Trang 4 (tiếp theo)

Bấy giờ, Ưu-bà-di Bất Động bảo Đồng tử Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta nhớ lại thời quá khứ, thuộc kiếp Vô cấu quang, kiếp ấy có Đức Phật, tên là Tu Tú, đầy đủ mười hiệu. Thời ấy có đức vua tên là Điện Thọ, ngài chỉ có một người con gái chính là ta bấy giờ. Vào một đêm, sau giờ diễn tấu âm nhạc, cha mẹ anh em đều ngủ say, năm trăm đồng nữ cũng vừa yên giấc, ta lên trên lầu cao ngắm tinh tú. Cùng lúc, ta thấy Đức Như Lai, ở trên không trung, như núi báu chúa, với vô lượng, vô biên trời, rồng, bát bộ và bất tư nghì chúng Bồ-tát vây quanh. Thân Đức Như Lai phóng lưới ánh sáng chiếu khắp mười phương không bị chướng ngại; các lỗ chân lông trên thân đều tỏa hương thơm. Ta nghe mùi hương ấy, thân thể nhẹ nhàng trong tâm hoan hỷ, vội xuống lầu, chắp tay đảnh lễ và chiêm ngưỡng kỹ Đức Phật ấy. Nhưng không thấy được tướng trên đỉnh, nhìn hai bên thân cũng không biết giới hạn và tư duy về các vẻ đẹp cũng không biết nhàm chán.

Thiện nam! Lúc ấy, ta thầm nghĩ: Không biết Đức Thế Tôn này, đã tạo những nghiệp duyên gì, mà đạt được thân xinh đẹp thù thắng, tướng tốt viên mãn, ánh sáng đầy đủ, quyến thuộc thành tựu, cung điện trang nghiêm, phước đức trí tuệ, Tam-muội Tổng trì và thần thông biện tài đều bất tư nghì như thế!

Thiện nam! Bấy giờ, Đức Như Lai ấy biết được ý nghĩ của ta nên ngài liền bảo:

–Ngươi nên phát tâm khó khuất phục, để cắt đứt các phiền não, phát tâm không gì thắng nỗi để phá các tà chấp; phát tâm không lui, không khiếp sợ để nhập vào pháp môn sâu xa; phát tâm không lay động, để nhổ nỗi khổ sinh tử, phát tâm không mê hoặc, để thọ sinh vào khắp tất cả các nẻo, phát tâm không nhàm chán, để mong luôn luôn được gặp các Đức Phật; phát tâm không biết đủ, để tiếp nhận tất cả các trận mưa pháp của Như Lai; phát tâm chánh tư duy để chiếu soi tất cả ánh sáng Phật pháp; phát tâm đại trụ trì, để chuyển toàn bộ những bánh xe pháp của các Đức Như Lai; phát tâm thông lưu khắp, để ban pháp báu theo nhu cầu của chúng sinh.

Thiện nam! Ta ở chỗ của Đức Phật Chánh Đẳng Giác ấy, nghe pháp như thế và tùy thuận mà cầu Nhất thiết chủng trí, tâm không thoái chuyển; cầu mười Lực của Đức Phật, cầu biện tài của Phật, cầu hào quang của Phật, cầu sắc thân của Phật, cầu tướng tốt của Phật, cầu chúng hội của Phật, cầu tịnh độ của Phật, cầu oai nghi của Phật, cầu thọ mạng của Phật. Phát tâm ấy rồi, tâm rất mong muốn như người khát nghĩ đến nước. Tâm ấy kiến cố như Kim cương, tất cả phiền não và Nhị thừa không thể làm hủy hoại được.

Thiện nam! Ta nhớ từ lúc mới phát tâm đến nay, trải qua số kiếp như cực vi trần của cõi Diêm-phù-đề, nhưng ta chưa bao giờ khởi tâm dục, dù trong một niệm, huống gì làm việc ấy.

Trong những kiếp đó, đối với lỗi lầm của quyến thuộc mình ta còn không khởi tâm sân hận dù trong một niệm, huống là những chúng sinh khác không có lỗi lầm.

Trong những kiếp ấy, ta đối với thân mình còn không sinh ngã kiến, huống gì lấy đồ vật của chúng làm của mình.

Trong những kiếp ấy, khi sinh khi tử và lúc nhập lúc trụ lúc xuất, cho đến trong mộng, cũng chưa bao giờ mê hoặc khởi ý tưởng chúng sinh và tâm vô ký, huống gì những lúc khác.

Trong những kiếp ấy, thậm chí trong giấc mộng, có khi thấy được một Đức Phật mà ta chưa từng quên, huống là sự thấy của Bồ-tát thập nhãn.

Trong những kiếp ấy, Ta thọ trì chánh pháp của các Đức Như

Lai, chưa từng quên sót một câu một kệ, cho đến những lời lẽ của thế tục cũng vậy, huống gì sự tuyên thuyết diệu pháp trong kho tàng ngôn ngữ của Như Lai.

Trong những kiếp ấy, khi thọ trì biển giáo pháp của các Đức Như Lai, ta đều tư duy và quán sát kỹ từng câu từng đoạn, cho đến tất cả pháp của thế tục cũng luôn luôn tư duy quán sát triệt để, huống là pháp thắng nghĩa chân thật của Đức Như Lai.

Trong những kiếp ấy, khi thọ trì biển pháp của các Đức Như Lai, trong đó không có pháp nào là ta không đắc Tam-muội, cho đến tất cả pháp công xảo kỹ nghệ của thế gian, trong mỗi pháp cũng đều như vậy.

Trong những kiếp ấy, trụ trì pháp luân của các Đức Như Lai, tùy theo những pháp trụ trì chưa từng phế bỏ, cũng không nhầm lẫn một đoạn, một câu; cho đến không tăng thêm theo trí thế gian, ngoại trừ là muốn điều phục chúng sinh.

Trong những kiếp ấy, gặp biển chư Phật, nơi mỗi Đức Phật ta đều thành tựu đại nguyện thanh tịnh, cho đến sự biến hóa nơi các Đức Phật cũng thế.

Trong những kiếp ấy, gặp các Bồ-tát, tu hành diệu hạnh, ta cũng thành tựu tất cả, nên được thanh tịnh.

Trong những kiếp ấy, gặp các chúng sinh, Ta đều khuyên phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Chưa từng khuyên một chúng sinh nào phát tâm Thanh văn, Bích-chi-phật dù chỉ trong một niệm.

Trong những kiếp ấy, khi nghe pháp nơi các Đức Phật, đến một đoạn, một câu ta đều không sinh tâm nghi ngờ, không sinh nhị tưởng, không sinh tưởng phân biệt, không có ý tưởng khác nhau, không sinh tưởng chấp trước, không nghĩ cao thấp, không nghĩ hơn kém, không nghĩ yêu ghét; dù chỉ trong một niệm cũng không có những ý tưởng như thế!

Thiện nam! Từ đó đến nay, ta được gặp các Đức Phật và thường được thân cận, chưa từng xa lìa; thường gặp các Bồ-tát; thường gặp đại Thiện tri thức chân thật, thường nghe đại nguyện thanh tịnh của chư Phật, thường nghe những sự tu diệu hạnh của Bồ-tát; thường nghe môn Ba-la-mật của Bồ-tát; thường nghe môn ánh sáng trí của hàng Bồ-tát; thường nghe môn tạng Tam-muội Tổng trì vô tận của Bồ-tát; thường nghe môn nhập khắp vô biên lưới thế giới của Bồ-tát; thường nghe môn nhập khắp vô biên cảnh giới chúng sinh của Bồ-tát; thường nghe Bồ-tát dùng ánh sáng trí trừ diệt phiền não của tất cả chúng sinh, thường nghe Bồ-tát sinh trưởng thiện căn cho tất cả chúng sinh, thường nghe Bồ-tát có khả năng tùy theo chúng sinh trong khắp pháp giới, mà hiện thân mình khắp nơi cho đến thường nghe Bồ-tát dùng lời lẽ hay khai ngộ cho tất cả chúng sinh trong pháp giới mà chưa từng xa lìa một pháp nào!

Thiện nam! Ta được môn giải thoát tạng trí tuệ khó khuất phục của Bồ-tát, môn Tam-muội trang nghiêm, cầu tất cả pháp, tâm không biết nhàm chán của Bồ-tát; môn thọ trì hạnh nguyện kiên cố của Bồtát; môn Tổng trì địa bình đẳng tất cả pháp của Bồ-tát; môn biện tài ánh sáng trí chiếu khắp tất cả pháp của Bồ-tát; nó có thể hiện ra với sự thần biến tự tại bất tư nghì. Ông có muốn thấy không?

Thiện Tài thưa:

–Vâng, con rất muốn thấy.

Lúc ấy, Ưu-bà-di Bất Động, ngồi yên trên tòa Sư tử Long tạng, nhập vào môn giải thoát tạng trí tuệ khó khuất phục của Bồ-tát, môn Tam-muội trang nghiêm cầu tất cả pháp không biết nhàm chán, môn Tam-muội trang nghiêm viên mãn tuyệt đối, môn Tam-muội trí luân mười Lực hiện hữu… Vị ấy nhập vào mười ức môn Tam-muội như thế. Khi Ưu-bà-di nhập vào những môn Tam-muội này, thì tất cả các thế giới như số cực vi trần trong không thể nói, không thể nói cõi Phật khắp mười phương, đều chấn động sáu cách. Mỗi thế giới đều trở thành lưu ly thanh tịnh. Trong mỗi thế giới có trăm ức tứ thiên hạ. Mỗi tứ thiên hạ đều có Đức Như Lai: Hoặc lên Đâu-suất, hoặc đang giáng sinh, hoặc mới vào thai, hoặc xuất gia tu khổ hạnh, hoặc ngồi dưới đạo thọ, hoặc đang hàng phục ma, hoặc hiện chứng Vô thượng Bồ-đề, hoặc đang nhận lời thỉnh của Phạm vương, hoặc đến nước Ba-la-nại chuyển Tứ đế luân, hoặc từ cung trời Đao-lợi trở về Diêmphù-đề bằng ba đường tam cấp báu, hoặc đang ở khắp sáu thành lớn, hoặc đang thị hiện đại thần thông bẻ gãy các ngoại đạo, hoặc đang trú bên bờ ao Di hầu thuộc thành Tỳ-da-ly bắt đầu chế định Giới luật, hoặc đang ở núi Linh thứu thuộc đại thành Vương-xá diễn thuyết các môn Bát-nhã ba-la-mật, cho đến hiện ở giữa rừng Sa-la thuộc thành Câu-thi-na nhập Bát-niết-bàn. Những việc làm như thế, tất cả Phật sự hiện khắp các thế giới thanh tịnh trong mười phương. Mỗi Đức Như Lai đều phóng lưới ánh sáng khắp cả pháp giới, chuyển pháp luân khai ngộ chúng sinh, cùng chúng hội đạo tràng thanh tịnh vây quanh.

Bấy giờ, Ưu-bà-di Bất Động xuất định bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Vừa rồi ông có thấy việc ấy không? Có nghe và hiểu biết điều ấy không?

Thiện Tài đáp:

–Vâng, con đã thấy, đã nghe và hiểu tất cả.

Ưu-bà-di nói:

–Thiện nam! Ta chỉ đạt được môn hạnh Đại nguyện thọ trì kiên cố từ những sự tu tập của Bồ-tát, môn Tam-muội quang minh trí trang nghiêm cầu tất cả pháp tâm không nhàm chán; môn giải thoát tạng trí tuệ khó khuất phục của Bồ-tát. Môn Tổng trì địa, bình đẳng tất cả pháp và môn biện tài ánh sáng trí chiếu khắp tất cả các pháp này; tạo phương tiện khéo cho chúng sinh, dùng lời lẽ hay phổ biến cho hết thảy, thuyết pháp vi diệu cho mọi người đều được hoan hỷ. Còn như các Đại Bồ-tát giống như chim Ô-sái-bà bay trong hư không, không bị trở ngại; có khả năng nhập vào tất cả biển lớn chúng sinh, sâu xa tự tại, quán sát khắp nơi, thấy người nào thiện căn đã thuần thục thì lập tức dẫn dắt đến bờ giác ngộ. Lại như khách buôn, vào đảo báu lớn tìm nhặt báu trí mười Lực của Như Lai. Lại như người đánh cá, có đủ năng lực, cầm lưới chánh pháp, vào biển sinh tử, vớt các chúng sinh. Như vua A-tu-la có khả năng khuấy động tất cả đại thành ba cõi và các biển phiền não, làm cho khắp các chúng sinh đạt được vắng lặng rốt ráo. Như vầng mặt trời xuất hiện trên hư không, chiếu vào nước bùn ái dục, làm cho chúng khô kiệt. Giống như vầng trăng tròn, xuất hiện trên hư không, giúp cho những người đáng được hóa độ hoa tâm bừng nở. Giống như đại địa, bình đẳng tuyệt đối cho vô lượng chúng sinh sống trên ấy và luôn tiếp nhận những bước chân dẫm đạp nhưng tâm không phân biệt, ngược lại còn làm tăng trưởng các mầm thiện pháp. Giống như trận gió lớn, thổi đến các nơi không bị trở ngại, có khả năng xô bật tất cả những đại thọ chư kiến và phá tan tất cả các ngự uyển sinh tử. Như Chuyển luân vương du hành trong nhân gian, đem bốn Nhiếp pháp nhiếp hóa các chúng sinh. Ta làm sao có thể biết và nói hết công đức và hạnh nguyện của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phía Nam này, có một đại thành, tên là Đô-tát-la, trong đó có một ngoại đạo xuất gia, tên là Biến Hành. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Ưu-bà-di Bất Động, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Khi được nghe pháp ở chỗ Ưu-bà-di Bất Động rồi, Đồng tử Thiện Tài chuyên tâm ghi nhớ, thọ trì những lời dạy bảo, những sự hướng dẫn, những lời diễn thuyết, những lời khen ngợi và sự gặp ánh sáng từ vị ấy chiếu đến. Tất cả, đồng tử đều tùy thuận và cho là việc hy hữu, rồi tư duy quán sát, chuyên tâm chánh niệm tu tập trọn vẹn. Thiện Tài thong thả tiến thẳng về phía trước, đi qua các nước, các thành ấp, các doanh trại, làng xóm rồi mới đến thành Đô-tát-la. Lúc mặt trời vừa khuất núi, đồng tử bước vào thành, đi khắp nơi, từ cổng làng, quán xá, các con đường thông bốn ngõ, nối liền với ngã tư, để tìm kiếm hỏi thăm về ngoại đạo Biến Hành. Từ chỗ cao nhìn xa về hướng Đông bắc của thành có một ngọn núi lớn, tên là Diệu cát tường. Ngay trong đêm ấy, Đồng tử Thiện Tài trông thấy nơi đỉnh núi này, có một đạo hào quang lớn, như mặt trời mới mọc, chiếu sáng khắp cả núi cao hang hiểm, cây cỏ, vườn hoa; cho đến thành ấp tất cả đều sáng rực rỡ. Trông thấy việc này, đồng tử hết sức vui mừng, suy nghĩ: “Ta nhất định phải đến đó, để gặp Thiện tri thức”. Rồi ông liền ra khỏi thành, chánh niệm quán sát leo lên núi ấy. Lên đến đỉnh, đồng tử dừng lại từ xa, tư duy chiêm ngưỡng, thấy vị ngoại đạo này đang thong thả kinh hành, nơi vùng đất bằng phẳng trên ngọn núi ấy, sắc tướng viên mãn, hào quang sáng ngời, tướng phước cát tường hơn cả ngọn lửa mạnh, có mười ngàn chúng trời Phạm thiên vây quanh, vua Đại Phạm thiên không thể sánh kịp. Thấy rồi, Thiện Tài lập tức đi đến đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng trước chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói Thánh giả, có khả năng khéo léo giảng dạy cúi xin chỉ dạy cho con.

Biến Hành đáp:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông chẳng những có khả năng phát tâm Vô thượng Bồ-đề, mà còn có khả năng thỉnh vấn hạnh của các Bồ-tát. Thiện nam! Ta đã từng sống khắp mọi nơi, tùy thuận thực hiện tất cả các hạnh của Bồ-tát; đã thành tựu môn Tam-muội quán sát khắp tất cả thế gian không bị chướng ngại; đã thành tựu sức thần thông không nương tựa, không tạo tác, đã thành tựu trí tuệ độ phổ biến khắp pháp giới và tất cả ánh sáng trí tuệ cũng tròn đầy theo như thế.

Thiện nam! Đối với khắp tất cả thế gian, đủ các phương hướng, Ta có đủ các hình sắc, đủ các tướng mạo, đủ cách sinh và tử, đủ các hạnh giải, đủ các sự tin hiểu.

Tất cả các nẻo trong các loài chúng sinh, là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, địa ngục, súc sinh, cảnh giới vua Diêm-la, người và phi nhân. Tất cả các loài, hoặc trú vào các kiến, hoặc tin Nhị thừa, hoặc có những người yêu thích đạo Đại thừa.

Trong tất cả các loài chúng sinh như thế, ta đều dùng đủ các phương tiện, đủ loại trí tuệ, đủ cách giáo hóa, đủ cách chinh phục, bình đẳng, cho tất cả được viên mãn. Đó là: Hoặc diễn thuyết làm lợi ích cho tất cả chúng sinh bằng những lợi ích về kỹ nghệ của thế gian; hoặc diễn thuyết trí Đà-la-ni cứng như Kim cương, có công năng phá vô minh; hoặc diễn thuyết phương tiện là bốn Nhiếp pháp, để nhiếp hóa cho các chúng sinh được thân cận đạo Nhất thiết trí; hoặc diễn thuyết cách khai thị tán thán các Ba-la-mật, làm cho họ hồi hướng về quả vị Nhất thiết trí; hoặc là khen ngợi sự phát tâm Bồ-đề, để cho họ không mất tâm đạo Vô thượng; hoặc khen ngợi các hạnh Bồ-tát làm cho họ cảm thấy có đầy đủ khả năng làm thanh tịnh cõi Phật và nguyện độ chúng sinh; hoặc diễn thuyết về sự tạo các nghiệp ác, thì phải thọ đủ các quả báo khổ trong từng địa ngục, làm cho họ nhàm chán xa lánh những điều ác; hoặc diễn thuyết về việc cúng dường chư Phật và trồng các căn lành, để đạt được quả vị Nhất thiết trí, làm cho họ phát tâm hoan hỷ; hoặc khen ngợi, giảng thuyết về công đức của các bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, làm cho họ yêu thích thân Phật mà cầu Nhất thiết trí, hoặc khen ngợi oai đức của chư Phật, làm cho họ vui vẻ mong cầu thân Phật bất hoại; hoặc khen ngợi thân tự tại của Đức Phật, làm cho họ mong cầu thể lực đại oai đức, không gì có thể che khuất.

Thiện nam! Đối với mọi người, nam nữ, đủ các chủng tộc, đủ các địa phương, thuộc thành Đô-tát-la này; Ta còn dùng phương tiện thiện xảo thị hiện đồng hình tướng, để tùy theo căn cơ mà biến hóa lời nói và đủ các sự sai biệt để thuyết pháp cho họ. Nhưng các chúng sinh ấy, đều không biết ta là người nào, từ đâu đến, chỉ giúp cho người nghe, tu hành đúng pháp và giác ngộ được nghĩa chân thật.

Thiện nam! Chẳng những ta chỉ làm lợi ích cho chúng sinh ở thành này thôi, mà các chúng sinh đang có mặt ở khắp thành ấp xóm làng thuộc cõi Diêm-phù-đề cũng được ta tạo lợi ích.

Thiện nam! Tất cả chín mươi sáu chúng trong cõi Diêm-phù-đề đều có kiến chấp khác nhau, cho nên sinh ra chấp trước; ta ở giữa chúng ấy, tạo phương tiện điều phục, giúp họ bỏ hẳn các kiến; như khắp các trú xứ trên cõi Diêm-phù-đề và ba thiên hạ khác cũng thế; như chúng sinh trong tứ thiên hạ cho đến thế giới tiểu thiên, trung thiên và đại Thiên cũng thế. Như các biển chúng sinh; từ tất cả các loài khắp các trụ xứ, trong thế giới ba ngàn, cho đến các thế giới khắp mười phương; tùy theo căn cơ của họ, ta đều ở chung với họ và dùng đủ các phương tiện, đủ các pháp môn, đủ các sự lý thú, đủ các hạnh chân chánh, đủ các sự nghiệp, hiện đủ các sắc thân, đủ các hình tướng và đủ các âm thanh ngôn ngữ để thuyết pháp làm cho họ đều được lợi ích.

