PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ

SỐ 1719

QUYỂN 02

Đời Đường Tông Thiên Thai Sa môn Trạm Nhiên thuật

(Phần Thượng)

“Ca-diếp” trong Duyên Khởi truyện nói rất rộng, đâu có thể viết đủ ra đây. Ca-diếp là họ cho nên gọi là “Thị”. “Phụ đồ”: như bản đồ con sông ở phương này. Kinh Thập Nhị Du nói : “Đức Phật thành đạo rồi đến năm thứ ba mới độ năm người, năm thứ tư hóa độ đại Ca-diếp và ba anh em, năm thứ năm hóa độ Mục-kiền-liên và Thân-tử”. “Tụ lạc”: là chỗ nhiều người ở. Chỉ hơn người đương danh, “sợ hơn vua”: dân chúng không thể hơn vua. Tam xả: Xả đây về sau. “Thời sau Phật nói…” là kinh Tăng Nhất nói: Đức Phật tại Ca-lan-đà cùng năm trăm Tỳ-kheo, lúc ấy Ca-diếp đi khất thực đến trước chỗ Phật trải tòa ngồi bên Phật. Phật dạy: “Ông nay tuổi đã già yếu, có thể bỏ việc khất thực và mười hai hạnh Đầu-đà, cũng có thể thọ Đàn-việt thỉnh và thọ trưởng y”. Ca-diếp bạch Phật: “Con không theo Phật dạy. Nếu Như Lai không thành Phật, thì con làm Bích-chi-phật, pháp Bích-chi-phật suốt đời hành hạnh Lan-nhã”. Phật dạy: “Lành thay! Lành thay! Lợi ích rất nhiều. Nếu Ca-diếp hạnh hạnh Đầu-đà ở đời, thì pháp của ta trụ thế lâu dài, tăng trưởng lợi ích nhân thiên, ba ác đạo diệt, thành đạo tam thừa”. Luận Thập Trụ Bà-sa nói: Mười hai hạnh Đầu-đà, mỗi hạnh đều đầy đủ mười thứ công đức, rộng nói trong phẩm Thập Nhị Đầu-đà, quyển thứ mười bốn. Kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi sáu ở trong Tăng Thập Nhất, văn nói : “Dưới gốc cây lộ tọa hợp đó làm một, cho nên biết pháp tướng không thể nhất chuẩn. Đại luận quyển bốn mươi chín nói : “Vô sinh nhẫn là mười hai hạnh Đầu-đà thuộc Thông chẳng phải Tạng”. Cho nên nay “căn cứ Giáo” thì cùng tột ở Niết-bàn, có không đồng khác, như Chỉ Quán quyển bốn nói.

“Tứ thần Tam-muội”: là Tứ thần túc định. Do tứ thần túc mà có bốn dụng này. “Vô hình”: là năng ẩn mất. “Vô lượng ý”: là biết tâm người khác. “Thanh tịnh tích”: là năng biến uế. “Bất thoái”: là có khả năng nhập ác. Nói “tứ định”: đây là quyết định định đắc các thiền, và

do vô lậu mà năng khéo giảng trạch giới pháp đầy đủ; do các việc đó mà đắc bất thoái chuyển. “Văn-đà-kiệt Vương”: là Đảnh Sinh Vương. “Thiên nhân đều…” là kinh Tăng Nhất nói: Ca-diếp nghe Thiên nhân đều xưng là Phật Sư, nên khởi gọi Phật đầy đủ: Phật là thầy ta, ta là đệ tử. “Lại, Ca-diếp…” như biệt dịch A-hàm quyển hai mươi nói: Đức Phật ở tại Ca-lan-đà, Ca-diếp cùng với A-nan vào thành khất thực. Anan nói: Chưa đến giờ khất thực, hãy đến Tịnh xá Tỳ-kheo ni. Ca-diếp đồng ý và nói: Các Ni xa thấy chúng ta đến rất vui mừng. Trải tòa ngồi xong, Ca-diếp liền vì Ni chúng thuyết pháp. Lúc bấy giờ Du-la-nanđà tâm không vui, liền riêng nói : “Trưởng lão Ca-diếp ở trước A-nan thuyết pháp, như trẻ con mua kim châm đến Thầy châm muốn cầu bán kim, cuối cùng không thể bán. Ca-diếp cũng vậy ở trước A-nan mà nói pháp”. Ca-diếp có thiên nhĩ, từ xa nghe, bảo A-nan: “Đâu đủ đáng lạ!” Ca-diếp ở trước Tỳ-kheo ni làm sư tử hống. Từ tòa đứng dậy liền trở về chỗ ở, nay văn theo lời Ca-diếp nói với Ni, tức là “Ca-diếp Sư tử hống”.

Lại nữa biệt dịch pháp khất thực trong kinh A-hàm: Từ nhà đến nhà, không đủ liền thôi. Có chỗ nói: Đến bảy ngày không đủ liền thôi. Bốn đại đệ tử: Ca-diếp, Tân-đầu-lô, La-vân, Quân-đồ-bát-hán. Văn nêu bảy đại. Nếu bao gồm bản tộc đại và chư thiên luyến mộ là từ bi đại, thì hợp làm chín đại. Nếu lấy đây làm tứ Tất-đàn thì: tánh (họ) và xả thọ tức là Thế giới, ba hành đại tức là Vị nhân, nghe danh thấy hạnh đều sinh thiện, cho nên thứ tư ấn khả, tức là Đối trị, do Phật ấn khả dứt nghi quái lạ, nên địa vị cùng với từ bi tức Đệ nhất nghĩa. Bởi vì Kiến lý thì nhập vị, cho nên Tập pháp Trì pháp đều là công nhập vị. Trong Tập pháp, dẫn lời ngài Triệu Công nói “Tập pháp nhiều công”. Lại, văn nói “vị đại”: là không riêng luận địa vị vô học, mà do đức cao vọng trọng thì giữ chức vị đại. Nói “vân vân”, là nhân duyên dù nhiều đều thuộc về tứ Tất-đàn.

Tiếp, “Căn cứ Giáo giải thích Đẩu-tẩu”, trước là căn cứ sự cảnh, tiếp “Lại căn cứ khất thực…” chính là căn cứ đế quả để phân giáo biệt. Trong sự cảnh, nói lìa năm sự sợ hãi: Vương, tặc, nước, lửa, ác tử. “Hai, là áo…”: từ ban đầu theo thứ tự dùng số đối, chỉ trong văn thiếu “thứ tự Khất”. Ba giáo bên dưới đều lấy việc đầu làm cảnh. “Thuyết”: là phải theo giải thích. Mười hai hạnh Đầu-đà đều tác “tám mươi tám sử” ba mươi bảy phẩm… Đầu-đà đã vậy, huống chi các hạnh yếu kém khác, được tham dự vào dòng đạo, nghe thắng pháp này mà không tự tỉnh tâm hạnh ư? “Tương tợ tương tục”: Niệm niệm sinh diệt mê gọi là tương tục, phàm phu không hiểu vọng cho là thường. Ba thọ đều khổ, thọ thích ý, đó thật là khổ. Động chẳng tự tại, động nên vô ngã. “Thông giáo”: Sự cảnh chỉ trước, chỉ căn cứ hành tướng để biện rõ đế quán, cũng ứng khả kiến. “Biệt giáo”: Pháp thân làm chỗ nương, kỳ vọng tâm pháp thân tu hai đức. Văn sau nói “vân vân” là không dựa theo nêu ngang dọc vị vị Đẩu-tẩu. Biệt vị, ngang dọc tự tha môn hộ không thể chợt đủ. Viên giáo đã nói trụ xứ tức hai, nghiệm biết tức là vốn có ba đức, tu đắc cũng như vậy. “Một tức tất cả…” không ra ngoài ba đức. “Một tức tất cả” là hạnh y (áo), “tất cả tức một” là tuệ thực. “Chẳng phải một chẳng phải tất cả” là thân xứ. Nói “vân vân (v.v…)” là chưa nêu hạnh tướng đối với Đầu-đà .

“Giải thích Đẩu-tẩu theo Bản tích”: nói “xả pháp ái”, đã nói “cùng với Như Lai đồng đắc” tức xả hai ái chân tợ, cho đến bất cứ tại địa nào, địa địa đều ly ái, cho nên luận bản từ lâu, tức bản địa ba đức. Tích, chỉ năm vị Đầu-đà trong sự như: áo… Phàm giải thích đại ý theo Bản tích như trước đã nêu trong phần nêu Số. Trong phần “Giải thích Đẩu-tẩu theo Quán tâm”, thì trong câu cuối : “Nhất tâm trung Đẩu-tẩu ngũ trụ vân vân”, nói “vân vân” là cũng không rảnh thuật đủ thứ lớp các quán. Viên Đầu-đà: Chánh đương ba đức của bất sinh bất sinh, cho nên bên dưới ba người lại đối ba đức. Lý kia rõ ràng đồng.

Trong phần “Giải thích tam Ca-diếp”: “Sát”: nên gọi là Sát-ma, Trung Hoa gọi là “điền”, tức cõi nước thuộc quyền giáo hóa của một đức Phật. Nay gọi “sát trụ”, là tiêu biểu điền vực. Cho nên trong các kinh phần nhiều nói “biểu sát”. Nếu muốn nói Tứ Tất-đàn, thì: Đầu tiên là Thế giới vì tộc, tánh trú xứ không đồng. “Tỳ-bà-thi…” là Vị nhân. Cùng lập “sát trụ” để làm thiện nhân. “Phật làm…” là Đối trị, vì thấy Phật liền có thể trừ ác. “Phật liền nói…” là Đệ nhất nghĩa, bởi vì có thể ở nơi tiểu thừa thấy chân lý. “Phật làm mười loại thần biến”: Trong văn đều hướng về liệt kê mười việc. Nhưng Luật, Luận văn không chuyên mười việc này. Lại trong văn tuy có liệt kê các sự nhưng chưa giải thích theo Tất-đàn. Trong kinh Tăng Nhất, “Thụy ứng” rộng nêu rõ việc ấy. Nay lược nêu khiến văn có thể thấy. Kinh Tăng Nhất nói: Đức Phật vào hang Ca-diếp thì độc long phóng lửa… Phật thâu độc long bỏ vào trong bát, đến chỗ Ca-diếp, Ca-diếp thỉnh trụ, cúng dường ba tháng, thời đến thỉnh thực. Phật dạy: Đi trước!. Liền đến cây Diêm-phù chọn quả Diêmphù… cho đến, nói: Sa-môn tuy thần vẫn không bằng đạo chân thật của ta. Tiếp, đến Đồng-phất-bà-đề chọn quả Tỳ-lê-lặc, tiếp đến Cù-gia Ni chọn quả Ha-lê-lặc, tiếp đến Uất-đơn-việt chọn thức ăn tự nhiên. Lại ở cõi Diêm-phù-đề chọn quả Ha-ma-lặc muốn cúng tế lớn. Năm trăm đệ tử muốn bửa củi thì nhấc búa lên, không giáng xuống được. Ca-diếp hỏi Phật! Phật dạy: Muốn hạ được búa xuống ư ? thì búa liền hạ xuống. Hạ xuống rồi không đưa lên được, như trước muốn đốt lửa lửa không cháy, muốn diệt lửa lửa chẳng tắt. Ca-diếp nghĩ: Ta muốn cúng tế lớn, tất nhiên có quí nhân và các vua đến. Cù-đàm đoan chánh, nếu mọi người thấy thì khiến ta mất lợi, nếu (minh nhật) sáng sớm Cù-đàm không đến thì ta rất may mắn. Phật biết thế, nên đến phương bắc xin lương thực, đến Cù-da-ni xin sữa, đến ao A-nậu uống, rồi chiều trở về trong hang đá. Ca-diếp hỏi: Hôm qua vì sao không đến? Phật đáp: Ta biết tâm ông, nên ta không đến, đầy đủ như nói việc trước. Lại, nhân Tứ thiên vương đến nghe pháp ban đêm có hào quang, sáng ngày Ca-diếp hỏi Phật, đức Phật nói đủ việc trước. Tiếp, Đế Thích Phạm Vương đến cũng vậy. Cadiếp hỏi có thể thấy tổ phụ của con đến nghe pháp không? Đức Phật liền khiến đến… Nước sông Hằng chảy mạnh, Ca-diếp sợ đức Phật bị chìm liền sai đệ tử đến xem, thì thấy nước không quá chân ngài đi trên nước. Phật dạy: Ông là người mù mắt không thấy, thần biến như thế mà ông cứ ngoan cố nói không bằng đạo chân thật của ông. Phật hỏi: Ông có thể đi trên nước không? Nay cùng đi trên nước?… Ông nếu không bỏ tà kiến thì ông sẽ chịu khổ nhiều kiếp! Ca-diếp nghe rồi đầu mặt lạy chân Phật cầu sám hối, rồi bảo đệ tử hợp tùy thích nghi! Thế Tôn thầy ta, và nói các đệ tử: “Khi ta thấy hàng phục long, là đã có tâm qui Phật”… cho đến năm trăm đệ tử đều nghe “Thiện lai!” được thành quả Sa-môn, đều đem thuật cụ ném xuống nước theo dòng mà trôi… Hai em của ngài Ca-diếp lại có năm trăm đệ tử cũng thờ lửa… cũng đều “thiện lai” mà thành Sa-môn. Khi đức Phật muốn đến thành Ca-tỳ-la-vệ, có người hỏi Phật : Vì sao đến chỗ kia? Phật dạy: Tất cả chư Phật đều có năm việc: 1. Chuyển pháp luân. 2. Vì cha thuyết pháp. 3. Vì mẹ thuyết pháp. 4. Phải dẫn dắt phàm phu lập Bồ-tát hạnh. 5. Thọ ký cho Bồ-tát. Thế nên đến đó vì cha thuyết pháp, vua cha nhân đó khiến một ngàn người dòng họ Thích xuất gia tự vây quanh Phật.

“Xét theo giáo”: Cũng nên liệt kê đủ bốn giáo giải thích hạnh đức của ba người, và bày ra năm vị bởi vì vị nhiếp giáo. Trong phần “Giải thích theo Bản tích” đem ba người đối ba đức. Viên đức ắt một người đầy đủ ba, chỉ vì mỗi người thiên theo một đức tiêu biểu mà đặt tên, vì là cùng biểu thể đồng tánh nhất. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” cũng vậy. Đầu tiên đắc trung đạo, tiếp ngăn biên đảo, sau chiếu biên đế, cho nên biết ba đức tất bất tư nghì Viên vô Sinh.

“Giải thích Xá-lợi-tử”, dẫn kinh Bản Sinh… cũng đầy đủ Tứ Tấtđàn. Đầu là Thế giới Tất-đàn, do nêu việc đời trước và trong thai. “Nanđà…” là Vị nhân, vì khiến người trong nước sinh tín, và thấy Át-bệ có thể sinh thiện. “Điều-đạt…” là Đối trị: năng trị Điều-đạt và độ vượt sai lầm. “Trong đó bao hàm…” là Đệ nhất nghĩa, vì tán thán cùng Phật bình đẳng nên xưa bình đẳng. Kinh ấy có năm quyển, rút ra từ quyển một, nay lại lược nêu ra khiến văn có thể thấy. Kia giải thích chấp ngã sở trong đó nói: Xưa vô số kiếp hai cậu cháu ngài làm quan may mặc trong cung. Thấy vật tốt trong kho liền sinh tâm tham mới bàn cùng nhau rằng: Chúng ta làm việc cực nhọc biết vật trong kho tốt xấu nhiều có thể lén lấy dùng, để khỏi bị thiếu thốn. Người sau biết bị trộm nhưng không biết đâu mà bắt. Quan giữ kho thưa với vua rằng: (Dưới như sớ văn nói)… Sau lại đến, cháu nói với cậu rằng cậu già yếu sợ người bắt được, khiến đào đất theo đó mà vào, nếu người khác thấy, thì con có sức mạnh liền có thể cứu cậu. Quả như lời cháu nói, cháu biết… Không thể cứu, sợ đến sáng người biết, liền chặt đầu cậu để lại thân mà trốn. Vua lệnh bêu thây… (như sớ) và rình… Vì người rình không giữ kín, nhân đó cháu sai lũ trẻ nhỏ cầm lửa đùa giỡn huyên náo, quăng lửa vào đốt. Người kia không biết… (như sớ). Vua lại sai gái đẹp trang sức châu ngọc lại dựng phòng xa bên bờ nước lớn… (như sớ). Vua trước dặn cô gái kia… (như sớ). Cô ấy nắm lấy áo người cháu. Cháu nói: “Lấy áo dùng làm gì, lấy cánh tay của ta đi.” Người cháu khôn ngoan đã chuẩn bị trước cánh tay người chết… (như sớ) vua nói: “Người này phương tiện vô song, biết làm sao!”. Cô gái ấy mang thai mười tháng, sinh đứa con trai đoan chính. Vua sai nhũ mẫu bồng đi khắp nước, thấy có ai kêu bắt lấy. Suốt ngày chẳng gặp. Người cháu lúc ấy là Thầy làm bánh, nhân lúc ấy đứa bé bò đến dưới lò la khóc. Người cháu cho bánh mà kêu lên. Nhũ mẫu thưa lại với vua, vua la: “Tại sao không bắt lấy?”. Nhũ mẫu nói: “Vì đứa bé đói đòi ăn. Người ấy cho bánh, chứ không phải tên trộm giặc”. Vua lại lệnh cho nếu ai đến gần đứa bé thì bắt. Người cháu lại bán rượu chuốc say nhũ mẫu và lính canh rồi trộm đứa bé bỏ trốn… (như sớ).

Trước sau tổng cộng hai trăm năm mươi người cởi ngựa đuổi theo, người cháu đứng ở giữa không xuống, vua nhân đến vào trong đó bắt và nói: “Ngươi là tên trộm trước phải không? Trước sau bắt ngươi vì sao không được ?”. Người cháu cúi đầu xin tha mạng. Vua nói: “Khanh thông minh hơn người, thiên hạ vô song ta sẽ cho tùy ý muốn của khanh…”. Bắt chước tướng mà không hiểu, tại đạo dùng tướng bắt chước. Tướng bắt chước phàm thuộc mình, thảy đều không biết.

Hầu thầy Sa-nhiên Phạm chí… Kinh Tăng Nhất nói: Xá-lợi-tử và Mục-kiền-liên hai người cầu đạo không thành liền tìm thầy hỏi. Thầy nói: tự ta trải qua nhiều năm cầu đạo không thành công, hay là đạo không có ư? Ngày khác, thầy bệnh Xá-lợi-phất đứng ở đầu, Mục-kiềnliên đứng dưới chân, lúc thầy sắp mạng chung liền cười, hai người đều hỏi: Vì sao Thầy cười?… (như sớ). Hai người ghi nhận lời thầy… Do đó phát nguyện nếu đắc cam lồ pháp vị thì quyết cùng nhau thưởng thức. Kinh Trung A-hàm quyển hai nói, há có thể hết. Kinh Dụ Bảy Xe nói: Xá-lợi-tử thấy Mãn-từ-tử… Trong phẩm Pháp thứ hai mươi bảy, rộng trình bày duyên khởi.

Nói “Sinh xứ an cư”, kinh nói: Sinh địa tức nguồn gốc nơi chốn sinh, sinh xứ. Các Tỳ-kheo bạch Phật, xưng nói Mãn-từ-tử… bạch thệ Quang duyệt. Hoặc phân tích âm thanh mỹ sắc, cả hai nghĩa đều thông. “Giới tịnh…” là chuẩn theo sớ Tịnh Danh nói: “Giới tịnh”: là chánh ngữ, chánh nghiêp, chánh mạng. “Tâm tịnh”: là chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. “Kiến tịnh”: là chánh kiến, chánh tư duy. “Đoạn nghi tịnh”: là Kiến đạo. “Tri đạo phi đạo tịnh”: cũng gọi là Phân biệt tịnh. “Đạo tích tri kiến tịnh”: cũng gọi là Hạnh tịnh. Hai thứ này là tu đạo. “Đạo tích trí đoạn tịnh” cũng gọi là Niết-bàn tịnh, tức Vô học đạo, đến phần “Căn cứ giáo” mới phân chia giáo sai biệt. Hai thứ sau phải dùng đồng thể kiến tư. Đây dùng Hữu dư xưng Vô dư. Bảy tịnh, bắt đầu từ sự giới, cuối đến Trí Đoạn đều là Hữu dư, báo cuối cùng nhập diệt mới chứng Vô dư. Bảy tịnh chính là cửa vào vô dư. Nếu tức dùng bảy tịnh làm Vô dư, thì nên biết chính là dùng Hữu dư xưng Vô dư. Vô dư ắt nhờ bảy tịnh mới đến, cho nên nói ly bảy cũng không.

“Câu-tát-la”: là Xá-vệ. “Bà-kê-đế”: là địa danh, chưa biết số làng Tác Sư tử hống: Trong Tạp A-hàm, kinh Xá-Lợi-Tử Sư Tử Hống nói: Đức Phật nói nghĩa một câu ba phen hỏi, Thân-tử ba lần không thể đáp. Đức Phật khai thị rồi vào tịnh thất. Xá-lợi-tử nhóm tập các Tỳ-kheo nói: “Phật chưa chỉ dạy cho tôi nguyên nhân của sự việc, nên không thể đáp ngay, Tôi trong bảy ngày bảy đêm sẽ diễn pháp kia không cùng tận. Đức Phật sai Mục-kiền-liên đến Kỳ Hoàn gọi Thân-tử… Đức Phật ở nơi ao A-nậu-đạt cùng năm trăm Tỳ-kheo, đức Phật ngồi tòa sen vàng bảy báu làm cọng sen, A-nan đứng hầu, năm trăm Tỳ-kheo đều nhóm họp. Lúc bấy giờ Long vương nói: Chúng đây không thiếu, nhưng không thấy Xá-lợi-phất, xin Phật sai một Tỳ-kheo mời đến. Lúc ấy Xá-lợi-phất đang ở tinh xá Kỳ Hoàn vá y cũ… Xá-lợi-phất nói: Ông đến đó trước thì tôi liền đến! Mục-liên nói: Thần lực của ông có thể hơn tôi thì mới khiến đi trước, nếu không hơn thì hãy cùng đi tôi nắm tay ông cùng đến ao kia! Xá-lợi-phất nói: Mục-liên khinh thường ta! Xá-lợi-phất liền cởi y trải trên đất nói với Mục-liên rằng: Ông có thể nâng y này nổi không? Rồi sau cầm tay tôi sẽ đi. Lúc ấy Mục-liên nghĩ: Xá-lợi-phất khinh thường ta! Mục-liên nói: đây chắc có ý sự không phí công, nên duỗi tay nắm lấy, mà không động một chút, gắng hết sức lực mà không thể động. Xá-lợi-phất lại đem buộc cành cây Diêm-phù khiến nâng lên, lúc bấy giờ hết thảy đất cõi Diêm phù đều chấn động. Xá-lợi-phất nói: Mụcliên còn có thể động đất cõi Diêm-phù-đề, huống chi mang theo y này, nay sẽ buộc các thiên hạ khác, cho đến ba thiên hạ đều năng động như động nhẹ y. Tiếp, buộc núi Tu-di tiểu thiên trung thiên đại thiên đều có thể động. Vì vậy trời đất động chuyển, chỉ có tòa Phật và ao A-nậu là không động. Long vương hỏi Phật: Vì sao động đất? Phật đáp… Long vương hỏi: Thần lực ai hơn? Phật dạy: Xá-lợi-phất hơn. Long vương hỏi: Trước kia vì sao nói Mục-liên thần thông đệ nhất? Phật dạy: Mục-liên năng trú một kiếp, Xá-lợi-phất trú nhiều kiếp.

Người khác nói: “Biên tế định”: là chỉ định đây. Xá-lợi-phất nhập Tam-muội, Mục-liên không biết tên. Xá-lợi-phất lại suy nghĩ rằng: Mục-liên động đại địa, loài trùng nhỏ chết vô số, ta cúi mình nghe Phật thuyết, tòa Như Lai không thể dời động, nay lấy dây mang buộc. Mụcliên lại nhấc lên, cho nên không động. Nay nói đức Phật phương khác dưới tòa có chút sai khác. Mục-liên tự nghĩ: Không thể thần lực có thoái ư ! Muốn đến chỗ Phật mà hỏi việc kia. Mục-liên liền đến chỗ Thế Tôn, từ xa đã thấy Xá-lợi-phất ở trước tòa Phật, liền nghĩ: trong hàng đệ tử Phật ta là thần lực Đệ nhất nhưng nay lại không bằng Xá-lợi-phất ư ! Liền đến hỏi Phật: Con sắp mất thần lực ư! Tại sao con xuất phát trước, mà nay lại đến sau? Phật dạy: Thần lực của ông không thoái mất, chỉ vì Xá-lợi-phất nhập định mà ông không biết đó thôi! Long vương nghe việc này rất vui mừng. Các Tỳ-kheo riêng bàn luận : trong hàng đệ tử Phật thì Mục-kiền-liên là thần thông đệ nhất mà nay lại không bằng Xá-lợi-phất, liền đối với Mục-liên khởi tâm khinh thường. Đức Phật bảo Mục-liên: Ông hiện thần lực đi! Mục-liên lễ Phật rồi liền ở trước Phật hiện qua đến phương Đông bảy hằng sa cõi, là cõi của Đức Phật Kỳ Quang, đi trên bát. Chúng cõi kia thấy vậy, cho là trùng đậu nơi chỗ bát của đức Phật, đức Phật cõi ấy nói: Ở phương Tây cách đây bảy hằng sa cõi… đức Phật kia sai hiện thần lực chớ để cho các Tỳ-kheo khởi tưởng khinh; cho đến khiến trong bát đầy năm trăm Phạm thiên. Một chân đạp núi Tu-di một chân đạp đụng cõi Phạm thiên, rồi nói kệ âm thanh vang đến tinh xá Kỳ viên. Các Tỳ-kheo nghe, không biết nơi nào liền hỏi Phật? Phật dạy: Ở thế giới kia… Các Tỳ-kheo bạch Phật khiến Mục-liên trở về… Các Tỳ-kheo kia muốn đến, Phật bảo Mục-liên dẫn. Phật vì chúng nói pháp lục giới rồi lại khiến Mục-liên đưa về.

Như trong kinh Bát-nhã nói: Phú-lâu-na nói phá Bồ-đề kiến, cho nên gọi là thông ý. Các hiền thánh tự nói pháp mình đồng: trong đây khi “giải thích theo Thông giáo”, nhân dẫn Bát-nhã cùng Bồ-tát hạnh ắt phá kiến Bồ-đề pháp luân…, mới gọi là Bồ-tát. Cho nên, dẫn trong các Kinh Đại thừa rằng: phàm các Bồ-tát tự nói mình chứng, đều vì lợi sinh hoặc đối Phật thuật giải, chẳng như phàm phu tự cho là mình thấy mà xưng mình có khả năng, cho nên nói “vọng có sở thuyết”.

Trong phần “Giải thích Mục-liên”, nói: “Cát-chiêm…”, cha tên Cát-chiêm. Cha ngài khi mới sinh, được thầy xem tướng nói là tốt, nhân đó mà đặt tên. “Mục-già-lược-hề-độ”: năm chữ đều là âm Tây vực. Cho nên luận quyển mười giải thích trong Như Lai mật ngữ, dẫn Mụckiền-liên tầm thanh. Đức Phật kia bảo: Mục-già-lộ-tử-độ vì sao đến? Mục-liên liền đáp…, chính là đức Phật kia xưng năm chữ này mà sai khiến Mục-kiền-liên, tức là âm của hai cõi có nặng nhẹ đó thôi! Trong văn chữ “lộ” là lầm nói chữ “lược”. Chữ “tử” là lầm nói chữ “hề”. Đồng danh rất nhiều. Như trong A-hàm quyển ba mươi lăm nói: Có toán số Mục-liên, khéo biết pháp tính. Kinh kia nói : Đức Phật ở nước Xá-vệ giảng đường Lộc Mẫu, toán số Mục-liên sau bắt chước đến chỗ Phật hỏi han, lui về chỗ ngồi, bạch Phật : xin cho con có việc hỏi? Phật dạy: Tùy ý ông hỏi,… cho đến, nói: ta dùng pháp tính khiến ông theo Phật xuất gia vẫn còn nghiêp thế tục cũ cho nên nói vậy. Cù-mặc khéo biết pháp tướng, Mục-liên chẳng phải một, cho nên biệt nêu “Đại”. Thấy quí cùng chấp trọng văn lời, tuy sai khác kia nghĩa chỉ có một, đều coi trọng đức hạnh. Xá-lợi-phất tài cao mà trí sáng. Mục-kiền-liên dòng dõi cao quí trí tuệ sáng suốt mà thần lanh lợi, lanh lợi cũng là sáng suốt. “Nghệ” : là sáu nghề (tài năng) lược như Thích Tiêm. Nhưng “Trí Nghệ” ở Ấn-độ có khác Trung Hoa. Do có đắc thiền cho nên Tứ Vi-đà thu nhiếp rất rộng. Trong giải thích theo Nhân duyên đây cũng đầy đủ tứ Tất-đàn: Đầu tiên là Thế giới. “Thích luận” trở đi là Vị nhân. “ngoại đạo…” là Đối trị. “Niết-bàn…” là Đệ nhất nghĩa. “Đệ tử phía bên tả”: Sở dĩ dùng Thân-tử và Mục-liên làm “Đệ tử tả hữu” chuyển pháp luân, là vì thông nhân ở định sinh, tức định tuệ một cặp, lấy hai pháp này làm căn bản của tất cả pháp, cũng là một cặp phước tuệ. Bi phần nhiều hiện thông, cũng một cặp Bi trí, thành phá pháp luân căn cứ đây có thể biết. “Bá nga”: Khuynh trắc mạo (dáng mạo nghiêng đổ), hữu tác phả nga hữu tác phả nga, đều không thấy nêu, căn cứ văn soạn Giang Hải Võ nói… nay nói “bá” là ý phiến động.

