Tân-đầu-lô biết bảy năm mất nước, và Trù Thiền sư tiến hay không làm vua, cho nên khởi ở hợp thời đâu được nhất hướng. Luận Thập trụ Bà-sa nêu rõ Lan-nhã Tỳ-kheo cho đến đủ năm mươi pháp mới kham dừng trú, cho đến mười hai hạnh Đầu-đà đều đủ mười pháp. Nếu không như vậy thì hãy tìm thầy tấn đạo, tại sao cứ chấp giữ cái ngu? “Không phép tắc thích ứng”: xuất gia lìa thế gian, cắt bỏ ái, mộ đạo, nên dùng Ngũ phần làm phép tắc chánh. Còn trái phép tắc Tiểu thừa, mà trở lại khinh nơi Đại giáo, thì càng rất tệ hại. Nếu dùng danh đây mà quân bình nơi Đại, thì Viên thừa tam học, hai giải thoát đáng để làm khuôn phép cho mình, mới ứng hợp với phép tắc xuất gia chốn Lan-nhã. “Tuy nói… được nuôi sống…”: nghĩa là chấp lấy lời nói mà chẳng siêng thực hạnh, chuyên tư duy tự nuôi sống mình. Hạng người như đây, gọi là Tương tợ tam học, Giả vờ tam học, Tặc tam học, Ngụy trá tam học. Mà muốn khinh người thông kinh, cho nên khiến người hoằng kinh phải mặc áo nhẫn nhục chuyên hoằng chánh pháp. Người có giới, thêm đủ tam học mới gọi là tăng giới. Giữ một giới mà không hành để mặc, thì biết là giới giảm. Giới mà còn không hành, thì sao hành định tuệ? Vậy nên phải “đối trước Ngũ phần” mà xem xét.

Tiếp nêu ý mặc áo. Văn dẫn “Trung A-hàm quyển năm nói Hắc Xỉ Tỳ-kheo mách với Đức Phật”, căn cứ trong đó, bao gồm ý thứ ba. Nêu “Người có năm hạng” trở xuống, văn tương ưng. Kinh kia Xá-lợitử tương ưng phẩm. Kinh Thủy Dụ nói: Đức Phật tại vườn Cấp Cô Độc, Xá-lợi-tử bảo các Tỳ-kheo: Ta nói ngũ ấm não có năm duyên, thế nào gọi là năm? Tức dùng năm dụ, ví như nơi ba nghiệp, lại kiểm chứng lần trải qua thứ năm. “Người có năm hạng”: Chỉ là ba nghiệp. Đơn thiện làm ba câu, đều thiện làm một câu, đều ác làm một câu. Nếu lại lấy song thiện làm ba câu, tức thành tám câu. Ác biên nhất định không có đơn và song, vì đơn thiện, tức là song ác, song thiện tức là đơn ác, cho nên không được có câu ác biên. Trong kinh không làm thêm ba câu còn lại, hoặc nêu năm biết tám, hoặc là tùy cơ. Có trong văn, đầu tiên nói: “Thân ác, khẩu ý thiện” thì e rằng lầm. Căn cứ trong hợp dụ chỉ có đơn thiện. Chỉ nên nói “thân thiện khẩu ý ác, khẩu thiện thân ý ác, ý thiện thân khẩu ác”. Cho nên thí dụ đầu tiên nói: “Nạp y….”: Đây là thân thiện khẩu ý bất thiên, để hợp văn nói “niệm dụng thân tịnh, bỏ khẩu ý”.

Trong khẩu thiện thí dụ: mang cỏ tránh nóng là thân tướng bất thiện, bụm nước không tương xứng là ý bất thiện. Nước đến được miệng, tạm gọi là thiện. Văn nói hoặc bụm nước, hoặc dùng tay, chỉ là tay bụm nước mà thôi! Tuy thân khẩu đều xấu, chỉ vì làm ngưng khát cho nên gọi là ý thiện. Nếu muốn dụ ba cặp thiện thì căn cứ đơn tư duy. Thí dụ ba đều là thiện: Ao đã rộng mát vào thì thân thiện, không bụm nước là khẩu thiện, ngưng khát là ý thiện. “Luận Bà-sa quyển tám nói: Nghĩ đến mắng là một lời nói…”

Luận Tạp Kiền-độ quyển thứ mười, trong phẩm Trí hỏi: Khi hành bị mắng, làm sao quan sát danh cú thân… khiến tâm nhuế chẳng sinh?