Thiện nam! Ta chỉ biết hạnh Bồ-tát, tùy thuận thực hiện khắp tất cả mọi nơi này. Còn như các Đại Bồ-tát, được thân đồng với chúng sinh, được Tam-muội ngang bằng với số chúng sinh, dùng thân biến hóa để nhập khắp các nẻo; thị hiện thọ sinh ở khắp mọi nơi, hào quang thanh tịnh chiếu khắp pháp giới, ai thấy cũng được lợi ích; an trụ vào tất cả kiếp bằng nguyện vô ngại; được các hạnh vô đẳng như lưới trời Đế Thích, thường xuyên làm lợi ích cho tất cả chúng sinh; tuy luôn sống chung trong vô lượng bụi phiền não, nhưng không bị đắm nhiễm, làm bình đẳng khắp các chúng sinh trong ba đời; dùng trí vô ngã quán chiếu khắp nơi; dùng tạng đại Bi làm cho thiện căn tăng trưởng; nhưng ta làm sao có thể biết và nói hết công đức, hạnh và trí tuệ trong sáng của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này, có một nước tên là Quảng bác.

Nơi đó có một xóm làng cùng một tên với nước này, trong ấy có một Trưởng giả bán hương tên là Cụ Túc Ưu-bát-la Hoa. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Biến Hành, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến rồi, từ giã ra đi.

Bấy giờ, nhờ sự giáo hóa của Thiện tri thức, nên Đồng tử Thiện Tài được tự tại an lạc; không đoái hoài đến thân mạng, không tham đắm tài sản, không chìm trong năm dục, không lưu luyến quyến thuộc, xem thường ngôi vua; chỉ nguyện giáo hóa dìu dắt giúp cho họ được thành thục; chỉ nguyện làm trang nghiêm cõi nước của chư Phật, để được thanh tịnh hoàn toàn; chỉ nguyện cúng dường các Đức Như Lai tâm không nhàm chán, chỉ nguyện chứng ngộ thật tánh của các pháp hiển hiện rõ ràng; chỉ nguyện tùy thuận khắp pháp giới sâu xa không ngại, chỉ nguyện tu tập biển đại công đức của tất cả Bồ-tát; vĩnh viễn không còn thoái chuyển, chỉ nguyện luôn luôn ở trong các kiếp tu hạnh Bồ-tát; chỉ nguyện gia nhập vào khắp các đạo tràng chúng hội của tất cả Như Lai, chỉ nguyện nhập vào một môn Tam-muội, mà thấy được toàn bộ thần lực tự tại của các môn Tam-muội, chỉ nguyện đối với trong một pháp luân của Đức Phật, mà được thọ trì pháp luân của tất cả các Đức Như Lai; chỉ nguyện trong một lỗ chân lông của một Đức Phật mà được thấy tất cả Phật, nhưng tâm không thấy đủ hoặc nhàm chán; chỉ nguyện chứng đắc được ánh sáng trí tuệ và có khả năng thọ trì pháp tạng của tất cả chư Phật. Đồng tử chuyên cầu những công đức của các Đức Phật và Bồ-tát này, rồi tuần tự cất bước. Đến nước Quảng bác và xóm làng ấy, tìm kiếm hỏi thăm trưởng giả bán hương ấy khắp nơi; gặp vị ấy, Thiện Tài đến trước, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh vô số vòng, rồi chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, muốn cầu trí tuệ bình đẳng của tất cả chư Phật, muốn trọn vẹn vô lượng đại nguyện của tất cả chư Phật, tịnh được sắc thân tối thượng của tất cả chư Phật, muốn thấy Pháp thân thanh tịnh của tất cả chư Phật, muốn biết thân trí rộng lớn của tất cả chư Phật, muốn thực hiện trọn vẹn các hạnh của tất cả Bồ-tát, muốn chiếu sáng bằng Tam-muội của tất cả Bồ-tát, muốn an trụ vào Tổng trì của tất cả Bồ-tát, muốn làm kiên cố công đức của tất cả Bồ-tát, muốn trừ diệt tất cả những chướng ngại và muốn du hành khắp tất cả các thế giới trong mười phương; nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát, để làm phát sinh Nhất thiết chủng trí.

Trưởng giả nói:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã có khả năng phát tâm Vô thượng Bồ-đề!

Thiện nam! Ta có một biệt tài là biết được tất cả các loại hương, đó là: Tất cả hương thơm, tất cả hương đốt, tất cả hương xoa, tất cả hương bột và biết cả phương pháp bào chế chúng; lại còn biết được những nơi phát sinh các loại hương thượng hạng; lại còn biết rõ những loại hương như Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la già cho đến hương người và hương phi nhân; lại còn biết rõ, hương trị các bệnh, hương dứt các ác, hương trừ ưu não, hương sinh ái nhiễm, hương tăng phiền não, hương diệt phiền não, hương làm cho các pháp hữu vi trở nên hấp dẫn, hương làm cho các pháp hữu vi trở nên đáng ghét và xa lánh, hương buông bỏ những sự kiêu mạn phóng dật, hương nghe pháp hoan hỷ, hương phát tâm niệm Phật, hương chứng rõ pháp môn, hương về sự thọ dụng của thánh, hương về sự khác nhau của tất cả Bồ-tát, hương về quả vị của tất cả Bồ-tát. Nói chung những loại hương như thế và phương pháp bào chế sẽ tạo nên những hình tướng, sản xuất thành tựu, an ổn thanh tịnh, phương tiện cảnh giới, giá trị, cách dùng, quan trọng là tùy người, tùy nơi mà có những chủng loại sai khác; ta đều biết cả.

Thiện nam! Trong nhân gian có một loại hương, tên là Long tạng; do loài rồng đấu với nhau sinh ra; chỉ cầm đốt một viên bằng hạt mè, thì nó lập tức nổi lên một vừng mây lớn lửa hương, giống như lưới trời Đế Thích giăng phủ kinh đô, suốt trong bảy ngày trút mưa hương vi tế, người nào thân được thấm ướt thì liền trở thành thân kim sắc; còn như chỉ thấm y phục thì y phục biến thành màu sắc hoa Câu-tôma; nếu có gió thổi, hương bay vào cung điện, thì tất cả các đền đài, cung điện lầu gác, sảnh đường đều biến thành màu sắc của hoa Câutô-ma. Những chúng sinh được ngửi mùi thơm ấy, thì suốt bảy ngày đêm thân tâm khoái lạc, niềm vui sung mãn, mát mẻ hoàn toàn, không có các bệnh và không bị các phiền não xâm chiếm, xa hẳn các sự buồn khổ, không kinh không sợ, không mê không loạn, đem tâm Từ ban rải, tâm trí thanh tịnh. Biết được sự việc như vậy, ta thuyết pháp thích ứng, giúp họ quyết định phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Thiện nam! Ở núi Ma-la-da, có một loại hương chiên-đàn tên là Ngưu-đầu, giả sử đem xoa thân mình, rồi nhảy vào hầm lửa, lửa không làm cháy được.

Thiện nam! Ở trong biển có một loại hương tên là Vô năng thắng, chỉ cần đem bôi vào mặt trống và các tù và, thì khi tiếng của chúng phát ra, tất cả quân địch đều giải tán.

Thiện nam! Bên ao A-na-bà-đạt-đa có một loại hương trầm thủy, tên là Liên hoa tạng, chỉ cần đốt một viên lớn bằng hạt mè thôi, thì mùi thơm của nó sẽ lan tỏa khắp cõi Diêm-phù-đề. Những chúng sinh nào ngửi được mùi thơm ấy, đều được giới phẩm thanh tịnh và xa hẳn tất cả tội.

Thiện nam! Ở núi Tuyết, có một loại hương, tên là Cụ túc minh tướng, những chúng sinh nào được ngửi mùi hương ấy, thì tâm của họ nhất định được xa lìa các sự ô nhiễm, được ta thuyết pháp làm cho tất cả đều đạt được Tam-muội thanh tịnh tuyệt đối, xa hẳn trần cấu.

Thiện nam! Trong cảnh giới La-sát có một loại hương tên là Hải tạng, loại hương chỉ dành riêng cho Chuyển luân vương dùng, chỉ cần đốt một viên, khi mùi thơm tỏa ra thì lập tức vua và bốn binh đều bay lên hư không, đi đứng tự tại.

Thiện nam! Trong thiện pháp có một loại hương, tên là Hương tánh trang nghiêm, chỉ cần đốt một viên xông khắp chúng trời ấy sẽ khiến cho tất cả đều phát tâm niệm Phật.

Thiện nam! Ở cõi trời Tu-dạ-ma, có một loại hương, tên là Tánh tịnh tạng, chỉ cần đốt một viên xông khắp chúng trời ấy, thì ai nấy đều vân tập về chỗ vua trời, cung kính lắng nghe thuyết pháp.

Thiện nam! Trên cõi trời Đâu-suất có một loại hương, tên là Tínđộ phược-la, ở trước tòa của Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, chỉ cần đốt một viên thì nó nổi lên một vừng mây lớn che khắp pháp giới, rồi làm mưa tất cả các vật cúng dường xuống khắp nơi, để cúng dường chúng hội Bồ-tát trong đạo tràng các Đức Như Lai.

Thiện nam! Ở cõi trời Diệu biến hóa có một loại hương tên là Đoạt ý tánh, chỉ cần đốt một viên, thì suốt bảy ngày, mưa tất cả các vật trang sức chẳng thể nghĩ bàn xuống khắp nơi.

Thiện nam! Ta chỉ biết phương pháp bào chế các loại hương này; còn như các Đại Bồ-tát xa hẳn tất cả các tập khí ác làm hương vô cấu; cắt đứt phiền não trói buộc của chúng ma, vượt khỏi các nẻo hữu, đạt được trí như huyễn, không đắm nhiễm vào các thế gian, đầy đủ trọn vẹn giới vô sở trước, tịnh trí không chấp trước, hành cảnh không trước, không đắm vướng bất cứ một nơi nào, tâm ấy bình đẳng không đắm, không lệ thuộc; nhưng làm sao ta có thể biết hết diệu hạnh, nói hết công đức, nêu hết giới phẩm thanh tịnh, chỉ hết các nghiệp không lầm lỗi, chỉ hết trí tuệ không lầm lỗi, xiển dương hết môn hạnh và phân biệt rõ về ba nghiệp không nhiễm của các vị ấy.

Thiện nam! Về hướng Nam, có một thành lớn, tên là Lâu-các, nơi ấy có một người lái đò, tên là Ba-thi-la. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân trưởng giả, nhiễu quanh vô số vòng, hết tâm mến mộ, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài nhiếp tâm chánh niệm, hướng về thành Lâu-các, tư duy quán sát đường đi như quán sát đường cao thấp, đường nguy hiểm, đường nhơ sạch, đường an nguy, đường cong thẳng và tuần tự cất bước. Thiện Tài nghĩ tiếp: Ta nên thân cận vị Thiện tri thức ấy. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu các Ba-la-mật và là nguyên nhân tăng trưởng đạo tối thắng. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo vô ngại nhập khắp pháp giới. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo trí gồm thâu tất cả chúng sinh. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo, làm cho tất cả chúng sinh không rơi vào nơi hiểm ác. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo, làm cho tất cả chúng sinh xa hẳn tà nghiệp. Bậc Thiện tri thức chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo giúp cho tất cả chúng sinh diệt sạch phiền não. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo tuệ, giúp cho tất cả chúng sinh trừ ác. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo làm cho tất cả chúng sinh xa lìa kiêu mạn. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo, giúp cho tất cả chúng sinh nhổ bật gai ác. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo, giúp cho tất cả chúng sinh vứt bỏ ác kiến. Bậc Thiện tri thức, chính là người tu hành thành tựu về nhân của đạo, đưa tất cả chúng sinh đến thành Nhất thiết trí. Vì sao? Vì ở chỗ Thiện tri thức, thì sẽ được tất cả thiện pháp; còn nương nơi năng lực của Thiện tri thức thì được đạo Nhất thiết trí. Bậc Thiện tri thức, quả thật là khó thấy khó gặp. Đồng tử chuyên tâm tư duy về Thiện tri thức như vậy và thong thả tiến bước.

Đến thành này rồi, Thiện Tài trông thấy vị chủ thuyền ấy đang đứng trên bờ biển, ngoài cửa thành, thuyết pháp về biển lớn, để tìm cách khai thị biển công đức của Phật, cho trăm ngàn người lái buôn và đại chúng vây quanh. Đồng tử lập tức đến trước đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi chắp tay cung kính, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin chỉ dạy cho con.

Thuyền sư nói:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hôm nay còn có thể thỉnh vấn về nhân phát sinh đại trí, nhân cắt bỏ tất cả khổ sinh tử, nhân đi đến đảo báu lớn Nhất thiết trí, nhân thành tựu nẻo Đại thừa không hoại, nhân xa lìa nỗi sợ Nhị thừa và sinh tử, nhân an trụ vào các Tam-muội phát sinh trí tuệ, nhân thực hiện toàn bộ các hạnh vi tế của Bồ-tát, nhân cỡi xe đại nguyện đi trên đường thanh tịnh của hạnh Bồ-tát, nhân dùng con đường thanh tịnh và trí vô hoại để trang nghiêm hạnh Bồ-tát, nhân quán sát khắp con đường thanh tịnh của tất cả chư Phật trong mười phương đều không bị chướng ngại, nhân có khả năng nhanh chóng đi vào con đường thanh tịnh và biển trí sâu xa của tất cả chư Phật.

Thiện nam! Ta ở nơi bờ biển, thuộc thành Lầu-các này, chuyên tu về hạnh tràng đại Bi của Bồ-tát.

Thiện nam! Ta quán sát khắp cõi Diêm-phù-đề, để làm lợi ích cho các chúng sinh bần cùng; ta tu tập đủ các hạnh, đáp ứng đầy đủ theo nhu cầu của họ: Trước hết là đem các thức ăn uống và trân bảo của thế gian, làm thỏa ý muốn của họ, tiếp theo là ban tài sản chánh pháp, làm cho họ hoan hỷ, giúp họ tu hạnh phước đức, giúp họ phát sinh đạo trí, giúp họ tăng trưởng năng lực thiện căn, giúp họ phát tâm Bồ-đề, giúp họ thành tựu nguyện Bồ-đề, giúp họ vững chắc năng lực đại Bi, giúp họ tu tập để có khả năng dứt đường sinh tử, giúp họ phát sinh hạnh không bỏ sinh tử, giúp họ thâu nạp biển chúng sinh, giúp họ tu tập biển công đức, giúp họ quán chiếu biển các pháp, giúp họ gặp được biển chư Phật, giúp họ nhập biển chủng trí.

Thiện nam! Ta sống ở đây, tư duy, tác ý, cần cầu và làm lợi ích an lạc cho chúng sinh như thế. Thiện nam! Ta còn biết tất cả các đảo báu, tất cả nơi có báu, tất cả tánh báu, tất cả căn báu, tất cả chủng báu và tất cả các loại báu có ở trong biển. Ta còn có khả năng chọn tất cả báu, khoan tất cả báu, sản xuất tất cả báu; tạo ra tất cả báu; tất cả đồ báu, tất cả vật dụng báu, tất cả cảnh giới báu, tất cả ánh sáng báu. Ta còn có khả năng biết tất cả các cung điện, như cung Rồng, cung Dạxoa, cung La-sát và cung Bộ-đa. Tất cả những trú xứ khác nhau như thế, ta đều khéo léo lẫn tránh, để khỏi phải gặp các nạn của chúng; cũng biết trên biển lớn có đủ các sự bất đồng, như cạn, sâu, nước xoáy, sóng dữ, màu nước tốt xấu, cũng có tài phân biệt được ngày đêm, thời gian phân chia nhanh chậm, mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú, xoay chuyển dưới màn đêm, xê dịch, khoảng cách, đường đi, những hiện tượng lạ, báo điềm tốt hoặc xấu và cũng biết được loại thuyền bằng sắt hoặc gỗ cứng hay giòn, máy móc trơn rít, con nước lớn nhỏ, gió thuận nghịch, xoay về tả hữu, tướng an nguy, đáng đi thì đi, nên nghỉ thì nghỉ. Ta dùng nhiều phương tiện như thế để thường xuyên làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Thiện nam! Ta dùng con thuyền tốt chở các thương buôn đi trên con đường an ổn, chỉ cho họ sự tịch tĩnh, không có tướng sợ hãi. Vả lại, ta còn thuyết pháp, làm cho họ hoan hỷ, rồi tùy theo nhu cầu của họ mà đưa họ đến đảo báu, ban cho các thứ châu báu để tất cả đều được đầy đủ; sau đó chở họ trở lại cõi Diêm-phù-đề.

Thiện nam! Từ xưa đến nay, ta cỡi con thuyền lớn qua lại như thế, nhưng chưa bao giờ gây sự tổn hại. Ngược lại, nếu chúng sinh nào thấy được thân ta và được nghe pháp của ta; thì họ không còn sợ biển sinh tử, nhất định được nhập vào biển Nhất thiết trí; nhất định có khả năng làm cạn khô biển ái dục; có khả năng dùng ánh sáng trí chiếu vào biển tam thế, có khả năng làm khô biển khổ của tất cả chúng sinh; có khả năng làm sạch biển tâm của tất cả chúng sinh, có khả năng nhanh chóng làm cho cho tất cả cõi biển sạch đẹp; có khả năng đến khắp các biển Phật trong mười phương, biết hết biển căn của tất cả chúng sinh; thông đạt biển hạnh của tất cả chúng sinh, tùy thuận khắp biển tánh của chúng sinh.

Thiện nam! Ta chỉ đạt được hạnh tràng đại Bi này, nếu chúng sinh nào thấy, nghe, ghi nhớ, hoặc cùng ta sống chung; đều được lợi ích. Còn như các vị Đại Bồ-tát có tài năng dạo đi trong biển cả sinh tử; có khả năng không đắm nhiễm các biển phiền não; có khả năng xả bỏ tất cả các biển vọng kiến; có khả năng quán sát tất cả các biển pháp tánh, có khả năng dùng pháp Tứ nhiếp, nhiếp hóa biển chúng sinh; có khả năng an trụ biển Nhất thiết trí, có khả năng lấp bỏ biển chấp trước của tất cả chúng sinh, có khả năng sống bình đẳng trong tất cả biển thời gian; có khả năng dùng thần thông hóa độ biển chúng sinh và có khả năng dùng thời gian này điều phục biển chúng sinh thì làm sao ta có thể biết và nói hết công đức và hạnh ấy.

Thiện nam! Ở hướng Nam này, có một thành ấp tên là Nhạc anh lạc, trong ấy có vị Trưởng giả tên là Tối Thắng; ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị lái đò, nhiễu quanh vô số vòng chiêm ngưỡng lưu luyến, bùi ngùi, rơi lệ. Đồng tử một tâm cầu Thiện tri thức không biết nhàm chán, thế nên đối với Thiện tri thức, ngài càng tăng tâm mến mộ và càng tăng sự yêu mến. Đồng tử một tâm quán sát rồi từ giã ra đi.

*********

Lúc bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài trang trải thấm nhuần tâm đại Từ, tâm đại Bi, đến khắp các chúng sinh. Đồng tử tư duy liên tục không gián đoạn trang bị phước đức trí tuệ, đầy đủ chánh kiến tròn đầy, xa các bụi trần, chứng pháp bình đẳng, tâm không còn thiên vị, tùy thuận ngộ nhập đạo Nhất thiết trí, nhổ bật gai ác, dẹp tan các chướng ngại, liễu đạt triệt để tự tánh của pháp, dùng tinh tấn kiên cố làm tường lũy, dùng Tam-muội bất tư nghì làm vườn ngự uyển, dùng ánh sáng mặt trời trí tuệ phá bóng tối vô minh, dùng gió phương tiện làm nở hoa trí tuệ, làm cho hạnh nguyện rộng lớn đầy cả pháp giới, tâm luôn hiện hữu nhập vào thành Nhất thiết trí. Đồng tử chuyên cần cầu đạo Bồ-tát như thế, lần lượt đến thành Nhạc anh lạc.