“Nan-đà v.v…”: Kinh Tăng Nhất quyển hai mươi tám nói: Đức Phật tại vườn Cấp Cô Độc, Đế-thích bạch Phật: Như Lai tại thế ứng hành năm việc, mẹ ở cõi trời thứ ba mươi ba, cần hành thuyết pháp, đức Phật im lặng nhận lời… khi ấy liền đến v.v… Rồng sân hận phóng hỏa gió lớn cháy cõi Diêm- phù-đề. A-nan bạch Phật: Vì sao có khói lửa lớn ấy? Đức Phật đáp đầy đủ. Ca-diếp, Na-luật… đều đứng dậy bạch Phật, muốn hàng phục rồng này. Đức Phật dạy : Rồng này bạo ác khó điều phục, ông nên ngồi yên. Mục-liên bạch Phật. Đức Phật cũng bảo “Thôi”! rồi lại hỏi: Ông làm sao hàng phục? Mục-liên đáp: Trước hết dùng thân rồng rất lớn khiến cho rồng khiếp sợ, tiếp lại dùng thân rất nhỏ đục xoi trong răng miệng rồng, rồi sau mới dùng thân thường để hàng phục… Phật dạy: Lành thay! Ông có khả năng kham nổi. Đức Phật lại răn dạy: Tâm phải kiên cố chớ có loạn tưởng sợ hãi mà bị quấy nhiễu. Mục-liên lễ Phật rồi đến trên núi, hiện thân có mười bốn đầu, nhiễu quanh núi mười bốn vòng. Rồng thấy sợ hãi, tự cho rằng: Ta nay thử xem người kia có hơn ta không? Hai con rồng liền dùng đuôi vẩy nước trong biển lớn, nước không đến cung trời Đao lợi. Mục-liên dùng đuôi vẩy nước, nước đến cõi Phạm cung và rưới ướt cả hai con rồng. Hai con rồng biết sức yếu rất giận hiện mây sấm hung dữ phóng lửa lớn để đốt. Mục-liên tự nghĩ: Nếu cùng rồng đấu tranh, đều dùng lửa khói sấm sét, ta cũng làm vậy thì từ cõi Diêm-phù đến cung trời Đao-lợi sẽ bị hại. Nghĩ vậy rồi liền hóa thân hình nhỏ… cuối cùng hai rồng chịu thoái lui. Ngài nghĩ : Rồng trong tứ sinh không xuất gia, rồng này uy lực như vậy thân lông đều dài. Tôn giả biết rồng tâm đã phục, liền lại hiện thân thường ở trước mặt rồng. Hai rồng lúc ấy mới biết đối phương chẳng phải là rồng, liền khen rằng: “Thật kỳ lạ đặc biệt!”, rồi bạch với Mục-liên: “Làm sao Ngài hiện tướng ấy, có điều gì răn bảo?”. Mục-liên nói: ”Ông hôm qua có suy nghĩ ta là Sa-môn đầu trọc thường bay trên ta ư?”. Rồng nói: “Đúng vậy!” Mục-liên nói: “Núi Tu-di là đường đi của chư thiên, chẳng phải chỗ ở của ông”. Rồng nói: “Xin ngài tha lỗi cho con, từ nay về sau xin được làm đệ tử ngài”. Mục-liên nói: “Ông chớ qui y ta, mà hãy qui y nơi ta đã qui y”. Rồng nói: “Con xin qui y Như Lai”. Mục-liên đem hai rồng đến nước Xá-vệ. Mục-liên nói: “Thế Tôn nay vì vô lượng Đại chúng nói pháp, chớ có hiện hình rồng”. Rồng nói: “Như vậy thì con sẽ hiện hình người đoan chánh”. Đức Phật vì chúng nói pháp, độ làm Ưu-bà-tắc. Lúc bấy giờ vua Ba-tư-nặc đến hỏi việc khói lửa kia… Đức Phật trả lời đầy đủ. Vua thấy hai rồng không đứng dậy. Hai rồng sân hận lại nghĩ : Nhân dân trong nước đối với ta không xấu ác… Hai rồng liền ở trên vương cung hiện sấm chớp lớn… Tôn giả biến làm hoa Ưu-đàm. Rồng giận dữ lại phun mưa lớn trên núi, Tôn giả lại biến thành bánh ăn. Rồng giận gấp bội, hiện mưa đao kiếm. Tôn giả lại biến làm y tốt. Rồng lại giận, biến làm bảy báu. Nặc vương không biết, liền hỏi: Diêm-phù có đức không hơn (quá) ta, trong cung thường có các báu vật, sẽ làm Luân vương ư! Rồng lại tự suy nghĩ: Sao không đủ sức lực lớn một phen đến như đây. Nghĩ rồi mới biết đây là sức lực của Mục-liên, thấy rồi liền đi. Vua được bảy báu và thức ăn mà không dám thọ nhận, đem đến chỗ Phật, bạch Phật mọi việc. Đức Phật dạy: Hãy đem cúng dường Mục-liên. Vua được thần lực của Mục-liên, vua hỏi: Vì sao như vậy? Đức Phật đáp đầy đủ, vua mới biết…

“Điều-đạt dẫn năm trăm Tỳ-kheo….”, kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi bảy nói: “Lúc Đức Phật ở vườn Câu lưu, khi ấy Đề-bà-đạt-đâu ba phen bạch Phật xin xuất gia. Đức Phật không nhận lời, ông liền nghĩ rằng: Sa-môn nay ôm lòng tật đố, ta nay phải tự cạo tóc tu phạm hạnh, đâu cần đến Sa-môn ấy. Có một Tỳ-kheo tên Tu-đà, hạnh đầu đà khất thực, Đạt-đâu bèn đến chỗ Tỳ-kheo ấy, đầu mặt lễ dưới chân, xin dạy oai nghi. Tỳ-kheo ấy liền dạy, tiếp theo học thần thông, dạy rằng: “Phải biết tâm ý thức khinh trọng, biết rồi lại biết bốn đại khinh trọng, biết rồi phải tu Tự tại Tam-muội, tiếp tu Dũng mãnh Tam-muội, tiếp tu Tam ý Tam-muội, tiếp tu Tự thức Tam-muội”, như vậy không bao lâu liền đắc thần túc. Y lời nói tu tập danh vang xa đến tầng trời thứ ba mươi ba, hái hoa Ưu-Bát-la để lên trên đầu gối Thái tử… rộng thọ nhận sự cúng dường muốn phá tăng hạnh Xá-la…, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 1 nói. Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên cùng nghĩ rằng: Thử cùng đến chỗ kia nghe nói gì! Điều-đạt thấy hai ngài thì rất vui mừng, nghĩ là đến theo, hết thảy mọi người đều có ý nghĩ này, nên nói với Xálợi-phất: Ngài có thể vì các Tỳ-kheo nói pháp không? Tôi nay đau lưng. Nói rồi liền chồng chân mà nằm… Xá-lợi-phất vì chúng nói pháp rồi, Mục-kiền-liên đem các Tỳ-kheo đi… Sau nhân tạo nghịch… bị lửa thiêu đốt đọa vào địa ngục A-tỳ. A-nan hỏi Phật : Điều-đạt sẽ sinh vào đâu? Phật đáp:… Tạp A-hàm quyển hai mươi chín nói… văn kia rất rộng. Lại, kinh Tăng Nhất quyển bốn mươi bốn cũng nói: Đức Phật ở vườn Cấp Cô độc. A-nan hỏi Phật : Như đệ tử đức Phật Tỳ-bà-Thi sống nơi cõi uế thời gian được bao lâu? Phật dạy: Ban đầu thì tám vạn bốn ngàn (84.000) năm, sau thì tám mươi, bảy mươi, sáu mươi, ba mươi, hai mươi, đến mười hai năm, lần lượt đối bảy đức Phật. “Đế-thích cùng Tu-la đánh nhau”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. “Phạm âm Phật rất xa”, như Chỉ Quán quyển một nói. Đức Phật tìm thị giả, như trong Chỉ Quán quyển sáu nói.

Trong phần “Căn cứ giáo mà luận thần thông”, nói “Mười bốn biến hóa”: đầy đủ như Thích-tiêm, dùng mười bốn tâm có công năng biến hóa để giải thích tứ thiền, đây chính là hết thảy La-hán đều đắc. Tiếp, “Quán v.v…”, người bốn câu giải thoát mới đầy đủ, do quán thiền đầy đủ ắt đắc Diệt thọ tưởng định. Tiếp, “Thập (10) nhất thiết” muốn khiến cho thần thông rộng khắp. “Luyện huân tu”, như Chỉ Quán quyển và trong Pháp Giới Thứ Đê. “Thập nhất thiết”, đầy đủ như trong Pháp Giáo Thứ Đệ. Sự thiền, đầy đủ như Huyền Văn và Thứ Đệ Thiền Môn. “Thập bát biến”, như Chỉ Quán quyển mười nói. Lại, có người nói “Thập bát biến là nghĩa chấn động v.v…”. Nay làm tụng rằng: “Chấn động và xí nhiên, lưu bố cùng thị hiện, chuyển biến và lai vãng, co duỗi các thân tượng, vãng đồng hướng ẩn hiển, tự tại và chế tha, thí biện cùng ức niệm, thí an cùng phóng quang”. Lại có người nói: trên thân ra lửa… “Y không khởi tuệ”: Không tức đế cảnh, y cảnh sinh trí thông thuộc trí tánh cho nên nói “dùng Không tuệ tâm”. “Thứ lớp…”: Công dụng ba đế thông, gọi là “thần thông”, Sơ địa trở đi, biệt gọi là “cảm ứng”. Ba đế thứ lớp, nên gọi là “thâm nhập”, riêng Bồ-tát pháp nên lại nói “vượt quá Nhị thừa”, kỳ thật siêu vượt hai giáo tam thừa. Nói “chẳng dùng nhị tướng”, Bất nhị tức “thật tướng”, “kiến độ (thấy cõi)” tức “thần thông”, y lý mà thấy nên nói “dùng tướng Bất nhị mà thấy”.

Trong câu“… tức là Viên giáo thần thông, vân vân”, thì “vân vân” là khiến phân biệt điều này: Trước là hai tu đắc, sau là hai phát đắc. Tạng, y sự thiền. Thông, y chân lý. Biệt địa tiền trợ. Viên tự tại phát. Hai danh trước thông, gọi là hóa. Hai danh sau mật, gọi là ứng. Hai loại trước điều phục chúng sinh. Hai loại sau thấy căn cứ chúng sinh. Hai loại trước có thể phá hoại, hai loại sau không thể phá hoại. Hai loại trước ở giáo đạo, hai loại sau ở chứng đạo. Hai loại trước thân thông chỉ hiện tại, hai loại sau thông ba đời. Hai loại trước Thánh vị mới tu thông, hai loại sau phàm vị đều tu thông. Hai loại trước tùy nương tựa đều có thể tu, hai loại sau ắt phải có nương tựa thù thắng. Nguyện được thông, lẽ ra ở văn trước, trong phần giải thích theo Nhân duyên, nhưng cũng có thể dùng bốn nguyện tiêu biểu giáo. Nay trong văn, Sơ giáo theo sự, Thông giáo theo chân, hai giáo sau thì tại lý, cho nên chấp nhận từ đây.

Trong câu “Phát nguyện đắc thần thông vân vân” thì “vân vân” là: lại có nhiều duyên đều tại nguyện đắc, cũng có thể không nguyện tùy duyên đắc, tức như Na-luật duyên mũi tên, khêu đèn, dẫn đến nhập địa vị cùng cực v.v… phân biệt năm vị như trước.

Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, thì “Chợt có…” là ý tam quán, thật tướng là cảnh Trung đạo, không có tâm hữu, vô, khế hợp cảnh Trung, nên nói “thông đến”.

Tiếp, “giải thích Chiên-diên”: Đầu tiên, giải thích theo Nhân duyên, gồm đủ Tứ Tất-đàn: Đầu tiên là Thế giới, từ “Kinh Tăng Nhất” trở đi, là Vị nhân. “Cùng ngoại đạo luận…” là Đối trị và Đệ nhất nghĩa, vì đoạn kiến và thế điển đều có phá tà và đắc đạo. Nói “Văn sức”: là khéo tán vịnh. Nói “phiến thằng” : là nếu nói hai chữ “kiên thừa” đều sai lầm, bởi vì khi vị ấy sinh thì cha đã lìa đời, người con này ngăn cản mẹ không được tái giá như dây buộc vào quạt, cũng có thể gọi là “Hảo kiên” bởi vì hảo kiên giáp. Nói “Tư thắng”: “tư” là tuệ số, luận nghĩa công mạnh, nên đặt tên là Tư thắng. “Dẫn kinh Trường A-hàm quyển mười, nhiều lần vấn đáp”: nhờ Ca-diếp đồng nữ Tỳ-kheo kia phá văn cũ xưa kia, lấy đó để so sánh. “Chấp đoạn”: chấp sau khi chết thần diệt cho nên dùng bất diệt làm vấn nạn. Nếu chấp thường thì trái lại làm tăng thêm sự chấp kia, cho nên biệt dùng “niệm niệm bất trụ” để phá. Trong phen thứ nhất, nói “Nhật Nguyệt nay là…” là phản biện trả lời, như Nhật, Nguyệt nay là vì mình mà lập hay là vì người khác ư? Nếu vì người khác, thì là vì trời hay là vì người. Chỉ duyên nhân thiên là người khác, cho nên có ngày mai. Nếu không có đời khác, thì nên chỉ có ngày nay. Nếu không có ngày mai thì cũng không có ngày hôm qua, vì ngày hôm nay là ngày mai của hôm qua. Nói “chẻ củi”: là đủ duyên thì có lửa như có thần, duyên tàn thì không lửa như không có thần, đâu phải chẻ thân không thần mà có thể thấy thần, như chẻ gốc thiếu duyên mà muốn thấy lửa thì rất xa. Nói “bối thanh”: Thân người là sắc, vì mắt thấy, thần thì phi sắc làm sao có thể thấy ? Như “bối” có thể thấy thanh không thể thấy. Nếu muốn ở nơi có thể thấy mà cầu cái không thể thấy, thì cần phải đủ duyên. Duyên đã thiếu rồi lại cầu trái ngược, thì quyết không đạt lý, thần cũng như vậy. Duyên đủ thì thần tại thân, duyên thiếu thì thần bỏ đi, đến phen thứ tám không lý lẽ để vấn nạn, chỉ nói chấp lâu chống cự mà cố trái.

Trong lần đáp thứ chín, nói “hai thương nhân”: là Chánh kiến và Tà kiến. Quỷ như thầy của ông, thầy của ông tuy kỳ quặc cũng giả xứng trí, cho nên dối trá làm giống người nói tà liên quan chánh, dùng tà Niết-bàn mà nói an lạc, cho nên nói “đường trước nhiều gạo cỏ”. “Gạo cỏ cũ” là chánh kiến thế gian. “Gạo cỏ mới” là chánh kiến xuất thế gian. “Người” là năng thừa hành giả, “trâu” là trí sở thừa. Tin lời của tà sư quỷ nói, ví như ông bỏ gạo cỏ cũ thì vẫn chưa được làm nhân thiên, huống lại là Niết-bàn? Cho nên, nói “người trâu đều chết vì bị tà ăn nuốt”, hoại thế xuất thế cho nên nói “đều bị ăn nuốt”. “Thương nhân kế tiếp”: là người chánh kiến thế gian, đắc chánh kiến xuất thế gian rồi mới bỏ các pháp nhân thiên hữu lậu. Ta nói chánh kiến, sao ông không bỏ? Vì lý lẽ đã cùng, cố chấp phản đối cũng dứt. “Thế-điển”: kinh Tăng Nhất quyển tám nói: “Đức Phật ở thành Thích-sí vườn Ny-câulưu, cùng năm trăm người vân tập tại Phổ nghĩa đường. Lúc ấy, Thếđiển Bà-la-môn đến chỗ Thích chủng, nói rằng: Các người có ai cùng ta luận nghị không? Các Thích tử nói: Trong đây có hai người chánh giác trong chúng, không thông tuệ không học rộng, nói năng kỳ lạ vụng về, không riêng đi theo đến. Nếu cùng luận thì sẽ được ngàn lạng vàng ròng. Thế-điển tâm niệm : “Người trong nước này phần nhiều là hư ngụy, dù có thắng cũng đâu đủ làm lạ. Nếu họ thắng ta, thì ta là kẻ bị người ngu khuất phục”. Suy nghĩ như thế rồi liền nói: “Ta không luận nghị”. Nói rồi ra đi, giữa đường gặp Bàn-đặc. Thế-điển nghĩ: “Ta nay sẽ đến chỗ người kia hỏi nghĩa”, liền đến kia hỏi: Ông tên là gì? Cachiên-diên thiên nhĩ nghe từ xa, liền biến thành hình Bàn-đặc mà nói: Ông nếu nói ta có thần túc không kham luận nghị, ta sẽ đáp ông bằng toàn nghĩa, lại dẫn dụ ông, ông tên là gì?… Thế-điển nói: Phạm thiên. Lại hỏi : Trượng phu ư? Đáp: Trượng phu. Lại hỏi: Người ư? Đáp: Là người. Lại hỏi: Người cũng là trượng phu, đâu chẳng phiền lập lại, mù cùng không mắt nghĩa ấy không đồng. Thế-điển hỏi: Vì sao gọi là mù? Đáp: Cũng như không thấy, đời nay, đời sau sinh diệt, thiện nghiêp, ác nghiêp, không như thật biết, vĩnh viễn không thấy, gọi đó là mù. Thế nào là không có mắt? Đáp: Tức là không có trí nhãn như trên. Thế-điển nói… Lại hỏi: Năm ấm là có duyên sinh hay không duyên sinh? Đáp: Có, không phải là không có duyên. Lại hỏi: Năm ấm lấy gì làm duyên? Đáp: Ái làm duyên. Lại hỏi: Sao gọi là ái? Đáp: Sinh là ái. Lại hỏi: Thế nào là sinh? Đáp: Ái là sinh… Thế-điển nghe rồi đắc quả, khi mạng chung, Bàn-đặc báo cho các Thích chủng khiến chất củi thiêu… lại lập linh tháp. Trong Trường A-hàm nói các chấp của ngoại đạo rất rộng. Như nói không được tay ngăn che hình, không được ăn giữa hai tay, ăn giữa hai người, ăn giữa hai đạo, ăn giữa hai chày, ăn giữa hai nhà. Lại nói: Trước nói nghĩa là nói nghĩa không được ăn, không được ăn với hai đồ đựng, một miếng đến cổ, bảy miếng ăn thôi, lại càng không quá ba lần, hoặc một ngày ăn một bữa, hai ngày hoặc đến bảy ngày một bữa ăn, ăn gạo ăn rau, phân trâu, phân hươu, rễ cây, hoa trái… tự rơi rụng được ăn; hoặc mặc áo bằng cỏ, cây, lông, da, cỏ gấu, để râu tóc dài… phải đứng một chân, thường ngồi tòa… thường ngồi chồm hổm , nằm trên gai, trên phân, trên quả dưa, ba ngày tắm một lần, một đêm ba lần tắm. Những pháp như vậy ở trong pháp của ta, gọi là pháp bất tịnh. Những pháp như vậy lược nên biết. Ví như có chấp “ chuyên ngồi “, thì chưa khế hợp đại đạo.

Nói chuyên ngồi: Là lấy việc không nằm làm công, không thể lấy việc không đi làm đức, đâu thể ở trong nhà tối thì bốn oai nghi lại đồng phàm, thấy chúng đến thì chắp tay ngay ngắn như Thánh, hạnh quân tử còn thiếu, đạo Bồ-tát vĩnh viễn kém, tự lòng dạ không chút giáo nào đáng theo, khiến người đời sau không có chỗ nương. Nhẹ như hạt cải, Phật còn bốn oai nghi động tác, đâu thể người chưa học bỏ qua? Xét rằng đạo tại tâm, không tại pháp sự, do mình chẳng do người, vì không thể tự xét mình đức thiếu, nên lộ bày lỗi xấu, Vả lại hiển lộ, ẩn giấu đều bình đẳng.

Trong phần “Căn cứ giáo giải thích”, đều nói “phá đoạn thường”: Phàm nói luận lấy phá tà làm đầu, cho nên đều ở đương tông để lập năng phá. “Y tổng trì tứ biện”: lại dùng tục đế Tam-muội mà làm tổng trì. “Tứ biện”: Đầy đủ như trong luận Pháp Giới Thứ Đệ. “Dùng thuốc phù hợp bệnh để phá đoạn thường”, là nhập ái kiến Giả, trước phá đoạn thường. Lại, phá đoạn thường có hai thứ nghĩa: 1. Dùng các quán cùng phá kiến hoặc giới nội đoạn thường, thì bốn giáo đều lấy kiến hoặc làm cảnh, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười nói… 2. Xoay chuyển ngắn dài không đồng, thì ba giáo đều phá kiến hoặc giới nội. Chỉ có Biệt giáo thì: trước, phá đoạn thường giới nội, tiếp, phá Không hữu đoạn thường, sau, phá Không giả đoạn thường. Viên giáo thì nhất niệm phá ba đoạn thường.

Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, luận nghĩa nói “vãng phục” (qua lại), “trí nghiên cứu cảnh” là vãng, “cảnh phát trí” là phục, thường quán thường phát thường qua thường lại.

“Giải thích A-nậu-lâu-đà”: “chủng tánh…” rộng nêu tại các kinh Hiền Kiếp v.v… Đại luận cũng rộng giải thích. Dòng họ Sát lợi. Hoặc nói “Cù-đàm”, đầy đủ như dưới thuật. Nếu theo nghĩa Tứ Tất-đàn: Đầu tiên là Thế giới, “Nhân hiền kiếp….” là Vị nhân, “Na luật…” là Đối trị, “Phật quảng…” là Đệ nhất nghĩa. Nói “ Vô-lạp “: Thỏ chẳng săn được nên nói vậy, đầy đủ như văn sau. “ Cơm cỏ kê (bại phạm) “ tuy nhiên, nhưng dùng hết cái mình có và ruộng phước thắng, cho nên được gọi là “Thắng báo”, cũng có thể ở đây rộng nêu tướng thí. Chỉ ở trong đó chẳng gấp. Bắt đầu từ “Dân-chủ” đến “Thiện-tư”, Thiện-tư sinh “Ý ma” và cùng “Tứ-thiết-luân”, hợp có “tám vạn bốn ngàn hai trăm mười vua”, đủ như trong luật. Nói “Thảo sán”: “Thảo” cũng là bắt đầu, như bố thí áo lúc mới gặp “Ông phải cởi áo vua”: khiến cởi y phục vua, mặc y phục Cù-đàm, khiến theo họ của thầy. Đây là cổ tục phương này, đều theo họ của thầy. Như Trúc Đạo Sinh vốn không phải họ Trúc, chỉ hầu Trúc Pháp Thái, làm đệ tử đó thôi! Từ An Công đến nay, khiến đồng một họ Thích. Dịch trong luật Thập Tụng mới thấy văn kia. Luật nói : Bốn con sông chảy vào biển, không còn có tên sông. Bốn họ xuất gia đồng một họ Thích. “Bốn con bị nghi” là bốn người con của mẹ kế bị mẹ lớn nghi. Kinh Hiền Ngu nêu đủ chuyện xưa, các duyên thí thực gặp thỏ v.v… lược như văn nay. “Ngủ là thức ăn của mắt”, như Chỉ Quán quyển bốn nói. “Đức Phật cùng tám trăm Tỳ-kheo vì… ba y”. Đức Phật ở nước Xá-vệ, Na-luật nói với A-nan rằng thỉnh các Tỳ-kheo may ba y, y của ta đã rách. A-nan đến từng phòng nói với các Tỳ-kheo. Lại, xưa gọi núi Bà-la-la là “Câu-tát-la” vì âm Phạn không đồng.

Các Tỳ-kheo chiếu theo lời của A-nan. Đức Phật thấy A-nan, hỏi: Ông làm việc gì vậy? A-nan đáp đầy đủ. Phật dạy : Sao ông không thỉnh Phật? Bèn cùng các Tỳ-kheo trương vải cắt rọc, các Tỳ-kheo may một ngày xong. Nhân đây Đức Phật thuyết về nói Ca-hi-na (áo công đức)…

Trong phần “Giải thích theo Giáo”, nêu hai tầng: tầng đầu: luận phát, tầng hai: luận tu. Bốn giáo chung luận phát, ý nêu rõ tu thành, tuy có chút ít không đồng mà đại thể không sai khác. Nhục nhãn tuy mất mà thiên nhãn lại thành. Vọng sau, cho nên luận “tu thứ lớp, tu không thứ lớp”, đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói, cũng nên nêu rõ khai hiển…. Trong đây, chinh là nêu “Thiên nhãn” mà kiêm cả bốn nhãn. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, không nói Tuệ nhãn, vì thiếu đó thôi! Lẽ ra nói quán Nhân duyên định tâm, tức Thiên nhãn, không tâm tức Tuệ nhãn.

“Giải thích Kiếp-tân-na”: Đầu tiên là Thế giới Tất-đàn, “Tỳkheo ấy…” là Vị nhân, “Giữa đêm….” là Đối trị, “Bỗng nhiên…” là Đệ nhất nghĩa. “Cầu đảo ngôi sao Phòng…..”: Sách Nhĩ Nhã nói: Thiên tứ Phòng. Chú thích rằng: Rồng làm ngựa trời, cho nên gọi là “Phòng”. Bốn ngôi sao nghĩa là Thiên tứ tinh, tức ngôi sao thứ tư trong bảy ngôi sao ở phương Đông, nếu căn cứ phương Tây, thì ngôi sao lại không nhất định. Đầy đủ như Chỉ Quán quyển mười nói. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, đều nói “thê”: y nơi gặp Như Lai mà được chứng, để giải thích “Túc”, thì dương giáo nêu rõ Phật phân tề (phần hạn) không đồng.

“Giải thích Kiều-phạm”: Đầu văn bao hàm tứ Tất cho nên không phân, đến sau tự kết. “Dịch là Ngưu Tứ”: đời quá khứ từng làm Tỳkheo, do đi qua ruộng lúa người khác, ngắt bông lúa ăn thử xem lúa chín chưa, nên về sau trong năm trăm năm phải làm trâu để bồi thường, nay đắc Vô học còn có tập khí thừa. Kết tứ Tất-đàn gọi là tại trung gian, tổng giải thích văn trước sau, cho nên lại nói “khứ”. Lần nữa lại giải thích ý tứ Tất-đàn trước. Tiếp “Sau khi Phật diệt độ…” là lập lai biệt giải thích Đệ nhất nghĩa. “Thủy thuyết kệ”: Luận nói: “Kiều-phạm-ba-đề cuối đầu lễ, Diệu chúng Đệ nhất Đại đức tăng, nghe Phật diệt độ con tùy khứ, như voi lớn đi voi con đi theo”. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, đều rõ là chỉ bày: nếu thị hiện chỉ bày thì nghĩa bao gồm Bản tích, nếu tác giáo chỉ bày thì chính là căn cứ giáo. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, chính là dùng trượng phu ngưu vương, và chung nhận xe Trâu trắng dẫn kéo.

“Giải thích Ly-bà-đa” : trong phần giải thích theo Nhân duyên, thì: Đầu tiên là Thế giới Tất-đàn, “Giả hòa hợp…” là Vị nhân Đối trị, “Tăng Nhất…” là Đệ nhất nghĩa. Cho nên lại căn cứ tranh chấp tử thi một duyên chỉ đầy đủ hai Tất-đàn. Nếu căn cứ duyên tranh tử thi mà tự đầy đủ tứ Tất, thì “Giả hòa hợp….” là nghĩa Thế giới; “dễ độ” tức Vị nhân, “hỏi người” tức Đối trị, “nghe nói” tức Đệ nhất nghĩa. Hai quỷ tranh nhau tử thi, trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Dẫn Tăng Nhất lập lại để chứng minh Đệ nhất nghĩa. Có lỗi do miệng thì duyên tai kinh tạng vàng ngọc. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, lại nương quỉ tranh chấp tử thi lấy làm nghĩa căn bản. Biệt giáo, nói “chẳng phải mình có…”: phàm trong Biệt giáo lập Phật giới, có ba ý kia: 1. Lấy lý tánh làm Phật giới. 2. Lấy quả đầu làm Phật giới. 3. Lấy sơ địa để phân danh Phật giới. Nay nói mười pháp giới đều chẳng phải mình, chỉ sơ địa để phân Phật giới thôi! Nếu chỉ quả đầu thì nên nói chín giới, “chẳng phải mình có”. Trong Viên giáo, “phi ngã phi tha”, là phi chân phi duyên, lại phi cộng ly. Lại, “chẳng phải mình có” không đồng hai thứ trước, “không phải người khác có” không đồng Biệt giáo. Trước, căn cứ giáo thì dựa vào giả hợp, nay Bản tích Quán tâm đều căn cứ tinh tú thì đều tùy tiện. “Thấy Phật như thấy tinh tú” ý trong kinh Bát Chu. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “như ban đêm thấy tinh tú vân vân”, thì vân vân là nên rộng dẫn trong kinh Bát Chu Tam-Muội.

