PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ
SỐ 1719
QUYỂN 07
Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật
PHẦN THƯỢNG
GIẢI THÍCH PHẨM TÍN GIẢI.
Có người dùng “Tín và Giải” đối nhau mà làm bốn câu: Độn căn chánh kiến thì Tín mà không Giải (hiểu); Lợi căn tà kiến thì Giải mà không Tín; Lợi căn chánh kiến thì có Tín có Giải; Độn căn tà kiến thì không Tín không Giải. Hai câu đầu dựa vào đâu mà được gọi? Nếu câu thứ ba đương nơi phẩm này, thì hoặc là căn cứ Tiểu thừa mà được nói như đây, không hợp giải thích đây. Nếu trong pháp chấp, kiến v.v…, thì Thanh văn khi lãnh giải hợp nhập thất địa, tại sao còn ở sơ tín tâm ư ? Có người dùng thông đại địa, Tín số Tuệ số làm thể Tín Giải. Nay hỏi: Thể lấy nghĩa gì chỉ tâm sở ư? Như tâm sở này Thánh vị nhiếp ư? Hay phàm vị nhiếp ư? Nếu Thánh vị thì đại Thánh hay tiểu Thánh ư? Tiểu thì chẳng phải ý nay. Đại thì sâu cạn? Huống chi nay nghe thật mà lãnh giải ư! Cho nên tín giải kinh này rồi nhập Sơ trụ thì chẳng phải Tiểu thừa tâm sở sở nhiếp. Nêu một lệ, các thứ khác đều chuẩn theo đây.
Có người nói: Đối trước bảy dị (khác) không thành dị:
1. Sở tùng (dị) khác; nay cho là không như vậy, hàng tam căn nghe lược đều sinh nghi động chấp, chỉ vì trước sau Tín giải đâu được nói Thân-tử tùy theo nghi ? Trong đây từ chấp có nghi ắt có chấp; có chấp ắt có nghi, huống chi nghi chấp danh thông mà phải giản Tiểu. Tiểu thừa nghi chấp kiến đạo đã trừ, sao ngăn cách hai tô vẫn phải xen nhau lập?
2. Rộng lược sai khác: Đây cũng không như vậy, chỉ văn khác nghĩa đồng, cho nên Thân-tử nói “Chẳng phải ma…” và thuật năm Đức Phật. Nói lược mà ý rộng, lẽ nào gọi là lược ư?
3. Viễn cận sai khác: Đây cũng không như vậy, văn nghĩa đều đồng, chẳng những văn đây thuật trước đạo thọ, Thân-tử cũng thuật khi xưa chấp tà kiến, cũng quá đạo thọ cho nên không khác.
4. Thông biệt sai khác: Đây cũng không như vậy, văn khác ý đồng. Thân-tử đã nói: “Chúng con không can dự”; lại nói “Chúng con đồng nhập pháp tánh”, lại nói: “Nếu chúng con đợi nói sở nhân”, lại nói “Chúng con không hiểu phương tiện”. Văn trình bày lỗi bốn độ nói…, lẽ nào có thuật được riêng biệt tại một thân? Đây tuy biệt nêu đứng đầu bốn vị Tăng lại hạn cuộc, vậy thì Thân-tử thông đến tất cả, Ca-diếp biệt tại bốn người. Nếu vậy thì chu đầu tại sao không thọ ký nhiều Thanh văn ư? Đáp: bốn chúng tám bộ tức là người kia.
5. Không luận.
6. Hoan hỷ sai khác: Đây cũng không như vậy, nếu nói một mình Thân-tử có lo trước mừng sau, trước nói sắp xếp… thì lo chung cho tất cả, cho nên biết vui mặc dù có trước sau, mà lo thì không có cấp bậc.
7. Nói một, bốn không đồng. Ý không như vậy, cũng như trước phá có dẫn luận Bà-sa nói: Thân-tử thượng, Mục-Liên trung, các người khác hạ; kia nói tợ đồng Tiểu thừa kia nay thật. Văn ý hoàn toàn sai khác, không thể đồng. Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Tín Nhạo. Nghĩa kia tuy thông Nhạo (ưa) mà không bằng Giải. Nay nêu lãnh giải, vì sao nói Nhạo? Nay chưa giải thích tên phẩm, tiện dẫn người xưa phê phán ý phẩm, giải thích đề lỗi chính là lý do làm mất ý văn. Trong đó, đầu tiên thông nêu ba thời, nói “Nhất vãng…”: là do trong phẩm này lãnh giải nay đủ từ đầu đến cuối, sau khi thoái thất Đại thừa lại dùng Tiểu thừa khởi phát lấy làm “Nhất vãng”, trung gian làm “đuổi theo”, sau cùng làm “Tất cánh”. Người xưa chỉ đắc danh ba thời, không hiểu ý kia.Nay làm năm thời thêm suy xét lãnh Pháp thân hóa, còn sợ không hiểu lòng Tứ Thánh, mà chỉ làm danh “Nhất vãng…” thì sao có thể hiểu rõ phẩm này? Cho nên, cần phải dẫn phá thì mới hiểu chánh lý. Tổng có sáu sư: Tăng-na, Trung Hoa dịch là Hoằng Thệ. Tiếp “Riêng cho là…”: là phá, đầu tiên tổng bài xích: Sách Thư nói: “Cắt dây tơ đầy tráp, không thể may làm dây lụa, ngọc vụn đầy hộp không thể mài giũa làm ngọc Quế Chương quý giá”. Các giải thích tạp, vụn không thể y cứ.
“Xét rằng nhất vãng…”: là biệt phá, vẫn trước là nêu đầu cuối, lược xuất đại chỉ, trung gian thì theo lệ có thể biết. Tiếp, trong chánh biệt phá, thì hai câu đầu dù cho phá, chính là chấp nhận câu thứ hai, thứ ba “nhất vãng”. Cho nên, lấy “nhất vãng” kia mà phá Sư đầu và Sư thứ năm. Tiếp, “Nếu Pháp Hoa…”: lại dùng Sư thứ năm nhất vãng đối thứ hai nhất vãng mà làm theo lệ. Tiếp “Lại, nhị thừa…”: dùng Sư thứ ba nhất vãng, phá Sư thứ nhất nhất vãng, trong đó trước đều phá. Tiếp, “Nếu một phá một không phá…”: là lập theo lệ. Tiếp “Lại, cha con…”: là riêng phá Sư đầu Tất cánh. Xa thấy cha ngồi, tức gọi là thấy nhau. Gọi là Tất cánh (rốt ráo), thì thời Hoa Nghiêm giáo đã nên đắc thọ ký, tức Pháp Hoa không dùng. “Nếu hậu cánh…”: là đều đảo ngược, nếu sau đúng thì trước không còn dùng; nếu không còn dùng thì ngày xưa nghe Đại kết duyên không thành. Lại nếu Sư thứ hai, ba, tư lập Tất cánh (rốt ráo) đều tại Pháp Hoa, thì ý có thể như vậy. “Nhất vãng”, “đuổi theo” thì cận viễn khó nương. Sư thứ năm “nhất vãng” đã đồng trước phá, “đuổi theo” “Tất cánh” chẳng phải giải thích Pháp Hoa, đâu có thể hiện tại nhất hóa ắt khiến đến nơi Kim Cang. Sư thứ tư, Ngài Chương An không phá chỉ là lược thôi! Kia nói nhất vãng ở nơi chuyển giáo, thì chuyển giáo trở về trước hướng đến chẳng phải nhất vãng, lấy gì đặt tên để đắc ngộ làm rốt ráo. Năm phẩm sáu căn lại chẳng phải “nhất vãng” cho đến “đuổi theo” đặt những tên gì ? Nhưng các sư nói rốt ráo, đều không phá. Bốn vị trước và thứ năm phần nhiều đều đến Pháp Hoa. Nói đến Phật quả dù có lỗi Tiểu mà không có lỗi Đại, chỉ không thể quyết định dùng Kim Cang tâm làm cứu cánh đó thôi. Nay ý sư: “Nhất vãng…” là nói đợi đến hạ căn luận đời trước thì mới có thể thương lượng. Dùng nhân thiên thừa cho đến nói Đại tại thuở xưa cho nên từ xưa trở về sau đều gọi là “đuổi theo”, vì sao Sư thứ hai, ba, tư dùng ba vị ngày nay mà làm “đuổi theo”? Cho nên không dùng.
Tiếp, “Riêng cho rằng…”: là phá bản tích, nếu chỉ đây làm tích thì nên đã là bản môn động chấp, nếu dự định nói phẩm sau chính là trong đây thành hiển bản xong. Văn sau không dùng cho nên không thể. “Nay giải thích phẩm…”: nay ý lại luận về trung căn tín giải cho nên dùng năm trong mười nghĩa đầu của tam chu, mà phán xét ý kia. Phàm căn có lợi độn, tức trước chuyển căn, không chuyển căn cảm có dày mỏng, tức trước hoặc có dày mỏng. Nói có pháp thí trước thông biệt ngộ có trước sau tức trước ngộ không ngộ và ngộ có sâu cạn, các ý khác chẳng phải chánh, vì nghĩa ấy nên sở dĩ ba căn trước sau đều lãnh giải đâu cần nơi đây lập“nhất vãng…”
“Oản đậu”: Như nói chữ an đao là cắt khoét. Người Nhị thừa đối trước Pháp Hoa như sinh oản đậu (một loại đậu) dao đâm không vào. Chỉ niệm không vô tướng nguyện: Đương giáo kia nhập vô lậu môn cho nên thường tư duy. “Vui mừng hớn hở…”: Trong văn tuy dùng bốn chữ Tín v.v…, dùng đối Tín giải lấy làm Vị nhân, thiện đây ắt nhờ sơ hoan hỷ, huống chi theo lý thiện sinh phá ác thâu hoạch chứng, viên dung tứ Tất-đàn đồng đời đều đắc tức phần chứng Đệ nhất nghĩa. Ba Tất-đàn còn lại đương vị làm danh, tùy theo nhau nói là phần. Cho nên, tứ Tấtđàn đây phát ắt đồng thời chỉ dùng Tín giải đối Vị nhân cho tiện. Lại biệt nói đây chính là biệt trong. Trong đây vì sao Tứ tất đều thật? Do từ nghe pháp được hiểu, không đồng văn trước liệt chúng theo Tiểu thừa ba Tất-đàn tại sự, Đệ nhất nghĩa vẫn cần giáo phân, cuối năm thời mới biện rõ ý nay.
Tiếp, “Bẩm thọ Tiểu thừa…”: căn cứ giáo giải thích, đây muốn căn cứ vị để giải thích “Tín giải”, nên nêu đủ bốn giáo, chỉ tổng nêu nói bẩm thọ tiểu Đại giáo. Tiểu tức tam Tạng đại phải chỉ Viên. Lại lược trong hai thứ do Đại giáo tiểu giáo đều lập hai hành hai đạo, cho nên trước nêu tiểu. Tiếp “Chuẩn theo Tiểu v.v…”: lấy Đại vọng tiểu bèn phân hai chữ để thuộc hai đạo. Phá nghi cho nên nói “Tín”, tiến nhập gọi là “Giải”. “Tín” thông hai đạo, “Giải” chỉ ở Tu, cho nên nói Tu đạo gọi là “giải”. Nếu căn cứ ý đây, chỉ nên dùng Sơ trụ để làm Kiến đạo, bắt đầu Kiến lý, Sơ trụ gia công gọi là tu đạo y lý tu. Trong văn không nói Nhị trụ trở đi chỉ nói tiến nhập tức từ Sơ trụ ắt có tăng tiến. Cho nên các Thanh-văn nghe pháp rồi, sau phần nhiều nhập Tu đạo, nay từ biên hạn nghe pháp tăng tiến để nói cho nên gọi “Tín giải”, cũng như mười sáu tâm gọi là Tu đạo. Nếu xưa mật nhập thì đến đây rõ ràng hoàn toàn thành tu đạo, từ hiển lộ nói Tín giải đồng thời. Tiếp, “Văn nói…”: lại thông chứng nhập vị không phân tín giải. “Cận lãnh giải nhà lửa…”: Nghe Thí giải (hiểu) rồi ắt giải nơi Pháp, lẽ nào có ngộ sau mà lại mê trước? Vì vậy cho nên đều phải Pháp và Thí song lãnh.
“Tuệ mạng” có hai giải thích: Trước là giải thích theo Nhân duyên, Tiếp “Các tuệ…” là căn cứ Giáo. Ba, một đối biện từ sự hành sai khác, cho nên thuộc Nhân duyên. Phật mệnh chuyển giáo thuộc căn cứ giáo: Đây có hai ý, thuộc Thục-tô giáo. Đã gọi là căn cứ giáo đến Thục tô thời, ngầm thành Biệt nhân. Lại gọi là căn cứ giáo cũng nên đủ đối năm vị bốn giáo, tư duy có thể biết. “Ba đệ tử…”: là giải thích nghi, chẳng phải hoàn toàn không chuyển, mà luận nhiều ít đó thôi. Tân dịch gọi là “Cụ thọ”, “Cụ” không bằng “Tuệ”, “thọ” lẽ nào quá “mạng”. Thí dụ bốn phen: Trường hàng kệ tụng đều có tổng biệt, cũng có thể đều có Khai thí Hợp thí. Hai đường bốn phen đều có khai hiển. Nhưng trước giải thích hơn, tức ứng văn sau hai mươi hai phen. “Tâm phát” đến “ý”: Căn cứ đây chỉ do nghe Thí, tín sinh, nhập vị, tức Sơ trụ trở đi không luận Kiến Tu. “Ví như Thân-tử…”: “phát tâm hy hữu” là tâm lãnh giải, tức “từ tòa đứng dậy” là thân lãnh giải, “mà bạch cùng Phật rằng” là khẩu lãnh giải. Nên chú thích v.v…, là khiến như hướng đối, đầy đủ như Thân-tử lãnh giải kệ. Văn không có, là lược. Trình bày đứng đầu Tăng cùng ba lỗi không cầu là thuật lỗi xưa. Lỗi thứ nhất: Chấp Tiểu lạp thì Đại pháp hoàn toàn thiếu, không bỏ tiểu do chưa biết khai ba, tự kiên cố thì Tiểu chấp chưa thay đổi, ủng hộ kia bèn mê nơi phép tắc Đại. Lỗi thứ hai: Một đời đoạn chứng nên tự khinh bỉ tuổi cao, bại chủng chưa đuổi trừ, vẫn còn thấy không kham nhậm. Lỗi thứ ba: Xưa mê ý nghĩa luống công chấp chánh vị, do đây cố tình cho nên Đại tâm khó phát.
“Cao nguyên…”: là dẫn thí dụ tự bài xích. Trước là thí dụ sau là hợp. Đã có đắc cho nên không cầu. Kinh nói “chỉ nhớ nghĩ ba pháp…”: cũng có thể đủ y luận Câu-xá, xuất nêu mười sáu hành lấy làm sở tư. Mười sáu hành đối ba Không, như Chỉ Quán quyển bảy nói. “Hoặc chỉ” đến “Là đứng đầu Tăng không cầu”: Do đứng đầu Tăng chúng cho nên ở Đại tiểu các tòa từ lâu đã nghe. “Vô lượng trân bảo”: Xưa Bát-nhã lãnh giáo nói là làm Bồ-tát, lẽ nào mong ở đây toàn được đồng ban cho? Trong cụm từ “Tư phát vân vân”, thì “vân vân” là: Nên như lễ thế gian muốn có sở quyết; phải trước hỏi han phát biểu. “Văn thí dụ chia làm năm”: Bắt đầu từ “thất lạc nhau”, tức kết duyên về sau, cuối cùng đến “đồng ban cho” tức khi nghe Thí dụ. Nếu hợp ý thứ tư và thứ năm lại thì chỉ thành bốn đoạn. Mười thí dụ mà Quang Trạch nói thì không ứng với văn nay. Văn trước nói: đối bốn người trái lìa, lìa phá Quang Trạch, trái bài xích các sư. Các sư tuy không tách làm mười thí dụ, mà đối với tướng đương văn lại cũng trái mở, đầy đủ như trước bài xích.
“Tây phương…”: Di-đà và Thích-ca, hai đức Phật đã sai khác, lẽ nào khiến Di-đà ẩn mặc y phục trân quý bèn khiến đức Thích-ca mặc y thô xấu? Dáng mạo đức Thích-ca không có y phục trân quý nào có thể che dấu, đức Di-đà duy nhất hình dáng thắng diệu, huống chí duyên đời trước biệt hóa đạo không đồng, kết duyên như sinh, thành thục như dưỡng, sinh dưỡng duyên khác, nghĩa cha con không thành xấu tốt phân đường, mặc cởi ngăn cách sai khác, tiêu kinh sự thiếu, điều thục nghĩa trái văn đương bộ vĩnh viễn không có ý chỉ đây. “Xá-na cởi mặc…”: Mê ở Xá-na không động mà đi. Di-đà mặc y xấu thô, các giáo không có văn, nếu luận Bình đẳng ý thú kia thì đâu có tự kiêu căng. Ví dù khác vì thân ta trở lại thành ta hóa, Ta lập hình tượng như người khác, bèn trợ tha duyên (khác), người không thấy hóa duyên liền loạn, cho nên biết luận kết duyên đều căn cứ ứng thân. Như nói “Ta xưa từng ở nơi hai vạn ức Phật…”, huống chi mười sáu vương tử từ đầu đến nay cơ cảm tương thành tùy vận dụng phân giải, cho nên không thể dùng Di-đà làm đây biến đổi. Chẳng kết duyên nơi cõi mình: Xưa kết Đại duyên Tịch Quang làm cõi, kỳ vọng tâm khế hợp pháp giới làm cơ, thoái Đại đến nay cơ cõi đều thất (lỗi). Nay lưu chuyển năm đường vọng bản làm tha. Phương tiện hữu dư còn chẳng phải cõi mình, huống lại năm đường lưu chuyển ư! Nay cùng tử hiện ở trong năm trược lại dùng sở trụ vọng bổn làm tha, từ lúc ấy đến nay thường ở trong tam giới cho nên nói “trụ lâu”. “Duyên đây” đến “trưởng thành”: trong căn cơ dần dần dày lại cùng chấp danh vẫn chưa trở lại ban đầu chỉ nói ba mươi. “Duyên đã…”: lấy khổ làm cơ, cho nên biết cũng ở trước tiểu hóa. “Đến” mà không biết cho nên gọi là “gặp”. Do xưa từng thấy cho nên gọi là “bản”. Khổ làm cơ: Đã thất Đại tiểu chỉ có sinh tử, ở trong sinh tử có cơ có thể phát, ngầm bấu víu thành Đại bi diệu ứng. Đại ứng còn sơ (sài), cơ lại đối nơi khổ.
“Thứ nhất: khổ vì nhớ nghĩ đến đứa con bị thất lạc…”: Do nhớ con khổ, là tư duy các môn; nghĩ tìm được con nên vui, là lại tư duy một môn. Tuy lại song niệm, mà cả hai đều chưa có thể. Nay bỗng được tức từ bản chí nói sẽ tuyên bày Phật đạo lại nói một môn. “Con đã…”: là giải thích hai ý trên: thứ nhất, bỏ đại thiện mà nhập sinh tử cho nên nói không đảm đương. Trước giải thích môn trong thí dụ có nghĩa nhập, bởi do đây, cho nên động cha lo lắng giải thích ý thứ nhất. Lìa ý của cha các lời dỗ dành tức vốn dùng viên môn thông, đương có nghĩa đắc, dự báo động cha vui giải thích ý thứ hai. “Thí dụ đầu như” đến “lãnh giải”: Thứ ba đầu kinh thuật lãnh giải không sánh bằng ý đây. Trong mười giới bảy thiện tiến thoái… thì Bồ-tát rất khó, do kiêm ba cho nên biệt nói. Bồtát còn vậy Phật giới vĩnh viễn tuyệt dứt. “Giải tâm không có sức” đến “trưởng thành”: xưa tu quán hạnh tuy quán lý tức mà chưa nhập Tương tợ giải, không thể trừ trược, cho nên nói “không có sức lực”, nghĩa là như trẻ con. Thoái Đại về sau danh tự hoàn toàn mê, nghĩa như “dày nặng”, trong như huân thêm cho nên gọi là “bị” (gia bị). Đại vẫn chưa toại chỉ có thể trước tiểu, đại thiện sẽ toại gọi là dần dần muốn rõ, đây là dò tìm về sau nói.
“Đào thệ (trốn đi)…”: Đức Phật lẽ nào bỏ chúng sinh, vì cách cho nên không thấy, nghĩa đương nơi “đào (trốn)”. Nói “Sinh tử ngũ dục lấy làm nước khác”: vì Đại Niết-bàn mới thành nước mình, cho nên lại lấy năm đường lưu chuyển làm nước khác. “Hoặc mười đến năm mươi năm”: Là tự thoái Đại đến nay thăng trầm bất định, cho nên chấp hoặc nói. “Ấu (trẻ) có hai nghĩa” đến “đam (đắm chấp) thuật nghĩa không trở lại”: Đầu nêu hai nghĩa “Thì không…”: là kết thành. Tiếp, “Thí dụ…”: là trong hợp thí nói kết duyên về sau. Một câu tổng hợp thông suốt hai câu dưới. Tiếp, “Đại giải…”: là hợp nghĩa đầu. “Còn có…”: là hợp nghĩa tiếp. Do phát Đại đến nay ba hoặc toàn tại nghĩa như si. Giải tâm tuy mỏng mà ngầm giúp xa thấm nhuần. Mật lợi ích không nhẹ vì duyên chút ít nên khuất phục nói phước tàn, từ đó về sau chưa rơi vào ba đường ác gọi là “chưa gặp khổ”, chỉ bảo đảm đời vui cho nên chưa trở lại ban đầu. Tiếp, “Nay huân tập…”: ngược lại hai nghĩa trên. Văn đầu ngược lại nghĩa trước tiên. Đã có chút ít hướng đạo có nghĩa đoạn hoặc, nghĩa tương tự khỏi si. “Gặp khổ…”: là ngược lại nghĩa kế trước, thâu nạp hạt giống bên trong cho nên gọi là “ngầm huân”, lại bị ngoại duyên trung gian kích động từ đó vi tế phát sinh. Lại do gặp khổ làm duyên giúp phát khởi, cho nên thiện ác hai đường mờ tỏ huân tập gia bị. “Hai thứ này làm cơ”: Nếu đời trước không có Đại duyên và trung gian Tiểu thuần thục, thì nhờ khiến gặp khổ cơ cảm không thành, chỉ do Đại Tiểu hai nghiệp ngầm huân tập thành cơ cảm Phật. Phật ở bổn quốc (nước mình), nghĩa phải hướng về nước. “Nếu do thiên nhân…”: Nếu không có Đại chủng, chỉ riêng nhân thiên thiện, thì không có nghĩa cảm Phật, không thể riêng vì nhân thiên mà Phật thị hiện tám tướng. Nếu có căn cơ xuất thế thì chư Phật Bồ-tát còn vào đường ác, huống chi nhân thiên ư!
“Tại tam giới…”: Nêu rõ các con bình đẳng nhưng nếu Đại thiện chưa thuần thục thì dù sinh trong nhân thiên cũng chưa cảm Phật. “Nay Phật…”: vì có bài xích không đủ, chỉ Tứ kiến. Nêu rõ cơ thành thì cảm Phật, và Phật xuất thì cơ thành. Nếu thông luận cơ thì tuy thông mười pháp giới, mà cuối cùng ở mười pháp giới nhận lấy căn cơ xuất thế. Nay từ Biệt an trí Thông dùng hiểu rõ phẩm này, cho nên văn dưới nói phương Đông, Nam, Phạm văn nói “Một trăm tám mươi kiếp trống vắng qua không có Phật” , cho đến phương trên nói: “Ở trong vô lượng ức kiếp luống quá không có Phật”. Đức Đại Thông xuất thế nương ánh sáng mà đến. Phải biết trung gian đều nhờ ngầm gia bị. “Ở trong đó cầu chánh đạo…”: lấy chấp thường v.v… mà làm chánh đạo, lấy các thứ khổ hạnh làm trợ đạo. Tuy tư duy tà lý, mà có khả năng làm chánh cơ, do lâu xa Đại chủng đã huân tập gia bị. “Đại kinh nói: Đế quán bốn phương”: là Đại kinh quyển ba mươi nói như trong Hằng hà bảy loại chúng sinh: Loại người thứ nhất: Vào nước liền chìm mất ví như Nhất Xiển-đề. Loại người thứ hai: Ra rồi lại chìm, có tin cho nên “ra”, không tu cho nên “chìm”. Loại người thứ ba: Ra rồi không chìm tức Nội phàm. Loại người thứ tư: Vào rồi chìm, chìm rồi ra, ra rồi trú; quán khắp bốn phương. Thân nặng nên chìm, có lực nên ra, quen nổi nên trụ, không biết chỗ ra. Cơ biến quán bốn phương, ví như Tứ quả quán Tứ đế. Loại gười thứ năm: Vào rồi chìm, chìm rồi ra, ra rồi trú rồi quán phương, quán phương rồi đi; sợ nên liền đi ví như Bích-chi-Phật. Loại người thứ sáu: Vào rồi liền đi, nơi cạn liền trú. Vì sao vậy? Quán giặc gần xa nên ví như Bồ-tát, không trú trong sinh tử cho nên đi. An tâm nên trú nơi cạn. Loại người thứ bảy: Liền đến bờ bên kia. ngoại đạo đắc độ đều do quán đế, cùng quán phương nghĩa đồng, cho nên tạm dẫn.
“Bản quốc như trên”: Trên lấy Phật cõi mình làm bản quốc, ngoài ra đều thuộc nước khác… “Văn dưới…”:
Hỏi: Thành nhà nói bên dưới và nước nói ở trên, có gì sai khác? “Tất cả…”: là muốn biện rõ đồng khác, lần nữa lại giải thích ra khỏi nước. “Tất cả Phật pháp” và “cõi Phật nói bên trên”, lời khác mà ý đồng, thành nhà cũng đều như vậy. Đoạn đức trở lại phải đầy đủ Phật pháp, đại bi cũng từ Đoạn đức mà thành, hai thứ này đều tóm thâu hết thảy Phật pháp. Chỉ căn cứ chọn cơ, dùng nước vọng thành, dùng thành so với nhà, nghĩa lập thưa dầy, chỉ do hết thảy Phật pháp nghĩa rộng. Đoạn đức chế ngự ác tợ hẹp. Đại bi đối con lại gần, đồng là sở y của thật tuệ Trưởng giả, đồng được Ứng thân quyền trí thác gửi. Trước khi khởi ứng, căn cơ bám víu đây trước cho nên nói “đến nước thành…”, “dừng lại tại thành nước ấy…”.“ Ở lại tại một thành trong nước đó…”: Lại dùng một phương một loại mà làm một người con, cho nên tiếp hợp nói không vì một (nơi) xứ, xứ ắt ở người chỉ là đồng cư. Giống loại như người chưa thuần thục, vả lại dừng ở phương tiện, không phế bỏ nghi thức hóa. Luận Bà-sa chỉ kia lấy làm các phương còn lại. Nếu nói căn cứ các phương còn lại thì lẽ ra chỉ mười phương quốc độ thiết lập sự giáo hóa ở mười cõi, đầy đủ như Diệu Âm. Luận Bà-sa đã nói vậy, các phương khác căn cứ theo đây. Trong đây vẫn còn tư duy cõi đồng cư này vì được nghĩa con tiện lợi.