Đên nơi, đồng tử đi tìm hỏi thăm Trưởng giả Tối Thắng, trông thấy vị ấy đang ở trong rừng Vô-ưu, bên trụ cờ đại trang nghiêm, thuộc hướng Đông của thành này, với vô lượng thương buôn và trăm ngàn Trưởng giả vây quanh. Ông xử lý đủ các sự việc trong đời, rồi nhân đó tuyên dương pháp xuất thế, giúp họ xa lìa kiến, mạn, ngã và ngã sở; xả những tài sản và quyến thuộc đã tom góp; diệt trừ keo kiệt tật đố và tất cả nghi chấp, tâm được thanh tịnh không có các thứ uế trược, được sức tin thanh tịnh, luôn muốn được gặp Phật, thọ trì Phật pháp, phát sinh năng lực Bồ-tát, sinh hạnh Bồ-tát, nhập Tam-muội Bồ-tát, được trí tuệ của Bồ-tát, trụ chính niệm của Bồ-tát, làm tăng trưởng sở nguyện của Bồ-tát và phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, lập tức đem thân đến trải xuống đất và đảnh lễ sát chân vị ấy, một hồi lâu mới đứng lên, hết tâm tôn kính thưa:

–Bạch Thánh giả! Con là Thiện Tài, con chính là Thiện Tài, con chuyên tìm cầu về hạnh thù thắng của Bồ-tát, nhưng không biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát; để trong khi tu học, thường có khả năng hóa độ tất cả chúng sinh; thường có khả năng gặp gỡ tất cả chư Phật, thường được lắng nghe tất cả Phật pháp, thường có khả năng trụ trì tất cả Phật pháp, thường có khả năng nhập vào tất cả pháp môn, vào tất cả cõi để học hạnh Bồ-tát; thường có khả năng ở lâu trong các đại kiếp để tu đạo Bồ-tát, mà tâm không biết nhàm chán; có khả năng biết thần lực của các Đức Như Lai, có khả năng được các Đức Như Lai hộ niệm, có khả năng nhập vào trí tuệ của các Đức Như Lai.

Lúc ấy, Trưởng giả Tối Thắng bảo Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề rồi ư?

Thiện nam! Ta đã thành tựu pháp môn đến khắp mọi nơi làm sạch hạnh của Bồ-tát, bằng năng lực thần thông vô thể, vô y, vô tác và vô trụ.

Thiện nam! Vì sao gọi là pháp môn đến tất cả mọi nơi làm sạch hạnh của Bồ-tát?

Thiện nam! Ta ở trong tất cả các chúng sinh Dục giới thuộc phạm vi tam thiên đại thiên thế giới này. Đó là tất cả trời Tam thập tam, tất cả trời Tu-dạ-ma, tất cả trời Đâu-suất-đà, tất cả trời Lạc biến hóa, tất cả trời Tha hóa tự tại, tất cả trời ma và còn những bộ, loài quyến thuộc ở tất cả những cõi Dục khác như Thiên, Long, Dạ-xoa, La-sát, Cưu-bàn-trà, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Mahầu-la-già, người và phi nhân; tùy theo căn cơ của các loài chúng sinh, trong tất cả các trụ xứ, xóm làng thành ấp mà thuyết, pháp giúp họ bỏ phi pháp, dứt tranh luận, trừ chiến đấu, dừng ganh tị, phá oán kết, mở ràng buộc, thoát lao ngục, khỏi sợ hãi, dứt sát sinh, cho đến tà kiến. Tất cả các nghiệp ác, những việc không nên làm đều cấm hẳn, để họ làm theo tất cả thiện pháp; những việc đáng làm bảo họ đều làm theo, giúp họ học hết các môn kỹ nghệ để làm lợi ích cho mọi người trong thế gian, phân tích cho họ đủ các luận, tùy theo nhu cầu mà giúp họ sinh tâm hoan hỷ, dần dần làm cho họ trở nên thuần thục tuân theo, thuyết thắng tuệ cho các ngoại đạo để họ cắt đứt các kiến, nhập vào pháp Phật cho đến tất cả trời Phạm vương ở Sắc giới, ta cũng thuyết pháp cho họ như vậy. Tương tự tam thiên đại thiên thế giới này cho đến trong các thế giới nhiều như cực vi trần với không thể nói trăm ngàn ức na-do-tha cõi Phật khắp mười phương, ta cũng thuyết chánh pháp rộng khắp cho họ. Đó là: Pháp Phật, pháp Bồ-tát, pháp Thanh văn, pháp Độc giác, thuyết về nẻo địa ngục, thuyết về sự thọ khổ khác nhau của chúng sinh nơi địa ngục, thuyết về con đường đi đến địa ngục, thuyết về nẻo súc sinh, thuyết về sự thọ khổ khác nhau của chúng sinh trong loài súc sinh, thuyết về con đường đưa đến loài súc sinh, thuyết về cảnh giới vua Diêm-la, thuyết về sự thọ khổ khác nhau của cảnh giới vua Diêm-la, thuyết về con đường đưa đến cảnh giới vua Diêm-la, thuyết về cõi trời, thuyết về sự hưởng lạc khác nhau của cõi trời, thuyết về con đường hướng đến cõi trời, thuyết về cõi người, thuyết về sự thọ khổ và vui của cõi người, thuyết về con đường hướng đến cõi người.

Thiện nam! Ta thuyết đủ các pháp về thế gian; hoặc tập, hoặc hoại, hoặc nhiễm, hoặc tịnh như thế, là chính vì muốn nêu rõ công đức của Bồ-tát, xả bỏ nguy hiểm sinh tử, hiểu biết công đức của chư Phật, hiểu biết các nẻo sinh của hữu tình, hiểu biết pháp không chướng ngại, khai phóng ra ánh sáng trí tuệ, nêu rõ nguyên nhân đưa đến khổ hoặc vui, nêu rõ cách nhập môn vô tướng, giúp chúng sinh bỏ ý tưởng đắm nhiễm, chứng đắc pháp vô y của Phật, dứt hẳn vòng nghiệp phiền não, có khả năng chuyển pháp luân thanh tịnh của Phật; Ta thuyết pháp cho các chúng sinh những pháp như thế.

Thiện nam! Ta chỉ biết năng lực thần thông vô y, vô tác, vô tánh, vô trụ của pháp môn đến mọi nơi làm trang nghiêm cho hạnh Bồ-tát thanh tịnh này. Còn như các Đại Bồ-tát, có đầy đủ tất cả các thần thông tự tại, có khả năng đi đến khắp tất cả cõi Phật, được mắt thấy khắp, được tai nghe xa, nghe trọn vẹn những âm thanh và lời nói, nhập khắp các pháp, trí tuệ tự tại, mạnh mẽ không gì sánh kịp, xa hẳn các sự đấu tranh; dùng tướng lưỡi rộng dài phát ra âm thanh bình đẳng, thân hình xinh đẹp, ngang với các Bồ-tát, hoàn hảo đồng với Đức Như Lai không kém, thân trí rộng lớn, nhập khắp cảnh giới ba đời không còn ngằn mé, đồng với hư không thì ta làm sao có thể biết và nói hết hạnh và công đức của các vị ấy.

Thiện nam! Ở hướng Nam này, có một nước tên là Vô biên tế hà, nước ấy có một thành tên là Rừng Yết-lăng-già, nơi ấy có vị Tỳkheo-ni tên là Sư tử Tần Thân. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Trưởng giả Tối Thắng, nhiễu quanh vô số vòng, hết tâm mến mộ, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Đồng tử Thiện Tài thong thả tiến bước. Đến thành Yết-lăng-già thuộc nước Vô biên tế hà, đồng tử đi khắp nơi hỏi thăm về Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân. Vô lượng người đều bảo:

–Thiện nam! Vị Tỳ-kheo-ni ấy đang ở trong vườn Nhật quang, nơi bố thí của vua Thắng Quang, thuyết pháp làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Nghe rồi, Thiện Tài hết sức vui mừng, vội đi đến vườn ấy, quán sát khắp nơi: Thấy trong khu vườn này, có một cây đại thọ, tên là Quá Mãn Nguyệt, trông như lầu các cao rộng xinh đẹp, phát ra ánh sáng lớn chiếu sáng phạm vi một do-tuần, lại thấy cây nhiều lá tên là Phổ Phú, dáng như cái lọng, phóng ra ánh sáng xanh chiếu khắp; thấy cây có hoa tên là Hoa tạng, hình sắc cao đẹp giống như núi Tuyết, trút mưa các loại hoa đẹp như dòng nước hương ngào ngạt xông khắp nơi, không cùng tận, giống như cây Ba-lợi chất-đa-ca trong vườn Hoan Hỷ ở cõi trời Đao-lợi; lại có cây ăn trái tên là Thường thục, dáng như núi vàng, vị như cam lộ, mềm mại có hương thơm, thường phóng ra ánh sáng, có vô số trái ẩn đầy bên trong; lại có cây ma-ni báu tên là Tỳ-lô-giá-na tạng, hình dáng của nó không có gì sánh bằng, trông như núi Diệu cao, trên đọt là báu Ma-ni tâm vương, có vô số màu sắc của báu ma-ni trang sức khắp nơi, trái trang nữ bằng ma-ni chiên-đàn, lưới thì bằng tạp báu giăng bên trên; lại có cây vòng, tên là Thiên bảo, thường trổ các vòng hoa anh lạc xinh đẹp quý giá, các hoa Như ý bảo vương nở tròn sáng rực, rễ cây bằng ma-ni bảo tạng ẩn kín bên dưới; lại có cây y tên là Năng thanh tịnh, thường trổ ra các loại y báu đẹp, nhiều màu sắc, rũ xuống, trang sức khắp cành cây; có cây âm nhạc, tên là Hoan hỷ, âm thanh của chúng tuyệt diệu, hay hơn cả nhạc của chư Thiên; lại có cây hương, tên là Biến trang nghiêm, thường tỏa hương thơm ngào ngạt khắp các vườn hoa; lại có các ao nhỏ, tất cả đều trang sức bằng bảy báu, tám mặt ao đều đính các báu, lan can làm bằng ma-ni nhiều màu sắc, bên trong chứa bột hương chiên-đàn, đáy ao có trải lớp cát vàng tuyệt đẹp, nước tám công đức trong sạch đầy tràn, các loại hoa sen xanh, sen vàng, sen đỏ, sen trắng che phủ cả mặt hồ, trên bờ ao có trồng các loại hoa hàng hàng thẳng tắp như hoa Chiêm-bác-ca, hoa A-đề-mục-đa-ca, hoa Bà-lợi-sư-ca, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha Mạn-đà-la các loài chim hòa ca, tiếng của chúng thanh tao. Trong vườn có đủ các báu của cõi trời và cây xinh đẹp thẳng tắp. Dưới các cây báu đều có đặt tòa Sư tử, trang trí bằng đủ các loại châu báu xinh đẹp bất tư nghì, trải bằng y cõi trời, xông hương thơm, treo các loại vải lụa đẹp, giăng các trướng báu, bên trên giăng lưới vàng Diêm-phù-đàn, chuông báu rung nhẹ phát ra âm thanh vi diệu; hoặc có gốc cây trải tòa Sư tử Liên hoa tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Hương vương ma-ni tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Long tượng trang nghiêm ma-ni vương tạng, có gốc cây được trải tòa Sư tử Bảo sư tử Tụ ma-ni vương tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Tỳ-lô-giá-na ma-ni vương tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Thập phương Tỳ-lô-giá-na mani vương tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Nhân Đà-la-ma-ni kim cương vương tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Chúng sinh hình tướng Tỳ-lôgiá-na ma-ni vương tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Như ý ma-ni vương tạng, có gốc cây trải tòa Sư tử Bạch sắc ánh sáng ma-ni vương tạng. Mỗi tòa lại có trăm ngàn tòa Sư tử báu vây quanh và đều có đủ vô lượng sự xinh đẹp. Trong vườn này, có đầy đủ các báu ví như đảo báu giữa biển cả, trên đất có trải loại vải quý rộng rãi trang nghiêm, mịn màng xinh đẹp, như vải ca-lân-ca có khả năng gây cảm xúc, đạp xuống thì lún, dỡ chân lại đầy. Các loài chim lạ như chim le, chim nhạn, uyên ương, hạc trắng, khổng tước, câu-chỉ-la… bay liệng tự do, chen bóng hòa tiếng. Rừng chiên-đàn quý, thẳng tắp hai bên cửa, lá dày sầm uất, cành lá nương nhau cao vút, rủ bóng râm mát, xinh đẹp trang nghiêm; các loại cây có hoa, thường mưa hoa đẹp, giống như vườn hoa của Thiên đế Thích có đủ các loại; hương thượng hạng không gì sánh bằng thơm ngát khắp nơi; gió từ bốn mặt, thổi khắp trời người, tất cả các lầu các trang trí bằng các báu và hoa hương thượng hạng đẹp hơn cả nhà thiện pháp của Thiên đế Thích; các cây âm nhạc, diễn tấu nhạc trời, các loại nhạc cụ, treo khắp cành cây như: Đàn tranh, sáo, tiêu, Không hầu, Tỳ-bà, sắt các nhạc cụ ấy, không trổi mà tự phát, ai nghe cũng cảm thấy thích thú, xa hẳn đắm nhiễm; cây Đa-la báu, có giăng lưới linh báu, gió nhẹ thoảng qua phát ra âm thanh rất hay, ví như tiếng nói của Thiên nữ ở cõi trời tự tại; các cây như ý trổ các y báu, như y phục kiếp ba của cõi trời, trời treo đây nghiêm trang, cùng vô lượng màu sắc trang sức giống như biển cả; trăm ngàn lầu các trang trí bằng các báu như cung điện Đế Thích ở trời Đao-lợi, lọng báu che khắp giống như núi Diệu Cao, ánh sáng chiếu khắp như cung của Phạm vương.

Đồng tử Thiện Tài lại trông thấy ở vườn cây này; sở dĩ có vô lượng công đức và được trang trí xinh đẹp mọi mặt, đều nhờ vào sự thành tựu từ phước nghiệp bất tư nghì của Bồ-tát, phát sinh từ thiện căn xuất thế, từ công đức cúng dường tất cả chư Phật và tu các tịnh nghiệp; không ai có thể hủy hoại, cho đến toàn thế gian không ai sánh bằng. Như thế, tất cả đều nhờ vào sự thành tựu pháp như huyễn không bỏ hữu vi và tích tập thiện nghiệp rộng lớn của Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân, không phải như hàng Thanh văn, Bích-chi-phật; tà luận của các đạo khác không thể làm lay động; tất cả ma quân không địch nổi; phàm phu thiển trí không thể nghĩ đến; vô lượng chúng sinh, trời, rồng, bát bộ khắp tam thiên đại thiên thế giới, tùy theo thiện căn của họ, ai được hóa độ đều vào khu vườn này mà không sợ chật. Vì sao? Chính vì nhờ sức oai thần bất tư nghì của vị Tỳ-kheo-ni ấy.

Bấy giờ, Thiện Tài thấy vị Tỳ-kheo-ni này, phân thân ngồi khắp tất cả các tòa Sư tử lớn ở dưới các cây báu, tướng người xinh đẹp, oai nghi tịch tĩnh, an trụ nơi pháp bình đẳng, cử chỉ phấn chấn; các căn thuần thục, giống như voi chúa; tâm không bị vẩn đục, giống như ao nước sạch trong, ban bố khắp cho những người cầu những điều báu; không nhiễm pháp thế gian giống như hoa sen; tâm không sợ sệt như sư tử chúa; được thọ trì tịnh giới không bị lay động như núi Tu-di; có khả năng làm cho người thấy thì tâm được mát mẻ, như núi Diệu Hương; có khả năng dập tắt lửa các phiền não cho chúng sinh như hương thơm chiên-đàn trong núi Tuyết, chúng sinh nào trông thấy đều được tiêu diệt các khổ như dược vương Diệu Kiến; có khả năng làm cho người trông thấy thì được toại nguyện như trời Bà-lâuna; xa hẳn dục nhiễm như đại Phạm vương; làm cho tâm chúng sinh thanh tịnh như báu thủy tịnh; có khả năng làm tăng trưởng các điều thiện như ruộng tốt; ba nghiệp tự tại giống như Đức Như Lai. Vị ấy ngồi nơi mỗi tòa chúng hội đều không đồng, nên sự thuyết pháp cũng khác biệt; nếu thấy vây quanh chỗ ngồi là chúng trời Tịnh cư, đứng đầu là trời Ma-hê-thủ-la, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn tên là Vô Tận Pháp Tướng Giải Thoát, hoặc thấy vây quanh chỗ ngồi là chúng Phạm thiên, đứng đầu là Phạm vương Diệu Quang Minh, Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Phổ Môn Sai Biệt Thanh Tịnh Ngôn Âm Luân; nếu trông thấy vây quanh chỗ ngồi là Thiên tử, Thiên nữ trời Tha hóa tự tại, đứng đầu là Thiên vương Tự Tại Chuyển, Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Bồ-tát Thanh Tịnh Tâm Tự Tại Trang Nghiêm; hoặc thấy vây quanh chỗ ngồi là Thiên tử, Thiên nữ, trời Diệu biến hóa, đứng đầu là Thiên vương Lạc Biến Hóa, Tỳ-kheo-ni ấy thuyết pháp môn tên Diệu Pháp Thanh Tịnh Trang Nghiêm môn; nếu thấy vây quanh chỗ ngồi là Thiên tử, Thiên nữ, trời Đâu-suất, đứng đầu là Thiên vương Đâu-suất, vị Tỳkheo-ni ấy thuyết pháp môn tên là Tự Tâm Tạng Toàn Chuyển; nếu thấy vây quanh chỗ ngồi là Thiên tử, Thiên nữ trời Tu-dạ-ma, đứng đầu là Thiên vương Tu-dạ-ma, vị Tỳ-kheo-ni ấy thuyết pháp môn, tên là Phổ Biến Trang Nghiêm; hoặc trông thấy vây quanh chỗ ngồi là Thiên tử, Thiên nữ, trời Tam Thập Tam, đứng đầu là Thích Đềhoàn Nhân, vị Tỳ-kheo-ni ấy thuyết pháp môn, tên là Yểm-ly-môn; nếu thấy vây quanh tòa ngồi là Long vương Bách Quang Minh, Long vương Nan-đà, Long vương Ưu-ba-nan-đà, Long vương Ma-na-tư,

Long vương Y-la-bạt-đà, Long vương A-na-bà-đạt-đa… và Long tử, Long nữ, đứng đầu là Long vương Sa-già-la, vị Tỳ-kheo-ni ấy thuyết pháp môn, tên là Phật cảnh giới ánh sáng trang nghiêm; hoặc thấy vây quanh tòa là đồng nam, đồng nữ, chúng Dạ-xoa, đứng đầu là Thiên vương Tỳ-sa-môn, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Cứu hộ chúng sinh tạng; nếu trông thấy vây quanh tòa, là nam nữ quyến thuộc Càn-thát-bà, đứng đầu là Càn-thát-bà vương Trì Quốc, vị Tỳ-kheo-ni ấy thuyết pháp môn tên là Vũ Vô Tận Đại Hoan Hỷ Mưa pháp; hoặc thấy vây quanh tòa là nam nữ quyến thuộc chúng Atu-la, đứng đầu là A-tu-la vương La-hầu, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Tốc tật trang nghiêm pháp giới trí môn; nếu thấy vây quanh tòa, là nam nữ quyến thuộc chúng Ca-lâu-la, đứng đầu là Ca-lầu-la vương Đại Lực Dũng Trì, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn tên, là Bố Động Chư Hữu Hải; nếu thấy vây quanh tòa là nam nữ quyến thuộc chúng Khẩn-na-la, đứng đầu là Khẩn-na-la vương Đại Thọ, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Phật hạnh ánh sáng môn; nếu thấy vây quanh tòa là nam nữ, quyến thuộc chúng Ma-hầu-la, đứng đầu là Ma-hầu-la-già vương Am-la-lâm Phẫn Nộ, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Xuất Sinh Kiến Phật Hoan Hỷ Tâm; hoặc thấy vây quanh tòa, là vô số trăm ngàn đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn tên là Hạnh thù thắng; nếu thấy vây quanh tòa là nam nữ quyến thuộc các La-sát, đứng đầu là La-sát vương Thường Hấp Tinh Khí Đại Thọ, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Phát Sinh Tâm Từ Bi; nếu thấy vây quanh tòa là những chúng sinh yêu thích quả vị Thanh văn, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết pháp môn, tên là Thắng Trí Oai Lực Đại Oai Minh; nếu thấy vây quanh tòa, là những chúng sinh tin yêu hàng Độc giác, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn: Phật công đức rộng lớn ánh sáng; nếu thấy vây quanh tòa, là những chúng sinh tin yêu Đại thừa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Phổ Môn Tam-muội Trí quang minh hoặc thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát sơ địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn tên là Nhất Thiết Chư Phật Đại Nguyện Tụ Tam-muội, nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát nhị địa, vị Tỳ-kheo-ni ấy thuyết cho họ pháp môn, tên là Vô Cấu Luân Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát Tam-địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Đại Tịch Tĩnh Trang Nghiêm; nếu thấy vây quanh tòa là hàng Bồ-tát tứ địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Tốc Tật Xuất Sinh Nhất thiết trí Cảnh Giới Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát ngũ địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Diệu Hoa Tạng Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát Lục Địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Tỳ-lô-giá-na Tạng Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát thất địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Phổ Biến Trang Nghiêm Địa Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát bát địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Phổ Biến Pháp Giới Cảnh Giới Hóa Hiện Thân Tammuội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát cửu địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Vô Sở Đắc Lực Trí Trang Nghiêm Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát thập địa, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Vô Chướng Ngại Luân Tam-muội; nếu thấy vây quanh tòa, là hàng Bồ-tát chấp Kim cương, vị Tỳ-kheo-ni này thuyết cho họ pháp môn, tên là Kim Cương Trí Na-la-diên Trang Nghiêm Tam-muội.