“Giải thích Tất-lăng-già” rộng nêu mạn duyên, trong Chỉ Quán quyển hai nói. Nếu căn cứ đây làm tứ Tất-đàn thì : “Năm trăm đời….” là Thế giới, “Sám hối…..” là đủ hai Tất-đàn, “Kinh Tăng Nhất….” tức Đệ nhất nghĩa. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “…đều quy về Đệ nhất nghĩa vân vân” thì “vân vân” là : Tam quán tổng biệt đều là Đệ nhất nghĩa. Các hoặc sở phá đều đắc là thô thuyết…

“Bạc-câu-la”, Giải thích theo Nhân duyên: Đầu văn là Thế giới Tất-đàn, “Năm một trăm sáu mươi tuổi…” là sinh thiện (Vị nhân), “Thân lạc…” là Đối trị, “Cho nên kinh Tăng Nhất nói thọ mạng…” là Đệ nhất nghĩa. “Xưa cúng thí trái Ha-lê-lặc”: Thời quá khứ Phật Tỳ-bà-thi, ông dùng trái Ha-lê-lặc cúng cho một Tỳ-kheo bị bệnh đau đầu, từ đó về sau ông thường được phước không bệnh. Nói “trì một giới thì bốn giới trang nghiêm”, là khi thọ chút phần Ưu-bà-tắc giới thì năm giới tâm đều kỳ vọng nhiều ít. Kinh Tăng Nhất nói: Phật dạy Ưu-ca-ni nếu ăn mà tăng thiện diệt ác thì nên ăn, nếu tăng ác diệt thiện thì không nên ăn, trì giới phá giới cũng lại như vậy. Trong câu “Phần nhiều hủy phạm vân vân” thì “vân vân” là nên phân biệt, như nói: Nếu phá một giới thì sẽ đọa vào địa ngục, nếu trì một giới thì được sinh trong loài người. Lại ba phen hỏi : “Có thể trì được không?” là khiến ba lần tự quy, cho nên trì một giới thì được gọi là “thiểu phần” cho đến “mãn phần”. Kinh Báo Ân quyển thứ sáu nói: Người trì năm giới thì không cho mua bán năm loại: 1. Súc sinh, thẳng bán thì được. 2. Cung tên. 3. Bán rượu. 4. Ép dầu. 5. Năm màu nhuộm chính. Nước Kết Tân từ xưa đến nay trong cây gai không có trùng, được làm thuốc nhuộm, các nước Lưu sa nhuộm phần nhiều sát sinh, Nước Tần nhuộm màu xanh cũng phần nhiều sát trùng. Bốn điều trước nói không buôn bán thì được, trong tạng có một quyển Ngũ Giới kinh phân làm năm phẩm, rất quan trọng đối với người trì năm giới. “Tháp ấy cũng có lực như thế”, có hai nghĩa: 1. Lực xá-lợi. 2. Thần lực hộ tháp. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, “đại tịch diệt định” chỉ là Đại bát-Niết-bàn. “Trường thọ…”: nhờ tích sự để lập bản đức, bản trụ chân thường, tích hiện trường thọ, bản ở cực lạc, tích thị hiện vô bệnh, bản tám tự tại, tích không yểu mạng, bản trụ viên tịch, tích thị hiện nhàn tĩnh.

“Câu-hi-la: Giải thích theo Nhân duyên”: Tuy đối Thân-tử là thành đức cậu, lại theo cậu nói. Thọ tộc tức Thế giới, “Thấy chị” tức Vị nhân, “Bỏ nhà đến….” tức Đối trị, “Liền đê đầu…” đều thuộc Đệ nhất nghĩa. Trung A-hàm quyển năm mươi tám nói: Xá-lợi-phất cùng Câuhi-la luận có nhiều phen: Đầu tiên Xá-lợi-tử hỏi: Thế nào là bất thiện, thế nào là bất thiện căn? Câu-hi-la đáp: Thân là bất thiện, tham… là bất thiện căn. Hỏi: Thế nào là trí tuệ? Đáp: Tứ đế là trí tuệ. Hỏi: thế nào là thức? Đáp: Biết sắc thanh hương vị xúc pháp là thức. Hỏi: Thức nương chỗ nào? Đáp: Thức y thọ. Hỏi: Thọ nương chỗ nào? Đáp: Không riêng có chỗ nương, y thọ có hơi ấm, như nhân dầu có đèn. Lại có nhiều phen.

“Nan-đà, Giải thích theo Nhân duyên”: văn rất lược. “Cũng gọi là Phóng Ngưu” (chăn trâu): Đại luận nói vua Tần-bà-sa-la thỉnh Phật và Tỳ-kheo tăng ba tháng an cư, nói người thả trâu khiến đến gần chỗ Phật ở hằng ngày cúng dường cho chúng tăng sữa lạc tô… Ba tháng xong, vua rất hổ thẹn, sai người kia gặp Phật. Người ấy cùng đồng bạn luận bàn rằng: Đã từng nghe bậc nhất thiết trí tức con của Tịnh Phạn Vương, vị ấy sinh ở cung vua có biết việc chăn trâu không? Bèn vào vườn trúc ngồi ngay ngắn hỏi Phật. Đức Phật vì ông mà nói về mười một việc chăn trâu, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Nhân đó ông phát tâm xuất gia, đắc quả Vô học, từ việc xưa mà đặt tên nên gọi là “Phóng Ngưu”. Nói “Thiện Hoan Hỷ”: là do từ đầu mộ đạo mà đặt tên, hoan hỷ thù thắng nên gọi Thiện, vui thích là tên khác của Thiện Hỷ. Nếu lấy nghĩa đây lập tứ Tất-đàn thì : “dịch…” gọi là Thế giới, “Mười vạn Thích…” tức là Vị nhân, “Phật nói việc phóng ngưu” tức Đối trị, “đắc quả” tức Đệ nhất nghĩa. Trong phần “Giải thích theo Giáo”, nói “Hoan Hỷ trụ”, là trụ danh không hoan hỷ, chỉ căn cứ Biệt địa, chứng đạo đã đồng cho nên mượn địa đặt tên “trụ”.

“Tôn-đà-la-nan-đà, Giải thích theo Nhân duyên “: Đầu là Thế giới Tất-đàn, “Bốn tháng…” là Vị nhân, “Phụ tức…” là Đối trị. “Vân vân” là văn lược. Nghĩa sẽ thời gian sau đắc đạo, là Đệ nhất nghĩa. “Luật Di-sa-tắc” nói chính là Bạt-nan-đà, lại do danh đồng giải thích hãy đều đoan chánh. “Địa ngục thiên đường” trở về sau, văn rộng như trong Chỉ Quán quyển hai nói. “Giải thích theo Bản tích và Quán tâm, như trước”, tức trong “giải thích Nan-đà” trước.

“Phú-lâu-na, Giải thích theo Nhân duyên”: Đầu tiên là Thế giới Tất-đàn, “Người ấy…” là Vị nhân, “Kinh Tăng Nhất…” là Đệ nhất nghĩa, “Muốn trở lại bản…” là Đối trị. “Tán thán mãn”: là lập lại lần nữa nêu Đệ nhất nghĩa.

“Giải thích Tu-bồ-đề”: Đầu văn là Thế giới, “Thường tu…” là Vị nhân, Không là hạnh tối thắng tức nghiêp, hiện báo lại thắng, nên gọi là “Thiện Cát”. “Trụ vô tránh…” là Đối trị, “Phật ở Đao-lợi…” tức Đệ nhất nghĩa. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” nêu bốn câu, tuy thông các quán mà đối với tu hạnh Không, nghĩa ấy lại tiện. Nói “Pháp thân”: lại thuận trong ý Đệ nhất nghĩa bên trên, chẳng riêng trong đây cần phải nói Pháp thân.

“A-nan, Giải thích theo Nhân duyên”: Đầu tiên là Thế giới Tấtđàn, “Trong hàm chứa…” là Vị nhân, “Tự thệ…” là Đối trị, “A-dục vương…” là Đệ nhất nghĩa. “Tông xã”: đầy đủ trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, căn cứ Hoan hỷ địa để giải thích bản trụ. Địa tức Trụ.

Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, nói “Tương tự tức Không tức Giả tức Trung tương ưng” là cũng có thể thông lấy danh tự. Trong câu “Cho đến chân quán tương ưng vân vân”, thì “vân vân” là thuật đủ tướng quán.

“La-hầu-la, Giải thích theo Nhân duyên”: Căn cứ đời xưa đời nay và tổ vương hoan hỷ, đều là Thế giới Tất-đàn. Các khả năng phá chướng biên nhiều, là Vị nhân. Các chướng biên sở phá nhiều, là Đối trị. Sau đắc đạo là Đệ nhất nghĩa. Căn cứ theo kinh Tạp Bảo Tạng thì La-vân vào đêm Phật đắc đạo mới sinh, do La-vân sáu năm trong thai mẹ. Nếu Phật mười chín tuổi xuất gia thì đến hai mươi bốn tuổi đắc đạo, nếu ba mươi tuổi thành đạo thì thành hai mươi lăm tuổi xuất gia, không đồng ý kiến riêng, không cần hòa hợp. Cho đến các giải thích khởi hủy báng và dứt hủy báng…, đầy đủ việc tại kinh kia không nêu đủ. Kinh Vị Tằng Hữu lại nêu quá đủ tất cả. “Bảo nữ…”, Cù-tỳ-la nói: ta thường cùng Da-du tiến chỉ cùng đồng chưa từng có lỗi. Nói “Bảo nữ”, là thiên chủng không mang thai. Phật nếu không xuất gia thì sẽ làm Chuyển luân vương. Trời đưa Bảo nữ để làm thị giả, hoặc nói La-sát nữ, như Thiên Đế-thích cũng có vợ là Tu-la nữ. Đại luận quyển mười chín nói: Da-du-đà-la, khi Bồ-tát xuất gia lúc ấy tự (giác) biết có thai, Bồ-tát sáu năm khổ hạnh, cho nên mang thai cũng sáu năm, liền khiến dòng họ Thích nghi ngờ. Nhân dịp đức Phật trở về nước, La-vân lấy một bình bát đựng một trăm vị thức ăn và thuốc hoan hỷ đem dâng cúng Phật. Đức Phật biến năm trăm vị La-hán cùng giống Phật không sai khác, La-vân bưng thức ăn đi thẳng đến chỗ Phật, các Tỳ-kheo bưng bình không mà ngồi. Chương An nói: “Bảo nữ có thể sinh một ngàn người con. Truyện Pháp Hiển nói: Vương Phi sinh cục thịt tròn như trái dưa, dưa có một ngàn hột, mỗi hột sinh ra một con thành một ngàn con. Đây cùng Đại luận văn có chút sai khác. “Mà Đức Phật muốn khiến xuất gia”: kinh Vị

Tằng Hữu nói: “Đức Phật sai Mục-liên theo Cù-di khuyên, Cù-di không chịu. Trên hư không có tiếng bảo rằng: Ngươi khi xưa vào thời đức Phật Định Quang làm người bán hoa, nguyện làm vợ người, xấu đẹp không lìa, sở hữu đều xả hết, chỉ lưu lại cha mẹ”. Vì sao nay lại tiếc con ư?

Hỏi: Trong văn không nói Cù-di, chỉ nói Da-du?

Đáp: Thời xưa Cù-di là nay Da-du, ngày nay Cù-di chính là Thiên nữ. Cho nên La-vân xuất gia làm Sa-di. Trung A-hàm quyển ba nói: đức Phật khất thực xong đến suối nước nóng (ôn tuyền) chỗ La-vân ở, La-vân trải tọa cụ và múc nước rửa chân, rửa chân xong đức Phật đổ còn lại một ít trong chậu và hỏi La-vân: Có thấy không? La-vân đáp: Thấy. Phật dạy: Ta nói Đạo kia thiếu cũng lại như vậy. Tiếp, sai đem đổ hết nước rồi lại úp chậu… Phật dạy: Đạo kia hết. Đạo kia úp. Rồi bảo La-vân: Phải tác ý đây không được đùa giỡn vọng ngữ, và nói kệ rằng: Người cuồng một phen nói vọng ngữ, không sợ đời sau, không ác gì không làm. Phật nói kệ ấy xong, bảo La-vân rằng: Như người soi gương muốn thấy mặt mình, thấy sạch không sạch. Như thế, La vân! Đem thân nghiêp mình quán nơi tịnh bất tịnh, thiện, bất thiện, đã làm, phải làm, đều phải thọ nhận quả báo thiện ác, cho đến khẩu ý cũng lại như vậy. Phải nhất nhất quan sát.

Tên “bốn đại La-hán”, như trước. “Đức Phật dạy: Sau khi Pháp ta diệt tận rồi thì bốn vị ấy mới Niết-bàn” là căn cứ kinh Bảo Vân quyển bảy nói: “Phật thọ ký cho mười sáu La-hán khiến trì Phật pháp, đến khi Đức Phật sau xuất hiện thì mới được nhập diệt”. Kinh kia nhất nhất đều nêu trú xứ, tên người, chúng số… và “Các Thánh giả đều ở trước Phật phát thệ nguyện: Chúng con dùng thần lực, rộng hộ trì kinh này, không nhập Niết-bàn”. Tân-đầu-lô La-vân ở thứ mười sáu, không nêu Ca-diếp.

Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, nói “Tám thứ chướng…” ý nói: Bản trú vô chướng, Tích thị hiện mười chướng. “Chướng Niếtbàn”: Nghĩa là sinh tử chướng khiến không được nhập Niết-bàn, tức trong văn trước tám phen đầu. “Một thứ chướng sinh tử”: Chướng khiến không được đến nơi sinh tử, tức là thứ chín. Tiếp, nhận lời Phật dạy không được Niết-bàn, cho nên “chướng Vô dư”, tức là thứ mười, lại văn nói về tám chướng trước, nghĩa có chút sai khác. Các chướng thứ nhất, thứ hai, thứ ba bao gồm sáu năm ở trong thai, bị thai… chướng ngại cho nên gọi “Phú chướng”. Thứ tư, là đời trước thường chướng, nên gọi là “Phú chướng”. Thứ năm, bị nghi chướng, cho nên nói chướng. Thứ sáu, căn cứ theo cha không chịu bị cha làm chướng, nên gọi là chướng.

Ngoài ra, căn cứ đây có thể biết.

“Quán tâm theo lệ trước”, là đầy đủ như trong các văn. Nay nên nói : “Tức Giả, nên chướng Niết-bàn, tức Không, nên chướng sinh tử, tức Trung, nên chướng phi sinh tử phi Niết-bàn” cho đến tam hoặc, năng chướng tam quán, Hoặc sở chướng, có tư nghì, bất tư nghì.

 

(Phần Trung)

Trong phần “Tiếp, giải thích chúng thiểu tri thức”, chẳng những không tán thán lại không liệt danh, do ít người biết. Nói “Thánh cùng phàm…”, giải thích nguyên do thiểu tri thức. Phàm phu không sánh được với Thánh, cho nên nói “tuyệt giao”. Chẳng phải Thánh hoàn toàn không giao tiếp phàm mà gọi là “tuyệt”. Như dùng phàm đối với phàm giao tiếp thì mới biết, huống chi dùng phàm hướng về thánh lý hợp tuyệt giao… Giao hảo đã tuyệt dứt thì đâu đùng thức mà nói nhiều ít ư! “Đặc biệt vì….”, nghĩa là nay Thánh vì dẫn phàm mà thị hiện giống như họ, cơ duyên không đồng thì tùy loại dẫn dắt, cho nên hiện tích “làm thiểu tri thức” để tiếp dẫn “người ẩn đức”. Không dùng năng tri năng thức của phàm phu để phán xét sở tri sở thức địa vị cao thấp, cho nên nói “không thể vì Tích là đa thiểu mà mất Bản kia”. Vì thế không thể coi hạng đa tri thức là Bản cao, coi hạng thiểu tri thức là Bản thấp. Lại, không thể coi đa tri thức là có thật bản, thiểu tri thức là không thật bản. Thế nên phải biết: đa thức tiểu thức đều là Tích, mà riêng có lý Bản. Nếu từ lâu bản thì có thật thành. Nếu muốn trong đây biện tứ Tấtđàn, thì nhiều ít sai khác, là Thế giới, tùy thuận căn cơ chúng sinh là Vị nhân, giấu danh ẩn đức là Đối trị, cao thấp chẳng so sánh là Đệ nhất nghĩa. “Theo Tam tạng giáo, mười tám hữu Học…”, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển sáu nói. Theo Thông giáo mà phân biệt hai địa vị Học và Vô học, thì trước là căn cứ Nhị thừa, sau là căn cứ Bồ-tát. Lại, trước là căn cứ Tam thừa chung vị, sau là căn cứ (độc) riêng vị Bồ-tát. Căn cứ Biệt Viên cũng phân biệt hai địa vị: một là nói công dụng vô công dụng, tức là căn cứ Địa, Trụ trước sau, hai là Bất cụ, tức Đẳng giác, Diệu giác. Đầu tiên nhập Vô công dụng cũng được gọi là Vô học, chỉ là phần đắc, cho nên lại căn cứ cụ túc. “Dẫn ý kinh A-hàm”, là khai nghĩa câu thứ ba làm đầu, ngoại nhân do đó đặt câu hỏi này: Ông nói La-hán đã là vô học vì sao lại phải tùy theo Thế Tôn? “Nếu vậy…” là mượn câu hỏi dẫn khởi, trong lời đáp tức thành câu thứ tư. Phàm nói Học, là tiến Đoạn, như Thất lai, Nhất lai, Bất hoàn đều là không còn học. Nếu trải qua quả tiến thì nghĩa thuộc câu trước, huống chi đã đoạn để xong không còn đoạn lại, cũng phải là câu thứ tư, lại thêm song phi tức năm câu. Hai giáo Thanh văn thảy đều như đây. Bốn giáo theo lệ. Thông giáo lại căn cứ Bồ-tát: hai câu trước như trước, hai câu sau Học, Vô học là đương Địa, Trụ. Vô học học: Vô học ở Phật không thể lại học, trở lại ứng thoái chọn lục địa làm vô học, xuất Giả gọi là học. Nếu căn cứ Lahán, thì Phật cũng trụ nơi thiện pháp làm vô học học. Biệt Viên hậu vị (địa vị sau) chỉ không đắc khiến Phật lại có sở học, thì thiếu câu thứ ba, chuẩn theo thông có thể biết, đều lấy phàm vị làm câu thứ năm, thì ba giáo sau đều có hai tiết đều thành năm câu.

Trong phần “Giải thích theo Bản tích” nói “ở mãn tự học vô học” Biệt Viên hai giáo đều chọn vị túc vị (vị chưa đủ), trong đó không ngại cũng có cổ Phật, tức là tiết thứ hai: người Vô học. Lại mãn tự: Mãn thông ba giáo lược hai theo Viên. “Chúng sinh nên dùng bán tự học vô học trang nghiêm song thọ”: Đầu tiên từ bán tự dẫn nhập viên mãn, tức Lộc-uyển là thời thị hiện khô, thời Phương Đẳng thị hiện tươi tốt, bấy giờ đã là trang nghiêm Bất nhị. Bắt đầu hạnh chấp Tích mà mờ tối nơi Bản, sau đến Pháp Hoa Niết-bàn mới bắt đầu hiển thuyết, tức trong Đại kinh nêu nhân sáu người đã thấy Phật tánh đồng với Như Lai. Nhị mà bất nhị, cho nên nói “trang nghiêm”. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm” đã lập Học, Vô học hai câu, nên lại lập hai câu: Không duyên mà duyên, gọi là Vô học học, thường quán như vậy, gọi là Học Vô học. Đối người chưa tu, thành câu thứ năm, cũng có thể căn cứ lý làm câu thứ năm, cũng là đắc tam quán đều làm năm câu, tư duy thì có thể thấy. Trong phần pháp số theo Quán tâm, nói “giới như xen lẫn mà luận thì đủ hai ngàn” tức là trăm giới, ngàn như chỉ thành một ngàn, tức mười giới trăm giới, mỗi giới có mười Như. Lại, nên dùng trăm Như ngàn giới, lại gọi là một ngàn. Lại, như tướng mười Như đầu cuối tồn tại, thì mười Như làm trăm, dụng đối mười giới há chẳng phải ngàn giới? Đây lại một phen luận số đơn kia. Nếu ngàn giới trong trăm Như, mỗi giới có mười giới, ngàn Như trong trăm giới mỗi Như có mười Như, thì sao giới, Như đều chỉ có một ngàn ? Vậy thì lớp lớp vô tận không thể đếm biết, lấy gì để làm định số hai ngàn? Cho nên nói bất khả tư nghì. Các cảnh đều như vậy, lại tùy tiện nói cho nên nói “hai ngàn”. Nhân duyên “trong Căn cứ giáo” đều chỉ liệt kê số, đối nghĩa tức đủ không cần biệt cầu. Cho nên, hai văn trước nêu thẳng mà thôi. Như thế muốn nghĩa lập, nghe số để hoan hỷ, sinh thiện, phá ác, nhập chân. Các giáo dùng quán đối số giải sai khác, tức ý kia vậy.

“Nêu tích…” là bản tích, “nêu tích…” là tức tích pháp này là bản pháp. Bản tự có Tích, cho nên nói Bản tích. Không có Tích thì không có gì để hiển Bản. Tích đây tức là tích của bản gia. Không có bản thì không do đâu mà thùy tích. Cho nên, Tích trong hai ngàn tích, là Tích trong hai ngàn bản, trên dưới đều như vậy thích phương, như trong phần “Đa tri thức” ở trên.

Trong phần “Liệt kê Ni chúng”, phá bỏ “cách giải thích xưa”. Nói “Lại nữa, không có văn…”: Cuối phần “Liệt kê chúng Tỳ-kheo”, có câu kết rằng: “đó là hàng tri thức của chúng” (chúng sở tri thức), cho nên nói “đa”: Trong phần nêu “chúng Học vô học” thì văn cuối không có câu kết ấy, cho nên đối với “đa” trước, thì đây được coi là “thiểu”. Ni chúng hai văn bởi vì trước không có nói “chúng sở tri thức”, cho nên sau không thể vọng gọi là “thiểu”, cho nên nói “không có văn”. “Nghĩa cũng không thể”: là chúng Tỳ-kheo thì căn cứ tán đức và không tán đức, liệt danh không liệt danh, và số đa thiểu (nhiều ít), gồm có kết không kết, để phân biệt đa thức thiểu thức. Nay trong Ni chúng chỉ nêu tên chủ hai chúng, sau hai người chỉ nói “sáu ngàn” và “cùng quyến thuộc” và đều không có câu kết của phần liệt kê. Đâu thể nói “sáu ngàn” là được người khác biết và thẳng nói “quyến thuộc” là không được người khác biết ư! Còn không liệt kê hàng giấu danh ẩn đức thì đâu được gọi là “thiểu”?!

“Đại tiểu”: Xưa gọi “đại tiểu danh văn…” đã như trước phá. “Dadu”, đây dịch là “Danh văn”, đâu được từ chối, coi là không có danh văn. Hai Ni đều thiếu giải thích theo giáo, chuẩn theo lệ hợp thì có, cũng nên căn cứ Tăng có đủ bốn giáo năm vị.

Hỏi: Tên Đại Ái Đạo vì sao dùng “trí độ” để giải thích Bản ư? Lại, chẳng phải Phật mẫu, vì sao dẫn Phật mẫu để giải thích?

Đáp: Do có trí nên mới năng “ái đạo”, đã ái đại đạo thì trí độ cũng đại, huống chi phàm là người nữ thường năng sinh con, cho nên nhờ Tịnh danh pháp môn, coi như mẹ, khiến sinh thầy dẫn dắt tâm mình, coi như “con”.

“Giải thích số”: không căn cứ giáo, đại ý như trước.

Giải thích số “theo Quán tâm” thì lấy sáu căn làm sáu ngàn, chỉ nhờ văn trong phẩm Pháp Sư Công Đức, nay đây đều là nghĩa thông trước sau. Hoặc là các vị thuộc Ni chúng đều là hạng Thánh vị lục căn, đã đối ba chu được thọ ký, tức chánh dùng Hoa Nghiêm mười loại lục căn. “Tiêu biểu Bản pháp môn” là bao gồm nghĩa Bản Tích. Trong phần giải thích “Da-du”: lấy con nêu mẹ, phàm lấy con nêu cha mẹ hoặc lấy cha mẹ nêu con, đều có đức nghiêp được người khác biết, tức có thể dùng tướng hiển bày, Tỳ-kheo đều như vậy. Hoặc nói “không phiên dịch”, chẳng phải riêng Da-du, hết thảy từ ngữ chưa phiên dịch phần nhiều đầy đủ có dịch và không dịch, ví như Tu-đa-la v.v… “Phật thê”: là trong quả nói nhân, bởi vì khi xuất gia đã bỏ Da-du cho nên khi có hiệu là “Phật”, thì không còn có thê (vợ). Quán giải tiêu biểu ba phu nhân: Lộc-dã bất sinh, nên tiêu biểu Không. Da-du có sinh, nên tiêu biểu Giả. Lại ở trong tam quán, Cù-di địa vị Đại là tiêu biểu Trung. “Thượng đương phần” trở xuống là hợp “nêu Bản tích Quán tâm”, trong đó phần đầu nêu rõ “Lại ý” tiếp theo là “Chánh giải thích” Phần đầu lại có hai: Đầu tổng, sau biệt. Hai câu đầu tổng nêu, hai chữ “đương phần” đều bỏ tiếng gọi. Sở dĩ cùng nêu “Bản tích Quán tâm” là vì nhân duyên không thể hợp giải thích. Căn cứ giáo lý thì nên xen lẫn thông, nay muốn chủ bạn cùng luận, cho nên Bản tích Quán tâm thì tiện. Nhưng Bồ-tát tạp chúng đều có Bản tích Quán tâm không cùng nêu vì hình phục sơ, vì vô thủy chung, vì chẳng phải chúng sinh trọng, vì chẳng phải Kinh muốn riêng làm. Lại nhân duyên, giáo tướng không phân biệt rõ, tức là từ Bản thùy tích chỉ là cảm ứng. Cảm ứng không vượt qua giáo tướng, cho nên chỉ Bản tích tự nhiếp hai thứ còn lại. Nếu như vậy, thì văn trên đã có thứ này đâu cần nêu lần nữa? Đáp : Do hóa duyên không đồng, chớ chẳng phải không lợi ích chúng sinh, nhân duyên tương quan phải cùng thiết lập tích. Hoặc một người liên quan đến nhiều người, nhiều người liên quan đến một người. Hoặc một người liên quan đến một người, nhiều người liên quan đến nhiều người. Hoặc khiến thủy chung, thân sơ, chủ bạn, hiển mật, cùng thành nhất hóa. Lại, các thánh quán hạnh năng quán sở quán, một sát-na chứa cả một kỳ hạn, sự lý, quyền thật, nhân pháp, chủ bạn, ẩn hiển, thiện ác, đều do tâm này quán nhiếp. Vì vậy cho nên phải căn cứ tâm vương tâm sở để nêu rõ.

Tiếp “hiển thiện Quyền” trở xuống, là biệt thuật “Lai ý”: Câu đầu nêu Bản tích Lai ý, câu tiếp nêu Quán tâm Lai ý. Nhất trong Quyền nên gọi là “thiện” (khéo léo). Không có một bậc Thánh giả nào mà không thuận theo cơ duyên, cho nên gọi là “khúc xảo”. Không có một tâm sở nào mà không thành diệu quán cho nên nói “tinh vi”. Tùy căn cơ nên dẫn dắt quanh mà tiến nên “xảo”, không lẫn lộn nên chuyên “tinh”, lý cùng tột gọi là “vi”. Từ “Luận về Thủ Lăng-nghiêm” trở xuống: trước tổng giải thích Bản tích chia làm ba phần: Đầu, trình bày thùy tích tổng luận đạo lợi vật, tiếp “Nay lại…” là nêu chủ bạn đồng lòng hóa phương, sau, “Do đây…” là tổng kết công Tam-muội. Đầu văn nêu Bản tích sở y, Bản địa sở y, Thủ Lăng-nghiêm bản, thị hiện tích. “Xứng thích”: Nêu rõ ý thùy tích, “chẳng cái gì không làm”: là nêu tướng thùy tích. Các đại tiểu giáo nêu các La-hán chỉ đắc Tứ trí, thẳng chịu chê trách đào thải mà thôi, không nêu rõ ý hóa. Bấy giờ ai nói : “Sinh ấm chưa tận, Phạm hạnh chưa lập, việc làm chưa xong, vẫn có biến dịch?”. Cho nên biết chỉ căn cứ giới nội để rõ tận. Nếu khai hiển rồi, thì Bản là đại quyền. Sở dĩ trước ngoài, tiếp tiểu truyền dẫn nhập Viên, cho nên chẳng phải bản Thủ Lăng-nghiêm. Không có gì để thùy nơi hóa tích, cho nên nói “chẳng cái gì không làm”.