Lại nói Hữu dư, nếu nói thùy hình lục đạo sự thì không tiện vì sau lưu chuyển lẽ nào không như vậy ư? Nay cơ đã thân cận cần phải từ nghĩa hơn mà nói! Nếu vậy thì tại sao không nói tại Thật báo độ ư? Đáp: Về lý không phải không thể, nhưng Thật báo nghĩa đối lúc phát đại tâm nên thoái Đại về sau tư duy cơ Đồng cư, lại hiểu nghĩa chữ “ trong” thuận tiện. “Xưa nói…” : là trình bày ý xưa. “Nay cho rằng…”: là phá. “Nay dùng…”: là chánh giải thích. Lại đối với Niết-bàn trong nước Hữu dư gọi là “thành trong nước”, cũng trụ trong Niết-bàn này, gọi đó là “dừng”. Lại y Niết-bàn đây mà làm chỗ ở, cho nên gọi là “nhà”.
Hỏi: Trước đáp hỏi nói rằng lấy thành đây làm Đoạn đức, lấy ở dưới đều làm từ bi, vì sao đến nay thì nói thành là nhà Hữu dư cũng y Niết-bàn đây?
Đáp: “Nước, thành, nhà” tuy có rộng hẹp sai khác, cũng đều là sở y Hữu dư không vượt qua Đoạn đức. Nhà này đối trân bảo, cho nên nói “thật cảnh”; nhà ở dưới đối căn cơ của con, nên nói từ bi. Cho nên biết nói vô duyên từ bi ắt cần bình đẳng với thật tướng, cho nên hai nhà nghĩa một, tùy sở đối mà thôi!
Câu trên đã nói tìm con không được, đã y cõi Tự-thọ-dụng nhất thật từ bi. Tìm con không được, nên nay dừng ở trung gian tự tha, trụ nơi phương tiện. Trở lại dùng bản nương vào từ bi mà suy nghĩ ở con. Cho nên nước thì dân ở, thành thì chủ an, nhà vốn nuôi dưỡng tánh. Vì chưa nhập Viên, tức thất phương tiện, dân mang hình phương tiện, trụ Hữu dư kia tư duy cầu Viên cơ, cho nên ở kia hóa sự không bỏ, tư duy căn cơ cõi Đồng cư nghĩa đó văn thành. Gia đã là nhà (xá), ở cõi Hữu dư vận dụng Vô-duyên-từ cho nên nói “ở nơi đây”, do đó dừng ở nhà Vô-duyên-tư, khởi hai Ứng thân Thắng Liệt, Thiên Viên, nhưng kia chỉ nên dùng Thắng ứng. Nói Thắng liệt, thì Thắng ứng kiêm hai nơi, Liệt ứng thân thì chỉ tại Lộc uyển. Tiểu cơ nếu khởi lý thì sẽ hợp đến. Đầu cuối cả hai nêu rõ ràng, cho nên nói Thắng liệt. Đã nói năm người cõi kia sinh đều là Bồ-tát, cho nên tám, sáu đến cõi kia thì không cần Tiểu hóa. Dần đến Viên thật lẽ nào vẫn đắm trệ nơi thiên? Huân tập phương tiện phần nhiều mê nơi giáo. Chỉ Quán quyển bảy phân biệt tám, sáu… giáo đạo phải phế bỏ. Pháp Hoa khai hiển mới kham nổi nghe đây, Bồ-tát cơ thành sở ứng đâu sai khác. “Năm người” tức là bốn quả và Bích-chi-phật, từ bản lập danh, gọi là Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chiphật. Đoạn tận mới gọi là “đoạn Thông hoặc”. hoặc là dùng Tam tạng Nhị thừa và Thông Tam thừa làm “đoạn Thông hoặc” đây cũng có thể như vậy. Tam tạng năm người tự nhiếp Thông năm. Thông giáo Bồ-tát trước gọi là Bồ-tát. Không thể lại nói đến kia đều là Bồ-tát. Nên biết toàn chỉ hai giáo Nhị thừa gồm Thông Bồ-tát. Nếu dùng bốn người ví như Thông Bồ-tát đều gọi là Bồ-tát, thì có gì không thể ư? Chỉ kia đối Thắng ứng nghĩa kia không thành, chỉ hai giáo Nhị thừa kia còn hồi tâm, Thông giáo Bồ-tát lẽ nào ứng thủ cựu? Nếu căn cứ sửa đổi quán thì Thông Biệt Bồ-tát đều phải phát tâm. Cho nên nói huấn dạy khiến tu học, thì không thể nói Biệt bởi vì năm người đây chứng đồng. Nếu như vậy Thông luận số người phương tiện thì nên nói chín: Tạng hai, Thông ba, Biệt ba, Viên một, không được nói là năm. Nay tạm đối Tiểu cho nên nói năm. “Đại phú” đến “vô lượng”: Cõi tuy Hữu dư thân cận nhà sở y mà không trái thật tướng. Nói “vô lượng”: là đầy đủ lục độ, “đại phú” là tổng xưng, “tài bảo” là biệt. Tuy phân tài bảo Bát-nhã dẫn dắt năm độ mà đều thành thật, huống chi tất cả hạnh đều thành trân quý, cho nên nói “vô lượng”.
“Kim ngân…”: Đẳng cấp báu vật khác, tức các trợ hạnh đạo phẩm khác. “Bảo” không ra ngoài bảy thứ, có thể thí dụ bảy khoa. Thế nên bảy khoa, sáu độ thâu nhiếp hết. Cho nên trong Đại Tập lấy ba mươi bảy phẩm làm bảo cự tổng trì của Bồ-tát, kia quý giá như bảo vật, sáng tỏ như đuốc (cự) lớn phá tan sự tối tăm. Đầy đủ tất cả pháp gọi là tổng trì. Nói “Đại thừa”: Lẽ ra nói Viên thừa, văn tùy tiện đó thôi! Nói “Thiền sinh một trăm lẻ tám”: là đạt thật tướng thiền. “Tự nuôi dưỡng…”: là trí định đều có tự tha nay đủ, như trước giải thích.
“Đồng bộc (người hầu hạ)…”: Phương tiện Ba-la-mật căn cứ tự hành quyền mãn. “Khuất khúc…”: nêu quyền dụng lợi tha đều là công của đồng bộc. Như từ hạng áo vải bị sai khiến cộng đến địa vị giàu sang, đồng thành quyền bên trong thể. Sự lý không hai, nên đều gọi là “xứng”. “Căn cứ vị”: Hướng Thông căn cứ phương tiện chỉ nói đồng bộc. Từ địa vị Biệt phán xét nhiếp Tạng Thông Biệt, vọng thật vọng chánh, nghĩa tương đương hàng hạ tiện phục dịch. Thông luận cũng có thể thâu đắc nhân thiên, dùng phương tiện khác tức là ý này. Biệt Viên Thập địa: Vẫn còn giáo đạo cho nên lập danh Biệt. Do không có hai lớp Thập địa. Trước nay trong “đồng bộc” đã có Biệt tam thập tâm, nay vị “thần tá” là Viên tứ nhất tâm, kiêm thâu Biệt giáo Thập địa mà thôi!
“Tùy theo cõi…”: Ý giải thích thần tá (lại dân)… các địa vị sâu cạn. Thâu tóm đã nhiều gọi là “tùy cõi”, tuy đồng nhà Phật mà không thể không không có đẳng cấp. Sơ Thông đều là Thánh. “Tuy đắc…”: tức là Thập trụ đắc nhập Thánh vị, đồng chỗ vua ở cảnh cõi chân thật, mà địa vị lại thấp nhất. Đầu từ Thập hạnh, cuối đến như địa vị thần đều là Viên tiệm, cho nên cần phải dựa Viên giải thích. Tiếp, “Nhất tâm tam quán” đến “pháp Nhị thừa”: Tiếp nêu đồng bộc (tôi tớ) thần tá lại dân sở thừa, bởi vì sở thừa không ngoài các quán cho nên vậy. Tùy theo giáo dụng quán tức tương đương sở thừa, nhưng cảnh trí đây tuy tức tùy giáo mà đồng là Viên nhân sở dụng đốc thúc sai khiến. Tuy thông nhân quả mà không đồng trải qua địa vị, biệt biệt đương phần, cho nên nhân quả đây đều là Viên gia sở dụng. “Vô số”: Do đây các pháp này không ngoài quyền thật. Thần tá lại dân sở dụng thật. Đồng bộc… là sở dụng quyền. Đây cũng là nhất thể quyền thật, đều là sở hữu của trưởng giả. “Chẳng những…”: là kết nhiếp giải thích trước, không ngoài giáo quán. Giáo quán có nhiều, cho nên mỗi giáo bốn môn, mỗi môn có quán. Tuy là vô lượng mà chúng sinh được gia bị không dư. Hai chữ “nhập xuất” trong văn có bốn giải thích: Ba giải thích đầu là tự hành, một giải thích sau là tự tha. Trong ba tự hành thì dùng song phi làm “nhập”, song chiếu làm “xuất”. Phen tiếp: Xuất nhập tương đối, bản tương tức. Gọi là “xuất nhập” cũng lại xen nhau đắc, cho nên trí thể đây xuất nhập xen nhau chiếu. Hai giải thích này căn cứ Tam đế mà nói. Tiếp “vô lượng…”: là căn cứ Nhị đế mà nói. Hai, ba khai hợp đầy đủ như Huyền Văn. Thứ tư, trở lại dùng thứ hai, ba trước, tự lợi hóa tha. Cho nên biết đây đều là Thánh vị, nghĩa tự tha bao hàm ý “giàu”, nên cần các giải thích. Đây là quán đế, lại chỉ tại Thật, đối Quyền nghĩa lập có gì không thể ư? Chỉ dùng hai đối bất nhị, nhị đã nhiếp Quyền, cho nên không nhọc. “Hành nơi phi đạo”: về lý thông ba cõi, ngoài pháp tánh đều gọi là phi đạo, từ pháp tánh mà xuất làm lợi ích cho chúng sanh trong ba cõi. Công quy về nơi Phật, cho nên gọi là trở về chính mình (quy kỷ). Đây chỉ là công quy pháp tánh Phật đạo.
“Khách thương buôn bán (thương cô cổ khách)…”: Lẽ ra nói chữ “mãi”, nghĩa là ở nơi mua bán gọi là “mãi”, thông vật gọi là “thương”. Nếu nói chữ “giá” thì chẳng phải chánh ý văn. Chẳng những đức Phật tự hóa chúng sanh vô biên, mà còn khiến Bồ-tát hóa cảnh cùng khắp. Bồtát hóa độ lợi ích cũng như giúp cho bản Phật. “Qua lại các nước”: đầy đủ như các kinh nói Bồ-tát trong mười phương qua lại thọ lợi ích. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Đại Tập cũng theo lệ kia. “Như thế gian…”: Thí dụ hướng hai giải thích, khiến tha như Bồ-tát, cũng tự như hai thân. “Đầu tiên, bên trong hợp…”: Đầu tiên thông luận Đại ý. Tiếp, “Quán…”: nêu tà tuệ sở quán. Nói “Quán sát năm ấm…”: trở lại dùng tà quán, quán ấm đoạn thường. Dùng tà tuệ đây ngầm giúp chánh, trở thành nguyên do thấy Phật. “Khổ cảnh làm cơ”: Lại hướng tà tuệ trợ chánh thành cơ, nhưng nhân khổ ngoại đạo ứng chiêu cảm khổ quả, cho nên nói “khổ cảnh”. Do đới chánh chủng huân tập tà tuệ tâm, cho nên được thành cơ cảm chánh tuệ Phật. “Niết-bàn thông bán mãn”: Danh đồng mà thể khác, đều hiện sở cư, hóa vật danh khác mà cảnh Phật không khác, cho nên chỗ con đến hai nghĩa song thành. Cơ thuần thục, nếu chứng thì chứng cái mà cha chứng, gọi là “đến thành cha”. Đây chính là tiểu căn cơ trước bấu víu đại ứng nghĩa lập cùng tử rồi đến thành cha, cho nên khiến thành gọi là “Niết-bàn”. Đại tiểu cả hai đều đắc cho nên dùng “bán mãn” chung thâu tóm vật cơ. Cơ đã không đồng thâu cũng trước sau. “Cha hằng nhớ con…”: Trước tuy cơ dần dần bám víu Thánh, nay nêu Thánh dần thâu cơ, nghĩ hóa đạo nên nói “lo nghĩ”.
“Chưa từng hướng đến người nói…”: Văn căn cứ hai ý để trình
bày nghĩa đây. Trước phương tiện, tiếp cõi đây. Đầu tiên, phương tiện: Trong phương tiện kia chẳng những chỉ có Địa tiền, Trụ tiền, mà còn có thùy tích đăng Địa đăng Trụ, tức thần tá… lẽ nào hoàn toàn không biết cơ tánh cùng tử? Chỉ căn cứ cùng tử nói “Thời chưa đến”. Chủ bạn cùng nhau che Thật chưa thích nghi, Quyền từ căn cơ chúng sinh cho nên gọi là “không nói”. Do trong giới nội năm người đoạn Thông hoặc, tức chưa kham hiện rõ ràng nghe nói “như vậy”, cho nên không hướng đến thần tá… nói. Lấy làm thần tá mà ý tại đồng bộc. Trong đó chỉ Tiểu cho nên nói “không hướng đến”. Sở dĩ trong tâm trưởng giả đều nghĩ là con mình, nhưng từ cơ khác cho nên lập lấy Tiểu danh, dần dần dẫn dụ mới thành “thần tá”. Cho nên biết pháp thân vốn tự cao xa mà sáng suốt. “Lại từ khi xuất thế đến nay…”: là ý thứ hai: Dẫn nêu cõi đây giáo xưa hiển lộ chưa nói, đối đây che kia, cho nên gọi là “không nói”. Vậy thì trước lập nghĩa thắng Ứng, nghĩa kiêm hai nơi. Nói Liệt ứng để hợp căn cơ thiên lệch kia, cho nên nói là “không nói” thông đến bốn vị, trong bốn vị đầy đủ thần tá và đồng bộc… “Đã chẳng phải…”: là giải thích người Tiểu thừa trong ý thứ hai. “Như điếc câm…”: chỉ thời Hoa Nghiêm. “Hoặc hoa trước…”: chỉ thời Phương-đẳng, nói “không kịp” tức kiêm nơi Bát-nhã, mà không mong cầu lấy tức việc kia. “Hoa trước…”: tức Thân-tử. “Khí bát” tức Không-sinh (Tu-bồ-đề). Cho nên phải biết rằng nói “không nói” thì có liên quan gì đến Pháp thân Bồ-tát?
“Tâm rất ăn năn…”: Là giải thích nguyên do xa, nguyên do xa tức là duyên không nói. Bởi do xưa khi kết Đại thừa chưa nhập tương tợ. Cảnh tỉnh mình chê trách con cho nên nói không siêng. Do đây thoái đại mất sự điều phục thuần thục giữa đường, cho nên nói “không có dạy bảo”. Trái mình hướng đến người, Cho nên nói “trốn chạy”. “Trốn chạy” có ba nghĩa:
- Cơ dứt ứng với từ chối.
- Trái mình hướng người.
- Ở nơi không nên ở, tức năm đường.
Cho nên khiến Như Lai vô duyên mà nhớ. “Giận con…”: là chuyên bài xích nơi con. Chẳng những hối việc minh sớm dứt cũng chính giận con cơ sinh đến nỗi khiến xa thưa theo chánh pháp ta, thân gần theo sáu trần khác. “Nội hợp…”: Vì luận thoát nạn phải tịnh sáu căn. Căn cứ lý thoái, phần nhiều tại trước ngũ phần vị để đối với vị Bất thoái. Lại dùng năm phẩm làm Thoái vị. Văn giải thích hối hận, phân đối tự tha, theo ý cũng có thể đều đối kia đây. “Kỳ hạn hóa độ…”: Căn cứ ý sau giải thích, tức ứng thế cho đến trước Pháp Hoa, cho nên nói “già yếu (lão hủ)”. “Cũng không căn cứ đây…”: Là không căn cứ ứng hóa Thanh-văn. “Dận” là nối nghiệp. “Nếu Thân-tử thọ quyết” đến “bất đoạn”: nghiệm biết thọ ký vì dẫn căn cơ chúng sinh. Quyền Thật đều như vậy cho nên nói “chúng sinh đời sau…”. Lại tu tịnh độ cùng chúng sinh kết duyên, khi Thân-tử thành Phật, khai quyền hiển thật thì Phật chủng không đoạn nơi phương kia. Cơ duyên thành thục nơi cõi kia, trong đó cũng có chủng ở nơi Đức Phật Thích-ca, thoát quy về Thân-tử cho nên phải hội đây rõ ràng phát ngôn. “Nếu Thân-tử không thể hóa…” trở lại dùng không để giải thích có. Nếu Thân-tử tự không có căn cơ thành Phật, thì Thân-tử sở hóa sao được thành ư? Cho nên lấy đây hiển nay khiến có cơ sở. Kinh nói “chung một (khi chết)”: Là chỉ khi Niết-bàn. “Lại nghĩ…”: ý thứ hai: Trước nêu khổ mất con, vốn hiển tìm được con thì vui, cho nên kinh nói “Nếu ta gặp đặng con…”. Dùng hiện tại để nói vị lai, là nêu sinh lĩnh giải thuần thục. Tổng thí dụ luận đủ Quyền Thật từ đầu đến cuối cho nên được song biện Thắng liệt hai ứng và dùng Liệt ứng hóa đạo từ đầu đến cuối. Cho nên, trong bản thí một hàng trước nói Thật, một hàng sau nói Quyền, huống chi khai sáu nghĩa Quyền Thật đối nhau. Từ “Pháp thí” đến “xen nhau nêu”: Cảm ứng đạo giao không trước không sau, chỉ tùy văn tiện xen nhau nêu một biên. Trước nêu không đồng. Tiếp, “Căn cứ Phật…”: căn cứ chúng sinh và Phật xen nhau luận như Chỉ Quán nêu trong ý cảm ứng. Trước phàm Thánh tương vọng xen nhau làm nhân duyên. Tiếp cảm ứng đạo giao tự tha phá rồi thì mới gọi là “bất tư nghì phát”. “Nay dùng văn tiện lợi”: Đây tuy có ba văn, lại y hai văn giải thích cho tiện, chẳng phải tức hai văn này khiến thấy có trước sau. Cho nên, phần đầu biệt thí lại theo phần sau thoái Đại ở thời ngũ trược, nên có ba văn.
Từ “Nguyên do thấy cha”… đến “triển chuyển (lần hồi đến nhà cha)”: Là do chán khổ… Tánh của hai thứ Kiến, Tu đều có nghĩa chán. Tu suy tìm lý, kiến yếu đuối sinh đoạt độn. Các kiến xen nhau hưng khởi đều có thể suy tìm lý. Pháp “dung nhậm (làm thuê làm mướn)” là dùng sức để đổi lấy tài vật. Vốn khởi tà kiến lại mong thoát khổ. Tuy lại là tà cầu mà đã ngầm giúp cho chánh đạo. Cho nên, khiến thế gian chán khổ, bèn trở thành xuất thế thiện cơ. Thế đổi lấy xuất thế cho nên nói “làm thuê làm mướn”. Từ một đến một cho nên nói “lần hồi”. Nói “thiện căn”: Cũng là nghĩa có khả năng sinh, nên có lý chuyển đến. Cho nên nói: do đây bèn đến nhà cha. Không cầu mong mà hội, cho nên gọi là “ngộ” (gặp). Không là ý nhân nơi pháp thế gian bỗng cảm đến từ bi xuất thế gian, lại không là ý thế gian tà suy tìm mà sinh chánh kiến cảm đến Phật. Lại không là ý trong Tiểu thiện mà ngầm vào Viên môn Đại thừa. Đại Tiểu hai cơ cùng bấu víu nhà này. Đại cơ chưa thuần thục, chính là thấy đó mà xa. Tiểu cơ cảm ứng khá gần nên đứng bên cửa mà trốn. Do đó từ Thoái từ Cuối nghĩa tương đương cả hai cùng bấu víu từ Bản từ Đại riêng tại nơi Viên, từ cận mà luận đàm căn cơ thiên lệch trước cho toại ý. “Nơi thấy cha tức bên cửa”: Trước thì ở nơi Đại Tiểu cùng bấu víu, nay mới riêng chỉ “bên cửa” do Tiểu cơ gần. Nói “Hai quán là phương tiện”: tức là Nhị biên đều có nghĩa được thấy, cho nên tổng mượn chứng. Nhị biên đều thiên, thiên chân rất hẹp. Từ “Chánh kiến có hai” đến “gọi là xa”: là trong chánh kiến lại phân đây làm hai: Gần tức các chúng Bồ-tát trong Hoa Nghiêm; xa tức Nhị thừa, cả hai đều chưa hợp chỉ ở bên cửa. Trong văn có hai giải thích: Trước cơ, sau ứng, đều gọi là “xa”. “Ngồi giường Sư tử”; là giải thích sở biếu: Về sự thì tòa Sư tử cũng không có hình dáng Sư tư, chỉ có sở biểu. Cho nên Đại luận nói: Đức Phật làm Sư tử trong loài người, cho nên chỗ Phật ngồi gọi là “tòa Sư tử”, điều Phật nói gọi là “Sư tử hống”. Các người Thanh-văn thuật lời Phật nói mà còn được gọi là “tác Sư tử hống”. Bộ tuy kiêm Biệt mà theo thắng theo bản, cho nên gọi là “Viên báo”, đây chính là dùng bản của căn cơ. Cho nên từ đây trở xuống đây đều cần giải thích theo Viên giáo.
“Bảo kỷ (ghế báu)…”: một ghế đỡ hai chân, định tuệ sở y không sai khác, từ định gọi là đế, từ tuệ gọi là cảnh, đầy đủ như Chỉ Quán quyển ba nói. Cho nên hợp nói “Vô sinh định tuệ nương Chân như cảnh” tức sức định tuệ trang nghiêm pháp thân, từ sở gọi năng cho nên nói “Vô sinh định tuệ”. Nói “nương Chân như cảnh”: Dựa cảnh thành tựu quán nên gọi là “nương”, quả thể khởi dụng lại gọi là “nương”. Lại từ nhân mà nói, thì nhân tánh có tu cho nên gọi là “nương”. “Xưa nói…” là nêu giải thích của người xưa, hơi giống như nghĩa Biệt, chẳng phải là cái mà nay dùng, chuẩn theo lệ dễ biết cho nên không cần phá. Tiếp, “Xưa nói kinh này…”: là xưa có bốn lỗi:
- Pháp thân không phải thường.
- Tha phương vì đây.
- Lấy ứng làm pháp.
- Đối diện trái giáo.
“Nay cho rằng…”: trong phần phá nói “cha con…”: Cha con ví như cơ ứng, trước là thí dụ sau là pháp. “Mặc, cởi” ví như thể dụng, đầu là pháp sau thí, cả hai đều không thành, vì “nghĩa mặc cởi” sai khác. Văn trước đã phá.
Từ “Lại không chấp nhận…”: lại phá phương khác tự có ba tiết. Sư đây cũng dùng tha phương là Di-đà. Nếu dùng thân tôn đặc (tôn trọng) làm Di-đà thì đây có ba (thất) lỗi: Đại tiểu hai cơ đều tại Phật nay, chính là thành thấy y xấu làm bấu víu đây, thấy chuỗi anh lạc làm bấu víu Trưởng giả kia. Kết duyên cũng như vậy. Lại, ngày xưa Đại tiểu hai duyên đều tại đức Thích-ca, nay thân tôn đặc, y xấu đều tại Di-đà lại thật đáng cười! Cho nên ý thứ ba lập nạn càng khó. Xưa duyên Đại tiểu nhất định tại Phật nay, lẽ nào ứng ngày nay song ứng phương khác? Lại sao được Đại ứng tại cõi kia, Tiểu ứng tại cõi đây? Ý thú bình đẳng nghĩa cũng chưa thành, đầy đủ như trước phá.
“Nay nêu rõ…”: là chánh giải thích: Đây tức nối tiếp trước giải thích từ Phật ứng thế đến nay. Cho nên, biết Thắng ứng tại Hoa Nghiêm. “Nay kinh…”: là phá không phải thường trụ. Người xưa đều nói: “Niếtbàn nêu thường, Hoa Nghiêm pháp giới, Pháp Hoa không nêu”, tức là không hiểu bộ loại “Kiêm, Đãn, Đối Đới”. “Cấu y (y xấu)”: chính là trình bày xưa nói; xưa còn không nói y xấu, tại sao có thường trú? Từ “Sở thuyết pháp tướng” đến “không khác biệt”: là nay ý kinh kết hội từ đầu đến cuối. Giả sử luận pháp tướng như kia Viên thuyết, thì nay chẳng phải hoàn toàn không có mà văn tướng có lược. Trong bộ Hoa Nghiêm không ngoài bốn mươi hai vị, y chánh tự tại gần thiện tri thức. Kinh nay nêu vị, đầy đủ như mưa bốn thứ hoa. Khai thị ngộ nhập; tri thức đầy đủ như các phẩm Quan Âm, Diệu Âm, Dược Vương, Nghiêm Vương; y chánh đầy đủ như phẩm Phân Biệt Công Đức, Bảo Tháp, Thần Lực, chỉ có lược rộng có chút khác, nêu một ước lệ cho nhiều. Cho nên, bên dưới văn sớ nêu mười nghĩa biện rõ sai khác, đầy đủ như nói mười phương, có chỗ nào không nhiếp? Lý thật tướng không sự nào không thâu! Lẽ nào mê rộng lược mà mất Đại thể? Tổng như Huyền Văn nói Thập diệu dẫn các văn để chứng minh, tức tướng kia. Người không thấy điều đó, thì vọng sinh bỏ chọn. Cho nên, kinh này nói “Không, vô sở hữu…”: là nói Thật tướng các pháp. Thấy Phật thường tại bình đẳng với người cõi này không hủy báng các sự. Lầu nhà các thứ trang nghiêm, chúng sinh đủ thứ dạo chơi trong đó, cho đến tích môn nhân quả các tướng. Phần nhiều người lấy văn Hoa Nghiêm để tiêu kinh, tính toán thông suốt chứa đựng ở kinh điển này là hàng đầu lấy cho phân tán ở các kinh. Nếu Đại bản mất, thì uổng luận Tiểu lợi. Từ: “Cư sĩ” đến “tức tam thập tâm”: giữa đường dừng trong đó lấy “dân” làm Thập trụ, “thần” làm Thập địa, nay cư sĩ là dân, do văn hẹp nên không phân thần… cũng Viên bốn mươi mốt vị vậy. Từ : “Chân châu” đến “Pháp thân”: đều là cứu cánh giới Lăng Nghiêm định Nhất thiết chủng tuệ Pháp âm Đà-la-ni trang nghiêm Viên nhân bốn mươi mốt địa. Địa là đối tượng bước lên, thân là chủ thể bước lên. Tứ là năng nghiêm, thân là sở nghiêm. Nếu dùng nhân xa cũng dùng sơ tâm viên giới định… để nghiêm tánh đức. Nếu từ nhân nói thì cũng là phục sức của bốn mươi mốt vị đến quả, đồng đều trang nghiêm pháp thân cùng tột.
Nói “giá trị”: Có sang, hèn nên như các vị. “Lại, dân…”: Trước nói “vây quanh” thì không nói “lại, dân”. Nay nêu đứng hầu thì cùng “tôi tớ” chung hạng cho nên biết lập danh tùy nghĩa không thể nhất định. Vốn thí dụ sự lý sao được như ôm cây đợi thỏ, nên trước dùng “lại dân” tại Thật, nay đây “lại dân” Quyền nhiếp. Cho nên, tại đồng khác hai môn, bỏ qua chi tiết là đồng, đương phần là khác. Vậy thì, đồng là đồng thể, khác là khác thể. Khác thì căn cứ thiết lập Quyền, đồng thì dựa theo khai hiển, chỉ một lại dân mà nghĩa đương thuộc hai. “Nội cùng…”: Là giải thích chữ “đồng”, đồng từ bên trong đồng được tên, bên ngoài đồng làm hiển bên trong. “Dụ như…”: là dụ hai nghĩa trước, cũng như quan lại hiền lành thì bên trong ứng ý chủ, bên ngoài dùng sai khiến, cũng như yếu thần bên trong thì làm bầy tôi của nước, bên ngoài thì làm chủ lớn của dân. Thể thần không riêng sở đối không đồng.