Đáp: Hoặc có người nói: A-câu-lô-xa nước Tần gọi là “mạ”, Câulô-xa, Tần gọi là hóan thanh. Ta nay không nên niệm chữ A kia, nếu có chữ A thì gọi là “mạ (mắng)”, nếu không có chữ A tức gọi là hóan thanh. Phải biết Tây phương có tam hợp thanh, A cùng Câu-lô-xa hợp mới thành danh cú, mới gọi là “mạ”. Phương này là hèn mọn thấp kém, phương kia lại là xưng tán, theo lệ đây rất nhiều. Như nói Thi-la Sằn-đề đối với phương này chưa gọi là đoan chánh, phương kia chính là Bala-mật thứ hai. Lại, quán chữ mạ đây…: Phương đây cũng có nói đảo ngược tức trở thành mắng mà khen, như thấy khách đi bảo là “đi sớm”, tức là muốn giữ lại. Nếu nói “sớm đi” tức phát lời khiến đi, phát đó là “mạ”, lưu giữ là khen. Như đang lúc ăn gặp khách, nếu nói “đến sớm” tức là “mạ”. Nếu nói “sớm đến” tức là khen. Người đời chấp lãm định có trước sau cùng làm nghĩa mắng, khen. Vọng tình chấp chứa tiếng nói vốn không. Lại, “mạ là một chút ít phần của giới…”: tức là ý tư quanh co, hạnh uẩn, pháp xứ, một phần ít thuộc giới pháp. Đây mượn văn luận Bà-sa. Làm cảnh sở quán, bèn dùng bốn câu ba giả quán đó. Dùng thanh đối căn, thức và Không, suy tìm nghĩa không có tự tánh, thành tựu tánh tướng, mới gọi “tức Không”. Lại, “mạ” đã là thanh, thanh giới có tám có chấp thọ không chấp thọ, đại chủng làm nhân, đều có tên hữu tình tên phi hữu tình, khả ý và bất khả ý. Trong thân hữu tình phát ra âm thanh, gọi là có chấp thọ, vì ngữ thanh của chúng sinh có thuyên biểu, các tiếng vỗ tay v.v… không phải thuyên biểu nên tiếng gió, rừng, sông… gọi là chấp thọ. Tên hữu tình với nghĩa không chấp thọ, tức như tiếng nói của hóa nhân, tuy không chấp thọ mà có năng thuyên biểu, ngoài ra theo lệ tư duy có thể biết. Nay đây tiếng mắng (mạ) đã là có chấp thọ tên hữu tình là tiếng không vừa ý, chỉ là một trong tám thứ, nhưng do chấp kia từ đầu đến cuối mà thành danh cú. Nếu nói thanh giới là mạ thì phải tám thứ mới gọi là mạ. Nay còn không có bảy sao gọi là mạ! Huống lại trong một thì niệm niệm không dừng. Một phần ít thanh nhập, phần ít sắc ấm, phần ít mạ v.v… tức quán ngã đã là cảnh sở mạ. Hoặc khi mạ sắc tức không mạ tâm, khi mạ tâm tức không mạ sắc. Hình hiển thọ…, căn cứ đây có thể biết. “Thành tựu tự nơi người ấy…”: người ấy tự khuấy động thanh để thành danh cú mà cho là mạ. Ta quán nhân duyên niệm niệm không trụ, đây quán nhân duyên vậy. “Lại, mạ là một chữ…”: quán tương tục. “Lại, năng mạ…”: đối suy tìm tướng đối đãi. “Dùng Không”: tức Thông giáo. Cho nên biết nhờ luận Bà-sa hiến cảnh nhân duyên, mỗi mỗi suy tìm tiện thành tức Không. Lời nói lược ý rộng, đầy đủ như Chỉ Quán trong nhập Không Vô sinh quán đã nói. “Quyển mười bảy nói: Phàm Thánh đều có ba loại thọ”, e rằng văn lầm. Văn ở quyển thứ mười, văn nói cũng có lo sợ, là qua ở đời khác và do Thánh giả tức có sợ cho nên liền đủ ba thọ. Cũng nói năm thọ: năm thọ tức ưu – hỷ – khổ – lạc – xả. Lại có năm thọ toàn là ba thọ. Nghĩa là chưa đắc lạc thọ, đã đắc lạc thọ, đã sinh khổ thọ, chưa sinh khổ thọ; không khổ không lạc thọ. Chỉ vì Thánh nhân không dùng tâm thọ nên có phàm Thánh sai biệt cũng là mượn luận Bà-sa kia phân biệt. Tứ Thánh là Thánh, lục phàm là phàm, mười giới không đồng để thành nghĩa sai biệt. Nay “Kinh này…”: tức Viên giáo. “Niệm Phật”: Quán thọ làm pháp giới cho nên gọi là “niệm Pháp, Phật…”. Do năng quán biệt được tên các giáo, sở quán năm thọ tướng kia không sai biệt cho nên người trì kinh nên quán ba thọ. Vì thế nói năng thọ các ác hạnh… Khải là áo giáp vậy.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10