Tiếp nêu Chủ bạn hóa phương, có sáu:

  1. Chủ bạn giáng thần.
  2. “Nếu ba mươi hai…”: nêu tư chất mới sinh của thầy trò.
  3. Sau “Nếu hoàng hoàng…”: nêu cùng lãnh thọ đạo thế gian.
  4. “Nếu pháp…”: nêu năng sở sinh thục, tức chỉ Lộc uyển Tiểu thừa.
  5. “Cùng phụ…”: lại thuần thục chưa thuần thục, tức chỉ Phương Đẳng Bát-nhã.
  6. “Tiếp nghe Pháp Hoa…” nêu chủ bạn công xong.

Phần đầu lại có hai: Đầu tiên là chủ, sau “Pháp thân…” là bạn. Phần thứ hai lại có hai: Đầu là thầy, sau “Các đại…” là trò. Phần thứ ba cũng có hai: Đầu, Sư dạy lãnh thọ đạo thế gian, sau “Các đại sĩ…” tiếp chỉ bày thọ giáo hóa tà. Phần thứ tư văn cũng có hai: Đầu biết sở hóa còn sinh, tiếp “Nếu sở…” là xem xét sở hóa cơ duyên thuần thục. Phần thứ năm cũng có hai: Đầu là Phương Đẳng, sau là Bát-nhã. Phần thứ sáu lại có hai: Đầu chánh nêu công xong, sau “Pháp vương…” là lập lại thuật bán mãn để hiển bày công hóa độ. Phân văn xong. Tiếp, lược giải thích.

Nói “Luận gần (cận)”: là lại xả trung gian để thuật Gia-da. “Thánh hậu”: là Thánh hoàng hậu. “Hậu” cũng là đức chánh bởi vì pháp thân bình đẳng. Cũng có cổ Phật, lại nói Bồ-tát. Chủ đã giáng thần, thì bạn cũng ở Tích. “Kim tư”: Sắc mạo vàng đẹp. “Đại sĩ”: Đại luận gọi Bồtát là Đại sĩ, cũng gọi là Khai sĩ. “Sĩ” nghĩa là gọi chung sĩ phu phàm nhân. Do Đại khai chọn lọc, nên gọi là “đại”… Như thế gian nói “Nhân sĩ, Chí sĩ…”, cũng do Nhân… chọn lọc. Nay trong loài người phát đại tâm gọi là “đại”. “Khai” là tên khác của phát, vì dẫn chúng sinh không đồng nên các tướng có khác. “Nhà Không”: Tu-bồ-đề khi sinh trong nhà đều

trống không, tiêu biểu giải Không. “Mưa báu”: là trường hợp của ngài Phú-lâu-na, “Nhờ biện tài thông mộng”: Xá-lợi-phất. “Thái tử…”: Đầu tiên đồng sau khác. Muốn đoạt thì trước cho, nên gọi là hoàng… Cư xử rất tôn kính mà vì trước dẫn dắt. Như Kinh Nhân Quả nói: “Lúc Phật sắp giáng xuống cõi Diêm-phù này, thì có chín mươi chín ức chúng”; bỏ đại chúng đây và quên tứ thiên hạ cho nên nói “bỏ nước”, bỏ địa vị Kim luân cho nên gọi là “bỏ ngôi vua”, dạy tập định thế gian cho nên nói “học đạo”. “Các Đại sĩ… cũng dạy thọ giáo hóa tà” cho nên nói “thỉnh nghiêp”. Quá sự tu tập kia nên nói “ kiêm thông”, thâu nhiếp chúng kia nên nói “tông tượng”. Như Thân-tử mười sáu âm thanh chấn động ngũ thiên, cùng Mục-liên cùng theo thầy Sa-nhiên Phạm chí, chưa trải qua tuần tháng Sa-nhiên đem hết đồ chúng giao phó. Đại pháp muốn khai mở thì trước phải khai thông thấu triệt như Kiều-trần-như… Biết sở hóa đã sinh, năng hóa cũng dự vào, “phân đình kháng lễ” (địa vị ngang nhau) như Ca-diếp… “Kháng”: Kinh Dịch nói: “Biết tiến mà không biết thoái, biết được mà không biết mất, cũng là đối”. Chưa chịu làm quan cho nên phân đình không thoái. “Tôn sùng đạo chân thật của”: đầy đủ như trong “Ca-diếp duyên”. Cơ thuần thục có thể giáo hóa, cho nên nói “dễ nhiễm…” Các Đại sĩ mỗi vị đều có một năng lực chủ yếu nổi trội như : trí tuệ Thân-tử, thần thông Mục-liên, biện tài Ca-chiên-diên, Tam-muội Phú-lâu-na. “Lại độ người chưa độ”: tuy thầy trò nhận hóa mà hóa đạo chưa dứt. “Độ” gồm hai nghĩa: Nếu hoàn toàn chưa thọ hóa, thì trong Phương Đẳng lại khiến nhập Tiểu thừa. Nếu các Bồ-tát thì chỉ khiến tận vô minh. Nói “lại thuần thục người đã thuần thục”, tức là cả hai địa vị Đại Tiểu thuần thục đã chưa trọn, đúng lý nên tiến nhập. Trong giải thích “hâm mộ Đại” nói “không biết”, chỉ lời nói “không biết” này tức căn cơ Đại thừa ngầm phát. Dưới nói “cơ, tình hai thứ đòi hỏi” tức ý đây vậy. “Đều hiêp…” nghĩa là trong Bát-nhã, Thông giáo nhị thừa, cho nên trong bộ kia Thông giáo chân thật trong đầy đủ Đại tiểu gọi là “hàm” (đều), Đại đới (mang) Tiểu nên gọi là “hiêp”, vì từ đầu đến cuối thông Đại Tiểu. “Xuất nạp…” là nêu rõ lãnh nghiêp, pháp tự tha đều khiến biết, “xuất nạp” đầy đủ như trong sớ dưới nói. Hai chữ “xuất nạp” ở Giang-nam phần nhiều đọc khứ thanh, đều có nguyên do. Nếu người xuất nhập thì chữ “xuất” có thể từ thanh “nhập”. Người là sở vận, có thể từ thanh khứ. Chữ “nạp” Nam, Bắc hai âm nghĩa đồng, chỉ sợ lạm dụng là “nội” (nội ngoại) cho nên theo Nam âm. “Công” nghĩa là Thông giáo. Nếu vậy thì sao không phó tạng? Đáp: Trước đã đắc,

Biệt tức biệt Viên, Thiên Viên đầy đủ như Huyền văn phân biệt. Được thêm vì “phụng mênh” sở thuyết gọi là “lãnh biết”. Gọi là “thuyết” vì lãnh cái không biệt lãnh, cũng như trụ trong Tiểu quả gọi là “không hy vọng lấy”. Chuyển thành Thục-tô, gọi là “chưa đốn xả”, mong cực giáo ở sau nên gọi là “mặc dù”, được lãnh thêm pháp, tâm kia không sợ gọi là “thông thái”, cho nên nói “đã dần dần” (tiệm dĩ), thông xưa, thông thái chỉ tại Thục-tô.

“Tiếp, nghe Pháp Hoa…” là nêu đến thời thứ năm, đầy đủ như trong phẩm Tín Giải rộng nói. Hiển chân di thể cho nên “hội thiên tánh”, vì thiên tánh định cho nên nghĩa cha con thành. Xưa kết đại duyên gọi là “chân thể”, đắc thọ ký biệt thì nghĩa cha con thành. Định xưa ở chỗ hai vạn Phật mới có thể ký biệt. Một mình điều phục đạt Niết-bàn cho nên nói “độc diệt”, còn không có một người riêng diệt, há lưu lại nhiều người? “Pháp vương…” lại thuật ý một đời giáo hóa. “Đầu tiên dùng…” là nhờ” bán, mãn, vinh, khô “để thành hóa sự, giải thích phương tiện nói quyền xảo bên trên, đại hóa công xong nên nói “Thân-tử…” không đợi Niết-bàn cho nên nói “dứt hóa”, thục (chuộc) mạng như Thích Tiêm. Như đây giải thích, mới giải thích chúng của kinh Pháp Hoa tổng biệt hai lớp tiêu thích Bản tích mà còn sợ mất ý chỉ, trực tiếp như thế một câu dịch danh mà thôi! Đâu khác chúng Thanh văn của các giáo?!

“Xướng diệt…” chinh là do công xong, nên khởi nói xướng diệt. Thế nên, duyên xướng diệt chinh là ở kinh điển này. “Hai vạn Đăng Minh…” là căn cứ Văn-thù đáp vấn dẫn sở kiến xưa, đều không có hậu giáo, phải biết tức ở Pháp Hoa là xong hóa độ. Nếu thấy ở phương Đông thì đủ thấy Pháp Hoa Niết-bàn, chính là dẫn đồng Phật nay. Nếu Ca-diếp xuất thế cõi kia thì như lý tịnh đồng với kiến xưa, tuy Niết-bàn có không không đồng, đều ở kinh này hiển thật. “Vì học…” : “Nam” như Bảo Tích, Thiện Đức…, “nữ” như Nguyệt Thượng, Vô Cấu Thí… “Đạo” là hai chúng xuất gia, “tục” tức hai chúng tại gia. Cả bốn chúng “ Phát khởi… thảy đều có, cho đến người hiền lương, nghèo giàu, thân sơ, cung mạn, sân hỷ, phàm Thánh, tướng kia chẳng phải một, cho nên nói “v.v…”.

Tiếp, “Tổng nêu quán”: Là tổng biệt ý chỉ đại theo như trước nói, dùng hai mươi tâm sở cùng phụ giúp tâm vương mà duyên cảnh thiện, như đầu khởi quán không lìa Tâm vương tâm sở. Thông số cũng thông, thông đến tâm sở thiện, do đại thiện này trải qua duyên đối cảnh, thiện kia chuyển sâu như đến kinh này, cho nên tâm sở thiện đây không phân biệt tâm thể. Trở lại chỉ chuyển tâm sở ác kia mà sinh, cho nên từ ngoại nhập tiểu, từ tiểu nhập đại, từ thủy quy về chung, mới gọi là thiện cực. Thiện hạnh tuy nhiều nhưng không ngoài mười thứ này, cho nên nói “mười tâm làm gốc”. Chuyển đã tột cùng rồi, lại giống như tâm vương không thiện không ác. Như các đệ tử được thọ ký rồi, phần đồng pháp vương, cho nên nói “lập”. Lại, tiệm chuyển: như các Thanh văn. Nếu đốn chuyển: thì như đốn Bồ-tát, đều là thật tướng, khiến vua trở thành “cứu cánh Pháp vương”, con trở thành “Pháp vương chân tử”, đều có khả năng Bổ xứ chuyển hóa dư sinh. Vì vậy cho nên ở trong đó, trước chọn thiện tâm, nhưng nay liệt ra đều căn cứ cựu dịch. Tân dịch nói: Tín và không phóng dật, khinh an, xả, tàm quí, hai căn và bất hại, cần chỉ khắp các thiện tâm. Ba câu đầu và một chữ, là nêu, bốn chữ sau là kết. Nếu muốn đối cựu danh mà lược biện đồng và khác, thì tân nói” tín “nghĩa là đối Tam bảo nhẫn chịu, cho nên cùng cựu danh nghĩa đều đồng. Tân dịch “Không phóng dật”: nghĩa là tu các thiện chuyên chú làm tánh, thì cựu gọi là “niệm”, niệm nghĩa là ức trì, danh khác nghĩa đồng. Tân dịch “Khinh an”: nghĩa là khinh lợi, an thích, kham nhậm làm tánh, thì cựu gọi là “hỷ”, hỷ duyệt an khóai, cũng danh khác nghĩa đồng. Tân gọi là “xả”, nghĩa là lìa trầm, trạo, cùng cựu danh nghĩa đều đồng. Tân nói “tàm quí”, cựu nói “ỷ giác”, danh nghĩa đều khác. Tân nói “hai căn” là không tham không sân, cựu nói “định tuệ” danh nghĩa cũng khác mà đạo lý đại đồng, bởi vì không có hai tham sân này, thì định tuệ mới thành. Định tuệ cũng có sâu cạn không đồng, “hai căn” chẳng phải không có hơn kém. Tân nói “bất hại” nghĩa là không tổn não làm tánh, thì cựu nói là “giới”, danh khác nghĩa đồng. Tân gọi là “cần”, cựu gọi là “tiến”, danh nghĩa đại đồng. Danh nghĩa kia hoàn toàn không đồng, là do người dịch ý riêng biệt không hòa hợp. Nay đây quý ở chỗ từ danh nhập quán, cho nên tâm vương thiện, tâm sở thiện cùng chỉ đạo các ác, để thành diệu thiện. Thế nên, thông tâm sở giúp tâm vương cũng như vậy. Dùng tâm sở đối người, thì tùy hạnh tướng kia cũng có thể hiểu. Mười người đã vậy, lấy “mười” để hướng về số nhiều, cho đến vô số không ra ngoài tâm sở, đâu chỉ một vạn hai ngàn, cho đến “chưa thọ hóa” đến, thuộc về tâm sở ác cũng thu hết, đâu chỉ thiện và thông ư!

“Mười người đều đầy đủ…”: là nương Bản tích để nêu Quán tâm. Bản, chính là Pháp vương. Tích là chỉ bày thiện thông tâm sở, do thị hiện nhập đạo không đồng. Nói “ Trong mỗi một tâm đều có tâm vương tâm sở “: Vì cho rằng hai tâm đó không đồng. Nay nói “tương phù”, tức là đồng thời, cũng lại nên nói “thứ đệ tương sinh”. Chẳng những đồng thời khác thời, mà còn là các tâm sở xen nhau có. “Tín” đủ các tâm sở từ “tín” đặt tên, chín thứ còn lại cũng vậy. Theo mạnh mà nói, cho nên thọ biệt danh. Mười thông tâm sở, căn cứ đây có thể biết, vì vậy lần lượt tương phù đánh phá ác. Nếu nhất tâm cải đổi, thì các tâm sở còn lại đều tùy theo. Nếu tương phù chuyển hết, thì đồng nhập cảnh thật, không gì không phải chân thật, vương mà chẳng phải vương chẳng phải sở. Cho nên, biết tùy người mà thiên về mạnh thế nào, mạnh là quán cảnh, yếu là theo đi. Khéo đạt ý này thì bốn oai nghi, ba nghiêp tu quán có nơi nương gá, huống lại năng quán phải biện rõ khác, đồng.

Nói “cùng công phá”: là thông tâm thiện tâm tức năng công phá. Nói “bất hành…”: là chỉ các ác còn lại… Năng công phá thuộc trí, cho nên nói “hành Bát-nhã”. “Dẫn kinh Phổ Hiền Quán”: Năng sở đều tận, cho nên tâm vô tâm, pháp không trụ pháp. Chấp có năng quán, gọi là ngã tâm. Có ngã tâm thì năng sở không mất. Ngã sở nếu không, thì tội phước vô chủ. “ Vô tâm vô sở, gọi là chánh quán “cho nên nói” nếu bất tận thì quán không xong”. Thế nên đến Diệu giác mới gọi là “xong”. Cái gọi là “tận”: Nhân là tâm sở tận, thì quả là tâm vô tận. Cũng như năm ấm nhân quả, danh đồng mà thể kia vĩnh viễn sai khác. Thông dẫn ý kinh nói: “Chúng sinh chưa độ…”: là mượn sự chứng lý: nếu sở quán, tức chúng sinh tâm, mà chưa chuyển, thì năng quán, tức tâm vương tâm sở Sư đệ chưa dứt… Trong câu “tức là ý này vậy, vân vân”, thì “vân vân” là rộng nêu tướng năng quán sở quán của tâm vương tâm sở, xong và không xong, thành và không thành, tên “Chánh giác” lại thông các địa…

“Tiếp, Liệt kê chúng Bồ-tát”: Đại luận quyển thứ tư trước hỏi: Vì sao gọi là Bồ-đề tát-đỏa? Đáp: Hết thảy Phật pháp, giới, định và trí tuệ, năng làm lợi ích tất cả, gọi là “Bồ-đề”. Tâm kia không thể động, năng nhẫn thành việc đạo; không đoạn cũng không phá, đó gọi là “Tát-đoả”. Lẽ ra căn cứ ba giáo để giải thích văn đáp này, đối với tiểu thành bốn. “Bồ-tát là thuộc bốn chúng xuất gia…”: Luận có hai câu hỏi: 1. Hỏi : trong Kinh (của) Thanh-văn nói có bốn chúng, không có chúng Bồ-tát, là vì sao? Đáp: Có hai thứ đạo: là Thanh văn và Bồ-tát. Bốn chúng là Thanh văn đạo, cho nên kinh Thanh văn không có chúng Bồ-tát. 2. Hỏi: đầy đủ như văn nay. Đáp: Thông tuy như thế, biệt thì không như vậy, đầy đủ như văn nay. Luận hỏi: Nếu vậy thì kinh Đại thừa vì sao không chỉ liệt kê riêng Bồ-tát? Ý đây hỏi là: trong Tiểu thừa giáo thì Bồ-tát chẳng phải chánh, cho nên chỉ liệt kê Thanh văn và bốn chúng, vì Bồ-tát thuộc về trong bốn chúng, trong Đại thừa giáo thì Thanh văn chẳng phải chánh, lẽ ra chỉ liệt kê Bồ-tát, bốn chúng nhiếp ở trong Bồ-tát ư? Luận đáp: Thừa ấy rộng lớn, các thừa đều nhập. Như sông Hằng thì không thể tiếp nhận biển lớn, biển lớn thì có thể tiếp nhận sông Hằng. Ý luận đáp đúng như việc hỏi: Chỉ vì nhiếp lấy dần, khiến trở về đại, như sông Hằng vào biển lớn kia còn có phương tiện. Nếu y văn này, trước tiên biết các bộ công biệt có không, thì mới biết ý kinh này liệt bày chúng, chẳng quan hệ liệt kê chúng ly hợp, mà năng biện đại tiểu thiên viên. Như kinh Kim Cang thì chỉ liệt kê tiểu số, kinh Kim Quang Minh thì đại tiểu đều không có, há có thể năng phân biệt đại tiểu sai biệt ư? Cho nên biết : trước tiên dùng giáo để phán định, dùng giáo để biện người, thì cả trăm mà không sót một. “Cho nên nay…”, là nói thông ý biệt. “Nếu tồn tại đủ…”, là trước biện rõ tóm lược. “Bồ-đề…” là chánh giải thích danh, trước căn cứ thượng cầu. “Lại thành…” là căn cứ hóa tha. “Ma-ha” so trước cũng có ba nghĩa đại v.v… đầy đủ có bốn giáo, đạo biết dùng ba, cho nên nói “nhiều loại”, đầy đủ như Huyền Văn… và trong Chỉ Quán. Mỗi mỗi tứ hoằng tức kia bắt đầu, nhất nhất lợi sinh tức dụng kia, nhất nhất đạo phẩm tức hạnh kia, nhất nhất pháp môn tức sở tri. Tứ hoằng nếu phân biệt bốn, ba ắt là theo kinh khác và phân biệt năm vị mới là Viên diệu Bồ-tát của kinh này. Từ “Như Thích luận…” cho đến “đềhồ”: là căn cứ danh năm vị để biện rõ bốn giáo Bồ-tát. Luận lại nói: Phàm xưng thiện pháp đều gọi là “Tát”, thiện pháp thể tướng gọi là “Đỏa”. Cho nên biết Bồ-tát tự lợi lợi tha đều là thiện pháp và thể tướng thiện tức là tứ chủng đạo A-nậu Bồ-đề. Hết thảy Hiền thánh được xưng tán, đó là tứ chủng Bồ-đề Tát-đỏa. Lại luận nói thông luận ba thứ đều xưng Bồ-đề. Cái gọi là Tam thừa: Người Nhị thừa trước tuy xưng Bồ-đề mà chẳng phải công đức Phật, cho nên không gọi là Tát-đỏa. Phàm vì tạp huyết điều hòa thành tam kỳ bách kiếp sữa tịnh.

“Dẫn Đại Phẩm” ba văn chứng bốn vị lại dùng nghĩa Tam giáo nhiếp bốn vị, huống chi nay năm vị đều phán xét Bồ-tát, cho nên dùng vị Lạc đối Thông, hai vị Tô đối Biệt, vị Đề-hồ đối Viên. Do các Bồ-tát trải qua bốn vị này nhập bất định, nên nghĩa đương tam quán, tức tam Tạng Bồ-tát. Khi chuyển nhập Thông giáo, nghĩa đương nơi Lạc, căn cứ thời thì đều tại Phương Đẳng về trước. Khi chuyển nhập Biệt thời tại hai vị, tức do trong hai vị đều có Bồ-tát sự bất tư nghì. “Dẫn kinh Tịnh Danh” đã nhập thật ở trong hai vị tâm xứng thoát lý, tám ngàn thọ chịu khuất phục, thị hiện làm độn căn và người Nhị thừa bị chê bai đào thải rồi mới đều nhập Biệt. Căn cứ ý Huyền Văn tức lìa hai vị để đối Thông Biệt. Tiến thoái, thừa thiếu đều có hai ý, cho nên nhập thật thì đều tự lập thân như tòa tượng kia, tòa cao bốn vạn hai ngàn do tuần thì thân cũng xứng hợp. Mượn ý Bản tích để trợ giúp phần giải thích theo giáo. “Bồ-tát nghi trừ v.v…”: đều chứng bốn Bồ-tát, trong Quyền cần phải khai, cho nên đến Kinh này mới trừ ba lưới nghi của Bồ-tát mới là khéo hạnh Bồ-tát đạo. “Lại, kinh Niết-bàn…”: như thế hai kinh đồng vị, “ đều dứt mong cầu” vì vậy nên dẫn đồng, nói “lược có” là nay xưa hợp chỉ.

Trong phần “Giải thích theo Bản tích”, chia làm ba phần: Trước nêu Bản tích chẳng gì so sánh, tiếp “Sở dĩ…” là nêu ý thiết lập Tích, sau “Như thế Bản địa kia…” chính chỉ bày Bản phủi xóa tích. Trong phần đầu, nói “Hoặc đều là pháp vương”: như Văn-thù bản là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật, ngoài ra căn cứ đây có thể biết. “Tán ảnh thùy dung…” là đồng Thanh văn trước, tổng nêu Bản tích. Tiếp, trong phần ý thiết lập Tích, có pháp thí hợp. Trong thí dụ có nói “chày cối”: Hóa chủ là “ chày “, phụ là “ cối đá “, cho đến hỗ tương làm đều thành “khí cụ”. Xưa coi cổ chất là “thuần phác”, nay coi chưa trị là thuần phác khiến kia thành khí cụ, cho nên gọi là “khí”. “Thuần phác” không phải một, cho nên gọi là “các”. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm “nói” Phá ngũ trụ trần lao, gọi là thành tựu chúng sinh, vân vân”, thì “vân vân” là : Ngũ trụ đối ba quán theo thứ lớp và không thứ lớp. Quán cũng như vậy, suy nghĩ có thể biết.

Trong phần “ Giải thích Tám vạn người” nói “đồng mưu vân vân” thì “vân vân” là ứng hợp dụ nói: Nay khai bí tạng không liên quan đến quyền… cho nên người chứng tín đều chẳng theo như vậy. Cho nên, nay văn liệt kê không hẳn ở số nhiều, liệt kê chúng tuy như vậy mà Bản môn đắc đạo số gấp bội các kinh, tức trước đắc vô sinh tăng trưởng đạo vậy. Cho nên biết: lại là tùy theo điểm trọng yếu mà liệt bày đó thôi! Đây trong nêu số đã là nhân duyên, tuy tức không giải thích theo Giáo và theo Bản tích, mà nhân duyên người đã dự trong mưu tín bí mật, ắt là người Viên giáo và có viễn Bản. “Bát chánh tức là bát vạn”: đã là vô tác đạo phẩm bát chánh, thì đều là quán trăm giới ngàn Như kia. Thập thiện đã là sở quán, bát chánh tức là năng quán, năng sở theo nhau thì đều có tám vạn .

Tiếp, trong phần nêu “địa vị” : đầu là nhân duyên, tiếp “Ứng bốn thứ…” là căn cứ giáo. Trong phần đầu, nói “Vô thượng đạo như trong diệu cảnh”, tức lục cảnh sơ tứ Bồ-đề, cảnh bao hàm chỗ hướng đến của diệu đạo. Dùng sở để hiển bày năng, cho nên phải chỉ cảnh. Nếu biện rõ Tứ Tất-đàn: Tam bất thoái sai khác là Thế giới Tất-đàn, nhập vị công đức là Vị nhân, quyết trị vô minh là Đối trị, chứng nhất phần chân là Đệ nhất nghĩa. Dưới căn cứ đây có thể biết, không thể viết đủ. Nói đủ gọi là “A-bệ-bạt-trí”: A” là vô, “Bạt-trí” là thoái. Thời tăng kỳ kiếp thứ ba, rộng đắc tam Bất thoái, khi lìa năm chướng thì ba nghĩa đều đắc tức là Tăng kỳ kiếp thứ ba thông đến một trăm kiếp, thông tam Bất thoái ấy, đến đây gọi là Thượng nhẫn.

Tiếp, địa vị thông giáo dẫn “lục tâm”: Thông giáo địa tiền không có vị có thể luận, mượn danh biệt vị để thông vị kia, tức chỉ Biệt giáo Thất tín trở lên, nhập Can tuệ địa. Cho nên nói Sơ địa đến Lục địa, mới gọi là Vị Bất thoái; hoặc chỉ địa tiền giả lập Thất hiền, tức lấy Nhẫn vị làm đệ lục tâm. Y tiểu thừa vị tuy nói Nhẫn vị gọi là Vị Bất thoái, mà đối với Bồ-tát thừa còn gọi là thoái. Tiếp, trong Biệt giáo “theo Địa luận sư” cho nên không phá. Viên vị: Các giáo viên vị không vượt quá Hoa Nghiêm, các văn khác tuy có nhưng nghĩa Vị không rõ ràng, mà hoặc lược nêu Sơ trụ mà thiếu các vị sau. Sơ trụ đã vậy, thì Hạnh Hướng đâu thể khác, đâu được cùng địa tiền kia mà phục hoặc. Nhưng lại Hoa Nghiêm, sau Trụ thì gồm Biệt, hoặc tiện nhất hướng làm thứ đệ giải, hoặc dùng nhất hướng làm Viên đốn giải, đâu chỉ một phen sai lầm ư? Đủ ba bất thoái: Nếu trước dùng không thứ đệ nương vào thứ đệ nói, thì Thất tín gọi là Vị Bất thoái, Bát tín trở đi gọi là Hạnh bất thoái, Sơ trụ trở đi gọi là Niệm Bất thoái. Nay từ Sơ trụ đã đủ ba đức, gọi là tam Bất thoái cho nên nói là “đủ”. Bát-nhã là vị lìa hai cách chết, Giải thoát là hành các hạnh đầy đủ, Pháp thân gọi là niệm chứng thật cảnh. Kinh kia phẩm thứ bảy Hiền Thủ rộng nêu tướng ấy. Quyển đầu, Đế-thích hỏi Pháp Tuệ rằng: Sơ trụ thành tựu bao nhiêu pháp, bao nhiêu công đức tạng? Pháp Tuệ đáp: Việc này rất sâu khó tin khó biết khó nói khó giải khó thông khó phân biệt, nhưng thừa Phật lực thì có thể diễn thuyết đầy đủ. Vẫn trước so sánh lượng nói: Cúng dường đầy đủ các thứ cho chúng sinh mười phương A-tăng-kỳ trải qua ngàn kiếp lại khiến chứng Bíchchi-phật, trăm ngàn ức phần không bằng một phần kia. Lại nói muốn biết mười phương thế giới một tức nhiều, nhiều tức một, một niệm tức vô lượng niệm… Đối với trong kinh Pháp Hoa, bố thí bốn trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới lục thú tứ sinh, cho đến khiến họ đắc Vô học, cũng không bằng người sơ tùy hỷ. Kinh kia vẫn dễ, vì đó là Thánh vị cho nên nói “mười phương…”. Đối với Kinh này, thì người thứ năm mươi nhất niệm công đức mới hiển Viên vị bất khả tư nghì, kinh đây là khó. Vì đều là Viên từ đầu đến cuối không hai, cũng đâu có kia đây. “Còn chẳng phải Sơ trụ”, tức là các Bồ-tát đây đều là Nhất sinh Bổ xứ, còn là cổ Phật huống chi Sơ trụ. Từ tân dịch đến nay, chỉ dùng vị Du-già Duy Thức, che lấp thuyết Viên thường của Hoa Nghiêm, ai biết Duy thức…? Văn chỉ nêu Biệt vị, đời sau ai khẳng định thấy đây đồng khác.

