Trang 6 (tiếp theo)
Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài bạch với Thánh giả:
–Ngài phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và tu diệu hạnh này đã được bao lâu rồi?
Thần chủ về đêm bảo:
–Này thiện nam! Như lời ông hỏi, việc này thật khó biết, khó tin, khó hiểu, khó chứng, khó vào, khó có thể chỉ bày, khó có thể phát sinh, khó có thể diễn nói. Tất cả thế gian, trời, người, Thanh văn, Độc giác, đều không thể biết. Ngoại trừ oai lực gia trì của Như Lai và sự nhiếp hộ của Thiện tri thức, có tu tập phước đức, trí tuệ rộng lớn, có tâm được vững chắc, ước muốn sự thanh tịnh, tâm không thấp kém, tâm không tạp nhiễm, tâm không dua nịnh, tâm không tán loạn, tâm không keo kiệt, tâm không mê muội. Tâm được ánh sáng Nhất thiết trí mở bày chiếu khắp, phát khởi tâm lợi lạc, thành thục cho tất cả chúng sinh, phát khởi tâm làm cho tất cả phiền não và chúng ma không thể hủy hoại được, phát khởi tâm thẳng đến Nhất thiết chủng trí không có chướng ngại. Tâm không ưa tất cả nhiễm ô sinh tử của thế gian, có thể ưa quán sát tất cả diệu lạc thanh tịnh của Như Lai; có thể chuyên cần trừ diệt tất cả biển ưu bi khổ của chúng sinh; có thể chuyên cần tu tập tất cả biển pháp công đức của chư Phật Như Lai, có thể quán sát tất cả thật tánh của các pháp và cảnh giới hư không; có thể làm cho đầy đủ tất cả sự tin hiểu, sâu xa, thanh tịnh, rộng lớn; có thể vượt qua tất cả các dòng thác sinh tử; có thể vào tất cả biển trí của Như Lai, có thể quyết định đến được thành của pháp Vô thượng; có thể dũng mãnh vào cảnh giới của Như Lai; có thể nhanh chóng đi đến trí địa chư Phật; có thể thành tựu được ngay năng lực Nhất thiết trí; có thể đạt được rốt ráo đối với mười lực.
Người như vậy, mới có thể ở nơi đây, có thể biết, có thể vào, có thể tin, có thể hiểu, có thể giữ, có thể thấu rõ mà tùy thuận tu hành. Tại vì sao? Vì đó là cảnh giới trí tuệ của Như Lai, tất cả Bồ-tát còn không thể biết, huống gì các chúng sinh. Nhưng, ta nay nương nhờ vào oai lực của Phật, muốn làm cho điều thuận để có thể giáo hóa chúng sinh tâm được nhanh chóng thanh tịnh, muốn làm cho tâm chúng sinh tu tập thiện căn để được tự tại. Theo lời ông hỏi, ta vì ông mà diễn nói.
Lúc ấy, chủ Thần chủ về đêm Khai Phụ Nhất Thiết Thọ Hoa An Lạc, muốn nói rõ lại nghĩa này, nên quán sát cảnh giới ba đời của Như Lai, mà nói kệ rằng:
Phật tử, nay như lời ông hỏi
Cảnh giới vô biên của chư Phật
Khó biết các cõi kiếp vi trần
Diễn nói không thể đầy đủ hết
Chẳng nên xấu ác tham, sân, si
Kiêu mạn, vô minh, hoặc che lấp
Tâm cấu trói buộc các chúng sinh
Biết pháp vắng lặng của chư Phật.
Chẳng nên dua nịnh, tâm trược loạn
Thường theo tật đố, tình không bỏ
Bị dây phiền não nghiệp trói chặt
Có thể biết rõ cảnh giới Phật
Chẳng nên chấp trước uẩn, xứ, giới
Tâm thường không bỏ nơi thân kiến
Người tâm, tưởng, kiến đều điên đảo
Vào nơi vắng lặng của Như Lai,
Cảnh Phật sâu xa và vắng lặng
Bản tánh chân thường, lìa phân biệt
Chẳng chấp có người và sinh tử
Nhập vào bình đẳng pháp vô y
Sinh nhà chủng tánh của chư Phật
Tất cả Như Lai thường thủ hộ
Giữ gìn giáo tạng của Pháp vương
Đây là cảnh giới, trí nhãn tiên
Chân thật gần gũi Thiện tri thức
Ưa thích pháp lành không biết đủ
Chuyên cầu Phật lực, nhận mây pháp
Người nghe pháp này sinh hoan hỷ
Tâm thường thanh tịnh không phân biệt
Không chấp tất cả như hư không
Đèn trí tự tại phá vô minh
Đây là cảnh giới người vô cấu
Dùng đại Từ bi che thế gian
Vào khắp ba đời biển chúng sinh
Tùy nghi lợi lạc không bờ bến
Cảnh giới sâu xa của hành giả
Tâm thường hoan hỷ không chấp trước
Tất cả sở hữu đều xả bỏ
Ưa nói bình đẳng cho chúng sinh
Đây là cảnh giới người không chấp
Tâm không cấu trược, lìa các lỗi
Thuần thục hoàn toàn không lo lắng
Thuận theo Phật dạy đều tu tập
Đây là cảnh giới không cấu nhiễm
Tâm không loạn động, không phân biệt
Có thể biết khắp tánh các pháp
Xa lìa tất cả các hoặc nghiệp
Đây là cảnh giới người giải thoát
Tâm không mệt mỏi thường không lui
Dũng mãnh chuyên tu Nhất thiết trí
An trụ trong tịnh giới tăng thượng
Đây là cảnh giới Đại trượng phu
Tâm được vào sâu các Tam-muội
Rốt ráo mát mẻ không nhiệt não
Do đã tu biển Nhất thiết trí
Đây là giải thoát của tịch tĩnh
Biết rõ các pháp tướng sai khác
Khéo vào pháp giới sâu vô biên
Độ khắp chúng sinh đều không bỏ.
Đây là đèn tuệ của giải thoát
Thấu rõ thật tánh của chúng sinh
Ở biển các cõi không chấp trước
Như ảnh hiện tâm khắp trong nước
Đây là dẫn đường đến giải thoát
Từ nơi ba đời khắp các cõi
Nhờ nguyện phương tiện mà chuyển sinh
Tận các cõi kiếp chuyên tu hành
Đây là giải thoát của Phổ Hiền
Vào khắp tất cả cửa pháp giới
Đều thấy mười phương các thế giới
Cũng thấy trong đó kiếp thành hoại
Đây là cảnh giới của không hai
Mười phương thế giới trong bụi trần
Đều thấy Phật ngồi cội Bồ-đề
Thành Đẳng chánh giác cứu chúng sinh
Đây là cảnh giới mắt không ngại
Ông từ vô lượng biển kiếp lớn
Thân cận thừa sự Thiện tri thức
Vì lợi chúng sinh cầu chánh pháp
Nghe rồi nhớ nghĩ không quên mất
Tỳ-lô-giá-na cảnh rộng lớn
Vô biên vô lượng khó nghĩ bàn
Ta nhờ sức Phật nói cho ông
Khiến tâm sâu ông chuyển thanh tịnh
Này thiện nam! Vào thời quá khứ qua nhiều cõi thế giới, nhiều như số cực vi trần số kiếp, có biển thế giới tên là: Tỳ-lô-giá-na hải chân kim ma-ni sơn. Trong biển thế giới ấy, có Phật xuất hiện ở đời, hiệu là Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Tuệ Sơn Tịch Tĩnh Oai Đức Vương.
Này thiện nam! khi Đức Phật ấy đã tu qua hạnh Bồ-tát, có thể làm cho thanh tịnh khắp biển thế giới kia. Ở trong biển thế giới ấy, có đủ loại thế giới nhiều như vi trần của cõi Phật. Mỗi mỗi loại thế giới có thế giới nhiều như cực vi trần cõi Phật, mỗi mỗi có thế giới số kiếp nhiều như cực vi trần thế giới; trong mỗi mỗi kiếp, có vô lượng Như Lai xuất hiện ở đời; mỗi mỗi Như Lai giảng nói kinh điển nhiều như cực vi trần biển thế giới, mỗi mỗi kinh điển, Phật thọ ký cho các Bồtát nhiều như cực vi trần số cõi Phật. Phật hiện nhiều sức thần thông, nói đủ các pháp để điều phục chúng sinh, chuyển nhiều bánh xe các thừa, độ vô lượng biển chúng sinh.
Này thiện nam! Trong biển thế giới Tỳ-lô-giá-na hải chân kim ma-ni sơn ấy, có loại thế giới tên là Phổ môn hiện tiền trang nghiêm tràng; trong loại thế giới này, có thế giới tên là Nhất thiết bảo sắc cát tường phổ chiếu quang minh; ở đó hiện ra tất cả cảch biến hóa Phật, ảnh tượng đều dùng ngọc Ma-ni vương làm thể, hình dáng như thành của trời; cũng hiện ra tất cả Bồ-đề đạo tràng của Như Lai, dùng ngọc Ma-ni bảo vương để trang nghiêm, tất cả đều trụ ở trên biển báu Câu-tô-ma hoa, sạch nhơ lẫn lộn. Trong thế giới này có vô số tứ thiên hạ nhiều như vi trần núi Tu-di, có một Tứ thiên hạ hơn hẳn trong các Tứ thiên hạ kia, tên là Nhất thiết bảo sơn tràng. Tứ thiên hạ ấy, mỗi bên dài rộng vô lượng trăm ngàn do-tuần, mỗi bên đều có một vạn thành lớn. Ở trong cõi Diêm-phù-đề, có một kinh đô vua, tên là Diệu bảo sa-la trang nghiêm vân đăng, dùng mười ngàn thành lớn làm quyến thuộc, vây xung quanh. Khi đó người trong cõi Diêm-phù-đề thọ một vạn tuổi. Trong đó có Luân vương tên là Nhất thiết pháp viên mãn bảo cái đại sư tử hống thanh, vua có đầy đủ năm trăm bộ thần, sáu vạn thể nữ, bảy trăm vương tử. Các vương tử ấy, sắc tướng xinh đẹp, oai hùng dũng mãnh, có oai lực lớn.
Bấy giờ, oai đức của Luân vương kia trùm khắp trong cõi Diêmphù-đề, không có oán thù. Trong thế giới ấy, khi kiếp muốn hết, có năm trược xuất hiện, tất cả mọi người tuổi thọ bị ngắn ngủi, của cải thiếu thốn, hình sắc xấu xí, đi, đứng, nằm, ngồi nhiều khổ ít vui, không tu mười điều thiện, chuyên làm việc ác, lại cùng nhau nổi giận, tranh cãi, chiếm đoạt lẫn nhau, lừa dối xảo trá, trau chuốt lời nói để ly gián người khác, nói lời thô ác, ghen ghét sự tốt đẹp của người khác, tham cầu phi pháp, vào sâu trong rừng rậm, đồng hoang của lưới tà. Do nhân duyên này, mưa gió thất thường nên lúa mạ không có hạt, các loại cỏ hoa, thảo dược, cây cối, vườn rừng tất cả đều khô héo, người ăn mặc thiếu thốn, có nhiều tật bệnh, lang thang bốn phương, không có chỗ nương tựa. Họ họp lại cùng nhau vây quanh kinh thành của vua, có đến vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức, bốn phía thành đều bị vây kính, kêu gào lớn tiếng hoặc giơ hai tay, hoặc chắp tay, hoặc dập đầu xuống đất, hoặc dùng tay đấm ngực, hoặc quỳ xuống kêu gào, hoặc nhảy lên kêu lớn, đầu tóc rối bù, quần áo nhơ bẩn, da dẻ xơ xác, mặt mày tối tăm.
Các chúng sinh ấy, với đủ các hình dáng như vậy, nói ra các loại âm thanh, dùng nhiều ngôn từ để bàn bạc rồi thưa với vua:
–Đại vương! Đại vương! Chúng tôi ngày nay bần cùng cô độc, đói khát, lạnh rét, bệnh tật, gầy mòn, nhiều thứ khổ bức bách, nhiều ách nạn bức bách thân tâm, mạng sống không còn được lâu, không chỗ nương tựa, không ai cứu vớt, không có nơi kêu gọi, như ở trong ngục tù, tướng chết hiện trước mắt. Chúng tôi ngày nay, quay về Đại vương, chúng tôi thấy Đại vương trí tuệ, nhân từ; ở với Đại vương, chúng tôi sẽ sinh được tưởng an lạc, được tưởng yêu thương, được tưởng kính ái, được tưởng thân mạng, được tưởng bảo về, được tưởng kho báu, tưởng gặp bờ bến, tưởng gặp đường đạo, tưởng gặp được thuyền bè, tưởng thấy được châu báu, được tưởng tài lợi, được tưởng bay lên cung trời, lìa được oan gia tưởng, diệt được các khổ tưởng.
Nhà vua nghe những lời nói như vậy rồi, liền chứng được trăm vạn a-tăng-kỳ pháp môn Đại bi, nhất tâm suy nghĩ và khởi ý quán sát, rồi phát ra mười lời Đại bi. Sao gọi là mười?
Nghĩa là: Thương thay chúng sinh, bị đọa lạc vào hầm sâu sinh
tử không đáy. Ta phải làm sao nhanh chóng cứu vớt, làm cho họ được ra khỏi và an trụ địa vị Nhất thiết trí của Như Lai.
Thương thay chúng sinh, bị các phiền não bức bách thân tâm. Ta phải làm sao để cứu giúp cho họ an trụ tất cả trong đạo thiện nghiệp.
Thương thay chúng sinh, thường sợ sệt bởi các sự sinh, già, bệnh, chết. Ta phải làm sao làm chỗ quay về nương tựa, cho họ, để họ lìa khỏi sự trói buộc, khiến cho thân tâm được an ổn.
Thương thay chúng sinh, thường bị nhiều thứ đáng sợ ở thế gian bức hại thân họ. Ta phải làm sao để cứu giúp, khiến cho họ được khỏi tất cả ách nạn, an trụ đạo Nhất thiết trí của Như Lai.
Thương thay chúng sinh, không có con mắt trí, nên thường bị thân kiến, nghi hoặc che lấp. Ta phải làm sao tìm mọi phương tiện, để cho họ lột được mạc nghi kiến che mắt.
Thương thay chúng sinh, thường bị mê hoặc làm cho suy ám, nên xa lìa pháp lành. Ta phải làm sao đốt ngọn đuốc trí tuệ, chiếu hết vô minh cho họ, làm cái thành Nhất thiết trí hiển hiện giải thoát rốt ráo cho họ.
Thương thay chúng sinh, thường bị nhiều thứ tật đố, dèm pha làm tâm họ bị nhơ loạn. Ta phải làm sao tìm cách khai tỏ làm cho họ chứng được Pháp thân thanh tịnh.
Thương thay chúng sinh, trôi lăn mãi trong biển lớn sinh tử, khắp cả thế giới. Ta phải làm sao tìm thuyền bè để chở họ qua hết, làm cho họ được vào biển Nhất thiết trí.
Thương thay chúng sinh, các căn ngang ngược, xa lìa Đại Sư Điều Ngự Vô Thượng, tất cả thế gian không ai có thể điều phục. Ta phải làm sao làm Điều ngự sư để khiến cho họ thành thục các thiện căn, đầy đủ năng lực, đại oai thần của Như Lai.
Thương thay chúng sinh, giống như đui mù, không thấy chánh đạo, đi theo đường tà. Ta phải làm sao, mở con mắt trí tuệ để dẫn đường, làm cho họ được vào cửa Nhất thiết trí.
Khi Đại vương, phát mười tâm Đại bi này và đã nói như vậy rồi, thì liền ở trong đại chúng, nơi Kinh đô, đánh trống ra lệnh khiến cho mọi người đều nghe biết: “Ta nay bố thí cho khắp tất cả chúng sinh, tùy theo sự mong cầu đều được đầy đủ”.
Liền khi đó, vua ban xuống cho các thành phố lớn nhỏ trong cõi Diêm-phù-đề và các xóm làng, đều mở hết kho tàng, đem ra nhiều thứ vật báu để nơi ngã tư đường. Đó là các thứ báu: Vàng, bạc, lưu ly, ngọc Ma-ni, y phục, thức ăn, hương hoa, lọng che, hương bột, hương xoa, nhiều thứ anh lạc, cung điện, nhà cửa, giường ghế, vật dụng để nằm, tất cả đồ cần dùng đều đầy đủ; dựng làm một cây cờ báu lớn bằng ngọc Ma-ni sáng rực, ánh sáng đó chiếu đến thân, đem đến sự an ổn, diệt trừ được tối tăm và phát ra ánh sáng; rồi tùy theo chỗ mà tâm mong muốn, họ sẽ có được đầy đủ. Lại nữa, cũng tùy theo họ, mà biến hóa đủ loại thân hình, tất cả là để phục vụ, cung kính, cúng dường cho tất cả chúng sinh và bố thí thuốc thang để trị tất cả bệnh, vật cần dùng cho đời sống, nhiều thứ vật dụng báu, các thứ báu để lẫn lộn. Đó là bình Kim cang; trong đó chứa đầy các thứ hương báu, các vật có mùi hương, đầy các thứ y phục, ngọc Ma-ni báu dùng để trang sức rất đẹp; các loại xe có các báu anh lạc làm màng báu, lưới báu che phủ xung quanh; dựng các thứ cờ phướn rất cao rất đẹp. Như vậy, tất cả các vật cần dùng, đều đã mở kho chứa đem ra cung cấp; cũng cho tất cả thôn, dinh, thành, ấp, núi rừng, đầm hồ, vợ con, quyến thuộc và cả ngôi báu; cho đến đầu, mắt, mũi, tai, môi, lưỡi, răng, tay, chân, da thịt, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột non, mỡ chài, mỡ nước, gân mạch, tất cả những phần của thân thể và trong ngoài có gì đều xả bỏ hết.
Lúc bấy giờ, ở cửa Đông thành của vua Diệu Bảo Sa-la Trang Nghiêm Vân Đăng, tên là Ma-ni sơn oai đức. Ở ngoài cửa thành có một hội thí lớn, đặt tại một vùng đất rộng lớn, sạch sẽ, bằng phẳng, không có các hầm hố gai gốc, đất đá. Tất cả đều từ của báu đẹp làm thành; các thứ hoa báu rải đầy các hương thơm được xông lên, vô số ngọc Ma-ni vương báu trang sức xinh đẹp, đốt các đèn báu trang sức xinh đẹp, các đèn báu được đốt lên ánh sáng chiếu rực khắp nơi; tạo thành ngọn lửa báu cát tường. Mây hương oai đức tỏa khắp hư không, vô lượng cây báu mọc từng hàng theo thứ tự phân bố rất xinh đẹp cả vùng. Có rất nhiều cung điện lầu gác của cõi trời, người với đủ các loại xinh đẹp, nhiều loại cờ phướn, nhiều loại lọng lưới luôn tỏa ra ánh sáng, lưới báu Câu-tô-ma và tất cả lưới báu hương vương che khắp ở trên. Các linh báu lay động nhẹ đủ phát ra tiếng rất hay, có vô lượng trăm ngàn ức Na-do-tha các khí cụ âm nhạc, thường phát ra tiếng vi diệu. Như vậy, tất cả đều dùng các thứ báu tốt đẹp để trang nghiêm. Những thứ ấy đều là nhờ quả báo thanh tịnh của Bồ-tát được thành tựu. Trong hội ấy, có đặt một tòa Sư tử làm bằng mười loại báu xinh đẹp, để ở trên mặt đất; có mười hành lang chiếu ánh sáng lớn; có mười loại cây báu nhánh lá đỡ nhau, che rũ xung quanh rất xinh đẹp, rất chắc chắn; có bánh xe báu bằng Kim cang để nâng ở dưới; dùng có tượng long thần làm bằng các báu để đỡ các vật báu, ở những chỗ trống, dùng màu sắc xen lẫn để trang sức nhằm hiện lên đức tướng, cả một vùng có nhiều màu sắc rất trang nghiêm. Tất cả cờ báu, tất cả phướn báu giăng hàng thẳng tắp khắp nơi; nhiều lưới linh báu, lưới Ma-ni báu, lưới nhiều hoa báu, lưới đại Ma-ni vương được giăng phủ ở trên. Vô lượng hương báu, luôn tỏa ra mây thơm, nhiều áo quý báu phân bố mọi nơi, trăm ngàn nhạc, vượt khỏi chư Thiên, trổi lên âm thanh hay, làm vừa ý mọi người. Còn ở phía trên thì căng các lọng báu, luôn phóng ra vô lượng ánh sáng báu, như vàng Diêm-phù trong sáng rực rỡ, các thứ mão hoa; những chuông, vô số ngọc Ma-ni bảo vương làm đai quấn quanh từng lớp, linh ngọc Ma-ni với đủ các màu sắc, thường phát ra âm thanh vi diệu, khuyên các chúng sinh tu hành mười điều thiện.