Đồng tử Thiện Tài trông thấy tất cả đại chúng, xuất thân từ đủ các tầng lớp, đủ loại trú xứ, đủ loại thân tướng, đủ loại quyến thuộc, người đã được thành thục, đã được giáo hóa, xứng đáng là bậc pháp khí, đều vào vườn này và đều ngồi quanh quần dưới đại thọ như thế, tùy theo căn cơ có đủ các tâm tánh, đủ các dục lạc, đủ sự tin hiểu và tùy theo sự hơn kém khác nhau của họ mà Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân diễn nói pháp môn khế hợp làm cho họ không còn thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? Vì vị ấy đạt được pháp môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ nhãn xả đắc; môn Bát-nhã ba-la-mật Diễn thuyết được hết thảy Phật pháp, môn Bát-nhã ba-la-mật Pháp giới sai biệt tế, môn Bát-nhã ba-la-mật Tán hoại nhất thiết chướng ngại luân, môn Bát-nhã ba-la-mật Sinh trưởng nhất thiết chúng sinh thiện tâm, môn Bát-nhã ba-la-mật Tối thắng trang nghiêm; môn Bátnhã ba-la-mật Vô ngại chân thật tạng, môn Bát-nhã ba-la-mật Pháp giới viên mãn, môn Bát-nhã ba-la-mật Thanh tịnh tâm tạng; môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ biến xuất sinh chủng chủng ngôn ngữ thần thông tạng, đứng đầu là mười môn Bát-nhã này. Ngoài ra, vị ấy còn nhập vô số trăm vạn a-tăng-kỳ môn Bát-nhã ba-la-mật. Sự thấy cảnh giới và nghe diệu pháp của tất cả Bồ-tát và các chúng sinh trong vườn Nhật Quang này đều khác nhau, sự lãnh hội cũng không đồng, nhưng đều nhờ từ lúc mới phát tâm, đã được Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân thuyết pháp, làm cho họ không còn thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Lúc Đồng tử Thiện Tài trông thấy vườn cây, sàn tòa, kinh hành, chúng hội, oai nghi, sự tự tại, biến hóa thân, sự vô úy, thần lực, biện tài và sự trang nghiêm; lại còn được nghe pháp môn rộng lớn bất tư nghì của Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân như thế; thân tâm ông thuần thục nhu hòa, cung kính đảnh lễ, năm vóc sát đất, rồi chắp tay thầm nghĩ: “Ta nên đi quanh bên phải vị Tỳ-kheo-ni này vô số trăm ngàn vạn vòng”. Khi ông nghĩ như vậy, vị Tỳ-kheo-ni ấy, liền phóng hào quang, chiếu sáng khắp khu vườn này, khắp cả chúng hội. Cùng lúc ấy, Thiện Tài trông thấy thân mình biến khắp mọi nơi, có trên từng tòa của Tỳ-kheo-ni ấy và đang đi nhiễu quanh về phía phải trăm ngàn vòng. Đi kinh hành xong, đồng tử đứng chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồtát. Con nghe thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin bậc Thánh chỉ dạy cho.

Tỳ-kheo-ni nói:

–Này thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát của Bồ-tát tên là Môn Diệt Trừ Tất Cả Những Phân Biệt Vi Tế.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Vì sao gọi là trừ diệt tất cả những phân biệt vi tế?

Tỳ-kheo-ni đáp:

–Thiện nam! Vì môn giải thoát này, trong một niệm có công năng chiếu khắp tất cả các pháp trong ba đời, biểu hiện rõ bản tánh của ánh sáng trí tuệ.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới của môn ánh sáng trí tuệ này như thế nào?

Tỳ-kheo-ni đáp:

–Thiện nam! Khi nhập vào môn ánh sáng trí tuệ này, thì ta đạt được môn Tam-muội vương tự tại sinh ra tất cả pháp, nhờ đạt môn Tam-muội như thế nên hiện được thân khắp trước các Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, khắp nơi cung trời Đâu-suất, khắp tất cả thế giới trong mười phương. Trước mỗi vị Bồ-tát đều hiện thân nhiều như cực vi trần trong không thể nói cõi Phật; trong mỗi thân đều hiện sự cúng dường tối thắng nhiều như vi trần số không thể nói cõi Phật; đó là: Thân Thiên vương, thân Long vương, thân Dạ-xoa vương cho đến thân Nhân vương. Mỗi mỗi thân đều cầm đủ loại mây hoa, đủ loại mây vòng, hương đốt, hương bột, hương xoa, y phục, anh lạc, cờ phướn, lọng báu, lưới báu, trướng báu, kho báu, đèn báu cho đến tất cả để làm các vật trang sức ta đều dâng lên cúng dường; như ở cung trời Đâu-suất nơi Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, gần gũi phụng sự, cúng dường đủ cách, cho đến những lúc như giáng thần, nhập thai, trụ thai, xuất thai, tại gia, xuất gia, đến đạo tràng, thành Đẳng chánh giác, chuyển chánh pháp luân, nhập Niết-bàn; trong khoảng thời gian ấy, hoặc ở trên Thiên cung, Long cung, cho đến ở nơi cung người và cung phi nhân; bên cạnh các Đức Như Lai ấy, ta đều cúng dường như vậy. Chúng sinh nào biết được ta thấy nghe và gần gũi cúng dường Đức Phật như thế, thì tất cả đều không còn thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Chúng sinh nào đến chỗ ta, ta đều giảng dạy và tuyên thuyết về môn Bát-nhã bala-mật.

Thiện nam! Ta thấy tất cả chúng sinh nhưng không phân biệt tướng của chúng, là chính vì thấy bằng mắt trí tuệ; ta nghe tất cả ngôn ngữ nhưng không phân biệt tướng ngôn ngữ, là vì tâm không chấp trước; ta gặp tất cả Như Lai, nhưng không phân biệt tướng Như Lai, là vì trí đã thấu hiểu được Pháp thân; ta trụ trì pháp luận của tất cả Như Lai, nhưng không phân biệt tướng pháp luân, là vì đã ngộ được tự tánh của pháp; ta trong một niệm mà biết tất cả pháp nhưng không phân biệt tướng các pháp, chính vì đã biết các pháp đều như huyễn.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát Bồ-tát diệt trừ tất cả phân biệt vi tế thành tựu Nhất thiết trí này. Còn như các vị Đại Bồ-tát, tâm không phân biệt, biết tất cả pháp, một thân ngồi thẳng biết đầy đủ pháp giới, trong tự thân hiện rõ sự dung chứa tất cả cõi Phật và đều có khả năng đến chỗ tất cả các Đức Phật; trong thân hiện thần lực của tất cả chư Phật; trong mỗi sợi lông trên thân đều dung chứa vô lượng vô lượng thế giới của chư Phật, trong mỗi lỗ chân lông trên thân vị ấy đều hiện sự thành hoại của vô lượng vô lượng thế giới, trong một niệm mà có thể đồng sống với vô lượng vô lượng chúng sinh, trong một niệm mà nhập vào vô lượng vô lượng các kiếp; nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết công đức và hạnh nguyện của các vị ấy!

Thiện nam! Về hướng Nam này, có một xóm làng, tên là Hiểm nạn, trong ấy, có thành tên là Bảo trang nghiêm, ở đó có một người nữ tên là Phạt-tô-mật-đa, ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Tỳ-kheo-ni Sư Tử Tần Thân, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Lúc ấy, tâm được mở thông bằng ánh sáng đại trí tuệ, Đồng tử Thiện Tài tư duy quán sát về trí Nhất thiết trí, nhất tâm tùy thuận về thật tánh của các pháp, hiểu biết triệt để về môn Đà-la-ni ngôn ngữ âm thanh của tất chúng sinh, được thọ trì môn Đà-la-ni pháp môn của tất cả Đức Như Lai; được làm chỗ quy y đại Bi lực cho tất cả chúng sinh, được quán sát môn ánh sáng nghĩa lý của tất cả pháp, được bánh xe pháp giới trọn vẹn nhanh chóng, được chuyển bánh xe đại nguyện thanh tịnh, được chiếu ánh sáng trí khắp tất cả pháp trong mười phương, được năng lực tự tại làm trang nghiêm khắp tất cả thế giới, được thâu nạp trí tuệ thần thông của tất cả Bồ-tát, được phát huy hạnh nguyện viên mãn của tất cả Bồ-tát; và thong thả tiến bước. Đến thành Bảo trang nghiêm, thuộc nước Hiểm nạn, Thiện Tài tìm kiếm, hỏi thăm cô gái Phạt-tô-mật-đa khắp nơi. Trong thành có một người vì không biết cô gái này có công đức, trí tuệ, phương tiện thiện xảo, an trụ cảnh giới hết sức vi tế kín đáo, nên nghĩ: Vị đồng tử này các căn tịch tĩnh và điều thuận, trí tuệ sáng tỏ, rời xa sự buông lung, tâm không mê loạn, tầm nhìn rõ một tầm, không lười biếng, không chấp thủ, mắt nhìn không nháy, tâm rất khoan dung không bị dao động, giống như biển cả, vị ấy không nên đến với cô gái Phạt-tô-mật-đa có tham ái, có tâm điên đảo mà cho là tưởng tịnh hoặc cho là tưởng dục, không nên để cho sắc đẹp của cô ấy lôi cuốn. Vị đồng tử này, không hành hạnh ma, không vào cảnh giới ma, không bị chìm nơi bùn dục, không bị ma trói buộc, việc không nên làm đã không làm, vậy ông ấy có những ý nghĩ gì, mà tìm đến cô gái này? Có một người trong thành ấy, biết trước cô gái này có công đức thù thắng và đầy đủ trí tuệ sâu xa, nên bảo Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Đến hôm nay ông mới có thể tìm cô Phạt-tô-mật-đa. Vậy chắc là ông đã đạt được thiện căn rộng lớn rồi.

Thiện nam! Chắc hôm nay ông sẽ quyết định cầu diệu quả của Phật, quyết định muốn làm nơi nương tựa cho tất cả chúng sinh, quyết định muốn nhổ mũi tên độc tham ái cho tất cả chúng sinh, quyết định muốn phá những tư tưởng cho nữ sắc là thanh tịnh của tất cả chúng sinh, quyết định muốn đổ trận mưa đại công đức khắp cả pháp giới của tất cả Như Lai.

Thiện nam! Cô Phạt-tô-mật-đa hiện đang ở nhà của mình, bên cửa phố hướng Bắc trong thành này.

Nghe nói như thế, Đồng tử Thiện Tài hết sức vui mừng phấn khởi, tâm nguyện được viên mãn, nhất tâm chánh niệm, đi đến cửa kia, trông thấy nhà của vị ấy rộng rãi tráng lệ, tường báu cây báu, cho đến hào báu, mỗi thứ đều bao bọc mười lớp; bên trong hào báu, nước hương đầy tràn, dưới đáy hào có trải lớp cát vàng, các loại hoa của chư Thiên như sen xanh, sen vàng, sen đỏ, sen trắng, che khắp mặt nước, mùi hương khác nhau tỏa ngát làm vừa ý mọi người, bờ bằng châu báu rất đẹp; thềm cấp lan can làm bằng các báu; cung điện lầu gác, phân đều mọi nơi; cửa chính, cửa sổ, cửa hông đối nhau khoảng cách cân xứng, tất cả đều có treo chuông lưới, treo cờ phướn và trang sức bằng vô lượng thứ quý giá khác; nền bằng lưu ly, các báu xen lẫn; thiêu các loại hương trầm thủy, xoa hương chiên-đàn, treo các linh báu, gió đưa phát ra âm thanh, rải hoa của cõi trời khắp cả mặt đất; thắp đèn Ma-ni, ánh sáng chiếu khắp; có trăm ngàn kho báu và mười vườn cây lớn để tô điểm thêm vẻ đẹp, cành lá của cây báu sum suê tươi tốt, xinh đẹp đủ cách, không thể nào diễn tả hết. Đồng thời, Thiện Tài trông thấy cô gái này, dung mạo xinh đẹp, đầy đủ sắc tướng, nước da màu hoàng kim, mắt và tóc màu xanh biếc, không dài, không ngắn, không thô, không tế, trời và người cõi Dục không thể nào sánh kịp, giọng nói thanh tao, hay hơn cả các vị trời Phạm thế, biết hết giọng nói ngôn ngữ khác nhau của tất cả chúng sinh, thông suốt cả chữ lẫn nghĩa, lý luận rất giỏi, được trí như huyễn, nhập môn phương tiện, thân trang sức bằng các ngọc anh lạc, đầu đội mão châu Ma-ni như ý, bên trên phủ lưới bằng tất cả châu báu, vô lượng quyến thuộc cung kính vây quanh. Họ đều cùng một thiện căn, một hạnh nguyện, chứa nhiều phước đức đầy đủ vô tận. Cùng lúc ấy, từ nơi thân của cô gái ấy, phóng ra một đạo hào quang rộng lớn, chiếu sáng khắp căn nhà cho đến tất cả mái hiên và cung điện báu. Người nào gặp được ánh sáng này, thì tâm dứt hết các sự nóng bức của phiền não, thân được mát mẻ.

Bấy giờ, Thiện Tài đến trước, đảnh lễ sát chân vị ấy, rồi đứng thẳng, chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói Thánh giả, có khả năng khéo léo dạy bảo cúi xin bậc Thánh chỉ dạy cho con.

Cô gái đáp:

–Thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát của Bồ-tát tên là Xa rời ngằn mé tham dục và có khả năng tùy thuận những sự mong muốn của tất cả chúng sinh mà hiện thân giúp họ, như: Chư Thiên trông thấy ta thì ta hiện thân Thiên nữ, dung mạo sáng ngời, thù thắng không có gì sánh kịp, như thế cho đến người và phi nhân ai được thấy ta, lập tức ta hiện thân người nữ hoặc phi nhân nữ, tất cả đều xinh đẹp theo hình tướng của từng loài và đều giúp cho họ được gặp theo nhu cầu của mình.

Thiện nam! Những chúng sinh nào bị tâm dục trói buộc, đến

chỗ ta nhưng lại yêu thân ta say đắm, tâm như điên dại, thì ta thuyết pháp cho họ. Nghe pháp rồi, họ lập tức xa hẳn tham dục và đạt được môn Tam-muội không đắm trước cảnh giới của Bồ-tát. Những chúng sinh nào chỉ thoáng trông thấy ta, thì lập tức được xa hẳn tham dục và đạt được Tam-muội hoan hỷ của Bồ-tát. Những chúng sinh nào được tiếp chuyện với ta trong chốc lát thì liền được xa hẳn tham dục và đạt được Tam-muội tạng diệu âm thanh vô ngại của Bồ-tát. Những chúng sinh nào được nắm tay thì ta thì liền được xa hẳn tham dục và đạt được Tam-muội tùy thuận đi khắp tất cả cõi Phật của Bồtát. Những chúng sinh nào vừa ngồi trên tòa của ta, thì liền được xa hẳn tham dục và đạt được môn Tam-muội ánh sáng xa hẳn tất cả thế gian của Bồ-tát. Những chúng sinh nào vừa nhìn thấy ta, thì liền được xa hẳn tham dục và đạt được Tam-muội trang nghiêm tịch tĩnh của Bồ-tát. Những chúng sinh nào thấy được ta xoay người thì liền được xa hẳn tham dục và đạt được Tam-muội khuất phục tất cả ngoại đạo của Bồ-tát. Những chúng sinh nào thấy được ta chớp mắt thì liền được xa rời tham dục và đạt được Tam-muội ánh sáng trụ nơi cảnh giới Phật của Bồ-tát. Những chúng sinh nào ôm được ta thì liền được xa rời tham dục và đạt được Tam-muội luôn thâu nạp tất cả chúng sinh không xả bỏ của Bồ-tát. Những chúng sinh nào hôn vào môi của ta, thì lập tức được xa rời tham dục và đạt được Tam-muội làm tăng trưởng tạng phước đức cho tất cả chúng sinh của Bồ-tát. Tóm lại, những chúng sinh như thế, đến chỗ ta, thân cận ta, tất cả đều được an trụ vào biên giới lìa tham, nhập vào hàng Nhất thiết trí giải thoát tối thắng của Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài thưa với Phạt-tô-mật-đa:

–Bạch Thánh giả! Vì sao môn giải thoát này, được gọi là tối thắng?

Cô gái đáp:

–Thiện nam! Do người nữ, mà tất cả Bồ-tát phát tâm Bồ-đề không thể nhanh chóng thành tựu quả vị Phật vô thượng, cũng không nhanh chóng đắc quả A-la-hán và Bích-chi-phật. Tiên nhân có ngũ thông, nhưng do nữ sắc cho nên mất hết thần thông, mà còn phải cõng họ. Chư Thiên và A-tu-la thường đánh nhau, La-sát mười đầu, hỏa thiêu đại thành Lăng-già ở biển Nam, hoặc có những vị vua mất nước cho đến anh em giết hại lẫn nhau, tạo nhân nẻo ác, đời này chịu bần cùng, chấp nhận làm nô lệ, không thuận sư trưởng, nghịch lại cha ông. Tóm lại đều do người nữ cả. Ta quán sát các chúng sinh tham dục, trong trăm ngàn vô số thế giới, cứ xoay chuyển mãi trong đồng hoang sinh tử, nguyên nhân đứng đầu của những nghiệp khổ ấy, chính là người nữ. Thế nên, nếu Bồ-tát xa rời nữ sắc, thì liền được gần gũi các Thiện tri thức, còn giúp cho các chúng sinh nhân đó mà được xa rời dục vọng, đều được trụ vào pháp môn giải thoát tối thắng.

Đồng tử Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Thánh giả đã trồng thiện căn gì? Tu phước nghiệp gì mà được tăng trưởng những công đức thù thắng như thế?

Cô gái đáp:

–Thiện nam! Ta nhớ thuở quá khứ có Đức Phật xuất thế hiệu là Cao Hạnh, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đô thành của vua thuở ấy, tên là Diệu Môn.

Thiện nam! Bấy giờ, vì muốn làm lợi ích cho các chúng sinh nên Đức Như Lai ấy đi vào thành của vua, vừa bước đến cửa ngoài, toàn thành này đều chấn động sáu cách: Thành bỗng nhiên rộng rãi, các báu xinh đẹp, có vô lượng hào quang chiếu sáng lẫn nhau, đủ các loại hoa báu rải trên mặt đất, đồng thời các loại âm nhạc của cõi trời đồng loạt trổi lên, tất cả chư Thiên đứng chật cả hư không cung kính lễ bái, tôn trọng ngợi khen.