Lại nữa, có người hoàn toàn hủy tông Quyền Duy Thức luận, đây thì hoàn toàn mê nơi đường phương tiện. Không biết Tích, tích thì ở đầu các kinh, cho đến đầu kinh Pháp Hoa. Kiểm nghiẹm thì biết có thể là người ở địa vị nông cạn ư? Đã mất Bản lý, mê mờ ở tích, huống chi từ bộ phận phê phán sự vi diệu của bậc đứng đầu được người tôn quí. Các Sư đã không hiểu năm thời, đâu biết Bồ-tát bản tích. Cho nên, nói “sở thán đã lầm…”, dùng Tạng tán thán Thông cũng đã thành lỗi, dùng Thiên tán Viên thì lỗi chẳng gì lớn bằng, lại thành tăng giảm hai biên cùng hủy báng, chỉ đây một phen lầm nghĩa dẫn đến hai lỗi. Kinh không có tam giáo thì khổ muốn tăng, dìm Viên xuống thành Thiên thì là giảm, sao lại lầm như thế? “Tam quán tức tam bất thoái”: quán Không tức Vị bất thoái, quán Giả tức Hạnh bất thoái, quán Trung tức Niệm bất thoái. “Nhất tâm”: lại căn cứ diệu tam, nhất quán đều đầy đủ. Trong câu “tức nhất tâm tam bất thoái, vân vân”, thì “vân vân” là thuận theo giải thích tướng theo thứ lớp và không thứ lớp, và do nhất niệm phải căn cứ Lục tức. “Cực hữu mi nhãn”: vội vã mà đoạt tuy có mi nhãn nhưng đại thể hoàn toàn không có. Từ “Xem xét luận” trở xuống, là đoạt. “Không có thú hướng”: Những hiện đức này giáo nào không có, tuy nói pháp báo nhưng không chọn lựa Viên Biệt, hoặc như phân Viên Biệt là đầu hay cuối, cho đến các câu là dọc hay ngang, cho nên tổng phá nói “không có tông thể”. Nếu có tông thể thì vì người chứng vị y kinh lập vị. Sở y của vị, gọi là vị bản, bản tức là thể, vị tức là tông, huống chi kinh này đặc biệt xuất sinh trên các giáo các vị. “Căn cứ giáo tán thán đức”, ý thì có thể biết. Cho nên bắt đầu từ Bất thoái đến cuối Độ sinh, thì trước định thể tông rồi mới có thể tán thán đức.

Hỏi: Kinh này vì sao theo chiều dọc tán thán vị Thập địa của Biệt giáo ư?

Đáp: 1. Ký gửi bản. 2. Chứng đồng. 3. Thuận luận. “Thế nào là Thất địa…” Người xưa phê phán nói: Thất địa e rằng khởi tâm Nhị thừa, đây tợ Thông vị, vì vậy cho nên vấn nạn kia không thành nghĩa theo Biệt giáo. Vấn nạn Viên cũng vậy. Nếu nói Thất địa mới nhập vô công dụng đạo, thì đây là Biệt giáo giáo đạo để rõ nghĩa, cho nên không thành Viên.

Nói “Tiến thoái…” là bài xích tiến không thành Viên, thoái chẳng phải Thông Biệt. Nay văn tán thán ngang dọc. Trong phần dọc tán thán: “tùy tình ý”, bản tại Viên. Trước chánh giải thích, tiếp đến chọn lọc.

Song trong phần dọc trước, thì văn đầu tiên mượn danh ly nhị, phải khác với nhị ở kinh Anh Lạc vì là phương tiện. Trở lại y nhất niệm đầy đủ tam bất thoái, để làm Sơ địa. Viên lìa tam cấu viên phát tam trí, viên minh viên chuyển nhất niệm cúng dường, viên gieo trồng đức bản vì Phật viên tán thán. Đầy đủ viên tam từ bất nhị Phật tuệ… căn cứ đây có thể biết. Nếu không khai Đẳng giác thì bốn câu đồng tán thán Thập địa. Nay theo khai thuyết, cho nên ba câu sau tán thán Đẳng giác. Văn nói hai câu: là câu thứ mười một và câu thứ mười hai là nội ngoại đức của Thập địa đó thôi. Chỉ không từ Sơ địa tức đủ, cho nên tợ Biệt. Tiếp, trong phần ngang tán thán : câu đầu cũng nói vượt qua nhị biên, dọc còn đều Viên, huống chi đây ngang tán thán lìa nhị biên ư! Chỉ căn cứ phi dọc mà dọc như trước nói. Vượt qua nhị biên: Thô hoặc trước bỏ, lại từ thù thắng mà nói, từ Trung mà đặt tên. Các câu dưới căn cứ đây có thể biết.

“Chữ A…”: đây Sư dùng theo…, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Đến phần Vấn đáp: trong câu hỏi đầu tiên, câu đầu lập tông, “Tam tạng…” ví dù cho, “Thanh văn…” lập ước lệ, “Tích là…” lập nạn vấn. Lập tông ý: là đoạn hoặc. Địa Trụ trở lên đều căn cứ vị đoạn theo Viên giáo mà tán thán đức, Tam tạng Bồ-tát từ đầu đến cuối không đoạn, sao không tán thán kia? Ở trong đoạn hoặc còn tán thán Nhị thừa, tích làm Thông Biệt đoạn hoặc Bồ-tát thì đâu được không tán thán? Mà ngang dọc hai phần tán thán đều chỉ tán thán Viên? Đáp ý: Nghĩa thông Bản tích, ý chỉ ở Viên. Văn dọc tợ như tán thán Biệt, mà dựa vào bộ thì chỉ tán thán Viên, mượn tích hiểu văn kinh, ý theo Bản. Cho nên chuẩn tán thán Thanh văn từ tích, cũng nên Bồ-tát bốn giáo đều tán thán, chỉ muốn biết ý chỉ của Viên cho nên quên Tích để còn Bản và bỏ đầu để chọn cuối. Tiếp, hỏi có thể thấy? Trong phần đáp, chia làm ba: Một: chánh đáp. Hai: “Xưa nói…” là dẫn Biệt vị làm ước lệ, địa vị Bát địa đã chưa cùng cực. Xưa giải thích còn đủ đức không nghi, đâu ngăn ngại các vị của người Viên giáo, mỗi vị đều đủ các đức. Ba : “Pháp Hoa luận…” là dẫn chứng. Luận nói: đức của Bồ-tát kia có mười ba câu, hai văn nhiếp lấy, nên biết: 1. Thượng chi hạ chi môn. 2. Nhiếp thủ sự môn. Thượng chi hạ chi, nghĩa là tổng tướng biệt tướng, nên biết từ đầu tiên đến Bất thoái chuyển là tổng, còn lại là biệt. Luận kia nói: Bất thoái có mười loại thị hiện, đầy đủ như nay dẫn, chỉ trừ câu đầu tổng còn có mười hai câu, chính là dùng hai câu: cúng dường và gieo trồng đức hợp làm loại thị hiện thứ tư. Danh xưng và độ sinh, hai câu hợp làm loại thị hiện thứ mười, cho nên chỉ thành mười loại thị hiện, đều dùng Bất thoái đặt tên. Cho nên biết Viên giải thích câu câu thông suốt lẫn nhau, mỗi một loại thị hiện đều có đủ mười loại thị hiện, đầy đủ tất cả các câu, đâu chỉ mười loại thị hiện, mười hai câu ư! Đây đồng với ý của bốn mươi hai tự môn.

Lại nữa Kinh nói: “Dùng Từ tu thân” trong câu đó luận nói đầy đủ tu hai nghiệp thân tâm. Kinh văn sở dĩ lược tu tâm bởi vì Từ tức là tâm, tâm huân nơi thân cho nên không nói riêng. Cho đến nương vào

“ngã không, pháp không” bất thoái, cho nên biết Địa, Trụ đều chứng Nhị không. Sở dĩ trong giải thích theo chiều dọc, văn tuy đối biệt mà ý chẳng biệt là vì : 1. Do có thứ tự văn dọc giải thích là căn cứ dọc mà luận ngang. 2. Y luận nghĩa của mỗi một câu, ý dùng đối các Địa. Như Sơ địa nói không rơi vào nhị biên, tam quán đầy đủ tự lợi lợi tha, có không, song chiếu, hoặc phước hoặc trí không lìa nhất tâm; nội nhân ngoại duyên đâu từng không đủ? Sơ địa đã vậy, các địa sau hẳn đều như vậy. Tức trong Địa này ngang dọc đầy đủ, vì đối Quyền thứ lớp nên mượn tên “Địa”, vì hiển bày Viên kia nên phải ngang giải thích. Cho nên trong luận, “Nhiếp thủ sự môn” tức đương dọc giải thích. Vì vậy văn đây dùng đủ cả hai môn trong luận để giải thích, chỉ trong văn đây căn cứ luận. Trong câu “hà đẳng cảnh giới hà đẳng ưng tác sở tác cố” thì dư thừa hai chữ “hà đẳng” đứng trước ưng tác. Luận chỉ nói: “hà đẳng cảnh giới trung ưng tác sở tác cố” dịch tiếng Việt nghĩa là: “Trong những cảnh giới như thế, những điều nên làm thì đã làm”. Luận tự giải thích rằng: “Địa thanh tịnh”: là Bát địa đến Thập địa, ba địa này vô tướng hành tịch tĩnh thanh tịnh. Nay ý văn dùng ba lần “Hà đẳng” (dịch tiếng Việt nghĩa là “Như thế”) mỗi mỗi đều thuộc “các địa”. “Thanh tịnh” tức đoạn được lậu hoặc thuộc các địa. “Phương tiện” tức tiến thú thuộc các địa. “Cảnh giới” tức sở y thuộc các địa. “Nên làm v.v…” tức công dụng các địa. Luận nói: “Phương tiện” có bốn loại: 1. Phương tiện nhiếp thủ Diệu pháp, nhậm trì diệu pháp dùng sức nhạo thuyết vì người mà nói, tức bốn câu đầu, tùy nghĩa mà tư duy. 2. Phương tiện nhiếp thủ thiện tri thức: Do nương vào thiện tri thức mà làm việc nên làm, tức câu thứ năm, sáu, bảy, tám tùy câu mà tư duy. 3. Phương tiện nhiếp thủ chúng sinh: Do không bỏ chúng sinh tức một câu thứ chín. 4. Phương tiện nhiếp thủ trí: Do giáo hóa chúng sinh khiến nhập trí kia, tức bốn câu sau, vì các câu đều đối.

Lại nói về “Hà đẳng”: “Hà đẳng” (Như thế) là từ ngữ dùng để biện biệt, nay cũng thông lẫn nhau, mỗi mỗi phương tiện thông căn cứ Thập địa, thuận các kinh luận và trong kinh Anh Lạc. Sơ địa trở 00 lên nhập dòng pháp chảy, niệm niệm hướng đến nên nhập chứng đạo. Trong luận lại có nhiếp thủ sự, thị hiện các cảnh địa… đối kinh chẳng quan trọng, nên không thuật lại. Nói “Bát địa”: Tuy không đồng với kinh Anh Lạc, nhưng các kinh chẳng phải không có, lại là trong Biệt thì giáo đạo khác nghĩa, bỏ hay chọn đều được. Nay lại y kinh Anh Lạc, đối luận đã chẳng trái với Đại, lại y cứ vào nhất gia mà nhận dùng. Nói “Cảnh giới như thế?”: là nơi lợi vật.

Tiếp, trong phần “Giải thích Thán đức theo Quán tâm”: Trong đây văn trước trình bày cổ phá cựu, nghĩa đương là Nhân duyên, nay văn hai cách giải thích nghĩa đương là theo Giáo, theo Quán tâm, tuy thiếu theo Bản tích, nhưng đức tùy nơi người, cho nên không nêu lại. Tam quán không khác, tùy sự gọi là khác. Nếu vậy thì cũng là các câu triển chuyển xen lẫn đầy đủ. Do đắc Bất thoái nhất tâm tam quán, mới đắc cho đến Độ sinh nhất tâm tam quán, cho đến do Đắc độ sinh nhất tâm tam quán, cho nên mới đắc cho đến Bất thoái chuyển nhất tâm tam quán, các câu trung gian thì chuẩn theo đây có thể biết. Nên biết trăm câu chỉ là một câu, cho nên Sơ trụ trở đi thì vị vị viên dung, câu biệt nghĩa đồng không cần giải thích quanh co. Trong Tiểu thừa, Phật vì Thân-tử khai đầu mối một câu nghĩa, mà Thân-tử còn nói vô cùng tận, huống chi đây là đức của Viên giáo Bồ-tát mà muốn phân chia rộng khiến làm khuôn định ư! Huống lại quán môn tức là đức kia, quán thông đức diệu đâu đáng nghi ư! Cho nên, cần phải căn cứ các câu để nói một cách tự tại.

Có người hỏi: Vì sao trong đây nói Văn-thù ở đầu?

Đáp: Trong phẩm Tựa, Văn-thù đã có thể giải quyết chỗ nghi của Di-lặc, chính là người phát khởi của một kinh nên nêu ở đầu, huống chi hai vạn Phật đều làm cho chúng bắt đầu nghi. Vì vậy liệt kê Văn-thù ở đầu tám vạn đại Bồ-tát.

“Pháp môn…”: Y cứ vào danh nghĩa này, theo lệ lẽ ra làm bốn giải thích, mà nay thiếu, tức là một. Theo lệ thường có thể biết. Lại, Bồ-tát sự tích thì hoặc ẩn hoặc hiển, hoặc chân hoặc tục, hoặc chủ hoặc bạn, không đồng Thanh văn sự tích hiển rõ. Tuy chẳng hiển rõ mà ắt đầy đủ các giáo, nhưng nay khai hiển nghĩa ắt ở Viên. Huống lại như trước căn cứ các Thanh văn tổng biệt rộng giải thích. Nhân đã đủ biết Bản tích của Bồ-tát, bản tích đã vậy nhân duyên giáo quán chuẩn theo loại có thể biết, cho nên không dựa theo thuật nói Bồ-tát tổng biệt. Nay đầu tiên, “Giải thích Văn-thù “dẫn năm văn: Ba văn đầu biện rõ danh, kinh

Tư Ích nêu thuyết làm rõ hạnh: Bi Hoa luận nguyện lợi vật. Đầu tiên Đại kinh là từ đức lập danh, tức dùng Kiến tánh lập danh “Diệu đức”. Đây căn cứ quyển mười bảy, phát nguyện văn sau khi A-xà vương hối lỗi. Tiếp hai kinh chỉ nêu Phạn âm không đồng. Kinh Tư Ích nêu rõ như thuyết mà quán, quán nghĩa là không khởi tưởng pháp phi pháp, quán tức hạnh, tức ngôn hạnh tương xứng mà được gọi là “Diệu”. Bi Hoa nhân dùng cõi diệu, ích vật sự rộng, sở hóa địa vị cao. Nguyện hạnh cao rộng, hết thảy đều diệu, gọi là “Diệu đức”. Bồ-tát lợi sinh thì tích do đâu mà quyết định? Đối trong văn này, theo nghĩa cũng có thể lập tứ Tất-đàn để giải thích, tức dùng “Diệu đức”, hoặc danh hoặc thể đều là tứ Tất. Chấp cõi tức Thế giới, thuyết pháp tức Vị nhân, lập hạnh tức Đối trị, Phật thọ ký… tức Đệ nhất nghĩa. Đây là người Viên giáo lại phải căn cứ giáo. Từ “Phương Bắc…” trở xuống tức giải thích theo Bản tích. Lại, như Kinh Lăng-nghiêm nói: Quá khứ vô lượng A-tăng-tỳ kiếp có Đức

Phật hiệu là Long Chủng Thượng Tôn Vương, cũng là Văn-thù.

Trong phần “Giải thích Bồ-tát Quán Thế Âm”, tác tứ Tất-đàn: Danh tức Thế giới, Tư Ích tức Vị nhân, xưng danh tức Đối trị, Bảo Tạng Phật… tức Đệ nhất nghĩa. Lại, “kinh Tư ích nói: Kiến… thì đắc Bồ-đề”, cũng là Đệ nhất nghĩa. Văn dưới chỉ phẩm Phổ Môn.

Trong câu “Văn dưới đây là tự thích danh vân vân”, thì “vân vân” là: thiếu căn cứ giáo và dùng Bản tích giáo tức là người Viên giáo vốn là Cổ Phật. Trong phần “Giải thích theo Quán tâm”, giải thích hai chữ đầu, cùng dưới không sai khác chỉ chữ thứ ba cùng dưới có chút sai khác. Dưới căn cứ sự mà giải thích, dùng “sở bị” (nghe) làm “âm”. Đây căn cứ năng quán, dùng “sở tuyên” làm “âm”. Do quán nên thiết lập giáo, cho nên nói : quán là Bản của ngữ.

Tiếp, “Giải thích Đại Thế Chí” : kinh Tư Ích căn cứ hạnh, kinh Bi Hoa căn cứ nguyện, Tư Ích căn cứ oai thế giải thích “Thế”,chánh đương nghĩa chữ. “Thủ đại thiên”: Dùng “thế giới” để giải thích “Thế”, thế lực chiếm lấy thế giới không trái với “Chí” kia. Do có chí lớn, nên được Phật thọ ký. Chí chiếm lấy thế giới, nên cũng gọi là “Thế Chí”. Nếu tác tứ Tất-đàn: Tư Ích là Thế giới, Bi Hoa là Vị nhân Đối trị, Bảo Tạng Phật… là Đệ nhất nghĩa. Cũng thiếu phần giải thích theo Giáo theo Bản, theo lệ trước mà nghĩ sau thì có thể biết. Văn thiếu Thường Tinh Tấn, như trong Kinh Đại Bảo Tích nói: “Bồ-tát vì một chúng sinh trải qua vô lượng kiếp đi theo không bỏ cũng không thọ hóa không có một niệm xả bỏ, vì thân tâm đều tinh tấn”. Nghĩa thông tứ Tất-đàn, giải thích theo Giáo, Bản tích, Quán tâm, đều căn cứ theo lệ trước thì có thể biết.

“Bất Hưu Tức”: Cùng Thường Tinh Tấn nghĩa ý lược đồng. Muốn biện biệt, thì vô gián thú nhập gọi là “Tinh Tấn”, thời gian dài không phế bỏ gọi là “Bất Hưu Tức”, vì vậy nên giải thích theo Quán tâm thì gọi là “Bất trụ”, cho nên giải thích Bất Hưu Tức cũng căn cứ thời gian dài, chỉ có Thọ ký và Lợi sinh thì không đồng. Giáo tích căn cứ theo lệ có thể biết.

“Giải thích Bảo Chưởng”: Trước giải thích “Chưởng”, tiếp “khiến giải thích…” là giải thích “Bảo”. Chưởng là phần của thân, đã mặc áo giáp lên phần thân kiên cố, do tay kia nắm chắc phần pháp thân còn xuất ra vô thượng báu xuất thế, huống chi báu thế gian, cho nên hai báu này ắt đầy đủ tứ Tất-đàn. Trong đó nói “không chí hướng nhị thừa” là chọn nhiều pháp bảo. “Thông tuệ tâm”: Từ thật khởi thông, thông một tuệ tánh cho nên nói “thông tuệ”. Căn cứ giáo Bản tích…

“Giải thích Dược Vương”: Duyên thứ ba từ nghĩa của Y vương ở sau, hẳn phải là “Dược” (thuốc). Hai duyên trước mặc dù riêng biệt mà tức là sau khi Phật diệt độ đều lập hạnh sinh thiện. “Hỏa Tịnh”: Từ thiêu thân mà đặt tên. Trong văn lại dùng thế trị để tiêu biểu xuất thế trị…

Thiếu bảy Bồ-tát chưa giải thích qua.

“Giải thích Bạt-đà-bà-la”: Câu đầu là Thế giới Tất-đàn, tiếp “Tư Ích…” là Đệ nhất nghĩa, tên Bồ-tát này ở trong kinh Bát Chu, cũng gọi là Hiền Hộ, Thiện tức Hiền. Thiện xảo muốn hộ khiến kia không thoái lui. “ Giải thích Di-lặc”: Câu đầu là Thế giới, “Tư Ích…” là Vị nhân, “Hiền Ngu…” là Đối trị, “Bi Hoa….” là Đệ nhất nghĩa. “Lại nói” trở đi là nên hợp ở trong nhân duyên. “Hiền Ngu…”: Kinh kia quyển chín đức Phật ở Ca-lan-đà, A-nan bỗng nhiên tư duy: “Di-lặc Thế Tôn thuở trước tại sao phát tâm từ bi này?”, được gọi là diệu ích, từ thiền định khởi mà bạch Phật! Phật dạy: Quá khứ lâu xa ở cõi Diêm-phù này có một đại vương tên Ma-ha Ba-la-bà, làm chủ năm trăm nước nhỏ, một hôm cùng quần thần đi săn, voi nhà vua cởi, dục tâm xí thành, nhân thấy người quản tượng điều khiển voi, mà liền phát tâm nay làm Bổ xứ. Lại kinh cũng có nói duyên cứu giúp thỏ què qua sông, mà lập danh xưng “Từ”, vì bản nguyện lực huân tập thấy khổ thì sinh “Từ”. Trước trong kinh Bi Hoa chính dùng nghĩa “cứu khổ” mà giải thích “ban vui”, cho nên Viên cứu khổ ban vui, cho mà không có cái thể Biệt vân vân. “Vân vân” là căn cứ Giáo, Bản tích Quán tâm, cho đến Tích môn phát khởi chúng đẳng…

“Giải thích Bồ-tát Đạo Sư”: văn xả tứ Tất-đàn: Đạo Sư là xả, người nước Bà-đề, là bạch y cư sĩ. “Khiến nhập chánh đạo” là giải thích chữ “Đạo”, “không cầu ân báo” là giải thích đức “Sư”. Do không để lòng vào việc gì nên mới ứng địa vị Sư. Đầy đủ danh bên ngoài, chỉ liệt kê số tức là nhân duyên, quán… đầy đủ như ý trước. Chỉ vì tên các vị Bồ-tát không thể nêu hết cho nên chỉ nêu số lớn. Tóm lại, chỉ do nước người phần nhiều là tri thức nên trước liệt nêu, chứng tín vì dễ. Trong một đời giáo hóa, các đại Bồ-tát thâu hoạch ghi nhớ duyên đời trước, phần nhiều được nêu trong kinh Bi Hoa quyển hai. Kinh nói: Có Bồ-tát tên là Tịch Ý bạch Phật rằng: Chư Phật đều có tịnh độ, Như Lai vì sao chọn cõi uế này? Phật dạy: Vì bản nguyện nên chọn, Ta trong quá khứ hằng hà sa A-tăng-kỳ kiếp ở thế giới tên San Đề Phong, kiếp tên Thiện, Luân vương tên Vô Tránh Niệm làm chủ bốn thiên hạ, vua có ngàn người con. Trong nước có một vị đại thần tên là Bảo Hải Phạm chí, chỉ có một người con, có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thường có chư thiên đến cúng dường, cả nước nhân đó đặt tên là Bảo Tạng, cho nên xuất gia thành đạo cũng tên là Bảo Tạng, thuyết pháp độ người số kia vô lượng. Ngàn người con của vua mỗi vị đều cúng dường trải qua ba tháng. Quá ba tháng rồi, muốn thọ ký cho thí chủ, trước nhập Tammuội hiện mười phương cõi Phật nhóm tập các Bồ-tát, trước hết thọ ký cho Bảo Hải, chúng sinh trong mười phương thế giới được Bảo Hải giáo hóa đồng thời đều thành Phật, tiếp thọ ký cho ngàn người con của Luân vương, thọ ký cho người con thứ nhất nói: Ông xem xét chúng sinh trong lục đạo khởi tâm đại bi đoạn các phiền não khiến trụ an lạc, nay sẽ đặt cho ông hiệu là Quan Thế Âm, sau khi đức Phật A-di-đà nhập diệt trải qua hai A-tăng-kỳ kiếp, ở phần đầu đêm à thời chánh pháp diệt, ở phần sau đêm thì cõi kia chuyển gọi là Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu, cõi ấy có sự trang nghiêm thù thắng an lạc, chỉ trong một niệm ông liền thành chánh giác hiệu Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương thọ chín mươi sáu ức na-do-tha trăm ngàn vạn ức kiếp. Thái tử thứ hai tên Đại Thế Chí (như sớ…). Vị thứ ba tên Văn-thù…, thứ tưu tên Phổ Hiền ở Đông phương mười hằng sa thế giới vi trần thế giới tên là Bất Thuấn, cho đến vị thứ chín tên là A-súc. Như vậy thứ lớp thọ ký cho một ngàn thái tử. Trong đó có nguyện chọn vào đời ngũ trược thì thành Phật, do đại bi nên cõi kia tên Ta-bà. Vì sao vậy? Vì các chúng sinh cõi ấy kham nhẫn chịu ba độc và các phiền não, năng nhẫn nơi cõi ác này nên gọi là Nhẫn độ, trong ngàn người đó chỉ trừ một người, số còn lại đều ở hiền kiếp mà được thành Phật.

 

(Phần Hạ)

Tiếp, liệt kê “Tạp chúng”: Xưa nói: Phàm các chúng như Bát, Long phần nhiều là Bát địa Bồ-tát cho đến trong Hoa Nghiêm đều đắc bất tư nghì giải thoát. “Trong đó có đạo”: như vua A-xà-thế dẫn theo đâu riêng chỉ thế tục. Ngũ đạo: Không có địa ngục, tức thừa giới đều (chậm) hoãn. Nhị giới: Không có Vô sắc, tức giới gấp thừa chậm. Tám phen: Dục thiên, Sắc thiên, Long, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, A-tu-la, Ca-lâu-la, nhân, đầy đủ như dưới nêu. Kinh Phương Đẳng liệt kê cả địa ngục: Đầy đủ như trong Thích Tiêm quyển thứ tư nói, tức giới chậm thừa gấp. “Trung ấm hoa vô sắc”: trong kinh Trung Ấm quyển thượng phẩm Phân Thân, Định Hóa Vương Bồ-tát bạch Phật rằng: Xin chóng nói nghĩa đây chúng sinh hiểu rõ nghe pháp dễ ngộ. Lại có người khó ngộ, hoặc có đối hoặc không đối, hoặc có thể thấy, không thể thấy, trước có đối có thể thấy, không thể thấy. Có thể thấy có đối, như trước. Không thể thấy có đối, như xú mao quỉ đến ngửi mùi hôi. Không thể thấy không đối, tức các quỉ thần. Hoặc ở hữu sắc hoặc ở vô sắc, hoặc ở phi hữu tưởng phi vô tưởng. Hữu sắc tức hai cõi Dục và Sắc. “Vô sắc” tức ba cõi Không xứ dưới. Tuy lại khó hóa nhưng Phật hoặc đến kia, hoặc nhiếp đến đây. Kinh này không có hoặc lược… cho nên nói không thể theo một ước lệ. Lại căn cứ theo thừa giới, luận đầy đủ nhỏ nhiệm như trong sớ Tịnh Danh nói. Xưa nói: “Người là chủ ở đất”, là chỉ chúng A-xà vương trong tám chúng, nay cũng không dùng, cho nên dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa để phá. Lẽ nào có quỉ thần… ắt phải khách bên ngoài ư? Nói “Chưa tường tận” là tuy theo kinh Vô Lượng Nghĩa nhưng người không hẳn ở sau, hoặc sợ có ý. “Quỉ thần lại xuất hiện” tức Khẩn-na-la, Càn-thát-bà, A-tu-la. “Căn cơ lẫn lộn”: cũng nên nói các căn cơ không đồng, Tích cùng Thể lẫn lộn, Thiên và Viên lẫn lộn v.v…

Đây là căn cứ Giáo mà giải Thích: Nhị thừa tức hai giáo Nhị thừa, Bồ-tát tức tam giáo Bồ tát, tam giáo đều có xuất giả trí. Phật đạo đã nói: Nhất nhiếp hết thảy, chỉ đắc Viên ấy. Nhị thừa, Bồ-tát đều là từ đầu. Phật đạo tức là từ ban đầu Viên, không từ tiệm mà đến. “Tam thập tam thiên và tam Quang tứ thiên vương”, luận Câu-xá nói:

“Chúng của Đại vương theo thứ lớp ở bốn cấp cho nên trú nơi bảy ngọn núi còn lại, trên đỉnh núi Diệu cao cao tám vạn do tuần có Tam thập tam thiên, ở bốn góc có bốn ngọn núi, Kim cang trú ở đầu, cung ở giữa gọi là Thiện Hiện, chu vi vạn do tuần bên ngoài bốn cung điện trang nghiêm các xe thô tạp thích ý. Nếu tác tứ Tất-đàn: thì trú xứ được gọi là Thế giới, năng thí là Vị nhân, tư duy nghĩa là Đối trị, thiên chủ là Đệ nhất nghĩa. “Căn cứ giáo”: A-hàm chứng Tam tạng, Bát-nhã chứng Thông. Kinh Hoa Nghiêm nói Đế-thích ở địa thứ hai, cho nên biết hai giáo đều nói “đắc Thủ-lăng-nghiêm định”. “Quá hiền kiếp…”, đầy đủ như trong kinh Bát-nhã. Trong câu “thành Phật, hiệu là Vô Trước Thế Tôn vân vân” thì “vân vân” tức là được thọ ký nghĩa đương tam giáo Bồ tát. Trong phần Giải thích theo Bản tích, nói “cùng uống cam lồ” là Đại Kinh quyển sáu, phẩm Tứ Y nói: “Như tam thập tam thiên có thuốc (dược) cam lộ bất tử, ví như Sơ trụ trở lên”, lý đồng.