Hỏi: Trong đây tuy là tòa Hoa Nghiêm, “Thắng ứng tướng trạng” cùng “trước giữa đường dừng” nghĩa ý phần lớn đồng, vì sao trước dùng “nô tỳ (đồng bộc) làm Biệt giáo Hiền vị, “lại dân” làm Viên giáo Thánh vị ư?
Đáp: Nói tuy có chút khác mà ý cũng không khác, tùy cách nói kia bèn thuận tiện để hiểu kinh, vì ngoài đồng bộc ở trước còn có thần… bốn thứ nên biệt phân. Trong đây chỉ nói: “lại, dân, đồng bộc” chung làm một vị vì làm đối tượng sai khiến. Lại, ý ở đây đoạn Biệt hoặc, tức nhập Địa, Tru, chẳng phải người sai khiến. Lại, đây cùng dừng lại trong thành, tuy tức đồng mà là tha thọ dụng báo.
Đây đã thị nhập Nhẫn giới làm Bồ-đề tràng, làm khởi đầu các giáo, cho nên thêm như thế để phá bụi trần “bạch phất”, che phủ lấy từ bi làm “bảo trướng”. Trước trình bày chỗ ở, sở hữu của trưởng giả, nay nêu sở kiến sở hữu của cùng tử. Sở hữu đã đồng rộng lược chuyển dụng. Trong cụm từ “Đứng hầu vân vân” thì “vân vân” là: Trong nay vì là phương tiện trung đạo, đều thích hợp Địa tiền để giải thích “lại dân”, giữa chánh, hai bên, dân, chủ sai khác, căn cứ theo bộ nên nêu rõ thứ lớp và không thứ lớp, cho đến hai giáo, giáo chủ không đồng, đều có nghĩa “đứng hầu, quét bụi” khác nhau. “Các hoa phan đẹp thòng xuống”: Tứ nhiếp hiện thần thông lợi hạ gọi là “thùy”; tuy hoa và phan đều rũ xuống mà hoa trang sức cho phan như thần thông có tứ nhiếp, người thấy thì sinh hoan hỷ. Lại tuy phan và hoa đều động mà được danh xứ sai khác. Phan đặc biệt dịch chuyển, hoa thì căn cứ đoan trang tốt đẹp. Thần thông hạ hóa khiến chúng sinh vui thích, vận hai thứ này, ắt là thượng đẳng vô duyên, cho nên đều như “trướng” treo lơ lửng, dụng xứng nơi thể như che khắp trên Phật. “Hương thủy…”: Nếu căn cứ tự hành thì như giải thích thứ hai. Nếu không dùng “nước thơm tưới lên đất”, thì trướng, phan hoa bị vấy bẩn bụi trần nên dùng nước trí hương tưới đất thật tướng, trị sạch tam hoặc trần thì Như Lai trưởng giả Từ… đều tịnh. Nếu căn cứ giải thích đầu thì nước thơm tưới đất tâm Bồ-tát. Đã từ lợi tha tu nhân để giải thích, cho nên biết bảy thứ tịnh phải từ nhân Bồ-tát hạnh để giải thích, danh tuy đồng tiểu mà đây tức Viên giáo. Cho nên, nêu tam tụ và Lăng-nghiêm… Nếu y phương tiện thì tùy giáo nghĩa biệt. Nay y Viên tâm đều do bảy thứ đây ban khắp các địa. Tự hành thì hành nay, khiến tha tu nay, cho nên trong văn đều y Viên giải thích.
“Trưng bày la liệt…”: Hoa tiêu biểu nhân nghiêm, báu tiêu biểu quả đức, nhân quả vạn đức đều nghiêm thật lý cho nên khiến la liệt bày đều tại nơi đất. Đất chẳng phải là hoa báu mà bày khắp hoa báu, lý chẳng phải nhân quả mà tu chứng nhân quả. “Xuất nạp: như trước giải thích vân vân”: chỉ bốn lớp trước, chỉ vì trước thì chỉ tại quả nay có thông nhân. “Tướng hải (biển)”: Toàn chỉ Hoa Nghiêm phẩm Như Lai Tướng Hải và dùng phẩm Tùy Hảo Quang Minh trong đó nêu rõ Tỳlô-giá-na đầy đủ mười Liên-hoa-tạng thế giới hải vi trần số tướng, mỗi mỗi đều dùng diệu tướng trang nghiêm, cho nên nói: “cần giải thích theo nghĩa Phật Xá-na”.
“Thấy cha sợ tránh”: Cha con thấy nhau tuy ví như cảm ứng đạo giao bất khả tư nghì. Nhưng nếu căn cứ hóa sự tiệm giáo để luận, thì nói “Cha trước thấy con” là Như Lai quán xét căn cơ, đạo lý như đây. Nay nói “Con trước thấy tướng cha và xứ…”: chẳng phải tức đã thấy mà đều là căn cứ cơ ứng, thuật đủ đầu đuôi nguyên do thọ hóa. “Hoặc là vua, hay bực đồng vua”: Đã nói thấy cha sợ tránh tức tại sơ giáo đốn tiệm. Nếu căn cứ trước đốn tiệm thì chưa có nghĩ sợ ma, căn cứ tiệm cơ đối Đại thì luận “sợ tránh…”, cho nên nói “chưa từng thấy nghe…”. Từ “Lược khai” trở xuống: là dùng sau để nghiệm trước, nghiệm trong khả năng của xưa, đầu tiên cho Đại thì quá sức Thân-tử khi nghe Phật lược thuyết, cho nên nói: “Quá sức ngày nay”. “Lại nữa…”: là lập lại giải thích ý. Căn cơ tiểu thừa lúc ấy lẽ nào biết hai thân? Cho nên thuật trong căn cơ không thọ, cũng như cùng tử thấy vua hoặc bậc đồng vua.
Hỏi: Pháp thân là thầy của Báo, sư đệ nghĩa khác biệt vì sao nói là ngang đồng?
Đáp: Đây đồng là con của thầy như Pháp, Báo tương xứng. “Các kinh phần nhiều gọi là Kinh vương…”: Lần nữa lại căn cứ Giáo mà giải thích. Các kinh có nêu nghĩa Pháp thân tức gọi là Kinh vương. Trí khế hợp pháp tương xứng gọi là bình đẳng. Cho nên trong căn cứ cơ đối pháp đối trí, gọi là “vua, bực đồng vua”, tức các bộ Đại thừa cùng Tiểu thừa đối nhau. Người đời không hiểu thấy các kinh Đại thừa xưng là Kinh vương, bèn cho rằng kinh Pháp Hoa đồng các giáo kia. Nay cho là nhũ và hai tô đều luận Pháp Báo, tuy đều xưng vua mà chẳng phải vua của các kinh.
Dù có kinh nói: “Vua của các kinh”, nhưng không thể nói từ xưa đến nay đương thuyết pháp đệ nhất tối thắng. “Kiêm, Đãn, Đối, Đới” nghĩa kia có thể biết. “Tư” là phóng ra, phô bày ra. “Khi đó ông trưởng giả giàu…” là “thí dụ thấy con”: Nhưng các Thanh-văn trước lập thí dụ con thấy cha, ví khéo dụ lãnh Tiểu gặp Đại mà trong căn cơ không thọ. Nay lập thí dụ cha thấy con, là diệu dụ lãnh Phật thấy căn cơ mà không mưu tính nhưng thường biết rõ. “Thấy con, xử lý”: Như Lai chẳng khởi Không tòa mà hoan hỷ thích hợp nguyện. Cho nên chỉ căn cứ hóa nghi mà nói cha thấy con. Lẽ nào dùng Phật nhãn mà Phật đợi con thấy rồi sau cha mới thấy ư? “Nay cơ đến xứng hợp lòng Từ”, Đại Tiểu đều đắc gọi là “lai xứng”. “Kia nêu rõ cứu khổ…”: là phẩm Thí Dụ, cũng nên nói Thí dụ trước thì Như Lai ban Từ, sợ chúng đọa khổ. Đây dụ các con lãnh thọ nhận đức Phật ban vui. Như Lai cứu khổ vốn ở ban vui, con lãnh thọ lạc rồi biết cứu khổ. Hai nơi nghĩa đồng, tùy văn xen nhau nêu ra. “Liền suy nghĩ rằng” đến “bất đắc”: đây cũng thuật từ nơi thoái đại đến nay. Đã nhập ngũ trần, Đại pháp không phù hợp để trị, tìm mưu tính dùng Tiểu, Tiểu lại liền đến. Nay cơ tiệm đến mới thi thiết Tiểu hóa. Nói “dùng Tiểu”: tức không phải cho rằng thời xưa đã đắc nơi tiểu, cũng chẳng phải đời nay mới dần dần đến Tiểu. Cho nên, ngày xưa không gọi là “cơ đến”, thì có ai đâu để luận trao của cải? Cũng không hoan hỷ, cho nên chỉ nói “xưa thấy muốn cho bình đẳng…”. “Ngày nay” đến “có người để giao phó”: thấy Tiểu căn cơ đến, thì biết cách Đại chẳng xa. Cho nên, mừng vì chúng là chỗ để giao tài sản.
“Ta thường…”: là giải thích trước nay thoái Đại về sau, trước đốn tiệm không có thời nào mà không tư duy Đại Tiểu nhị hóa. Tuy Đại Tiểu đều lỗi, mà vì để lưu chuyển đối với tâm bi, nên khiến ngày nay giao phó tài sản có nơi. “Nay có căn cơ đáng độ sinh…”.
Hỏi: Căn cơ sinh (là) do Phật, sao nói tự đến ư ?
Đáp: Tuy cơ sinh là do Phật cảm mà cũng do chúng sinh. Lại, nhờ vào Trưởng giả thế gian tán thán con tự đến, tức xưa thì cơ không sinh nhưng nay thì có thể phát, vì tán thán cơ phát nên nói là “tự đến”. Nếu cơ vẫn còn sinh thì truy tìm cũng không đến, sao có thể tự đến! “Ta tuy…”: là dò xét nói hy vọng về sau. Hoặc như một kỳ báo thân sắp dứt, không có người giao phó nên tiếc. Như xướng diệt độ pháp đều tùy diệt, thị hiện diệt vẫn còn tiếc, cho nên gọi là “tuy”.
“Liền sai người hầu bên cạnh…”: Từ đây mới lãnh thi thiết đốn tiệm hóa, cho nên biết trước lúc ấy thí dụ đốn, trước tiệm hoặc Đại hoặc Tiểu. “Chỉ vì phẩm Phương Tiện” đến “đều lãnh giải”: Ý nói văn tuy giảm, ý ắt đều tồn tại. Phẩm Phương Tiện đã vì thượng căn cho nên không cần biệt nói, Thí thuyết đã vì hàng trung căn cho nên cần phải tách tổng ra biệt. Trong hợp và tụng tuy lại thiếu lược mà dùng thí dụ làm chánh, còn lại đều kiêm xen nhau. Nay đã lãnh thí, cần phải thuật khắp. Nói “Chỉ vì phẩm Phương Tiện tổng răn, khuyên v.v…”: sợ người suy tìm lộn xộn nên lập lại sớ nêu xuất. Trong chương Thích-ca ở văn phẩm Phương Tiện, chỉ nói “nghĩ Đại thiết lập Tiểu”, tuy không nói khuyên răn sai biệt mà ý nói tại khuyên, cho nên nói “trong ba tuần tư duy các việc như vậy”; tức là dự định cho Đại vậy. Các căn chúng sinh độn, tức không có cơ. Các loại như đây, tức thôi hóa. Tức đến Ba-la-nại… tức thiết lập Tiểu. Tuy không nói răn mà nghĩa bao hàm hai môn. “Nhà lửa khai khuyến xuất giới”: trước đây theo pháp thuyết tại Khuyến khai Giới, giải thích đều có ba. Trong Khuyến môn có ba: Đầu tiên nói “Trưởng giả tư duy rằng…” là dự định thích nghi. “Lại tư duy rằng nhà…” tức không có cơ duyên. “Hoặc đương đọa lạc…”: tức buông bỏ. Trong Giới môn có ba: Đầu tiên nói: “Ta sẽ vì nói…” tức dự định thích nghi. “Cha tuy thương xót…”: tức không có duyên. “Đông Tây ruổi chạy…”: tức buông bỏ. Trường hàng hợp Khuyến, không hợp Giới. Trong Khuyến có ba: Đầu tiên nói: “Như Lai lại tư duy rằng: Nếu ta chỉ dùng…” tức dự định thích nghi. “Vì sao vậy? Vì các chúng sinh chưa tránh khỏi…”: tức không thọ. “Như Trưởng giả kia tuy lại…”: tức thôi hóa. Nói “Thôi hóa văn rộng”: Trước trình bày trước sau ba thí dụ. Tiếp mới dùng ba hợp chánh nêu rõ thôi hóa. Đầu tiên, “Như trưởng giả kia”: Là trình bày đầu không đắc một thí, chánh nêu rõ thôi hóa. Tiếp, “Chỉ do ân cần…”: là thiết lập Tiểu. “Rồi sau đều cùng ban…”: là đồng ban cho. Hai thí dụ này là phụ, hợp nghĩa thôi hóa. Tiếp, “Như Lai cũng lại…”: mười sáu chữ, đầu tiên là chánh hợp thôi hóa cho nên nói rộng.
Trong kệ chỉ nói Giới (răn): Cùng đầy đủ có ba:
- “Mới thích nghi cứu giúp…”: Xuống bốn hàng rưỡi là tụng dự định thích nghi.
- “Các con không biết xuống…”: ba câu tụng ý không thọ.
- “Hy hý…”: một câu tụng thôi hóa.
Từ đây trở xuống dưới thuộc văn dùng xe. Đây tụng văn thí thì đầy đủ có ba. Chỉ tụng trong hợp cũng chỉ hợp Giới (căn). Có một hàng văn trường hàng và tụng vẫn tiến thoái hai giải thích. Đầu tiên giải thích cũng đầy đủ có ba. “Tuy lại dạy bảo”, một câu: Dự định thích nghi. “Mà không tin thọ” một câu: Không có cơ duyên, “Ở các dục nhiễm” hai câu: Thôi hóa. Lại nói: “Hoặc có thể…”: hai câu cũng tụng ý không có cơ duyên. Y giải thích thứ hai, cho nên nói “không tụng thôi hóa”. “Liền sai người hầu bên cạnh…”: là nêu đều lãnh thọ, nhưng nghĩa thì có sáu, văn chỉ có năm: Trước khuyến, giới đều có hai nghĩa là dự định thích nghi và không có cơ duyên. Tiếp, Khuyến và Giới hợp nhất, tức hai môn thôi hóa.
PHẦN TRUNG
Tiếp “Sai người bên cạnh”: Là căn cứ giáo, căn cứ nhân. Căn cứ giáo thì Lý giáo vọng nhau, căn cứ nhân thì Sư đệ vọng nhau. Nhân ắt chỉ giáo, giáo ắt đãi nhân. Hai giải thích mới cùng khắp không thể hiển thiên vị. Đầu tiên ước giáo; lý tức Pháp thân, trí tức Báo thân. Do trí, nên nói “trí gọi là năng sai khiến”, trí tuy năng sai khiến mà sở y thì nơi lý. Năng sai khiến như “thần”, sở y như “vương”. Sở sai khiến là giáo, cho nên lý thì chánh giáo thì phụ. Cho nên, báo vọng giáo, thì báo cũng gọi là chánh. Nhưng báo do lý thành, lý thì gần báo thì xa, cho nên trong hai chánh thì theo gần để nói. “Lại, người bên cạnh…”: là căn cứ nhân giải thích: Trong kinh Hoa Nghiêm sau phẩm Hiền Thủ, phẩm Thập Trụ nói tại cung trời Đao-lợi, thập Tuệ Bồ-tát, thì Pháp tuệ là đứng đầu, chín Tuệ còn lại đều dùng kệ tán thán. Tiếp, Pháp Tuệ Bồ-tát rộng nói Thập trụ. Tiếp, phẩm Dạ-ma Thiên Tự Tại có thập Lâm Bồ-tát, chín Lâm cũng đều dùng kệ tán thán rồi. Công Đức Lâm rộng nói Thập hạnh. Tiếp Phẩm Thăng Đâu-suất có thập Tràng Bồ-tát, chín Tràng cũng đều dùng kệ tán thán rồi tiếp Kim Cang Tràng rộng nói Thập hướng. Tiếp phẩm Thăng Tha Hóa có ba mươi sáu Tạng Bồ-tát, Kim Cang Tạng đứng đầu, có Bồ-tát tên là Giải Thoát Nguyệt thỉnh nói Thập địa. Bốn Bồ-tát khi nói các giai vị “Trụ, Hạnh, Hướng Địa” đây đều nói rằng: “nhờ Phật lực mà nói”, cho nên gọi là “sở sai khiến”.
Tiếp, trong phần “Giải thích Chạy nhanh” cũng căn cứ nhân, giáo. Trước, trong căn cứ giáo chỉ dùng hiển lộ làm “nhanh”. “Nếu dùng Bồtát…”: là lần nữa thuật căn cứ nhân. “Bồ-tát tự có thần thông, lại được Phật gia bị”, cho nên gọi là “nhanh”. “Trái tâm…”: Trái ắt không biết kinh sợ, ắt ngạc nhiên như thấy bất ngờ, trái tâm không biết, giáo đây đối với kia cũng lại như vậy. “Lớn tiếng kêu oan”: Kinh chỉ nói “oan” mà không nói khổ, trong sớ văn giải thích sở dĩ kêu lớn tiếng là vì khổ
đau, do đó đầy đủ có hai nghĩa: Gặp oan ắt khổ nên gọi là kêu lớn, nghĩ như thế nghĩa lý hợp đúng. “Nếu khuyến phiền não tức Bồ-đề” thì chính là khiến cùng tử không đoạn phiền não. Phiền não không đoạn ắt chiêu cảm khổ báo; lẽ nào có “sinh tử tức Niết-bàn” ư! Vì vậy cho nên “lớn tiếng kêu oan” nghĩa đương nhân quả, văn ý trình bày cả hai. “Tự nghĩ mình vô tội…”: Là tự tỉnh chưa thể đồng chúng sinh nhập ác khởi tham dục…. Nay nếu làm điều đó thì gọi là tội hành. Bồ-tát ắt vào sinh tử lao ngục, cho nên nói “bắt giữ”. Không có đại phương tiện: Là không nhập giả trí khiến khởi tham dục, vào sinh tử gọi là mất tuệ mạng. “Ắt đọa…”: hai giải thích, “đọa trong ba đường khổ” thì Đại Tiểu đều mất. “Chìm đắm trong vô minh địa”, “địa” cần theo nghĩa bao gồm giới nội và giới ngoại.
“Căn cứ nhân làm sứ giả”: Pháp chọn căn cơ cần thân đồng loại. “Tịnh Danh…”: Sai hóa Bồ-tát qua lấy hương phạn, Bồ tát cõi kia thấy hỏi hóa Bồ-tát. Hóa Bồ-tát đáp, do Bồ-tát kia nghe nói cõi uế đây Đức Phật và Bồ-tát có khả năng nhọc nhằn, khiêm tốn, vị kia nghe muốn đến thành tựu hạnh song lưu. Đức Phật kia khuyên răn dạy rằng: “Nhiếp thân hương…”. Bồ-tát kia đến nơi đây cũng khiến ở cõi này người chưa phát tâm thì phát tâm, người đã phát tâm rồi thì tu hành, cho nên khiến nhiếp thắng theo liệt, hiện đồng loại. “Phổ Hiền nhập Sa-bà…”: Phổ Hiền Bồ-tát thân lượng vô biên âm thanh vô biên, sắc tượng vô biên. Muốn đến nước này, ngài bèn dùng sức tự tại thần thông thúc thân khiến nhỏ, vì người cõi Diêm-phù đề ba chướng nặng nề; dùng sức trí tuệ hóa cưỡi voi trắng, cũng vì chúng sinh không thích nghi thấy Thắng ứng thân. Cho nên Bồ-tát thắng báo thân cũng không thể khiến nhị thừa thấy.
Hỏi: Nếu như vậy, thì kinh tại sao không nói “Ông chớ khiến thấy thân uy đức” mà chỉ nói “Chớ cưỡng đem đến” ư?
Đáp: Thân nếu đồng loại thì dẫn dụ ắt đến, thân ông còn hơn ắt khiến kia sợ hãi. Cho giả rằng: nên bảo sứ không cần cưỡng dùng thắng thân để giáo hóa, cho nên nói “chớ cưỡng ép”.
Nói “chớ cưỡng ép” giải thích thành câu trước. “Riêng bảo rằng…”: trong đây tuy không nói “tư duy”, nhưng tại văn thí dụ Khuyến và Giới môn đều có lời nói này. Trong Khuyến môn, dự định thích nghi tức nói: “Liền suy nghĩ: thân và tay ta có sức mạnh”. Trong Giới môn, dự định thích nghi tức: “Tư duy như vậy đầy đủ, rồi bảo với các con”. Cho nên, riêng dẫn. Cần thì liền sinh thiện cho nên nói “không cần” tức thôi khuyến thiện. “Cưỡng ép” tức răn ác, cho nên nói “chớ cưỡng ép”, tức thôi răn ác. Từ “Nên dùng” đến “như mặt”: Biết chúng sinh kia chỉ thích hợp nghe giáo sinh diệt, cho nên dùng lý “Khôi thân diệt trí” mà thuyết giáo lý Hữu, cho nên nói “nước Lý”. “Mặt” là dùng hướng để giải thích. Có trái sinh tử hướng cơ Niết-bàn, cho nên gọi là “diện (mặt)”. Chẵng phải cho rằng: “Sái” Niết-bàn kia, gọi là “diện (mặt)”. “Đừng nói chi với nó”: “Nói” chỉ là giáo. “Không nói với người khác” cho đến “Bồ-tát”: Trong đây nhất vãng chỉ nói xưa Tiểu nhưng trước Pháp Hoa các kinh Đại Thừa không nói Nhị thừa là Bồ-tát dẫn hộ trì Nhị thừa, lẽ nào liên quan đến Bồ-tát? Che Thật giữ Quyền cho nên nói “che giữ”, cũng là che ấm đem hộ không hiển rõ Thật kia. Cho nên, trước Pháp Hoa ngoài nhất Thật ra đều gọi là “tùy tha”. Lại nói “ẩn bốn vị”, thông nói Tiểu thừa giáo. Do xưa hai vị còn có Tiểu giáo, nhất định không có nói “Tiểu thừa thành Phật”, cho nên Nhũ và hai tô đều đối với Tiểu cơ mà nói là: “Không nói” đó thôi! Chính do bài xích thêm nói được tên hai vị. “Tức là thôi hóa” đến “từ đất mà đứng dậy”: Trong đây có hai giải thích, hai địa không đồng hai khởi không biệt, cho nên dứt một đại hóa lìa hai chủng địa. Tán thán đại đọa lạc khổ cho nên có trước giải thích, dùng tiểu nhận được cho nên có giải thích tiếp.
Trong phần Giải thích tiếp, nói “Vô minh địa”: Nếu nói “nằm ở đất” tức thí dụ hai vô minh, nếu nói “mà đứng dậy” thì lại từ giới nội, cho nên biết không giải Đại tiểu; đầy đủ hai vô minh đều gọi là “nằm”. Đây phù hợp tiểu pháp, trước là trị giới nội cho nên lại nói “đứng dậy”. “Trong Tứ đế” đến “y thực”: thích nghi hướng đến cảnh sở đối, cho nên nói “qua đến”. Tiểu vẫn tại cơ, cho nên dùng “muốn” để giải thích “cầu”. Câu dưới mới nói “Trưởng giả toan muốn”. Cảnh nhiếp pháp hẹp, cho nên nói “xóm nghèo”. Muốn hướng đến Tiểu quả, lại cần chánh trợ cho nên nói “y thực”. “Lại một ngày khác… là dùng ý lãnh Pháp thân địa”: Kinh văn nói “ông ở trong cửa sổ” thì chữ “trong” đó là nói “tại trước Đạo thọ”; ý thì đều chỉ trước Tiệm Đốn giáo, để nói đến nạn vấn tôn đặc cho nên biết Thông đến trước Đốn.
Hỏi: Bốn đại đệ tử… .Ý trong đáp: Đã nghe thí dụ rồi lãnh đủ hai chu, nhập Đại không dối cho nên tự xét nói “Nếu bắt đầu…” Nạp pháp đã trọng ắt có biết đây.
Căn cứ hóa nghi nói từ chỗ chấp nhận tiến thoái cho nên trước bằng nhau sau dò xét, lẽ nào có tự thâu hoạch Tiểu đến nay mới năm mươi năm mà đủ thấy cảnh giới Bồ-tát khó nghĩ bàn, nghe khắp các pháp dung thông hết thảy? Chẳng phải hoàn toàn không biết, nhưng chưa lường được nguồn gốc, tự xét mình tuyệt phần dự lãnh. Nay nhờ Pháp Thí, nhiễm được phần nào Viên thường, suy biết Như Lai ngày xưa như mặt trời trước chiếu. Cho nên, dưới đức Phật tán thán rất là hy hữu. Vì thế, dùng hai vị thấy, nghiệm trước thấy chẳng phải chân. “Thoát tướng Đại tiểu”: Tướng là biển tướng lớn, hảo là biển tướng nhỏ. Toàn ẩn thân biển vô lượng tướng hảo, cho nên thí dụ nói “thoát”. Tướng hảo khó lường dụ cho biển lớn khó lường.
“Mật sai hai người”: Trong đó, trước là giải thích “hai người”. Tiếp, “Đầu tiên dự định Đại…”: mới giải thích “mật sai”. Người là sở khiển, mật là ý sai khiển. Đầu văn trước hết nêu rõ ý chỉ có hai, cho nên đối Bồ-tát lại thông chỉ hai người. Tiếp, “Căn cứ pháp…”: là căn cứ pháp căn cứ người để phân hai. Tiếp, “Giải thích mật sai”: Trước thì đối người bên cạnh để biện rõ khác biệt, tức cùng mật hiển che lấp sai khác. Nay nêu “mật sai”: Che thật gọi là “mật”, dùng Tiểu gọi là “sai”. Che lấp “mãn”, nêu “bán”, căn cứ theo lệ có thể biết tức là phân bán tự và mãn tự để giải thích. Cũng là từ Đại thiết lập Tiểu cho nên gọi là “sai”, Tiểu không lường được Đại, cho nên gọi là “mật”. Nhưng “bán tự mãn tự” không đồng giải thích của người xưa, nay phải tại Viên, đầy đủ như Huyền Văn. Căn cứ người, chuẩn theo lệ có thể biết. “Hình…”: là tiếp giải thích hình sắc, cũng đầy đủ hai ý: Thứ nhất, căn cứ Tiểu giáo, trăm kiếp sở chủng tuy tại Tiểu luận mà không tại Nhị thừa. Cho nên Nhị thừa giáo không nói sắc hình tốt đẹp, mà nói vô thường gọi là “tiều tụy”. Thứ hai “Căn cứ người…”: ẩn Bản làm “mật”, hiện Tích làm “sai”, đầy đủ như văn dưới trong Phú-Lâu-na nói.