Thiện nam! Thời ấy, ta tên là Diệu Trí làm vợ của một Trưởng giả, nhờ trông thấy thần thông của Đức Phật, nên tâm được giác ngộ, lập tức cùng chồng mình đi đến chỗ Đức Phật, phát tâm rộng lớn, dâng lên một đồng tiền báu cúng dường Đức Phật. Khi ấy, vị thị giả Đức Phật là ngài Văn-thù-sư-lợi, thuyết pháp làm cho ta phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Thiện nam! Ta chỉ biết pháp môn giải thoát xa hẳn ranh giới tham dục của Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát, thành tựu vô biên trí phương tiện thiện xảo, phước đức rộng lớn như hư không; nhưng làm sao ta có thể biết và nói hết công đức và hạnh của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam này có một thành tên là Tịnh đạt bỉ ngạn, trong ấy có một cư sĩ, tên là Tỳ-sắc-để-la. Vị này thường đem tòa chiên-đàn cúng dường tháp Phật. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát?

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị nữ Phạt-tômật-đa, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nghe môn giải thoát xa rời cảnh giới tham dục của ngài Phạt-tô-mật-đa, hết tâm tùy thuận, ghi nhớ tu hành, quán chiếu Tam-muội, không nhiễm chấp vào cảnh giới của Bồ-tát ấy, tư duy Tam-muội hoan hỷ của Bồ-tát ấy, tìm kiếm Tam-muội tạng âm thanh vô ngại của Bồ-tát ấy, thực hiện Tam-muội đi đến khắp tất cả cõi Phật của Bồ-tát ấy, ghi nhớ Tam-muội ánh sáng xa lìa tất cả thế gian của Bồ-tát, nhập Tam-muội trang nghiêm tịch tĩnh của Bồ-tát ấy, tu tập Tam-muội bẻ gãy ngoại đạo của Bồ-tát ấy, quán sát Tammuội cảnh giới ánh sáng chư Phật của Bồ-tát ấy, tư duy Tam-muội thâu nhiếp tất cả chúng sinh thường không xả bỏ của Bồ-tát ấy, trụ Tam-muội tạng phước đức làm cho chúng sinh tăng trưởng của Bồ-tát ấy, ghi nhớ Nhất thiết trí, rồi thong thả tiến bước, đến thành Bỉ ngạn, vào nhà cư sĩ Tỳ-sắc-để-la, Đồng tử đảnh lễ sát chân vị ấy, rồi đứng thẳng chắp tay, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trươc đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để họa hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả khéo léo dạy bảo, cúi xin giảng dạy cho con.

Cư sĩ đáp:

–Thiện nam! Ta được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Không giới hạn cảnh giới Niết-bàn.

–Thiện nam! Ta không cho: Đức Như Lai như thế-là đã nhập Niết-bàn, Đức Như Lai như thế-là đang nhập Niết-bàn, Đức Như Lai như thế là sẽ nhập Niết-bàn! Ta biết các Đức Phật Như Lai trong tất cả thế giới khắp mười phương, hoàn toàn không có vị nào nhập Niếtbàn cả. Ngoại trừ các vị thị hiện để giáo hóa chung sinh thôi.

Thiện nam! Lúc mở cửa tháp của Đức Như Lai Chiên-đàn tòa ấy, thì ta đạt được Tam-muội, tên là Phật Chủng Vô Tận.

Thiện nam! Trong từng niệm, ta nhập vào Tam-muội này, trong từng niệm, ta biết hết sự thù thắng của chư Phật.

Thiện Tài thưa:

–Tam-muội này, cảnh giới của nó thế nào?

Cư sĩ nói:

–Thiện nam! Khi nhập Tam-muội ấy, theo thứ tự của nó, mà ta thấy hết các Đức Như Lai Phật tuần tự xuất hiện ở thế gian này, đó là Phật Ca-diếp, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Câu-lưu-tôn, Phật Tỳxá-phù, Phật Thi-khí, Phật Tỳ-bà-thi, Phật Đề-xá, Phật Danh Xưng, Phật Tối Thắng Liên Hoa. Các Đức Như Lai Phật ấy làm thượng thủ. Trong một khoảnh khắc của niệm, được thấy trăm Đức Phật, ngàn Đức Phật, trăm ngàn Đức Phật, ức Đức Phật, ngàn ức Đức Phật, trăm ngàn ức Đức Phật, a-du-đa Đức Phật, na-do-tha ức Đức Phật, cho đến thấy không thể nói, không thể nói thế giới số cực vi trần Đức Phật. Tất cả như thế, đều thấy theo thứ tự. Cũng được thấy các Đức Phật ấy, khi mới phát tâm, trồng các thiện căn, được thần thông tối thắng, thành tựu đại nguyện, tu hành diệu hạnh, đầy đủ Ba-la-mật, gia nhập vào hàng Bồ-tát, được nhẫn thanh tịnh, hàng phục quân ma, thành Đẳng chánh giác, cõi nước thanh tịnh, chúng hội trang nghiêm, phóng ra ánh sáng lớn, thần thông tự tại, cất tiếng gầm sư tử, chuyển bánh xe pháp, biến hóa thị hiện đủ các cách khác nhau, thành thục chúng sinh bằng nhiều phương tiện, khéo léo tuyên dương phân biệt các pháp; tất cả những sự thấy ấy, ta đều có khả năng duy trì, có khả năng ghi nhớ và có khả năng quán sát, nêu ra phân biệt, tùy thuận hiểu rõ, không có thiếu sót. Như thế cho đến đời sau Đức Di-lặc trăm Đức Phật, ngàn Đức Phật, trăm ngàn ức Đức Phật, cho đến thấy bất khả thuyết, không thể nói thế giới số cực vi trần Đức Phật và những vị mới bắt đầu phát tâm, nối nhau không dứt, ta cũng đều tin hiểu sâu xa, cần cầu không mỏi mệt, tin tấn để thế lựu nhanh chóng tăng trưởng; tất cả thế gian, phàm phu, Nhị thừa đều không có khả năng lay động ta. Ta cũng được thấy Đức Phật hiện tại Tỳ-lô-giá-na, cùng số không thể nói, không thể nói cực vi trần Phật sát tất cả chư Phật Như Lai ở tất cả thế giới khắp mười phương cũng thế. Tất cả Đức Phật kia ta đều được thấy, toàn thể pháp ấy ta đều được nghe, ghi nhớ, thọ trì, tâm không xao lãng. Dùng sức trí tuệ tùy thuận am hiểu, dùng sức từ bi tuyên dương chỉ bày.

–Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát của Bồ-tát không giới hạn cảch giới Niết-bàn này thôi; còn như các Đại Bồ-tát: Với trí tuệ chỉ trong một niệm, mà biết ba đời, chỉ trong một niệm mà nhập khắp tất cả Tam-muội. Mặt trời trí của Đức Như Lai chiếu đến tâm vị ấy, vị ấy không còn phân biệt các pháp, hiểu rõ các Đức Phật đều bình đẳng; Đức Như Lai, ta và tất cả chúng sinh không có hai; biết tự tánh thanh tịnh của tất cả các pháp, ánh sáng chiếu khắp mọi nơi, không còn lưỡng lự, không còn giao động, nên có khả năng đi vào khắp tất cả thế gian, xa những điều phân biệt, trụ vào pháp ấn của Đức Phật, đều có khả năng khai ngộ chúng sinh trong pháp giới. Nhưng ta làm sao có thể biết để nói hết công đức và hạnh nguyện của các vị ấy.

Này thiện nam! Ở phương Nam này, có dãy núi, tên là Bổ-đátlạc-ca, nơi có vị Bồ-tát tên là Quán Tự Tại. Ông đến thỉnh vấn vị ấy:

Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, cư sĩ nhân sự chỉ bày này mà nói kệ:

Trên biển có núi bằng các báu

Nơi Hiền thánh ở, rất thanh tịnh

Nước suối chảy quanh làm thêm đẹp Rừng cây, hoa trái, đầy trong ấy

Ngài Quán Tự Tại ở nơi đây

Mạnh mẽ tối thắng lợi chúng sinh Ông nên đến hỏi: Công Đức Phật Bồ-tát sẽ giảng giải rộng khắp.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân cư sĩ, đi nhiễu vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Nhờ sự hướng dẫn của cư sĩ, Đồng tử Thiện Tài nhất tâm chánh niệm, tùy thuận duy tư những điều vị ấy hiển hiện nhập vào tạng tin hiểu sâu xa của Bồ-tát, đạt được năng lực hay tùy niệm của Bồ-tát, ghi nhớ sự tuần tự xuất hiện của chư Phật, thấy việc thành Chánh giác của chư Phật, trì các danh hiệu Phật, quán chiếu sự chứng pháp môn của chư Phật, biết đầy đủ sự trang nghiêm của chư Phật, tin sự chuyển pháp luân của chư Phật, nghĩ đến ánh sáng tỏa chiếu của chư Phật, nhớ đến Tam-muội bình đẳng của chư Phật, hiểu rõ tự tánh thanh tịnh của chư Phật, tu pháp không phân biệt của chư Phật, khế hợp với ấn sâu xa của chư Phật, thực hiện hạnh nghiệp bất tư nghì của chư Phật. Thế rồi Đồng tử thong thả thẳng tiến, đến ngọn núi ấy, tìm vị Đại Bồtát này khắp nơi, đồng tử trông thấy ở hang động phía Tây của núi này, có suối nước chảy quanh, rừng cây sầm uất, cỏ thơm mơn mởn mọc nghiêng về phía phải, trải khắp mặt đất. Có đủ các loài hoa đẹp, tô điểm khắp nơi. Bồ-tát Quán Tự Tại ngồi kiết già trên tòa đá Kim cương bảo diệp thanh tịnh, vô lượng Bồ-tát đều ngồi trên ghế đá báu chung quanh, cung kính để nghe vị ấy thuyết giảng về pháp ánh sáng trí tuệ và đại Từ bi, giúp cho họ bảo bọc tất cả chúng sinh. Trông thấy Bồ-tát, Thiện Tài quá đỗi vui mừng, hết tâm tôn trọng, trìu mến Thiện tri thức, chắp tay cung kính, mắt nhìn không chớp, suy nghĩ: Bậc Thiện tri thức chính là Như Lai, bậc Thiện tri thức chính là tất cả mây pháp, bậc Thiện tri thức chính là các kho tàng công đức, bậc Thiện tri là khó được gặp gỡ, bậc Thiện tri là nhân báu của mười Lực, bậc Thiện tri đuốc trí vô tận, bậc Thiện tri là cội gốc của phước đức, bậc Thiện tri là cửa Nhất thiết trí, bậc Thiện tri là thầy dẫn đường trên biển trí, bậc Thiện tri là công cụ trợ đạo cho việc tích tập Nhất thiết trí. Nghĩ như thế rồi, đồng tử tiến thẳng tới chỗ Đại Bồ-tát.

Từ xa trông thấy Thiện Tài, Bồ-tát Quán Tự Tại nói:

–Lành thay, lành thay! Đồng tử, ông đã phát tâm Đại thừa, độ khắp chúng sinh, khởi tâm chánh trực, chuyên cầu Phật pháp, đại Bi sâu nặng, cứu độ toàn thể, trụ hạnh cao cả bất tư nghì, cứu vớt khắp tất cả các nẻo sinh tử luân hồi, siêu vượt cả thế gian, không gì sánh kịp, diệu hạnh của Phổ Hiền, luôn luôn hiện hữu, tâm đại nguyện sâu xa, thanh tịnh tròn đầy, chuyên cần cầu Phật pháp, có khả năng tiếp nhận, thường xuyên vun trồng thiện căn không biết mệt mỏi, luôn làm đẹp tâm Thiện tri thức, không làm sai ý chỉ, sinh từ biển cả công đức trí tuệ của Văn-thù-sư-lợi, tâm ông thành thục, được oai lực của Phật, đã được ánh sáng Tam-muội rộng lớn, chuyên tâm cầu diệu pháp sâu xa, thường gặp các Đức Phật, sinh niềm vui lớn, trí tuệ thanh tịnh giống như hư không, tự mình sáng tỏ, lại con dạy cho người khác, an trụ ánh sáng trí tuệ của Đức Như Lai, tiếp nhận và tu hành tất cả các Phật pháp, kho tàng báu phước trí tự nhiên đến, đạo Nhất thiết trí sớm đạt được hiện tiền, quán sát khắp chúng sinh, tâm không biếng mỏi, đại Bi kiên cố như Kim cương.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đến chỗ Bồ-tát, đảnh lễ sát chân, nhiễu quanh vô số vòng, rồi đứng chắp tay, thưa:

Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo dạy dỗ, xin bậc Thánh giảng dạy cho con.

Lúc ấy, Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, phóng ra ánh sáng màu vàng Diêm-phù-đàn vi diệu, nổi vô lượng lưới mây màu lửa báu và mây rồng tự tại tuyệt đẹp, chiếu đến Thiện Tài rồi đưa tay phải xoa trên đỉnh của đồng tử, nói:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam, ông đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề!

Thiện nam! Ta thành tựu môn giải thoát hạnh đại Bi nhanh chóng của Bồ-tát.

Thiện nam! Ta đem môn hạnh đại Bi này, giáo hóa bình đẳng cho tất cả chúng sinh, tiếp nhận, dạy bảo, liên tục không dứt.

Thiện nam! Ta thường trụ môn hạnh đại Bi này, giáo hóa bình đẳng cho tất cả chúng sinh, tùy theo căn cơ của họ mà làm lợi ích; hoặc dùng bố thí bảo hộ chúng sinh; hoặc dùng đồng sự bảo hộ chúng sinh; hoặc hiện đủ các loại thân, với tướng hỏa vi diệu bảo hộ chúng sinh; hoặc hiện đủ các lưới sáng với bất tư nghì máu sắc thanh tịnh để bảo hộ chúng sinh; hoặc dùng oai nghi và phương tiện thù thắng, vi diệu; hoặc thuyết pháp; hoặc hiện những thần thông biến hóa làm cho họ được khai ngộ và được thuần thục; hoặc hóa hiện đủ các loại sắc tướng, đủ hạng quý tộc, đủ các nơi sinh, mang thân đồng loại cho đến cùng sống chung để thành tựu đầy đủ cho họ.

Thiện nam! Ta tu tập môn hạnh đại Bi này, nguyện thường cứu hộ tất cả chúng sinh, giúp họ tránh xa những nỗi sợ, như: Cầu cho tất cả chúng sinh tránh xa nỗi sợ về đường hiểm, nỗi sợ bậc dọc, nỗi sợ mê hoăc, nỗi sợ ràng buộc, nỗi sợ giết hại, nỗi sợ vua quan, nỗi sợ bần cùng, nỗi sợ đời sống hẩm hiu, nỗi sợ tiếng xấu, nỗi sợ chết, nỗi sợ các bệnh, nỗi sợ lười biếng, nỗi sợ tối tăm, nỗi sợ dời đổi, nỗi sợ thương yêu mà xa lìa, nỗi sợ oán ghét phải gặp nhau, nỗi sợ thân bị bức bách, nỗi sợ tâm ray rứt, nỗi sợ lo buồn sầu thảm, nỗi sợ cầu không toại ý, nỗi sợ oai đức của đại chúng, nỗi sợ luân hồi trong đường ác.

Lại nguyện: Nguyện cho các chúng sinh, ai nghĩ nhớ đến ta, xưng danh hiệu ta, hoặc thấy thân ta thì đều tránh khỏi tất cả sự sợ hãi, dứt trừ chướng nạn, luôn luôn chánh niệm.

Thiện nam! Ta dùng đủ mọi phương tiện như thế, để giúp cho các chúng sinh, tránh xa những kinh sợ, an trụ nơi chánh niệm. Vả lại, còn hướng dẫn cho họ phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đến hàng không thoái chuyển.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, muốn nói rõ nghĩa môn giải thoát này cho Đồng tử Thiện Tài, nên nói kệ rằng:

Lành thay! Người điều phục thân tâm,
Đảnh lễ, nhiễu quanh khen ngợi ta
Ta thường ở nơi núi báu này
Trụ đại Từ bi, luôn tự tại
Đây động kim cương nơi ta ở
Bằng các Ma-ni đẹp trang nghiêm
Thường dùng tâm tự tại dũng mãnh
Ngồi trên đá báu như tòa sen
Trời rồng cho đến chúng Tu-la
Chúng Khẩn-na-la và La-sát
Và hàng quyến thuộc luôn vây quanh
Ta dạy môn đại Bi cho họ
Ông có thể phát tâm vô thượng
Muốn được thấy ta nên đến đây
Mến mộ muốn cầu biển công đức
Nên lạy sát chân thân công đức
Muốn tu học trong pháp của ta
Nguyện được hạnh đẹp của Phổ Hiền,
Ta là Quán Tự Tại dũng mãnh
Phát từ bi thanh tịnh lớn
Nổi khắp lưới mây, ánh sáng diệu
Như cả hư không rộng sạch trong.
Ta duỗi cánh tay tròn vô cấu
Đủ tướng đẹp trăm phước trang nghiêm
Xoa đỉnh tin sâu của Thiện Tài
Thuyết giảng pháp Bồ-đề cho ông
Phật tử nên biết điều ta được
Một tướng một vị môn giải thoát
Tên mây đại Bi của chư Phật
Tạng trí tuệ bí mật trang nghiêm
Ta thường xuyên chuyên cần cứu hộ
Phát các thệ nguyện độ chúng sinh
Gần gũi tất cả và biết mình
Thường đem Phổ môn để chuyển hóa
Ta thường cứu hộ các chúng sinh
Và cứu vô số chúng khổ ách
Tưởng nhớ kính lễ hoặc xưng danh
Lập tức tất cả đều giải thoát.
Hoặc bị buộc nhốt vào lao ngục
Gặp oan gia xiềng xích bỏ tù
Người nào chí tâm xưng danh ta
Tất cả các khổ đều tiêu diệt.
Hoặc phạm trọng tội sắp đem giết
Kiếm bén tên độc hại thân mình
Xưng danh niệm liền được gia trì
Cung tên mâu nhọn không tổn hại.
Hai bên tranh cãi đến vua quan
Kiện tụng về các thứ tài sản
Người ấy chí thành niệm danh ta
Giành được phần thắng, tiếng khen
Hoặc những người thân bên nội ngoại
Và các bạn bè cùng gây oán
Người nào chí thành xưng danh ta
Tất cả oan gia không hại được.
Hoặc ở rừng sâu nơi nguy hiểm
Giặc cướp thú dữ muốn làm hại
Có thể chí tâm xưng danh ta
Tâm ác tự dứt không thể hại.
Hoặc có oan gia tâm hiểm độc
Xô từ núi cao xuống vực sâu
Nếu có chí tâm xưng danh ta
Lơ lững giữa không vô tổn hại.
Hoặc có oan gia tâm hiểm độc
Xô xuống dòng sâu và hầm lửa
Có thể chí tâm xưng danh ta
Tất cả nước lửa không hại được.
Nếu có chúng sinh gặp ách nạn
Đủ các khổ sở hành hạ thân
Nếu chí tâm xưng danh ta
Giải thoát tất cả không lo sợ.
Hoặc bị người khinh khi hủy báng
Thường tìm điểm xấu để gây thù
Có thể chí tâm xưng danh ta
Như thế oán hiềm tự dứt hẳn.
Hoặc gặp quỷ mị các độc hại
Thân tâm cuồng loạn không còn biết
Có thể chí tâm xưng danh ta
Chúng đều tiêu diệt không còn nguy.
Hoặc bị rồng độc các chúng quỷ
Tất cả kinh sợ chiếm tâm mình
Có thể chí thành xưng danh ta
Cho đến trong mộng cũng bình yên.
Người nào các căn bị hư khuyết
Cầu được thân tướng tốt xinh đẹp
Có thể chí thành xưng danh ta
Tất cả mong cầu đều thành tựu.
Người nào nguyện kính thuận cha mẹ
Sắc mặt vui tươi không trái ý
Giàu sang vui sướng với bình an
Kho ngầm của báu xài không hết
Thân tộc nội ngoại luôn hòa hợp
Tất cả oán ghét không bén mảng
Có thể chí thành xưng danh ta
Tất cả mong ước đều viên mãn.
Người nào phát nguyện khi mạng chung
Không đọa vào ba đường tám nạn
Luôn sinh vào đường thiện trời người
Thường hành đạo Bồ-đề thanh tịnh
Hoặc nguyện bỏ thân sinh cõi tịnh
Hiện trước khắp tất cả chư Phật
Trong khắp cõi Phật ở mười phương
Làm Bồ-tát thù thắng thanh tịnh.
Thấy hết chư Phật khắp mười phương
Và nghe pháp âm của Phật thuyết
Có thể chí thành xưng danh ta
Tất cả mong cầu đều viên mãn.
Ở nơi nguy hiểm bao nỗi sợ
Ngày đêm sáu thời xưng danh ta
Ta sẽ hiện đứng trước người ấy
Làm nơi nương tựa tốt cho họ
Họ sẽ sinh về cõi của ta
Cùng ta tu tập hạnh Bồ-tát
Nhờ ta đại Bi quán tự tại
Giúp cho tất cả đều thành tựu.
Hoặc tâm thanh tịnh dâng cúng dường
Hoặc hiến bảo cái hoặc xông hương
Hoặc đem hoa đẹp rải thân ta
Sẽ sinh cõi ta làm Ứng cúng
Hoặc sinh kiếp trược không Từ bi
Bỏ ác nghiệp tham sân trói buộc
Đủ các thứ khổ theo bám chặt
Trăm ngàn ràng buộc không thể dứt
Họ bị đủ các thứ dằn vặt
Ngợi khen tán thán danh hiệu ta
Nhờ đại Bi tự tại của ta
Làm cho hoặc nghiệp đều tiêu diệt
Hoặc có chúng sinh trong khi chết
Tướng tử hiện ra các cảnh ác
Thấy đủ các cảnh tượng ấy rồi
Làm tâm kinh hoàng không điểm tựa
Nếu hay chí thành xưng danh ta
Những tướng ác kia đều tiêu diệt.
Nhờ đại Bi tự tại của ta
Giúp sinh đường thiện cõi trời, người
Đều do ta tu hành thuở xưa
Nguyện độ vô lượng chúng chúng sinh
Dũng mãnh chuyên cần không thoái chuyển
Giúp cho mong cầu đều thành tựu.
Hoặc người nào quán chiếu thân ta
Giúp cho được thấy theo nhu cầu
Hoặc người muốn nghe ta thuyết pháp
Sẽ được nghe vô biên diệu pháp
Chúng sinh trong tất cả thế giới
Tâm hành khác nhau nhiều vô số
Ta dùng đủ các sức phương tiện
Giúp họ thấy nghe đều được độ.
Ta được môn giải thoát đại Bi
Chư Phật ấn chứng ta tu học
Ngoài biển công đức vô lượng ra
Chẳng phải trí tuệ ta biết được
Thiện Tài trong thế giới nơi mười phương
Phụng sự khắp các Thiện tri thức
Chuyên tâm tu hành không biếng trễ
Tiếp nhận Phật pháp không nhàm chán
Người nào nghe pháp không biết chán
Thì có thể thấy tất cả Phật
Vì sao thấy Phật tâm không chán?
Vì nghe diệu pháp không nhàm chán.