“Danh Nguyệt v.v…”: Bản tích đều rút ra từ Chánh Pháp Hoa, Bản ắt có giáo. “Quán giải” ý: tam đế tức đệ nhất nghĩa thiên, đế tức là cảnh, cảnh sinh trí, “trí như con vân vân” thì “vân vân” là: Cảnh biệt, trí biệt sinh con không đồng. Ở bốn núi báu: chỉ núi Tu-di. Chánh Pháp Niệm nói: bốn cấp đều có thập trụ xứ, đầy đủ như Huyền Văn. “Rộng hai mươi bốn vạn dặm”: chưa biết chỗ xuất xứ. Nếu Câu-xá y giữa lưng chừng núi Diệu-cao mà trụ thì có bốn cấp. Tụng nói: Mười sáu triệu tám trăm bốn mươi hai ngàn lượng, hướng lên mỗi mỗi đều giảm phân nửa. “Đông Đề-đầu….”: Tên ở kinh Kim Quang Minh quyển hai, phẩm Tứ Thiên Vương: Bấy giờ Đề-đầu-lại-tra thiên vương, Tỳ-lưu-lặc-xoa thiên vương, Tì-lưu-bác-xoa thiên vương, Tì-sa-môn thiên vương bắt đầu từ phương Đông đến cuối là phương Bắc; Phẩm Quỉ Thần thứ ba liệt kê có hai mươi tám bộ. “Không khiến…” là Tích phòng tứ thọ, tứ thọ đã tiêu biểu tứ đức, dùng Tích tiêu biểu Bản, bản giữ gìn tứ đức song thọ. Tuy lại tứ khô tứ vinh, nhưng lý chẳng phải khô vinh, cũng không bỏ thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên giữ gìn bát thọ là giữ gìn tứ đức. Giữ gìn tứ đức có hai nghĩa: 1) Không cho phép thiên thủ, thiên thủ thì thành tà. 2) Không cho phép toàn thủ, toàn thủ thì thành chấp. Phải biết lý kia chẳng khô vinh. Nay nói “cành lá”: lấy trong một đức đều đầy đủ bốn đức, nếu thiên chấp một danh, thì không biết đầy đủ đức, gọi là “chấp cành lá…” cho nên trong giáo của ngoại đạo đều có danh kia. Vì vậy nên văn nói “cành gốc” dụ cho “thường…”, chính là hiển bày một đức đều đủ bốn đức.

“Hộ tám ái kiến”: Mỗi một đế đều có một ái kiến, bốn loại Tứ đế đều tùy giáo kia trừ ái kiến, cho nên bốn vua đều thống lãnh, không khiến não người như đều hộ kiến ái, không khiến chấp cảnh. Nếu theo sau nói “vương”, tức Vương Tam-muội. Giáo chủ của đương giáo, cũng có thể đều là vương, đều phá ái kiến. Trong câu “Tha hóa ngũ dục vân vân” thì “vân vân” là: nên nêu đủ thân lượng thọ mạng của Dục thiên. Luận Câu-xá nói: chiều cao của người ở Nam Thiểm-bộ châu là ba khủyu rưởi đến bốn khuỷu tay, người ở Đông Tây Bắc châu gấp bội tăng theo thứ lớp, ở Dục thiên là Câu-lô-xá bốn phần nhất nhất đều tăng, ở Sắc thiên là do tuần sơ tứ tăng mỗi phân nửa, trên đây nói tăng gấp bội, chỉ có ở cõi Vô-vân thiên giảm ba. Năm mươi năm của Nhân gian thì bằng một đêm ngày của các cỏi Trời dưới, nương đây thọ lượng năm trăm trở lên tăng gấp năm lần. Sắc giới không có ngày đêm sai khác, kiếp số… thân lượng. Vô sắc, ban đầu hai vạn, sau sau tăng gấp hai. Trời trên dưới Thiểu Quang đại toàn bán làm kiếp. Nếu luận cao thấp thì nơi mỗi một cõi trời như lượng trở xuống thì trở lên cũng vậy. Biệt dịch A-hàm quyển sáu, rộng nêu các Phạm đến… quyển tám và mười một rộng nêu chư thiên tán thán Phật, chư thiên nếu đến thì đều đồng hình người. Quyển bốn nói: Phạm vương đến lễ Phật. Đức Phật nhập hỏa quang Tam-muội, ông không thể thấy được, cho nên ông đi đến cửa Cù-gia-ly mà kêu. Cù-gia-ly hỏi: Ai gọi ? Đáp: Phạm vương. Lại hỏi: Đức Phật thọ ký ông đắc A-na-hàm ư! Đáp: Đúng vậy. Lại hỏi: A-nahàm gọi là Bất Lai, ông vì sao lại đến? Phạm vương nói: Người như vậy không nên cùng nói chuyện. Cho nên biết đều đồng nhân pháp, lại có việc trái lòng mà răn dạy Già-ly. Theo lệ có giáo môn… Đã vì một đời thỉnh chủ chuyển pháp luân, thỉnh đại thì đại, thỉnh tiểu thì tiểu.

“Bản Tích”: Bản trụ thanh tịnh diệu cảnh nhất thật, quán trừ hoặc uế đều được gọi là “tịnh”. Lại, trong văn giải thích chư thiên thì chỉ có Đế-thích là đầy đủ bốn giải thích. Tam Quang tứ vương Tự-tại v.v… Sắc thiên, dù có “theo nhân duyên” nhưng đều thiếu “căn cứ giáo”. Chư thiên thường theo Thế Tôn mọi nơi nghe pháp, cũng nên tùy các giáo vị để phân biệt sâu cạn và khai hiển… Như dẫn Thân-tử được thọ ký là để lưu truyền, chỉ việc hoằng giáo nêu một ít theo lệ mà thôi. Trong phần giải thích “Bát long” phần nhiều như vậy, chỉ “Khẩn-na-la” có giáo bởi vì nghĩa tiện thôi! Trong phần giải thích “Hòa-tu-kiết long vương” có câu “phân biệt vô lượng pháp môn vân vân”, thì “vân vân” là: từ “Nhiều đầu” nên lại dùng Giả quán làm đầu, tức là Nhất giả nhất thiết giả. Nếu thông thuyết thì: Nhất không nhất thiết không, Nhất trung nhất thiết trung, cũng là “Nhiều đầu”. “Kinh Trường A-hàm…” kinh kia nêu đầy đủ: ao xuất ra bốn sông như Sớ. “A” là không, “Nậu-đạt” là hoạn, “không có ba hoạn” kia. Bản trụ Pháp Hoa Tam-muội, thật đạo sở chứng hết thảy đều gọi là Pháp Hoa Tam-muội. Nay lại dùng hoa để giải thích hoa đó thôi!

“Tứ Khẩn-na-la”: Tạp Tâm nói: là thuộc loài súc sinh. Khẩn-nala một sừng, Càn-thát-bà không có sừng, thân tướng lược đồng. Nay nói “tấu tứ giáo”: Đã trải qua năm vị đều có Khẩn-na-la… Phải biết sở tấu cũng Thiên Viên Biệt, đến kinh này riêng hiển thật đế. Trong kinh Đại Thọ Khẩn-na-la nói: Đại Thọ Khẩn-na-la vương cùng vô lượng Khẩnna-la và vô lượng Càn-thát-bà vô lượng chư thiên, tấu lên tám vạn bốn ngàn thứ âm nhạc thanh tịnh vi diệu khi đến chỗ Phật. Huyền ca một khi khởi động thì âm thanh chấn động khắp đại thiên, Tu-di Sơn vương vọt ẩn cúi ngửa, tất cả Thanh văn đều từ tòa đứng dậy cũng như múa giỡn. Thiên-quan Bồ-tát hỏi Ca-diếp rằng: Thiểu dục tri túc Đầu-đà đệ nhất hôm nay thì ra lại là cũng như trẻ con? Ca-diếp đáp: Chẳng phải bản tâm. Cho nên biết kinh kia thuộc Phương Đẳng bộ, dùng Đại để bài xích Tiểu. Khẩn-na-la tấu nhạc Biệt giáo Viên giáo, cho nên khiến Thanh văn không thể tự an. Cho nên đến Pháp Hoa thì lý hợp thuần diệu.

“Mười núi báu”: Hoa Nghiêm nêu đủ, như trong Chỉ Quán quyển năm nói. Như trong Câu-xá trước nêu bảy núi và Diệu-cao là tám. Lại nói núi Tô-mê-lô ở giữa, tiếp là Du-kiền-đạt-la, ở ngoài Đại Châu… có núi Thiết-luân quanh, trước bảy lớp núi vàng thành Tô-mê-lô bốn báu và núi Tuyết hương hợp thành mười núi. Đã nói là chư thiên tấu nhạc trời, cũng là các cơ duyên không đồng. “Ca vịnh Thập lực”: Đã nói không khởi Diệt định tức Sở trụ trở lên, cho nên trong tích đàn sáo cũng nên ca bốn giáo, đều có thập lực. Nếu trong kinh Đại Thọ nói ở nam Hương sơn thỉnh Phật cúng dường, đức Phật nhân sự cúng dường rồi thọ ký cho kia làm Phật, hiệu là Công Đức Vương, lý ứng với pháp thân thọ ký. Nếu tại Sơ trụ thì tám tướng thọ ký cũng ở trong tích. Kinh này dẫn dắt chúng không sánh bằng số nhiều trong kinh Đại Thọ, bởi vì nghe thật kinh thì không dễ. Lại, kinh này nêu tám Long vương, Khẩn-na-la Càn-thát-bà đều có bốn, là có ý tiêu biểu. “Tám” nghĩ tám chánh, các giáo đều có tám chánh. Khẩn-na-la đã có bốn giáo, đại ý có thể biết, ngoài ra tục ưa dùng tục để nêu chân. Bốn Càn-thát-bà thì đối giáo tùy nghĩa giải thích nêu. Tràng nghĩa là duyên tràng tức các tre gỗ, đảo: là trịch đảo ném nghiêng ngửa. “Bốn vị A-tu-la”, cũng nói “Vô thiên” là không có thiên đức, Phật Địa luận nói thuộc về loài trời. Chánh Pháp Niệm nói là loài quỉ, súc sinh. Đại quyền thị hiện đến, duyên đâu có định. Theo các kinh A-hàm thì bốn vị Tu-la thứ lớp trụ dưới đáy biển đều cách nhau hai vạn do tuần. Nói “thuộc loài súc sinh, loài trời v.v…”, là đều căn cứ nguồn gốc tổ tiên. “Ngũ hệ trói buộc ma ngoại đạo”: đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói.

“Ngũ trụ”: Nơi khác giải thích đó chỉ là giới nội Kiến Tư, nếu vậy thì cùng Tứ trụ đâu có gì sai khác. Tha nói: Tam giới kiến là kiến nhất xứ trụ địa, Dục tư là dục ái, Sắc tư là sắc ái, Vô sắc tư là vô sắc ái. Tam giới vô minh là vô minh trụ địa, nhưng y trong năm tánh tông thì lấy kiến nghi vô minh… chủng tử làm vô minh trụ địa, nay ý không như vậy. Ngũ trụ làm tác nhân của hai loại sinh tử tức dùng tam giới Thông hoặc làm tứ trụ, lại thêm Biệt hoặc làm trụ thứ năm. Cho nên, trong Biệt hoặc tổng bao hàm nội ngoại vô tri và do vô minh trong chướng. Đối với Duy Thức… chỉ thêm chủng tử là sai khác. “Chánh Bản” là Chánh Pháp Hoa. “Thủy tinh nhập thân”: Hoặc là hữu tình hoặc là phi tình. Nếu là phi tình thì nghĩa đồng thấp sinh và kiêm cả thai tạng, như kinh A-hàm nói có người nữ hướng vào trong lửa, hơi ấm nhập thân liền có thai. Người cha nghi trách mắng con, cho đến vua biết việc ấy liền bắt tội. Người nữ ấy nói: Vì sao nhà vua vô đạo, bắt người vô tội? Xin vua hãy xét lại. Vua biết người này vô tội liền nạp làm phi, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. “Sắc tâm Bản tịnh”: đối Tích xấu xí, Bản trụ sắc tịnh cho nên Bát-nhã tịnh, Bát-nhã tịnh tức tâm tịnh. Đây nói “chướng trì” tức năng chướng trì. Thế gian nói thường trì, là không có bằng cứ.

“Nhật thực”: Nếu hoàn toàn không theo thế tục có chấp, thì như lịch số cũng có thể dự tính biết là thế nào. Do khí thế gian pháp như vậy, cùng với người âm dương lý hợp, cho nên trong thân người ngũ hành cùng thiên địa số hợp. Cho nên pháp thiếu đủ cần phải lịch số, há ngăn ngại chánh nghiệp ư? Nói “các thứ tà thuyết”: nhật nguyệt chiếu tứ thiên hạ, tứ thiên hạ cũng là âm dương không đồng, không thể đủ thiếu, thì khiến hết thảy vua… tận đều suy yếu ư! Nước hạn tai biến cũng lại như vậy. Cho nên, biết: tuy một phần cùng lý âm dương hợp và một phần phải y nghiệp lực chúng sinh, phàm cõi y báo đều thuận chánh báo, như cõi Hoa-tạng ắt thuận báo thân Phật và các Bồ-tát, y báo chánh báo tự tại, phương tiện cũng như vậy. “Sợ nhật nguyệt thời…”: Đại kinh quyển mười một nói: Khi La-hầu muốn ăn mặt trăng (nguyệt), Nguyệt thiên tử sợ hãi chạy nhanh đến mách Phật mà nói kệ rằng: “Phật Thế Tôn đại trí tinh tấn, con nay qui mạng cúi đầu lễ, La-hầu-la làm não loạn con, xin Phật thương xót đến cứu con”. Đức Phật vì La-hầu mà nói kệ rằng: “Nguyệt năng chiếu sáng và trong mát, ngọn đèn sáng lớn giữa hư không, sắc kia trắng trong muôn ánh sáng, ông chớ có nuốt, mau buông ra!”. Lúc ấy Bà-trĩ thấy La-hầu (mồ hôi chảy) nhả mặt trăng ra. Bà-trĩ nói kệ: “La-hầu người cớ sao run sợ, cũng như bệnh sợ tâm bất an”. La-hầu đáp: Ta nếu không nhả trăng (nguyệt), thì đầu bể làm bảy phần, cho dù được sống cũng không an ổn vì vậy nên ta nhả trăng ra. “Do xưa làm Bà-la-môn…”: như Câu-xá nói: Dục thiên Câu-lô-xá bốn phần mỗi mỗi tăng, đến đệ lục thiên chỉ một Câu-lô-xá rưởi. Đã nói thân dài tám vạn bốn ngàn do-tuần còn có thể được ở nơi Sắc thiên thứ nhất, do Sắc-cứu-cánh thiên thọ một vạn sáu ngàn kiếp, thân dài một vạn sáu ngàn du-thiện-na, ứng biến thì hóa thân có thể dài tám vạn bốn ngàn. “Ưa chiến đấu…”: Đây là bốn vị Tu-la cùng Đế-thích chiến đấu, thứ lớp bày trận đầy đủ như nay nêu. Trường A-hàm kinh số mười tám nói ở Nam Châu có núi Kim Cang trong đó có cung Tu-la, cai quản sáu ngàn do tuần. “Lan thuẩn hàng thọ (lan can hàng cây)…”: Như thế một ngày đêm ba thời chịu khổ, các khổ cụ tự đến nhập vào trong cung. “Thuộc tứ ác thú” đúng là có lý do. Biệt dịch A-hàm quyển ba, rộng nêu Tu-la cùng Đế-thích chiến đấu, cần phải kiểm xét lại. Nếu căn cứ giáo thì cũng có thể tùy danh lập nghĩa như sau: “Ngũ hệ”: Sơ giáo Bồ-tát đầy đủ ngũ trụ; Tiếp, “Quảng kiên”: Thông giáo tam thừa thông quán hơi rộng. Tiếp, “Tịnh tâm”: Biệt giáo Bồ-tát mới biết chân tịnh. Tiếp, nói “Chướng trì”: Viên giáo Bồ-tát chướng hoặc trì lý. “Bản quán vân vân”: là lược không tiện luận, cũng có thể nói: “Bản trụ Đệ nhất nghĩa thiên, Tích thì thị hiện vô thiên. Năng quán tức Không, cho nên không có tam giới nhân thiên. Tức Giả, cho nên không có Phương-tiệnđộ nghĩa thiên. Tức Trung, cho nên không có Thật-báo-độ nghĩa thiên. Nhất tâm tam quán thường trú tịch quang nhân thiên phi nhân thiên”.

“Bốn vị Ca-lầu-la vương”, nói “trú xứ có cung điện…”: Trường Ahàm kinh số mười tám nói: Phía Bắc đại hải có cây đại thọ tên là Cứala-thiểm-ma-la, chu vi bảy do tuần, cao một trăm do tuần, cành lá năm mươi do tuần, phía Đông cây có cung của rồng noãn sinh, lại có cung của kim sí điểu noãn sinh. Nam thai sinh, Tây thấp sinh, Bắc hóa sinh, mỗi phương đều có cung của rồng và điểu, đều có bảy lớp hàng cây, các chim đồng hòa kêu. Khi chim bắt rồng thì cánh quạt tát nước biển, chim noãn sinh thì cánh mở rộng hai trăm do tuần, thai sinh thì bốn trăm, thấp sinh thì tám trăm, hóa sinh thì một ngàn sáu trăm. Thai noãn thấp hóa

thứ lớp như vậy, ăn nuốt một, hai, ba, bốn loài rồng. Như vậy trú xứ ác đạo muốn sánh với thế giới Tây phương an lạc, cho nên biết phước dễ mà giới khó, giới dễ mà thừa khó, do không đến. Lại như A-hàm nói: Hương sơn có voi tên là Thiện Trụ thường trú nơi gốc cây, có sáu ngà trên ngà có ao… cùng voi của Phổ Hiền tướng mạo gần như đồng. Một cây một voi số kia tám ngàn. Thiện Trụ là vua, ngoài ra đều là quyến thuộc, hoặc cầm dù quạt bình múc nước, hoặc hát xướng kỹ nhạc, hoặc vì vua tẩy rửa… các loài, kia cũng như ác đạo. “Kim- cang-sơn”: Nam châu đây. “Sắp thiêu Bảo sơn”: lửa muốn đến thiêu đốt các Kim sơn. Nếu căn cứ giáo, thì: Sơ giáo, nói lũ chúng thù thắng, vì vượt qua các ngoại đạo. Tiếp, nói “Đại thân”: là bắt đầu Đại thừa, tiếp là Đại mãn, vì xuất giả túc. Như ý: Như lý mãn…

Tiếp, “Liệt kê chúng nhân”: “Vi-đề-hy”: Cũng gọi là Tự Thắng. Nói “Vị sinh oán”: Lúc ở trong mẹ đã thường có ác tâm với Bình-savương, chưa sinh đã ác nên nhân đó đặt tên. “Vô chỉ”: khi mới sinh đã có điềm xấu, nên vua cha sai đem lên lầu ném xuống mà vẫn không chết chỉ tổn hại một ngón tay “chỉ”, cho nên lấy đó đặt tên. “Tám pháp”: Hoặc là tám tà hoặc là tám gió hoặc là tám đảo. Kinh Phổ Siêu, phẩm Quyết Nghi thứ ba nói: Đức Phật nhân vì A-xà Vương phá chấp cố định về tội giết vua cha, rộng nói ba đời ba tâm không thể được, khiến trụ pháp giới, Xà vương nghe rồi thì đắc Nhẫn nhu thuận. “Khi thuyết Pháp Hoa”: Căn cứ đắc nhu thuận ở trước thời Pháp Hoa, tại thời Pháp Hoa thì làm chúng thanh tịnh, đến thời Niết-bàn thì thân sinh ghẻ lở mới phát tâm sám hối và đắc Sơ quả, cho nên biết đó là dẫn nghịch tội. Đây chính là hoàn toàn dùng Đại Quyền mà giải thích, cho nên dẫn Ca-diếp làm lệ. Nếu theo thực hành thì: Ở hội Pháp Hoa tuy nói thanh tịnh, nhưng chưa thấy thâu hoạch lợi ích. Căn cứ theo lý, nên nói chướng chưa trừ, cơ chưa động. Đến thời Niết-bàn thì chướng muốn trừ cơ đã động, cho nên nghe Phật thọ ký thì lãnh giải hoan hỷ. Tiếp nói kệ tán Phật, cho nên phẩm thứ mười bảy nói: “Phụ vương vô tội, rộng thêm nghịch tội”, cho đến “Tâm sinh hối nhiệt biến thân thể sinh ghẻ lở”. “Ở đời không có lương y trị thân tâm”, là không tin lục thần lục sư, tuân theo lời dạy của gia huynh Kỳ-bà, nghe Phật thuyết pháp, được thọ ký, phát nguyện. Phải biết hai nơi đều là tích, ở nơi bản địa có thuận nghịch gì.

Lại có Bà-la-môn tên là “Bất Hại”, do giết vô lượng các chúng sinh cho nên tên là Ương-quật, do gặp Phật mà phát tâm Bồ-đề. Lại ở Ba-la-nại có con của trưởng giả tên A-dật-đa giết cha hại mẹ giết Ala-hán thiêu đốt tăng phòng, sau muốn xuất gia, các Tỳ-kheo không độ liền tự phát Bồ-đề tâm đều là theo lệ. “Giải thích theo Quán tâm”: hại mẹ tham ái… như Chỉ Quán nêu dẫn kinh Lăng-già. Nói “hành nơi phi đạo…”: nghịch tức là thuận, phi đạo tức là đạo. Lại, đạo lấy thông đạt làm nghĩa, lý sở giác năng thông quán trí, từ nhân đến quả cho nên gọi là đạo, cho đến cửu giới tâm đều gọi là phi đạo, huống gì nghịch tâm ư?

Có người hỏi: Pháp Hoa nhất thừa cúi đầu dơ tay đều thành Phật đạo, đâu được Xà vương trọng tội không dứt? Đáp: Chỉ cần y hướng căn cơ động chướng trừ bốn câu… Phân biệt thời thuần thục trước sau, hóa duyên tùy cơ, không cần đây hỏi. Tiếp, hỏi: Có thể biết? Trong đáp tuy dẫn vô lượng nghĩa căn cứ theo lý lại nên dẫn Phân biệt công đức. Vì bốn thiên hạ cho đến đại thiên trần số đắc đạo, trong đó sao không có loại chúng nhân ư? Cho nên biết chỉ là lược. Một câu khai làm bốn câu đến như sớ Tịnh Danh, kia dùng bảy nghĩa giải thích bốn câu: 1. Nêu Thừa, Giới gặp Phật không đồng. 2. Tín pháp, hai hạnh không đồng. 3. Đại thừa Tiểu thừa sai biệt. 4. Căn tánh tiệm đốn. 5. Ứng Tích. . Quán tâm. 7. Hóa tha. Nghĩa đầu, nói Thừa Giới: Có Thừa thì gặp Phật, không Thừa thì không đến. “Tín pháp”: Tọa thiền nghe học giảng thuyết đều được gặp Phật chỉ tùy tu tập Đại, tiểu mà thôi!. “Tiệm đốn”: Đại thừa Tiểu thừa đều có tiệm đốn. “Ứng Tích”: Đã đắc hai mươi lăm Tammuội ứng với hai mươi lăm cõi. Dẫn thực hành: Đến chỗ Phật. Quán tâm: Chỉ tùy quán hạnh để phán định thấy Phật. Hóa tha: Thấy cùng không thấy đều căn cứ lợi tha. Đại quyền hiện tích lược như văn nay. “Nếu đạt ý này…” dùng bốn câu đây thì có thể nhận rõ tự tha thời xứ gặp Phật, đắc đạo rất nhanh. Các kinh theo lệ chúng nhiều ít có không, để nghiệm thân mình đương lai sinh xứ như dấu ấn không sai. Xét tâm tự trách nơi kinh Tựa, đâu không thẹn lòng nơi Chánh tông?

Tiếp, “giải thích Biệt tựa”. “Biệt tựa”: là đối với Thông tựa mà đặt tên. Lại, căn cứ đương giáo đối nhau mà nói. Phật và đệ tử, trước sau của kinh, hai văn có thể biết. Nếu theo di chúc tối hậu của Như Lai, thì thông tựa chỉ là thông, biệt tựa chỉ biệt. Nếu Như Lai xuất thế cho đến kinh này, đối xưa mà biện rõ thì Biệt tựa đây ý biệt mà bao gồm thông, thông trình bày xưa cho nên chỉ tại kinh này, Thông tựa văn thông mà ý biệt, biệt tại nay nên các kinh thông như vậy. Nếu thẳng căn cứ xưa mà luận thông biệt thì Thông tựa văn thông và nghĩa thông, vì bộ bao hàm các giáo; cũng có nghĩa thông mà ý biệt, vì biệt tại các vị. Biệt Tựa văn biệt và nghĩa biệt không liên quan đến các bộ khác. Như cầm bát hợp với dù, sự tại đương kinh cũng có nghĩa biệt mà ý thông, vì thông các giáo. Lại, cũng có thể Thông tựa, văn thông mà nghĩa biệt, vì tùy bộ đối giáo nhiều ít biệt. Biệt tựa, văn biệt mà nghĩa thông, vì thông trình bày giáo ở trong bộ có nhiều ít, vì muốn thông khắp thông biệt cho nên như vậy. Hai tựa đối nhau danh kia tự phân. Trong kinh này nói “thông trình bày xưa”: là thuyết pháp thì quan trọng là trình bày ý xuất sinh, phóng quang thì tiệm đốn đều chiếu, chỉ có hoa địa chuyên tiêu biểu kinh điển này thì mật ý chưa tuyên bày rõ. Nhập định, thì nghĩa bao gồm khai hợp. Chúng vui thì đẹp lòng, cảm động khác xưa, căn cứ xưa khác nay. Nghi niệm chính là hai duyên quá khứ và hiện tại, do dự chánh đáng. Đáp hỏi thì rộng trình bày ba đồng thông thâu một đời, ý kinh đã xa thì Tựa cũng khác thường. Vì vậy nên các kinh khác thì trực tiếp phát khởi như thế.