Hỏi: Nếu chuẩn theo văn dưới thì chỉ phát các Tích của Mãn nguyện và A-nan, vì các Thanh-văn cũng có bản ư?
Đáp: Nhập Đại Thừa luận nói: Không chỉ La-vân riêng là Bồ-tát, như các đồng tử, A-nan, Nan-đà và Điều-đạt… đều là Bất thoái Bồ-tát. Nếu vậy thì chỉ có Quyền mà không có Thật ư? Đáp: Dùng Quyền dẫn Thật, lẽ nào ngoài các Bồ-tát này đều là Quyền ư? Đây cũng là nghĩa sẽ giải thích nơi bản tích.
Nếu giải thích “vô oai đức” thì tùy nơi hình sắc để giải thích. “Đại giáo…”: Trước Đại giáo nhanh, cho nên nói “liền sai”. Muốn hộ giúp chí Tiểu thừa, cho nên nói: “từ từ nói”. “Trả giá gấp bội…”: Trong đó hai giải thích: Đầu dùng Giới thiện đế duyên tương đối làm một gấp bội, giới thiện tại Dục, đế duyên xuất giới. “Lại ngoại đạo…”: lậu vô lậu tương đối làm một gấp bội, cũng là nội ngoại hai đối trị không đồng, gọi là một gấp bội. “Sáu hạnh” chẳng vĩnh viễn “đoạn”, cho nên chỉ nói
“phục hoặc”, lược như Chỉ Quán quyển sáu nói. “Cùng tử nếu chịu…”:
Là đối kia không chịu, cho nên phải nói “nếu”. Hóa nghi chấp nhận cho nếu thuận vật tình, cho nên nói vậy. “Không luận tịnh Phật quốc độ”: Tịnh Phật độ, nghĩa lược như trong kinh Tịnh Danh phẩm Phật Quốc nói ngang mười bảy câu, dọc mười ba câu, rộng như trong kinh Hoa Nghiêm phần hồi hướng nói, và các kinh Niết-bàn, Đại Tập, Trí luận các văn đều nêu đủ. Tiểu thừa không có điều này, mà chỉ khiến “hốt (trừ ) phân”, cho nên được thọ ký rồi mới tạo tu cùng chúng sinh kết duyên, chẳng liên quan đến đủ hạnh . “Nhị thừa” đến “trước hỏi lấy” là: Trước hỏi giá tiền công, cho nên nói “trước hỏi lấy”, chẳng phải cho là đã lãnh hội cho nên nói “hâm mộ qua”.
“Người cha thấy con…”: Hỏi: Nếu “thương xót và trách nó”, thì vì sao mật sai dạy cùng tử nhận lấy quả ư?
Đáp: Người bên cạnh đuổi theo không đến sự cần phải mật sai. Tuy dạy “hốt phân” mà chẳng phải cha vĩnh viễn nhớ mong, muốn có sự rõ ràng để nói lời giao phó nên trước thương và trách nó. Đều ở đây là lãnh pháp thí đến văn đó xong, đây là thôi Đại cho Tiểu hai nơi đều có đoạn văn trước xong. Từ văn đây về sau, Pháp thuyết chỉ có khai quyền, Thí thuyết chỉ có đồng ban cho, đều thiếu hai vị trung gian. Nếu luận xét lãnh Pháp Thí hai nơi, thì tuy không có chánh văn nhưng chỉ nhãn (mắt) năng thấy pháp thí tức là Pháp thân. Cho nên tề giáo lãnh mà lại lãnh tiệm sơ, do đó bẩm thọ Tiểu gọi là “tề giáo”. Biệt có xét lãnh cho nên nói “Lại một ngày khác”, trong đó trước tổng thuật Lai ý, tiếp liệt chương, văn chia bốn đoạn. Nói “dự định thích nghi…”: ý nói: Phật tại pháp thân dự biết ta có Đại Tiểu bốn ý cho nên nói “dự định thích nghi…”. Tiếp giải thích chữ “lại (hựu)”: Trước giải thích chữ, tiếp giải thích nghĩa. Tiếp, giải thích “ngày khác”, giải thích hai chữ “ngày khác”, trong đó trước tách ra để giải thích hai chữ, tiếp “Tề giáo…”: là căn cứ hai lãnh tề thám, hợp xét hai chữ. Đầu tiên trong phần tách để giải thích nghĩa kia thì là tổng, do chưa phân tề giáo thám lãnh, tiếp hợp xét trong đó nghĩa thì phân biệt. “Tự tha…” ba thứ làm giáo thám. Đầu văn giải thích “tha” chia làm hai: Đầu giải thích, tiếp phê phán. Đầu giải thích: Căn cứ người Nhị thừa dùng Tiểu vọng Đại làm “tha”. Tiếp phê phán: Trước nay căn cứ Nhị thừa, tuy dùng Đại làm “tha” mà chưa biết Đại đây vốn dùng thân nào? Nay phán đó tức Pháp thân. Tiếp giải thích “nhật”: Đối pháp thân địa đã dùng Quyền Thật, Thật tự Quyền tha, trong pháp nhị thừa không có trí pháp thân cho nên gọi là “tha”.
“Nếu từ…”: là phán xét: Nếu từ pháp thân dùng Quyền trí, thì đối với người Nhị thừa cũng gọi là “tha”. Tha đây phải chỉ Quyền trí Phật.
Tiếp, hợp chữ để giải thích: Trong đó có ba giải thích, tức y Đại kinh nói tùy tha v.v… và nói hóa tha…, có làm pháp thức vẫn đối hai thời tề giáo thám lãnh. Văn chia làm ba:
- Giải thích ba tướng.
- “Nếu từ…”: là phán xét thuộc về nay.
- “Nay từ…”: dùng ý nay kết.
Phần một có hai: Trước, căn cứ hóa tha tức chỉ Tề giáo. Tiếp, căn cứ tự hành và dùng tự tha tức chỉ Thám lãnh. Nói “Tềgiáo”: Tức Pháp Thí hai văn chỉ đến Lộc-uyển. Dựa theo giáo cho nên nói Tề giáo. Cái gọi là “Thám”: Nghĩa là quá khứ dò xét hướng trước đạo thọ tịch tràng. Đầu tiên, Tề giáo: Tức thuộc nghĩa thứ nhất, trước căn cứ cơ thuyết, vì vậy cho nên Tề giáo chỉ lãnh giải Hóa thân, tức thời không phải hóa thân thì gọi là “ngày khác”. Tiếp, “Nếu căn cứ…” thám lãnh. Văn lại có hai: Chánh nêu hai nghĩa. Tiếp “Đây thì…”: là kết. Đầu văn: Tuy là Pháp thân đã dùng tự hành đối tha, cho nên dùng hóa tha Quyền Thật đều là tha, do đó Nhị thừa xưa cũng không lường nổi ý chỉ kia. Trong đây nói “tự hành” tợ như “tự tha”, dùng đối tự biện tha đều có Quyền Thật, cho nên song nói như thế. Tiếp trong Tự tha, tự cùng tha đều riêng nói Quyền Thật, tức là căn cứ lý hợp song, Trong đây nói “tợ tự hành”, vì đối hóa tha thành tự tha, do đó tự hành cũng chỉ hóa tha làm tha, tự tha cũng chỉ hóa tha làm tha. Cho nên biết trong Thám đều chỉ pháp thân thời quyền, Nhị thừa đối kia tuy thọ theo Tiểu hóa, mà đồng thể Quyền thì nhị thừa không hiểu. Đối Phật hai tự đều chỉ đồng thể pháp thân thời Quyền. Tuy có hai ý mà “ngày khác” đều thành.
Tiếp, trong “phần Kết” nói: “Hoặc có hoặc không…”: kết nơi pháp thân quyền trí sở chiếu, hoặc có cơ hoặc không cơ. Nói “Có thể không?”: Là nêu rõ pháp thân dùng trí hợp vật xứng cơ không thể và xứng cơ hay không? Thời đến làm có thể, đợi thời được không? Tuy có và không có thể hay không đều là quyền trí quyền cơ được gọi là “ngày khác”. Tiếp trong phân phán nói: “Nếu từ…”: là phán hướng Tề Thám. “Thám lãnh tự tha”: “tự” là nghĩa tự hành thứ hai, “tha” là nghĩa tự tha thứ ba. Nên lập lại nói “tự” mới hiển rõ nghĩa thứ ba. Đều là đối pháp thân làm “tha”, cho nên chẳng phải việc Nhị thừa. “Tuy có hai y” mà trong hai thứ Tề và Thám đều có nghĩa “tha”, cho nên nói “đều thành”. Trong Tề thì dùng pháp thân chiếu cơ làm tha; hai nghĩa trong Thám thì dùng trung của Như Lai tự hành đều lấy quyền làm tha, tha tức nhị thừa sở dụng. Tuy có nhị thừa sở dụng và phi nhị thừa sở dụng, hai ý không đồng mà đều được gọi là tha. “Nay y…”: thuộc đối ý văn, “Nay y Nhị thừa sở lãnh” tức Tề giáo Thám lãnh. “Lại theo ngày khác” tức Thám và Tề giáo hai xứ ba tha. Cho nên, Nhị thừa lãnh làm giáo của mình vọng ở Phật. Lại lãnh Như Lai dụng tha. Nói “Thám lãnh” cũng nên nói “Tề giáo”. Chỉ vì là văn lược, cho nên hai lãnh đều chỉ Pháp thân dùng cơ, chỉ theo nghĩa biệt hai tha không đồng.
“Song dũ” (cửa sổ): Thuyết Văn nói: Ở phòng gọi là “song”, ở tường vách gọi la “dũ”. Chẳng phải “hộ” (cửa đi) cho nên “thiên (lệch)”, nêu rõ xứ vẫn là bên kia. Nay cũng như thế. Chẳng phải chính giữa nên “thiên (lệch)”, không khắp nên “hẹp”, nên pháp thân địa quán không có Đại cơ, chỉ thấy thiên hẹp trước thuần thục. Chính do con ngăn cách bên ngoài cửa sổ, đâu liên quan đến lỗi trưởng giả thấy thiên lệch? Huống chi là trưởng giả muốn dùng thiên cơ. Đối với Viên thì vẫn còn xa, cho nên nói “xa”. “Cởi y phục tốt” đến “đồ trang sức”: Như trước đã giải thích. “Sinh nhẫn Pháp nhẫn…”: Nhẫn hữu tình não gọi là “Sinh nhẫn”, nhẫn vô tình não gọi là “Pháp nhẫn”, nghĩa là nhẫn với lạnh, nóng, mưa, gió v.v… thuộc Pháp nhẫn. “Tay trái…”: Quyền thật trong Tiểu. “Tướng trạng có vẽ e sợ”: là trạng tương tợ, quyền dùng thật; đầy đủ như Thích Tiêm dẫn văn Thành Thật luận. “Lại có gió rét…”: Đại luận quyển chín nói Đức Phật có não, nghĩa là sáu năm khổ hạnh. Tônđà-lợi hủy báng, Kim Thương, Mã mạch, Lưu ly giết dòng họ Thích, khất thực bát không, Chiên giá nữ hủy báng, Điều-đạt xô núi đá, Gió rét xin y và Song thọ đau lưng, tổng cộng là mười. Nếu căn cứ Hưng Khởi Hạnh kinh chỉ có bảy duyên, không có Tôn-đà-lợi hủy báng và khất thực không được. Đại luận thẳng nêu ra, Hưng Khởi Hạnh kinh dựa theo đều giải thích.
Tiếp, “Bảo những người làm rằng…”: ví như Tứ niệm xứ trở đi tức đối vị. Nay chỉ lược đối không nêu hành tướng nữa. Thất giác ở trước Bát chánh, trong luận Bà-sa, có đầy đủ Liệu giản (giải thích), lược thì như Chỉ Quán quyển bảy nói. Không nói Ngũ đình: vì đình tâm chỉ là đối trị trừ chướng, khiến có khả năng tu quán. Từ Tứ niệm xứ chánh tu để nói; tuy nói “căn cứ vị” mà phải kiêm tương sinh mới kham hiểu ý đây. Cho nên văn dưới nói: “Siêng tu niệm xứ…”. Sinh Không Như Lai: Giáo đây tác pháp sở hữu Sinh Pháp không liên quan Đại thừa, tức trong Ahàm là lão tử, ai lão tử? Cho nên Sinh Pháp hai Không đều thuộc Chánh đạo, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói. Vô thường… là trợ: Như trong Đế quán nói vô thường chính là chánh quán, nay dùng hai Không vọng ở trong sự đối trị vô thường, chỉ được gọi là trợ, huống chi lại do nhất kỳ (một thời kỳ) niệm niệm lấy đó làm trợ. Như trong Đại kinh Đại thừa trị môn, cho đến dùng thường, tại sao chỉ là vô thường? “Gần” chỉ bốn vị Noãn v.v…, ngoại đạo cầu lý ở trước địa vị này cho nên gọi là xa. Nên nói Tứ niệm xứ…, chỉ là tùy tiện mà nói thôi! Đây văn…: Do Thế đệ nhất là vị Ngũ lực không có năm lỗi. Hạ nhẫn mười sáu sát-na xuống đến Thế đệ nhất pháp vị, tức là Nhẫn ứng thượng hạ đều có mười sáu hành, mới thành ba mươi hai quán. Nay văn lại dùng Tứ đế nói, đối với ba mươi hai tiệm giảm duyên hạnh, hai mươi bốn chu giảm hành, bảy chu giảm duyên cho đến cuối cùng, chỉ lưu một hành. Quán một sát-na nhập Thế đệ nhất, lược như Huyền Văn Thích Tiêm lược dẫn văn Câuxá. “A-hàm” đến “nghĩa con chưa thành”: vì trong kinh A-hàm cũng nêu Bồ-tát không đoạn kết, mà Đại luận bài xích đó là quyền, chẵng phải hoàn toàn không có. Luận nói Ca-chiên-diên tạo: Từ chỗ tạo luận và chỗ tính toán nói, lẽ nào dùng gộp cả hai lại quy về A-hàm. Pháp Hoa căn cứ xưa trước mười hai năm dùng một nghĩa đâu đáng cười ư! “Đắc sơ quả” đến “Đại thừa”: ý nói: Từ sau Kiến đạo không phát Đại tâm, trở lại khiến trong đạo Tiểu thừa đoạn kết, cho nên nói “vì cớ đó mà”. Nếu căn cứ Đại luận thì đến sơ quả đã gọi đó là chết, không còn phát lại. Đại sư theo sự chấp nhận trong Chỉ Quán, tiến thoái hai giải thích do đó sơ quả cũng gọi là chết…: Có thể phát tâm “hai mươi năm”: Văn hiện có bảy giải thích: Đầu giải thích: hợp số làm hai mươi; tiếp sáu giải thích: chỉ lập hai danh, như đoạn Kiến làm một, đoạn Tư làm một. Đầu văn: Kiến đoạn cùng phục không còn trước sau tức dùng tám Nhẫn thông phục tám trí, thông đoạn Tu Đạo chín, chín thông làm một, chín cho nên chỉ tổng lập chín vô ngại chín giải thoát.
“Ngũ thượng phần”: Là trạo cử, mạn, vô minh, sắc nhiễm, vô sắc nhiễm. “Ngũ hạ phần”: Thân kiến, giới thủ, nghi, tham, sân. Trong Ngũ thượng phần thì Sắc nhiễm và Vô sắc nhiễm hoàn toàn ở thượng. Trạo cử… ba thứ còn lại tuy thượng mà thông hạ, không thể vướng hạ nên gọi là “thượng phần”. Nói “hạ phần”: Tham tuy thông thượng nhưng không phải chỉ có ở thượng, Sân chỉ ở hạ không thông thượng, ba thứ còn lại nhiếp khắp tất cả Kiến hoặc. Tuy lại thông thượng mà năng vướng hạ, cho nên gọi là “hạ”. Do đó Câu-xá luận nói: Do cả hai mà không siêu vượt cõi Dục, do ba lại trở lại hạ phần tức dù đoạn tham… đến Vô sở hữu, do Thân kiến… lại trở lại Dục giới, rộng như trong Câu-xá nói. Nói “Như ở trong pháp Nhị thừa đoạn Tư hoặc”: Trước trong kiến đạo không phát, cũng như khiến đoạn tận Tư còn sót lại. Nói “cùng đoạn dư kết”: Hoặc ở trong ngoại đạo đoạn chút ít Tư hoặc, lại y Quyền hạnh mà đoạn khiến không còn.
“Thứ tư: Thí dụ lãnh phó chúc”: Thứ tư , năm hợp làm một đoạn, tức dùng văn Lộc- uyển sau không nhập văn Phương-đẳng. Đại chương tuy vậy, chia nhỏ vẫn có văn thoát nạn… để ứng thuyết một đời năm thời. Nay cũng còn khai tiêu biểu lãnh và phó chúc. “Lãnh” nghĩa là lãnh gia nghiệp, chỉ trong Phương-Đẳng, Bát-nhã. “Phó” tức giao phó tài sản ở trong Pháp Hoa. Văn thí dụ chia làm bốn chương: đồng ban cho v.v… tức trong văn nay hai trước hai sau: tức thoát nạn, đòi xe, đồng ban, hoan hỷ. Coi Phương-đẳng Bát-nhã là đòi xe: Văn hai chu kia sau thoát nạn tức nói đòi xe. Chỉ văn đòi xe ngắn đã không đối hai vị cho nên dùng miệng đòi đối. Nay dùng hai vị làm đòi cũng chỉ là đối cơ tình. “”Đòi” danh tuy đồng mà không phải là không có chút sai biệt, huống chi văn đòi ở trước nghĩa chẳng hạn cuộc nơi miệng đòi. Nay nói đòi: Không hạn cuộc cơ tình. “Cũng là bốn ý hiển Thật đã nêu trong phẩm
Phương Tiện”: phần kệ của phẩm Phương Tiện bên trên văn tụng hiển Thật ở chương Thích-ca, trong đó trường hàng chỉ nói “Như vậy đều vì đắc nhất Phật thừa Nhất-thiết-chủng- trí. Trong phần tụng Thí bản chia làm bốn ý:
- Từ “Xá-lợi-phất phải biết, Ta thấy các Phật tử…”: hai hàng nêu Đại cơ động, làm bản thí dụ nay đòi xe.
- Từ “Ta liền suy nghĩ rằng…”: hai hàng và một câu nêu Phật hoan hỷ; làm bản thí dụ nay thoát nạn.
- “Ở trong hàng Bồ-tát chính bỏ ngay phương tiện…”: ba câu chánh là hiển thật, làm bản thí dụ nay đồng ban cho xe.
- Từ “Bồ-tát nghe pháp ấy…”: một hàng nêu thọ hành ngộ nhập làm bản thí dụ nay được xe hoan hỷ. “Do tâm tướng thể tín” trở xuống, sinh khởi bốn dụ. Tiếp, “Trong hợp…” là dự định hợp văn từ trước đến nay sinh khởi bốn thí du, tức là bắt đầu từ Phương-đẳng cuối đến Pháp Hoa, trong Thí dụ chỉ là một đồng ban cho xe thôi! Nếu chia mười thí thì không ưng tín giải, bởi do đây.
“Lại trước trong thí Dẫn dụ” đến “Tư tận”: Nói “dẫn dụ”: Là mật sai hai người. Nói “ra khỏi nhà…”: Là “ra khỏi nhà” và “Tư tận”, hai thứ cuối cùng nghĩa đồng. Pháp thân và Đạo tho, cận viễn (gần xa) không đồng. “Nay lãnh cũng có hai”: Nay đến lãnh đồng ban cho, trong đó tổng hợp hai thứ thủy chung trong văn trước làm một thủy chung cho nên nói “cận viễn thủy chung”. Đó là “Tề giáo” làm “cận thủy”, “Thám lãnh” làm “viễn thủy”, hai tứ chung (cuối cùng) chỉ cộng làm một. Vọng bên trong dụ dẫn… cuối cùng thì tột cùng nơi đồng ban cho, cho nên nói thủy bốn vị, chung phó tài. Đã dùng bốn vị làm thủy, nghiệm biết Thám lãnh đến trước tịch tràng. Tiếp, “Vì sao vậy?”: là giải thích, giải thích xuất cộng làm một thủy chung tương tức năm vị. “Người bên cạnh ví như trâu”:
Hỏi: Trước dùng người bên cạnh tức trong Hoa Nghiêm nói bốn đại Bồ-tát, trong Đại kinh nói từ trâu xuất ra nhũ (sữa), dụ cho từ Đức Phật xuất ra mười hai bộ kinh; nay sao được dùng trâu dụ Bồ-tát làm người bên cạnh ư?
Đáp: “Phật thêm Bồ-tát” và “Phật” không khác biệt, tuy chủ bạn sai khác đều là năng thuyết, nghĩa sở thuyết phải đều từ ngưu xuất ra.
“Bao biếm”: “Bao” là khen ngợi, tuyên dương. “Biếm” là chê bai bài xích “Đã lãnh biết” đến “lẽ nào không vui ư?”: là căn cứ không mong cầu lấy thì chưa gọi là vui muốn. Vì lãnh biết rồi thì tăng trưởng hâm mộ vui thích về sau. Cơ hội đến gần được giao phó tài sản, gọi là “thoát đổi”. Cơ đã ngầm hợp cho nên gọi là “vui thay!”. “Phán thiên tánh”: lý tánh đồng. “Định cha con”: Hội kết duyên. Nhị thừa tại xưa thì “thiên tánh, cha con” hai nghĩa đều mê, đến khi Pháp thuyết “khai” tri kiến kia, gọi là hội thiên tánh. Thiên tánh nếu hội thì nghĩa cha con thành “Thị” (chỉ) cho biết sự mê trong đó, nên gọi là hội. Trung căn còn mê muội đến Thí thuyết rồi mới định sở sinh, vì thế bốn người đến phẩm này mới tin ngộ. “Bồ-tát nghi trừ” bởi vì trong Pháp thuyết vì khiến tất cả lẽ nào riêng chỉ Nhị thừa! Trong thí dụ đồng ban cho chẳng phải chỉ có căn bại, chỉ do lực người lãnh giải chưa sánh bằng chúng khác cho nên khiến trong lời nói không liên quan đến chúng khác. Mình là chánh người khác là bên (phụ) chưa vội vã đề cập đến người khác. Bản thân khó, người khác dễ, cho nên lại theo khó. Lại, mình biệt tại nay, người khác thông giáo xưa, cho nên lại theo biệt. Mình chết, người khác sinh, lại theo bắt đầu sống. Người khác theo xưa hiển, bản thân chỉ nay hiển, cho nên lại theo nay. Thấy nhiều ý đây, thì còn lại có thể biết. “Từ Bát-nhã” đến “vị thứ năm”.
Hỏi: Trước hội tam nói thuyết Pháp Hoa, nay trở lại dẫn Đại kinh nói xuất Niết-bàn, thế nào đồng được?
Đáp: một nhà nêu nghĩa nhiều nơi nói không phiền biện rộng. Muốn luận lần nữa, lại trình bày mong muốn Đại, phân biệt vị đồng thời mà có bộ khác. Căn cứ lý, danh biệt đều quy về thường trú, xét về cơ kia xứng nhặt nhạnh. Căn cứ pháp, kia còn ba quyền, luận ý thì kia đới luật nghi, nói chứng thì kia kiêm Tiểu quả, thọ lợi ích kia không rộng thọ ký, thuyết thời dài ngắn vĩnh viễn sai khác, đàm luận thường quá khứ vị lai không đồng. Luận thí dụ đại trận còn lại bè đảng. Hiện điềm lành tiêu biểu đều sai biệt. Phá chấp khó dễ không đồng. Lãnh giải cận viễn cũng trái, thuật thành căn không đồng, dụng trị sinh tử không đồng. “Phó chúc có…”: có đây, được mười sáu ý, căn cứ đây lược biết. Sự khác ý đồng, không thể mất ý chỉ. Lỗi đây đồng khác giảng giải trao rất khó. Lẽ nào chỉ có hai kinh? Còn lại cũng không dễ. “Nay sơ tướng”: Nếu không xen nhau giải thích thì nghĩa “tướng” không thành. Nhưng con “thể” cha: dùng Đại mà so sánh Tiểu, cha “thể” con: dùng Tiểu mà không trái. Đầu cuối mà luận con chưa “thể” cha, cho nên thấy thân cha tôn quí đặc thù, thấy mà không chịu nhận. Thấy thân đã vậy, các lệ có thể biết. “Do đây thấy thân tôn đặc”: Như trong kinh Tịnh Danh nói “Ví như Tu-di Sơn vương hiển nơi biển lớn, an xử các tòa sư tử báu, che khắp tất cả đại chúng đến”. Trong kinh Dược Sư nói “Cao lớn uy nghiêm như trăng giữa các vì sao”. Trong kinh Đại Tập nói “Tập hợp trong khoảng hai cõi”. Các kinh Phương-đẳng thì theo lệ chẳng phải một. Cho đến nghe thuyết đại pháp, thấy đại thần thông, thấy đại Bồ-tát khó tư duy đại sự…, đều do đã đắc quả A-la-hán. Chê bai đoạt lấy không nghi cho nên nói “do đây”. “Kim (vàng) tức Biệt giáo…”:
Hỏi: Đại Phẩm có Viên, vì sao chỉ nói không xuất Thông Biệt ư ?
Đáp: Chỉ nói lý Thông Biệt thì đã nhiếp hai giáo kia. Luận giáo năng thuyên ắt đủ bốn, “kim” lại theo lý cho nên nói không ngoài hai thứ đây, bao gồm lại Nhị thừa đến đây phần nhiều thành thông Biệt. Cũng tạm nói như thế. “Thông biệt kho đụn”: căn cứ đây có thể biết. “Trong đó nhiều ít” cho đến “tướng rộng lược”: phẩm Phương Tiện thứ hai mươi mốt nói: Tu-bồ-đề bạch Phật: Như Phật đã nói hoặc rộng hoặc lược, các Bồ-tát vì sao cầu ư? Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu đại Bồ-tát học Bát-nhã rộng nhiếp này thì biết tướng rộng lược của tất cả pháp. Lại nói hai chu trước sau thời thuyết Bát-nhã tức tướng rộng lược. “Lại, Nhị thừa…”: lập lại giải thích ý: Là mật “thị” (chỉ) tri kiến đồng cho nên nói “thể ý”.
Nói “thể pháp không”: Thật lý bất nhị. Đây có ba:
1. Chính là ý trong Bát-nhã.
2. Căn cứ lý ở thời Bát-nhã mật nói Bất nhị mà Nhị thừa không biết, nghĩa là tại Bát-nhã ý thông Pháp Hoa.
3. Căn cứ ý nay, đối với Phật tức là phó tài, Nhị thừa tự cho là nói thêm. Cho nên, trong Bát-nhã nói: Lẽ nào hàng Thanh văn dám có sở thuyết? Có sở thuyết, đều nhờ Phật lực, do cơ chưa chuyển, tạm nói “gia bị thêm”. “Phải gắng dụng tâm thêm… “Là trình bày nguyên ý của Phật không ngoài hai thứ đây. Hiển tại Bồ-tát, mật gia bị Nhị thừa, nhưng lãnh bốn thời trên đều đủ hai ý:
- Thuật Phật hóa ý.
- Đã nạp mật cơ.
Vậy thì thân ta lãnh hai nghĩa của Phật, cho nên gọi là “lãnh”.
Nếu đến Pháp Hoa thì ý Phật cũng tận, cơ hiển chẳng phải mật.
Hỏi: Thời gian nào gọi là “một ít thời gian”?