Khi ấy, ở dưới lọng báu Nhất thiết pháp viên mãn, vua Đại Sư tử Hống Diệu Âm thanh, ngồi ở tòa Sư tử, đầy đủ sắc đẹp, dáng mạo đoan chánh, các tướng đầy đặn, rất là thanh tịnh thế gian không ai có thể sánh bằng. Dùng ngọc Tỳ-lô-giá-na Ma-ni bảo vương làm mão, thân Na-la-diên không thể hư hoại, mỗi mỗi chi phần đều tròn đặn, tánh thiện Phổ Hiền ở trong người nhà vua, sinh ra tài và pháp, tất cả đều được tự tại, biện tài vô ngại, trí tuệ sáng suốt, dùng chánh pháp trị nước không ai trái lệnh. Tất cả chúng sinh, đều khen ngợi đức vua, có vô lượng, vô biên công đức thù thắng, ánh sáng rực rỡ chiếu vượt qua đến trời Đế Thích, ai thấy cũng không chán. Thường tại hư không, hiện ra lọng lớn như bánh xe, căm xe bằng tăm ngàn số ngọc Ma-ni bảo tạng, với vô số ánh lửa báu oai đức tốt lành, ánh sáng xinh đẹp như vàng Diêm-phù-đàn, phóng hào quang thanh tịnh, bao phủ ở trên. Có nhiều lưới bằng vàng với đủ loại màu sắc xinh đẹp, cùng trân châu, anh lạc rũ xuống xung quanh, lại dùng dây báu treo các chuông báu, cùng trang sức nhiều thứ báu, luôn phát ra tiếng vi diệu hơn hẳn nhạc chư Thiên, để giác ngộ thế gian, tuyên dương hạnh lành. Lại có quạt rất đẹp, được dệt bằng tơ báu quạt ra gió thơm, phát thêm oai đức.
Lúc bấy giờ, ở trong cõi Diêm-phù-đề này, có vô lượng vô số trăm ngàn vạn ức na-do-tha chúng sinh với nhiều cõi nước khác nhau, chủng loại khác nhau, quyến thuộc khác nhau, hình dáng khác nhau, y phục khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, tâm hạnh khác nhau, dục lạc khác nhau, với mong cầu khác nhau, về tài bảo khác nhau, của cải vốn liếng khác nhau, sự sử dụng khác nhau đều đến hội thí này, quán sát đức vua kia, rồi dùng ngôn ngữ khác nhau, ý nghĩa khác nhau, biện tài khác nhau, câu văn khác nhau để cùng tán thán đức vua ấy: Ngài là bậc trí lớn, phước như núi Tu-di, công đức thù thắng tròn đầy như trăng sáng; ngài là bậc trượng phu được tự tại không chướng ngại, trụ ở hạnh nguyện bố thí rộng lớn của Bồ-tát.
Khi đức vua thấy các người kia tập họp đến cầu xin mình, liền sinh tâm ái kính, sinh tâm thương xót, sinh tâm hoan hỷ, sinh tâm tôn trọng, sinh tâm rộng lớn, sinh tâm bạn lành, sinh tâm liên tục, sinh tâm tinh tấn, sinh tâm không thoái lui, sinh tâm thí xả, sinh tâm trùm khắp, sinh tâm bình đẳng, sinh tâm thanh tịnh, sinh tâm thành tựu, sinh tâm nhanh chóng, sinh tâm thấy tất cả như Thiện tri thức.
Này thiện nam! Bấy giờ, đức vua đó, thấy các người cầu xin, nên sinh tâm đại hoan hỷ. Trong một khoảnh khắc, giả sử Chuyển luân thánh vương đực thọ nhận sự khoái lạc trong tận vô biên kiếp, cũng không bằng; cũng vậy sự hưởng thụ khoái lạc của vua trời Đaolợi, vua trời Dạ-ma, vua trời Đâu-suất-đà, ở trăm ngàn ức na-do-tha kiếp thọ nhận khoái lạc cũng không bằng. Vua trời Thiện hóa, ở vô số kiếp, thọ nhận khoái lạc, vua trời Tự tại, ở vô số kiếp, thọ nhận sự khoái lạc; vua trời Đại phạm, ở vô số kiếp, thọ nhận Phạm lạc; vua trời Quang âm, ở nhiều kiếp khó nghĩ lường, thọ nhận sự Thiên lạc; vua trời Biến tịnh, ở vô tận kiếp, thọ nhận sự thiên lạc; vua trời Tịnh cư, với không thể nói kiếp trụ nơi lạc vắng lặng hết thảy đều không thể bì kịp.
Ví như có người: Nhân, từ, hiếu, thuận, gặp nạn ở đời, cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, nội ngoại, tôn thân, đều thất lạc, bỗng nhiên gặp nhau trên đường nơi hoang dã, họ an ủi nhìn nhau thắm thiết vô cùng.
Đức vua đó khi thấy những người đến cầu xin, sinh tâm ái kính, phấn khởi, vui mừng, cũng lại như vậy.
Này thiện nam! Bấy giờ, nhờ Thiện tri thức nên đức vua đối với Bồ-đề của Phật, càng thêm hiểu biết, các căn thành tựu, tín tâm thanh tịnh, hoan hỷ viên mãn không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát này chuyên tu các hạnh cầu Nhất thiết trí; nguyện được lợi ích cho tất cả chúng sinh, tâm không mệt mỏi, nguyện cho chúng sinh được đầy đủ tất cả y phục và đồ ăn uống; nguyện được Bồ-đề vô lượng diệu lạc, xa lìa tất cả tâm ác; nguyện luôn chứa nhóm tất cả căn lành; thường cầu nguyện luôn cứu giúp tất cả chúng sinh; thường ưa quán sát đạo Nhất thiết trí; thường ưa tu hành pháp Nhất thiết trí, làm cho sở nguyện của tất cả chúng sinh được đầy đủ, vào biển lớn công đức của tất cả chư Phật; phá tất cả nghiệp ma và núi chướng hoặc, thọ trì thuận theo tất cả lời Phật dạy; thực hành đạo Nhất thiết trí không chướng hoặc; có thể vào sâu dòng Nhất thiết trí và tất cả dòng pháp, thường hiện ở trước, đại nguyện không cùng, làm Đại trượng phu trụ ở pháp đại nhân, chứa nhóm khắp tất cả các tàng của pháp môn thiện, nguyện xả bỏ tất cả tâm chấp trước, không nhiễm tất cả cảnh giới của thế gian; biết tánh của các pháp giống như hư không.
Đức vua, đối với tất cả các người đều cầu xin kia, tưởng như con một, tưởng như cha mẹ, tưởng ruộng phước, tưởng bạn lành, tưởng khó được gặp, tưởng ân nghĩa lợi ích, tưởng giúp đỡ, tưởng vứng chắc, tưởng Đạo sư, tưởng Như Lai, không lựa chọn xứ sở, không lựa chọn họ hàng, không lựa chọn hình dáng. Bất kỳ ai có đến, tùy theo chỗ mong cầu của họ, tùy theo xứ sở, tùy theo cõi nước, như chỗ mong cầu, như chỗ ưa thích của họ, mà dùng tâm đại Bi, bình đẳng không chướng ngại, dùng ánh sáng đại xả chiếu sáng tất cả, thích ứng theo tâm của chúng sinh, làm cho họ không thiếu.
Với người cầu ăn uống, thì cho ăn uống; người cầu quần áo, cho quần áo; người cầu hương hoa, cho hương hoa, người cầu lọng che, cho lọng che. Như vậy, có người cầu tràng phan, anh lạc, cung điện, vườn, voi ngựa, xe cộ, giường, tòa ngồi, mền nệm, vàng bạc, ngọc Ma-ni, trân châu, lưu ly, ngọc bích, ngọc trai, các thứ vật báu, tất cả kho chứa, các quyến thuộc, thể nữ, phi tần, thành ấp, xóm làng, vườn rừng, nhà cửa. Tất cả đều đem cho khắp chúng sinh như vậy.
*********
Lúc ấy, trong hội thí này, có nữ Trưởng giả tên là Bảo Quang Minh, cùng với sáu mươi đồng nữ quyến thuộc vây quanh, xinh đẹp đoan chánh, mọi người thấy đều hoan hỷ, da màu hoàng kim, mái tóc và mắt xanh biếc, vẻ đẹp viên mãn, sắc tướng đầy đủ, thân tỏa ra hương thơm; tiếng nói như Phạm âm, trang sức bằng áo báu thượng diệu; luôn biết hổ thẹn; chánh niệm không loạn, có trí tuệ lớn, đi đứng dịu dàng, đầy đủ oai nghi, cung kính sư trưởng, thanh tịnh tối thắng; tâm không buông thả, thường nghĩ và làm theo diệu hạnh sâu xa; nghe pháp ghi nhớ, thọ trì không quên. Thiện căn đời trước thấm nhuần trong tâm, tương tự như quả thù thắng được thành tựu, thanh tịnh rộng lớn giống như hư không, an trụ bình đẳng với chúng sinh, thường thấy chư Phật, tận khắp cả pháp giới cầu Nhất thiết trí. Nữ trưởng giả đi đến gần nhà vua, chắp tay đảnh lễ với tâm cung kính, suy nghĩ: “Ta được thiện lợi! Ta nay được gặp đại Thiện tri thức, bậc rất khó gặp, hôm nay được gặp”.
Khi đó, nữ Trưởng giả đối với vua, tưởng như đại sư, tưởng như Thiện tri thức tối thắng, tưởng Từ bi đầy đủ, tưởng có thể thâu nhận. Tâm nghĩ ngay thẳng, thanh tịnh tối thắng, sinh tâm hoan hỷ rộng lớn, liền cởi những xâu chuỗi anh lạc đeo trên thân mình, đem cúng dường cho đức vua và nói lời nguyện: “Nay Đại vương nguyện vì tất cả vô lượng, vô biên chúng sinh không có chủ, không nơi nương tựa, không sáng suốt, mở hội thí lớn cứu giúp thành tựu sự lợi ích được chiếu sáng, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Tôi nguyện nơi đời vị lai cũng lại như vậy. Như pháp Đại vương đã nhận biết, như xe cộ Đại vương đã chuyên chở, như đạo Đại vương đã tu tập, sắc tướng sẽ được đầy đủ; cứu hộ chúng hội vô biên, vô tận, không hơn không hoại. Tôi nguyện nơi đời vị lai đều được thành tựu, Đại vương sinh ở đâu, tôi nguyện sinh ở đó”.
Bấy giờ, đức vua biết đồng nữ này đã phát tâm, phát nguyện như vậy, nên quán sát tâm ý ưa thích của cô, rồi bảo:
–Đồng nữ nên biết! Ta sẽ đáp ứng sự mong muốn của cô. Tất cả những vật sở hữu, nay ta đều xả bỏ với tâm bình đẳng, không phân biệt để làm cho các chúng sinh được đầy đủ. Vậy cô nên tùy ý lấy những vật cô cần.
Khi ấy, Đồng nữ Bảo Quang Minh, với tín tâm thanh tịnh, hết sức vui mừng, nhanh chóng tăng trưởng tất cả căn lành, liền dùng diệu kệ, để khen ngợi vua:
Thuở xưa đô thành Sa-la này
Thánh vương oai đức chưa xuất hiện
Mọi việc ở đời thật thậm hại
Đáng sợ giống như cõi ngạ quỷ
Tất cả chúng sinh sát hại nhau
Tính dâm dật, trộm cắp khó dạy
Nói thô ác, giả dối, không thật
Lời tạp uế, chia rẽ, vô nghĩa
Thường hay chiếm đoạt tài vật người
Ôm tâm sân hận, tâm độc hại
Nương tà ác kiến, không hành thiện
Nhân đó khi chết sinh đường ác
Những hạng chúng sinh phi pháp này
Bị ngu si tăm tối mê mờ
Hành theo tà kiến, diệt chánh pháp
Do đó trời rồng không mưa xuống
Trải qua nhiều năm bị hạn hán
Cả trăm thứ lúa đều không mọc
Cây cối, thảo dược, đều khô cháy
Dòng suối lớn nhỏ cũng cạn kiệt.
Thuở xưa đại vương chưa ra đời
Sông, ao và giếng đều cạn hết
Tất cả ruộng vườn đều bỏ hoang
Xương trắng ngổn ngang khắp đồng trống
Nay nhờ đại vương ngự ngôi báu
Thương tưởng tất cả các chúng sinh
Gió mưa màu mỡ khắp tám phương
Toàn thể đại địa đều thấm nhuần
Đại vương xuất hiện làm chủ đời
Chặn đứng trộm cướp, dứt gian dối
Tất cả lao ngục đều bỏ trống
Những kẻ côi cút khỏi âu lo.
Khi xưa thế giới loài chúng sinh
Cùng nhau sát hại tạo oán thù
Ăn thịt uống máu không thấy chán
Ngày nay thân nhau bằng tâm lành
Thời xưa chúng sinh trong cõi này
Nghèo nàn đến nỗi không áo mặc
Đói khát ốm gầy như ngạ quỷ
Che thân bằng cỏ chịu khổ lạnh
Nay đại vương đang hiện ở đời
Lúa thơm quả ngọt tự nhiên sinh
Cây kiếp ba sinh ra áo đẹp
Tất cả nam nữ đều trang sức
Ngày xưa cầu nhiều thứ phi pháp
Cạnh tranh chiếm đoạt cả lợi nhỏ
Ngày nay đồ đẹp được đầy đủ
Tự tại vui mừng như cõi trời
Thuở xưa phóng tâm tạo nghiệp ác
Buông thả chẳng biết, tham nhiễm sinh
Làm việc tà dâm với vợ người
Cho đến xâm chiếm nhiều thứ khác
Ngày nay được thấy các người nữ
Hình sắc đoan nghiêm, trang sức đẹp
Tâm luôn thanh tịnh không nhiễm đắm
Biết đủ giống như trời Đâu-suất
Khi xưa chúng sinh trong thế giới
Nói dối, thô ác và ly gián
Luôn sinh ý tà diệt chánh pháp
Tạp uế dua nịnh theo ý người
Ngày nay tất cả loài chúng sinh
Thảy đều xả bỏ lời thô ác
Nói năng êm dịu vừa ý người
Lắng nghe, tất cả đều hoan hỷ.
Đại vương nay nói diệu pháp âm
Chúng sinh nghe được đều vui mừng
Ca-lăng-tần-già, tướng Phạm thiên
Dẫu nhạc chư Thiên không sánh kịp
Trên đỉnh đại vương che lọng báu
Trang nghiêm bằng các thứ báu đẹp
Ngọc báu lưu ly nhiều điềm lành
Che bằng các lưới ngọc ma-ni
Linh vàng tự nhiên phát tiếng hay
Âm thanh vượt bậc không gì bằng
Xiển dương tất cả các pháp Phật
Trừ diệt mê lầm cho chúng sinh
Lại tiếng kinh này diễn nói rộng
Hiện tại các cảnh giới mười phương
Tất cả chư Phật trong biển kiếp
Đầy đủ danh xưng và quyến thuộc
Lại tiếng linh ấy diễn tuần tự
Các cõi mười phương trong quá khứ
Trong đó chư Phật và tên cõi
Đã chuyển pháp luân không cùng tận
Nơi linh lại phát tiếng pháp luân
Âm thanh vang khắp cõi Diêm-phù
Thuyết cho Thích, Phạm và chúng sinh
Chỗ các nghiệp nương đều sai khác
Trời người nghe âm thanh ấy rồi
Thảy đều tự biết các tạng nghiệp
Xa ác, hướng lành, siêng tu hành
An trụ đạo Bồ-đề của Phật
Vua cha hiệu là Tịnh Quang Minh
Mẫu hậu hiệu là Liên Hoa Quang
Đương lúc đời ngũ trược hưng thạnh
Xuất hiện làm vua trị thiên hạ
Khi ấy có một vườn rộng lớn
Trong vườn có năm trăm ao sen
Bao quanh trăm ngàn cây cổ thụ
Đèn, hoa, ma-ni treo khắp nơi
Trên bờ của mỗi ao sen ấy
Dựng lên ngàn cung điện trang nghiêm
Dùng các thứ báu làm lan can
Thường chiếu ánh sáng nửa vầng trăng
Cuối đời vua ấy pháp ác sinh
Nhiều năm nắng hạn trời không mưa
Nước nơi các ao đều cạn kiệt
Các loại cỏ cây đều khô héo
Bảy ngày trước lúc đại vương sinh
Đã hiện tướng điềm lành hiếm có
Chúng sinh trông thấy đều nói:
Vị cứu hộ đời nay xuất hiện
Ngay trong đêm ấy, khắp thế giới
Tất cả đại địa đều chấn động
Trong ấy có một ao sen báu
Tỏa ánh sáng lớn như mặt trời
Xung quanh có năm trăm ao sen
Đều tràn đầy nước tám công đức
Tràn đến khắp cõi Diêm-phù đề
Các nơi tràn đến đều thấm ướt
Toàn thể rừng hoa và dược thảo
Trăm thứ lúa mạ đều nảy mầm
Toàn thể nhánh lá và hoa trái
Như vậy tất cả đều sum suê
Tất cả ngòi lạch hố và gò
Cho đến tất cả chỗ cao thấp
Đất đai như thế cõi Diêm-phù
Ngày nay toàn thể đều bằng phẳng
Tất cả gai góc và sỏi đá
Cùng những tạp uế cõi Diêm-phù
Tất cả thứ ấy trong một niệm
Đều biến thành các báu trang nghiêm
Khi ấy chúng sinh thấy như vậy
Toàn thể cùng vui mừng khen ngợi
Đều nói nay tôi được lợi lớn
Như người bị khát thèm nước ngọt
Lúc vua Quang Minh chủ cõi ấy
Ra lệnh quần thần cùng quyến thuộc
Tiền hô hậu ủng ngàn dặm đường
Để vua dạo xem các vườn hoa
Lúc ấy, trong số năm trăm ao
Có một ao sen tên Khánh hỷ
Bên bờ ao ấy có pháp đường
Vua và phu nhân ở lại đó
Đức vua Quang Minh bảo phu nhân
Ta nhớ lại bảy đêm về trước
Núi non đất đai đều chấn động
Bên trong ao này ánh sáng hiện
Đồng thời ao thơm Khánh hỷ này
Bỗng nhiêm mọc hoa báu ngàn cánh
Ánh sáng chiếu đến đỉnh Tu-di
Như lưới mây sáng ngàn mặt trời
Cuốn sen toàn bằng kim cương báu
Đài sen bằng vàng Diêm-phù-đàn
Cánh lá toàn ngọc ma-ni trong
Nhụy sen bằng hương thơm quang tạng
Đại vương sinh từ hoa sen ấy
Ngồi kiết già đoan nghiêm bất động
Tướng tốt soi sáng thật trang nghiêm
Trăm ngàn chúng Thiên đều cung kính
Khi ấy vua cha rất vui mừng
Liền đến ao ấy bồng đem về
Hai tay bế đến trao phu nhân
Con ái khanh đây nên vui mừng
Trăm ngàn kho báu đều xuất hiện
Tất cả cây báu sinh áo đẹp
Chư Thiên tấu nhạc âm vi diệu
Vang khắp tất cả cõi hư không
Toàn thể chúng sinh cõi Diêm-phù
Đều hướng về vua tâm hoan hỷ
Cùng nhau chắp tay xướng thế này:
Lành thay! Đấng cứu đời xuất hiện
Thân vua khi ấy phóng ánh sáng
Ánh sáng chiếu khắp các chúng sinh
Toàn thể thiên hạ trong một niệm
Thân bệnh bóng tối đều trừ diệt
Dạ-xoa, La-sát, Tỳ-xá-xà
Tất cả độc trùng và thú dữ
Sắp muốn làm hại các chúng sinh
Thảy đều ẩn nấp, tự trốn tránh
Hủy bỏ đói khổ, thứ không lợi
Các thứ tai nạn, bệnh đã mắc
Các khổ như vậy đều tiêu trừ
Thế gian an lạc, cùng hoan hỷ
Cho đến tất cả loài chúng sinh
Thân thiết nhìn nhau như cha mẹ
Lìa các oán hại khởi tâm Từ
Ý chuyên cần, tu Nhất thiết trí
Đại vương đóng cửa các đường ác
Mở tất cả đường đến trời, người
Tạo ích cho tất cả chúng sinh
Chỉ bày xiển dương Nhất thiết trí
Chúng ta nay được thấy Đại vương
Được khắp tất cả các lợi lành
Không chủ, không về, không thầy dạy
Hôm nay tất cả đều an lạc
Lúc ấy, Đồng nữ Bảo Quang Minh, dùng diệu kệ này, khen ngợi vua Nhất Thiết Pháp Viên Mãn Bảo Cái Đại Sư Tử Hống Diệu Âm Thanh, rồi nhiễu quanh vô số vòng, chắp tay đảnh lễ, cúi mình cung kính, đứng qua một bên.
Bấy giờ, Đại vương quán sát khắp nơi, rồi bảo đồng nữ:
–Lành thay! Đồng nữ! Cô có thể tin, hiểu công đức của người khác thì rất là hy hữu. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh thường hay che lỗi của mình, nêu lỗi của người khác, tự xưng mình có đức, che căn lành của người, không thể tin, biết công đức của người khác. Đồng nữ nên biết! Tất cả chúng sinh bị các thứ ngu tối che lấp, phiền não trói buộc, không biết hổ thẹn, không biết báo ân, không có trí tuệ, tâm luôn trược loạn, tánh không sáng suốt vốn không có chí lực, thoái chuyển nẻo tu. Người như vậy không tin, không hiểu, không biết rõ các công đức của Bồ-tát và Như Lai, không thể phân biệt Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo là ruộng phước tối thắng, không biết pháp môn thanh tịnh, thần thông, trí tuệ, tùy thuận tư duy của tất cả chư Phật, Bồ-tát.
Này đồng nữ! Cô nay quyết định hướng cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, có thể biết công đức sâu xa rộng lớn của Bồ-tát như vậy, có thể tin, có thể hiểu. Cô nay sinh trong cõi Diêm-phù đề này, phát tâm dũng mãnh, tu hạnh Bồ-tát, nhiếp hóa khắp chúng sinh, công đức không tổn giảm. Theo như sở nguyện, cô sẽ thành tựu công đức như vậy, phước lực như vậy, lợi ích như vậy, tất cả đều đầy đủ.