Khi thuyết kệ này rồi, Bồ-tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Ta chỉ được môn giải thoát hạnh đại Bi nhanh chóng của Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát đã thanh tịnh tất cả nguyện của Phổ Hiền, đã an trụ nơi tất cả hạnh Phổ hiền, thường hành tất cả pháp thiện, thường trụ nơi tất cả thiền định, thường nhập khắp vô biên kiếp, thường đến khắp vô biên cõi, thường quán hết các Đức Như Lai, thường nghe tất cả pháp trong ba đời, thường dứt tất cả ác của chúng sinh, thường làm phát triển tất cả điều thiện của chúng sinh, thường cắt đứt dòng sinh tử của chúng sinh, thường bơi trong dòng chánh pháp của Như Lai thì ta làm sao có thể biết và nói hết hạnh và công đức của các vị ấy.

Khi nghe Đại Bồ-tát Quán Tự Tại, nói kệ đại Bi thanh tịnh này rồi, Đồng tử Thiện Tài rất vui mừng, phấn khởi khắp toàn thân, sinh niềm kính mến, càng tăng niềm tin và phát tâm trong sáng, rời chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai phải, gối phải quỳ sát đất, đảnh lễ Bồ-tát và chắp tay quỳ thẳng trước Bồ-tát chí thành chiêm ngưỡng, nói kệ khen ngợi:

Đại chúng trời, người A-tu-la
Cùng với tất cả các Bồ-tát
Bằng lời lẽ hay đồng khen ngợi
Trí tuệ Thánh giả sâu như biển
Thường ở giữa tất cả chúng sinh
Bình đẳng đồng một vị đại Bi
Đồng duyên một trí cứu độ khắp
Tất cả nạn khổ đều tiêu diệt
Bồ-tát sức thần thông tối thắng
Lật úp đại địa không gì khó
Lại làm cạn khô cả đại hải
Và cả núi chúa đều chấn động
Danh tiếng Thánh giả quá lớn lao
Hiệu là Đại Bi Quán Tự Tại
Làm sao con dùng trí thiển cận
Khen ngợi đức thù thắng của ngài
Con nghe công đức của Thánh giả
Môn đại Bi không đoạn không tận
Nhờ vậy phát sinh tâm trong sáng
Và sinh sức trí tuệ biện tài
Nay con ở giữa chúng hội lớn
Dùng đại dũng mãnh để quán sát
Tán thán khen ngợi đức tuyệt vời
Cung kính chí thành không mỏi mệt
Như Đại phạm vương giữa Phạm chúng
Sáng ngời khắp cả cõi Phạm thiên
Thân đẹp an lành của Bồ-tát
Ở giữa chúng hội không ai bằng
Bồ-tát mắt nhìn như trâu chúa
Dung nghi sáng đẹp, như khối vàng
Đầy đủ nguyện Bồ-đề rộng lớn
Lợi ích khắp tất cả trời người
Trang sức bằng đủ loại tràng hoa
Đầu đội mão chân kim báu đẹp
Ánh sáng sạch tuyệt vượt chư Thiên
Oai đức tôn nghiêm trên Thế chủ
Hòa quang tỏa quanh như cầu vồng
Ngoại tướng sáng ngời như trăng tròn
Tướng đỉnh nhô lên như Tu-di
Ngồi thẳng uy nghiêm: Mặt trời mọc
Hông buộc tơ vàng màu tuyệt đẹp
Hiện tướng thù thắng phóng hào quang
Da nai y ni làm hạ y
Làm cho người thấy đều hoan hỷ
Thân đẹp đủ các tướng trang nghiêm
Các báu nhóm lại như núi chúa
Lưng choàng chiếc áo đẹp thượng hạng
Như mây hiện đủ các màu sắc
Ba đường trân châu nối liền nhau
Thân khôi ngô giống như Thế chủ
Thường phóng ánh sáng chiếu khắp nơi
Như ánh mặt trời chiếu không gian
Sắc thân sáng đẹp như núi vàng
Lại ví như đống hoa màu vàng
Dùng anh lạc trắng để trang sức
Như rồng trắng chúa quấn quanh thân
Thế chủ tay cầm hoa sen đẹp
Sắc như khối vàng đẹp tuyệt diệu
Báu Tỳ-lưu-ly làm chuôi nắm
Oai lực Đại bi khiến mở toang
Vượt hơn những gì trời người có
Phóng ánh sáng khắp như mặt trời
Hiện lên vòi vọi như Diệu cao
Hương thơm hòa quyện khắp mọi nơi
Đối với các quỷ ác Bộ-đa
Rắn độc voi say và sư tử
Lửa si độc hại che tâm Từ
Và còn các loại ách nạn khác
Nỗi khổ trói buộc làm tổn thương
Mọi người kinh sợ không chỗ nương
Thế chủ tâm đại Bi một vị
Bình đẳng cứu giúp các chúng sinh
Tảng đá báu đẹp làm tòa quý
Hoa sen tuyệt diệu ngài cầm tay
Trăm ngàn phước báu đã thành tựu
Các hoa sen đẹp đều vây quanh
Thân sáng tuyệt đẹp sắc thanh tịnh
Được thành tựu từ nghĩa chân thật
Chư Thiên cúng các vật thượng hạng
Cùng nhau khen ngợi công đức ngài
Với ngài con phát tâm thanh tịnh
Sớm xa tất cả tâm lo sợ
Quyến thuộc thích thú và vui sướng
Tất cả quả vị đều viên mãn
Biển lớn là nơi Long vương ở
Và các chỗ ở của chúng rồng
Thường có loài chim có cánh lớn
Tóm bắt giày xe sẽ chịu khổ
Hoặc những chúng sinh vào biển cả
Gặp gió nỗi sóng như núi Tuyết
Hoặc cá Ma-kiệt muốn đến nuốt
Vô cùng hoảng sợ không ai cứu
Hoặc gặp voi điên đuổi chạy gấp
Bị biết bao nguy biến buộc chặt
Chí tâm thầm niệm ngài Đại Bi
Như thế tất cả hết sợ hãi
Núi chúa đá lớn có hang động
Hang ấy sâu thẳm rất đáng sợ
Người phạm Pháp vương tiêu hủy thân
Đủ loại trói buộc đem đến họ
Những thứ làm khổ chúng sinh ấy
Chí tâm thầm niệm đức Đại bi
Thoát khỏi gông cùm tiêu hết khổ
Tất cả không lo, vui, bình yên
Ngài dùng tay Đại bi thanh tịnh
Nhớ đến chúng sinh mà bảo hộ
Giúp cho mọi người nơi ách nạn
Đạt được vô ưu, an ổn, vui.
Nay con khen ngợi chúa trời người
Đại Tiên vương oai đức tối thắng
Chướng ngại ba độc tiêu trừ hết
Phước trí không bờ như biển cả
Điều phục chúng sinh không biết mỏi
Lợi lạc bình đẳng không oán thân
Hạnh nguyện Bồ-tát như núi vàng
Tất cả thắng phước đều thành tựu
Ở các thế giới khắp mười phương
Chúng sinh dứt hết tâm tà kiến
Mau được thân Như Lai vô thượng
Mong khắp chúng sinh đều chứng đắc.

Bấy giờ, có vị Bồ-tát, tên là Chánh Tánh Vô Dị Hành, từ hư không hướng Đông đi đến đỉnh núi Luân vi của thế giới này, rồi dùng chân bấm xuống đất. Lúc ấy, toàn thế giới chấn động sáu cách và hòa thành vô số các loại báu xinh đẹp. Trên thân vị ấy, lại phóng ra ánh sáng lớn che khắp tất cả. Những ánh sáng của Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, tám bộ trời rồng, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, ánh chớp đều như khối mực. Ánh sáng ấy chiếu khắp địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cảnh giới Diêm-la và và làm cho những chúng sinh khổ đau, thân tâm thanh tịnh, tội cấu tiêu trừ. Lại nổi mây làm vật cúng dường khắp các cõi nước của chư Phật, khắp nơi nỗi mưa những vật như hương hoa, anh lạc, y phục, cờ phướn, lọng báu; tất cả đều rất đẹp, dùng để cúng dường Đức Phật. Lại tùy theo sở thích của chúng sinh mà dùng thần lực, hiện thân mình vào khắp tất cả cung điện, làm cho ai thấy cũng hoan hỷ, rồi mới đến chỗ Đại Bồ-tát Quán Tự Tại.

Bấy giờ, Bồ-tát Quán Tự Tại bảo Thiện Tài:

–Thiện nam! Ông thấy có Bồ-tát Chánh Tánh Vô Dị Hành đã đến trong chúng hội của đạo tràng này không?

Thiện Tài đáp:

–Vâng, con thấy rồi!

Lại bảo:

–Thiện nam! Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát?

Lúc này, Đồng tử Thiện Tài đã đạt được trí sâu xa tùy thuận quán sát không biết nhàm chán. Đồng tử thành kính đảnh lễ sát chân Bồ-tát Quán Tự Tại, nhiễu quanh vô số vòng, tuân theo lời dạy của vị ấy, từ giã ra đi.

Đến chỗ Bồ-tát Chánh Tánh Vô Dị Hành, đồng tử đảnh lễ sát chân vị ấy, rồi đứng lên chắp tay, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Bồ-tát khéo léo dạy dỗ, cúi xin Thánh giả giảng dạy cho con.

Bồ-tát nói:

–Thiện nam! Ta được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Phổ môn bất động tốc tật hạnh.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Thánh giả đạt được môn giải thoát này nơi Đức Phật nào? Từ đây đến cõi ấy bao xa và đến nay đã bao lâu rồi?

Bồ-tát đáp:

–Cảnh giới ấy sâu xa khó hiểu; tất cả hàng trời, người, A-tu-la, Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian, không có khả năng hiểu được; chỉ có hàng Bồ-tát hết mực tinh tấn, đủ hạnh Bồ-tát, không khiếp sợ, không thoái lui, đã có thể thân cận với các Thiện tri thức, được sự hỗ trợ của bạn bè, sự hộ niệm của chư Phật, thiện căn tăng trưởng, chí nguyện bền vững thanh tịnh, được các căn của Bồ-tát, có mắt trí tuệ, có khả năng nghe và hành trì, có khả năng hiểu rõ và thể nhập.

Thiện Tài thưa:

–Cúi xin Thánh giả giảng dạy cho con, con sẽ nhờ sức oai thần của chư Phật và sức của Thiện tri thức để có khả năng tin, có khả năng tiếp nhận, có khả năng hiểu, có khả năng ngộ nhập.

Bồ-tát nói:

–Thiện nam! Ta từ chỗ Đức Phật Phổ Cát Tường, nơi thế giới Cụ túc cát tường tạng ở phương Đông đến đây. Thiện nam! Ta được pháp môn này nơi Đức Phật ấy. Từ đó đến nay đã trải qua số kiếp nhiều như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật; trong từng mỗi niệm trải qua số bước chân nhiều như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật; mỗi bước chân phải vượt qua số thế giới nhiều như số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật; và trong mỗi thế giới ta đều vào khắp. Với tâm tối thắng, ta đến chỗ của Đức Phật ấy, đem vật cúng dường tốt đẹp để cúng dường Phật và cung cấp cho tất cả biển của chúng sinh. Những vật cúng ấy đều được thành tựu từ tâm Vô thượng, được ấn chứng từ pháp vô tác, được các Đức Như Lai tiếp nhận, được các vị Bồ-tát hoan hỷ.

Thiện nam! Ta còn thấy khắp thế giới ấy và biết cả tâm, căn tánh của tất cả chúng sinh; tùy theo sự hiểu biết và mong muốn của họ mà hiện thân thuyết pháp, hoặc phóng hào quang, hoặc cung cấp của cải, bằng mọi phương tiện để giáo hóa điều phục, lợi lạc thành thục mà không chút nghỉ ngơi. Ở các phương Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn góc, trên dưới, tất cả đều làm như thế.

Thiện nam! Ta chỉ được pháp môn giải thoát hạnh nhanh chóng bất động của Bồ-tát này, có khả năng nhanh chong đi đến khắp tất cả mọi nơi. Còn như các vị Đại Bồ-tát, tuần tự đi khắp mười phương, nơi nào cũng đến, cảnh giới trí tuệ đều như nhau, khéo phân thân mình khắp cả pháp giới, đến các nẻo đường, vào tất cả cõi, biết tất cả pháp, quán sát tất cả thế gian, diễn thuyết bình đẳng tất cả pháp môn, tin sâu và yêu thích tất cả diệu hạnh, đồng thời chiếu sáng tất cả chúng sinh, đối với các Đức Phật không có phân biệt, đối với các nơi không có chướng ngại thì ta làm sao có thể biết để nói hết công đức và hạnh nguyện của các vị ấy.

Thiện nam! Ở phương Nam, có một thành tên là Môn chủ, trong ấy có vị thần, tên là Đại Thiên. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Bồ-tát, đi nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài nhập vào hạnh rộng lớn của Bồ-tát, chánh niệm tư duy, tâm không còn chướng ngại, cầu cảnh giới trí tuệ của Bồ-tát, thấy sự nghiệp thần thông của Bồ-tát, suy nghĩ về công đức thù thắng của Bồ-tát, mặc giáp tinh tấn vững chãi của Bồ-tát, sinh niềm vui lớn của Bồ-tát, hướng đến sự bất tư nghì của Bồ-tát, vân du nơi đại tự tại của Bồ-tát, tu tập cảnh giới công đức của Bồ-tát, quán cảnh giới Tam-muội của Bồ-tát, an trụ cảnh giới Tổng trì của Bồ-tát, đầy đủ cảnh giới đại nguyện của Bồ-tát, đạt được cảnh giới biện tài của Bồ-tát, thành tựu cảnh giới các năng lực của Bồ-tát; rồi thong thả tiến bước. Đến thành kia, đồng tử tìm hỏi thăm xem Đại Thiên hiện nay đang ở đâu và mọi người đều trả lời:

–Vị ấy ở trong thành này, hiện thân to lớn, ngồi trên tòa cao, thuyết pháp cho mọi người.

Nghe như thế, Thiện Tài đi đến nơi và đảnh lễ sát chân vị thần, rồi đứng lên chắp, tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát, làm thế nào để tu đạo Bồ-tát. Con nghe nói, Thánh giả có khả năng khéo léo dạy bảo, cúi xin giảng dạy cho con.

Ngay khi ấy, Đại Thiên giơ bốn cánh tay, lấy nước bốn biển, đích thân rửa mặt cho đồng tử và cầm các hoa vàng tung lên mình Thiện Tài, rồi nói:

–Thiện nam! Nhân là người thật kỳ lạ và hiếm có, mới có thể cầu Thiện tri thức như thế. Thiện nam! Tất cả Bồ-tát xuất hiện ở đời thật là hiếm có, khó có thể được nghe, khó có thể được thấy; như hoa sen trắng giữa chúng sinh; như thành lũy bình an làm chỗ trở về, chỗ cứu hộ cho các chúng sinh ở nơi hiểm nạn; như mặt trời, chiếu ánh sáng lớn, cho chúng sinh nơi tối tăm; như bậc thầy hướng dẫn các chúng sinh đi vào cửa pháp của Đức Phật; cũng như vị tướng tài bảo vệ thành Nhất thiết trí.

Thiện nam! Vị Bồ-tát như thế khó được hội ngộ. Chỉ có người thân ngữ ý hoàn toàn thanh tịnh không có các lỗi lầm; may ra về sau mới được thấy hình tướng, mới được nghe biện tài của vị ấy; vị ấy luôn ở trước mặt trong bất cứ lúc nào.

Thiện nam! Ta đã thành tựu môn giải thoát của Bồ-tát, tên là lưới mây.

Thiện Tài thưa:

–Bạch Thánh giả! Cảnh giới của môn giải thoát lưới mây như thế nào?

Bấy giờ, trước mặt Thiện Tài, Đại Thiện hiện ra đủ các khối báu như khối vàng, khối bạc, khối lưu ly, khối pha lê, khối xa cừ, khối mã não, khối ngọc Ma-ni, khối ngọc vô cấu tạng, khối ngọc Tỳ-lô-giá-na; các khối báu cùng hiện khắp mười phương: Khối mão báu, khối ấn báu, khối vòng báu, khối ngọc đương, khối kim xuyến, khối tiêu báu, khối linh báu, khối ngọc anh lạc, khối lưới châu báu, khối ngọc Ma-ni đủ các màu sắc, đủ các loại khối báu để trang trí, đủ các loại khối báu Ma-ni như ý, mỗi khối báu đều như ngọn núi lớn. Lại còn hiện tất cả các loại hoa, tất cả các loại hương, tất cả các loại vòng hoa, tất cả các loại lọng báu, tất cả các loại cờ, tất cả các loại phướng, tất cả các loại hương bột, tất cả các loại hương xoa, tất cả các loại y phục, tất cả các loại âm nhạc, tất cả các vật dụng của thú vui năm dục cũng tích tụ như núi và hiện trăm ngàn vạn ức vô số đồng nữ; rồi Đại Thiên nói với Thiện Tài:

–Thiện nam! Ông có thể tùy ý, đem những vật này, để cúng dường các Đức Như Lai, tu tập các phước đức và cung cấp cho tất cả, bảo hộ chúng sinh, chỉ rõ cho họ thấy những thứ khó bỏ mà còn bỏ được để giúp họ tu học Bố thí ba-la-mật.