Trong phần Đáp chia làm hai: Một, căn cứ thời gian giữa hai kinh. Hai căn cứ thời Vô Lượng Nghĩa. Văn đầu, tức là biên hạn giữa hai loại xin ý và miệng, Bát-nhã chẳng phải một nên gián đoạn thời gian rộng. Tổng gọi “một ít thời gian” tức hướng về thời gian bức bách sau cho nên tùy theo lãnh giải một thời một hội đều có suy lường.
“Mất hay không mất”: “Mất” thì bản thân không có phần, “không mất” lại chưa đồng Bồ-tát. Trong thời gian do dự tức là thời gian cơ muốn phát; chính thức phát chính là ở ba phen thỉnh. Tiếp, căn cứ Vô Lượng Nghĩa: Cách Pháp Hoa rất gần thời gian rất ít. Đã nghe từ một xuất nhiều nghĩa, ắt thâu nhiều quy về một, là cuối cùng của bốn vị cho nên nói “dần đã”. Cơ không con ngăn cách sai khác, cho nên nói “thông thái”. Phát tại chốc lát cho nên gọi là “tức phát”.
“Chánh giao phó gia nghiệp”: Trước nói “giao của” (phó tài) nay nói phó nghiệp. Tài từ chỗ kinh doanh, nghiệp tức tạo tác, đều là tác nghiệp của Bồ-tát tu đắc ba nhân. Danh khác nghĩa đồng nên được xen nhau nêu. “Linh sơn tám phen”: Pháp Giới luận của Bồ-đề-lưu-chi nói: Sau khi đức Phật thành đạo bốn mươi hai năm mới thuyết kinh Pháp Hoa.
“Người phương Bắc”: được các văn nêu phần nhiều là Tướng châu Bắc đạo Địa luận sư. Xưa hoằng Địa luận Tướng châu tự phân chia Nam Bắc hai đạo sở chấp không đồng, Nam thì chấp pháp tánh sinh tất cả pháp, Bắc thì chấp Lê-da sinh tất cả pháp. Tông phái đã riêng biệt thì giải thích nghĩa không đồng, lẽ nào Địa luận khiến như vậy ư? “Nếu vậy…”: phá cả hai nhà.
Nói “Tích môn thuyết pháp”: Chỉ là tam chu. “Kia giải rằng…”: Địa luận sư bào chữa. “Nay cho rằng…”: lại phá. Từ xưa không biết “khai cận hiển viễn” vĩnh viễn sai khác các kinh, cho rằng Tích thuyết xong không thể chứng. Nếu nói là “nói không sắp xếp trùng nhau”, tức hướng đến phẩm Pháp Sư ở sau, thì vì sao phẩm Phương Tiện ở trước không biên chép? Nếu nói Phật nhập định rồi xuất không được nói, thì việc gì kinh gia không biên chép trước ư? Nếu đắc Tích môn xong, thì vì sao không đợi sau Bản tích? Duệ công sinh khởi tiện là vô dụng, một nhà thứ lớp đạo lý lặng lẽ. “Y Tát Vân kinh”: Như phẩm Đa Bảo bên dưới dẫn. Nếu khi ba phen thỉnh mà Phật chưa thuyết kinh, thì sao được kinh nói “Đức Phật thuyết vô ương số kệ” Cho nên biết nói vô số tức phẩm Bảo Tháp về trước. Đã nói vô ương số kệ lẽ nào chỉ có ba quyển rưỡi kinh? Huống chi Bồ tát từ đất vọt lên tán thán kệ văn kia số rất nhiều, xưa truyền Pháp Hoa Tây phương còn rộng căn cứ theo văn đây. “Nay nêu rõ…”: Ý nói tuy chẳng phải thân sanh, mà trong Tích đã đồng nghiệp thì chẳng phải không có liên quan nhau. Cho nên dòng dõi cha theo nghĩa tương đương chú bác nên biết ngày nay hưởng tại xưa đều có cao thấp. Vậy thì xưa chỉ đia vị cao như “bác”, chỉ vị thấp như “chú”, đều là họ hàng cha cho nên nói “thân tộc”, và chữ “hội” xuyên suốt xuống dưới.
Từ “Quốc vương” đến “là vua”: Trước căn cứ các bộ của giáo xưa làm các vua. Nói “hưng phế”: Tùy luận “hưng phế” đầy đủ như trong Huyền Văn quyển chín nêu. Nay muốn lược luận đối bộ nói, thì Hoa Nghiêm có hai hưng hai phế, cho đến Pháp Hoa một hưng ba phế, đây chính phế các tiểu vương chỉ lập một chủ tể, vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa gọi là vua trong các (kinh) vua. Tiếp, “Lại kinh đây…”: căn cứ kinh này hội giáo, do bộ trong kinh này không còn có các giáo khác. Bộ tức là tôn trọng cùng cực trong bộ, làm vua. Giáo tức là giáo chủ trong bộ, làm vua. Vì giáo phân Đại tiểu, vương cũng có tôn ty, cõi nước có rộng hẹp, dân có nhiều ít, của cải sản nghiệp đều sai khác, chỗ xuất cũng không đồng, cho nên giáo trong bộ có Thông Biệt hai lối. Biệt thì đương giới thi ân, Thông cần phải quy về nước lớn. Cho nên biết bộ giáo đều phải “hội thông”, nên trước nói bộ, sau mới nói giáo. Tại xưa chưa hội; như trong một nước lớn có hai, ba vua nhỏ đều theo lý phẩm vật buôn bán chưa quy về nước lớn, cho nên phương tiện giáo thì tên chủ vua không thể không có, chỉ vì kiêm Viên cực trong bộ nên chủ non yếu. Nếu hội rồi sau đồng thấm nhuần nhất hóa. Dân không có hai chủ, nước không có hai vua. Từ đây về trước, hoặc trở về không trở về. Không trở về thì vẫn là tiểu vương chịu sự phụ giúp không thâu hoạch mà làm thống lãnh. Tiểu vương vốn không trái nghịch nước lớn bởi do dân tâm chưa quy về. Dân nếu quy về thì từ vua thống nhất một mối, do đây hội tụ pháp nghĩa có thể so sánh biết.
“Trong Vô lượng nghĩa trước đã thâu tập”: Tuy nói từ một xuất nhiều, mật dự định nhiều đều thuộc một, cho nên nói “thâu tập”. Lại chính do trước nói một xuất nhiều mới có thể định khởi thâu nhiều trở về một. Cho nên biết trước lúc ấy đương cơ lợi ích vật, tuy ở một thiết lập ba, mà ba che đậy một. Muốn nói thâu nhập cho nên dự định luận “khai”. Kia nói dưới dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa “thị” (chỉ bày) tướng, làm sao biết được thâu tập các kinh? Kinh kia đã nói các kinh vô lượng đều từ một mà xuất, cho nên chỉ kinh trước lấy làm vô lượng. Tứ đế, Nhân duyên tức Lộc-uyển, Phương-đẳng Bát-nhã thứ lớp rõ ràng. Nói “Hoa Nghiêm” là có đủ hai nghĩa đã tại Huyền Văn. “Di-lặc…”: Giáo xưa vì thiên viên chưa dung hợp; người cũng là quyền thật chẳng phải một. Nay giáo đã hội thì Bổ xứ lẽ nào nhiều? Bổ xứ đã vậy các thứ còn lại… chuẩn theo đây. Dân quy thuận vua, như trước đã luận. “Sơ địa…”: Là hội thiên giáo cho nên không nói Viên.
“Mổ thành”: Vua vốn cũng chỉ nói ở một thành. “Độn”: nghĩa thông trốn, ẩn. Đây “bỏ trốn” tức là ẩn. “Nay ta” đến “hết thảy sở hữu”: sở phó Bát-nhã có cộng và bất cộng không ngoài nhân quả, Nhân là “vạn hạnh”, Quả là “vạn đức”. Hạnh tức đế, duyên, thập bát không… Đức là thập lực, tứ vô sở úy, bất cộng pháp…. Đầy đủ như Thừa rộng, không gì không phải Diễn. Đây đức của ta đã nói là “con có”. Phải biết các ông đều có kho tàng nhân quả của Như Lai, cho nên thêm nói tức là lãnh khẩu. Lại trong Bát-nhã thường thấy phóng quang, thấy thân khó nghĩ bàn thân tức khiến lãnh thân, Bát-nhã Phương tiện tức lãnh ý. Cho nên biết rằng: “tri” (biết) và “kiến” (thấy) đều là “sở hữu”, vì thế Pháp Hoa chỉ tổng nói “Tri kiến Phật”. “Mà nay bỗng nghe…”: Dùng người khác căn cứ bản thân vì Pháp và Thí đều giải, ắt biết nhất định đồng Thân-tử được thọ ký. Gia Tường đến đây lại trở lại tổng kết trước, đều làm năm cặp mười đơn:
1. Từ “người bên cạnh” chỉ Hoa Nghiêm làm Đốn, từ “nước tưới” đến Pháp Hoa làm Tiệm, tức Tiệm đốn một cặp. Nay hỏi: Nếu làm ba thứ pháp luân mà đây chỉ phán làm hai giáo, thì tự nói tương phản, quy đốn không thành, làm sao xả phương tiện duy có Phật thừa hội vạn thiện hiển giáo lâu xưa mà làm Tiệm ư?
2. Từ “tưới nước trên mặt” trở đi là thế gian, từ “hốt phân” đến Pháp Hoa là xuất thế gian, Thế xuất thế là một cặp. Nay cho là các con không bẩm thọ Nhân thiên thừa, cho nên biết Nhân thiên chẳng phải bắt đầu tiệm giáo. Nếu coi “hốt phân” trở đi là xuất thế thì chưa xét kỹ sau Lộc- uyển nói giới thiện ư! Huống chi mười hai năm đầu cuối đến Pháp Hoa đồng lập nói xuất thế, đâu riêng hiển Pháp Hoa?
3. Căn cứ trong xuất thế thì Đại Tiểu là một cặp. Chưa xét kỹ Phương-đẳng Bát-nhã như thế có Tiểu thừa không? Đại của ba vị đồng làm một phán định, làm sao có thể hiện khả năng diệu pháp?
4. Căn cứ trong Đại thì Tự tha là một cặp. Tức chỉ “phó tài” làm hóa tha, lãnh nghiệp làm tự hành. Chưa xét kỹ các bộ Bát-nhã có tự hành không? Thanh-văn tại xưa nói vì Bồ-tát, Phật hóa vốn ý chánh giao phó khiến biết, huống chi khi lãnh nghiệp vốn ở tự lợi. Từ lúc ấy về sau chưa sửa đổi Tiểu đồ.
5. Từ “sai hai người đến” là mật, lãnh nghiệp là hiển, Hiển mật là một cặp. Nếu vi mật làm mật thì Pháp Hoa là mật. Nếu dùng hiển mật làm mật, thì nay đây Thanh-văn từ Lộc-uyển đến đều bẩm thọ hiển giáo, tại sao gọi là mật? Trước bấy giờ được thọ ký mới gọi là mật, đến đây mới đòi thì nghiệm biết chẳng phải trước bấy giờ huống chi ba thứ và năm cặp lý tự tương phản…
Nếu dùng năm đơn lẽ thì đồng tại Pháp Hoa như trước đã phá. Nếu từ rộng hẹp dùng một cặp sau cùng làm Pháp Hoa, hoàn toàn không nói khai, thì trở lại đồng Đại xưa, dẫn đến khiến người học sau đối số mà thôi! Không cầu giáo chỉ dạy thì dùng giáo làm gì ư? “Quý tại đắc ý”: Trong Thí dụ đã ủy thác cho nên không luận nữa. “Tợ có hai nghĩa”: Do kết duyên không hoại, tuy Đại tiểu mà đều tương tự, tuy chê nói mà nghĩa tương tự con không mất.
Tiếp, “Con đã…”: là nêu chánh nhân để so sánh. Nếu luận chánh nhân thì không tương tợ cũng là con, huống chi tương tợ ư! Đã từng kết duyên thì tại sao chẳng phải con chân thật? Căn cứ từng chạy trốn, cha lại chê bai, do địa vị cạn mê sâu, chê trách nói “tương tợ”. “Vân vân”: là như trên phân biệt.
“Hỏi: Đầu giải thích phẩm nói đã được nhập chân…”: Chân là tu vị tức Sơ trụ trở đi. Đầu phẩm lại nói tuổi đã già yếu, Tiểu còn chẳng phải vị tương tợ, “đây tại sao nói tợ?”
Đáp: Ý nói nếu căn cứ sau con trốn cha thì Đại Tiểu đều chẳng phải tương tợ vị, huống chi chân thật ư! Vẫn chỉ khi kết duyên, đối với nay dần mới được gọi là tợ. Mà “chỉ hợp thấy con liền biết”: Trên thấy cha có bốn là: nguyên do, xứ, tướng và tránh. Thấy con cũng có bốn là: xứ, biết, vui, vừa ý. Nay một câu: “Thấy con liền biết”, tức gồm tám văn trước. Văn tuy có trước sau, ý chắc đồng thời, lẽ nào chẳng phải lúc con thấy cha tức cha thấy con thấy cho nên liền biết. Tuy lại trốn chạy mà cơ tại không lâu cho nên cha cũng vui. Cho nên biết một văn tức thâu nhiếp cả tám văn. “Chúng con do ba món khổ…”: trong Thí dụ hai môn: Khuyến Giới: Trước đều luận dự định thích nghi, không căn cơ; sau hợp luận hai môn thôi hóa. Nay ba cặp hợp lãnh. Đầu từ “Thượng sơ…”: trươc vượt lên ba ý. “Người bên cạnh truy tìm” tức hai ý trong Khuyến môn. “Truy tìm lần thứ hai” tức hai ý trong Giới môn. “Phóng xả” tức hai môn thôi hóa. Nói “ba khổ”: Do có ba khổ nên năm trược thêm nặng, do đó hai môn đều không có Đại cơ, chỉ kham Tiểu hóa. Vì năm trược bức bách cho nên có khổ, vì vô minh che lấp cho nên bị vô tri. “Nay hợp…”: chánh hợp “hai môn vô cơ” là: “Vì sao lại bị bắt” tức Khuyến môn vô cơ. “Tự nghĩ mình vô tội” tức Giới môn vô cơ. Không nói “hai môn dự định thích nghi”, bởi vì hai môn vô cơ kiêm luôn.
Tiếp, “Ưa thích pháp Tiểu thừa”: Hợp có Tiểu chí tức hai môn thôi hóa. Nói “không hợp phóng xả”: Xã tức là thôi. Chỉ văn thí dụ bên trên thôi hóa có bốn:
- Tư duy thôi hóa.
- Giải thích thôi hóa.
- Chánh thôi hóa.
- Thôi hóa được thích nghi.
Phần Tư duy lại có hai: 1) Biết Đại yếu; 2) Biết Tiểu mạnh.
Nay nói “có Tiểu chí” tức văn thứ hai. Nói “không hợp phóng xả”, là không hợp ý thứ ba chánh thôi hóa. Vậy thì chỉ hợp văn đầu và thứ hai, tức thu nhiếp thứ ba dưới và thứ nhất đầu. Cho nên văn trên chính phóng xả, nói “Ta nay thả người đi đầu tùy ý”. Vì biết có Tiểu chí, cho nên đối Đại phóng xả. “Trên có Tề giáo và Thám lãnh, nay hợp hai ý”: Hai văn trên đều có bốn: Tiểu dự định Thích nghi, Biết tâm ngày trước, Tán thán ba xe, Thích hợp sở nguyện. Nay trong Tề giáo chỉ hợp môn thứ ba trình bày đủ việc trên, tức Tán thán ba xe, và thứ tư “trước hỏi lấy giá cả” thích hợp sở nguyện. Thiếu văn thứ nhất, hai. Hai văn này nhậm vận kiêm đắc hai thứ còn lại, tư duy có thể biết. Trên có bốn văn, nay chỉ có ba thiếu một là Thích hợp sở nguyện, ba cái còn lại thứ thứ lớp đối dự định thích nghi… Chỉ đủ văn Tề giáo. “Dạy làm” tức là văn Thám lãnh, hợp thí dụ phó gia nghiệp. Trên có nguyên do có giao phó. Nguyên do trên có viễn cận tức Tiểu quả là viễn, thể nghiệp là cận, nay chỉ hợp cận. Trên có mệnh lệnh có thọ nhận, nay chỉ hợp thọ không hợp mệnh lệnh. Vì có thọ ắt biết đã có mệnh lệnh. “Mà tự…”: Là kiêm đắc hai thứ còn lại.
Trên giao phó gia nghiệp có bốn:
- Thời tiết.
- Gọi con, tụ hội chúng để làm chứng.
- Kết hợp cha con.
- Chánh giao phó gia nghiệp. Nay vì giao phó vẫn gồm ba thứ trên, phải nêu ý kia. Trên khai Thí có bốn tướng thất lạc…: bốn tướng này nêu văn, văn tợ bốn chương, chỉ thành ba đoạn, mới lược truy đuổi dụ dẫn, dưới giải thích có đủ. “Tạo lập xá trạch”: Cõi Hữu dư chẳng phải Tịch quang tự nhiên, hiện thắng Ứng thân chẳng phải Pháp thân vốn có, đối nơi kia lại vận y Không, Từ bi cho nên nói “tạo lập”.
Kinh nói: “ Liền ở lại (đốn chỉ) một thành”. “Đốn” là đốn phạp, thị (chỉ bày) tướng Tích, nghĩa đồng ở Tích. Lại “Liền ở lại” tức không đi, chỉ ở trong đó tìm cầu căn cơ của con.
“Siêu tụng thứ tư Ưu niệm…”: Chỉ tụng con bỏ cha mà đi tức khổ mất con mà không có vui được gặp con. Khổ do mất con và vui do được con, đều tại hoài bảo của cha, thế nên khi mất đã ôm ấp cái vui ắt biết thời sau sẽ trở lại. Xa xem xét cơ duyên chưa được như Phật. Kinh nói “Ngày đêm luôn suy nghĩ”: Có người nói: Tự hành là “đêm”, lợi tha là “ngày”. Đây không ưng như thế! “Ngày” là sáng sớm, là khởi đầu sáng; “đêm” là tối, là hoàng hôn. Sáng sớm liền hóa, đầu hôm là cuối cùng hóa. Đại hóa từ đầu đến cuối theo thuyết trên có thể biết. Nếu thân Phật một trượng sáu thường thuyết vô thường, thì hóa dục chung thời tiết tiết xướng diệt. Nếu nói tự hành làm đêm, thì không thể tự hành cũng nói là thời chết sắp đến.
“Hữu, vô thiện thượng…”: Tuy lại có khi duyên vô sở đắc thiện mà chưa thể đoạn kết, cho nên đây trên thể vẫn có Kiến Tư. “Pháp thân là vua là sư (thầy)…: Văn đây hợp tại văn tiếp trong đoạn sợ tránh. Nếu căn cứ văn trên thì chỉ ứng pháp thân như vua. Biên soạn thêm chữ “sư”, lại thêm một thí dụ. Báo nên là trưởng giả chỉ nên nói Báo như vua… Kiêm nói ứng thân: báo là thắng ứng. Do trưởng giả như vua, hoặc là bậc đồng vua, cho nên tiện nói. “Riêng nói dùng rộng hiển lược…”: Như trong kinh Hoa Nghiêm rộng nêu thân tướng, quốc độ, hạnh nguyện, vốn muốn dùng Phật tri kiến rộng lớn đây để hiển thể thật tướng cho nên nói “dùng rộng hiển lược”. “Thọ quyết”: Văn trước Hoa Nghiêm không có nói thọ ký, phẩm Nhập Pháp Giới phụ luận thọ ký, cũng được gọi là thọ ký. “Hoằng thệ và hạnh”: Được ủy thác tất cả tốt nhất của Bồ-tát. Lại “thệ là khóan”, thệ hứa lợi tha có như khóan ước, tùy tu tùy thường “Sớ” tùy hoàn, đến Bồ-đề thường (hoàn lại) mới xong. Lại trong Hoa Nghiêm Bồ-tát hạnh nguyện phần nhiều nêu sự số, gọi là kế toán (tính kể). Văn “người truy đuổi” nói trên lại có ba: 1) Hô hóan là hai nghĩa Khuyến môn; 2) Hô hóan là hai nghĩa Giới môn; 3) “Người ấy…”: hai hàng tụng “vô cơ”, tức “phóng xả”. “Vô cơ”: Là lập lại hai môn vô cơ, do vô cơ cho nên mới thôi hóa, nên nói “giải thích phóng xả”. “Ba hàng đầu tụng dụ thuê làm” đến “dạy làm”: “Thuê làm” tức trên nói Tề giáo, “dạy làm” tức trên nói Thám lãnh. Tề giáo văn ý từ đạo thọ đến. Do chấp nghĩa Tiểu cơ là “thuê làm”. Thám lãnh văn ý pháp thân địa thời không lúc nào không thương, đâu từng không dạy, lẽ nào đợi thuê làm? Cho nên nói “dạy làm”.
“Dầu xoa chân…”: Có người nói: Nước ngoài ẩm ước người làm việc chân phần nhiều hay bị nứt cho nên dùng dầu bôi, đây nói công việc rất hèn hạ. Trong kinh này nói sách (nứt) dụ sông…, sao lại dầu thoa? Trên nhận mệnh lệnh có bốn, nay chỉ tụng ba. Thứ nhất, như văn. Thứ ba là thứ tư, đại cơ sắp động, chỉ thiếu thứ hai: mà không mong lấy. “Thứ nhất: Hai mươi năm”: Văn trên dẫn đủ trong đây hai mươi năm đã biện rõ sai khác xong. Nay “nói chuyển giáo”: Trước nói trụ Nhị thừa chuyển giáo, nay dùng Biệt hoặc Kiến Tư gọi là “hai mươi năm”. Trong hợp thí Đức Phật cũng như vậy. Hợp thất lạc nhau: Trên thất lạc có bốn: Biết con ưa Tiểu, hợp cha con thấy nhau. Văn thấy nhau (tương kiến) ở trên có hai: Con thấy cha lại có bốn, cha thấy con cũng có bốn. Nay lại nên biết nếu riêng dùng một câu: “Đức Phật cũng như thế”, thì hợp cha con thất lạc nhau ý vẫn chưa hiển. Tiếp một câu “Biết con ưa Tiểu thừa”, là hợp cha con tương kiến ý cũng chưa hiển. Vì sao? Vì câu trên mượn câu dưới mà thành, biết ưa Tiểu thừa nên nghĩa đương thất lạc nhau. Tiếp câu dưới mượn câu trên mà thành. Đức Phật biết chúng sinh ưa thích Tiểu thừa cho nên được thấy nhau. Ưa Tiểu do thoái Đại do đó thất lạc nhau. Thoái Đại do ưa Tiểu, do đó thấy nhau. Cho nên, hai câu tương thành nhiếp tám câu. Câu biết ưa Tiểu nghĩa tương đương liền biết. Từ: “Chưa từng” đến “ý kia”: chỉ một phen truy đuổi hô hóan liền đủ hai nghĩa, cho nên nói “tổng”. Văn trên trong thí dụ thì Tề giáo và Thám lãnh đều có bốn đoạn; dự định thích nghi, có cơ, hoan hỷ xe, vừa ý nguyện, đã chỉ nói thành tựu Vô lậu. Trong Tiểu thừa giáo nói Vô lậu thông nơi các quả. Nói “thành tựu”: Chỉ tại vị sau, cho nên cũng tổng nhiếp hai nhóm bốn văn. Trên hợp có hai Tướng Tín ủy nghiệp. Nay không hợp Thể tín, nghiệm biết Tướng Tín là phụ, ủy nghiệp là chánh. Nói “ủy nghiệp”: “Ủy” tức là mệnh lệnh. Nay đầu một hàng trường tụng thọ mệnh lệnh lãnh biết trên tụng sở vô. Trên tụng trong thí dụ hoàn toàn không khiến biết, chỉ có ba thứ trong thọ mệnh lệnh. Một hàng đầu nêu Đoạn đức, để nói rõ “Nội diệt”. Nội tức Hoặc thể, tam giới Hoặc tận, cho nên nói “Nội diệt”, nên thuộc “Đoạn đức”. Tiếp nêu “Trí đức”: Đã nói hoặc nghe, nghe giáo thuộc Trí cho nên nói “Trí đức”. Do Tiểu trí đầy đủ nên không ưa thích Đại trí, hai trí đây đều nêu nghĩa thất lạc hiển lỗi.
Tiếp, “Vì sao vậy?…”: sáu hàng song thích Trí Đoạn. Hai hàng đầu giải thích Đoạn, tiếp một hàng rưỡi giải thích Trí, tiếp một hàng rưỡi lại giải thích Đoạn; tiếp một hàng lại giải thích Trí. Cho nên biết hai hàng đầu nêu rõ tự trụ Tiểu Đoạn; tiếp một hàng rưỡi nêu thất (lạc) Đại trí; tiếp một hàng rưỡi lại giải thích Tiểu Đoạn; tiếp một hàng giải thích thất Đại trí. “Phần đắc Đại thừa tập quả”: Khi đắc Sơ trụ phá một phẩm vô minh gọi là Tập quả. Nói “ngưu đầu (đầu trâu)”: Hoa Nghiêm gọi là xuất Ly-cấu sơn, nếu dùng thoa thân thì lửa không thể cháy.
Trong văn nói “mười ân”; tự đối nhà y tòa ba thứ. Đầu tiên, “nhà” có ba ân: Một ân thứ nhất là Thông gia bị khắp. Hai ân tiếp là Biệt cứu khổ cho vui. Thông bị là khởi đầu của Tứ hoằng thệ nguyện, Biệt bị là cuối cùng của tô bồi nguyện, tức là sau phát tâm thì đến khởi hạnh. Tự thành đạo trước khắp nơi nhuần lợi ích, tướng nhuần lợi ích không ngoài cứu khổ ban vui. Thấm nhuần ân cứu khổ ban vui, biết làm sao có thể báo đáp? Sở dĩ khó báo: Đầu tiên vì chân thật tự hành khiến ta tu tập, tự bẩm thọ giáo sau thoái Đại luân hồi, từ bi không lìa nơi nơi cứu khổ cho vui. Tiếp, ân y (áo) có bốn: Con thọ giáo rồi Đại tiểu đều vong, nơi nơi dừng biết làm toại căn cơ con liền ở cõi này đốn tiệm đạo thành. Tuy trước chính là vì Đại cơ và cũng lo hạt giống thiện của con, cho nên sau Đốn liền thùy Tiểu hóa. Bài xích, đào thải nên giả rèn đúc. Chê bai đó thì dùng bần sự thảo am, dẫn dụ con thì dùng gia nghiệp giàu có. Hạt giống đời trước dần dần nứt ra còn chưa đủ tốt, ân lâu dài do dâu có thể báo? Vì vậy cho nên ân đầu trong bốn là Nhân thiên, tiếp đề cập đến ba vị. Ân tòa Như Lai có ba: Đến thời Pháp Hoa bắt đầu thâu hoạch lợi ích vi diệu, kiêm năng lợi vật hóa đạo ban đầu thành ân khó báo, bởi có nguyên do. Sở dĩ thứ tám là ân thọ ký, ân thứ chín, mười khiến ta năng lợi vật. Do đó nhà được áo, cho nên có ân che chở nuôi dưỡng. Nhà có tòa, nên thành dụng bạt khổ ban vui. Tòa nhờ áo, nhà khiến hạnh tự tha thành. Y nhờ tòa nhà, nay từ đầu đến cuối lý hiển, cho nên ba nghĩa hợp thành đại ân. Ân từ đầu đến cuối này lấy gì báo đáp nổi? Các nhà chú giải chỉ nói vật, không đáp thí nơi thiên địa. Con không cảm ơn cha mẹ sinh vì quên cảm báo ân đây. Nay ý chánh luận mang ân khó báo, tại sao được dùng quên báo ân để giải thích? Huống chi lại chỉ duyên khiến con quên báo ân, ân này báo đáp rất lớn, cho nên không được trực tiếp dùng quên báo để giải thích. Phàm nói “quên”: Trị kia không quên, nay chẳng lãnh quên chỉ lãnh khó báo. Hai thời đã riêng, vả lại giải thích ý mang ân.