“Nhĩ thời”: là thời muốn hiện sáu điềm lành. Người xưa nói: “là thời chúng tập”, thì không lĩnh hội được ý của lời nói. Phàm nói “Nhĩ thời”, đều chỉ cuối việc trước, bắt đầu việc sau. Đây chỉ trước là hiện sáu điềm lành. Muốn nói kinh Vô Lượng Nghĩa, thời ban đầu chúng vây quanh. Nếu nói thời chúng tập, thì không thể nói khi chúng tập chúng vây quanh, như đầu phẩm Phương Tiện, tức là chỉ khi Văn-thù đáp vấn xong. Không thể nói là lúc Phật từ Tam-muội ra. Từ Tam-muội ra như nói : “sau lúc ấy, lúc ấy bèn v.v…”, đều là sau “Nhĩ thời”. Nếu tập chúng xong thì có thể nói “Lúc ấy bèn nói kinh Vô Lượng Nghĩa”. Cho nên, biết: Biệt luận tức là thời muốn nói kinh Vô Lượng Nghĩa. Thông luận thì có thể chỉ thời đức Phật chưa ra định. Ban đầu thì “bốn chúng vây quanh”, cho đến “mưa hoa, động đất”, cho nên nói “khi ấy trời mưa…”. Sở dĩ lập lại nói “lúc ấy trời mưa”, là vì biệt chỉ thời nhập định sau. Đây tuy việc nhỏ theo lệ kia thật nhiều, việc trở lại không thể khinh thường nên khiến khắp biết. “Phiên phúc”: là kết nghịch thuận nêu ở trước. Từ trước hướng theo sau gọi là thuận, ngược trở lại hướng trước gọi là nghịch. Nói “sinh khởi”: Từ trước hướng sau, thì trước sinh mà sau khởi, từ sau hướng trước, thì sau sinh mà trước khởi. Tức đáp sinh do nơi vấn khởi, cũng có thể nói đáp khởi do nơi sinh. Cho đến “tập chúng” cũng như vậy. Tuy chấp nhận sự thuận nghịch kia mà ý chê sự kia không có tôn chỉ, cho nên nói “chưa hiển bày”. Tôn chỉ kia như thế nào? Nghĩa là tiêu biểu “Tứ nhất”. Nhất kinh hiển bày không ngoài bốn, đây cũng dùng nghĩa Quang Trạch mà phá Quang Trạch. Nếu y Kinh gia này thì nên tiêu biểu Thập nhất. “Chỉ là một cách giải thích theo Nhân duyên…”

“Trực thị nhân duyên…”: là khiển trách để hiểu văn. Thuận nghịch chỉ đắc một ý Thế giới Tất đàn trong nhân duyên, ba thứ còn lại hoàn toàn không có, cho nên, nói “còn tự không rõ”. “Huống chi hai ba bốn”, tứ là ba cách giải thích theo Giáo, theo Bản tích và theo Quán tâm “Nay nêu rõ…” là trong tứ Tất-đàn chỉ đối Tứ nhất, tiêu biểu Tứ nhất đương đồng, cho nên biết Nhất, thì kinh gia từ đầu đến cuối đắc ý chỉ. “Nhân (người) nhất” là Thế giới Tất-đàn, vì nhiều người hòa hợp đến nay đồng. “Lý nhất” là Đệ nhất nghĩa, vì danh đây rất thuận sáu điềm lành, nhất nhất đều tiêu biểu Trung đạo “Hạnh nhất” là Vị nhân, tu hạnh đến nay là vì lợi lạc cho chúng sinh, gây nghi khởi niệm khiến các hạnh thành. “Giáo nhất” là Đối trị, do đáp vấn nên trừ nghi, giáo hưng khởi, vấn đáp tức là giáo trừ nghi. Đây lại một phen luận đại ý kia. “Tập chúng…” đều đầy đủ Tứ nhất, có nêu rõ điều này thì mới có thể sinh khởi, nghịch thuận có nguyên do. Nếu không như vậy, thì vì sao kinh Đại thừa không tập chúng, phóng quang, mưa hoa, động đất? Chỉ vì không sinh nghi Đại thừa, thỉnh đáp không hẳn là diệu đức, đáp vấn không dẫn ba thứ đồng. Nay tuy chưa chánh nói, chỉ nhân nghi thỉnh vấn đáp sau mới biết, mà trước khiến điềm lành mưa hoa động đất tức đã nói định khác thường, trước nói định chúng không đơn độc nhóm tập, tuy từng nghe kinh Vô Lượng Nghĩa nhưng đã định không tán, là biết hướng nghe chưa vội, cho nên biết sau mưa hoa động đất từ định ra mà nói thì không thể xem nhẹ. Có trước sau là vì căn cứ cái ở giữa, nên mưa hoa động đất cũng khác, do đó nghe pháp là tiêu biểu người (Nhân) nhất thừa. Người do hiện điềm lành tiêu biểu Lý nhất thừa, vì hiển lý đây sinh nghi vấn đáp, Giáo Hạnh đây tại Nhân Lý rõ ràng. Lại, do trong điềm lành nói khai kinh là tiêu biểu hợp giáo, nhập hợp định là tiêu biểu Hạnh Trung đạo, phóng hào quang từ giữa chặn mày là tiêu biểu Lý Trung đạo. Mưa hoa thích hợp là tiêu biểu Vị trung đạo. Động đất thích hợp là tiêu biểu trừ hoặc Trung đạo tổng thành Nhân nhất, đúng là có lý do. Cho nên, “Thiên” tiêu biểu Đệ nhất nghĩa thiên, “địa” tiêu biểu địa thật tướng. Tuy đều có biểu hiện điềm lành mà thời chúng chẳng thể lường được, cho nên dù nghe khai kinh mà vẫn còn chẳng biết là khai bản tiêu biểu hợp, huống chi lại có thể biết lý quyết định ư! Cho nên đợi Văn-thù dẫn việc xưa thì mới biết là hóa đạo không sai khác. Thế nên phải biết: sinh nghi là bản để lập hạnh, bởi vì nghi mà được giải quyết thì hạnh xứng hợp dẫn đồng giáo xưa, bèn biết Phật nay mới nói Giáo nhất và khiến thời hội thành Nhân (người) nhất thừa. Như vậy mới có thể là kinh này do Tiệm hiển bày thật đầu tiên mới xảy ra. Nếu không như vậy, thì uổng nói giải thích Tựa nêu ý Pháp Hoa mà cho đến cuối cùng tự mình cũng chưa rõ.

Như đây, cũng là giải thích theo nhân duyên.

Trong phần “Căn cứ giáo” nên nêu rõ thiết lập khai, phế, hợp, thì mới hiển bày những gì được tiêu biểu trong phần Tựa. Nói “Không phải Tam Tạng…”: tức lại căn cứ phế quyền cho nên đều nói “không phải”. Trước phế sau khai lý số như vậy, cho nên lịch giáo chọn ba còn chưa gọi là một. Nếu khai hiển rồi, thì đều là kinh vương. Lại, khai rồi thì chỉ là Viên, cho nên nói “không phải”. Cho nên, trước biện rõ năng khai mà không luận tạng… Năm vị bốn vị nghĩa cũng như vậy. Như đây giải thích vẫn thuộc Tích môn. Từ “Căn cứ Bản Tích” trở xuống: là tiêu biểu Bản môn, phải đến thọ lượng cũng có thể tiêu biểu trước, cho nên biết Tựa đây hiển thì tiêu biểu Tích bốn, mật thì tiêu biểu Bản bốn. Đã thành từ lâu không vượt qua bốn thứ này. Lâu và gần tuy khác, mà lý Tứ nhất thì bình đẳng… “Quán tâm có thể giải v.v…”: Do đều tiêu biểu một lý quán dễ nêu rõ, nhưng phải lược biết để chỉ bày nói như vậy. Nhất tâm tam đế là Lý nhất. Nhất tâm tam quán là Hạnh nhất. Tác quán như thế, là Nhân nhất. Năng thuyên quán cảnh là Giáo nhất. Lại, thường quán tam đức năng sở đều có bốn, là lý Pháp thân, giáo Bát-nhã, hạnh Giải thoát, hòa hợp ba pháp thạnh tạm gọi là Nhân, tức quán hạnh Như Lai.

Căn cứ lục tức vị, mỗi vị Tứ nhất. Trong mỗi một niệm, niệm niệm Tứ nhất. Nhất sắc nhất hương đều là Tứ nhất. Quán hạnh như đây là chân thật Pháp Hoa Tam-muội. Tâm cảnh xen lẫn phát khởi tức nhân duyên quán Tứ nhất. Chẳng đồng tam giáo, tức căn cứ giáo quán Tứ nhất. Từ lâu xa đã đắc, tức Bản địa quán Tứ nhất. Đây chỉ hướng đến phá bỏ kiến giải của ngài Quang Trạch, để lập Tứ nhất. Tổng giải thích năm chương đã xong.

Tiếp, “Chúng tập…” là chánh biệt giải thích. Trong phần đầu “giải thích oai nghi”: trước dẫn luận. Luận văn có bốn thành tựu: 1. Nhiễu quanh. 2. Trước sau. 3. Cúng dường. 4. Tôn trọng tán thán. Kinh văn thiếu “trước sau”, lẽ ra phải nói “nhiễu quanh trước sau”. Thiệp Công nói: “Tuy là luận văn mà không thuận kinh nghĩa”. Thiệp Công còn nghi người dịch, nhưng nay người dịch phần nhiều y luận văn, chỉ một, hai chỗ không hoàn toàn dụng. Luận dùng bốn giải thích ba, không cần đây bài xích như thế, như tư duy năm câu dùng tám câu giải thích, năm câu tán thán đức La-hán, thì dùng mười lăm câu giải thích. Như giải thích điều “khó giải khó nhập thêm khó ngộ…” cho nên thêm không có lỗi, từng tìm sớ kia ba quyển, hai quyển đến đáng sợ vì nhiều, cho nên đây ngưng. Trong bốn oai nghi thì giản lược ba oai nghi còn lại, muốn có sở văn khác với phi thời trụ, cho nên nói “như pháp”, cần gì phải đợi kinh này mới nói “như pháp”. Nếu thông luận, thì đương bộ đương cơ nhiễu quanh hay trụ, thảy đều “như pháp”. Trong phần chánh giải thích thì trước bài xích xưa chỉ nói bốn chúng: Tỳ-kheo v.v… Có chỗ nói bốn chúng là: Thiên long v.v… hoặc bốn chúng là: Phạm ma v.v… Người Đại tiểu, tuy xưa có liệt ra đây nhưng không phân biệt phàm Thánh, thuận nghịch, quyền thật, nói nín. Nay xưa vi tế biên chép chung riêng, kiêm riêng, thiết lập khai Bản tích đều không có chỉ qui. Nay liệt bày bốn là biến khắp các thứ bốn ấy, thâu nhiếp hướng mười cặp, phàm Thánh cho đến bản tích không lạm dụng. Lại Thiệp Công nói: “Tông Thiên Thai lập chúng ảnh hưởng v.v…, có nghĩa không có văn, chưa thể dựa vào tin”. Nếu nói “có nghĩa không có văn thì không dựa vào tin” như vậy, thì nếu “có văn không có nghĩa, thì có thể dựa vào” ư? Nay nói: “có văn có nghĩa” thì người tầm thường dùng, “không văn có nghĩa” thì người trí dùng, “có văn không nghĩa” thì người ngu dùng, “không văn không nghĩa” thì kẻ mê dùng. Cho nên kinh nói: “Y nghĩa không y lời”, tức ý đây. Cho nên, “ngoại, Tiểu thừa quyền, tích” đối với “nội, Đại thừa, thật, bản”, đều có danh không nghĩa. Đức Phật chê trách Ca-diếp: Ông xưa chỉ nghe danh Niết-bàn mà chưa nghe nghĩa kia. Pháp sư tự lập: Thanh văn Bồ-tát là hai Thánh chúng; long thần, người chủ là hai phàm chúng. Nay hỏi: Bốn chúng này lại có mặt trong bốn chúng của Thiên Thai không? Nếu kia không, thì liên quan gì đến Pháp Hoa? Còn chẳng phải người đương cơ được lợi ích, huống chi chúng phát khởi…, không có thì chưa phải. Nếu kia có, thì là “có văn có nghĩa”, sao gọi là không có văn? Cho nên, kinh này liệt kê chúng ắt đủ bốn chúng đây tức văn kia. Nghĩa ắt có bốn chúng phát khởi v.v…, tức nghĩa kia. “Có văn có nghĩa” rất đáng nương tựa. Cái mà Pháp sư lập thì không nghĩa có văn, mà lại còn trách đây, huống chi lại bốn nghĩa vẫn tại khắp các kinh. Tại đây nên nói: Phát khởi, Bản Tích, Căn cứ giáo, Nhân duyên. Bốn theo thứ tự này tức căn cơ tuy có thể phát ắt nhờ bậc đi trước dẫn dắt, dẫn dắt căn cơ đã phát tức ảnh hưởng giúp đỡ. Ba lợi ích hoàn toàn không có chúng kết duyên. Nếu nói không văn, thì Văn-thù Di-lặc lẽ nào chẳng phải phát khởi? Ba vòng thâu hoạch thọ ký, lẽ nào chẳng phải đương cơ! Trừ chúng phát khởi ra, các đại Bồ-tát lẽ nào chẳng phải ảnh hưởng! Trừ chúng đương cơ ra, như những người đứng dậy đi lẽ nào chẳng phải chúng kết duyên! Huống chi trong tạp chúng tuy không kích động cũng năng dẫn đạo, gọi chung là phát khởi. Tuy chẳng trấn nghiêm cũng năng phụ tá gọi chung là ảnh hưởng. Kinh Tịnh Danh nói: “Mà sinh trong năm đường để hiện tự mình, và dẫn bốn chúng”, nghĩa đã đủ.

Trong phần “giải thích chúng phát khởi” có pháp, dụ, hợp. Pháp:

trước nói rõ đức bên trong, “kích dương…” là dụng bên ngoài. Ứng vật thi thiết nên gọi là “quyền”. Thuận thích nghi chế lập, nên gọi là “mưu”, có quyền thì có mưu, nên gọi là “quyền mưu”. Thật trí bên trong dung thông, không mưu mà thích đáng, nên gọi là “trí giám”. Giám xét thiện xưa kia đáng sinh đáng thành, cho nên gọi là “biết căn cơ”. Phù hợp cơ hội không lẫn lộn, cho nên gọi “biết thời”. Nói “kích dương” là nghĩa đương phát khởi, dùng để giải thích danh, vì phát căn cơ khiến khởi, cho nên nói “phát khởi”. Đầu văn là giải thích “phát”, “thành biện rõ …” là giải thích “khởi”. Cũng có thể bốn chữ trước: “Kích dương phát động”, là chánh giải thích. Bốn chữ kế tiếp: “thành biện lợi ích”, là công năng. “Động” cũng là “khởi”. Lại phân tách rõ ràng: khiến khai nên gọi là “phát”; nhân kích dương, mở đầu mà động nên gọi là “khởi”, nghĩa bao gồm năng sở thông đến tự tha. Lại, “kích” đại bi bình đẳng, “phát” thời chúng nhất thiện “dương” (nêu cao) đại tuệ bất nhị, “động” theo ba nghiệp lợi ích. Lại, “kích” nhân đại hội xưa, “phát” lợi ích vi diệu của đương cơ, “dương” cao đại giáo của Như Lai, “động” cái cố chấp của thời chúng. Lại xin Phật đại bi nên gọi là “kích”, hỏi bày Thánh chỉ nên gọi là “dương”, khiến nghe điều chưa nghe nên gọi là “phát động”, khiến người nghe đắc quả nên gọi là thành tựu xong, theo ắt thâu hoạch ngộ nên gọi lợi ích. Tiếp, nêu Dụ: Đại quyền tượng vương ngồi dưới gốc cây pháp thân đến khi dậy đất chấn động, diễn xướng nhất thừa thật đầy đủ cơ duyên diệu hạnh. Tiếp, “Cái gọi là…” là trong Hợp nói phát khởi năm Tựa bao hàm lợi ích căn cơ chúng sinh, cho nên biết nhóm tập ắt không riêng chỉ đại quyền làm mệnh lệnh. Do nhóm tập nên hiện điềm lành. “Cho đến vấn đáp phát khởi vân vân”, thì “vân vân” là chỉ Chánh thuyết, ý Tựa đã rõ, chánh thuyết hiện bắt đầu. Cho nên, trong Tựa phát khởi vốn hy vọng Chánh tông, nghiệm biết Tựa này chưa thông nơi Bản. Tuy đứng đầu kinh Bản do biệt, mà hai chỗ phát khởi đều nơi A-dật-đa. Nhưng Tích sự thì chẳng xa, có thể nương Văn-thù. Bản lâu khó quyết đoán suy lường nên chỉ nương Phật.

“Giải thích chúng đương cơ”: cũng có Pháp, Thí, Hợp. Pháp: Do có phát khởi, đương cơ có thể thành. “Đương” là “đáng” (đọc khứ thanh), nghĩa là hợp, là thích đáng. “Túc”: là đã qua, xưa. “Thực” là chủng, nghĩa là gieo trồng. “đức” là các thiện. Là gốc của các thiện, nên nói “đức bản”. Do thiện có bản, nên được thành “cơ”. Đại quyền tác dụng lợi Thánh ích phàm. Như Lai có Tam đạt (tức Tam minh) cho nên nói xứng với chủng xưa. Lúc mới thành đạo thì hộ trì cho chúng ấy hết khổ.

Đến thời Phương Đẳng Bát-nhã, thì lo nghĩ cho cơ ấy sinh. Đến kinh này thì trước lược sau rộng. Ba chu dung nạp, dự định thâu nhiếp tất cả cho đến Bản môn thì địa vị đăng Vô cấu, không mảy may sai lầm, xứng hợp với nhân xưa đó, Trung ngã có thể phát khởi, nên gọi là “đương cơ”. Nay căn cứ giải thích chúng. Hai chữ “đương cơ” đều thuộc sở hóa mà phải cơ ứng hợp luận, lý hợp nghĩa kiêm năng sở. Nay lại từ sở dĩ ứng sở hóa. “Xưa gieo trồng…” là trước giải thích chữ “cơ”. “Duyên hợp…” là tiếp giải thích chữ “đương”. Tiếp trong dụ “như ung nhọt” là thí dụ có căn cơ. “Muốn (ung nhọt) vỡ ra”, là thí dụ có thể phát, vì Phật, đại Thánh và chúng phát khởi không mưu tính mà đè xuống. Phiền hoặc từng phần phá thì cơ duyên từng phần thuần thục, trí đức từng phần thành, pháp thân từng phần hiển. “Không khởi…” là hợp, không hợp căn cơ xưa, chỉ hợp hiện tại phát, hiện tại phát liền thành căn cơ hiện tại. Cho nên, không khởi từ nơi một tòa để xuất vô lượng tòa, mà tức thời nghe thâu tóm vô lượng để nói quy về một, đều đăng Sơ trụ, nên gọi là “đắc đạo”. Đây là căn cứ thể quyết định mà luận đương cơ. Thông thâu nhiếp, chính là nhiếp lục căn ngũ phẩm.

Tiếp, “giải thích chúng ảnh hưởng”: Hình tiếng của hóa chủ ắt trợ giúp bạn, do ảnh hưởng mới khiến phát khởi kích động sự theo, như vang theo tiếng bóng theo hình. Cũng có pháp, thí, hợp. Pháp: hai câu đầu nêu ảnh hưởng là Bản, tiếp “Ẩn…” nêu năng phụ (giúp) là tích. Sở phụ chỉ một, nên nói “Pháp vương”. Năng phụ: giúp chỉ bày nhân, chỉ tiệm, chỉ thủy, chỉ chung, oai nghi của chúng Thánh. Chỉ nhân, nên Cổ Phật ẩn sự tột cùng mà hiện tu hành. Chỉ tiệm, nên pháp thân tiềm ẩn Viên mà hiện Thiên, Tiểu, đây đều là phụ giúp đức Thích-ca Pháp vương, phụ giúp chánh vậy. Ích Pháp nói: Tâm ngay thẳng đại độ gọi là giúp, phụ là trợ giúp. Tâm ngay thẳng trợ giúp chủ biết cơ duyên chúng sinh hiện có, nhường công chánh hóa nên nói “ảnh hưởng”. Tiếp, dụ: Như dụng của sao cuối tháng độc chiếu, chỉ kiến lập công phụ mặt trăng, hiển đức sâu kín phụ giúp cho nên nói “tuy không hành tác mà có lợi ích rất lớn”.

Trong Đại luận, hỏi: “Các Tỳ-kheo vì sao thường đi theo Thế Tôn?”. Đáp: Như khỏi bệnh là nhờ theo thuốc, hiển công của thuốc. Đây nêu người thực hành còn có oai nghi ảnh hưởng, huống chi Pháp thân cổ Phật thị hiện hình trợ hóa. Cho nên biết bốn chúng như bệnh nhẹ được lành, Bát bộ như bệnh nặng được giảm. Nhẹ nặng đều có quyền thật ảnh hưởng.

Tiếp, “giải thích chúng kết duyên”: “Kết” là kết cấu, lập khởi

đầu cho căn cơ; “duyên” tức duyên trợ, năng thành cuối cùng, là làm mầm trước cho đời vị lai tu đắc Tam đức. Không có ba lợi ích trước, cho nên nói “kết duyên”. Tức là ngoài ba chúng trước, trong hội còn có chúng này, cho nên đây một duyên gồm đủ hai nghĩa: là trợ hiện tại, trợ tương lai. Trong đó đối với ba chúng trước biện rõ không có. “Lực không có…”: là chẳng phải chúng phát khởi. “Đức không có…”: là chẳng phải chúng ảnh hưởng. “Mà quá khứ…”: là chẳng phải chúng đương cơ. Phàm là chúng phát khởi thì đều có đủ hai nghĩa: 1. Dẫn dắt đến hội sở. 2. Xin Phật thành tựu căn cơ. Pháp thân Bồ-tát đầy đủ hai dụng này, cho nên nói là “năng”. Mà chúng kết duyên thiếu sót sự thù thắng, thuận lợi kia cho nên nói “lực không có”. “Trấn”: là trấn giữ quí trọng, tức đức bên trong. “Nghiêm”: là trang nghiêm tức uy nghi bên ngoài. Đức trong đã cao, uy nghi bên ngoài ắt nghiêm chỉnh, nghiêm sức hóa sự vinh quang chủ dụng. Kết duyên thì ở nơi kia không có, nên nói “lực không có…” Lại, “trấn” để chấn chỉnh, “nghiêm” để hàng phục. Đã chấn chỉnh đã hàng phục thì hóa đạo có thể thành, cho nên nói “dụng”. Chúng kết duyên này thì tự lợi còn mỏng, đâu có chấn chỉnh hàng phục người khác được, cho nện nói “đức không có”. “Phúc lậu…”: Chữ “Phúc” đọc nhập thanh. Không có Văn tuệ, ví như cái bát đang úp xuống. Thiếu Tư tuệ, ví như cái bát đã bị rỉ. Không có Tu tuệ, ví như cái bát đựng đồ nhơ tạp. Như bát tuy để ngửa mà toàn đựng đồ bẩn, cho nên bị người dùng vứt bỏ đi. Cho nên, tổng kết nói “ba tuệ không sinh”. “Hiện đời…”: Hiện đời tuy được nghe mà không gọi là tuệ. Văn tuệ mà còn không, thì Tư tuệ, Tu tuệ làm sao có? Đây tức Thông thì chọn lục căn, ngũ phẩm, Biệt thì dòng người năm ngàn người đứng dậy bỏ đi. Những người đứng dậy bỏ đi, tuy không có ba tuệ, nhưng thâu nạp chủng tử ở tánh, được buộc hạt châu, nên biết cũng không có lợi ích theo Thế giới Tất-đàn trong quán hành vị. Cho nên, nói “không có tứ Tất-đàn lợi ích”. Căn cứ đây phân vị tứ Tất đều đủ, gọi là chúng đương cơ, nên Ngũ phẩm trước đến nay, là nghĩa Thế giới lợi ích. Lục căn trước đến nay, là Vị nhân Đối trị lợi ích. Sơ trụ trở đi là Đệ nhất nghĩa lợi ích. Vì vậy nên văn dưới cuối phẩm Tùy Hỷ còn chưa thành đương cơ Một câu một kệ cũng là chúng kết duyên đó thôi! Nhưng nghe lược thuyết thì có vượt qua một câu, một kệ. Vậy thì không luận nghe nhiều ít, hễ chưa nhập phẩm đều gọi là kết duyên. Cho nên trước năm phẩm thì không có ba tuệ bốn Tất-đàn lợi ích. Không nghe (Văn) nên không có Thế giới, không Tư nên không có Vị nhân, không Tu nên không có Đối trị, không chứng nên không có Đệ nhất nghĩa. Cho nên Đệ nhất nghĩa có thông có biệt, Thông nơi năm phẩm, Biệt tại Sơ trụ, cho nên nói được độ cũng có thông có biệt, tức là thông biệt Đệ nhất nghĩa. Vậy thì tuy tứ Tất-đàn thì nghĩa thông, mà cuối cùng thành kết duyên vị biệt.

“Chỉ làm…” là chánh chỉ bày tướng của chúng kết duyên. “Tỳkheo…” là kết số làm mười sáu chúng. Nếu căn cứ Văn-thù Di-lặc thì chỉ trong chúng Tỳ-kheo. Chúng Ni tuy không có văn thỉnh pháp, văn dưới cũng có tướng thỉnh thọ ký, chỉ có hai chúng thế tục tuy không có chánh văn nhưng căn cứ theo lệ hợp có. Đã đến hội ắt được quyền dẫn dắt, hai chúng đã vậy thì tám bộ cũng như vậy. Nay từ tổng tướng chỉ nói bốn chúng, cho nên biết hễ nói “bốn chúng: Tỳ-kheo v.v…” thì sở nhiếp chưa cùng khắp. Nói “vô văn”: là không đạt đến thành tựu sâu xa.

Tiếp, “Căn cứ ba giáo…”: Bao gồm luận giáo xưa, ngũ vị truyền dẫn căn cứ trên có thể biết. “Bản tích có thể giải”: Nếu căn cứ thể dụng, thì Bản trú tôn quí cùng cực, hoặc thâm vị pháp thân. Tích là tứ Giáo nhất, mười sáu chúng. “Quán tâm” nêu vị, chọn năm phẩm làm kết duyên. Lại, căn cứ quán hạnh mà nói, cho nên dùng “danh tự Quán hạnh” mà làm kết duyên, để trong chúng đương cơ Sơ trụ liền nhập ảnh hưởng. Nên biết Sơ trụ đầy đủ có hai nghĩa: Hoặc cựu nhập, chỉ danh ảnh hưởng, cho đến nghe kinh siêu nhập hậu vị, ý cũng như vậy. Hoặc mới nhập, được là đương cơ cũng là ảnh hưởng và để phát khởi, tức như người học phát thệ nguyện hoằng kinh.

Trong câu “Nhập phần chân vị, tức thành chúng phát khởi chúng ảnh hưởng vân vân”, thì “vân vân” là: phân biệt bốn chúng này làm thành quán hạnh cao thấp không đồng, đến địa vị đây thì có khả năng làm bốn chúng đây. Năm ngàn người đứng dậy bỏ đi còn được kết duyên, thế nên phải biết: không chuyên danh tự Ngũ phẩm, cho nên căn cứ Quán hạnh từ chỗ dung nạp mà giải thích. Ở đầu văn nói “nhiễu quanh” có đủ nghĩa tứ Tất-đàn, văn không nêu rõ chỉ dựa theo trên nói. “Tịnh Cư thiên…” tức Thế giới, “hóa làm giống như người” tức Vị nhân, “người lấy đó làm khuôn phép” tức Đối trị, “lễ rồi nghe pháp” tức Đệ nhất nghĩa. Từ “Tiêu biểu bốn môn” trở xuống, là căn cứ giáo. Nếu chỉ đem đương giáo mà luận chúng, thì tự có Phật trong các giáo. Nay từ “nhiễu quanh” Viên cực nghĩa biên, chính là tiêu biểu ba giáo bốn môn cơ động, động nên kiến lý. Vô Lượng Nghĩa thời vẫn là thiên tiểu can dự tiêu biểu đương nghe Viên bốn môn. Nay và xưa hướng về nhau bốn giáo nghĩa đầy đủ, nên chỉ nói theo lệ. Cho nên biết giáo xưa không phải không có bốn môn, đương giáo cơ động. Chỉ vì tiểu độn căn chưa thông, đến đây mới gọi là “đại cơ động”. Nếu người Bản Viên đến đây mới tăng tiến thì cũng gọi là “động”. Chỉ không Biệt mà Biệt thì được gọi là bốn môn.

“Căn cứ Quán giải”: Tam giáo quán hạnh cũng như hành xoay chuyển, đều thành viên quán cũng như niệm Phật. Lại quán chỉ là niệm, dùng quán để chuyển, cho nên nói “tăng”. “Nếu quán…” là căn cứ quán để luận Bản tích. Nếu căn cứ thể dụng và lâu gần, thì: Bản trú pháp thân phi động phi bất động, Tích thì thị hiện các giáo cơ động nhiễu Phật. Giải Thích cúng dường: Cũng tại chúng kia vì nghe Kinh Vô Lượng Nghĩa, thời chúng nhóm tập mà tu cúng dường, cho nên giải thích “Nhĩ thời” không được nói thời chúng tập. Kinh kia nêu bày chúng phàm phu đều cầm phẩm vật cúng dường, có dẫn kinh Hoa Nghiêm có sự cúng dường mây từ mười phương kéo đến, cũng chưa hoàn toàn như vậy. Như “Đại Trang Nghiêm” sở hiến cúng dường, đây theo lệ tợ như vậy; như người trong nước an trí và dụng sức làm, nếu vậy thì vì sao đều nói “thiên trù…” ư ? Đáp: Theo sự thù thắng mà nói tán thán nên dùng danh “thiên”. Cho nên biết phẩm vật cúng dường của hai chúng ảnh huởng và phát khởi ắt sai khác. Chúng đương cơ và kết duyên lại phải liệu giản, địa vị không đồng cho nên phẩm vật cúng dường cũng khác. Các địa vị trên còn chẳng phải là điều mà Nhị thừa biết đến, đâu chỉ thiên cúng dường. “Nghiễm nhiên không giải tán”: nói kinh vừa xong liền nhập định kia, lúc ấy phóng hào quang trời liền mưa hoa, đất sáu điệu chấn động, lúc đó chúng thấy liền sinh niệm nghi ngờ, cho đến vấn đáp. Do đó biến đổi kéo dài “nghiễm nhiên không giải tán”. Đồng tòa lại nói, nên gọi là “vẫn”, phải hoàn toàn ý chỉ kia nên nói “không được có khác”, văn tuy rộng lược sự không có riêng biệt.

Hỏi: Trong ba nghiệp, thì hai nghiệp về sự đã xong, ý nghiệp như thế nào?