Thiện nam! Ta hiện những vật này cho ông, dạy ông thực hiện bố thí cho đến khắp tất cả chúng sinh cũng thế; mục đích là giúp cho họ huân tập sức thiện căn bố thí này, để họ dứt trừ sự chướng ngại không muốn thực hiện việc bố thí, ngược lại có tâm hạnh thù thắng với ruộng phước tối thắng của Phật, Pháp, Tăng. Từ đó biết cung kính cúng dường Thiện tri thức, trồng các thiện căn, phát triển thiện pháp và phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Lại nữa, thiện nam! Nếu có chúng sinh tham đắm và buông thả trong năm dục, thì ta hiện cảnh giới bất tịnh cho họ. Vì sao? Vì chúng sinh ấy ngu si mê muội, bị nữ sắc làm cho tâm say sưa mờ ám; như trẻ sơ sinh, không tự hiểu biết, cũng như áo trắng dễ nhuộm màu, bị dục nhận chìm, không có khả năng thoát ra; như trùng trong phân, say đắm đống phân; như lợn nhơ bẩn, dùng bất tịnh để trang sức; như kẻ tội phạm bị xiềng xích đủ kiểu, như giặc cướp ở thế gian, thường cướp tài sản chánh pháp; như kẻ phạm tội hành hình đưa đến pháp trường; như người đui và người mù dắt nhau, cả hai đều rơi xuống vực sâu; như thuyền gặp gió thổi dạt, lênh đênh trên biển; những kẻ ấy thiện căn bị tổn hại, các pháp bảo tiêu tan, như ở gần rồng độc, bị tiêm nhiễm khí độc, vĩnh viễn cách xa hương thơm giới đức, tuệ mạng bị thương tổn. Nói tóm lại, đứa bé ngu si bị dục làm mù lòa, bị dục trói buộc, bị dục sai khiến, bị dục mê hoặc, luôn luôn theo làm nô lệ cho tâm dục, thường lung lạc theo dục như bò nghé theo mẹ, bị dục trói buộc không được thảnh thơi.

Thiện nam! Ta vì những chúng sinh mù tối này, đem tâm lân mẫn, dùng phương tiện cứu độ; trước hết là hiện thân người nữ đáng yêu, hợp ý, làm cho họ say đắm, rồi hiện người ấy chết, thân thối rữa, bị các loài chim thú đến ăn, đủ các sự bất tịnh như rừng tử thi; lại hiện hình dáng nữ La-sát hung dữ, thân tướng như mây đen, lông tóc đỏ tươi, bụng lớn phệ xuống, răng nanh chĩa ra ngoài, trang điểm bằng đầu lâu, tay cầm kiếm bén, cất tiếng ác vang dậy. Ta hiện thân như thế, hướng đến người nhiễm dục, làm cho họ kinh sợ, nhàm chán, hoang mang. Nhân đó họ phát tâm cầu gặp ta, ta hiện thân như họ để thuyết pháp, giúp họ nhàm chán, an trụ nơi thân giới, thành tựu Giới Ba-la-mật tối thắng, đủ mười Ba-la-mật cho đến viên mãn quả Bồ-đề tối thắng. Lúc này Đại Thiên, liền vì Đồng tử Thiện Tài, nêu vô số xưng tán về giới Ba-la-mật, bèn nói kệ rằng:

Như các chúng sinh và cỏ cây
Đều nương vào đất mà sinh trưởng
Thiện căn thế gian và xuất thế
Cũng nương trên đất giới tối thắng
Không giới, muốn sinh vào đường thiện
Như chim không cánh muốn lên không
Như người không chân muốn rong chơi
Cũng như qua biển không thuyền bè
Như nhà khổ hạnh ăn rễ quả
Uống nước tự sống nơi rừng sâu
Mặc áo vỏ cây sống như thú.
Không giới lấy gì được thanh tịnh
Tóc cạo bốn bên chừa trên chỏm
Hoặc không chịu gội quấn làm búi
Mặc y phục khác hay lõa hình
Không giới như vậy là trò đùa
Hoặc ngâm dưới sông để tắm gội
Hay lao vào lửa để tự thiêu
Hoặc lên núi cao tự gieo xuống
Bọn này không giới nên đều chết
Hoặc tắm hồ sen tranh cãi được
Hay thường uống tắm nước sông Hằng
Ngày đêm cầu phước để nương nhờ
Bọn này không giới nên không quả
Hoặc sáng đến tối tắm ba lần
Hoặc ba lần làm Hộ-ma
Ngậm miệng lặng lẽ như dê câm
Thân khổ, không giới chẳng lợi gì
Muốn ở thiên cung sống bằng trời
Đeo anh lạc trời để trang sức
Ăn uống những món ngon cõi trời
Tất cả giới phẩm giữ trọn vẹn
Dù quý tộc hay Chiên-đà-la
Nếu thọ trì giới đều sinh thiên
Thứ bậc sang hèn thân khuyết giới
Cũng đều rơi địa ngục như nhau
Cấp thấp giữ giới sinh cõi trời
Tôn quý hủy phạm đọa tối tăm
Ma-đăng trì giới cũng sinh Thiên
Tiên nhân phá giới vào các ngục
Vua chúa tài hoa đủ uy lực
Ác kiến, không giới như thú hoang
Như cây trái ngọt như thú dữ
Như hồ sen đẹp rắn độc ở
Thà giữ phận nghèo luôn trì giới
Trang sức bằng đức báu, thánh tài
Phá giới bị mọi người khinh bỉ
Trì giới trời người đều tin kính
Chiên-đàn uất kim và trầm xạ
Tất cả thứ ấy không phải hương
Bồ-tát trì giới hương tối thắng
Tỏa khắp trời người không cùng tận
Thấp hèn trì giới sau sinh Thiên
Hiện làm vua chua được sùng bái
Đời này đời sau đều an vui
Kết quả của giới Mâu-ni thuyết
Muốn sinh trời người và Niết-bàn
Giữ giới đầy đủ thì sẽ được
Thế nên chuyên cần trì tịnh giới
Tùy tâm muốn điều gì đều viên mãn
Người nào lâm chung đau khắp thân
Sắp xa lìa tất cả thân tộc
Xét kỹ ta trì giới thanh tịnh
Thân tâm vui vẻ không lo sợ
Giới là thuốc trị bệnh tối thắng
Bảo hộ khổ ách như cha mẹ
Vượt cầu sinh tử đèn xóa tối
Biển nghiệp không bờ làm thuyền bè
Vua Đế Thích Chuyển luân oai đức
Giàu sang tôn quý không ai bằng
Nhà có người hầu chuyên trì giới
Phụng sự cúng dường để gần gũi
Có người sắp đến giờ lâm chung
Trì giới phá giới sợ hoặc vui
Muốn được đời sau ở cực lạc
Cần phải chuyên tâm hộ trì giới
Giới quý không giữ bằng binh khí
Giới là kho tàng không cướp được
Giới là bạn dũng mãnh dẫn đường
Giới là vật trang sức xuất thế
Ta ca ngợi công đức trì giới
Như Đức Thế Tôn thuyết chân thật
Để thức tỉnh hạng phá giới kia
Giúp tâm vững chắc trì tịnh giới.

Thiện nam! Ta dùng đủ các phương tiện như vậy để giáo hóa chúng sinh, giúp họ an trụ trong tịnh giới Ba-la-mật. Chúng sinh nào sân hận, kiêu mạn, thích tranh chấp; thì ta dùng sức mạnh chinh phục tâm họ, hiện ra hình tướng thật đáng sợ như La-sát ăn thịt uống máu. Thấy rồi, họ kinh sợ hỏang hốt, bỏ hết oán kết, tâm tư thuần thục. Chúng sinh nào lười biếng hôn trầm, thì ta hiện vua, giặc, nước, lửa, các trọng bệnh và những ách nạn; để họ thấy, rồi họ sinh hoang mang, nhận thức được sự buồn khổ, nhàm chán tránh xa hôn trầm lười biếng, tự mình ngày lẫn đêm chuyên cần sách tấn. Ta dùng đủ mọi phương tiện như thế, để giúp cho họ bỏ hết các pháp bất thiện, tu tập toàn bộ các thiện pháp thanh tịnh, trừ bỏ tất cả chướng ngại về Ba-la-mật, mở thông các cửa Ba-la-mật, vượt qua những con đường hiểm chướng ngại, đến mọi nơi không bị chướng ngại.

Thiện nam! Ta chỉ được môn giải thoát lưới mây của Bồ-tát này thôi. Còn như các vị Đại Bồ-tát: Như Đế-thích, có khả năng đánh bại tất cả quân A-tu-la phiền não; như nước biển cả có khả năng dập tắt hết lửa phiền não của tất cả chúng sinh; như lửa kiếp tận, có khả năng làm khô nước ái dục của tất cả chúng sinh; như trận cuồng phong, có khả năng thổi gãy những ngọn cờ kiến chấp của tất cả chúng sinh; như Kim cương, có thể đập tan những ngọn núi ngã kiến của tất cả chúng sinh thì ta làm sao có thể biết và nói hết hạnh và công đức của các vị ấy.

Thiện nam! Nơi Bồ-đề đạo tràng ở nước Ma-kiệt-đề thuộc cõi Diêm-phù-đề này có một vị thần chủ đất, tên là Tự Tánh Bất Động. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân thần Đại Thiên, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Tiếp nhận lời dạy của thần Đại Thiên rồi, Thiện Tài thong thả tiến về phía trước. Đến Đông bắc nơi Bồ-đề đạo tràng, thuộc nước Ma-kiệt. Khi sắp đến chỗ của thần Tự Tánh Bất Động. Mười ngàn vị Địa thần cùng sống với vị ấy, cùng bảo nhau rằng:

–Sự hiện diện của đồng tử, chính là kho báu của tất cả Như Lai, sẽ là nơi nương tựa cho khắp tất cả chúng sinh, nhất định sẽ phá tan vỏ trứng vô minh cho tất cả chúng sinh. Người này đã sinh trong chủng tộc của Pháp vương; sẽ dùng lụa pháp đội lên đầu mình; sẽ mở kho đại châu báu trí tuệ; sẽ cầm thanh kiếm tuệ bằng kim cương của Bồtát, tự tại mạnh mẽ, được pháp vô úy, bẻ gãy tà luận của tất cả ngoại đạo; sẽ đi thuyền pháp trên biển sinh tử, để cứu vớt chúng sinh đưa họ đến bờ trí tuệ tuyệt đối ấy. Giống như vầng trăng sáng, nhất định sẽ dứt hết tâm cuồng loạn, nóng bức, của tất cả chúng sinh.

Khi ấy thần Tự Tánh Bất Động và một vạn Địa thần, liền dùng thần lực làm chấn động đại địa, phát tiếng sấm vang, phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới, các loại vật báu nghiêm sức khắp nơi, thanh tịnh sáng ngời, thay nhau chiếu khắp. Tất cả cây lá sinh trưởng, tất cả cây hoa đều đua nở, tất cả cây ăn quả đều chín mọng, các dòng sông nối nhau chảy, các hồ chứa đều đầy tràn, nổi mây lớn bí mật đổ mưa hương vi tế lai láng khắp đất, khi ấy gió hương thổi tới các hoa quý tung khắp lên trên vô số âm nhạc cùng lúc hòa tấu, làm phát ra âm thanh rất hay, các vật trang sức của cõi trời đều phát ra tiếng hay làm cho mọi người vui vẻ. Trời A-tu-la, cho đến người, bò chúa, voi chúa, sư tử chúa… đều rất vui mừng, hớn hở cất tiếng rống vang dậy, giống như núi va chạm vào nhau phát ra tiếng; trăm ngàn kho báu ngầm tự nhiên hiện ra.

Bấy giờ, vị Địa thần ấy nói với Đồng tử Thiện Tài:

–Hay thay đồng tử! Ông đến đây là đã từng trồng thiện căn rồi. Ta sẽ hiện cho ông, ông có muốn thấy không?

Lúc ấy, Thiện Tài đảnh lễ sát chân Địa thần, đi nhiễu vô số vòng, rồi đứng chắp, tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Xin cho con được thấy.

Khi Địa thần dùng chân bấm xuống đất, liền có trăm ngàn ức atăng-kỳ kho tàng Ma-ni, tự nhiên vọt lên hiển hiện.

Địa thần nói:

–Thiện nam! Từ nay kho tàng này sẽ đi theo ông. Nó chính là kết quả do thiện căn đời trước của ông, chính là năng lực phước đức mà ông đã bảo hộ, ông tự do xử dụng theo ý mình. Thiện nam! Ta được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là Nan tồi phục trí tuệ tạng. Ta thường dùng pháp này, giáo hóa chúng sinh đầy đủ trọn vẹn.

Thiện nam! Ta nhớ từ thuở Đức Phật Nhiên Đăng đến nay; ta thường theo hộ vệ Bồ-tát như bóng theo hình. Từ đó đến nay, từng niệm không rời, quán sát, tìm kiếm khắp, xem Bồ-tát có những tâm hạnh gì mà thâm nhập vào cảnh giới tất cả trí tuệ và thệ nguyện của Bồ-tát, viên mãn tất cả những hạnh thanh tịnh của Bồ-tát đã tu tập, tư duy sự thông suốt hết tất cả Tam-muội Bồ-tát, an trụ tất cả pháp môn của Bồ-tát, hiểu rõ hết tất cả tâm tánh, trọn vẹn tất cả sức đại tự tại, phát triển những pháp không thể hoại, đi khắp tất cả cõi của các Đức Phật, được tất cả các Đức Như Lai thọ ký, ghi nhớ giữ gìn sự hiểu biết về tánh Nhất thiết trí, chuyển bánh xe pháp của tất cả các Đức Phật, diễn thuyết tất cả môn Tu-đa-la, ánh sáng đại pháp chiếu sáng khắp nơi, giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh, thị hiện tất cả sự thần biến của chư Phật, thông hiểu rành rẽ, ghi nhớ giữ gìn không để sơ xuất hay làm mất.

Thiện nam! Ta nhớ lại thời quá khứ lâu hơn số cực vi trần số

kiếp của núi Tu-di, có một kiếp tên là Trang nghiêm, thế giới tên Nguyệt tràng, Đức Phật hiệu là Diệu Nhãn, ta đạt được pháp môn đầu tiên này nơi Đức Phật ấy.

Thiện nam! Từ đó đến nay, ta đối với pháp môn này hoặc nhập hoặc xuất tu tập phát triển, luôn được thấy chư Phật, chưa từng rời bỏ. Trong khoảng thời gian đạt được pháp này cho đến giữa kiếp Hiền, ta được gặp các Đức Như Lai thành Đẳng chánh giác, nhiều hơn cả số cực vi trần trong vô lượng vô lượng cõi Phật và đều phụng sự cung kính, cúng dường. Ta lại thấy Đức Phật ấy đến cội Bồ-đề ngồi nơi đạo tràng, hiện đại thần thông và thực hiện đủ các Phật sự; Ta cũng thấy được các Đức Phật ấy có các công đức và thiện căn.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát tạng trí tuệ Nan tồi phục này. Còn như các Đại Bồ-tát có khả năng thường theo hầu cận tất cả chư Phật, có khả năng phụng trì giáo pháp của tất cả chư Phật, nhập vào trí tuệ sâu xa của tất cả chư Phật, từng niệm đầy khắp tất cả pháp giới bằng với thân của Như Lai, phát sinh tâm của chư Phật, đầy đủ giáo pháp của chư Phật, làm các việc Phật sự, tâm luôn luôn phát sinh tạng pháp thanh tịnh của tất cả chư Phật và luôn luôn xa rời tâm phân biệt; thường không gián đoạn thì ta làm sao có thể biết và nói hết hạnh và công đức của các vị ấy.

Thiện nam! Bên bờ phía Bắc sông Hằng nước Ma-kiệt-đà thuộc cõi Diêm-phù-đề này, có một thành lớn, tên là Ca-tỳ-la, ở đó có vị thần chủ đêm, tên là Xuân Hòa, ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân Địa Thần, nhiễu quanh vô số vòng chí thành chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Tiếp nhận sự giáo hóa của Địa thần rồi Đồng tử Thiện Tài chuyên chú tư duy, ghi nhớ môn giải thoát tạng trí tuệ nan tồi phục của Bồ-tát và tu tập Tam-muội của vị ấy, học mô phạm của vị ấy, quán chiếu pháp diệu dụng của vị ấy, nhập biển trí của vị ấy, liễu ngộ sự sâu xa của vị ấy, thực hành thắng hạnh của vị ấy, an trụ đại nguyện của vị ấy, được trí tuệ của vị ấy, đạt được sự bình đẳng của vị ấy. Đồng tử tư duy như thế và thong thả tiến bước, vượt qua phía Bắc sông

Hằng, hướng về thành Ca-tỳ-la, đến cửa Nam, đồng tử cung kính đi nhiễu quanh bên phải, rồi vào cửa động; dừng chân chưa bao lâu mà thời gian đã hết ngày. Ngài nhớ lại rành mạch về hạnh của các vị Bồtát, khát khao muốn được gặp Thần chủ về đêm Xuân Hòa, đối với bậc Thiện tri thức tưởng như Đức Như Lai. Đồng tử còn nghĩ: “Nhờ Thiện tri thức mà ta được Thiên nhãn, có khả năng thấy khắp cảnh giới trong mười phương; nhờ Thiện tri thức nên ta đạt được kiến giải rộng lớn, có khả năng thông hiểu tất cả các duyên; nhờ Thiện tri thức nên ta đạt được con mắt định, có khả năng quán sát khắp tất cả pháp môn; nhờ Thiện tri thức nên ta đạt được con mắt trí tuệ có khả năng quán chiếu khắp biển cõi trong mười phương”.

Trong lúc suy nghĩ như thế, đồng tử trông thấy vị Thần chủ về đêm ấy, ở trên không trung, ngồi nơi tòa Sư tử báu tạng hương liên hoa trong lầu các bằng nhiều màu sắc của báu Ma-ni; thân màu chân kim; tóc trên đỉnh xanh mướt; mắt như cánh sen xanh rộng lớn; tướng mạo khôi ngô, mọi người trông thấy đều vui thích; trang điểm bằng các báu anh lạc; thân mặc áo châu; đầu đội mão Phạm thiên, tất cả tinh tú đều ảnh hiện vào rõ rệt. Mỗi lỗ chân lông trên thân vị ấy đều hiện cảnh hóa độ chúng sinh ở vô lượng vô số thế giới; ví như người sắp rơi vào đường ác thì làm cho tránh xa và được giải thoát. Những chúng sinh ấy, hoặc sinh trong loài người, sinh lên cõi trời, hoặc hướng đến Nhị thừa, Bồ-tát hoặc tu hành đạo Nhất thiết trí, những hình ảnh như thế hiển hiện rõ ràng. Lại trong từng lỗ chân lông của vị ấy, hiện rõ đủ các phương tiện giáo hóa và làm cho chúng sinh thành thục; hoặc hiện thân đủ các dáng vẻ hoặc thuyết pháp đủ các ngôn ngữ; hoặc thực hiện đạo của hàng Thanh văn, hoặc thị hiện đạo của hàng Độc giác, hoặc thị hiện hạnh của các Bồ-tát như: Hạnh dũng mãnh của Bồ-tát, hạnh Thiền định của Bồ-tát, hạnh tự tại của Bồ-tát, hạnh trụ xứ của Bồ-tát, hạnh quán sát của Bồ-tát, hạnh tư duy của Bồ-tát, hạnh thần thông của Bồ-tát, hạnh cảnh giới của Bồ-tát, Sư tử tần thân của Bồ-tát, diệu dụng giải thoát của Bồ-tát; đủ các việc làm thành thục chúng sinh như thế. Thấy nghe những sự việc ấy rồi, Đồng tử Thiện Tài rất vui mừng, phấn khởi và rất mãn nguyện, tôn trọng quý kính, đảnh lễ sát chân Dạ thần, đi nhiễu quanh vô số vòng rồi đến trước vị ấy chắp tay, thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tâm con rất muốn nương sức oai thần của Thiện tri thức, để đạt được tạng pháp công đức của các Đức Như Lai. Cúi xin Thánh giả cho con được nương tựa người và chỉ cho con con đường hướng đến Nhất thiết trí, giúp con ở trong ấy tu hành tăng tiến đến mười lực.

Lúc ấy, Thần chủ về đêm nói với Thiện Tài:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Quả thật ông đã hết mực cung kính Thiện tri thức; chính nhờ năng lực của chánh pháp, năng lực của bậc Thánh, nhập vào thân ông, giúp ông chuyên cần, cầu không tiếc thân mạng, hết tâm thân cận, thích nghe lời hay đẹp, chăm chú lắng nghe tùy thuận tu hành theo lời dạy ấy. Do nhờ ông thân cận, nghe giáo pháp và quyết tâm tu tập, cho nên đạt được Vô thượng Bồđề.