PHẦN HẠ
GIẢI THÍCH PHẨM DƯỢC THẢO DỤ
Pháp Hoa luận dùng bảy thí dụ lập bảy đối trị: Điên đảo công đức tăng thượng mạn phiền não xí nhiên, cầu quả báo Nhân thiên nói dụ Nhà lửa để trị. Hàng Thanh văn cùng Như Lai thừa… nói dụ Cùng tử để trị. Hàng Đại thừa thượng mạn cho rằng không có Nhị thừa, thì nói dụ Mây mưa để trị. Thật không có Niết-bàn mà sanh Niết-bàn tưởng thì nói dụ Hóa thành để trị. Không cầu Đại thừa dùng hư vọng giải thoát làm Đệ nhất nghĩa, thì nói dụ buộc châu để trị. Người có Đại thừa chấp phi Đại thừa thì nói dụ Châu ở búi tóc để trị. Người không có công đức không chấp đệ nhất thừa, thì nói Y sư (thầy thuốc) để trị. Nếu chỉ y bảy thứ đây đều có đối trị, thì tức vì pháp làm thí dụ, nói thí dụ lãnh giải. Đức Phật dùng Thí thuật v.v… về lý tợ như không thành. Nên biết luận ý. Nhà lửa không chỉ đại xa biên. Cùng tử chánh dùng ý lãnh giao phó gia nghiệp. Mây mưa khiến khai Quyền nhị thừa, Hóa thành dùng Bảo sở dẫn, còn lại thì có thể biết. Hoặc người khác nói: Phẩm này chỉ xuất sinh, hoàn toàn thông đạt ý chỉ kinh, huống lại luận văn theo nghĩa năng thấm nhuần, dùng mưa đặt tên. Kinh thì theo đối tượng được thấm nhuần, nên gọi là “Dược thảo”. Dược thảo thì Nhị thừa đều có, một trận mưa thì trình bày kia quy về Đại. Gia Tường nói: Thảo mộc có hai:
l) Không biết đồng. 2) Không biết khác.
Nếu có thảo (cỏ) tốt tức năng biết đồng, thì để dụ Ca-diếp. Đây thì chỉ từ điều mà Ca diếp lãnh giải, có thể biết như vậy. Nếu từ Đức Phật thuật thì lẽ nào có thể Dược Thảo khác đều nói không biết? Lại cũng không biết “ba cỏ hai cây”là thụy hay phi thụy? Cho nên cần phải nói “nay xưa” mới hiển sự lành đó là đúng hay sai. Nay cho rằng đến Pháp Hoa đây tại sao lại có cỏ phi thụy? Nên nói đúng là thảo mộc tuy vốn từ một đất sinh ra một vị, một trạch (thấm nhuần) mà không tự biết, chợt nhờ khai hiển, không gì không là tường thụy (điềm lành)! Mà còn khiến đàn chỉ (gảy móng tay) chắp tay, chung thành Diệu nhân, Sinh Vô sinh tuệ đều thành Chủng trí. Nhưng trong văn tứ Tất-đàn lại từ Ca-diếp lãnh thuật biên nói. Trong đó, trước là tổng trưng khởi. Tiếp, “Đất đai” trở xuống: là biệt giải thích tứ Tất-đàn để đáp câu hỏi ở trước.
Trong nghĩa Thế giới Tất-đàn có hai phần: Trước thí, sau hợp. Trong phần thí dụ, đất đai căn cứ nay, thảo mộc kiêm xưa cho nên nói “thông đều hữu dụng”. “Dược thảo” tại nay, dược là thảo nên gọi dược thảo. “Sở sinh…”: Nếu theo các biên nghĩa do Phật nói thì không gì không phải là dược, cho nên nói “thông đều hữu dụng”. Nếu theo năng lãnh, trung thảo là tên, thì chỉ nên nói phẩm Trung Thảo mà thôi! Cho nên nói Dược Thảo dụng mạnh. “Hữu lậu…” là hợp. Trước, là hợp xưa. Tiếp, “Vô lậu…” là hợp nay. Trong đó trước hợp tiếp dẫn chứng. “Thuật…”: là kết ý.
Văn đầu, hỏi: Nếu theo Phật thuật thì nên nói thảo mộc và do đất mưa. Nay phẩm đã là văn thuật thành, vì sao chỉ chỉ hạng Thanh-văn trung thảo, nói bốn đại đệ tử…ư ? Đáp: Thật như đã hỏi, nói thông ý biệt cho nên gọi là “dược thảo”. Nói biệt ý thông lại chỉ Thanh-văn. Ý Phật tuy thông thuật họ đắc giải mà biệt ở Ca-diếp. Thuật các điều bất cập và cập của họ, là vì muốn lần nữa “thị” (chỉ bày tri kiến Phật ). Hoặc biệt hoặc thông đều thành dược thảo. Đất và mưa, lại là thuật kia lãnh giải Thật, cho nên không biệt nói.
“Đức Phật tán thán…” là dẫn chứng. Kinh nói “bảo Ma-ha Cadiếp”: vì Ca-diếp đứng đầu chúng Tăng. Cho nên, biết trong phẩm Tín Giải tuy liệt kê đủ bốn người, Tu-bồ-đề là người được nêu đầu, nhưng người tự xướng trình bày là Ca-diếp, cho nên nay bảo riêng Ca-diếp. Lại nói “và các đại đệ tử”: Tin biết đắc ngộ không riêng chỉ bốn người. “Thuật kia…”: Ngộ ắt thông khắp, lãnh thuật theo biệt. Đức Phật song thuật “Hay thay! Hay thay”. Ca-diếp lãnh thông gọi là “Dược Thảo” và cùng hoan hỷ ý đồng và lãnh kiêm thuật đồng, gọi là Thế giới Tất-đàn. Cho nên có thể theo thông.
Văn tiếp có hai: Trước thí dụ, sau hợp. Trong thí dụ nói “tòng (tụ họp) có…”: là thí dụ xưa, đều có thói quen lâu đời (tích tập) cho nên gọi là tụ họp nuôi dưỡng. “Thời lâu”: Trải qua hai vạn ức kiếp còn tại phương tiện nay mới khai hiển, nên nói được nhuần một trận mây mưa. “Đây…”: thí dụ nay, “mây mưa” như dưới giải thích. Nói “phù sơ”: “Phù”: là phù trợ. Nhĩ Nhã nói: Rừng có cây cỏ gọi là “sơ”. Dùng xưa trợ giúp nay mới có thể kham thọ ký. Nói “Vi hoa”: là sáng rực đầy đủ. Một trận mây mưa thấm nhuần khiến cây cỏ tươi tốt. Vô thủy tánh đức như “đất”. Phát tâm Đại thừa như trồng cây. Phát tâm Nhị thừa, như cây cỏ nẩy mầm. Nay nhập Sơ trụ như đồng thành mầm cây Phật thừa… Trong đầy đủ mười lực, gọi là “lực”, lực có thắng năng làm dụng, đối với mầm giống thân cho nên đầy đủ gọi là bên trong tiểu quả được thọ ký như mầm giống tốt tươi… “Thí các…”: hợp xưa. “Nay được…”: hợp nay. Trước hợp tiếp chứng, sau kết ý.
Văn đầu: Đã khai hiển rồi tự lợi kiêm vật, từ nơi tự tha thọ lợi ích được tên, gọi là Vị nhân. Tiếp, Đối trị và Đệ nhất nghĩa, trong đó có hai: Thí dụ và hợp. Trong thí dụ cũng đầu tiên là thí dụ xưa. “Nay nhờ…”: là thí dụ nay. Nói “Tứ đại…”: ba bậc dược ở thế gian đều chẳng phải Dược Vương. Bậc hạ trị tứ đại, bậc trung lợi ích năm tạng, bậc thượng có thể trẻ lại. Nói “gió lạnh”: Lược nêu hai đại, xưa trừ bệnh Tứ trí, chỉ nuôi dưỡng ngũ phần thân, kéo trẻ lại chân lý, nghỉ tạm nơi Biến dịch sắc. Nay dùng mây vô duyên từ để che mát, rửa sạch thì dùng mưa pháp vô tư, khiến hạt giống xa thâu hoạch lợi ích không thiên vị, khiến cỏ vô thường yếu ớt bèn trở thành thường trụ Dược Vương. Tự hành kiêm nhân đều trừ ba hoặc, cho nên nói “trị khắp”. Phải biết tự tha đều thành thường thân Phật đại tiên. Tiếp, bốn chữ: “Thí chư vô lậu”: hợp xưa, từ “Nghe kinh…”: là hợp nay, cũng là hợp chứng kết ý. Nói “Gia trước”: “Gia” là thiện, “trước” là lậu. Chữ “xứng” đọc khứ thanh. Thiện bắt đầu khiến đến cuối gọi là “Gia trước”. Nghe khế lý, nên nói “xứng vi”. Lại nương nhị thừa lãnh giải để nói cho nên đều gọi là Vô lậu, đây đều thành Phật thừa. Tứ Tất đàn nói là “Đối trị và Đệ nhất nghĩa”: Theo biến trị biên, tức nghĩa Đối trị. Theo thành tiên biên, tức Đệ nhất nghĩa. Ngoài ra ba thứ căn cứ Giáo… không ghi. “Vân vân” là: cỏ cây là ba giáo, đất mưa là Viên giáo, tức là căn cứ Giáo.
Nếu bản tích thì: Bản trụ trí địa từng cho mây mưa, Tích là cỏ cây dẫn kia tăng trường. Quán tâm, đầy đủ như trong Huyền Văn lợi vật vi diệu về sau. Lại, căn cứ dược làm quán: Như Chỉ Quán quyển 10 nói. Tứ dược trị kiến đủ thuật quyền thật, tư duy cũng theo lệ như vậy. Các sư xưa tuy nói trình bày ân Phật sâu, mà không có ý mười ân thì thuật cũng không khắp. Sư xưa cũng không dùng “dạy làm” mà làm Thám lãnh. Ví như lập Thám lãnh, đây cũng chỉ như văn dưới Nam Nhạc phán quyền công đức. Sư nói: Chánh chỉ Nam Nhạc Nhị thừa tuy lại tự lãnh biết cõi mình. Đã nói là “khéo thuyết” tức lãnh đủ một đời Quyền Thật.
Nay Đức Phật thuận theo tất cả thuật sở lãnh của họ.
Mười ba hàng kệ văn dưới đem ý xưa đã dẫn trở lại phá xưa. Ca-diếp tuy tự lãnh ân sâu của Phật mà đó như Phật thuật khéo nói công đức chân thật của Như Lai, lẽ nào riêng pháp nhị thừa ư? Thí dụ dạy làm là công đức quyền của Phật, cũng là bài xích người xưa thuật không cùng khắp. ‘Thí dụ người dạy làm” là ít phần trong pháp quyền mà thôi! Đầy đủ như trước giải thích nghĩa “Ngày khác” tức là hai nghĩa tha (khác) trước; tha tức là quyền. Lẽ ra nói: Đây thật là con ta, lẽ nào riêng người dạy làm ư? “Nay nói…”: là sư nay giải thích. “Bắt đầu thiên tánh…”: Thiên tánh tức chỉ nơi Đức Phật Đại Thông, như ý đầu trong mười ân. “Trung gian…” đầy đủ như chín ân dưới. Thiên tánh còn thông kết duyên theo biệt. “Tự vi…” Tự là từ, từ Tiểu đại đến ân thứ mười cho nên nói “nhiều”, lẽ nào chỉ một đời giáo ư? “Song thuật…”: hai nơi nghĩa là hai phương tiện nhà lửa. Do trong Tín Giải lãnh giải cả hai nơi, nay cũng song thuật hai nơi lãnh giải. Nếu không như vậy, thì luống thuật có lợi ích gì? “Khéo thuyết…”: là thuật kia lãnh đủ Như Lai Quyền Thật giáo pháp, đây là căn cứ Nhân duyên mà giải thích, cho nên không đồng nơi khác (tha) dẫn luận phá không có Tiểu. “Lại Hoa Nghiêm nói…”: là thuật khắp sở lãnh tức căn cứ Giáo. Trước giải thích còn tổng, đây giải thích thì biệt. Tổng biệt nghĩa một bản tức Quán tâm đại ý đồng trước. “Lãnh sở bất cập”: là nêu “bất cập” của Ca-diếp để làm rõ loại chúng khác có phần. Lại, nêu “bất cập”của Ca-diếp chỉ bày sự lãnh khắp của Ca-diếp. Lại, chỉ bày sự lãnh khắp của Ca-diếp, tức biết một nhiếp thu tất cả. Trong đó, trước là nêu, tiếp “Vì sao vậy?…”: là giải thích. Giải thích ý: Nếu chỉ thuật Nhị thừa thì chỉ nên theo trung thảo làm đề phẩm và ngoài sở lãnh giải lại thuật “bất cập”. Khiến biết ý như sở lệ trước nay. Lại nói “thuyết không thể hết” là nêu bất tận, Phật thuyết còn không hết huống chi Ca-diếp ư! Trong đó, trước trình bày ý Phật, ý Phật đã khắp nghiệm biết sự lãnh giải có tột cùng.
Tiếp “Sao bỗng…”: là trách Tề giáo kia thông suốt các câu. “Không nói rõ (Bất đáo)…”: là chánh thuật “bất cập thoái tiến…” dùng vị nhị thừa vọng trên làm tiến, vọng dưới làm thoái. Mười giới mỗi mỗi tự có nhân quả, không do thứ lớp cho nên gọi là “ngang”, một người tiệm khởi cũng được gọi là “dọc”. Nay dùng tạp khởi và đủ hữu biên, chỉ được gọi là “ngang”. Lại, do nhiều người thứ lớp tương vọng và pháp sâu cạn cũng được gọi là “dọc”. Người người đều trú cũng được gọi là “ngang”. Thất phương tiện là dọc. Nếu bảy người đều bảy, thì trước sau tương vọng, bảy người đều một thì Đại Tiểu tương vọng. Bảy người truyền nhập, bảy người nhập thật, đều được gọi là “dọc”. Lại, ba đời gọi là “cũng ngang cũng dọc”. Đời đời biến khắp mười phương mười giới cũng gọi là “ngang”. Như vậy, phẩm loại đều theo các vị, tám giáo điều thục, mới đối ngày nay cùng Ca-diếp… hoặc là đồng hoặc là biệt, chưa nghe khắp lãnh cho nên Phật chỉ bày. “Phàm núi sông” đến “bất cập”: Đây là “Chẳng ngang chẳng dọc bất cập”. Như các văn dưới kết sai không sai. Không sai tức sai, sai tức không sai, không đúng ngang dọc. Không sai biệt tức sai biệt mà ngang mà dọc, nay theo không sai biệt mà gọi chẳng ngang dọc. Từ mà sai biệt biên, như ngang… nói ở trên. Đầu tiên, “núi sông …”: đối đủ các pháp, đều cùng lý bình đẳng đồng dùng một đất mà tổng xuyên suốt. Đầu tiên, có người dùng đất ví như Lại-da thường trụ, lý đó không thành. Đối ngũ ấm thế gian để nêu rõ nhất Thật sai biệt không sai biệt, đều là thật tướng cho nên tổng gọi là “địa”.
Tiếp, “Cỏ cây…”: căn cứ nhân tu tập Ngũ thừa Thất thiện. Đối nơi nhất thật nêu sai biệt không sai biệt v.v… Tiếp, “một đám mây…” đến “đầu ba cuối một”: căn cứ năm thời giáo đối nay nhất Thật nêu sai biệt không sai biệt. Trước là thí dụ, tiếp “Như Lai…”: là hợp. Sinh công dùng mây dụ cho pháp. Nhà chú giải dùng mây dụ ứng, làm sao trung đạo thiên chân mà từ chối con thế tục ư? Đốc thúc luận lý kia tại sao nói là tục ư! “Như rồng khởi…” là thí dụ trong thân Phật năng mang pháp thể. “Tổng thí đó là…”: tổng hợp, lại không tiến thoái ngang dọc… Tuy đủ ngang dọc và cũng ngang dọc đối với nhất thật, nhậm vận thiếp lập luận chẳng phải ngang dọc. Căn cứ khai hiển nói, kết sai biệt không sai biệt thì khai tất cả trước đều thành không sai biệt. Tiếp, “Bất cập…”: nêu ý Đức Phật bài xích “bất cập”. Nhị thừa bắt đầu nghe mới nhập Sơ trụ. Lại tự thuật pháp sở nhập của mình, đức Phật muốn qua đó thuật những gì không lãnh, pháp ấy còn nhiều, Nhị thừa nếu nghe cũng thành lãnh khắp, đầy đủ như trước nói. Nói “chưa cùng”: Cực chỉ địa sau dọc nhập biên nói. Nếu muốn thuật khắp thì chưa rỗi thuật đến cuối cùng, do đó Ca-diếp thuật bản thân là vậy.
Đầu tiên là giải thích theo Nhân duyên . “Lại, sơ ngộ…”: là căn cứ giáo. Nếu Ca-diếp lãnh ngộ mình thì tức là nhiếp tất cả, dùng viên đối thiên tức khắp lãnh giáo.
Ca-diếp sở chứng tức bắt đầu chữ A, vì rằng liền sau là chữ Trà, khắp lãnh không sai biệt. “Lại, Quyền hành…” : là Bản tích, chỉ thiếu Quán tâm, đầy đủ như Huyền Văn giải thích pháp. Nếu y nay lãnh, thì tức Không cho nên sai biệt tức không sai biệt, tức Giả cho nên không sai biệt tức sai biệt; tức Trung nên phi sai biệt phi bất sai biệt. Ngang dọc theo lệ biết. Trong rộng thuật thành có hai đoạn: Văn đầu thuật đủ ba cây hai cây sai biệt không sai biệt, tức là rộng giải thích lãnh sở bất cập. Vì trách Ca-diếp lãnh sở bất cập do đó văn dưới vẫn tán thán Ca-diếp, nêu rõ kia tuy có lãnh bất cập mà dù lãnh các ý cũng không ngoài Quyền thật, lại tiếp dẫn đó . Cho nên kết tán nói: “Các ông năng biết công đức Như Lai”. “Khuyên tin”: Ở đây các “bất cập” bởi vì chỉ có Như Lai năng biết, cho nên nêu “Pháp vương” để khuyên những gì mà Ca-diếp bất cập, thì càng phải tín thọ. Nếu y đây lãnh rồi thì năng biết.
“Vì nêu thí dụ Mây lớn làm bản”: Mây lớn bủa khắp tất cả, mưa lớn thấm khắp tam thiên. Thọ lợi ích đã thật, năng gia-bị đến chẳng dối. “Đối với tất cả…”: Nếu không có trí thì không thể thuyết, nếu không có giáo thì không thể thuyên (giảng). Muốn biết trí tại thuyết, quán giáo mà biết trí. Nay theo thuật giáo, cho nên trước là giáo. Nếu đầu phẩm Phương Tiện muốn dẫn năm Đức Phật sở thuyết thì trước tán thán hai trí. Đã là tương thành tức trước sau xen nhau nêu. “Nhất thiết pháp…”.
Hỏi: Vì sao Thất phương tiện trong văn trước nói lãnh bất cập, thì phương tiện là dọc, nay sao nói là ngang?
Đáp: Căn cứ nhân (người) cho nên dọc, căn cứ pháp cho nên ngang. Lại nhân pháp đều có ngang cùng dọc, đầy đủ như trước nói không thể phán cố định. Cho nên lại dùng ngang đối Thật, cũng gọi là dọc.
“Nếu nói không như vậy…”: là giải thích ngang dọc đây. Đầu tiên trong giải thích dọc nói: Nếu nói tất cả pháp không phải là Thất phương tiện dùng đối nhất Thật làm dọc, thì như ở nơi hai vạn ức Phật sơ phát Đại tâm tức là tất cả pháp thật, trung gian lưu chuyển hoặc lại phát tâm, không ngoài bảy pháp. Cho nên, bảy pháp là ngang đối nhất Thật làm dọc. “Lại, mười pháp giới…”: là giải thích ngang. Trong thân một người mà còn đầy đủ mười, huống chi lại không đủ bảy ư! Một người đã vậy, nhiều người cũng vậy. Một thú đã vậy, các thú khác cũng vậy. Cho nên bảy pháp là ngang. Trong thân Như Lai hoặc mười hoặc bảy, nhất niệm chiếu suốt ngang dọc không bỏ sót. “Pháp đây tuy nhiều…”: Bảy thu nhiếp Quyền hết tất cả vì hợp cơ không ngoài bảy pháp. “Vì nhân thiên…”: nêu rõ Phật năng chiếu cho nên năng thuyết, trong này đã riêng nêu Nhị thừa, cho nên Tam tạng sự độ tức Bồ-tát. Thông vô sinh gọi là Thông tam thừa. Thuật kia khai tam: Trình bày đủ bảy thiện mà nói ba: Ba từ xuất thế chỉ khai Bồ-tát thêm nhân thiên nghĩa nên thông bảy. “Cứu cánh….”: Đây nên các Quvền đều quy về Thật tướng, cho nên tam giáo giáo trí chưa hội thì không gọi là Nhất. Lại không phải chỉ rõ pháp đây từ nơi bản vô trụ mà lập cho nên không được nói “cứu cánh bất nhị”. Nay nói bất nhị, là thủy chung nhất.“Tánh kia…”: “Quảng bác” thì là “nhất”, cho nên gọi là “thiết”. Chữ “thiết” đều thông huấn dạy chúng. Cùng hiển bất nhị là thiết của một nhà, gọi Nhất thiết trí.
“Tịch mà thường chiếu”: Trí sở y địa năng sinh các trí, cho nên gọi là “trí địa”. Đây từ cảnh thuyết. Nếu trí tức địa thì năng sở không hai, cho nên trí cũng gọi là bản vô tru, cho nên cũng được gọi trí là địa. Chánh hiển năng lập, lập cũng sinh, nên trí địa đây năng sinh các pháp cho nên song song gọi trí địa là bản vô trụ. “Vì sao vậy?…”: Vì để bài xích sư xưa, bỏ ngoài những ý trên, các giải thích khác đều không đúng, như đã trời tối mà lại ngủ mê sâu. Ở đêm vô minh, lại mê muội giải thích lời Thánh, sao có thể hợp lý ư? “Ví như Đại Phẩm…”: là dẫn chứng trí địa cho nên trước dịch tên. Thật tướng là thể, trí tức là dụng. Nếu địa của trí gia tức chỉ thật tướng, thì hết thảy đều là đại. Do trí hiển địa, do thường đến cực cũng là từ thủy đến chung y địa đến cực. Đại sự đại thừa đều phải chọn trang nghiêm trâu trắng. “Ngoài ra hai…”: Chỉ không là một, đều gọi là hai. “Đây là căn cứ” đến “khai Quyền hiển Thật”: vì trong tiệm đốn không ngoài Thất phương tiện, cho nên trong tiệm đốn có Quyền thì đều khai.
“Từ: Như Lai” đến “giải thích giáo”: Quyền giáo đều thành thật Giáo là bởi do dùng trí bất nhị mà đồng chiếu “Biết sở quy thú” đến “đều có quy thú”: năng có sở thú, cho nên gọi là chỗ hướng đến (sở thú). “Giới thiện…”: nêu Thất phương tiện. Pháp đều có viễn cận: Đương vị gọi là cận, đến tột cùng gọi là viễn. Đương vị gọi là Quyền, hướng đến tột cùng gọi là Thực. Quyền dược sở trị thì gọi là Quyền bệnh. Trong quan hệ đó chỉ có viễn thì cũng không đúng. Thiện không tự tánh, viễn cận do người; trong đấy trước nêu giới thiện cận tại người trời. Nói “làm duyên”: Từ viễn được tên, nên nói “nếu làm”. “Niệm xứ…”: nói “phước đức”: là ý Đại kinh. Kinh nói Thanh-văn: Phước đức trang nghiêm hữu vi hữu lậu, cũng do ở sau Pháp Hoa cho nên nói khai tướng có thể trang nghiêm Pháp thân. Niệm xứ kiêm nơi hai giáo Nhị thừa, nay vả lại đối với Tam tạng Thanh-văn. Ở giữa siêu vượt ba người cho nên nói: “cho đến”. “Lục độ Thông Biệt” mỗi mỗi thiện căn đều có hai thú, Đức Như Lai khéo biết.
Hỏi: Biệt thú đã viễn (xa) tại sao cũng hai?
Đáp: Mười hai phẩm hoặc và dùng quả của ngã làm nhân của tha, lẽ nào chẳng phải cận ư?
“Lại, cận viễn”: Cận từ vật tình, viễn có ba ý:
- Thiện thể.
- Từ bản kỳ.
- Từ ý Phật.
Ý Phật lại có hai:
- Thuận cơ.
- Theo thể.
Chỉ có Như Lai khéo biết thể tánh, nói thể tánh lại thông hai đường, tiếp cận khiến viễn thể tánh đều còn. Đây là ở trong quyền lấy ý thật giải thích, tức là chánh ý quyền thật của kinh này. “Lại, giới thiện…”: là lại giải thích: Riêng (đơn) từ bên dược mà giải thích Thất phương tiện, gọi là biết dược (thuốc), thâm tâm sở hành gọi là biết bệnh. Năng tri tức là biết dược. Nói “hai thứ”: Sở chấp kiêm Hoặc vi tế, y chánh chỉ có Hoặc thô. “Chướng nhân thiên”: lại từ cận nói. “Đắm sở chấp”: Do Tứ đảo… đều đối các thừa, nhưng thô Hoặc chẳng phải hoàn toàn không chướng ngại thừa, chỉ vì không chấp lý cho nên nghĩa chướng thừa yếu. “Đắm sở chấp”: không phải không có Thập ác làm mất Nhân thiên thừa. Bất cứ sâu cạn đều gọi là “chấp”, cho nên dùng chấp… tùy nghĩa đối với nó. “Một trí chiếu khắp” nên chẳng phải chỉ chiếu hết thảy mà thôi, cần phải đối một dược một bệnh mà thấy tất cả dược tất cả bệnh. Văn dưới đã nói tất cả pháp, tức là mười giới cho nên một dược một bệnh đều đủ mười giới. Biết các pháp tận, gọi là biết bệnh, nhờ dược hiển bệnh. “Biết tất cả thâm tâm…”: Nếu không biết dược thì không biết thâm thâm, nhờ bệnh hiển rõ dược.
“Nhược can” nghĩa là bao nhiêu, nhiều. Như pháp thể kia pháp thể vốn Không, cho nên “nhược can vô nhược can” (nhiều không nhiều). Lại như dưới nêu tâm pháp trần, ví như sai biệt không sai biệt. Hai câu đầu nêu pháp tướng, căn cứ tâm sở duyên pháp trần để biện rõ. Tiếp, “Tâm có…”: là biện rõ biệt: Tiếp, “Tâm bất ly…”: là biện rõ tức. Tiếp, “Vô số…”: là biện rõ tức tướng. “Quyền thật…”: là hợp thí. Chân pháp vốn không do tâm có số gọi pháp là số. Toàn tâm là pháp, toàn pháp là tâm, không thể hợp đủ, chỉ khiến thuật cho nên chú giải “vân vân”. “Ví như…” thứ hai là Thí thuyết văn chia làm hai: “Đầu, thí. Sau, lại tông xưng tán”: Căn cứ trước sơ khai nói: Đầu thuật khai hiển, tiếp kết tán thán. Trong văn đầu tự phân chia làm ba: Pháp, thí, hợp. Nay đến trong thí lại nói “trước thí, tiếp lại tông”. “Bởi do các ông! Ca-diếp…” văn đủ hai nghĩa: Cũng gọi là kết trước khai hiển tức như trước đã khai, cũng gọi là lại tông xưng tán, như sau sở khai. Nói “lại tông”: Trong đây đại ý vốn thuật Ca-diếp, trong đó rộng xưng tán Như Lai nhị trí, tợ như chỉ tán thán Như Lai không liên quan đến thuật thành. Cho nên văn sau nói: “Ca-diếp! Các ông rất là hy hữu”. Đây thì lại tông trước thuật Ca-diếp, trong đây dùng thuật Ca-diếp làm tông cho nên nói “lại tông”. Do tán thán Như Lai là tán thán Ca-diếp, cho nên nói “xưng tán”.