Đáp: Nói Chuyên chú là nói thông sự biệt. Nếu do từ đầu đến cuối chuyên chú do đó mà sinh niệm nghi thì ý chưa dứt. Nếu lại dùng thân khẩu tán thán cúng dường, thì một kỳ hạn việc xong, ý đủ hai thứ đây không thể nhất hướng.

Giải thích: “Tựa hiện tướng”: Trong đó ba phen trước chỉ bày văn, tiếp phá xưa trong đó trước chỉ bày xưa, tiếp nay… là lược phá, nhưng cũng theo văn kia vẫn phá nghĩa kia, nghĩa tức tiêu biểu báo. Nói “tiêu biểu báo” thì: “thụy” là năng biểu, biểu tức báo. Nói “chưa rõ”: Quang Trạch tuy tức kia đây đồng có sáu, đều nói ba cặp mà hoàn toàn không có sở biểu, cho nên biết: nói “động tĩnh” thì rất cạn, nói “trên dưới” đã rõ ràng, huống chi trong lòng hoan hỷ không chỉ nhìn thấy ánh sáng, vậy nên nay không còn lập xưng kia, huống chi độ người quán lý đâu phải không có giáo. Do đó tướng lành dự báo khiến biết đương thiện, cho nên trước chỉ bày điều đặc biệt tỉnh ngộ loài hữu tình, gọi là “biểu báo”. Nhưng chúng đã chưa biết rõ, nên quyết ở Văn-thù, Văn-thù đã biết nhất định khởi, sở thuyết không ra ngoài một nhiều tương tức, từ nhân đến quả cảm ứng đạo giao, cho nên dùng ba cặp mà trước biểu báo. Đã liệt kê giáo đầu tiên, thì giáo phải khác thường, trên dưới… nói sự thì dễ hiểu, đâu cần Văn-thù trù trừ Di-lặc ân cần? “Ba, Nay nêu rõ…” là ba phần trong Chánh giải thích: 1. Lược nêu giải thích, 2. “Đây sáu…” biện rõ hai thứ danh đồng khác. 3. “Lược nêu…” dùng điềm lành đối diệu. Đầu văn: trong sáu thứ trừ thuyết pháp còn lại năm thứ đồng thời; tuy lại khác đồng mà chung hiển theo một hướng, nhưng trong sáu tuy trước hai sau hai chính là thời chúng, lấy giữa hai làm tiêu biểu, chánh tại nhân quả. Do đó hoa tiêu biểu chân nhân địa, bao gồm phân biệt quả. Lại nói hiển lộ từ nhiều định, chính là mật ý từ nơi chốn, căn cơ Viên giáo đương phát Viên ứng chiếu. Cho nên biết sáu điềm lành đều khác với các kinh không đồng với Quang Trạch. Tiếp, nêu trong phần nêu đồng khác, trước dẫn văn nêu đồng, từ “Nhân tình phân biệt” trở xuống: biện rõ khác, tuy dùng cái khác làm tướng, biểu báo làm điềm lành, mà Khác với tướng lành bản báo diệu lý, theo nghĩa đồng mạnh lại có văn làm chứng, cho nên thuận nhân tình thì chưa gọi là tận lý. “Huyền”: là sắc đen nghĩa đồng ẩn khuất. “Di” tức sâu. “Nói điều đó rất khó…”: chư Phật xuất thế vốn vì Phật thừa, hơn bốn mươi năm giữ trong tâm, Viên âm sắphưng khởi, lo lắng chúng không tôn trọng. Lại nữa dùng điềm lành mà nâng cao lên khiến mọi người hâm mộ, tín sinh thì nghi đều trừ, hiểu rõ ràng.

“Biểu báo thập diệu”: Nếu căn cứ theo văn trước, thì chỉ ứng biểu báo Tứ nhất mà thôi. Do văn Tứ nhất lược thuận với Quang Trạch. Nếu chuẩn đúng, khiến văn rộng thì vô lượng lược thì chỉ mười, lược tối đa thì chỉ có thể nói biểu nhất thừa. Nay tuy nói lược, nhưng chính là thành ở giữa (trung bình). Lại, “thập diệu”: Kinh này dã dùng diệu báo đẻ giải thích điềm lành (thụy), diệu nghĩa đã mười sáu sở biểu, đạo lý cũng như vậy. Cho nên, cận thì biểu Tích, viễn thì biểu Bản, đầy đủ như Huyền Văn khai hợp. Nếu lại tiêu biểu tích thì cũng như Huyền Văn dẫn kinh nói sáu điềm lành. Nói: “trong Cảm ứng đã nói” tức sợ lầm văn. Huyền Văn liệt bày trong thần thông vi diệu, “nay lại nói” là vì biện rõ sai khác, nên lại nói lần nữa. Nay biên chép đầy đủ Huyền Văn thần thông vi diệu, đối kinh nay biện rõ riêng biệt, vì mỗi mỗi đều có nguyên do. Huyền Văn nói: “Đất đều nghiêm tịnh” là tiêu biểu Lý diệu, “Giữa mày phóng quang” là tiêu biểu Trí diệu, “nhập Tam-muội” là tiêu biểu Hành diệu, “Trời mưa bốn thứ hoa” là tiêu biểu Vị diệu, “gió hương chiên đàn” là tiêu biểu Thừa diệu, “bốn chúng có nghi” là tiêu biểu Căn cơ diệu, “thấy tám ngàn cõi” là tiêu biểu Ứng diệu, “Cúng dường” tiêu biểu Cảm ứng diệu, “đất động” tiêu biểu Thần thông diệu, “trống trời” là tiêu biểu Thuyết pháp diệu, “chúng hoan hỷ” là tiêu biểu Quyến thuộc diệu, “tu hành” là tiêu biểu Lợi ích diệu. Huyền Văn thì chung thâu gió hương, đất tịnh sáu điềm lành kia đây, cho nên khắp chọn lựa. Nay văn không liệt kê văn nói về cõi khác, cõi đây tự đầy đủ. Phàm các văn được dùng đều có thông biệt, huống chi gió hương, đất tịnh chỉ là khai hợp. Đến dưới giải thích văn lại có liệu giản. Lại, trong các cõi khác. trên Thánh dưới phàm nghĩa đồng cảm ứng, nhân pháp lại cùng thuyết pháp nghĩa đồng, chỉ trong phần từ đầu đến cuối thì cuối đồng ứng dứt, Bồ-tát hành hạnh lại đồng nhân quả, cho nên văn nói về hành hạnh thì rộng, tổng nhiếp Tiệm. Phàm sở biểu ngữ ý đều bao gồm rộng lớn, vì vậy cho nên văn dưới nhiều phen giải thích. Từ xưa đến nay các giải thích đều không có ý như thế. Các điềm lành như ánh sáng v.v… mà lạm dụng nghi ngờ, trả lời không thật, trạng thái như sáng rực rỡ thời chúng đâu khác quỉ thần thần thông ngoại đạo. Cho nên, một nhà giải thích điềm lành ắt có sở biểu. Vậy thì, đại sự đại nhân tác đại cảm động, đại cơ đại ích hiển bày đại lý, phải cần đại quyến thuộc để phụ giúp đại hội, đều cảm đại thời đại vận thạnh thục. Tự mình chẳng phải ở Linh sơn cùng thọ bẩm, thế thì Thế Thân sao có thể khế hợp, sao có thể so sánh! Trong phần “Giải thích điềm lành thuyết pháp” lại phân chia kinh làm bốn: 1. Trình bày thể của pháp thuyết. 2. Liệt kê danh trên thể. 3. Nói rõ sở y của Bồ-tát. 4. Nêu sự hộ trì của Phật. Văn đầu tiên: trước lược dẫn kinh giải thích. Tiếp, “Nay đem…”: dùng thập diệu. “Sớ kinh…” là Lại đem năm trong thập diệu thuộc Tích môn đến. Chữ Sớ: có âm đọc là phiên thiết của hai chữ Sắc và Dụ, có nghĩa là trang nghiêm trang sức, đã dẫn kinh kia để trang sức đây khiến thành nay vi diệu. Do thiện giới kia chỉ từ tự hành nhân quả cho nên không có năm thứ còn lại, pháp đại cảnh. Thông là giáo pháp, Biệt dùng bộ Tì-Phậtlược trong mười hai bộ, là Phương Đẳng lý tâm giải trí, tịnh nghiêm hành. Tịnh nên đầy đủ bảy tức thủy chung hành, là thời vị, cũng là thủy chung vị, đầy đủ ba pháp vi diệu này. Do vì có nhân, quả sao lại không có chỗ? Cho nên chỉ có năm thứ trước ắt bao gồm năm thứ sau, huống lại chỉ đo nhân quả danh đồng, nghĩa lý còn biệt, gồm riêng khai…, tư duy có thể biết… Huống chi tam kỳ nghĩa liên quan đến Tam tạng, số có đại Tiểu cho nên khiến như vậy.

Hỏi: Dùng thập diệu để giải thích kinh, chính là thành thô diệu không thể biệt?

Đáp: Từ một phía danh đồng thì có thể đối thập diệu. Nếu từ Tựa tiêu biểu thật, thì như đã hỏi, cho nên phải biệt giải thích để đối với văn Tựa. Tiếp, liệt kê danh trên thể, trước đã phá ý kiến xưa. Thiệp Pháp sư nói: Luận về chọn các tên của kinh, thì có mười bảy, Từ Ân rộng giải thích chính là quá phần. Nay trước phá quan điểm của hai Pháp sư Sinh và Quán, trong đó trước là thuật lập luận kia. Tiếp, “Nếu vậy…” là nay văn nạn vấn: Bát-nhã và Tịnh Danh vô tướng không phải Tựa, đâu được dùng vô lượng vô tướng làm tựa? Tiếp, ý bào chữa: Năm thời tương sinh thứ lớp sai biệt, tuy đều vô tướng trước sau có sai khác, sau hai kinh mới Vô Lượng Nghĩa, sau vô lượng nghĩa mới Pháp Hoa, nên chỉ vô lượng làm tựa Pháp Hoa, hai thứ còn lại vì xa nên nghĩa Tựa không thành. Từ “Nếu vậy” trở xuống: lại nạn vấn, bắt đầu từ sau Hoa Nghiêm về sau giáo khởi cho đến Pháp Hoa. Đây là cách thông thường, sau khi kinh trước sinh thì mới thành thứ lớp, lần lượt làm tựa cho nhau nghĩa biệt không thành. Nếu các kinh không như vậy, thì đâu riêng Vô Lượng Nghĩa làm biệt Tựa của Pháp Hoa? Tiếp, Cơ sư lập luận không khác hai sư Sinh và Quán, phá thì như trước đã nói. Tiếp đến là Ấn sư, Ấn sư thọ nơi Long sư, Long sư thọ nơi Viễn sư, sở chấp đã đồng phá lập cũng đồng. Nói “Vô tướng thiện có nghĩa thành Phật”, ý nói: mười hai năm trước là hữu tướng giáo chẳng phải nhân thành Phật, chỉ vô tướng thiện có nghĩa thành Phật, ý nói: đến trong Pháp Hoa, hết thảy đều thành Phật đạo. Cái gọi là “nghĩa”: là có thể thành. Cho nên dùng nghĩa thành Phật làm tựa của kinh Nhất thừa. “Lại nói…”: nếu vậy, Phương Đẳng Bát-nhã cũng nêu vô tướng, thì cũng nên dùng Phương Đẳng Bátnhã làm Tựa của Pháp Hoa? Ấn sư ngăn chặn và hàng phục vấn nạn này, cho nên lại thuật Vô Lượng Nghĩa cùng Đại Phẩm đối biện. Vô tướng trong Đại Phẩm còn nói có ba không ba, vô tướng trong kinh Vô Lượng Nghĩa không nói có ba không ba. Cho nên Đại Phẩm vô tướng không phải là kinh Vô Lượng Nghĩa được nói đến trong Pháp Hoa, vì kinh Vô Lượng Nghĩa chưa phiên dịch. Đây có ba lỗi: 1. Lầm giải vô lượng nghĩa nói: không thuyết có ba không ba. 2. Lỗi Vô Lượng Nghĩa chưa dịch. 3. Lỗi vọng phá cổ Sư lấy Đại Phẩm làm Vô Lượng Nghĩa. Nhưng lỗi đầu: Vô lượng nghĩa kia đã nói hai, ba từ vô tướng xuất, sao gọi là khác nhau giữa có nói và không nói có không? Tiếp, “Nay nói…” là văn nay phá: chỉ phá lỗi thứ hai, còn lại hai có thể biết. Cho nên trình bày đầy đủ kinh đến niên đại phiên dịch, chú thích Tựa kinh Vô Lượng Nghĩa rằng: Kinh Vô Lượng Nghĩa đây tuy đầu Pháp Hoa biên chép danh mục kia mà giữa hạ chưa thấy, thường đến giảng bài, chưa từng không phế bỏ luận bàn mà tán thán. Chợt có Tỳ-kheo Tuệ Biểu ở núi Võ Đang từ Ngụy đế Diêu Tần Lược từ tử (con). Lược là Trường tử, nhân vì quân Tấn đâu có được lặng yên. Dưỡng là giả tử, liền bỏ đi xuất gia cần khổ cầu đạo, đều ở Kiến Nguyên ba năm, đến chùa Triều Đình ở Quảng Châu gặp Đàm-ma-gia-đà-da-xá, muốn truyền kinh này, Biểu bèn đến thỉnh chỉ được một bản. Vẫn trở lại Vũ Đương, đến niên hiệu Vĩnh Minh năm thứ ba ngày mười tám tháng chín mới lưu truyền ở đời. “Kinh đã đến như thế”, thật đáng cười ngài Ấn sư nói Vô Lượng Nghĩa chưa dịch!

Tiếp, “Đả phá ý của Quang Trạch”: cũng trước dựa vào ý của kia lập tức là: do Vạn Thiện Đồng Qui cùng Pháp Hoa vẫn có hai cái khác nhau. 1. Đồng qui chẳng phải không hai không ba. 2. Đồng qui chẳng phá ba cùng một. Tuy có hai cái khác do Đồng Qui nên có thể thành hai thứ đây, cho nên dùng Vạn Thiện Đồng Qui làm tựa cho nghĩa không hai, không ba v.v… “Nếu nói…” là trước phá câu đầu. Hỏi: Vạn Thiện Đồng Quy trong Vô Lượng Nghĩa, đâu khác Pháp Hoa nói không có hai, ba? Hai chỗ nếu đồng phá thì đều phá, qui thì đều qui. “Hai, ba…”: là kết nạn vấn. Tiếp, “Nếu nói…”: là phá câu kế tiếp, trước thì nêu Vô Lượng Nghĩa kia nạn vấn Pháp Hoa, nay thì nêu Pháp Hoa kia nạn vấn nơi Vô Lượng Nghĩa. Ý nạn vấn: là trước phá lời còn lược, phá ba chính là phá hai phá ba, cho nên nay nói “phá hai phá ba”, chỉ thêm cho một khác ở câu trên, cho nên trước muốn phá dùng nạn vấn đồng qui, nên nói “Vì sao không phá Vạn?”. Tiếp, “Phá hai…”: song nêu hai nạn, đầu nạn chỉ có Chánh không có Tựa. Phá tức là không có, nên phá hai, ba, là không có hai, ba. Trong văn, lời đã lược. Cũng lại nên nói: Nếu phá hai, ba thì tức là phá vạn, tức kia phá vạn, vậy thì không có Tựa. Nếu lấy cúi đầu giơ tay làm vạn thiện, thì hai, ba còn không có, vạn thiện làm sao có? Nếu kia đều không có Tựa, thì nghĩa sao tồn tại? Tiếp, “Thủ kinh…” tức ví phỏng nạn. Nếu nói hai kinh đều qui đều phá, thì chỉ vì kinh này nêu phá, kinh kia nêu qui. Nay cũng phá nói không thành sai khác. Đã nói xen lẫn nêu qui ắt có phá, phá ắt có qui, xen lẫn nêu một bên đâu được gọi là khác? Tiếp, “Ý khác…”: kết nạn. Phàm nói Tựa, thì phải khác Chánh tông, sai khác lại tiêu biểu đồng thì mới có thể gọi là Tựa. Khác và đồng đã lẫn lộn, thì nghĩa Tựa như thế nào? “Lưu Cầu…”: là phá chú gia, cũng trước y sở lập kia. Tiếp, “Nếu bao hàm…” là phá kia không lượng tính, cùng vô tướng kia tự nói trái nhau, cho nên đem điều không lường tính kia nạn vấn vô tướng kia. “Dựa vào các sư…”: là tổng xem xét phá: Trước là tổng phá. Tiếp, “Nếu nói…” là bỏ chọn, phá Tựa không thành là bỏ, phân biệt thuộc phương tiện là chọn. Đầu tiên phê phán Ấn sư, trước đối với vô tướng kia, huống lập hữu tướng phán định nhập Tam tạng! Tiếp, “Nếu nói vô tướng…” là chính phê phán Ấn sư. Tiếp, “Nếu nói…” là phá chú gia (nhà giải thích). Hai thứ đây đã vậy, còn lại theo lệ có thể biết. Cho nên điều mà các nhà giải thích nói thì không ngoài ba giáo, nên chỉ quyền giáo thông gọi là tha. Tiếp, “Nếu Pháp Hoa luận…”: nay văn giải thích luận. Đã nói Pháp Hoa là tên khác của Vô Lượng Nghĩa, cho nên biết: Vô Lượng Nghĩa cũng là tên khác của Pháp Hoa, thì trong Tựa lập danh đối với lý không có lỗi, trước nói kinh Vô Lượng Nghĩa để làm Tựa của Pháp Hoa xong. Lại dựa theo ý luận, tức là trước nói tên khác của Pháp Hoa, trở lại nhập diệu định Pháp Hoa. Nếu vậy, thì trước đã nói xong, nay cần gì nói lại? Đáp: Trước đã nói kinh rõ ràng thành Tựa, lập lại danh nghĩa kia bao gồm Chánh tông cho nên khiến luận dẫn đây là tên khác, danh nghĩa cả hai gồm Tựa và Chánh tông cả hai đều được.

Tiếp “Đại Phẩm…”: dẫn chứng trong Tựa lập danh không lỗi. Cho nên kinh Đại Phẩm phẩm Tựa nói: “Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nay đây đã hiện tại vì các Bồ-tát mà nói kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa”. Kinh Kim Quang Minh phẩm Tựa nói: “Kim Quang Minh là vua của các kinh”. Kinh Niết-bàn, phẩm Thuần-đà tự trình bày rằng: “Con nay có trí tuệ nông cạn đâu có thể tư duy nghĩa Như Lai Niết-bàn”. Kinh xưa, văn đây vốn thuộc phẩm Tựa, Tạ công sửa lại quyết định mới thêm tên phẩm Thuần-đà, Ai Thán. “Lại nói…”: lập lại dẫn, khác danh đồng danh đều trong tựa xướng. “Nay xét…”: là dựa kinh lập lại giải thích tên Vô Lượng Nghĩa, để chứng thành tựa, trước liệt kinh văn để biện rõ ý này. Tiếp “Lại nữa…” là dùng Vô Lượng Nghĩa đối Phổ Hiền Quán để phá cựu sư. Văn đầu tiên, trước nêu năng sinh, tiếp “Cái gọi là…”: là nêu sở sinh. “Nay giải thích…”: trong giải thích có Pháp, Thí, Hợp. Đều giải thích Vô tướng trên.

Hỏi: Trong kinh cũng dùng Vô tướng để giải thích, thế thì cùng các sư khác đâu có gì sai khác mà phải khổ công phá họ?

Đáp: Không đồng các sư khác, vì xưa dùng sở sinh vô lượng làm vô tướng. Kinh thì dùng năng sinh nhất thật làm vô tướng, từ thật sinh các các gọi là vô lượng, vô lượng là tướng, sao gọi là Vô tướng? Cho nên, kinh nói: “Nói vô lượng ấy, là từ một pháp sinh”. Thế nên không đồng với xưa nói sở sinh vô tướng.

Chú thích: chỉ nói bao hàm pháp không lường, chỉ đắc sở sinh mất năng sinh. Kinh từ năng sinh đối sở dùng làm đề mục. Các người, Sư đem năng làm sở để giải thích đề mục. Cho nên nói: “Từ thật tướng này sinh vô lượng pháp”, nên nay lại giải thích năng sinh. Cho nên, biết: năng sinh trung đạo thật tướng và thật tướng mà kinh này nói, thì không sai khác. “Hai pháp tức là” trở xuống, là lại giải thích sở sinh vô lượng. Tuy nói nghĩa sở sinh bao gồm năng, mà theo nhiều đặt tên sở. “Đốn, nghĩa là…”: tức trong bộ đốn có đủ tiệm đốn năng sinh sở sinh, cũng chỉ sở sinh nên nói tất cả pháp trong đốn. “Tiệm, nghĩa là…”: tiếp nêu Tam-muội, trong Tam-muội đây cũng có năng sở, căn cứ theo đốn có thể biết…

“Tam đạo…”: Trong đây ba, bốn cũng đầy đủ năng sở, Viên Bồtát và Phật dùng làm năng sinh, ba Bồ-tát hai Nhị thừa lấy làm sở sinh, cho nên ba, bốn nhiếp pháp cũng khắp, theo lệ như tiệm đốn cũng đầy đủ năng sở, vậy thì lý nhất thực đều từ các giáo lưu xuất, trong kinh Vô Lượng Nghĩa thuật ý kia. Cho nên trong tam thừa thì nhị thừa bao hàm bốn, Bồ-tát gồm ba. Nếu tạo ba, bốn nghĩa thì thông bốn giáo như trước sở đối, nếu tạo ba, bốn đều là sở sinh thì Bồ-tát và Phật chỉ tại ba giáo, từ giáo phán quyền. Huyền Văn lại dùng bốn đức Phật làm bốn quả, thì Viên Phật là một mà sinh ba quyền. Năng sở tương đối, nên nói bốn đức Phật, vậy thì Bồ-tát danh thông đối nghĩa không lỗi. Cho nên đối độc nhất mà sinh kiêm nhất, tư duy có thể thấy. “Các pháp như thế…”: lại kết sở sinh để chỉ bày năng sinh, năng sinh biệt danh của Nghĩa Xứ Pháp Hoa, sở sinh vô lượng làm Tựa của Pháp Hoa, cho nên một danh trong Tựa nghĩa kiêm hai hướng. Nhưng nên biết từ một để xuất vô lượng, tuy nêu năng xuất mà thông đều thuộc tựa. Nếu vô lượng nhập một thì tuy liên quan sở sinh mà thông đều thuộc Chánh, cho nên nghĩa xứ một pháp cũng thành hai hướng, Nghĩa-xứ xuất sinh thì thuộc Tựa, Nghĩa-xứ thâu hội thì thuộc Chánh, tức từ một nghĩa xứ trở xuống hai câu văn là hai ý kia. Cho nên Phật nhập Nghĩa-xứ, nghĩa kiêm hai cách. “Thí du, Tựa như…”: từ một xuất nhiều, Chánh như trừ từ nhiều qui một. Cho nên biết giáo xưa thuyết pháp theo căn cơ làm lợi ích chúng sinh, như dùng tiền mua vật, mà đều chưa biết đại số kia. “Từ một…” là hợp dụ. “Như đây…” là kết năng sở trước để thành hai giải; năng sinh không trái luận, sở sinh không trái kinh, chỉ y hai giải thì lý kinh luận tồn tại.

Hiểu giải thích đã vậy, được ý thì sao? Tức sở sinh là năng sinh thì mới là tên khác, nhà năng sinh là sở sinh, đây mới thành Tựa. Nếu chuyên thì năng đâu khác Sinh sư… và một Viên xưa, nếu chuyên luận nghĩa sở sinh thì đâu khác các nhà chú thích và ba giáo xưa, vì vậy thãy đều tồn tại như cũ thành hai lỗi. Cho nên, các kinh gia nay năng sở phụ thuộc nhau, hai nghĩa đều lập. Nếu chuyên Tựa, thì Pháp Hoa về trước chẳng những chưa luận “hội nhiều qui một”, cũng chưa từng nói “từ một xuất nhiều”, cho nên Vô Lượng Nghĩa chỉ có ở Tựa kinh này.

“Lại nữa…” là dùng hai văn trước sau đối phá xưa. Đây chẳng phải chánh phá, mà các sư Quang Trạch v.v… nói trong những văn khác: Kinh Pháp Hoa không nêu rõ thường trú, nay nhân nêu Vô Lượng Nghĩa Tựa khác, tiện cứu kinh Pháp Hoa Chánh thường. Kinh Vô Lượng Nghĩa ở trước Pháp Hoa, kinh Phổ Hiền Quán ở sau Pháp Hoa. Tựa, kết đều thường đúng, đâu có gì khác, vì sao lại nói thần thông diên thọ là vô thường? Cho nên dẫn kệ kinh kia nói: “Như Lai thanh tịnh diệu pháp thân…”, đâu chẳng thường ư? Nói “bách phi”: kệ kia nêu ba mươi bốn phi lấy làm khuôn mẫu, các phi căn cứ theo lệ có thể biết. Đây nêu rõ tánh pháp thân lìa các phi, cho nên tổng nêu bách (một trăm) phi. Nói “tuyệt tứ ly bách” cũng thông sâu cạn, mỗi mỗi so sánh, nay ưng theo kinh Thâm Quán nói bốn Ba-la-mật. Kinh nói: Đức Thích-ca Mâu-ni tên là Tỳ-lô-giá-na, Biến nhất thiết xứ, trú xứ của đức Phật ấy tên Thường Tịch Quang. “Thường Ba-la-mật” sở nhiếp thành xứ, “Ngã Ba-la-mật” sở an lập xứ, “Tịnh Ba-la-mật” diệt hữu tướng xứ, “Lạc Ba-la-mật” bất trú thân tâm tướng xứ. Đã dùng bốn thứ này thành thân thành cõi, vậy trước lý hợp thân thường cõi thường, cho nên Đại sư xét kỹ tổng quát năm thời thảy đều có kết đầy đủ như Huyền Văn. “Các vấn nạn khác…” các ý kiến khác vấn nạn nay, trong Tựa năng sinh đã nêu thường trụ thì Tựa đã là Chánh, Chánh cần gì nói? Nay lại chất vấn rằng: Tựa và Chánh đều thường, về lý thì đâu có lỗi? Lại liệt nêu các người khác lạm dụng dẫn nói: “Ví như trong kinh Tịnh Danh Tựa nói thường, Chánh không nêu thường tức là vô thường, cho nên đem Pháp Hoa theo lệ như kinh kia, lẽ ra kinh Pháp Hoa Tựa thường thì Chánh nên vô thường”. Nơi khác nói kinh Tịnh Danh Tựa thường Chánh vô thường. Là kinh Tịnh Danh ở phẩm Đệ Tử quở trách A-nan rằng: “Thể Kim-cang đang có bệnh tật gì?” cho đến “thân Phật vô vi không số bị chi phối bởi các quy luật”. Người xưa cho rằng phẩm Đệ Tử và phẩm Bồ-tát đều thuộc Tựa. Lại chấp Thông tựa tán thán đức Bồ-tát, tin sâu kiên cố cũng như Kim-cang, nay cũng hỏi ngược lại: Nếu dùng Pháp Hoa sánh với Tịnh Danh, thì cũng nên dùng kinh Niết-bàn theo lệ như kinh Tịnh-danh, thế thì kinh Niết-bàn Tựa thường Chánh vô thường. Cho nên biết chỉ có thể dùng kinh Tịnh-danh chiếu theo lệ kinh Niết-bàn, Tựa Chánh đều thường. Ông tự không hiểu tông thể của Tịnh Danh, nghĩa là Chánh vô thường mà làm ước lệ. Nên biết Tịnh Danh thì cũng Tựa thành Chánh đều thường, nên trong phẩm Vấn Tật nêu Đệ nhất nghĩa không, Không tức thường, phẩm Bất Nhị Pháp Môn chánh nêu Trung đạo thường, phẩm Bất Tư Nghì nêu dụng của thường, phẩm Quán Chúng Sinh và phẩm Phật Đạo thì dùng Không và Giả để hiển bày Trung, phẩm Hương Tích Phật nói rõ thể của cơm thơm là thường, phẩm Bồ-tát Hạnh trở đi thì chủ ý nêu thường. Cho nên, biết Chánh tông từ đầu đến cuối đều thường. “Nay luận…” là kết nạn vấn. Nếu như vậy, thì các bộ đâu có gì sai biệt? Đáp: Nói Tựa và Chánh đều thường, từ lý cùng cực mà nói, nếu phải biện rõ sai khác năm thời tự phân, đầy đủ như Huyền Văn quyển một nói. Nếu vậy thì Tựa và Chánh có gì sai khác? Đáp: Mỗi phần đều có cái tinh tế riêng của nó. Lại luận trong Tựa kinh đây tuy thường nhưng chưa nêu hội sở, trong Chánh phải do hội sở thì mới thường, ngoài thường ra không có Tựa Chánh khác mà lại biệt. Các kinh khác theo lệ đều có cái tinh tế của kinh đó.

 

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10