Khen đồng nữ rồi, tự tay vua lấy những chiếc áo, được trang nghiêm bằng ngọc ma-ni, nhiều vẻ đẹp, rực như ánh lửa quý vô giá, trao cho Đồng nữ Bảo Quang Minh và các quyến thuộc, rồi bảo:
Này các đồng nữ! Hãy nhận lấy áo đẹp và mặc vào.
Lúc này, các đồng nữ, quỳ hai gối sát đất, hai tay nâng áo đặt trên đầu, sau đó mới mặc; mặc xong nhiễu quanh bên phải vua, cúi đầu làm lễ. Khi đó, những ngọc báu trong tấm áo báu kia, chiếu ra ánh sáng như các vì sao. Thấy vậy mọi người đều nói: Các đồng nữ này đều đoan trang, xinh đẹp, giống như các vì sao lấp lánh trang điểm cho bầu trời đêm.
Bấy giờ, Thần chủ về đêm Năng Khai Phu Nhất Thọ Hoa An Lạc bảo Đồng tử Thiện Tài:
Này thiện nam! Ý ông thế nào? Vua Nhất Thiết Pháp Viên Mãn Bảo Cái Đại Sư Tử Hống Diệu Âm Thanh, vào thời bấy giờ, đâu phải ai khác, nay chính là Đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác; vua Quang Minh tức là vua Tịnh Phạn, phu nhân Liên Hoa Quang tức là phu nhân Ma-da, Đồng nữ Bảo Quang Minh tức là thân ta vậy. Chúng sinh được nhà vua dùng bốn Nhiếp pháp, thâu nhận giáo hóa lúc ấy, tức là chúng trong đạo tràng lớn này. Tất cả Bồ-tát vân tập đến, đều ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác được không thoái chuyển, hoặc trụ ở Sơ địa Cực hỷ của Bồ-tát, hoặc địa Ly cấu, hoặc địa Phát quang, hoặc địa Diệm tuệ, hoặc địa Nan thắng, hoặc địa Hiện tiền, hoặc địa Viễn hành, hoặc địa Bất động, hoặc địa Thiện tuệ, hoặc địa Pháp vân. Mỗi mỗi đều đầy đủ các đại nguyện, tập hợp nhiều pháp trợ đạo, tu nhiều diệu hạnh, chuẩn bị đủ các thứ trang nghiêm, được nhiều sự thanh tịnh, được nhiều thần thông, du hóa tự tại, trụ nơi vô số nẻo giải thoát, từ đủ các phương chốn đến pháp hội này, ở chỗ có đủ các thứ cung điện diệu pháp.
Lúc ấy, Thần chủ về đêm Năng Khai Phu Nhất Thiết Thọ Hoa An Lạc, muốn làm cho Đồng tử Thiện Tài hiểu rõ nghĩa của pháp môn giải thoát này, nên nói kệ rằng:
Phật tử, ta có mắt rộng lớn
Có thể quán sát khắp mười phương
Trong nhiều biển cõi rất rộng lớn
Năm đường chúng sinh luân hồi mãi
Cũng thấy tất cả Phật cõi ấy
Tịch diệt an tọa cội Bồ-đề
Thần thông biến hóa khắp mười phương
Nói pháp điều phục các chúng sinh.
Phật tử, ta có tai tịnh diệu
Nghe khắp tất cả tiếng vô tận
Cũng nghe chư Phật chuyển pháp luân
Có thể tin nhận sinh hoan hỷ.
Phật tử, ta có Tha tâm trí
Vượt qua cảnh giới tâm chúng sinh
Không hại, không ngại nhiều vô biên
Một niệm đều rõ các biển tâm.
Phật tử, ta có Túc mạng trí
Đều biết quá khứ các biển kiếp
Thân ta thân người chỗ thọ sinh
Một niệm phân minh đều hiểu rõ.
Phật tử, ta ở trong một niệm
Biết hết các cõi cực vi kiếp
Phật và Bồ-tát các thần thông
Năm đường luân chuyển loài chúng sinh.
Ta cũng biết các Thế Tôn kia
Mới phát Bồ-đề nguyện rộng lớn
Tất cả biển hạnh đều tu hành
Cho đến sẽ thành Nhất thiết trí.
Cũng biết Phật kia, địa quán đỉnh
Đầy đủ không thiếu đạo Bồ-đề
Phương tiện thuyết pháp thảy chẳng không.
Ta ở một niệm đều hiểu rõ
Cũng biết môn phương tiện, của Phật
Chuyển đại pháp luân khắp thế gian
Niết-bàn vô lượng các công đức
Pháp trụ lâu mau đều hiểu rõ
Cũng biết Phật kia muốn điều phục
Giáo pháp rộng lớn các biển thừa
Hiển bày tất cả các thế gian
Nhiều thứ sai khác đều hiểu rõ
Ta ở vô lượng, vô biên kiếp
Tu môn giải thoát hỷ quang này
Nay vì ông nói nghĩa chân thật
Ông nên ưa thích dốc tu học
Này thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát Xuất sinh quaung đại hoan hyu đieau phục chuung sinh tạng phổ quang minh này của Bồ-tát. Còn như các Đại Bồ-tát: Gần gũi cúng dường tất cả các Đức Như Lai, vào biển đại nguyện rộng lớn Nhất thiết trí, đầy đủ tất cả biển nguyện của Như Lai: Được trí dũng mãnh; ở một địa Bồ-tát mà vào được khắp tất cả biển địa của Bồ-tát; được nguyện thanh tịnh nơi một hạnh của Bồ-tát, mà vào khắp tất cả biển hạnh của Bồ-tát, được sức tự tại ở một môn giải thoát của Bồ-tát, mà hội nhập khắp tất cả biển pháp môn giải thoát của Bồ-tát. Tôn trọng cung kính các Thiện tri thức, tăng trưởng căn lành thường không chán đủ; thừa sự tất cả chư Phật Bồ-tát; dốc cầu pháp môn Nhất thiết chủng trí; ưa thích quán sát, chánh niệm tư duy; tâm đã quyết định, thường không giãi đãi, không đắm chấp tất cả lợi dưỡng; cung kính khen ngợi danh tiếng, đối với các vật cần dùng ở đời, lìa hẳn tham đắm làm thỏa mãn tâm chúng sinh, coi đó như ngọc báu như ý; tâm thường ưa thích Nhất thiết trí địa; quán sát năng lực Như Lai, Vô sở úy với pháp Bất cộng của Phật, dốc cầu viên mãn tất cả hạnh Ba-la-mật của Bồ-tát, xa lìa nịnh hót huyễn hoặc; luôn làm theo lời nói, thường nói chân thật, giữ gìn hạt giống Phật, đối với Nhất thiết trí, tâm không lay động, luôn kiên cố như núi lớn ta làm sao có thể biết, có thể nói hết hạnh nguyện công đức ấy.
Này thiện nam! Trong hội Bồ-đề đạo tràng này của Như Lai, có một Dạ thần, tên là Thủ Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Nguyện Tinh Tấn Lực Quang Minh; ông có thể đến đó hỏi: “Bồ-tát làm thế nào để giáo hóa chúng sinh, khiến họ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Làm thế nào để trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật? Làm thế nào phụng thờ tất cả các Đức Như Lai? Làm thế nào để có thể làm cho tất cả các Đức Như Lai đều hoan hỷ? Làm thế nào để có thể ở tất cả chỗ của Bồ-tát, học được pháp Phật và chuyên cần tu tập?”
Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Dạ thần, nhiễu quanh vô số vòng, ân cần, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ tạ ra đi.
Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đi đến chỗ của Thần chủ về đêm
Thủ Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Quang Minh, thấy Thần chủ về đêm ấy, ở trong đại chúng, ngồi nơi tòa Sư tử Ảnh tượng ma-ni vương tạng, trong cung điện Phổ chiếu hiện nhất thiết chúng sinh hiện bày các hình tượng sai khác ở khắp pháp giới, dùng lưới ngọc Ma-ni báu giăng ở trên; hiện thân thành những ảnh tượng của mặt trời, mặt trăng, ánh sao; hiện thân tùy theo tâm của chúng sinh, khiến họ được thấy khắp như hiện thân thành các loài chúng sinh hình dáng khác nhau; hiện thân thành biển sắc tướng rộng lớn vô biên; hiện thân để thể hiện tướng oai nghi khắp tất cả; hiện thân mà ở khắp mười phương đều có thể ứng hiện; hiện thân để thành thục tất cả chúng sinh; hiện thân thành mây pháp thần thông rộng lớn, chuyên chở nhanh chóng; hiện thân liên tục đầy khắp mọi nơi, để lợi ích chúng sinh, hiện thân thường dạo đi trong hư không để làm lợi ích rộng lớn; hiện thân đến chỗ của chư Phật để cung kính đảnh lễ, hiện thân để làm tăng trưởng tất cả căn lành của chúng sinh; hiện thân để thọ trì pháp Phật thường không quên mất; hiện thân để viên mãn thệ nguyện rộng lớn của Bồ-tát; hiện thân hào quang chiếu soi đầy khắp mười phương; hiện thân làm ngọn đèn pháp chiếu khắp, để trừ diệt tối tăm cho thế gian; hiện thân thấu rõ các pháp như huyễn, trí sâu không nhiễm ô; hiện thân xa lìa tất cả pháp tánh trần cấu; hiện thân sinh ra pháp Phật để giác ngộ tất cả; hiện thân sai khác để chiếu ánh sáng trí nơi khắp; hiện thân rốt ráo không hoạn nạn, không phiền não, hiện thân chắc chắn, đầy đủ, không thể hủy hoại; hiện thân oai lực của Như Lai trụ không chỗ nương; hiện thân tánh không phân biệt, có thể lìa cấu nhiễm; hiện thân tánh các pháp vốn thanh tịnh, hiển hiện chiếu sáng.
Đồng tử Thiện Tài, thấy Thần chủ về đêm kia hiện thân sai khác nhiều như vi trần các cõi Phật như vậy rồi, nhất tâm đảnh lễ cúi mình sát đất, một hồi mới đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng, xem như Thiện tri thức, sinh mười thiện tâm. Những gì là mười? Nghĩa là:
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm đồng như mình, làm cho ta chuyên cần tinh tấn, hoàn tất pháp trợ đạo và Nhất thiết trí.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm nghiệp quả thanh tịnh, làm cho ta gần gũi, phát khởi căn lành thanh tịnh, thù thắng.
Đối với Thiện tri thức sinh tâm trang nghiêm hạnh Bồ-tát, làm cho ta có thể nhanh chóng trang nghiêm tất cả hạnh Bồ-tát.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm thành tựu tất cả pháp Phật, để dẫn dắt ta tùy thuận tu hành đạo của chư Phật.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm có thể sinh tối thắng, làm cho ta sinh trong cảnh giới của chư Phật được ánh sáng của trí chiếu khắp.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm xuất ly, làm cho ta tu hành hạnh xuất ly của Bồ-tát Phổ Hiền.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm có thể làm đầy đủ biển phước trí, khiến ta tích chứa những thành tựu các pháp thanh tịnh của phước trí.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm tăng trưởng, để làm cho ta tinh tấn, nhanh chóng tăng trưởng Nhất thiết trí.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm có thể tạo đầy đủ các căn lành, khiến ta chí nguyện đều được viên mãn, làm cho các chúng sinh sinh tâm hoan hỷ.
Đối với Thiện tri thức; sinh tâm có thể hoàn thành lợi ích lớn, làm cho ta lợi lạc tự tại, khiến chúng sinh an trụ nơi tất cả pháp của Bồ-tát, thành tựu đạo Nhất thiết chủng trí.
Đồng tử Thiện Tài phát tâm như vậy rồi, liền được đồng một hạnh với Thần chủ về đêm kia cùng các vị Bồ-tát nhiều như số cực vi trần nơi cõi Phật.
Đó là đồng tâm niệm: Thường nhớ nghĩ đến mười phương ba đời tất cả chư Phật. Đồng Tuệ phân biệt: Quyết định về tất cả biển pháp môn sai khác. Đồng hướng thiện xảo: Mở bày tất cả xe pháp vi diệu của Như Lai. Đồng giác ngộ: Dùng trí bình đẳng như hư không giác ngộ về tất cả giáo pháp của ba đời. Đồng căn trí: Thành tựu ánh sáng nơi trí thanh tịnh của Bồ-tát, chiếu khắp các biển căn của chúng sinh. Đồng tâm: Khéo có thể tu tập công đức vô ngại, trang nghiêm tất cả đạo Bồ-tát. Đồng cảnh: Ánh sáng của trí tuệ chiếu khắp tất cả cảnh giới nơi đối tượng hành hóa của Như Lai. Đồng Giáo: Đạt được Nhất thiết trí, chiếu khắp tất cả tướng của các biển giáo pháp. Đồng nghĩa: Có thể lấy trí tuệ để hiểu biết đúng tự tánh của tất cả các pháp. Đồng
Pháp trụ: Vào sâu trong tất cả biển pháp giới. Đồng Dũng mãnh: Được pháp Bất cộng phá dẹp tất cả núi chướng ngại. Đồng Sắc thân: Tùy theo tâm của chúng sinh, thị hiện vô số các thân tướng tốt. Đồng các lực: Dốc cầu thành tựu diệu lực của Nhất thiết trí, không thoái chuyển. Đồng Vô úy: Tâm luôn thanh tịnh giống như hư không, không có chướng ngại. Đồng Tinh tấn: Vô lượng kiếp, thực hành hạnh Bồ-tát không hề mệt mỏi. Đồng Biện tài: Được tất cả pháp và ánh sáng của trí không chướng ngại chiếu khắp. Đồng Vô đẳng: Thân tướng thanh tịnh, tất cả thế gian không gì có thể hơn. Đồng Ái ngữ: Phàm nơi lời nói điều khiển cho các chúng sinh luôn hoan hỷ. Đồng Diệu âm: Có thể như sư tử gầm diễn nói khắp tất cả biển pháp môn. Đồng Mãn âm: Dùng âm thanh viên mãn, làm cho các chúng sinh, tùy theo từng loại mà hiểu biết. Đồng Tịnh đức: Tùy thuận tu tập tất cả công đức thanh tịnh của Như Lai. Đồng Tịnh nghiệp: Thành tựu tất cả các nghiệp thiện của Bồ-tát. Đồng Trí địa: Vì các chúng sinh mà nhận tất cả pháp luân của chư Phật đã chuyển. Đồng Phạm hạnh: An trụ nơi cảnh giới của trí hành hóa nơi Như Lai. Đồng Đại từ: Niệm niệm che chở khắp tất cả biển chúng sinh trong các cõi nước. Đồng Đại bi: Khởi mây pháp lớn, tuôn mưa pháp xuống, thấm nhuần tất cả chúng sinh. Đồng Thân nghiệp: Dùng hạnh phương tiện giáo hóa thành tựu đầy đủ cho các chúng sinh. Đồng Ngữ nghiệp: Dùng âm thanh tùy theo mỗi loài, diễn nói tất cả pháp môn. Đồng ý nghiệp: Thâu phục giáo hóa khắp chúng sinh, đặt trong cảnh giới Nhất thiết trí. Đồng Trang nghiêm: Làm thanh tịnh trang nghiêm tất cả cõi Phật khắp mười phương. Đồng Thân cận: Thấy tất cả chư Phật xuất hiện ở đời đều nên gần gũi. Đồng Khuyến thỉnh: Thỉnh tất cả chư Phật vì các chúng sinh mà chuyển pháp luân. Đồng cúng dường: Thường ưa phụng sự, cúng dường tất cả các Đức Như Lai. Đồng Giáo hóa: Điều phục, thành thục cho tất cả chúng sinh trong thế gian. Đồng Quang minh: Có thể tự tại chiếu rõ khắp tất cả các pháp môn. Đồng Tam-muội: Biết khắp tất cả tâm chúng sinh nơi mười phương thế giới. Đồng Sung mãn khắp: Dùng sức tự tại ở khắp tất cả cõi để tu các hạnh. Đồng Trụ xứ: Trụ nơi biển thần thông của các Bồ-tát. Đồng quyến thuộc: Cùng ở chung một chỗ với tất cả Bồ-tát. Đồng Hướng nhập: Vào khắp mọi nơi chốn vi tế của thế giới. Đồng Tâm lự: Biết khắp các cõi Phật rộng lớn. Đồng Đi đến nơi:
Tùy thuận đi vào khắp tất cả biển cõi Phật. Đồng Phương tiện: Đều có thể thị hiện đầy đủ khắp tất cả cõi chư Phật. Đồng Vượt hơn: Ở trong khắp tất cả cõi Phật không gì có thể sánh. Đồng Bất thoái: Vào khắp mười phương, oai đức, bình đẳng, không có chướng ngại. Đồng Phá ám: Được ánh sáng chiếu soi khắp của trí nơi tất cả Phật thành Chánh giác. Đồng Vô sinh nhẫn: Vào tất cả biển đạo tràng của chư Phật mà không nhiễm chấp. Đồng Phổ biến: Thừa sự, cúng dường các Đức Như Lai nơi các cõi không thể nói hết. Đồng Trí Chứng: Tùy thuận biết rõ các biển pháp môn thường nối tiếp. Đồng Tu hành: Hiện tiền dốc cầu, tùy thuận tu hành tất cả các pháp môn. Đồng Mong cầu: Đối với pháp thanh tịnh, siêng cầu cùng khắp hợp với mọi ưa muốn sâu xa. Đồng Thanh tịnh: Tích tập công đức của chư Phật mà dùng để trang nghiêm thân, khẩu, ý. Đồng Diệu ý: Đối với tất cả pháp, biết phân biệt chân chánh nên có thể hiểu rõ. Đồng Tinh tấn: Dốc cầu được thành tựu tất cả các căn lành của Như Lai. Đồng Tịnh hạnh: Thành tựu đầy đủ tất cả các hạnh của Bồ-tát đã làm. Đồng Vô ngại: Giác ngộ, hiểu rõ tất cả các pháp đều là vô tướng. Đồng Thiện xảo: Có thể ở trong tất cả pháp của Như Lai, trí luôn được tự tại. Đồng Tùy lạc: Tùy theo tâm ưa thích của các chúng sinh mà hiện bày cảnh giới. Đồng Phương tiện: Khéo léo tu tập tất cả pháp môn nên tu tập. Đồng Hộ niệm: Được tất cả oai lực tự tại của chư Phật hộ niệm. Đồng Nhập địa: Được vào tất cả địa của chư Phật, Bồ-tát đã an trụ. Đồng Sở trụ: An trụ ở tất cả ngôi vị của chư Phật, Bồ-tát đã chứng đắc. Đồng Ký biệt: Được khắp tất cả chư Phật, Như Lai thọ ký riêng. Đồng Tam-muội: Ở trong một niệm mà vào khắp cả biển Tam-muội. Đồng Kiến lập: Ở trong một sát-na thị hiện tất cả sự việc của chư Phật. Đồng Chánh niệm: Chánh niệm tùy thuận nơi tất cả môn cảnh giới của Như Lai. Đồng Tu hành: Nơi tận kiếp vị lai, luôn dũng mãnh, tinh tấn, chuyên tu tất cả hạnh của Bồ-tát. Đồng Tịnh tín: Đối với trí tuệ vô lượng của các Như Lai nên nhanh chóng ái kính sinh khởi vui mừng. Đồng Xả ly: Diệt trừ tất cả các chướng ngại. Đồng Trí bất thoại: Cùng với trí tuệ bình đẳng của các Như Lai. Đồng Thọ sinh: Ứng hiện để thành tựu đầy đủ cho các chúng sinh. Đồng Chỗ trụ: An trụ vào môn phương tiện nơi Nhất thiết chủng trí của Như Lai. Đồng Cảnh giới: Có thể ở nơi cảnh giới của pháp tánh sâu xa mà được tự tại. Đồng Vô y: Diệt hẳn tất cả các nhiễm chấp mà tâm đã nương dựa. Đồng Thuyết pháp: Đã vào sâu các pháp môn nơi trí bình đẳng. Đồng Cần tu: Đối với bản thân mình thọ trì pháp Phật, oai đức của tự thể đã được hộ niệm. Đồng Thần thông: Khai ngộ chúng sinh, khiến họ tu tập tất cả hạnh Bồ-tát. Đồng Vô hành: Bất động nhưng vào sâu tất cả các biển cõi trong mười phương. Đồng Thần lực: Trong một niệm dạo khắp tất cả biển thế giới nơi mười phương. Đồng Tổng trì: Đã được môn soi chiếu khắp của tất cả biển Đà-la-ni. Đồng Bí mật: Biết rõ tất cả pháp môn vi diệu trong kinh điển. Đồng thậm thâm: Hiểu tất cả pháp là lìa tướng, là thanh tịnh như hư không. Đồng Quang minh: Phóng hào quang lớn chiếu khắp mười phương thế giới. Đồng Trí quang: Chiếu khắp hiển bày thể tánh nơi tâm của tất cả chúng sinh. Đồng Chấn động: Vì các chúng sinh mà hiện sức thần thông, oai đức tự tại, làm chấn động khắp cõi Phật ở mười phương. Đồng Bất hư: Tất cả chúng sinh ở nhiều phương, việc thấy, nghe nhớ nghĩ đều có thể làm cho tâm họ được điều phục. Đồng Xuất ly: Hành trì đầy đủ khắp các biển đại nguyện của Bồ-tát, thành tựu mười Trí lực của Như Lai. Đồng Hân lạc: Tùy theo tâm chúng sinh mà chỉ bày, khiến họ được vui vẻ.
Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài quán sát khắp vị chủ Thần chủ về đêm Thủ Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Quang Minh, khởi mười tâm rất thanh tịnh kia, được đồng hạnh với vô số Bồ-tát nơi cõi Phật này. Được hạnh như vậy, tâm càng thanh tịnh, nên đối với Thiện tri thức, đồng tử phát khởi vô lượng, vô biên hoan hỷ, rồi trịch áo bày vai phải, đảnh lễ sát chân Dạ thần, chắp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng, nói kệ khen ngợi:
Con phát ý tự tại vững chắc
Chí cầu Bồ-đề Phật vô thượng
Với Thánh giả là chỗ tri thức
Nên tự mình phát tâm không khác
Con nay được gặp Thiện tri thức
Tập hợp vô tận các thiện pháp
Trừ diệt tất cả các tội cấu
Thành tựu thanh tịnh quả Bồ-đề
Do con được gặp Thiện tri thức
Tâm trang nghiêm công đức lại nhiều
Tận kiếp vị lai trong các cõi
Dốc tu đạo lợi ích chúng sinh
Con nhớ Thánh giả Thiện tri thức
Thâu nhận tạo lợi ích thành tựu
Giúp đỡ con nên cố hiển bày
Pháp chân thật tối thắng tịch tĩnh
Đóng cửa các đường ác hiểm nạn
Khai mở đường tốt cõi trời người,
Cũng chỉ hết thảy các Như Lai
Dạy đạo vô sư thành chủng trí
Thánh giả hiếm có không ai bằng
Chứa công đức tối thắng của Phật
Vô lượng, không cấu như hư không
Được Nhất thiết trí, ưa thanh tịnh
Biển phước Thánh giả như hư không
Nay con đã thấy vô biên cõi
Trong mỗi niệm có thể sinh ra
Căn lành thanh tịnh Nhất thiết trí
Thưa Thần con đủ Ba-la-mật
Phước khó nghĩ bàn con tăng trưởng
Con đội mão lụa diệu pháp Phật
Công đức thanh tịnh càng tăng trưởng
Con nhớ Thánh giả Thiện tri thức
Cho con thành tựu trí chư Phật
Con nay thệ nguyện thường nương tựa
Nhanh chóng thành tựu các pháp thiện
Con nhờ bạn lành được lợi ích
Tất cả công đức đều đầy đủ
Hoan hỷ vì khắp các chúng sinh
Chỉ dạy tuyên dương Nhất thiết trí
Ngài nay cho con được làm thầy
Khiến con tu hành pháp vô thượng
Con ở trong vô số ức kiếp
Không thể báo ân đức cho thầy
Đồng tử Thiện Tài nói kệ khen ngợi rồi bạch với Dạ thần:
–Thánh giả! Cảnh giới không thể nghĩ bàn của Bồ-tát mà Thánh giả hiển bày cho thấy vừa rồi, xin nói cho con biết, pháp môn giải thoát này tên là gì? Từ khi phát tâm đến nay được bao lâu? Bao lâu nữa sẽ đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Thần chủ về đêm bảo:
–Này thiện nam! Pháp môn giải thoát này tên là Phổ hóa chúng sinh lệnh sinh thiện căn. Ta đã được pháp môn giải thoát này nên tỏ ngộ được tự tánh của tất cả các pháp đều bình đẳng, nhập vào tánh chân thật của các pháp; chứng pháp Vô y; xa lìa thế gian; đều biết rõ sắc tướng các pháp sai khác; cũng có thể thấu rõ tánh xanh, vàng, đỏ, trắng đều không thật và không có sai khác. Ta luôn thị hiện vô lượng, vô biên sắc thân thanh tịnh, nghĩa là đủ loại sắc thân, chẳng phải một sắc thân mà vô biên sắc thân. Đó là: Sắc thân thanh tịnh; sắc thân nhất thiết trang nghiêm; sắc thân thấy khắp; sắc thân bình đẳng tất cả hình tướng chúng sinh; sắc thân hiện khắp trước tất cả chúng sinh; sắc thân ánh sáng chiếu khắp; sắc thân mọi người thấy đều ưa thích; sắc thân thấy không nhàm chán; sắc thân tướng đẹp thanh tịnh; sắc thân lìa tất cả ác, ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp; sắc thân thị hiện sức lớn dũng mãnh bình đẳng; sắc thân sâu xa khó được của tất cả thế gian; sắc thân tất cả thế gian không thể che lấp; sắc thân tất cả chúng sinh xưng tán vô tận; sắc thân mỗi niệm quán sát đủ các thứ trang nghiêm; sắc thân thị hiện các mây nhiều hình tướng; sắc thân xuất hiện nhiều hình dáng; màu sắc rõ ràng; sắc thân hiện khắp vô lượng thần lực; sắc thân phóng khắp tất cả các hào quang đẹp; sắc thân trang nghiêm tất cả xinh đẹp; sắc thân tùy thuận thành thục tất cả chúng sinh; sắc thân tùy theo tâm họ ưa hiện trước để điều phục; sắc thân tùy theo chỗ thích ứng để giáo hóa thành tựu, căn lành; sắc thân hiện ánh sáng chiếu khắp không chướng ngại; sắc thân thanh tịnh không uế trược, có ánh sáng rộng lớn; sắc thân khả ái đoan chánh tăng trưởng không hoại; sắc thân đầy đủ thanh tịnh trang nghiêm vững chắc; sắc thân phương tiện mở bày ánh sáng vi diệu của pháp không thể nghĩ bàn; sắc thân tất cả không thể che lấp; sắc thân không thể che lấp tất cả; sắc thân không có các chướng ngại; sắc thân có thể phá các tối tăm; sắc thân chứa khắp tất cả các pháp thanh tịnh; sắc thân đầy đủ biển công đức, uy lực lớn; sắc thân từ nơi quá khứ, tôn trọng cung kính, do đó mà ra đời; sắc thân khởi tâm thanh tịnh như hư không; sắc thân tối thắng rộng lớn vượt qua các báu vật tốt; sắc thân như biển, đại công đức vô cùng vô tận; sắc thân như biển ánh sáng lớn xuất hiện cùng khắp; sắc thân bình đẳng không nương tựa, không phân biệt tất cả thế gian; sắc thân đầy khắp tất cả mười phương thế giới không ngại, sắc thân mỗi niệm mỗi niệm xuất hiện không thể nói, không thể nói biển cõi, hiển bày đủ các loại biển sắc tướng; sắc thân tăng trưởng tâm của tất cả chúng sinh nhiều hoan hỷ; sắc thân thâu giữ tất cả biển chúng sinh; sắc thân có thể ở trong mỗi mỗi lỗ chân lông phát ra tiếng sư tử gầm, nói biển công đức của tất cả chư Phật; sắc thân có thể thanh tịnh biển tâm tánh của tất cả chúng sinh tin hiểu sâu xa; sắc thân quyết định hiểu rõ nghĩa tất cả pháp, không còn lưới nghi; sắc thân tâm không chướng ngại, có đủ loại lưới sáng chiếu soi khắp; sắc thân vô lượng ánh sáng thanh tịnh bình đẳng như hư không; sắc thân có thể phóng ra ánh sáng thanh tịnh rộng lớn như ngọc Ma-ni vương; sắc thân chiếu hiện ảnh tượng pháp giới vô cấu; sắc thân thế gian không thể sánh bằng; sắc thân nhiều tướng đẹp sai khác trang nghiêm; sắc thân chiếu khắp mười phương; sắc thân tùy thời thị hiện thích ứng các chúng sinh thường không đoạn dứt; sắc thân sinh ra vắng lặng điều phục tất cả chúng sinh; sắc thân khéo có thể trừ diệt tất cả phiền não; sắc thân làm ruộng phước công đức cho tất cả chúng sinh; sắc thân có thể thanh tịnh tất cả giáo pháp; sắc thân tất cả chúng sinh đều thấy trống không; sắc thân hiện đại trí tuệ dũng mãnh oai lực; sắc thân biến khắp tất cả không chướng ngại; sắc thân thị hiện lợi ích tối thắng thế gian; sắc thân có thể hiện nhóm khắp biển đại Từ, sắc thân nhóm khắp phước lớn như sơn vương; sắc thân hào quang chiếu khắp, hiện tất cả ảnh tượng đến thế gian; sắc thân có thể hiện sức đại trí tuệ thanh tịnh; sắc thân chánh niệm tùy thuận tất cả thế gian; sắc thân ánh sáng của tất cả tướng báu; sắc thân hiển bày tạng Tỳ-lô-giá-na; sắc thân vắng lặng tùy thuận tất cả chúng sinh; sắc thân thể tướng hiện tiền Nhất thiết trí; sắc thân hiện nét mặt vui cười, có thể làm cho chúng sinh phát khởi tín tâm thanh tịnh; sắc thân ánh sáng làm tất cả các thứ báu tối thắng, trang nghiêm cùng khắp; sắc thân không lấy, không bỏ tất cả chúng sinh; sắc thân không quyết định, không chấp trước, sắc thân hiển bày tăng thêm oai lực tự tại; sắc thân hiển bày các pháp thần thông biến hóa; sắc thân chiếu sáng đủ các thiện căn của Như Lai; sắc thân khắp biển pháp giới xa lìa các ác; sắc thân hiện khắp thân cận tất cả chúng hội đạo tràng của Như Lai; sắc thân có thể hiển bày thành tựu nhiều biển sắc đẹp; sắc thân xuất hiện cùng khắp, làm lưu chuyển hạnh lành giống như quả vi diệu; sắc thân tùy theo chỗ mà ứng hóa điều phục chúng sinh; sắc thân tất cả thế gian thấy không biết nhàm chán; sắc thân phóng hào quang đủ các màu sắc thanh tịnh; sắc thân hiển bày tất cả biển tướng ba đời; sắc thân có thể phóng tất cả ánh sáng của biển lửa; sắc thân hiển bày vô lượng biển ánh sáng tròn đầy; sắc thân tất cả hương thơm ánh sáng biến khắp vượt các thế gian; sắc thân mỗi mỗi lỗ chân lông, hiện không thể nói số cực vi trần những mây che mặt trời; sắc thân oai đức như mây che vầng trăng rộng lớn, không nhơ; sắc thân phóng hào quang sáng vô lượng màu sắc như mây hoa đẹp ở Tu-di sơn vương; sắc thân sinh ra nhiều thứ ánh sáng, như mây tóc mượt đẹp; sắc thân hiển bày tất cả mây hoa sen báu; sắc thân xuất hiện tất cả hương đốt như mây hình tượng, biến khắp pháp giới, sắc thân niệm niệm, rải khắp tất cả hương bột mây tích chứa, hiện tiền biến hóa đầy khắp mười phương; sắc thân hiện tất cả mây nguyện rộng lớn của Như Lai, sắc thân hiện tất cả biển pháp nói năng diễn khắp; sắc thân hiện ra mây thân, giống như hình tượng Bồ-tát hiện khắp.
Trong mỗi niệm mỗi niệm, hiện rất nhiều tướng sắc thân như vậy, đầy khắp mười phương tất cả pháp giới; làm cho các chúng sinh hoặc thấy sắc thân, hoặc nghe nói pháp, hoặc tùy thuận nhớ nghĩ, hoặc thân cận thừa sự, hoặc gặp thần thông, hoặc thấy biến hóa. Cứ như vậy, nhiều oai lực tự tại không thể nghĩ bàn, tùy theo tâm ưa thích của chúng sinh, đều được khai ngộ, điều phục đúng thời, bỏ các nghiệp ác, làm việc thiện viên mãn.
Này thiện nam! Nên biết ở đây là do từ thuở xa xưa, đã có nhiều
sức của đại nguyện như: Sức nhanh chóng có đủ Nhất thiết trí, sức giải thoát rộng lớn của Bồ-tát, sức đại Bi cứu hộ chúng sinh, sức đại Từ an lạc chúng sinh, sức dốc cầu tùy thuận bất thoái, sức của tất cả Như Lai nên mới làm được mọi việc như vậy.
Này thiện nam! Ta luôn hội nhập nơi pháp giải thoát này, biết rõ pháp tánh không có sai khác, nên có thể thị hiện vô lượng; ở mỗi tướng phóng khắp vô lượng mây hào quang lớn, ở mỗi mỗi hào quang chiếu hiện vô lượng các cõi nước của chư Phật; ở mỗi mỗi cõi cõi nước hiện vô lượng Phật, xuất hiện ở đời; mỗi mỗi Như Lai hiển hiện vô lượng sức đại thần thông, tùy theo tâm hạnh không đồng của các chúng sinh mà khai mở, giác ngộ, căn lành đời trước cho họ. Người chưa trồng căn lành làm cho trồng, người đã trồng rồi, làm cho tăng trưởng; người tăng trưởng rồi, làm cho thành thục. ở trong mỗi niệm, làm cho vô lượng chúng sinh đối với tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đạt được không thoái chuyển, an trụ trong nhiều pháp môn giải thoát.
*********
Bấy giờ, Thần chủ về đêm bảo Đồng tử Thiện Tài:
–Thiện nam! Như lời ông hỏi, từ lúc phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát đến nay được bao lâu. Với ý nghĩa ấy, ta sẽ nương nơi lực của Phật nói cho ông rõ.
Này thiện nam! Trí tuệ của Bồ-tát thanh tịnh viên mãn, xa lìa tất cả cảnh giới phân biệt; không thể lấy dài ngắn, nhơ sạch, rộng hẹp, nhiều ít, trong vọng tưởng sinh tử ở các kiếp như vậy mà hiển bày phân biệt để khai ngộ chúng sinh. Vì sao? Vì xe trí tuệ của Bồ-tát tánh vốn thanh tịnh, lìa tất cả lưới phân biệt, vượt tất cả núi chướng ngại, tùy theo chỗ ứng hóa mà chiếu khắp.
Này thiện nam! Ví như thể quay vòng của mặt trời không có ngày và đêm. Khi mặt trời xuất hiện gọi là ngày, khi không còn mặt trời gọi là đêm. Trí luân của Bồ-tát cũng như vậy, không có phân biệt, cũng không có ba đời. Sức oai đức trí luân của Bồ-tát chỉ tùy theo thế gian cho nên không có sai khác mà trong đó kiến lập sai khác là để giáo hóa chúng sinh; nên mới nói trí tuệ đó trụ kiếp trước, kiếp sau, sạch nhơ, nhiều ít.
Này thiện nam! Ví như mặt trời trụ trên không của cõi Diêmphù-đề; thì bóng của nó đều được phản chiếu trong tất cả vật báu sáng; cho đến sông biển, ao hồ, các đồ vật, nước trong. Tất cả chúng sinh mắt đều thấy, nhưng mặt trời kia không đi vào đến vật ấy. Cũng vậy, trí tuệ của Bồ-tát thanh tịnh, tròn đầy, như mặt trời xuất hiện trong biển hữu, trụ nơi pháp báu của Phật, vắng lặng như
hư không, không có chỗ nương tựa; chỉ vì hóa độ chúng sinh ở trong các nẻo, tùy theo loại mà thọ sinh; nhưng thật ra không có sinh tử, cũng không có nhiễm chấp, không có kiếp dài, ngắn và các vọng tưởng phân biệt! Vì sao? Vì Bồ-tát rốt ráo lìa tâm tưởng, thấy tất cả điên đảo; thấy được chân thật vắng lặng; thấy thật tánh của các pháp; biết các cảnh giới thế gian là như mộng, như huyễn, không nhân, không ngã; nên dùng sức đại Bi, đại nguyện, phóng hào quang rộng lớn, viên mãn, không nhơ, hiện trước chúng sinh để giáo hóa điều phục họ.
Thiện nam! Ví như vị thuyền trưởng, thường lái thuyền lớn ở giữa dòng sông, không nương bờ này, không mắc bờ kia, cũng không trụ ở giữa dòng mà phải chở chúng sinh không có dừng nghỉ. Đại Bồtát cũng lại như vậy; dùng thuyền Ba-la-mật, lái trong dòng sinh tử, không trốn sinh tử, không chấp lấy Niết-bàn, cũng không trụ ở giữa dòng, mà phải đưa chúng sinh đến bờ bên kia, không có dừng nghỉ. Tuy ở trong vô lượng, vô biên số kiếp, chuyên cần tinh tấn, tu hạnh Bồ-tát giáo hóa chúng sinh, nhưng chưa từng phân biệt kiếp số dài ngắn.
Này thiện nam! Ví như hư không, rộng lớn bao trùm tất cả thế giới, ở trong đó có thành hoại nhưng không phân biệt: Tánh vốn thanh tịnh, không nhiễm, không loạn, không ngại, không chán, chẳng dài, chẳng ngắn; cho tận kiếp vị lai cũng vẫn bao trùm tất cả cõi. Đại Bồtát cũng lại như vậy, lấy tâm thâm sâu rộng lớn, bình đẳng như cõi hư không, khởi gió đại nguyện cứu hộ các chúng sinh, làm cho họ xa lìa đường ác, sinh vào các đường thiện, làm cho họ an trụ đất Nhất thiết trí, diệt các khổ sinh tử phiền não trói buộc mà tâm không có sự buồn vui, chán mỏi.
Này thiện nam! Ví như người huyễn hóa; tuy cũng đầy đủ tất cả sắc thân, các chi thể tròn đầy, nhưng không có hơi thở ra vào cũng không có mười việc nơi sinh tử như lạnh nóng, đói khát, vui buồn. Đại Bồ-tát cũng như vậy, dùng trí như huyễn nơi Pháp thân bình đẳng, hiện ra các sắc tướng, ở các nẻo, trụ nơi vô lượng kiếp để giáo hóa chúng sinh, ở trong tất cả cảnh giới sinh tử, cũng không có mười việc. Đó là không vui, không chán, không yêu, không giận, không khổ, không vui, không lấy, không bỏ, không an, không sợ.
Này thiện nam! Trí tuệ của Bồ-tát, tuy là sâu xa khó lường như vậy; nhưng ta sẽ nhờ vào sức oai thần của Phật, giải nói cho ông. Làm cho các Bồ-tát ở đời vị lai có đầy đủ nhiều nguyện rộng lớn, thành tựu tăng trưởng đủ các lực dụng.
Này thiện nam! Về thời xa xưa, vượt quá số kiếp của biển thế giới, nhiều như vi trần, có thế giới tên là Bảo quang minh, kiếp tên là Diệu quang, trong kiếp đó, có một vạn Đức Phật xuất hiện ở đời. Đức Phật xuất hiện đầu tiên hiệu là Pháp Luân Đại Thanh Hư Không Vân Đăng Vương, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, mười hiệu đầy đủ. Trong bốn thiên hạ của cõi Diêm-phù-đề, có một kinh đô của vua, tên là Nhất thiết ái lạc bảo trang nghiêm. Cách Đông thành không xa, có một rừng cây lớn tên là Diệu quang, ở trong rừng ấy, có một cội Bồ-đề tên là Bảo câu-tô-ma hoa vân, ở nơi cội Bồ-đề, có tòa Sư tử tên là Tỳ-lô-giá-na ma-ni vương liên hoa tạng.
Bấy giờ, Đức Như Lai kia ngồi ở tòa Sư tử này mà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đủ một trăm năm ngồi ở đạo tràng Bồ-đề giác ngộ tối thắng ấy vì các Bồ-tát, chư Thiên, người đời và những người ở Diêm-phù-đề đã trồng căn lành ở đời trước thành thục, mà diễn nói chánh pháp.
Lúc đó, đức vua tên là Thắng Quang; thời ấy, loài người sống thọ một vạn tuổi; trong nước có nhiều sự giết hại, trộm cắp, dâm dật, nói dối, nói thêu dệt, ly gián, thô ác, tham lam, sân si, tà kiến, bất hiếu cha mẹ, không kính Sa-môn, Bà-la-môn… các việc ác như vậy tăng trưởng mạnh mẽ. Quốc vương muốn điều phục các việc ác kia của chúng sinh, làm cho họ tu mười điều thiện thành tựu rộng lớn; nên xây dựng nhà tù giam cầm, gông cùm, vô lượng chúng sinh ở trong đó chịu nhiều cực khổ.
Vua có thái tử tên là Năng Thắng Tánh, đoan nghiêm tươi đẹp, người thấy đều vui, thanh tịnh tối thắng, sắc đẹp tròn đầy, đủ hai mươi tám tướng của bậc Đại nhân. Thái tử ở trong cung có các thể nữ vây quanh, bỗng nghe từ nơi xa, trong tù ngục, có tiếng kêu đau đớn, trong tâm thương xót, nên từ cung điện đi đến nhà lao. Thái tử thấy các tội nhân bị gông cùm, xiềng xích, trói buộc với nhau, nhốt ở nơi tối tăm, hoặc bị lửa đốt, hoặc bị khói đen, hoặc bị đánh đập, hoặc bị cắt xương đầu gối, thân hình trần truồng, tóc tai rối bù, hình dáng gầy ốm đói khát, xương gân nổi lên, kêu than thống khổ. Thái tử thấy vậy, sinh tâm thương xót, nên phát tâm lợi ích cứu giúp. Ngài dùng tiếng không sợ, để nói lời an ủi: “Các ngươi chớ buồn rầu, các ngươi đừng sợ hãi. Ta sẽ làm cho các ngươi đều được thoát khỏi”. Thái tử nói rồi, liền đi đến chỗ đức vua thưa:
–Thưa phụ vương! Tội nhân trong ngục, đang chịu khổ đau, cúi mong phụ vương rộng tâm tha thứ, để cho họ khỏi bị sợ sệt.
Vua liền triệu tập năm trăm đại thần và hỏi:
–Việc này thế nào?
Các đại thần tâu:
–Các người tội kia trộm cắp tài vật của quan, âm mưu chiếm đoạt ngôi vua, lén vào trong cung cấm trộm cắp, tội nên phanh thây không thể tha thứ được, không nên tha vì làm thế sẽ loạn phép nước; người nào thương cứu thì cũng sẽ phải chết.