“Ba cỏ, hai cây…”: là thuật thí dụ, giải thích nghĩa sai biệt không sai biệt. Tiếp, “Nếu quán…”: là biện rõ nguyên do thí dụ sai biệt không sai biệt. Nếu quán ngọn nhánh thảo, mộc thì có sai biệt. “Nội hợp phương tiện…”: hợp Quyền trí. “Thật trí…”: hợp Thật trí. Trong cụm từ “Sai biệt vân vân” thì “vân vân” là: Đều nên nói chi tiết: lấy sai biệt không sai biệt dùng đối nhất Thật và dùng Thất thiện, Ngũ thừa. Gieo trồng hạt giống do trí địa của Như Lai. Vật tình tự cho là sai biệt, đầy đủ tươi tốt do mưa pháp của Như Lai. Pháp chẳng do tình mà năng sai biệt. Chúng sinh sở thọ cũng là trí địa, địa cũng là pháp chỉ lúc gieo trồng giống. Trí địa nghĩa kiêm tâm địa chúng sinh, cho nên sơ tâm gọi là “địa”. Giải thích “Thí dụ sai biệt”:
Hỏi: “Đất đai” và dưới nói “một đất” sai khác thế nào, mà trong đây thí dụ sai biệt, bên dưới thí dụ không sai?
Đáp: Dùng thí dụ đều sai biệt, dưới thí dụ thật lý, đây thí dụ báo ấm, cho nên không đồng.
Trong đây trước phá xưa: Tập nhân và báo quả, hai nghĩa không đồng, cho nên biết người xưa không nên dùng sông núi… mà thí dụ Tập nhân, bởi vì tập nhân ắt phải tăng trưởng. Cho nên văn dưới đây thì “Ba cỏ, hai cây” đều có nghĩa tăng trưởng, tức Tập nhân. Nay văn chánh giải thích chỉ dùng sông núi…, dùng thí chúng sinh ngũ ấm hai thứ thế gian giả thật không đồng, cho nên nay dẫn hai văn dưới đều chứng nghĩa báo quả của nhân thiên v.v… “Lại…”: là biệt thí: Trước thông vì năm thừa, năm ấm làm thí dụ. Nay đều thí dụ năm thừa năm ấm. Như núi tuy cao nhất cũng có gò cao thấp… năm tướng. Chữ ô: Gò thấp, nếu y nghĩa đây nên viết chữ huyệt, ao. Cũng nên nói chữ sa (trũng) gò cao, nghĩa là sông núi hang cốc khe đất đai trong một mỗi tướng lại có năm tướng. Như đất tuy bằng cũng có cao thấp tợ như núi… xuyên: (sông): Là nước lớn năng xuyên thông cho nên gọi là “xuyên”. Phan Nhạc Quan Trung ký nói: Nước có tám dòng sông: Kinh, Vị, Bá, Sản, Phong, Cao, Lao, Duật. Nên biết chỗ nước thông đều gọi là “xuyên”. “Khê”: Là cùng tận sông ngòi, nguồn xuất ra từ núi cho nên gọi là cùng. “Cốc”: Nước chảy ở khe. Lại suối thông sông gọi là cốc, đâu có ngăn ngại gì đây… đều có năm tướng cho nên dùng thí dụ Ngũ thừa ngũ ấm. Trong cụm từ “Sông núi y thế giới vân vân” thì “vân vân” là: tế hợp ấm nhập Tập nhân pháp tánh ba pháp, tướng xoay chuyển nương nhau. Nên nói Tập nhân khai làm Duyên, Liễu, cùng ấm nhập kia bất tức bất ly. Ấm tập cùng chánh pháp, tánh bất tức bất ly. Sáu văn rõ rằng, trách nơi người xưa không lập thứ sáu làm nghĩa Tập nhân tăng trưởng.
Nói sáu: 1) Đất đai. 2) Thảo mộc cho đến thứ sáu là tăng trưởng.
Cho nên biết nghĩa đầu chỉ tương đương sông núi chưa liên quan đến hai nghĩa chủng tử tăng trưởng. “Lại tiếp… như đây” đến “trước sau ư!” Các sư xưa dùng nghĩa thứ sáu của sư nay đặt làm nghĩa thứ nhất, cho nên trách nói sao chép trước sau. Lại dùng nghĩa đất làm cuối cùng và nghĩa đầu: tam thiên làm tổng mà dùng khe hang… làm phân biệt gián đoạn cho nên nói lẫn lộn kinh văn. Trị bệnh lực dụng thù thắng. Nếu phân biệt hai chữ “dược thảo”, thì dùng tiểu thảo riêng gọi tên “thảo”, ngoài ra thì gọi chung là “dược”, tức chỉ vô lậu. Lại, hàng nhị thừa theo sở thuật mà nói thì gọi là trung thảo, cho nên xưng hạ thảo trị bệnh lực yếu, thượng thảo đồng phàm phu trị bệnh cũng kém. Từ phát đại tâm cho nên cũng gọi là “dược”. Hai cây (mộc) lại từ phú ấm (che lấp) làm công cho nên biết thông đề, biệt tại trung thảo, thông luận đều là dược chỉ lược chữ mộc thôi! Đầy đủ như đầu phẩm phân biệt có thể thấy. “Chất cán” là pháp thể, “Phúc ấm” là từ bi. “Khí dụng” là lợi vật. “Ví như hai Bồ-tát”: Thông Biệt Bồ-tát. Nếu vọng hai giáo thì nhị thừa và Tam tạng Bồ-tát, vả lại nói đại. Nhưng Thông Bồ-tát nếu vọng Tam tạng, cảnh thệ nguyện rộng tuy không hơn kém, mà dùng Thông Bồ-tát: 1) Diễn môn thông viên. 2) Thông nơi biệt cho nên nói rộng. Thất thiện chỉ là Thất phương tiện thôi! Như từ tu tập đương thể đặt tên, phương tiện tiến thú công năng lập xưng. “Mây dày tức tam mật”: Phàm nói tam mật ắt căn cứ Ứng Hóa. Tự thọ dụng báo bình đẳng pháp thân, thì ở đâu mà luận về mật? Phúc ấm ví như từ bi của đức Phật…: Che rộng thì chất lớn, che hẹp thì chất nhỏ, chất nhỏ thì lợi cận, chất lớn thì lợi viễn. Viễn mật cận sơ, tùy đều sai khác, tùy kia mà dụng trí hóa cảnh không đồng.
Trong cụm từ “Không mưa vân vân” thì “vân vân” là: nhân đem mây… để thí dụ tam mật, tiện dẫn sắc mây không đồng. Điện Sư danh khác có lôi (sấm), do duyên mưa không đồng. Nay dùng mây dụ ứng thân, sấm thí dụ danh xưng, sấm dụ phóng quang, mưa dụ thuyết pháp. Trường hàng không có nói sấm chớp, trong tụng có đủ. Có chớp ắt có sấm, sấm ắt có mây, mây ắt rót mưa. Nay không dùng “mưa không có chớp không có sấm, mây không mưa”, làm thí dụ, nên dùng ý đây hợp thân mây…, ứng sắc chẳng phải một. Vả lại rộng nêu năm để ứng Ngũ thừa. Đức Phật làm giáo chủ, thí như điện sư, căn cơ chúng sinh cũng như điện sư, cảm ứng hợp nhau giống điện sư đấu tranh, tùy cơ có cảm ứng phát ánh sáng. Lại tứ đại đấu tranh cũng thí dụ cơ ứng. Nói “Năm việc không mưa”: Tổng dùng không có cơ Ngũ thừa để giải thích có cơ, do không có cơ nên mưa pháp không giáng xuống. Phàm dẫn sự thí đều có cận viễn, trong đó không cần dùng Lục thiên, Tứ vực trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ mượn ý kinh A-hàm làm thí dụ thôi?
Lại nữa Tạp A-hàm nói; Trời Phong Vân suy nghĩ rằng: Ta nay muốn dùng thần lực du hý, suy nghĩ rồi thì gió mây liền nổi. Điện trời sấm chớp, trời tạnh trời lạnh nóng cũng lại như vậy.
Hỏi: sáu thí dụ này vốn thí dụ sai biệt, sao một trận mưa mây dày làm thí dụ không sai biệt?
Đáp:Văn dưới nói mây mưa chỉ là mây mưa trong đây thí thôi!
Nay từ sở vũ được gọi là sai biệt.
Hỏi: Nếu như vậy thì cùng thảo mộc đâu khác biệt?
Đáp: Thảo mộc chỉ từ thảo mộc lập tên, mây mưa chính từ sở hiển làm năng, cho nên không đồng.
“Tám âm bốn biện” như trong sách Pháp Giới Thứ Đệ nói. Lẽ ra phân giáo biệt, nay từ tột cùng thuyết. “Thấm khắp…”: Tuy nói Ngũ thừa vốn gia bị Nhất thật, lẽ nào khi thọ thấm nhuận ly thật địa ư! “Tín giới…”: Ngũ thừa đều nhờ bốn pháp đây, chỉ có Nhân thừa thiếu định tuệ, dùng tâm sở thì xứng. “Nêu rõ thảo mộc kia tùy phần” đến “hai nhân”: Tập nhân tăng trưởng để thành báo nhân, cho nên tập nhân tăng trưởng tức báo nhân tăng trưởng, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 8 ghi. Lược thuật các luận về tập báo nhân…, chỉ kia nêu rõ phát tướng đây biện rõ tu tập. Sáu tế kia độ bảy phương tiện đây, lấy đây làm khác.
“Hoa quả đơm kết” đến “hai quả”: Hoa như tập quả, quả như báo quả. Đây cách chữ làm đối, lẽ ra nói đơm hoa kết quả, cũng có hoa mà chưa đơm, quả mà chưa kết. Cũng có thể thí dụ hai nhân. Nay dùng “đã phu đã thật (đã đơm kết)”, cho nên khi đến quả thì y chánh rõ ràng. “Đạo tiền tâm địa” đến “Trí địa”: Đây gọi là “Đạo tiền hậu”, danh có thông biệt, Đạo hậu định tại quả hậu, Đạo tiền thông đến phàm phu. Cho nên trong phẩm Phương Tiện cũng lấy Đẳng giác về trước làm Đạo tiền. Trong đây phải dùng bạc địa phàm phu không giới thiện làm Đạo tiền, dùng Ngũ thừa làm Đạo trung, do đó Đạo tiền Đạo hậu lý chân như bình đẳng đều là địa. Địa thể không sai biệt nhưng đều năng sanh, cho nên biết chúng sanh Đạo tiền tâm địa, sao thường không có tánh năng sinh ư? Mà không năng sanh không năng thành. Ắt nhờ vào cực quả trí địa của đạo hậu khiến sanh khiến thành. Phát tâm về sau cứu cánh về trước, đều nhờ Trí địa mà thành thục. “Khai phát Đạo trung”: Lại đem sơ vọng hậu, Ngũ thừa ở giữa. Không phải cho rằng Ngũ thừa tức có chân như. Ngũ chủng thiện căn tức Ngũ thừa, đều căn cứ Như Lai hóa ý biên nói, cho nên nói “cuối cùng là nhất âm”. Nói “cuối cùng là”: cuối cùng không định năm, cho nên nói vậy. Chúng sinh được gia bị tuy năm, hóa ý chỉ một, từ biên hạn quyền nghi phải gọi là bốn vị.
“Hợp thí thứ lớp”: Trong đây chỉ nêu trong hợp tương sinh, căn cứ lý thì cũng nên nêu thí dụ tướng sanh. Thí dụ tương sinh: Do có chúng sinh ngũ ấm cho nên có Ngũ thừa thảo mộc. Có ngũ thừa chủng tử cho nên mật vân (mây dày) ứng thế, nên ắt thuyết pháp, thuyết ắt có thấm nhuần, thấm nhuần ắt tăng trưởng. “Vân vân” là: nên dùng sai biệt đối nhuận đồng nói sai biệt không sai biệt bình đẳng. “Chương môn”: “Mười hiệu” như trong Chỉ Quán quyển hai lược giải thích. “Tứ hoằng”: Triệu sư nói: “Phát tăng na ở tâm ban đầu, cuối cùng dùng đại bi ứng phó nạn”. Bản Nghiệp Anh Lạc đủ đối Tứ đế. Nhưng kia thuộc Biệt, nay phải tại Viên. “Tri đạo…”: ba thứ “bất hộ”: Thường cùng trí đồng. Sáu thứ pháp môn bắt đầu từ mười hiệu cuối đến ba nghiệp, các giáo hóa nêu tất cả quả địa, thần dụng pháp môn. Sáu thứ đây nhiếp đủ cho nên lược nêu, huống chi sáu môn đây mỗi môn xen lẫn nhiếp. Đây sáu thứ lớp: Do đủ mười hiệu cho nên có Tứ hoằng cho nên nói người chưa được độ thì làm cho được độ…. Tuy dùng Tứ hoằng, nếu không có Tam đạt chiếu cơ thì bất biến, ba trí đầy đủ mới gọi là “đạt”. Trí ắt có nhãn. Ba pháp đã lấy định tuệ làm nhân, mà thâu hoạch nhãn trí hai quả, cho nên có trí ắt có nhãn. Như đây năm khoa đều do ba nghiệp tùy trí tuệ hành, cho nên lược nêu sáu khoa để chỉ bày năng ứng. Đức Phật tự xưng đây để hiển nghĩa năng mưa pháp. “Tức là mười pháp giới” đến “sai biệt”, tuy thông mười pháp giới mà tứ thú nghĩa không tăng trưởng.
“Bấy giờ”: là khi quán căn cơ. Nói “nếu luận”: Lại nêu Hoa Nghiêm. Nói “lợi độn” thông ba, bốn vị, mười pháp giới. “Thông biệt viên vân vân”: Đây phải cần ba phen lần lượt nêu lợi độn. Nhưng câu đầu nói Thanh-văn quán sanh diệt, Bồ-tát quán bất sanh diệt đã là thông. Văn dưới lại nêu đủ ba Thông v.v…, là chỉ lần nữa nêu đối Biệt, Viên thôi! Tức dùng Thanh-văn khắp thâu Tạng giáo. Trong cụm từ “là tinh tấn vân vân” thì “vân vân” là: Cần căn cứ ba giáo Bồ-tát cầu Phật truyền nêu “tấn đãi” (siêng và lười). “Tùy kia” đến “không có lỗi tăng giảm”: là xứng căn cớ Ngũ thừa cho nên không tăng giảm. Như căn cơ người trao dùng Thập thiện làm tăng, căn cơ Trời trao dùng Ngũ giới làm giảm. Như vậy cho đến Bồ-tát lần lượt tương vọng cũng vậy. “Báo nhân” đến “tập quả”: Văn trước chỉ nói Đơm hoa kết quả để dụ hai quả. Nay trong hợp bèn dùng hoa hợp Báo quả, quả hợp Tập quả. Nếu không y đây hợp tức căn cứ văn trước; hoặc là biệt có ý. “Như nói Bát-Nhã Phương-Đẳng nêu các địa ngục”: trong kinh Đại Phẩm nói: “Như Lai phóng quang chiếu các địa ngục”, đầy đủ như Thích Tiêm dẫn. Nói kinh Phương-đẳng cũng như Thích Tiêm. Trong đây dẫn ba ác: Trong kinh chỉ nói thiện xứ, nay dùng ác đạo: 1) Vì muốn nhiếp mười pháp giới. 2) Ba ác có bảy thiện cơ, nay nói “cũng” là dùng ý để giải thích. “Sinh thân Bồ-tát” lại chỉ Địa tiền, nhưng căn cứ Quyền giáo địa tiền không thể Nhất sinh cho nên phải y Thật giáo để nói. “Sau sinh Tịnh mãn giới”: Xá-na kia âm, đây chỉ cõi Thật báo là “Tịnh mãn giới”. “Bồ-tát thừa xuất nạp không có lợi trí”: lại chỉ Tam tạng Bồ-tát.
“Hỏi…”: Hiện văn đều có tám lớp hỏi đáp. Ý muốn như hỏi mà không biệt nói, chỉ ghi chú “vân vân” là: Căn cứ nghĩa vẫn có ý đầu trong tám, chỉ nên dùng xuất thế mới chính gọi là thừa. Vì sao phải liệt kê Nhân thiện thừa ư ? Cho nên liệt kê rộng các ý để biện minh tướng tùy nghi hợp vật. “Lại Nhân thiên…”: Căn cứ đây cũng nên nói Bồ-tát cũng đoạn, cũng không đoạn, chỉ là văn lược.
Tiếp, nói “Nhị thừa cũng đoạn, cũng không đoạn”: Nhị thừa tuy đoạn, đoạn vẫn chưa tận cho nên nói “cũng đoạn cũng không đoạn”, các thứ khác có thể biết. Coi đây là mẫu, lấy ý các kinh tự tại mà hỏi, cho đến đầy đủ trải qua tứ giáo Thất phương tiện làm câu hỏi. Đây đều một nhà y nghĩa giả nói hỏi đáp đó thôi! Tiếp ,“Đại luận…”: lại dẫn văn lập câu hỏi, nêu công thức ly hợp, thông các ý trước. Đại luận liền đối Ngũ thừa làm năm thiện căn cho nên được đối với Tạng v.v… làm câu hỏi. “Nhân thiên…”: là đáp, trong năm thừa hợp nhị thừa khai Phật, Bồtát làm hai. Đây dùng năm thiện vọng năm thừa mà nói. “Bốn tạng hợp phàm khai Thánh”: đem bốn tạng để vọng năm thừa, cho nên bốn tạng hợp Nhân thiên tại trong Nhị thừa khai Nhị thừa làm hai, Phật Bồ-tát làm hai. Nếu dùng năm thừa vọng bốn tạng, thì là đều khai Nhân thiên nhị thừa mỗi thứ làm hai, vẫn hợp Phật Bồ-tát làm một. Đã nói vì duyên không đồng do đó cũng được làm Tam thừa, chỉ là phàm Thánh đều hợp đó thôi! Chỉ do danh hẹp nhiếp pháp không khắp, nêu các loại không hiển, cho nên không được chỉ dùng Nhị thừa để nhiếp. Nếu trực tiếp luận về thừa thì pháp gì lại không đắc? Đầy đủ căn cứ ý trên tư duy có thể biết. Mưa thấm khắp tất cả thuận hợp sáu chương môn. Sáu chương chính nêu tướng mưa tuôn.
“Nhất tướng” đến “nhất địa”: chân như chỉ là Nhất thật tướng. Bảy tướng chỉ là Thất phương tiện, dùng Thật tướng đối bảy tướng, cho nên nói “tướng”, tức hành tướng. Bảy giáo chỉ là Thất phương tiện giáo, lấy giáo đối giáo, cho nên nói “giáo”. “Từ “cái gọi là” trở xuống, là song thích”: Đầu tiên, song nêu lý giáo. Tiếp, “Chúng sinh…”: là trước giải thích tánh đối với tướng lý đức. Đầu tổng nêu. “Giải thoát…”: là liệt nêu kết. Tánh này ba đức tuy có ba tướng chỉ là một tướng. “Như Lai…”: là giải thích một vị, do Phật thuyết. Tánh đây có thể tu, tánh vốn không có danh mà đñaày ñuû caùc danh. Cho neân khoâng noùi maø noùi, noùi töùc thaønh giaùo, y giaùo tu taäp môùi gọi là tu tam. Ví như người đọc giáo này mà không biết tu tánh, thì làm sao hiểu mà giải thích sớ văn trong đây? Kính thỉnh người đọc người hành tư duy soi chiếu. “Ba tướng đây…”: là lần nữa lại chỉ tánh ba, lấy làm cảnh tu. “Duyên sinh…”: là lần nữa lại nêu tướng tu, cho nên gọi là hạnh, hạnh tức nhân. “Cuối cùng thì…”: là nêu quả địa ba. Ba trí mãn, cho nên theo trí mà đặt tên, tức là trí ba, hạnh ba, tánh ba. Khai hợp nhiều ít, chuẩn vọng có thể biết. “Có khi…”: là nêu phân văn không đồng. “Giải thoát…”: là rộng giải thích tướng vị. Trước tướng, sau vị. Đầu tiên, trong giải thích tướng thì tánh đức chỉ là bản hữu ba đường (đạo).
Tướng giải thoát: Tức nơi nghiệp đạo là đức giải thoát. Ly tướng: Tức nơi phiền não là đức Bát-nhã. Tướng tịch diệt: Tức là khổ đạo, tức đức Pháp thân không có sinh tử…, dựa vào tu để giải thích. “Duy có…”: là kết, cho nên nói Thật tướng. “Nhất tướng…”: là chuyển giải thích Nhất tướng vô trụ bản lập tất cả pháp. Lý thì tánh đức duyên liễu, sự thì tu đắc ba nhân. Mê thì lưu chuyển trong ba đường, ngộ thì thắng dụng trong quả. Như vậy bốn lớp đều do mê trung đạo thật tướng mà lập. Vô trụ đây vốn đầy đủ như trong Thích Tiêm quyển bảy đã giải thích, cho nên vô minh thật tướng đều gọi là vô trụ. Nay dùng vô tướng đối nơi sai biệt, chuyên chỉ Thật tướng gọi là bản vô trú. Vô trụ tức bản, gọi là bản vô trụ. Tùy duyên bất biến lý ở nơi đây. Hai môn Khởi và Trụ, nghĩa căn cứ đây có thể biết. Nhiễm tịnh hai loại đều tại mười môn. “Nhất vị…”: là căn cứ giáo giải thích, tướng trên chỉ nói không có sinh tử thôi! Căn cứ sau mới nói không có nhị tử, là vì giáo tại phân biệt. Trước, tướng chỉ nói “ly tướng là không có tướng Niết-bàn”, giáo đây mới nói đắc trí tuệ trung đạo cho đến lìa chấp nhị biên. Trước, tướng chỉ nói “vô tướng cũng vô tướng”, nay trong giáo nói nhị biên nhân quả diệt, lẽ ra nói Thông Biệt nhị hoặc trong ngoài nhị tử diệt. Nay đối trung đạo, trung đạo từ lý nên nhân quả gọi là lìa nhị biên, hai thứ Niết-bàn đây vĩnh viễn sai khác sách Tiểu thừa. Sách Tiểu thừa nói nhị diệt ắt không đồng thời, trong đây thì nhị diệt hoàn toàn không có trước sau. “Câu câu theo lệ làm nghĩa sai biệt và không sai biệt”: vì câu câu căn cứ giáo, giáo cũng cần hiển nghĩa sai biệt không sai biệt, cho nên lẽ ra đầy đủ như trước nói trong một tướng, tức văn nói từ: “vô trú bản” đến “tức là không sai biệt”. Cho nên, nay đối giáo nêu rõ nghĩa sai biệt không sai biệt. Nếu không như vậy thì luống khai, phí hợp, dối nói, hành vô ích, nêu suông cái danh Nhất thừa, cuối cùng không có tôn chỉ Nhất thừa. Người bẩm thọ Quyền giáo còn phải biết Quyền, huống chi đối ở điểm cuối cùng này sao được chẳng sáng Thật? Quên rằng đều chưa nghe nói “tánh ác”, thì làm sao tin nổi “có hạnh tánh đức”.
“Cứu cánh…”: Trước trong tổng giải thích đã lược nêu xong. Nay rộng giải thích lý giáo, song kết chỗ trở về, năng thuyên sở thuyên đều giúp cho quả trí, cho nên nói cứu cánh thông luận lý giáo. Có đủ ba pháp mà chỉ nói Chủng trí, là vì từ trí lấy cảnh. “Thất chủng (bảy thứ)…”: Cũng có người nói: Các câu trong đây mỗi mỗi đều nói Ngũ thừa Thất thiện, là ý gì? Quá phiền để lập lại! Nay xin ông lìa ngoài giải thích đây mà hợp với kinh này, thì không có việc ấy! Cho nên, biết không dùng Thất thiện để phân biệt thì không do đâu mà hiển Thật. Thứ hai…: sáu khoa trước hiển Nhân pháp năng tri, nay giảm biện Nhân pháp sở tri, cho nên nêu mười thứ đây nhiếp hết các pháp. Lại trước chỉ là căn cứ nơi năng, nay thì căn cứ năng mà luận sở, các thứ tứ tam tuệ sở thủ. Bốn pháp sở thủ không ra ngoài nhân quả. Thể nhân quả, thể duy thật tánh, nhất nhất đối biện rõ mười pháp ở kinh khác. Ba đạo là ba đức chủng, tức tánh chủng. Vì hữu tánh sinh, cho nên gọi là chủng. Khi sinh chủng đây thuần biến làm tu, tu tánh nhất như không còn thể riêng biệt. Nói tương đối: Lại từ đương thể đối địch ngược nhau. Tức sự lý nhân quả mê ngộ buộc thoát… thủy chung lý nhất cho nên gọi là tánh. Nghĩa sóng nước chuẩn hướng nhau có thể biết. Sóng là, nước lẽ nào không tin ư? Nếu căn cứ loại: Loại nghĩa là giống như lệ, tức tu đức. Chúng sinh từ vô thủy thường ở trong ba đường, trong đó chỗ nào không có một chút chủng loại? “Phàm có tâm… chủng pháp thân”: hợp tánh kia ba làm một pháp thân, đối với tu mới hợp căn cứ tánh thường khai. Ba thứ đây từ biệt , nhất nhất đều sai khác.
Hỏi: Nếu như vậy, Bát-nhã giải thoát có chủng loại và dùng đối luận, thì Pháp thân loại chủng và Đối luận chủng là đồng hay khác?
Đáp: Theo lý thì một, còn nghĩa thì khác. Nói “theo lý thì một” là chỉ duyên Lý nhất, cho nên tánh tu tương đối ly hợp. Nói “nghĩa thì khác”: Là đối sinh tử biên gọi là tương đối. Lý thể bản tịnh gọi là chủng loại.
Lại, nghe năng quán trí, gọi là chủng liễu. Nghe sở duyên lý, gọi là chủng chánh. Tức là lý tịnh và sự tịnh làm loại. “Các chủng sai biệt…”: Cần căn cứ các giáo các pháp giới mà rộng nói, không thể thuật đủ, chỉ là lý thể nhất ba đức chủng Như Lai năng biết. Nếu căn cứ giáo: Biệt giáo chỉ có chủng loại chủng mà không tương đối, ở trong đó chủng loại pháp thân vẫn Biệt, thủy chung thường tịnh chỉ không từ che lắp cho nên được gọi là chủng. Tạng, Thông hai giáo hoàn toàn không có nghĩa đây chỉ căn cứ đương giáo danh kia chẳng phải không có. Nhân thời ba học làm năm phần chủng. Đạt phần tức là hai giải thoát chủng. Niệm xứ tức là Bát-nhã chủng, ẩn hiển đều biệt đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói. Cho nên ba giáo, giáo đạo có sai biệt, bản tại Viên thật không sai biệt. “Tướng, thể, tánh” ba thứ đã thông đầu cuối. Sở dĩ cần “căn cứ mười pháp giới mười như đểgiải thích”: là ở trước giải thích chữ “chủng” đã dùng tương đối và chủng loại để giải thích, nay đây ba pháp cũng nên theo lệ. Lại, trước trong chủng thì không nói mười giới mà lấy giới thấp nhất, trong loại thì tự nói thế trí… Cho nên mười giới đây không ngoài nhất niệm. Như trong phần rộng giải thích “Thập như” kia đã nêu. Lại, trước giải thích chủng không căn cứ mười giới, là vì muốn nêu rõ ba đức nghĩa tiện. Tướng đây… ba thứ cũng là ba đức. Đã có nghĩa chủng không cần y trước căn cứ giới thì tiện, cho nên trong mười giới có Phật cùng phàm, luận sai biệt không sai biệt, hoặc đối tam đế.
Tiếp, “Căn cứ ba pháp” tức là ba tuệ. Trong ba lớp thì đầu tiên đều nói “niệm”, niệm sở thủ cảnh. Tư Tu cũng như vậy. Cảnh tức sở văn, sở tư, sở tu. Đều nói “Vì sao?” là chỉ cảnh sở thủ. “Sở niệm…”: là giáo hạ sở thuyên. Trước thì bốn pháp tùy giáo tức là có Tư Tu không đồng, đối giới là cảnh tăng giảm nhiều ít. Quán thể xảo chuyết (khéo, vụng) tùy nghĩa nên biết, là sai biệt không sai biệt dùng quyền đối thật. Đầu tiên nói dụng: Có thủ cảnh tuệ thì mới có sở thủ, nêu sự hiển tuệ cho nên nói dụng. Cái gọi là “thể”: tức đương thể. Trong cảnh nêu sự, sự là sở thủ. “Niệm…”: ở trước thủ sự sở thủ, nay thì trước nói thế nào? Chỉ năng niệm thể, Tư Tu cũng vậy, cho nên biết tức là đương thể của ba tuệ. Thể đây tức là năng Văn năng Tư năng Tu cho nên nói “ghi chép các pháp sở văn”. Nói “nhân duyên”: Nghĩa là nói vì sao cần phải nghe giáo! “Niệm…”: tức là năng văn… không do năng thủ khiến cho khác mà làm biệt tướng. Chính do pháp sở văn khác nhau mà phân Ngũ thừa Thất thiện. Năng sở hòa hợp tức nhân duyên văn tư tu. Nói “thủ cảnh nghe (văn) pháp là nhân duyên”: Sở thủ năng thủ đều gọi là nhân, nghe pháp là duyên, sinh tuệ tức là sở sinh pháp. Lại, thủ cảnh: thủ cảnh ắt phải nghe pháp làm nhân. Lại trước nêu như thế, cho nên ba cảnh làm nhân, nghe pháp làm duyên. Tức ban đầu tuy có nghe… lại phải nghe pháp lấy làm duyên lành, nên nói nhân duyên. Nên biết ba tuệ cảnh thể và dùng nhân duyên tuy ba mà hai. Lần nữa lại giải thích nhân duyên, hợp cảnh thể trước, thể tức là trí cảnh ắt từ thể đặt tên. Thể ắt do cảnh lập xưng. Lần nữa lại nói nhân duyên: Đã thêm nghe pháp phòng chấp tự tha và lập lại lẫn xen nhân duyên. Ba nghĩa đầy đủ mới thành tuệ và thành sở vi (việc làm). “Như đây tam thừa…”: Ngũ thừa trừ Nhân thiên, bởi vì Nhân thiên thừa chưa gọi là tuệ.
Hỏi: Trước nói mười pháp giới, vì sao trong đây chỉ nói ba thừa?
Đáp: Rộng lược tuy khác, lý kia chỉ một, chỉ vì chủng thông, thừa hạn cuộc hợp đại khai tiểu, cho nên chỉ có ba thừa.
Lại nữa, chủng… bốn thứ ắt biến khắp mười pháp giới, trong đó khởi tuệ ắt chỉ có tam thừa, bởi vì tam thừa thông bốn pháp giới. “Nhân của Ngũ thừa…”: Tuệ ắt chỉ có ba nhân quả thông năm. Ly Bảy căn cứ giải thích có thể dùng ý hiểu. Không nói bốn thứ khởi: Lại từ thăng xuất, Sinh công căn cứ đủ các pháp: độ… để biện rõ Văn Tư Tu. Nhưng lục độ chưa thể phân nơi tam thừa. Lục độ thì thông khắp, ba thì nhiếp sáu. “Chính là căn cứ một pháp”: ba ý trước trong bốn ý, là căn cứ sở mà biện năng, đây thì căn cứ năng mà luận sở. Trong sở không sai biệt tức một pháp, cho nên ba ý trước Như Lai đều có một pháp không sai biệt, chỉ vì lại căn cứ nguyên do đối năng biết. “Không sai biệt vân vân” thì “vân vân” là: Chỉ là như trước nói sai biệt không sai biệt mà làm phân biệt.
“Vô lượng trong một”: Ý nói là vô lượng của một nhà, trong mỗi một đức đều có thể làm duyên phân biệt vô lượng, như nói nhiều các danh tự… . “Một trong vô lượng”: căn cứ đây có thể biết. “Vì sao?…”: đối Tiểu biện rõ Biệt! Vì sao dùng người Nhị thừa cũng có hai, đã lìa (trước) chấp trước mà nhập tịch, danh đồng mà thể khác, lần nữa lại đối giải thích. “Thường tịch diệt…”: lại dùng nghĩa không sai biệt kết Nhị thừa sai biệt. “Cuối cùng trở về Không”: căn cứ theo lệ có thể thấy. “Trịnh trọng cầm tay”: cầm tay là tiêu biểu nhắc nhở siêng năng, trước đã giải thích xong. Nay lại giải thích. Việc đây không dễ cho nên lần nữa lại khuyên siêng năng . Đức Phật tại thế còn như vậy huống chi đời mạt pháp. Bài xích: “Xưa nói” đến “như Phật…”: Người xưa dùng đây giải thích Thọ lượng bên dưới, mất tôn chỉ càng xa. Nay lại dùng đây để giải thích giáo thường trú cho nên nói “làm khổ kinh”. Bất sinh bất diệt mà nói gián đoạn (sắp đoạn) cho nên nói “làm khổ Phật”. Kinh và Phật không có khổ, lỗi là do thêm vào, cho nên nói “làm khổ Phật…”. Ngài Quang Trạch nói Hữu dư mà chưa đủ biện rõ khác, nhưng các văn của Quang Trạch đều phá tam Tăng-kỳ Bồ-tát. “Không biết việc gì” đến “đây tức dùng tên Hữu dư của Tiểu thừa”: để hiểu rõ Tất cánh Không. “Có người…”: người khác vấn nạn Quang Trạch: Các sư xưa còn có người không chấp nhận sự giải thích này, huống chi các sư nay. “Kinh văn…”: Sư nay chính giải thích. Trước, “đối Nhị thừa”, lần nữa lại giải thích bởi có nguyên do. “Long Ấn…”: dẫn các giải thích xưa để trách ngài Quang Trạch. Nhất vãng lại như vậy. Nhưng cũng không biết xưa Đệ nhất nghĩa Không cùng Tiểu thừa có gì sai khác? “Tùy tam Tấtđàn”: cũng lấy nhất thật làm Đệ nhất nghĩa đối Quyền làm ba, tức ngày xưa tùy muốn thuận quyền cơ.
“Lại nữa, tông giải thích nghi”: Nói tuy chưa mà chấp nhận làm đồng loại được thọ ký rồi tức chứng phần chân thật Phật, từ sau Lộc uyển thì lãnh đủ Quyền thật, đến thời Đề-hồ thì lãnh nghiệp bất hư. Phải biết trước tán thán Thích-ca, vốn muốn xưng tán Ca-diếp sở lãnh. Nói giải thích nghi là e rằng thời chúng đây nghe đức Phật thuật kia lãnh sở bất cập, không hiểu ý chỉ của Phật mà cho là Ca-diếp lãnh giải không đúng, cho nên thuật mình Quyền thật để tán thán Ca-diếp năng biết Như Lai tùy nghi thuyết pháp. Tuy tự lãnh mà thật đã kiêm tất cả.
Hỏi: Vì sao không giải thích thám nghi (dò xét nghi) ư?
Đáp: Tề giáo hiển lộ hư thật dễ biện. Cho nên đức Phật lại căn cứ Tề giáo thuật tán thán.
Hỏi: Nếu vậy, thì Thám rất đáng nghi, đâu riêng Tề giáo?
Đáp: Tuy khó mà dễ. Thời chúng nghe nói Như Lai nhị trí, biết Pháp thân Phật thường tư duy đại tiểu, chỉ sợ lãnh giáo chưa hẳn tận thiện cho nên Phật dùng hai giáo hai trí thuật Tề giáo kia không có sai lầm.
Lại, Tề giáo thuật còn tự không hư dối, nghiệm biết Thám lãnh cũng nên chẳng sai. “Giải thích ý thuật”: Trước vừa bài xích kia sở lãnh bất cập lẽ nào đến trong đây tức nói sở lãnh giải rất là hy hữu? Cho nên biết văn trước chỉ là Như Lai tự thuật năng biết, liên quan gì đến Ca-diếp? Cho nên, nay giải thích rằng: Thế Tôn tuy tức tự thuật mà về lý coi như Ca-diếp tất cả đều lãnh giải. Từ đầu đến cuối Ca-diếp đã tự lãnh giải mà cũng trải qua năm thời quyền thật, nghĩa xả tất cả cho nên cũng kham tán thán rất là hy hữu. Nhưng Chương An lần nữa lại giải thích chỉ thuật mười ba bài kệ của phẩm trước tán thán ân sâu của Phật, tức là đương giới năng biết tùy nghi. Đương giới sự lý biến thâu tất cả.
Hỏi: Trong đây thuật trước tán thán ân sâu của Đức Phật và người xưa có gì sai biệt?
Đáp: Người xưa trực tiếp nói ân sâu mà không biện rõ ân xa gần, cho nên trước dùng mười ba bài kệ lãnh đầy đủ từ đầu đến cuối. Nay Đức Phật thuật đủ mới gọi là thuật thành.
Đây là Chương An trợ giúp thấy, y ý đại sư tự thành tinh tế sâu xa. “Lẽ nào có…”: tức chỉ Ca-diếp… lấy làm một cơ, chỉ cõi Ta-bà đây lấy làm một phương, các căn cơ khác không lãnh giải cho nên nói thuyết bất khả tận. Ca-diếp… bốn vị ở phẩm trước chưa thể, chỉ nói ân lớn của Như Lai. Như Lai từ xa quán sát biết Ca-diếp đã có khả năng lãnh giải hai thứ Giáo và Thám, thì lẽ nào không thể biết bốn ân đầu sâu rộng lớn ư! Cho đến sau cùng khiến ta hóa tha, nghi thức mười phương cũng không ngoài điều này. Cho nên nay trong văn trường hàng kệ tụng này thông thuật khắp, thì ba cỏ hai cây một đất một mưa thuật hết lãnh giải của Ca-diếp từ đầu đến cuối. “Thân tâm tài pháp”: Thân được thọ ký, tâm thâu hoạch pháp tài. Đã chứng đệ nhất nghĩa nhất thật Không tòa. Nếu y nghĩa đây thì Đức Phật vốn khắp thuật Ca-diếp lãnh giải từ đầu đến cuối. Thời chúng không lãnh giải, cho nên cần phải trừ nghi. Cho nên giải thích nói Ca-diếp năng biết. Nếu suy tìm ý đây thì tại sao được nói dùng bốn phục nạn cùng đây đồng? Nếu không như vậy, thì nói đại ân chủ ở chỗ nào? Thuật ân không khắp, ngược lại thành trái nghĩa. Nếu như vậy, ra đời trở lại nên tự chê, vì sao Phật tán thán năng tín năng thọ?
Tiếp, trong tụng không tụng, lược chỉ tụng rộng, bởi vì rộng nhiếp lược. “Tiếp, Người trí…”: là căn cứ quyền trí.
Hỏi: Đã nói “Người trí nếu được nghe”, đây ắt thuộc cơ, tại sao thuộc Phật?
Đáp: Nếu chẳng phải người có trí nói, thì làm sao có thể khiến người có trí tin. “Từ trước đây đều gọi là tà”. Ca-diếp… bốn vị chưa nghe trước thí dụ , nghĩa đương tà kiến, vì kiến chưa chánh. Cho nên biệt Đại kinh nói Ca-diếp Đồng tử tự thuật làm gương. Kia cũng chưa nghe, Niết-bàn về trước tự xưng tà kiến. Ứng thân” đến “hàm nhuận”: Phàm nói “thuyết pháp” chính là đối “ứng thân”, cho nên Thắng liệt ứng đều là sắc thân khẩu nghiệp tuyên biện. Tân kinh chính dùng Tha thọ dụng báo mà làm Xá-na, còn chẳng phải tự báo, lẽ nào không nói ư? Nếu nói thể tức, mười thân đều tức, đâu riêng gì ứng ư? Mới có thể nói ba thân tức một, nói nín không khác, tại sao bỏ thân trượng sáu mà thiên chấp tôn tướng như hải? Như Không làm hoa, ngoài hoa thì chẳng có không. Công năng đầy đủ… cho nên biết xưa thì kinh sách nói thiên về Tiểu thừa, như mưa Viên thường không rơi xuống để khai hiển Phật tánh trong mười hai bộ kinh, cho nên mây không thể hàm nhuận. Trong hai vị trước tuy nói không thọ, tuy có nghĩa bất biến mà chẳng hàm nhuận, “Phật Tu Phiến Đa không thuyết pháp” đây dùng “hoàn toàn không thuyết” làm nghĩa “không bao hàm”, là ở văn Đại luận. “Đức Phật Đa Bảo không thuyết”: nghĩa như văn dưới.
“Chín mươi tám sử”, đầu tiên đoạn kiến ái đắc ích chân đế. Nói “địa thượng thanh lương”: là vị sáu căn thanh tịnh cũng lại trừ kiến ái. “Nói bách cốc (trăm thứ lúa) thông” đến “trăm điều thiện”: là Ngũ thừa đều lấy trăm điều thiện làm gốc. Nói “năng sinh”: Là theo quả mà nói, nếu theo nhân thì nói chính là trăm thiện sinh Ngũ thừa. Nhân Đại Tiểu thừa lẽ nào vượt quá mười thiện! Cho nên lấy mười thiện lại xen lẫn trang nghiêm. Nếu không năng tu xen lẫn nhân trang nghiêm, thì nay đã không luận. Nếu vậy thì Nhân thừa không có trăm thiện ư? Đáp: Rượu phòng ý địa, thông nói chẳng phải không có. “Cam giá…”: Đã nêu hai vật nên có thuộc đối, nay thử đối no . “Cam giá”(mía ngọt) chất chỉ là một, có thể dùng ví như định. “Bồ đào” (nho) hình nhiều dùng dụ cho tuệ. Tuệ căn cứ sở phá, định căn cứ sở duyên, tạm phân làm nhiều một. “Đã hiện ra trong đời…” ba hàng tụng mười hiệu, văn lược nghĩa hợp. “Xuất thế”, tức Vô thượng sĩ và Phật. “Vì thuyết” tức Chánh biến tri và Minh mạnh túc. Thế Tôn tức hiệu thứ mười. “Trong hàng Nhân thiên” tức Điều ngự trượng phu và Thiên nhân sư. Như Lai tức hiệu thứ nhất. Đến thiện, đi thiện kiêm nơi Thiện thệ. Lại “xuất thế” tức Thế gian giải. “Thấm nhuần khắp tất cả…” là bốn hoằng thệ: Thấm nhuần chúng sinh đầy đủ tức hoằng thệ đầu, đều khiến lìa khổ tức thệ thứ hai, đều khiến lìa nơi nhân quả khổ cho nên được vui an ổn tức thệ thứ ba, và Niết-bàn lạc tức thệ thứ tư. Ngũ thừa đều có vui thế gian đều khiến được vui Đệ nhất. Trong “Khuyên nghe thọ” lại chia làm hai: hai hàng đầu trước tán thán Phật . Tiếp, “Vì các đại chúng…” : là người năng thuyết thì tôn quý, cho nên sở thuyết là diệu pháp. Thất thiện đều quy nhất thừa, cho nên khuyên nghe thọ. Đây nêu nghĩa không sai biệt để giải thích sai biệt. “Đức Phật bình đẳng thuyết…”: Có yêu ghét cho nên có đây kia. Chẳng phải đối với căn cơ Phật thì yêu, cơ khác thì ghét. “Sang hèn và thượng hạ”: căn cứ ở vị. “Trì giới hay phá giới”: căn cứ hành. “Lợi căn hay độn căn”: căn cứ tu tập. Cũng phải trải qua đủ Ngũ thừa Thất thiện lần lượt nói đó.
“Có người…”: tiếp giải thích “ba cỏ hai cây”. Sư xưa nói không đồng, chỉ loại cỏ lớn, hai cây, không nhất định dùng danh hợp, hai loại cỏ nhỏ và vừa thì kinh tự kết danh hợp, ắt không nghịch cãi. Nhưng không biết có hai thứ Nhị thừa, cho nên sư đầu tiên nêu đủ năm vị. Sư thứ hai, thứ ba chỉ nêu ba vị, do hai loại cỏ ý đồng ba đều chưa xưng. “Nhưng ba có…”: nay giải thích. Trước là tổng phi. Nói “tâm sư phản Phật trái kinh”: không thọ theo Phật nên là “tâm sư”, ý Phật không như vậy tức “phản Phật”. “Trái kinh”: Kinh nêu thọ nhuần không đồng để đối Ngũ thừa sai biệt, vì sao ba vị đều đồng tại một giáo? “Trong biệt thọ thấm nhuần” có hai giải thích tiến thoái: Đầu, chánh hiểu rõ kinh văn. Tiếp, dùng mộc lệ thảo căn cứ nghĩa để giải thích, thảo đã có ba, mộc cũng nên theo lệ, Trong phần “Nhân kiến thương thảo”, nói “cầu Thế Tôn”: là nghĩa cũng thông sau. Trong “kiến tiểu thọ”, nói “chuyên tâm nơi Phật đạo”: nghĩa là thông từ đầu đến cuối. Trong “kiến đại thọ” nói “độ vô lượng muôn ức”: nghĩa, là thông hai thứ trước, tiện làm một thứ trải qua vị giải thích. Dùng cận đại, bỏ kinh xưa, mà luận các giáo Bồ-tát, đây là đại hoạn trong việc hiểu và giải thích kinh. Cho nên, nay biệt giải thích ngầm thuận với kinh văn. Thượng thảo là lục độ, đã nói hành Tinh tấn, Định. Trong lục độ thì Tinh tấn là tối thượng. Cho nên Đại luận nói: Thí, Giới, Nhẫn là thường pháp thế gian. Muốn tu định tuệ ắt phải tinh tấn, huống lại thông tinh tấn nhập khắp trong năm độ kia; vì nghĩa này cho nên tinh tấn nhiếp sáu độ, không thể hai cây (mộc) chỉ tại ba kỳ. Trong phần tiểu thọ, kinh đã nói “Thường thực hành từ bi, tự biết mình làm Phật”. Lục độ Bồ-tát đệ tam tăng-kỳ mới quyết định biết, cho nên bất cập Thông, chỉ quá nhị địa ắt biết làm Phật, cho nên cùng trước khác, chính từ nghĩa thù thắng nêu. Trong phần đại thọ đã nói chuyển bất thoái chuyển, Biệt nhân Sơ địa năng chuyển pháp luân, đó là Niệm bất thoái. Tạng, Thông đến quả mới chuyển pháp luân, lẽ nào được gọi là Bồ-tát như vậy? Cho nên, biết là tại Biệt.
Tiếp, nghĩa lập ba cây (mộc) thông ba Bồ-tát. Khiến biết thông phương cho nên lại giải thích. Nên đầu Chánh Pháp Hoa theo lệ thì nói “ba cây hai cỏ”, dùng cỏ nhỏ làm “du du dược”, dùng cỏ lớn (thượng thảo) làm “thượng tôn dược”. Tụng văn chính nói ba loại cỏ thuốc và hai loại cây cho nên văn nay thông biệt hai giải. Trong phần giải thích tăng trưởng, Nhị thừa tăng trưởng hai giải thích không đồng, đều là ý sư nay. Trước giải thích đắc Tiểu thừa, hết sinh tư, mới gọi là “tối hậu”.
Tiếp, trong giải thích Đại thừa mới gọi là “hậu thân”. Đại Tiểu hai thứ đều gọi là tăng trưởng, tăng trưởng đều do gặp Phật. Chúng sinh tự cho là đương phần tăng trưởng, nay căn cứ ý Phật thì đều là đất, mưa, cho nên khiến đương phần viễn (xa) có tăng trưởng, do đó đến phương này mới biết hợp nhất. Nói “không có hậu” (vô hậu) là tạm tùy Tiểu giáo, tạm gọi là “không có”, chẳng phải vĩnh viễn không có. Nếu được pháp thân Đẳng giác một phen chuyển đương nhập Diệu giác thì mới gọi là “tối hậu”.
Luận nói: La-hán phát tâm về sau, biên tế định lực khiến Phần đoạn thân kéo dài đến Biến dịch, không còn cải báo, thành tựu quả vô thượng, đây phần nhiều thuộc nghĩa Thông, bởi vì thông Bồ-tát quá Nhị thừa địa, mê hoặc nhuận sinh thân, hoặc là không trải qua sinh mà thành lẽ nào Chánh giác. Hoa vương Phật quả mà dụng Nhị thừa biên tế định thân? Cho nên, ứng với câu hỏi: “Định đây cùng định Thủ Lăngnghiêm kia đồng hay khác?”. Các luận đều nói xả thân Phần đoạn mà nhập Biến dịch. Theo Thiên Thân luận thì chủ ý chưa hẳn vậy; chỉ e rằng luận giải thích nghĩa không chính xác. Cho nên, biết: nói “tối hậu tăng trưởng” thì Đại tiểu đều sai biệt. “Không người có giáo” rất có thể làm pháp tắc.
Hỏi: Nếu vậy thì ba vị còn lại đều ứng với hai giải thích: 1) Ba vị nếu không gặp Phật thì đều không tăng trường, nếu được gặp Phật thì đương vị tăng trưởng. 2) Ở trước Pháp Hoa trú thân bốn vị được Phật điều thục, nếu đến Pháp Hoa được nhập nhất Thật thì mới gọi là tăng trưởng. Phải chăng?
Đáp: Nhưng trong năm vị thì Nhị thừa chấp mạnh cho là tối hậu, cho nên phải hai giải thích, ba thứ còn lại đã có rõ ràng trong văn tất cả văn ý trên dưới đều như vậy.
Hỏi: Nhị thừa đồng nói trú nơi thân tối hậu (sau cùng) ắt phải thấy Phật, Duyên-giác không như vậy là vì sao?
Đáp: Tuy sinh đời sau Phật, nguồn gốc nhân đời có Phật, tư duy có thể thấy. Tăng trưởng hậu…, nêu đủ ý Đại Tiểu xưa nay. Năm vị tuy tức tự nó là tăng trưởng, mà bắt đầu manh động đều là do đất, mưa. Nói đất mưa tuy về sau mới có tăng trưởng mà chắc chắn có từ ban đầu khởi chút ít. Nay mới chỉ do đất mưa từ đầu đến sau vậy. Cũng nên tùy nói ý Thông, Biệt tăng trưởng.
“Hỏi: Một đám mây một trận mưa cùng một âm, là đồng hay khác?” Ý của câu hỏi: dùng một đám mây một trận mưa và giáo một âm là đồng hay khác? Ý của lời đáp: một đám mây, một trận mưa đây là biệt thí khai hiển, giáo một âm kia thì thông nhân quả và dùng Thiên Viên.
Trong đó, trước là phân nhân quả, tiếp là biện Thiên Viên. Trước nhân quả biệt, biệt ý tuy vậy cũng tùy các giáo. Hai thứ mây mưa dùng thí dụ các giáo, nhân quả tùy phân một âm. Nay từ cứu cánh mây mưa để hỏi, trong đáp thì biệt trình bày hai thứ một âm. Nói “hạ địa”: Hoặc là chỉ Viên giáo sáu căn, hoặc chỉ Biệt giáo địa tiền, hoặc là chỉ Sơ trụ trở lên, Đẳng giác về trước. Lẽ nào có thể hoàn toàn không có tùy loại một âm? Tiếp, trong biện Thiên Viên thì trước là nêu xưa trái. Tiếp trong chánh giải thích có ba: 1) Viên,
- Thiên.
- Nêu tự báo.
Trong Viên, dẫn Đại luận: Phá ba sư trên. Cái gọi là “báo”: tức là đáp trả. Như một âm đây cũng thông hạ địa, chỉ có không liên quan đến sáu căn. Tiếp, “luận Tỳ-Bà-sa…”: dẫn Thiên để phát thảoViên, đại khái theo lệ muốn đồng, nhưng kia chỉ là một âm của Phật theo Tam tạng giáo. Nếu không như vậy, thì có thể dùng luận Bà-sa giải thích Hoa Nghiêm chăng? Trong năm trăm La-hán có bảy Bồ-tát kiến giải hay không? Du-già còn biệt đồng khác vĩnh viễn trái nhau.
“Ca-diếp nên biết”: Trong tụng Khai thí, đầu tiên đã nói: “Bọn ông, Ca-diếp nên biết…” cho nên tụng văn sau không còn chủ yếu lập lại xưng tán là bởi do đây. Đời Tùy ngài Cấp-đa dịch gọi là “Thêm Phẩm Pháp Hoa”, ngoài ra các văn hoàn toàn dựa vào diệu bản. Kia thấy chánh bản sau kệ lại có một trường hàng kệ tụng, bèn dịch lại, thêm sau văn đây; lại dời phẩm Chúc Lụy để sau phẩm Khuyến Phát. Ngoài ra, phần trước giải thích đều không sửa đổi. Dịch lại, ngôn từ phần nhiều tợ như chánh bản. Phần thêm là phần đầu trong trường hàng. Trước dùng thí dụ nhật nguyệt để tán thán Phật trí (đây cùng văn trước cho nên ngài La-Thập không dịch). Tiếp nêu trong Ngũ thú có Tam thừa. Trong Tam thừa mà nói bình đẳng (cũng trùng lặp tợ như văn trước). Tiếp, Ca-diếp hỏi: Vì sao thi thiết Tam thừa giáo? Đức Phật dùng đồ gốm làm thí dụ, nghĩa tiêu biểu không đồng chẳng dính dáng đến bùn sai khác.
Ca-diếp lại hỏi: Các thứ kia giải xuất ngoài tam giới là một hay hai hay ba ư? Đức Phật đáp: Nếu giáo thể bình đẳng thì không còn haiba (đây cũng đồng trong quyển thứ nhất nói diệt độ tưởng). Tiếp, nhân đây về sau Đức Phật vì Ca-diếp nói Thí dụ mù bẩm sinh. Đầu tiên, “không thấy sắc”, dụ các phàm phu; tiếp, “dùng nhãn khai” ví như Nhị thừa; tiếp, “thiên nhãn khai”, ví Đại thừa. Kệ lập lại tụng đó thôi! Cho nên, biết rằng: không có ở đây thêm văn vì đại chỉ không thiếu. Nếu kia có thì thuật thành lại dư. Ngài Thập Công không dịch ý không phiền văn. Nam Sơn nói: Cấp-đa thì thay đổi phẩm Chúc Lụy. Căn cứ đây cũng nên nói “Di Phẩm Pháp Hoa”.