Thái tử nghe những lời nói đó, trong tâm buồn bã thống thiết, nói với đại thần:
–Theo lời các vị đã nói thì nên thả tội nhân, còn các việc khổ, ta sẽ chịu thay, tùy theo tội họ làm mà đem hình phạt trị ta. Ta vì tất cả chúng sinh bị khổ não trói buộc muốn được giải thoát nên dù có tan thân mất mạng, cũng không luyến tiếc, chỉ cần làm cho tội nhân được thả ra. Vì sao? Nếu ta không cứu các chúng sinh này, làm cho họ giải thoát thì làm sao có thể cứu chúng sinh bị khổ trong lao ngục ba cõi và tất cả chúng sinh đang ở trong ba cõi bị các tham ái trói buộc, bị vào trong các rừng rậm tối tăm, bị ngu si che lấp, bần cùng không có công đức, bị đọa vào các đường ác, thân hình xấu xí, các căn buông lung, tâm luôn mê hoặc, không cầu đạo xuất thế, mất ánh sáng trí tuệ, ưa đắm ba cõi, đoạn các phước đức, diệt các trí tuệ. Đủ tất cả phiền não làm loạn trược thân tâm, chịu khổ trong lao ngục, mắc vào lưới ma, sinh, già, bệnh, chết, ưu bi làm hại… thường bị các khổ như vậy bức bách; ta sẽ làm sao khiến cho họ được giải thoát. Thế nên, ta xả bỏ tất cả của báu, quyến thuộc, vợ con, cho đến thân mạng để cứu giúp chúng sinh, làm cho các ngục tù được hết khổ.
Các đại thần nghe nói, cùng nhau đi đến chỗ vua, đều vung tay lớn tiếng tâu:
–Đại vương nên biết! Như ý của thái tử là hủy hoại phép nước, tai vạ đến vạn người. Nếu vua thương mến, không mau hạch tội thì ngôi báu của vua cũng không bền vững.
Vua nghe nói những lời như vậy, phừng phừng nổi giận, ra lệnh giết thái tử và các tội nhân trong tù. Hoàng hậu nghe tin, buồn rầu than khóc, hủy hoại hình sắc, vứt bỏ áo quần, thân đầy bụi đất cùng với ngàn thể nữ và các quyến thuộc, đi thẳng đến chỗ vua, lăn mình xuống đất, đảnh lễ, cùng thưa với vua:
–Cúi mong Đại vương thương xót mà tha thứ ban cho thái tử một chút sống thừa.
Vua liền đổi ý, nói với thái tử:
–Các tội nhân trong ngục tù này tội rất khó tha thứ nên ta bảo con, chớ có cứu họ. Nếu con cứu họ thì ta sẽ giết.
Lúc bấy giờ, thái tử vì muốn khai mở sự phát tâm rộng lớn, vì muốn chuyên cầu Nhất thiết trí, vì muốn lợi ích cho các chúng sinh, vì muốn dùng đại Bi cứu giúp khắp tất cả, nên tâm vững chắc, không khiếp sợ thoái lui, lại thưa với nhà vua:
–Xin phụ vương tha thứ tội cho họ, chính thân con sẽ chịu giết.
Vua nói:
–Tùy ý ngươi.
Bấy giờ, hoàng hậu đã thấy thái tử quyết định thương xót, cứu giúp các tội nhân. Thưa với nhà vua:
–Cúi mong Đại vương cho thái tử nửa tháng, để làm việc bố thí, tùy ý tu phước, rồi sau đó sẽ giết.
Vua liền đồng ý.
Hoàng hậu cùng phi tần quyến thuộc, xin được vua hứa cho rồi, vui buồn lẫn lộn, không tự kềm chế được.
Khi đó, ở phía Bắc thành, có một khu vườn lớn, tên là Nhật quang, nơi đó xưa từng là chỗ đạo tràng bố thí của các Tiên. Thái tử đến đó, lập hội thí lớn. Có ai cần ăn thì cho ăn, cần áo thì cho áo; cho đến xe cộ, vòng hoa, anh lạc, hương bột, hương xoa, cờ phướn, lọng báu ngoài ra còn nhiều thứ báu dùng để trang nghiêm, tùy theo chỗ cầu mà chu cấp đủ. Qua nửa tháng, vào ngày cuối cùng, vua và quần thần cùng hoàng hậu, phi tần, thể nữ, trưởng giả, cư sĩ, mọi người trong thành ấp và các ngoại đạo đều đến nhóm họp ở hội.
Bấy giờ, Đức Như Lai Pháp Luân Đại Thanh Hư Không Vân Đăng Vương, biết đã đến lúc cần điều phục chúng sinh, liền cùng với đại chúng đi đến đạo tràng bố thí này; đó là các vua trời vây quanh; vua rồng cúng dường; vua Dạ-xoa giúp đỡ; vua Càn-thát-bà khen ngợi; vua A-tu-la cúi mình đảnh lễ; vua Ca-lâu-la dùng tâm thanh tịnh, rải các hoa báu; vua Khẩn-na-la hoan hỷ ái kính, ca vịnh khuyến thỉnh, vua Ma-hầu-la-già nhất tâm quán sát chiêm ngưỡng tôn nhan, cùng với đông đủ chúng này vào trong hội thí lớn này.
Lúc ấy, thái tử và các đại chúng, từ xa đã trông thấy Như Lai, tướng đẹp trang nghiêm; các căn vắng lặng, như voi được điều thuận, tâm không cấu trược như ao trong sạch; oai đức tự tại như đại Long vương; hiện đại thần thông hiển bày đại tự tại; có rất nhiều tướng đẹp trang nghiêm ở thân. Đức Như Lai phóng ra hào quang lớn, chiếu khắp thế giới, tất cả lỗ chân lông đều xuất ra áng mây thơm, chấn động mười phương, vô lượng cõi Phật, cùng lúc xuất hiện nhiều mây trang nghiêm làm mưa khắp tất cả những đồ dùng xinh đẹp. Phật dùng sức công đức oai thần của ngài làm cho tất cả chúng sinh thấy được thì tâm đều thanh tịnh, tăng trưởng hoan hỷ, tiêu diệt hết phiền não.
Thái tử và các đại chúng đã thấy đủ các oai lực của Như Lai, nên tâm ý thanh tịnh, vui mừng hớn hở vô lượng. Thái tử liền ở trước Phật, năm vóc gieo sát đất đảnh lễ nơi chân Phật, rồi đem đặt giường ngồi thanh tịnh tối thắng, chắp tay cung kính, bạch Phật:
–Kính lễ Thế Tôn! Kính lễ Bậc Thiện Thệ! Cúi mong thương xót nhận lời, ngồi tòa này cho chúng con.
Nhờ thần lực của Phật, chư Thiên trời Tịnh cư liền biến tòa này thành tòa Sư tử Hương ma-ni bảo liên hoa tạng. Phật ngồi trên tòa đó và chúng Bồ-tát tề tựu vây khắp xung quanh tòa làm quyến thuộc để trang nghiêm. Khi đó, trong hội kia, tất cả chúng sinh nhờ thấy được Như Lai, các khổ hoạn đều tiêu diệt, các cấu, chướng, hoặc đều được trừ, thân thể thanh tịnh, có thể nhận lãnh Thánh pháp.
Bấy giờ, Thái tử Năng Thắng Tánh, thấy tất cả trời người kia,
chủ đời, quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ, cho đến các đồng nam, đồng nữ, các ngoại đạo đã nhóm tập ở chúng hội. Thái tử quán sát khắp cả rồi trịch áo, bày vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nhất tâm chiêm ngưỡng, rồi dùng kệ tán thán:
Thích Phạm, tám Bộ, Tiên năm thông
Vô số biện tài cùng khen Phật
Với con sức nhỏ nay khen theo
Như ong nương theo cánh chim lớn,
Sắc tướng vàng rực mắt sen xanh
Tiêu hết quân ma, trừ lỗi lầm
Oai nghi nghiêm tịnh, đức đầy đủ
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Trụ chân tịch lạc tận vô minh
Năng trừ năm dục, đoạn nhân tà
Cắt đứt lưới ái, lợi chúng sinh
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Thiên tử xuất hiện như mặt trời
Chỉ con đường sáng cho thế gian
Đủ các loạn, hoặc che khuất tâm
Mặt trời Phật chiếu sáng tất cả,
Ma vương tự tại ở núi tuyết
Rồng vì anh lạc, mặc da thú
Vẫn bị nữ sắc làm hôn mê
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Thiên tử mặt trăng rạng thế gian
Hư không thanh tịnh sao trang sức
Nhiều thứ hoặc, loạn che tâm tánh
Trăng Phật chiếu khắp ta và người,
Thần Na-la-diên mắt sen xanh
Trừ diệt Tu-la hay biến hóa
Hôn mê say đắm đem cất giữ
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Đế Thích tay cầm chày Kim cang
Oai đức phá tan A-tu-la
Tâm hôn mê thường vì nữ sắc
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Vua trời Tam thập tam sức tài
Oai thế phá tan quân Tu-la
Do tên hôn dục bắn vào tâm
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Tiên Tê Ngưu Bà Tẩu Nghị Lâu
Sức năm thần thông không chế ngự
Tham dục ngu si tâm mê say
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Thắng Luận, Số Luận, các ý
Tiên Tất cả ngoại đạo cũng cùng tông
Lưới si trói buộc vào bùn dục
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Nói bốn Vi-đà lập thế giới
Tám mặt, bốn tay trời thắng thân
Bị nhiều vô minh thường hôn mê
Mười Trí lực sáng thường chiếu khắp.
Trời tà ái dục không xấu hổ
Na-diên ưa giết tâm không thẹn
Quỷ mẫu ăn máu hại trâu dê
Rượu Tần-na ngọt thường say sưa,
Chỉ có Đức Như Lai luôn ở đời
Mắt trí chiếu sáng như mặt trời
Chúng sinh si ám che tâm tánh
Không thấy Thiện Thệ nên chìm đắm,
Con với Thiện Thệ chẳng thân thuộc
Đối với ngoại đạo cũng chẳng oán
Ngoại đạo chẳng chiếm tài vật con
Như Lai cũng không cho châu báu,
Thế Tôn chỉ dùng lời thanh tịnh
Quyết định lợi ích không oán thân
Trừ sạch nhơ bẩn rõ nguồn tâm
Nên con quy y bậc Vô đẳng,
Đến tận vị lai tất cả kiếp
Lợi lạc tất cả các chúng sinh
Cứu khổ ban vui lòng không mỏi
Con nay đảnh lễ Đấng Từ Bi,
Chiêm ngưỡng Như Lai như trăng sáng
Hoặc khởi tin sâu, hoặc sinh nghi
Hoặc kính, hoặc kiêu, hoặc lo buồn
Rốt ráo đều bằng quả giải thoát,
Phật mở mắt sen xanh rộng lớn
Tướng đẹp trang nghiêm thân công đức
Trời người cùng khen không thể lường
Ví như vạn dòng chảy về biển,
Con dùng lưỡi tỏ ít lời khen
Mong được sinh ra chút căn lành
Cho khắp pháp giới các chúng sinh
Nguyện chứng Pháp thân thành Chánh giác.
Khi ấy, Đức Như Lai Pháp Luân Đại Thanh Hư Không Vân
Đăng Vương biết thái tử và tất cả các chúng sinh trong chúng hội, đã nhận lãnh Thánh giáo, nên dùng âm thanh viên mãn giảng nói kinh tên Phổ Chiếu Viên Mãn, nhân đó, làm cho các chúng sinh đều hiểu tùy theo chủng loại của mình.
Lúc này, trong chúng hội có tám mươi na-do-tha chúng sinh, đã xa lìa trần cấu, đối với các pháp được pháp nhãn thanh tịnh, có vô lượng Na-do-tha chúng sinh, được địa vị Vô học, có mười ngàn chúng sinh ở nơi đạo Đại thừa vào nơi hạnh của ngài Phổ Hiền, thành tựu đầy đủ đại nguyện. Khi đó, chúng sinh khắp mười phương trăm cõi Phật nhiều như vi trần, ở trong Đại thừa, tâm được điều phục. Tất cả chúng sinh, trong vô lượng thế giới và rất nhiều cõi Phật, được ra khỏi đường ác. Lại có quá toán số vô lượng chúng sinh được sinh lên trời. Ngay lúc ấy, Thái tử Năng Thắng Tánh cũng được pháp môn giải thoát Bồ-tát giáo hóa khắp chúng sinh làm cho sinh thiện căn.
Này thiện nam! Thái tử lúc ấy, đâu phải ai khác chính là thân ta vậy. Khi xưa, ta nhờ phát tâm Từ bi, xả bỏ thân mạng, tài vật và tất cả quyến thuộc; làm cho nhân gian được an lạc và sống lâu; cứu tất cả chúng sinh chịu khổ trói buộc trong ngục tù kia, làm cho họ được giải thoát; mở cửa bố thí lớn tâm không chướng ngại; cúng dường chư Phật, phát sinh hoan hỷ, phát tâm Bồ-đề; nên được giải thoát này.
Này thiện nam! Lúc đó, ta chỉ vì tạo lợi ích cho chúng sinh, không đắm trong ba cõi, tâm không chỗ nương tựa, không cầu quả báo, không có sự hy vọng, không tham đắm vào những danh xưng ở thế gian, không muốn khen mình chê người, không luyến tiếc tất cả của cải quý báu ở thế gian, luôn thực hành bố thí, xa lìa tâm hữu tướng; ở nhiều cảnh giới của các thế gian, không có tham nhiễm, không có sợ sệt, chỉ có ưa thích cảnh giới của Như Lai, tâm Bồ-đề thanh tịnh, tâm đó vững chắc như Kim cang; thành tựu chúng sinh; dốc cầu không biếng trễ; dùng sức đại Bi diệt các khổ của chúng sinh; dùng năng lực của Như Lai khai mở nội tâm; quán sát các hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, trang nghiêm đạo chủ yếu là xuất ly của Đại thừa, thường ưa quán sát pháp môn Nhất thiết trí, tu các khổ hạnh; nên được giải thoát này.
Này thiện nam! Ý ông thế nào? Khi xưa năm trăm đại thần của vua Thắng Quang, nói lời thô ác, muốn hại thân ta, đâu phải ai khác, nay chính là Đề-bà-đạt-đa cùng với năm trăm bè đảng Tỳ-kheo ác.
Các người đó, nhờ Phật giáo hóa, điều phục thành thục, đều đã thọ ký cho thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ở đời vị lai, qua nhiều kiếp số vi trần như núi Tu-di, bấy giờ, có kiếp tên là Thiện quang minh, thế giới tên là Bảo quang, ở trong thế giới đó sẽ thành Phật. Năm trăm Đức Phật đó thứ lớp xuất hiện ở đời. Đức Phật ban đầu hiệu là Đại Bi, Đức Phật thứ hai hiệu là Nhiêu Ích Nhất Thiết Chúng Sinh Mãn Nguyệt Vương, Đức Phật thứ ba hiệu là Đại Bi Sư Tử, Đức Phật thứ tư hiệu là Lợi Ích Nhất Thiết Thế Gian, cho đến Đức Phật cuối cùng hiệu là Y Vương. Các Đức Phật kia; tuy đại Bi, bình đẳng nhưng vì cứu giúp các chúng sinh ở đủ các cõi nước nên công đức trang nghiêm, dòng họ cha mẹ, thọ sinh, đản sinh, tại gia, xuất gia, tu đạo Bồ-tát, đi đến đạo tràng hàng phục quân ma, thành Chánh đẳng giác, chuyển bánh xe chánh pháp, giảng nói kinh điển, ngôn ngữ âm thanh, hiển bày thần thông, hiện đại oai lực, chiếu sáng khắp chúng hội, pháp trụ lâu dài và danh hiệu của Phật; mỗi mỗi đều sai khác.
Này thiện nam! Các tội nhân kia đã được ta cứu hộ, chính là ngàn Đức Phật trong hiền kiếp như Phật Câu-lưu-tôn.
Bấy giờ, trăm vạn a-tăng-kỳ các Đại Bồ-tát, thấy oai lực vô biên của Như Lai kia, nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nay ở mười phương tất cả thế giới đều thực hành hạnh Bồ-tát, đều tu tập tăng trưởng. Như vậy Bồ-tát là giáo hóa khắp chúng sinh làm cho họ phát sinh căn lành giải thoát.
Vua Thắng Quang khi xưa, nay là đại Luận sư Tát-già Ni-kiền Tử. Hoàng hậu, thể nữ, người trong cung và các quyến thuộc khi xưa, nay tức là sáu vạn đệ tử của Ni-kiền Tử. Họ cùng với thầy đến dựng cờ biện luận lớn, để cùng với Phật nghị luận, nhưng đều bị Phật chinh phục và được Phật thọ ký, cho thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các người này, đều sẽ làm Phật, trải qua nhiều cõi Phật, trang nghiêm rất nhiều, kiếp số danh hiệu mỗi mỗi đều sai khác.
Này thiện nam! Ta khi xưa ở nơi cứu tội nhân kia, làm cho họ giải thoát rồi. Cha mẹ cho ta xa lìa đất nước, vợ con, tài vật và tất cả quyến thuộc, xuất gia học đạo ở nơi Đức Như Lai Pháp Luân Đại Thanh Hư Không Vân Đăng Vương, trong khoảng ngàn năm, tịnh tu phạm hạnh, liền được thành tựu trăm ức pháp môn Tam-muội, trăm ức pháp môn Đà-la-ni, trăm ức pháp môn Thần thông, trăm ức Đại pháp tạng của Bồ-tát, có thể sinh trăm ức pháp môn Tinh tấn để cầu Nhất thiết trí, tịnh trị trăm ức pháp môn An nhẫn, tăng trưởng trăm ức Tâm tư duy, thành tựu trăm ức Năng lực Bồ-tát, vào sâu trăm ức pháp môn Chủng trí của Bồ-tát, sinh ra trăm ức pháp môn Bát-nhã ba-la-mật, được trăm ức pháp môn Thập phương chư Phật hiện tiền, đủ trăm ức pháp môn Đại nguyện của Bồ-tát.
Thành tựu viên mãn các pháp môn như vậy rồi; ở trong mỗi niệm đều chiếu trăm ức cõi Phật nơi mười phương; ở trong mỗi niệm đều dạo trăm ức cõi Phật nơi mười phương; ở trong mỗi niệm, đều nhớ nghĩ trăm ức chư Phật ở kiếp quá khứ vị lai, trong tất cả thế giới nơi mười phương; ở trong mỗi niệm, đều có thể biết biển biến hóa lớn trăm ức chư Phật ở tất cả thế giới nơi mười phương, ở trong mỗi niệm có thể thấy trăm ức cõi Phật trong mười phương, đều có các chúng sinh với nhiều chủng loại, tùy theo chỗ thọ nghiệp; khi sinh, khi chết, đường thiện, đường ác, sắc đẹp, sắc xấu, biết các chúng sinh nhiều tâm hạnh, nhiều dục lạc, nhiều tâm tánh, nhiều căn khí, nhiều nghiệp tập, nhiều tái sinh, nhiều sự tiếp tục, nhiều thành tựu thì có thể giúp đỡ để cho họ biết rõ hết.
Này thiện nam! Bấy giờ, sau khi qua đời, ta lại sinh ở trong cõi Diêm-phù-đề, làm vua Chuyển luân. Đức Như Lai Pháp Luân Đại Thanh Hư Không Vân Đăng Vương kia sau khi nhập Niết-bàn, ta liền được gặp Như Lai Hư Không Cao Thắng Cát Tường Vương; thừa sự cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm Đế Thích, tức ở đạo tràng này gặp Đức Phật Thích Phạm Chủ Tạng Vương, thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm vua trời Dạ-ma; ở cõi này, gặp Đức Phật Đại Địa Oai Đức Cát Tường Sơn, thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm vua trời Đâu-suất, ở cõi này gặp Đức Phật Pháp Luân Quang Minh Đại Thanh Vương, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm vua trời Diệu biến hóa; ở cõi này gặp Đức Phật Hư Không Trí Đăng Vương, thân cận cúng dường làm cho chúng sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm vua trời Tha hóa tự tại ở cõi này gặp Đức Phật Vô Năng Hoại Oai Lực Tràng Vương, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm vua A-tu-la; ở cõi này gặp Đức Phật Nhất Thiết Pháp Âm Vương, thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, ta làm vua trời Đại phạm; ở cõi này, gặp Đức Phật Phổ Hiện Biến Hóa Ảnh Tượng Pháp Âm Vương, thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ.
Này thiện nam! Trong kiếp Diệu quang, ở thế giới Bảo quang minh này; có một vạn Đức Phật xuất hiện ở đời. Ta đều thân cận, thừa sự, cung kính, cúng dường từng vị, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, lại có kiếp tên là Nhật quang; ở trong kiếp ấy, có mười vạn Đức Phật xuất hiện ở đời. Đức Phật ban đầu, hiệu là Diệu Tướng Hảo Cát Tường Sơn; lúc ấy, ta làm vua tên là Đại Tuệ, ở chỗ Như Lai đó, thừa sự cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời hiệu là Viên Mãn Kiên; ta làm cư sĩ, thân cận, cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời, hiệu là Vô Cấu Đồng Tử, ta làm Đại thần, thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, có Phật ra đời, hiệu là Dũng Mãnh Trí; ta làm vua A-tu-la, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, có Phật ra đời hiệu là Diệu Quang; ta làm thần núi thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Tiếp đến, có Phật ra đời hiệu là Tu-di Tướng; ta làm thần cây, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời, hiệu là Ly Cấu Tý; ta làm Thương chủ thân cận cúng dường làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời hiệu là Sư Tử Du Bộ; ta làm thần giữ thành, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Vương Bảo Kế; ta làm vua trời Tỳ-sa-môn, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời, hiệu là Pháp Cao Xưng; ta làm vua Càn-thát-bà thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Thứ đến, có Phật ra đời, hiệu là Phổ Quang Minh Quan; ta làm vua Cưu-bàn-trà, thân cận cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ.
Này thiện nam! Ở trong kiếp ấy, mười Đức Như Lai này làm thượng thủ. Cứ như vậy, thứ tự mười vạn Như Lai xuất hiện, ta đều cúng dường hết tất cả.
Này thiện nam! Trong thế giới này, tiếp đến lại có kiếp tên là Diệu liên hoa, có sáu mươi ức Như Lai xuất hiện ở đời. Ta thường ở nơi ấy, thọ sinh đủ các loại thân, với đủ các oai nghi khác nhau, đi đến chỗ của từng vị Phật kia, thân cận thừa sự, lấy đủ các vật cần dùng, cung kính cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ, giáo hóa cứu giúp vô lượng chúng sinh, làm cho họ thành thục tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đối với từng Đức Phật kia, ta lại được rất nhiều loại pháp môn Tam-muội, đủ các loại pháp môn Đà-la-ni, nhiều pháp môn Thần thông, nhiều pháp môn Biện tài, nhiều pháp môn Nhất thiết trí, nhiều pháp môn Pháp minh, nhiều pháp môn Trí tuệ, chiếu đủ các biển trong mười phương, nhập vào đủ các biển cõi Phật, thấy nhiều biển chư Phật, hiển bày thâm sâu, kiến lập cùng khắp, thanh tịnh thành tựu, tăng trưởng rộng lớn. Như ở trong kiếp Diệu liên hoa này, ta đều thân cận cúng dường chư Phật như vậy làm cho sinh hoan hỷ; ở tất cả chỗ, tất cả biển thế giới số kiếp nhiều như vi trần, mà đã có Đức Như Lai xuất hiện ở đời thì ta đều thân cận, cúng dường, làm cho sinh hoan hỷ. Từng Đức Như Lai, diễn nói diệu pháp, ta đều lắng nghe, nghe rồi tin nhận, giữ gìn không cho mất; rồi vì người khác mà rộng nói, giáo hóa thành thục tất cả chúng sinh cũng như vậy. Như vậy, việc ở chỗ các Đức Như Lai, giúp ta tu tập được pháp môn giải thoát này, lại được vô lượng phương tiện giải thoát.
Bấy giờ, chủ Thần chủ về đêm Thủ Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Dũng Kiện Quang Minh, muốn nói lại nghĩa của pháp môn giải thoát này, liền vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:
Ông phát tâm lớn làm mặt trời
Hỏi ta môn giải thoát khó nghĩ
Ta nhờ sức Phật vì ông nói
Ông nên nhất tâm hãy lắng nghe!
Khi xưa, vô biên kiếp rộng lớn
Qua các biển cõi số vi trần
Có cõi tên là Bảo quang minh
Trong đó có kiếp tên Diệu quang
Ở trong kiếp lớn Diệu quang đó
Một vạn Như Lai hiện ra đời
Ta đều thân cận mà cúng dường
Theo ngài tu tập giải thoát này
Thời đó có kinh đô: Hỷ nghiêm
Diện tích bằng phẳng đẹp vô cùng
Chúng sinh đủ nghiệp ở trong đó
Hoặc tâm thanh tịnh, hoặc làm ác
Khi ấy có vua tên Thắng Quang
Thường dùng chánh pháp trị chúng sinh
Thái tử tên là Năng Thắng Tánh
Hình dáng xinh đẹp đủ các tướng
Có vô lượng tội nhân bị trói
Phạm vào phép vua sẽ chịu
Thấy vậy thái tử rất thương xót
Tâu lên xin vua ân xá họ
Vua nhóm quần thần: Phải làm
Họ nói thái tử phạm phép nước
Những tội nhân kia đáng bị giết
Tại sao phải cứu cho họ sống!
Thời vua Thắng Quang bảo thái tử
Nếu cứu tội, thân con phải thay
Thái tử thương xót tình sâu xa
Thề cứu chúng sinh không thoái lui
Trong cung hoàng hậu, cùng thể nữ
Đều đến chỗ vua, thưa vua:
Xin cho thái tử trong nửa tháng
Bố thí chúng sinh làm công đức
Khi vua nghe rồi liền hứa cho
Lập hội thí lớn giúp nghèo thiếu
Tất cả chúng sinh đều tụ đến
Theo sự mong cầu đều được cấp
Như vậy, nửa tháng, ngày sắp hết
Thái tử được dẫn đến để giết
Đại chúng trăm ngàn vạn ức người
Cùng nhau đến xem đều kêu khóc
Phật biết chúng hội căn thành thục
Từ bi đến đó độ chúng sinh
Thị hiện thần biến trang nghiêm lớn
Làm mọi người thân cận cung kính
Phật dùng viên âm phương tiện nói
Đèn pháp chiếu khắp các kinh điển
Vô lượng chúng sinh ý: Điều phục
Đều mong thọ ký quả Bồ-đề
Thái tử nghe pháp sinh hoan hỷ
Phát khởi tâm Vô thượng Chánh giác
Thệ nguyện thừa sự các Như Lai
Vì khắp chúng sinh làm chỗ nương
Từ đây xuất gia nương theo Phật
Tu hành đạo Nhất thiết chủng trí
Bấy giờ, liền được giải thoát này
Đại Bi rộng lớn cứu chúng sinh
Ở trong chỗ ấy qua nhiều kiếp
Quán sát thật tánh của các pháp
Thường ở biển khổ cứu chúng sinh
Chuyên cần tu tập đạo Bồ-đề
Trong kiếp đã có chư Phật hiện
Thảy đều thờ phụng không bỏ sót
Dùng tâm thanh tịnh mà tin hiểu
Nghe nhận giữ gìn pháp đã nói
Tiếp đến, cõi Phật số rất nhiều
Vô lượng, vô biên các biển kiếp
Đã có chư Phật hiện ra đời
Cúng dường tất cả từng vị ấy.
Ta nhớ khi xưa làm thái tử
Thấy các chúng sinh bị nhốt tù
Thệ nguyện xả thân mà cứu họ
Nhân đó chứng được giải thoát này
Trải qua cõi Phật nhiều như bụi
Biển kiếp rộng lớn thường tu tập
Mỗi niệm khiến họ được tăng trưởng
Thành tựu vô biên phương tiện khéo
Tất cả Như Lai ở khắp nơi
Ta đều được gặp, được khai ngộ
Làm ta hiểu rõ giải thoát này
Và dùng rất nhiều sức phương tiện
Ta ở vô lượng ngàn ức kiếp
Học môn giải thoát khó nghĩ này
Biển pháp chư Phật không bờ bến
Vào mọi lúc ta đều uống khắp
Tất cả cõi có trong mười phương
Thân ta vào khắp không chướng ngại
Ba đời có rất nhiều tên nước
Mỗi niệm đều biết rõ hết cả
Ba đời có các biển chư Phật
Nhất nhất thấy rõ hết tất cả
Thân tướng cũng thường hay hiện ra
Đến khắp chỗ ở các Như Lai
Và cả mười phương tất cả cõi
Trước các chư Phật bậc Đạo sư
Làm mưa tất cả vật xinh đẹp
Cúng dường hết thảy đấng Vô thượng.
Và ở vô biên biển Đại giác
Thưa thỉnh tất cả các Thế Tôn
Phật kia dấy lên mây diệu pháp
Đều ghi nhận hết không quên mất
Lại ở mười phương vô lượng cõi
Trước các Như Lai và chúng hội
Ngồi tòa vô số diệu trang nghiêm
Thị hiện rất nhiều sức thần thông
Lại ở mười phương vô lượng cõi
Thị hiện rất nhiều các thần biến
Một thân thị hiện vô lượng thân
Trong vô lượng thân hiện một thân
Lại ở trong mỗi lỗ chân lông
Đều phóng vô số hào quang lớn
Đều dùng nhiều phương tiện thiện xảo
Trừ diệt lửa phiền não chúng sinh.
Lại ở trong mỗi lỗ chân lông
Xuất hiện vô lượng mây hóa thân
Đầy khắp mười phương các thế giới
Mưa mưa pháp khắp cứu quần mê
Mười phương tất cả chư Bồ-tát
Vào môn giải thoát khó nghĩ này
Ở tận vị lai các kiếp cõi
An trụ tu hành hạnh Bồ-tát
Theo các tâm ưa mà nói pháp
Khiến họ đều trừ lưới tà kiến
Hiển bày đường trời và Nhị thừa
Cho đến Như Lai Nhất thiết trí
Chỗ thọ sinh của các chúng sinh
Thị hiện vô biên thân khác nhau
Đều theo từng loại hiện hình tượng
Thích ứng tâm họ giảng nói pháp
Nếu ai được môn giải thoát này
Trụ được vô biên biển công đức
Ví như các cõi nhiều vô số
Không thể nghĩ bàn, không số lượng.
Này thiện nam! Ta chỉ biết Bồ-tát này giáo hóa khắp chúng sinh, làm cho họ phát sinh môn giải thoát thiện căn, còn như các Đại Bồ-tát này vượt trên thế gian, hiện thân ở các cảnh giới, mắt tuệ sáng suốt, vĩnh viễn lìa si mê, không bị duyên lệ thuộc, không có chướng ngại, thấu rõ tự tánh tất cả các pháp, diệt trừ vô minh tối tăm của chúng sinh, khéo quán sát tất cả các pháp, biết dùng phương tiện thiện xảo, suy nghĩ vi tế, được trí vô ngã, chứng pháp vô ngã, giáo hóa cứu giúp tất cả chúng sinh, luôn luôn không dừng nghỉ, tâm luôn an trụ pháp môn không hai, đối với cảnh giới Tam bảo, tâm tin không hoại, biết rõ rốt ráo các hành sinh diệt, khéo nói ba đời thanh tịnh, thực tế, vào khắp tất cả các biển ngôn từ… nhưng ta làm sao có thể biết, có thể nói hết biển công đức ấy, trí dũng mãnh ấy, chỗ tâm hành ấy, cảnh Tammuội ấy, sức giải thoát ấy, môn tự tại ấy, việc thần thông ấy!
Này thiện nam! Ở cõi Diêm-phù-đề này từ cội Bồ-đề đi về hướng Tây bắc sông Hằng, có thành Ca-tỳ-la, có một vườn rừng tên là Lâm-tỳ-ni. Vườn kia có vị thần tên là Diệu Oai Đức Viên Mãn Ái Kính, ông nên đến đó hỏi: “Bồ-tát ấy làm sao tu hạnh Bồ-tát, làm sao sinh nơi nhà Như Lai, làm sao làm ngọn đèn vô tận, ánh sáng chiếu khắp thế gian ở tận kiếp vị lai, những việc khó làm mà có thể làm được mà không mệt chán?”.
Khi ấy, Đồng tử Thiện Tài, cúi đầu đảnh lễ sát chân của Dạ thần, nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, nhất tâm luyến mộ, rồi từ tạ ra đi.
*********
Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài chánh niệm tư duy, dùng sức giải thoát của Thần chủ về đêm Đại Nguyện Tinh Tấn Lực Thủ Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Quang Minh, hiện ra thân bình đẳng, thấy được tâm sỡ hữu pháp của tất cả chúng sinh; hiện ra thân bình đẳng với hình tượng của tất cả chúng sinh; hiện ra thân bình đẳng với biển vô biên sắc tướng; hiện ra thân bình đẳng với biển phương tục oai nghi của tất cả các nơi. Dùng môn thị hiện khắp các thân bình đẳng như vậy; tùy vào sự ưng muốn của tâm chúng sinh mà dùng đủ các loại phương tiện giáo hóa thành thục, làm cho họ thông tỏ giác ngộ, căn lành tăng trưởng; tùy nguyện mà tu hành, chứng nhập vào môn giải thoát sâu xa của Bồ-tát. Như vậy, Thiện Tài đã dùng sức của chánh niệm, phân biệt, ghi nhớ, thọ trì từng câu từng chữ, danh tướng thể tánh của pháp môn giải thoát mà vị Thần chủ về đêm đã chứng đắc, truyền dạy lại. Dùng sức Tổng trì suy nghĩ ghi nhớ và giữ gìn; dùng sức tuệ giải thoát mà phân tỏ cụ thể; dùng sức hạnh nguyện phát khởi sự rộng lớn, tùy thuận như vậy nên đạt được vô lượng công đức thù thắng. Rồi từ từ đi về phía Nam, đến phía Bắc sông Hằng, vào nước Kiêu-tát-la, hướng về thành Ca-tỳ-la, thẳng tới rừng Lâm-tỳ-ni. Đến nơi đồng tử đi nhiễu quanh bên phải, giáp vòng thành để cầu tìm thần rừng Diệu Đức Viên Mãn Ái Kính. Thấy ngài đang ở trong rừng, dưới gốc cây báu lớn, ngồi nơi tòa Sư tử Ma-ni tạng, trong gác lầu được trang nghiêm đầy đủ các loại báu; có hai mươi ức na-do-tha các Nữ thần rừng vây quanh trước sau, ngài đang rộng giảng kinh Nhất Thiết Bồ-tát Thọ Sinh Hải, khiến
cho tất cả đều được sinh vào nhà Như Lai, mau nhập vào biển lớn công đức của Bồ-tát. Thiện Tài thấy rồi, quỳ xuống đảnh lễ, rồi chắp tay đứng trước thần thưa:
–Bạch Đại thánh! Con trước đây đã phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà chưa biết Bồ-tát làm thế nào sinh vào nhà Như Lai? Làm thế nào hành hạnh Bồ-tát? Làm thế nào để có thể làm ngọn đèn đại Quang minh chiếu sáng đủ mọi chỗ thế gian cho tất cả chúng sinh?
Thần rừng bảo Thiện Tài:
–Này thiện nam! Bồ-tát có kho tàng mười thứ thọ sinh. Nếu các Bồ-tát thành tựu được pháp này thì có thể nhanh chóng sinh vào nhà Như Lai. Trong mỗi niệm căn lành Bồ-tát sẽ tăng trưởng, không dừng nghĩ, không lười biếng, không lui, không đoạn, chẳng chán mỏi, chẳng trói buộc, không nghi hoặc, không mê loạn, không khiếp nhược, không buồn rầu hối tiếc, không sót mất. Thể tánh Nhất thiết trí, bình đẳng khắp thế giới nơi mười phương; tùy thuận cảnh giới chư Phật, nhập vào môn pháp giới; được tâm Bồ-đề bất thoái rộng lớn, làm tăng trưởng tất cả hạnh Ba-la-mật; xả bỏ các loài, các mẹo thế gian, nhanh chóng nhập trí địa của tất cả Như Lai, trí lực thần thông, luôn có sẵn đủ các pháp của Phật; để tùy thuận thâm nhập, đạt được rốt ráo cảnh giới chân thật nghĩa.
Những gì là mười? Đó là:
- Nguyện luôn cúng dường và thờ phụng tất cả các chư Phật, Bồ-tát thọ sinh tạng.
- Phải hiện bày khắp tâm Bồ-đề thành tựu thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Quán sát các pháp môn là phương tiện tu hành thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Dùng tâm thanh tịnh sâu xa, chiếu khắp ba đời là thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Dùng ánh sáng bình đẳng chiếu khắp là thọ sinh tạng của Bồ-
tát.
- Hết thảy ba đời đều sinh vào nhà các Như Lai là thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Hào quang của Phật oai lực trang nghiêm chiếu khắp là thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Pháp môn trí quán sát vi tế chiếu khắp là thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Biến hóa đủ cách để trang nghiêm pháp giới là thọ sinh tạng của Bồ-tát.
- Nhanh chóng trở lại địa vị các Như Lai là thọ sinh tạng của Bồ-tát.
Này thiện nam! Vì sao gọi là luôn phụng thờ cúng dường tất cả chư Phật Bồ-tát thọ sinh tạng? Thiện nam! Các Bồ-tát này từ lúc mới phát tâm đã nguyện như thế này: “Ta nên thân cận thừa sự chư Phật và chư Bồ-tát; thường thấy chư Phật, luôn sinh tâm vui mừng. Ở chỗ của chư Phật, tâm phải tôn trọng cung kính cúng dường không cho là đủ, tăng trưởng lòng tin thanh tịnh, tâm không thoái lui tích chứa công đức, không cho dứt tuyệt, luôn muốn làm cho tất cả tánh trí đều thanh tịnh, gom góp căn lành làm cho tăng trưởng”. Đó là thọ sinh tạng thứ nhất của Bồ-tát.
Vì sao gọi biến khắp tâm Bồ-đề thành tựu thọ sinh tạng của Bồtát? Này thiện nam! Tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Bồtát, đó là sự phát khởi sâu dày của tâm đại Bi. Đối với các chúng sinh, nên luôn cứu giúp, phát tâm cúng dường chư Phật, làm cho các Như Lai thêm hoan hỷ; phát tâm dốc cầu pháp chánh niệm. Đối với những gì mình có, đừng nên tiếc giữ, phải phát tâm làm những việc to lớn cho mình, khiến cho Nhất thiết trí có thể hiện ra ngay. Phát tâm đại Từ tròn đầy, là để thâu nhận giữ gìn khắp tất cả chúng sinh làm nhiều lợi ích. Phát tâm không bỏ chúng sinh đó là lời thệ nguyện vững chắc để cầu Nhất thiết trí, phát tâm không dua nịnh huyễn hoặc, để được trí như thật, soi chiếu tất cả pháp sai biệt. Phát tâm làm như nói là ta tu tập tất cả các khổ hạnh khó thực hành của Bồ-tát. Phát tâm không nói dối chư Phật là nguyện luôn bảo vệ giữ gìn tất cả đại thệ nguyện của Như Lai. Phát tâm đại nguyện Nhất thiết trí là cho đến hết đời vị lai, nguyện điều phục chúng sinh, không hề lìa bỏ. Lấy mười phát tâm này làm đầu, sẽ có tâm Bồ-đề đại công đức sẽ nhiều như cực vi trần số cõi Phật tích tụ lại. Nếu các Bồ-tát, thành tựu được pháp này, tức sẽ được sinh vào nhà Như Lai. Đó là thọ sinh tạng thứ hai của Bồ-tát.
Vì sao gọi quán sát các pháp môn là phương tiện tu hành thọ sinh tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Các Bồ-tát này, đối với biển của tất cả pháp môn, trước hết là phát khởi tâm quán sát, đối với đạo viên mãn Nhất thiết trí; phát khởi tâm hồi hướng thành tựu; đối với các biển nghiệp thanh tịnh oai nghi, phát khởi tâm quán sát chánh niệm; đối với nhiều biển Tam-muội khác nhau, của tất cả các Bồ-tát, phát khởi tâm thanh tịnh biến khắp. Đối với nhiều biển công đức khác nhau của các Bồ-tát, phát khởi tâm tu tập thành tựu viên mãn; đối với tất cả đạo của Bồ-tát, phát khởi tâm xuất sinh trang nghiêm; đối với công đức tinh tấn Nhất thiết trí, phải khởi tâm lửa cháy không dừng nghỉ như kiếp lửa. Đối với cảnh giới của tất cả chúng sinh, phát khởi tâm là cho hạnh Phổ hiền thành tựu. Đối với trong hết thảy những oai nghi, phát khởi tâm tu hành đủ các công đức của Bồ-tát; đối với trong đạo chân thật, phát khởi tâm xa lìa hữu vô, chánh quán vào chân thật. Đó là thọ sinh tạng thứ ba của Bồ-tát.
Vì sao gọi dùng tâm thanh tịnh sâu xa, chiếu khắp ba đời là thọ sinh tạng của Bồ-tát?” Này thiện nam! Bồ-tát này đã thành tựu tâm thanh tịnh tăng thượng sâu xa được Chánh giác của Phật, hào quang chiếu khắp, thâm nhập vào biển pháp phương tiện của Bồ-tát, tâm được vững chắc như kim cang, giữ gìn cứu giúp chúng sinh, vĩnh viễn không xả bỏ; xa lìa sinh tử trong các nẻo, thành tựu đủ các phép biến hóa thần thông của Như Lai; phát hạnh nguyện thù thắng của Bồ-tát, làm đầy đủ các căn thông lợi của Bồ-tát; tăng trưởng tâm lành thanh tịnh của Bồ-tát; thành tựu sức đại thệ nguyện không thể lay chuyển, được sự hộ niệm của các Như Lai; hủy hoại tất cả các núi chướng ngại, làm chỗ nương tựa cậy nhờ cho tất cả chúng sinh. Đó là thọ sinh tạng thứ tư của Bồ-tát.
Vì sao gọi dùng ánh sáng bình đẳng chiếu khắp là thọ sinh tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Bồ-tát này tu hành đầy đủ các biển hành phương tiện, điều phục và thành thục hết thảy chúng sinh; lìa bỏ tất cả những gì đã có; thành tựu vô ngằn mé thể thanh tịnh, trụ ở cảnh giới chư Phật, đầy đủ an nhẫn, được tất cả ánh sáng pháp nhẫn của chư Phật. Dùng sức chí dũng mãnh, đại tinh tấn, hướng đến thể xuất sinh Nhất thiết trí, chuyên cần tu tập các pháp môn thanh tịnh Tam-muội, thành tựu tất cả trí lực thần thông. Dùng ánh sáng trí tuệ chiếu sáng cả pháp giới, được ánh sáng của tất cả pháp sai biệt, thành tựu mắt sáng thanh tịnh không chướng ngại, được thấy các biển sắc tướng của chư Phật, ngộ nhập tất cả pháp tánh sâu xa; tự tại giáo hóa thành tựu cho chúng sinh, khiến cho thế gian đều sinh hoan hỷ; chuyên cần tu tập các pháp môn sai biệt như thật. Đó là thọ sinh tạng thứ năm của Bồtát.
Vì sao gọi hết thảy ba đời để sinh vào nhà các Như Lai là thọ sinh tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Bồ-tát này sinh vào nhà Như Lai sẽ tùy vào chỗ Như Lai trụ mà thành tựu viên mãn tất cả pháp môn thù thắng hạnh; ba đời có đủ trong biển nguyện của Như Lai, được thuần một căn lành của tất cả chư Phật, cùng tất cả chư Phật đồng một thể tánh, thành tựu việc thực hành pháp thanh tịnh trong sạch xuất thế, an trụ công đức rộng lớn của Phổ Hiền, nhập vào Tammuội sâu xa của hết thảy chư Phật, thấy sức oai thần tự tại của chư Phật, hoặc để giáo hóa, hoặc làm cho thanh tịnh, tất cả chúng sinh được pháp muôn bình đẳng, hồi hướng chư Phật, có thể lý giải mọi thắc mắc không dứt. Đó là thọ sinh tạng thứ sáu của Bồ-tát.
Vì sao gọi là hào quang oai lực của Phật trang nghiêm chiếu khắp là thọ sinh tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Bồ-tát này đã vào sâu trong sức oai thần của tất cả chư Phật, có ánh sáng chiếu khắp, tâm không thoái chuyển, dạo chơi khắp các cõi Phật, không có động tác, thờ phụng cúng dường biển các Bồ-tát, không biết chán mỏi, biết rõ như thật, các pháp đều như huyễn; biết các thế gian, tất cả đều như mộng, thấy được sắc thân thị hiện của chư Phật, những tướng tốt có được giống như cái bóng; biết những việc thần thông mà chư Phật đã làm, tự tại dạo chơi, giống như trò biến hóa; biết sự thọ sinh tùy loại trong các nẻo như ảnh trong gương; biết sự chuyển bánh xe pháp của tất cả chư Phật, khiến chúng sinh được nghe, giống như tiếng vang trong khoảng không của hang sâu. Dùng sức phương tiện mở cửa pháp giới, làm cho chứng nhập đến bờ bên kia. Đó là thọ sinh tạng thứ bảy của Bồ-tát.
Vì sao gọi pháp môn trí quán sát vi tế chiếu khắp là thọ sinh
tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Bồ-tát này trụ ở địa vị đồng chân, đạt được đủ các oai nghi của Bồ-tát, hết thảy công đức đều đầy đủ tròn đầy; quán sát vi tế pháp môn Nhất thiết trí; ở mỗi môn, đến tận vô lượng kiếp, mở rộng phân biệt đến vô biên cảnh giới tu hành của Bồ-tát; đối với Tam-muội sâu xa của các Bồ-tát, tâm được tự tại, thành tựu tối thắng các Ba-la-mật. Trong mỗi niệm được sinh ở chỗ Như Lai, trong khắp tất cả thế giới; có thể ở trong tất cả cảnh giới sai biệt, bình đẳng nhập định không sai biệt; ở trong pháp bình đẳng không sai biệt, thị hiện ở trí tự tại có sai biệt; ở trong vô lượng, vô biên cảnh giới được tự tại ra vào không bị chướng ngại; ở trong vô cảnh giới, khởi lên đủ các cảnh giới sai biệt; ở trong cảnh giới cực nhỏ lại thấy được cảnh giới rộng lớn; ở trong cảnh giới rộng lớn thấy cả cảnh giới cực nhỏ. Biết các thế gian đều là giả tạo bày ra. Thông hiểu tánh tướng nhân duyên của các pháp đều do chính tâm mình xuất hiện và khởi lên. Đó là thọ sinh tạng thứ tám của Bồ-tát.
Vì sao gọi biến hóa đủ cách để trang nghiêm pháp giới là thọ sinh tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Bồ-tát này ở trong mỗi niệm, luôn trang nghiêm vô lượng cõi Phật; tùy khắp chúng sinh, thân sẽ biến hóa để thị hiện, được vô sở úy, Niết-bàn tối thắng, hiện ra vô số những oai nghi của chư Phật, thành tựu đủ các phương tiện thiện xảo, chỉ nương vào pháp giới vô ngại thanh tịnh; tùy tâm chúng sinh mà hiện đủ các sắc tướng, làm cho người được thấy sẽ được giáo hóa, khiến cho khắp tất cả được an trụ hàng bất tư nghì; đầy đủ sự khai mở, thành tựu hạnh Bồ-đề, thực hành đạo Nhất thiết trí không chướng ngại; liên tục xuất hiện như vậy. Đối với việc chuyển bánh xe pháp, không trụ trong biển giới hạn Nhất thiết trí; tùy theo sự mong muốn mà giáo hóa, không để cho lầm lỗi; thường chánh niệm bình đẳng lợi ích thành tựu về tạng trí tuệ của Như Lai. Đó là thọ sinh tạng thứ chín của Bồ-tát.
Vì sao gọi nhanh chóng trở lại địa vị các Như Lai là thọ sinh tạng của Bồ-tát? Này thiện nam! Bồ-tát này ba đời ở chỗ các Đức Như Lai, thọ pháp quán đỉnh, đều biết thứ tự cảnh giới của hết thảy ba đời chư Phật đồng một thể tánh. Đó là biết tất cả thế giới đều tùy vào sự khởi lên và xuất hiện của tâm, trước sau nối tiếp không dừng.
Biết tất cả chúng sinh sau trước gì sinh tử cũng cứ liên tục nối tiếp nhau. Biết đủ các tâm niệm của tất cả chúng sinh, cũng thứ tự nối tiếp không ngừng. Biết chỗ thọ sinh của tất cả các Bồ-tát, trước sau trong những phàm kiếp thứ tự tiếp nối không ngừng. Biết việc tu hành các hạnh, của tất cả các Bồ-tát, trước sau trong những kiếp, đều thứ tự nối tiếp không ngừng. Biết đủ các cảnh trí mà Bồ-tát đã tu tập được, thứ tự nối tiếp không ngừng. Biết sự hiện thành Chánh giác của tất cả chư Phật, trước sau trong các kiếp thứ tự nối tiếp không ngừng. Biết tất cả phép công năng thiện xảo thân cận cúng dường cũng thứ tự nối tiếp không ngừng. Biết đủ mọi danh hiệu, đủ các sự tướng, hoặc thành, hoặc hoại, trong khoảng trước sau của tận tất cả kiếp, cũng thứ tự nối tiếp không ngừng. Biết tùy vào nhu cầu mà độ; thực hiện thành bậc Chánh giác, công đức trang nghiêm, khai ngộ, giáo hóa, hiện ra oai lực, thần thông trí tuệ để chuyển xe chánh pháp, khiến cho chúng sinh gần gũi cúng dường, mà không lỡ dịp… thứ tự tiếp nối nhau. Ở trong thế giới vô biên của chúng sinh, dùng phương tiện thiện xảo mà đều phục như vậy. Đó là thọ sinh tạng thứ mười của Bồ-tát.
Này thiện nam! Như vậy, Bồ-tát có mười loại thọ sinh tạng. Tất cả Bồ-tát từ đó sinh ra. Nếu các Bồ-tát, vì muốn thành tựu Bồ-đề rộng lớn, tu tập tăng trưởng, các pháp được tròn đầy, tức phải gom nhóm tích chứa đủ các công đức, trang nghiêm trong một chỗ, trang nghiêm ra khắp tất cả, trang nghiêm biến khắp tất cả các cõi Phật. Biến hóa và hiện ra đầy đủ các oai nghi, điều phục biến khắp cảnh giới của chúng sinh, cho đến tận kiếp vị lai, không một chút dừng nghỉ. Biển pháp của chư Phật, đủ các nhân duyên, đủ các cảnh giới, thông thương xoay vòng, tiếp nối không dứt. Trước hết phải giác ngộ cho khắp tất cả, hiện ra sức tự tại bất tư nghì của Phật, biến khắp và tràn đầy khắp hư không pháp giới. Ở trong biển tâm hạnh của các chúng sinh, nên nhiếp thủ để chuyển bánh xe chánh pháp. Ở khắp các chỗ của Như Lai trong tất cả thế giới nơi mười phương, phải gần gũi, không xả bỏ, vô lượng mây pháp phủ đầy khắp trước mặt, dùng âm thanh tịnh; giảng giải các biển pháp, trụ vào hết thảy chỗ mà thực hành không chút nghi ngại. Dùng lưới ánh sáng của tất cả diệu pháp mà trang nghiêm đạo tràng của các Bồ-tát; tùy tâm dục lạc của chúng sinh mà giảng mở vô biên các pháp tạng, chỉ rõ đủ các cảnh giới của chư Phật, tùy ý mà khai ngộ cho hết thảy thế gian.
Bấy giờ, Thần rừng Diệu Đức Ái Kính, ở trong vườn Lâm-tỳ-ni, muốn nói rõ nghĩa thọ sinh tạng rộng lớn của Bồ-tát cho Đồng tử Thiện Tài, nên dùng Thần lực của chư Phật, quán sát khắp mười phương, mà nói kệ rằng:
Tâm tối thượng sạch trong không bẩn
Thấy tất cả Phật không chán mỏi
Nguyện cúng dường tận kiếp vị lai
Ấy là tuệ sáng thọ sinh tạng.
Tất cả cõi biển trong ba đời
Đã có chúng sinh và chư Phật
Tất có cứu độ và kính ngưỡng
Ấy là tên gọi thọ sinh tạng.
Nhận mây mưa pháp không sao đủ
Xem khắp ba đời không chỗ chấp
Thân tâm thanh tịnh như hư không
Ấy không so sánh, thọ sinh tạng.
Tâm thường dạo tại biển đại Từ
Vững bền cao tột như Tu-di
Thông đạt môn Nhất thiết chủng trí
Ấy là tự tại thọ sinh tạng.
Tâm đại Từ che khắp mười phương
Thực hành vô cấu Ba-la-mật
Dùng hào quang pháp chiếu chúng sinh
Đó là hùng mạnh thọ sinh tạng.
Hiểu tự tánh pháp, tâm không ngại
Ba đời sinh ở nhà chư Phật
Nhập sâu pháp giới trí vô biên
Ấy là trí sáng thọ sinh tạng.
Thân pháp thanh tịnh tâm không chấp
Khắp đến mười phương vô lượng cõi
Tất cả sức Phật mà không thành
Ấy là khó nghĩ thọ sinh Phật.
Nhập sâu biển trí được tự tại
Trụ biển Tam-muội sẽ rốt ráo
Xem Nhất thiết trí môn phương tiện
Ấy là thật trí thọ sinh tạng.
Trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật
Thành thục cho hết thảy chúng sinh
Hiện thần lực Phật trang nghiêm khắp
Ấy là đại danh thọ sinh tạng.
Trí pháp chư Phật đều tu tập
Để mau vào khắp đất Như Lai
Biết rõ pháp giới nên không ngại
Thật đúng con Phật thọ sinh tạng.
Thiện nam! Nếu các Bồ-tát đầy đủ mười loại thọ sinh tạng này thì sẽ sinh vào nhà Như Lai, vì các thế gian mà làm ngọn đèn sáng lớn.
Thiện nam! Ta được môn giải thoát tất cả tự tại thọ sinh tạng của Bồ-tát này, từ vô lượng kiếp đến nay, dùng thần thông để dạo chơi, chỉ bày rõ cảnh giới vô ngại cho Bồ-tát.
Thiện Tài thưa:
–Bạch Thánh giả! Môn giải thoát này cảnh giới như thế nào?
Thần rừng đáp:
–Này thiện nam! Trước kia ta đã phát nguyện:
Nguyện khi tất cả Bồ-tát thị hiện thọ sinh; ta sẽ đem thân gần gũi, cúng duờng.
Nguyện nhập vào biển thọ sinh, vô lượng, rộng lớn của Đức Như Lai Tỳ-lô-giá-na. Nhờ oai lực thọ nguyện khi xưa mà nay ta sinh vào thế giới Ta-bà này, ở vườn Lâm-tỳ-ni thuộc thành Ca-tỳ-la trong tứ thiên hạ Diêm-phù-đề này.
Ở trong rừng này, ta chăm chú suy nghĩ khi nào thì Bồ-tát hạ sinh, trải qua một trăm năm, cuối cùng ta thấy Đức Thế Tôn từ trời Đâu-suất hạ sinh xuống đây. Này thiện nam! Lúc bấy giờ, khi Bồ-tát bắt đầu hạ sinh, trong rừng lớn này, trước tiên hiện ra mười tướng đoan chánh trang nghiêm:
- Mặt đất trong rừng này, bỗng nhiên bằng phẳng, gò đống, hố hầm lớn nhỏ, tất cả đều mất sạch.
- Những sỏi đá, những lối đi hiểm trở, những vật không trong sạch có ở trong rừng, thảy đều biến mất, mặt đất toàn là kim cương, các báu trang nghiêm như một vườn hoan hỷ; nhu mềm vô cùng đẹp.
- Trong vườn có cây Đa-la báu mà rễ của nó đăm khắp các chỗ giáp nước, thứ tự thẳng hàng phân bố rất trang nghiêm.
- Trong vườn lại xuất hiện tất cả những mầm hương, kho hương như hương xoa, hương bột; cờ phướn lọng báu và đủ các hình tượng làm bằng các ngọc báu đẹp ma-ni, đủ các loại cây hương mà bóng nó che rợp rất trang nghiêm, hơn cả khí hương ở cõi trời người.
- Trong vườn lại có nhiều hoa báu đẹp, kết lại thành từng vòng dùng làm vật trang nghiêm, nó có đầy khắp mọi nơi, sắp xếp thật là đẹp.
- Tất cả những đại thọ báu trong rừng, tự nhiên nở đầy hoa báu ma-ni, ở giữa hoa và lá tiết ra những sợi tơ mềm mại, màu vàng ròng, chằng chịt kết nối nhau.
- Tất cả các ao hồ bán nguyệt có ở trong rừng, đều hiện đầy hoa đẹp, mềm mại, tươi tốt, thanh khiết, từ đất nhô lên, đầy khắp trên mặt nước.
- Tất cả các Đại Thiên vương, các Thiên, Long, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-na, Ma-hầu-la-già, Cưu-bàn-trà… và tất cả những chủ thế gian có ở cõi Dục, cõi Sắc, trong thế giới Tabà, đều tập trung về rừng này, chắp tay trụ ở đó.
- Tất cả chư Thiên, thể nữ, Long nữ, Dạ-xoa nữ, Càn-thát-bà… và tất cả thể nữ là những chủ thế gian của cõi Dục, thuộc tam thiên thế giới này; đều sinh tâm hoan hỷ, mỗi người cầm đủ loại vật dụng để cúng dường, tất cả nghiêm chỉnh cung kính đều hướng về cây Tấtlạc-xoa.
- Tất cả chư Phật trong mười phương, đều từ lỗ rốn phóng ra hào quang lớn, gọi là đèn đủ loại tự tại của Bồ-tát thọ sinh, chiếu sáng tất cả mọi vật trong khu rừng này. Trong mỗi tia sáng đó, đều hiện sự ra đời của chư Phật thọ sinh. Đồng thời dùng thần thông biến hóa, để hiện ra đủ các loại công đức của tất cả Bồ-tát thọ sinh, lại hiện ra đủ loại ngôn ngữ âm thanh của chư Phật, khiến cho các chúng sinh đều nghe thấy.
Đó là mười loại tướng đoan nghiêm hiện ra trong rừng. Mười tướng hiện rồi, bấy giờ, các vua trời và chủ thế gian liền biết là Bồ-tát sắp hạ sinh.
Ta được thấy cảnh giới của mười loại tướng đoan nghiêm này thật là khó nghĩ nên sinh tâm hoan hỷ, hớn hở vô cùng.
Này thiện nam! Khi mẹ của Bồ-tát là phu nhân Ma-da, ra khỏi thành Ca-tỳ-la vào tới rừng này thì mười loại ánh sáng có hình tướng rất đoan nghiêm hiện ra, chiếu sáng khắp tất cả; khiến cho các chúng sinh, được Nhất thiết trí, sáng tỏ pháp tánh, nhanh chóng tăng trưởng, vui mừng yêu kính. Những gì là mười? Đó là: Ở trong rừng này, các gác lầu đều là vật báu; có nhiều mầm hương, kho hương; tất cả đều phóng ra ánh sáng, chiếu khắp tất cả thế giới trong mười phương. Cũng ở trong rừng này, tất cả những hoa sen có ở trong các ao, các hồ, đều phóng ra ánh sáng; ở trong ánh sáng ấy, lại phát ra những âm thanh vị diệu, giảng nói pháp cú chân thật của Như Lai. Lại có các Bồ-tát mới phát tâm, ở trong tất cả thế giới nơi mười phương, cũng đều phóng ra ánh sáng, chiếu đến tận rừng Lâm-tỳ-ni, làm cho nơi này tràn đầy ánh sáng. Lại có các Đại Bồ-tát hàng trụ Địa trong tất cả cõi Phật nơi mười phương cũng đều hiện đại thần thông, biến hóa, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu đến tận rừng Lâm-tỳni này. Lại có các Đại Bồ-tát, tu hành thành tựu, tròn đầy hết thảy hạnh Ba-la-mật, ở trong tất cả cõi Phật nơi mười phương, cũng phóng ra ánh sáng lớn, đến tận rừng Lâm-tỳ-ni này. Lại có các Đại Bồ-tát trụ biển nguyện lớn, ở trong tất cả cõi Phật nơi mười phương, cũng phóng ra ánh sáng trí, nguyện cho tất cả được tự tại không nghi ngại, để chiếu đến tận rừng Lâm-tỳ-ni này. Lại có các Đại Bồ-tát, trụ biển đại Bi ở trong tất cả cõi Phật nơi mười phương, cũng đều phóng ra ánh sáng trí, nguyện cho hết thảy được đến chiếu sáng rừng Lâm-tỳni. Lại có các Đại Bồ-tát, trụ biển phương tiện, ở trong tất cả cõi Phật nơi mười phương, đều phóng những ánh sáng thiện xảo đủ loại điều phục chúng sinh, để được đến chiếu sáng rừng Lâm-tỳ-ni. Lại có các Đại Bồ-tát ở trong tất cả cõi Phật nơi mười phương cũng phóng ra ánh sáng trí dạy dỗ điều chân thật để được đến chiếu sáng rừng Lâm-tỳ-ni. Và lại có các Đại Bồ-tát, ở trong các cõi Phật nơi mười phương, cũng phóng ra ánh sáng đại trí, cho thấy sự tự tại của chư Phật từ hạ sinh, xuất gia đến hành đạo; để chiếu đến rừng Lâmtỳ-ni. Trong thời gian mười loại ánh sáng này xuất hiện, thì những vô minh và hắc ám của tất cả chúng sinh, được ánh sáng này chiếu đến diệt trừ.
Này thiện nam! Khi mười loại tướng ánh sáng hiện ra rồi, phu nhân Ma-da sắp hạ sinh thì ở dưới tất cả các cây Tất-lạc-xoa khác, lại hiện ra mười sự biến hóa thần thông rộng lớn. Những gì là mười?
Này thiện nam! Thời gian mà Bồ-tát sắp đản sinh; thì ở cõi Sắc, các vua trời cùng con của mình; ở cõi Dục các trời cùng các thể nữ, các Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, hết thảy chủ thế gian cùng quyến thuộc tất cả đều tập họp lại cúng dường; làm cho oai đức, sắc tướng của phu nhân Ma-da thêm trang nghiêm thù thắng. Các lỗ chân lông trên thân, đều phóng ra ánh sáng như ngọn đèn, như mặt trời, như ánh lửa vàng đang nấu chảy; ánh sáng ấy chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới mà không gì ngăn cản được. Những ánh sáng có ở trong rừng, đều bị che lấp, không thể hiện trở lại được. Ánh sáng ấy diệt trừ tất cả phiền não và các khổ trong đường ác của chúng sinh. Đó là sự biến hóa thần thông thứ nhất khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Ngay lúc này, ở trong bụng của phu nhân Mada, lại hiện ra hết thảy những hình tượng của tam thiên đại thiên thế giới; mà trong đó có trăm ức tứ đại châu nằm trong cõi Diêm-phù-đề; với đủ thôn xóm, đô thị, đủ các vườn cây, tên gọi bất đồng; nhất nhất đều có phu nhân Ma-da. Ở dưới các cây, hết thảy những chủ thế gian cùng với quyến thuộc, đứng vây quanh nhiều vòng, tất cả hiện thành tướng của sự biến hóa thần thông không thể nghĩ bàn, để Bồ-tát chuẩn bị thị hiện đản sinh. Đó là sự biến hóa thần thông thứ hai khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Ở giữa các lỗ chân lông trên mình phu nhân Mada, thảy đều hiện hình ảnh Đức Thế Tôn Tỳ-lô-giá-na thời quá khứ, đang tu hành hạnh Bồ-tát, gần gũi cúng dường hết thảy chư Phật và nghe chư Phật thuyết pháp mà âm thanh chấn động khắp tất cả thế giới trong mười phương, làm hiện rõ các cảnh như ở trong gương sáng hay trong nước sạch; cũng hiện ra hư không với nhiều hình ảnh của mặt trời, mặt trăng, sao, mây, sấm sét… các lỗ chân lông trên thân phu nhân Ma-da cũng tiếp tục hiện ra hình ảnh Như Lai trong quá khứ đã thực hành những việc thần thông. Đó là sự biến hóa thần thông thứ ba khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Các lỗ chân lông trên thân phu nhân Ma-da, nhất nhất đều hiện hình ảnh Như Lai đã tu hành hạnh Bồ-tát, đã trụ tất cả biển pháp giới, trụ tất cả loại của thế giới, thể tánh của thế giới, hình trạng thế giới và trong thế giới ấy, thành ấp xóm làng, núi rừng sông biển, suối chảy ao hồ, chỗ chúng sinh cần độ, số kiếp đã trải qua, đã xuất hiện chư Phật, đã vào các cõi thanh tịnh, đã có sự thọ nhận, thọ mạng; đã có bạn lành, đã được pháp môn, đã nguyện tu hành, đã chứng được quả… từ mới phát tâm cho đến đạt địa vị không thoái chuyển ở tất cả nơi nào, sinh ra ở bất cứ tại đâu, phu nhân Ma-da đều là người mẹ của Như Lai trong tất cả cảnh giới ở quá khứ. Ở trong lỗ chân lông đều hiện như vậy. Đó là sự biến hóa thần thông thứ tư khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Ở mỗi lỗ chân lông của phu nhân Ma-da, đều hiện rõ thời gian Như Lai tu hành hạnh Bồ-tát trong quá khứ. Phàm chỗ thọ sinh luôn đủ các sắc tướng, đủ các hình tượng, đủ các oai nghi, đủ các dụng cụ riêng tư, quần áo, ăn uống, các sự việc vui khổ… mỗi mỗi đều hiện rõ, không thể nào trình bày hết được. Đó là sự biến hóa thần thông thứ năm khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Các lỗ chân lông trên thân của phu nhân Ma-da, mỗi mỗi đều hiện rõ thời gian Đức Thế Tôn tu hành hạnh bố thí trong quá khứ. Những cái khó bỏ, ngài đều xả bỏ: Từ xẻ thân, chia đốt tay chân, đầu, mắt, tai, mũi, môi lưỡi, răng, hàm, máu, xương, thịt, tủy, gan, mât, ruột, bao tử, da, gân, mạch máu, cho đến vợ con, nàng hầu, con trai, con gái, bà con họ hàng, cung điện, thành ấp và các châu báu như vàng, bạc, lưu ly, ngọc mã não, ngọc bích, anh lạc, vòng ngọc bội, quần áo, đồ ăn thức uống… Như vậy, tất cả trong ngoài các đồ vật, cái gì thấy dùng được, đều dùng đủ cách, đủ hình tượng ngôn từ, để xin người thọ nhận cho. Đó là sự biến hóa thần thông thứ sáu khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Trong lúc đó, ở rừng này, các chư Phật có trong tất cả kiếp ở quá khứ, đều hiện khắp; để chuẩn bị nhập vào thai mẹ; có đủ các cõi Phật, ở đủ các viên lâm, đủ các trang nghiêm cùng đủ các quyến thuộc; trong đó còn có đủ các loại cờ, phướn, tán, lọng, vòng hoa, y phục, hương xoa, hương bột, ngọc báu ma-ni… đủ các loại anh lạc, các vật trang nghiêm, đủ các loại kỹ nhạc, ca ngợi, mô tả, hớn hở mừng vui, khiến cho chúng sinh đều được nghe thấy hết. Đó là sự biến hóa thần thông thứ bảy khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Từ nơi thân phu nhân Ma-da, ở trong thai tạng, lại xuất hiện những nhu cầu thọ dụng của Bồ-tát như ngọc quý ma-ni, cung điện, lầu các, vượt hơn tất cả cõi Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già và cả chỗ ở của vua người. Ở trên cao được che phủ bằng lưới Ma-ni vương. Lại dùng Mani bảo vương làm vật dụng để trang nghiêm tất cả hình tượng trời, người; sự trang sức ấy rất có hiệu quả và trang nghiêm. Dùng hương thượng diệu xông lên để không nhơ, khiến cho tâm chúng sinh được thanh tịnh. Tất cả những việc ấy biến đầy khắp không gian rừng này, rõ ràng cụ thể, không rối loạn, lẫn lộn. Đó là sự biến hóa thần thông thứ tám khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Từ trong bụng của phu nhân Ma-da, hiện ra vô số các Đại Bồ-tát nhiều như số cực vi trần không thể nói hết, không thể nói hết trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật. Các Đại Bồ-tát này, thân hình, dung mạo, sắc tướng, ánh sáng, đi đứng oai nghi, có nhiều thần thông và quyến thuộc; tất cả đều cùng với Bồ-tát Tỳ-lô-giá-na bình đẳng, không có gì khác, đồng thanh khen ngợi Như Lai. Đó là việc biến hóa thần thông thứ chín khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Trong thời gian phu nhân Ma-da chuẩn bị cho Bồ-tát sắp hạ sinh; bỗng nhiên trước mặt bà, dọc theo bờ Kim cang, xuất hiện hoa sen lớn tên là Nhất thiết bảo vương trang nghiêm tạng, không có gì hơn được. Thân bằng kim cang ngọc quý Ma-ni vương, tàng hoa chứa cả biển hình tượng của chúng sinh; tất cả những ngọc báu Ma-ni vương tốt nhất, được dùng làm các tua trong hoa sen; ngọc Như ý bảo vương thanh tịnh, trong sạch dùng làm đài hoa; có số lá nhiều bằng mười cõi Phật cực vi trần số, tất cả lá đó đều được tạo thành từ ngọc Ma-ni; làm cho không gian cả một vùng trang nghiêm, rực rỡ; ngọc báu Ma-ni vương được kết thành lưới, che phủ khắp chung quanh, chắc chắn, không thể hủy hoại; Kim cương bảo vương được kết thành lọng, để che phủ ở trên, được hết thảy các vua trời cầm giữ; tất cả vua rồng thì tạo vầng mây hương lớn làm mưa pháp hương; tất cả các vua trời, đều làm mưa hoa đẹp của trời và các dụng cụ trang nghiêm khác; tất cả các vua Dạ-xoa, thì cung kính đi nhiễu quanh; tất cả vua Càn-thát-bà, phát ra những âm thanh mỹ diệu, ca ngợi và khen tụng công đức của Bồ-tát khi xưa, đã gần gũi cúng dường chư Phật; tất cả vua A-tu-la đều xả bỏ tâm kiêu căng tự cao, cúi mình cung kính, chắp tay đánh lễ; tất cả vua Ca-lâu-la mang lụa, ngậm ngọc, làm trang nghiêm cả hư không; tất cả vua Khẩn-na-na, đều phát tâm hoan hỷ, ca tụng, ngâm vịnh, ngợi khen công đức của Bồ-tát; tất cả vua Ma-hầula-già, đều sinh tâm mừng vui, phát ra âm thanh lớn, ca tụng ngợi khen, nổi mây làm mưa các báu trang nghiêm. Đó là sự biến hóa thần thông thứ mười khi Bồ-tát sắp đản sinh.
Này thiện nam! Ở tại rừng này, ta đã thấy phu nhân Ma-da, cùng toàn thể các Bồ-tát, hiện ra mười loại tướng thần thông, với đủ loại công đức không thể nghĩ bàn, với vô lượng ánh sáng, tâm ta nhìn không biết chán mỏi. Sau đó từ nơi sườn phải của phu nhân Ma-da, Đức Thế Tôn chào đời. Sự ra đời này giống như mặt trời trong hiện giữa hư không; giống như mây lành xuất hiện trên đỉnh núi cao; như luồng chớp rọi sáng cả lớp mây dày; như ánh lửa lớn được đốt lên trong đêm tối. Lúc này, Thế Tôn từ sườn của mẹ xuất hiện, thân tướng thật ánh sáng.
Thiện nam! Việc Bồ-tát thị hiện đản sinh là vì muốn được chỉ bày: Tất cả các pháp đều như hình, như bóng, như giấc mộng, như huyễn, như hóa, như đi, như lại, không sinh, không diệt. Này thiện nam! Ta được thấy Đức Phật Tỳ-lô-giá-na trong thời gian mới đản sinh với những thị hiện thần thông, ở vườn Lâm-tỳ-ni thuộc tứ châu trong cõi Diêm-phù-đề. Lại cũng được thấy sự thị hiện đủ loại thần thông biến hóa, lúc mới đản sinh của các Như Lai trong tam thiên đại thiên thế giới, ở nơi vườn Lâm-tỳ-ni thuộc trăm ức tứ châu của cõi Diêmphù-đề. Cũng được thấy ở tam thiên đại thiên thế giới cực vi trần số cõi Phật. Cũng được thấy trăm Đức Phật trong thế giới cực vi trần số cõi Phật, cho đến hết thảy thế giới trong mười phương cực vi trần số cõi Phật, với đủ loại biến hóa thần thông thị hiện lúc sắp đản sinh. Ta cũng thấy, ở trong thế giới nơi mười phương cực vi trần đó, có đủ vô lượng các cõi Phật mà trong từng cõi đều có sự thọ sinh, với đủ các sự biến hóa thần thông khi đản sinh. Như vậy, trong từng niệm cho đến tận vị lai, khắp các cõi biển có trong tất cả pháp giới mười phương, cứ mỗi mỗi vi trần có trong vô lượng thế giới, đều có sự biến hóa thần thông đủ cách, để thị hiện sự bắt đầu đản sinh; thứ tự nối tiếp nhau không có sự gián đoạn. Mặc dù trong mỗi niệm, sự biến hóa thần thông để thị hiện đản sinh luôn chiếu khắp tất cả vô biên cõi biển nhưng tâm ta không đắm, không có chướng ngại.
Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, thưa với Thần chủ rừng Lâm-tỳ-ni là Diệu Đức Viên Mãn Ái Kính Cát Tường:
–Bạch Thánh giả! Bồ-tát làm thế nào để trụ thân cuối cùng, để được sinh trong họ tộc lớn?
Thần rừng bảo:
–Này thiện nam! Hết thảy các Bồ-tát, sắp thành Chánh giác, trụ thân cuối cùng là đều sinh ở cung vua, hoặc sinh vào nhà Ba-la-môn đại tộc. Vì sao? Vì như vậy mới có thể thành tựu đủ các lợi ích, điều phục cho mình và cho người khác, khiến được thành thục. Thiện nam!
Đem lợi ích cho mình và người có ba loại pháp:
- Quả báo nương theo thiện ác của quá khứ.
- Quả báo nương theo phước đức.
- Quả báo nương theo trí tuệ.
Thế nào là Dị thục (quả báo nương theo thiện ác của quá khứ mà có)? Nó có tám loại:
- Thọ lượng tròn đầy.
- Sắc tướng tròn đầy.
- Chủng tộc tròn đầy.
- Tự tại tròn đầy.
- Tín ngôn tròn đầy.
- Sức lớn tròn đầy.
- Tướng trượng phu tròn đầy.
- Sức dũng tròn đầy.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thọ lượng tròn đầy? Đó là mạng sống dài thọ, ở lâu trong thế gian. Thế nào là Bồ-tát sắc tướng tròn đầy? Đó là hình và sắc trang nghiêm, tướng tốt tột cùng không gì hơn, người mà thấy được liền vui, tâm không biết chán. Thế nào là Bồ-tát chủng tộc tròn đầy? Đó là sinh vào nơi giàu sang phú quý; như dòng Sát-đế-lợi hay nhà Bà-la-môn. Thế nào là Bồ-tát tự tại tròn đầy? Đó là người ở ngôi vị có nhiều của cải, nhiều quyến thuộc; hành động tùy tâm, được nhiều người tôn kính, vâng lời. Thế nào là Bồ-tát tín ngôn tròn đầy? Đó là lời nói phát ra có cân nhắc, chân thực, người nghe tất phải tin nhận, các tranh tụng đều giải quyết rõ ràng, tâm không cao thấp; phàm phải quyết đoán điều gì, luôn cân nhắc kỹ càng, lời nói việc làm không trái nhau; không xin cầu, không dua nịnh. Thế nào là Bồ-tát sức lớn tròn đầy? Đó là tên gọi cao quý đối với những người tinh tấn dũng mãnh, tánh khí nhu hòa, chê khen không màn, có nghề nghiệp vững chắc, không mắc lỗi lầm, ở trong chúng hội lớn, rất được tôn trọng. Thế nào là Bồ-tát có tướng trượng phu tròn đầy? Đó là người có đầy đủ các tướng trượng phu, xa lìa các tàn khuyết. Thế nào là Bồ-tát sức dũng tròn đầy? Đó là sức quả báo thù thắng, thân không tật bệnh, tâm sức tráng kiện, có thể làm được những việc sâu xa tốt đẹp. Đó là tám pháp mà ta gọi là Bồ-tát dị thục viên mãn.
Này thiện nam! Bồ-tát làm thế nào để duyên theo tám loại pháp dị thục này mà tu hành? Đó là Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh phải phát khởi tâm thương xót rộng lớn, tâm không sát hại; đó là nhân của thọ lượng tròn đầy. Nếu các Bồ-tát, đứng trước các hình tượng của Bồtát và chư Phật, hoặc ở những nơi có nhiều u tối thì nên bố thí ánh sáng, hoặc bố thí đủ các loại y phục tốt đẹp trong sạch; đó là nhân của sắc tướng tròn đầy. Nếu các Bồ-tát, đối với các bộ, các loài, trong cùng chỗ ở mà tâm luôn khiêm nhường thì đó là nhân của chủng tộc tròn đầy. Nếu các Bồ-tát, đối với những chúng sinh gặp cảnh tai ương nghèo khổ thì tùy vào tâm mong cầu của họ mà thực hành bố thí, hoặc chu cấp cho họ; đó là nhân của tự tại tròn đầy. Nếu các Bồ-tát, thường tu cách nói lời chân thật, nói lời hòa hợp, nói lời dịu dàng, nói lời không đổi, không khác; đó là nhân của tín ngôn tròn đầy. Nếu các Bồtát, muốn thâu tóm và giữ lấy thân thế gian ở đời vị lai, với đủ các sắc tướng, công đức thù thắng thì phát thệ nguyện lớn là cúng dường Tam bảo các Thiện tri thức, cha mẹ, sư trưởng, tâm không hề xả bỏ; phải cung kính phụng thờ, không gián đoạn, đó là nhân của sức lớn tròn đầy. Nếu các Bồ-tát, tâm luôn yêu thích thân đại tượng phu thì đối với tướng nữ nhân, nên sinh tâm chán bỏ, sợ hãi nữ sắc như là sợ lửa dữ; đối với thân trượng phu, luôn tưởng sinh phước đức; đồng thời khuyên chúng sinh chán xa thân nữ, chỉ vui thích tướng trượng phu; đó là nhân của tướng trượng phu tròn đầy. Nếu các Bồ-tát, luôn dùng sức của thân, cúng dường và làm việc cho chúng sinh; phục dịch những điều tốt, thường đến chỗ các sư trưởng mà hỗ trợ, dọn dẹp, tẩy rửa; lại dùng đủ các loại ăn uống ngon nhất, đem bố thí những người đói khát, mong sao cho họ được no đủ, lấy đó làm vui, cái đẹp sẽ có sức tăng mạnh; đó là nhân của sức dũng tròn đầy. Đó là tám loại pháp mà Bồ-tát phải duyên theo để tu tập pháp quả báo nương theo thiện ác của quá khứ mà có.
Này thiện nam! Về nguyên nhân của tám loại Dị thục này, phải có ba duyên mới tăng trưởng được, mới có thể làm cho Dị thục thù thắng, lợi ích rộng lớn và tròn đầy. Thế nào là ba? Một là tâm thanh tịnh; hai là hạnh thanh tịnh; ba là cảnh thanh tịnh. Nếu các Bồ-tát, nội tâm thanh tịnh, đem hết căn lành có được, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chứng được nhất vị pháp giới; tin vui rộng lớn, thuần khiết không lẫn lộn, dốc cầu tu tập, không đoái hoài đến thân mạng, cùng bậc Thiện tri thức, đồng một chí hạnh, thấy cùng pháp ấy, sinh vui mừng sâu xa, ngày đêm tư duy, mỗi niệm đều được tùy thuận, đi đứng nằm ngồi, tâm không chán mỏi; đó là phát tâm thanh tịnh thứ nhất. Nếu các Bồ-tát ngay đối với việc phát khởi căn lành, ý chí phải vui vẻ rộng lớn, phải tu tập lâu dài, niệm niệm không gián đoạn, có phương tiện thiện xảo, để có thể được thành tựu; người chưa được thọ hạnh làm cho thọ hạnh; người đã thọ hạnh rồi thì khiến cho sự thọ hạnh đó thêm kiên cố; đó là hành thanh tịnh hạnh thứ hai. Nếu các Bồ-tát, ở trong tất cả những cảnh giới mà tu hành, thì tâm phải thanh tịnh, để có thể phát khởi những điều chân chánh, làm cho sự tu hành được thuận lợi dễ dàng, như vậy con đường khẩn cầu sẽ đạt kết quả rốt ráo; đó là hướng đi tới cảnh giới thanh tịnh thứ ba.
Thiện nam! Vì sao Bồ-tát phải chịu quả Dị thục vậy? Đó là do Bồ-tát có đầy đủ thọ lượng, lại được tu tập không gián đoạn, trong một thời gian dài; các căn lành đã có, được chứa nhóm tăng trưởng, có thể ở lâu trong thế gian, làm lợi ích cho mình và cho người; đó là quả thọ mạng tròn đầy. Đó là do Bồ-tát có sắc tướng đoan nghiêm, được chúng sinh yêu kính, tất cả đại chúng thường quay về để chiêm ngưỡng, phàm nói ra lời nào, nghe như tiếng nhạc, nếu đã được nghe nói pháp rồi, hết thảy đều tùy thuận tu hành; đó là quả của sắc tướng tròn đầy. Đó là do Bồ-tát thuộc chủng tộc chân chánh; được thế gian tôn trọng, khiến cho chúng sinh luôn tùy thuận vào những lời dạy của Bồ-tát, mà tinh tấn chuyên cần tu tập, nhanh chóng xả lìa các nghiệp bất thiện, tu hành các nghiệp lành; đó là quả của chủng tộc tròn đầy. Lại do Bồ-tát có sự tự tại tròn đầy, có đủ của cải địa vị, có thể dùng và sai khiến vô số châu báu, như đầy tớ, để chu cấp cho chúng sinh, tùy vào nhu cầu họ cần mà làm cho họ được đầy đủ; thâu tóm gìn giữ, sau đó mới điều phục làm cho họ được thành thục; đó là quả của tự tại tròn đầy. Lại do Bồ-tát đã thành tựu thật ngữ, có thể dùng lời yêu thương mà thâu nhận chúng sinh, điều phục, thành thục họ khiến cho họ tín thọ và được giải thoát; đó là quả của tín ngôn tròn đầy. Lại do Bồ-tát giàu sang tự tại, có thế lực lớn, có khả năng lấy đức cảm hóa, khiến cho chúng sinh, tâm biết hổ thẹn, biết tôn trọng và yêu thích; phàm nói ra lời nào, cũng dễ tùy thuận không nghịch; đó là quả của sức lớn tròn đầy. Lại do Bồ-tát có đầy đủ tướng đại trượng phu tròn đầy, các căn thành tựu, không có tàn khuyết; cho nên gọi đó là sự độ lượng sâu xa của công đức thù thắng; luôn tinh tấn dốc cầu cảnh giới Nhất thiết trí, đắc vô sở úy, tu hành không gặp chướng ngại, có khả năng đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh, các việc làm đều hết tâm, không bị chướng ngại; tất cả trời và người trong thế gian không thể quở trách hay hủy báng; đó là quả của đầy đủ tướng đại trượng phu tròn đầy. Lại do Bồ-tát đã thành tựu được sức dũng mãnh, có khả năng gom chứa khắp tất cả pháp lành, làm cho cảnh giới của chúng sinh được an vui thành tựu; tinh tấn dũng mãnh để thành tựu được trí thần thông; đó là quả của sức dũng mãnh tròn đầy. Tóm lại, đó gọi là dị thục nhân quả.
Thế nào là phước trí? Ba-la-mật là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục gọi chung đó là phước; còn Bát-nhã ba-la-mật thì gọi là Trí; Tinh tấn, Thiền định cũng gọi là phước, cũng gọi trí. Nếu duyên vào Tinh tấn, mà tu hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, với tâm bình đẳng bốn vô lượng, thì gọi là phước. Nếu duyên vào tinh tấn mà phát khởi việc nghe, việc suy nghĩ để tu hành thì gọi là trí. Còn nếu duyên vào tinh tấn mà tu hành theo thiện xảo uẩn, thiện xảo xứ thiện xảo giới, thiện xảo duyên khởi, thiện xảo xứ chẳng phải xứ để có khả năng biết được thiện hay bất thiện của pháp Tứ đế, biết được trắng đen, phiền não, hơn thua của các nghiệp, quán sát được vi tế, thì gọi là trí. Nếu duyên theo thiền định, tu hành Tứ vô lượng, thì gọi là phước. Nếu duyên theo Thiền định tu hành Bát-nhã và Phương tiện thiện xảo, thì gọi là trí. Cho nên Bồ-tát có thể đem lợi ích lớn cho tất cả chúng sinh; ở trong chúng hội lớn của các cõi Phật mà làm thầy đứng đầu, có thể tùy thuận khắp hết thảy chư Phật, chuyển bánh xe chánh pháp, để có thể tự điều phục đồng thời cũng điều phục được cho tất cả chúng sinh; khiến cho họ mau nhập được vào đạo Nhất thiết trí. Bồ-tát mà thành tựu được đủ các loại nhân quả thù thắng như vậy, tức sẽ mau chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xin xem tiếp trang 7