Thiện nam! Ta đạt được môn giải thoát ánh sáng pháp giáo hóa điều phục, phá tan, ngu si đen tối của tất cả chúng sinh.

Thiện nam! Ta sinh tâm Từ với chúng sinh ngu ác, sinh tâm đại Bi với chúng sinh thiện và bất thiện, sinh tâm hoan hỷ với chúng sinh thực hiện thiện pháp, sinh tâm bất nhị với chúng sinh làm thiện và ác, với chúng sinh có nhiều sự đắm trước thì làm cho họ sinh tâm thanh tịnh, với chúng sinh tà hạnh thì giúp họ sinh tâm chánh hạnh, với chúng sinh thiển cận thì giúp họ hiểu biết rộng rãi, với chúng sinh lười biếng thì giúp họ tinh tấn, với chúng sinh thích sinh tử thì giúp họ bỏ tâm luân hồi, với chúng sinh trụ hàng Nhị thừa thì giúp họ an trụ vào Nhất thiết trí.

Thiện nam! Ta được môn giải thoát này, nên luôn khế hợp với những tâm như thế!

Thiện nam! Đối với người ở nơi thanh vắng, trong đêm tối tăm, gặp khi quỷ thần, trộm cướp và các chúng sinh ác dữ săn tìm; thì ta hiện mây đen, sương mù, mưa to, gió lớn, làm cho chúng tối tăm không còn thấy màu sắc nhật nguyệt và các vì sao. Gặp các nỗi khổ của chúng sinh khi vào trong biển, hoặc đi trên đất liền, núi rừng, đồng hoang, sa mạc, hiểm nạn hoặc các nơi nguy hiểm, những nơi khủng bố, hoặc gặp giặc cướp, hoặc thiếu lương thực, hoặc không biết phương hướng, hoặc quên đường về, hoảng hốt lo sợ, không biết lối ra.

Lúc ấy, ta dùng đủ phương tiện, để cứu vớt họ. Người gặp nạn trên biển thì ta hóa làm thuyền trưởng, cá chúa, ngựa chúa, rùa chúa, voi chúa, vua A-tu-la và thần biển dáng như người bắt cá. Làm việc cứu hộ cho những chúng sinh mắc nạn trên biển ấy như ngăn mưa gió dữ, dứt cơn sóng to. Với những người ở trong dòng nước xoáy và người không biết đường thì hướng dẫn và chỉ bờ, đất liền cho họ, giúp họ thoát khỏi sợ hãi, đều được an ổn. Ta lại nghĩ: “Đem thiện căn này hồi hướng cho chúng sinh, mong họ thoát tất cả các nỗi khổ. Tất cả chúng sinh ở nơi đất liền, trong đêm tối tăm, gặp những cảnh kinh hãi như sỏi đá, gai góc, hổ báo, sài lang, sư tử, thú ác, rắn độc, đường hiểm, giặc cướp, quỷ thần và nơi thô ác thì ta hiện đủ các loại ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, các vì sao, các sấm chớp từ sáng tới tối hoặc hiện nhà cửa, hoặc hiện đủ các hình tướng người, tám bộ chúng, trời, rồng, Bồtát, Như Lai để che chở hướng dẫn, giúp họ thoát khỏi nơi nguy hiểm, khủng khiếp”.

Lại nghĩ: Ta đem thiện căn này hồi hướng cho chúng sinh khiến họ đều dứt trừ được các phiền não tối tăm. Tất cả chúng sinh với đủ các sự trói buộc như nuối tiếc thọ mạng, quý trọng danh tiếng, tham tài sản, trọng chức vụ, đắm sắc dục, quyến luyến thê thiếp và rừng rậm quyến thuộc, tuy chưa từng nói lên sự mong muốn của mình, nhiều đời lo sợ; ta cũng đều cứu vớt giúp họ thoát khổ. Với người đi vào núi sâu gặp nạn, ta hóa hình thiện thần lân cận, hóa loài chim đẹp ca hót an ủi, làm thuốc hay, phóng ra ánh sáng rực rỡ, chỉ cây có trái cho họ, chỉ suối và giếng cho họ cho đến chỉ đường ngay và đất bằng phẳng cho họ; hoặc hiện nhà cửa, hoặc hiện chỗ ở tốt đẹp để giúp họ thoát khỏi tất cả buồn khổ. Với người vào đồng hoang, đường hiểm, rừng sâu, cây độc, dây leo chằng chịt sầm uất, thú xà hổ lang rình rập sát hại, cất tiếng rống vang dội, làm người nghe kinh hãi; người rơi vào nạn này, có đủ những lo sợ, nào mây mù che phủ, tâm thức hôn mê, nếu trong những việc này mà kinh sợ, thì ta hiện thân thể lực mạnh mẽ, cứu họ khỏi ách nạn, chỉ con đường chánh để họ được thoát ly”.

Ta lại nghĩ như vầy: “Mong cho tất cả chúng sinh giác ngộ, phá rừng già vô minh, rọc lưới ái, ra khỏi đồng hoang sinh tử, dứt bóng tối phiền não, vào đại thành vô úy Nhất thiết trí, đến nơi bình yên, an lạc tuyệt đối”.

Thiện nam! Chúng sinh nào, thành ấp bị chiến tranh cho đến luôn bị loài thú nhỏ quấy nhiễu thì ta dùng phương tiện, khiến cho họ được hòa hiếu mỗi người đều khởi tâm Từ, chấm dứt chiến tranh vĩnh viễn. Ta lại nguyện: “Mong cho tất cả chúng sinh, xa rời chiến tranh của phiền não, đạt được pháp hòa hợp”.

Thiện nam! Chúng sinh nào say mê quốc sự, cố công trấn thủ, sinh đủ các sự tranh chấp, việc thắng bại không chừng. Với người buồn khổ ấy, ta dùng phương tiện, giúp họ xả bỏ chấp chặt, chỉ sự vô thường, để họ nhàm chán xa lánh. Lại nguyện: “Mong cho tất cả chúng sinh, không còn đắm vào các uẩn, an trụ vào cảnh giới Nhất thiết trí của Phật”.

Thiện nam! Chúng sinh nào lệ thuộc vào xóm làng, tham luyến nhà cửa, thường ở nơi đen tối, chấp nhận sự trói buộc. Với người chịu các khổ này, ta thuyết pháp, làm cho họ nhàm chán xa lánh, giúp họ đầy đủ và an trụ vào giáo pháp. Lại nguyện: “Mong cho tất cả chúng sinh, đều không còn tham đắm làng xóm sáu trần, sớm thoát khỏi cảnh giới sinh tử, an trụ vĩnh viễn nơi thành Nhất thiết trí”.

Thiện nam! Chúng sinh nào đi trong đêm tối, không biết rõ phương hướng, tưởng đường bằng phẳng là đường hiểm, đường hiểm là bằng phẳng; cho chỗ cao là chỗ thấp, chỗ thấp là chỗ cao; người ấy hoang mang đau khổ; thì ta dùng phương tiện, phóng ra ánh sáng đến. Người muốn thoát ra thì ta chỉ nhà; người muốn đi thì ta dẫn đường; người muốn qua bờ bên kia thì ta chỉ chiếc cầu; muốn qua sông vượt biển thì ta trao cho thuyền bè; nếu lúc oai bức ta chỉ nước lạnh; lúc lạnh ta chỉ cách làm ôn hòa, cung điện ấm mát thích hợp từng thời gian. Nếu muốn đi quán sát, thì ta luôn đi trước hướng dẫn họ, chỉ những nơi khó dễ, an ổn và nguy hiểm. Người muốn ngủ nghỉ, ta chỉ nhà cửa gần thành ấp, xóm làng, cho họ nghỉ ngơi; người đi đường xa thiếu nước, ta chỉ nước nơi hồ ao, sông suối để họ uống và tắm, chỉ rừng hoa và nhiều cây quả, giúp thân tâm họ được mát mẽ, an vui. Với người bị cha mẹ, vợ con, quyến thuộc ân ái phân ly, ta giúp cho họ đoàn tụ, không có các khổ não. Ta lại nghĩ: “Ta ở đây, dẹp trừ màn đêm, cứu chúng sinh thoát khỏi tai ương, giúp mọi việc trong thế gian được ổn định. Đối với tất cả chúng sinh nơi bóng tối vô minh, trong đêm dài sinh tử; ta nguyện đem ánh sáng trí tuệ chiếu soi khắp tất cả. Những chúng sinh không có con mắt trí, do tâm tưởng tượng điên đảo che lấp: Vô thường tưởng thường, trong khổ tưởng vui, vô ngã tưởng có ngã, bất tịnh tưởng tịnh, chấp chặc vào ngã, nhân, chúng sinh và pháp uẩn, xứ, giới; nhầm lẫn nhân quả, không rõ thiện ác; giết hại chúng sinh cho đến tà kiến: Bất hiếu cha mẹ, không kính trọng Samôn, Bà-la-môn, không biết người ác không hiểu người thiện, thích thú việc ác, thực hành tà pháp, hủy báng Như Lai, hủy hoại chánh pháp, luôn gây thương tích và hủy nhục các Bồ-tát, khinh khi đạo Đại thừa, dứt tâm Bồ-đề, tạo phản giết hại người ân, luôn gây oán kết với kẻ không ân, chê bai Hiền thánh, gần gũi bạn ác, trộm vật của chùa tháp, tạo tội ngũ nghịch; chẳng bao lâu sẽ đọa vào ba đường ác. Ta nguyện: Sớm dùng ánh sáng đại trí, phá tan bóng tối vô minh của chúng sinh ấy, làm cho họ nhanh chóng phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Người phát tâm rồi, ta chỉ cho họ xe Phổ Hiền để khai phóng con đường mười Lực, chỉ cảnh giới Pháp vương của Đức Như Lai và thành Nhất thiết trí của chư Phật, việc làm của các Đức Phật, sự tự tại của các Đức Phật, sự thành tựu của các Đức Phật, sự Tổng trì của các Đức Phật. Tất cả chư Phật đều cùng một thân, tất cả chư Phật đều bình đẳng một trú xứ; tất cả để tlàm cho họ an trụ.

Thiện nam! Tất cả chúng sinh do bệnh tật trói buộc, hoặc bị tuổi già xâm chiếm; hoặc khổ về nghèo túng; hoặc gặp tai họa, hoặc phạm pháp vua, sắp bị tử hình, không biết cầu cứu vào đâu, nên rất sợ hãi; ta đều cứu giúp để họ được an ổn. Nghĩa là dùng phương thuốc điều trị các khổ về bệnh cùng già yếu, làm cho họ quanh năm vui vẻ, cung cấp đầy đủ những vật dụng giúp họ không còn nghèo thiếu; làm chủ cho người không có chủ, làm nơi trở về cho người không có chỗ về người khổ về tai nạn làm bức bách, thì hòa cùng hoàn cảnh, để cứu giúp họ khỏi áo não và không còn sợ hãi. Ta lại nguyện: “Ta nguyện đem pháp hóa độ khắp chúng sinh giúp họ giải thoát tất cả phiền não và dứt các tai họa về sinh, lão, tử, ưu, bi, khổ; gần gũi Thiện tri thức, thường thực hiện pháp thí, chuyên cần tu thiện nghiệp, sớm đạt Pháp thân thanh tịnh của Như Lai, ở nơi chỗ tuyệt đối không biến đổi”.

Thiện nam! Tất cả chúng sinh vào rừng rậm tà kiến, đi trên đường tà, đem tâm tà phân biệt các cảnh giới, thường làm việc ác, tạo nghiệp thân, ngữ, ý; vọng tưởng dựng lên đủ các pháp khổ hạnh tà kiến, không đúng chánh giác tưởng là Chánh giác, Chánh giác cho là không đúng, bị các bạn ác lôi kéo, sinh ác kiến, sắp rơi vào đường ác. Ta dùng đủ các môn phương tiện, cứu giúp họ, để họ an trụ trong chánh kiến, sinh vào cõi trời, người. Ta lại nghĩ: “Như ta từng cứu độ các chúng sinh sắp rơi vào đường ác. Ta nguyện cứu khắp tất cả chúng sinh, giúp họ giải thoát tất cả các khổ, an trụ nơi Thánh đạo Ba-la-mật xuất thế và không còn thoái chuyển nơi Nhất thiết trí, đầy đủ hạnh nguyện Phổ hiền, gần với cảnh giới giác ngộ của Phật, nhưng không xả bỏ hạnh của Bồ-tát”.

Bấy giờ, vì muốn nêu lại nghĩa giải thoát này, Dạ thần Xuân Hòa, nương oai thần của Đức Phật, quán sát khắp tất cả pháp giới trong mười phương rồi nói kệ cho Đồng tử Thiện Tài:

Ta có biển giải thoát bình lặng
Phát sinh đầy đủ ánh sáng trí
Tránh xa các bóng tối ngu si.
Quán sát căn cơ mà diễn thuyết
Ta ở vô biên kiếp về trước
Thanh tịnh rộng khắp tu tâm
Từ Như mặt trời chiếu khắp thế gian
Ông nên dũng mãnh siêng tu tập.
Ta có biển đại Bi khó lường
Sinh các Đức Như Lai ba đời.
Chuyên cứu khổ chúng sinh pháp giới
Ông nên dũng mãnh tu tập theo
Sinh niềm vui vô vi thánh đạo.
Mang vui an ổn cho thế gian
Làm tâm ta hết sức vui mừng
Ông nên nhập môn sâu xa này
Xem pháp hữu vi như huyễn hóa
Bỏ pháp giải thoát của Thanh văn
Thường tu năng lực Phật trang nghiêm,
Ông nên nhập pháp nan tư này.
Mắt ta sáng ngời rộng vô biên
Thấy khắp các cõi nước mười phương
Trong ấy có tất cả chư Phật
Đều an tọa nơi cội Bồ-đề
Thấy Phật ở giữa đại chúng hội
Thân tướng tốt xinh đẹp trang nghiêm
Trên các chân lông phóng ánh sáng
Mỗi ánh sáng ấy thường chiếu khắp
Thấy các chúng sinh rơi biển nghiệp
Đây sinh kia tử mỗi khác nhau
Nối tiếp luân hồi trong năm nẻo
Thường thọ đủ các khổ vô biên.
Thân ta thanh tịnh sánh không cùng
Một niệm nghe khắp các biển cõi
Chúng sinh nói ra những pháp gì
Ta đều ghi nhớ không quên sót.
Và nghe chư Phật chuyển pháp luân
Âm thanh tuyệt diệu không gì bằng
Từ ngữ giải thích và phương tiện
Ta đều ghi nhớ không thiếu sót.
Mũi ta rất thanh tịnh thông suốt
Đối với các pháp không say đắm
Trụ môn giải thoát khắp các nơi
Ông nên nhập hoặc vô ngại này
Lưỡi ta sáng rực màu đồng đỏ.
Đầy đủ biện thuyết hay thanh tịnh
Khéo tuyên diệu pháp hợp chúng sinh
Ông nên nhập hoặc vô ngại này.
Thân ta rời tướng luôn thanh tịnh
Hóa thân khắp tất cả thế gian
Đáp ứng niềm tin của chúng sinh
Hiện sắc thân cho họ được thấy
Tâm ta thanh tịnh rời đắm trước
Như tiếng vang khắp các chúng sinh.
Từng niệm đều thấy các Như Lai
Nhưng ở trong ấy không phân biệt.
Bất tư nghì cõi biển chúng sinh
Những niềm vui sở thích các căn
Ta đều biết hết trong một niệm
Nhưng ở trong ấy không phân biệt
Ta dùng diệu thần thông rộng lớn
Chấn động các cõi Phật, khó nghĩ
Oai đức ánh sáng đều hiện khắp
Điều phục toàn thể chúng khó phục
Phước ta rộng lớn và thanh tịnh
Trang nghiêm vô lượng chứa vô tận
Cúng dường khắp các Đức Như Lai
Ban vui khắp chúng sinh cũng thế.
Trí ta sáng chói và bao la
Thông đạt vô biên biển giáo pháp.
Dứt hết nghi ngờ của chúng sinh
Phật tử cần nên khéo tu học.
Ta biết biển chư Phật ba đời
Và biết toàn thể biển giáo pháp.
Cũng nhập môn đại nguyện của ngài
Nên tu tập hạnh vô đẳng này.
Ta ở ba đời trong trần cõi
Đều thấy biển cõi khắp mười phương
Cũng thấy các Đức Phật trong ấy
Đây là sức Phổ Môn không gì bằng
Ở khắp tất cả cõi mười phương.
Đều thấy Lô-xá-na đại trí
Ngồi nơi đạo tràng trong vô số cõi.
Âm thanh tịch tĩnh giảng diệu pháp.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài thưa Dạ thần Dạ Xuân Hòa:

–Thánh giả phát tâm Vô thượng Bồ-đề và được môn giải thoát ấy đã bao lâu mà có được sức đại oai đức và khả năng làm lợi ích chúng sinh như thế?

Thần chủ về đêm đáp:

–Thiện nam! Ta nhớ thuở xưa, cách đây hằng số cực vi trần Tudi kiếp, có một kiếp tên là Tịch tĩnh quang, thế giới tên là Xuất sinh cát tường bảo. Thời ấy có năm trăm ức Đức Phật xuất hiện. Trong thế giới ấy có bốn đại châu tên là Bảo nguyệt đăng quang, có một thành trì tên là Liên hoa quang, có vị vua Chuyển luân tên là Diệu Pháp Ngạn, có đầy đủ bảy báu, thống lãnh bốn châu thiên hạ đem đạo Thánh vương làm cho chúng sinh an lạc. Vua có một phu nhân, tên là Pháp Trí Nguyệt thọ hưởng thú vui rồi ngủ say trong đêm. Thời ấy, phía Đông thành này, có một khu rừng lớn, tên là Tịch tĩnh xuất sinh diệu đức, trong rừng có một cây đại Bồ-đề tên là Nhất Thiết Thắng Pháp Ma-ni Vương Trang Nghiêm Thân, sinh ra ánh sáng và thần lực của chư Phật.

Bấy giờ, có Đức Phật ngồi dưới gốc cây này, tên là Nhất Thiết Pháp Đại Hống Thanh Vương, thành Chánh đẳng giác, phóng ra ánh sáng lớn vô lượng màu sắc, tên là Ma-ni Vương chiếu khắp tất cả thế giới diệu bảo. Trong thành Liên hoa, có một vị thần chủ về đêm, tên là Tịnh nguyệt quang, đến chỗ phu nhân Pháp Trí Nguyệt, chạm vào anh lạc trên thân, làm cho vòng ngọc phát ra tiếng, để đánh thức phu nhân, rồi mách với bà: “Phu nhân nên biết! Đức Như Lai Nhất Thiết Pháp Đại Hống Thanh Vương, ở nơi rừng Tịch tĩnh xuất sinh diệu đức, đã thành Đẳng chánh giác, đang tuyên dương khen ngợi thần lực tự tại và công đức của chư Phật và những hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền để giúp vua và phu nhân phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Người nên cung kính, cúng dường, phụng sự Đức Phật, Bồ-tát và Tăng chúng Thanh văn”. Thiện nam, vị phu nhân Pháp Trí Nguyệt Thuở ấy, đâu phải ai xa lạ mà chính là thân ta. Ta phát tâm Bồ-đề nơi Đức Phật ấy và trồng thiện căn với niềm tôn trọng quý kính. Trải qua số kiếp như cực vi trần của núi Tu-di, ta không bị rơi vào các đường ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cũng không sinh vào gia đình nghèo hèn; các căn đầy đủ không có các nỗi khổ, hưởng phước đức thù thắng giữa cõi trời và người, không sinh vào đời ác, không xa rời đại Thiện tri thức, Phật và Bồ-tát, luôn ở bên các vị, vun trồng thiện căn, qua tám mươi ức Tu-di vi trần kiếp, thường hưởng an lạc, nhưng chưa trọn vẹn thiện căn của Bồ-tát, qua kiếp này rồi, hơn một vạn kiếp nữa, bước vào đầu kiếp Hiền, có một kiếp tên là Vô ưu biến chiếu, thế giới tên là Ly cấu thắng đức. Thế giới ấy, tịnh uế, xen tạp. Bấy giờ, có năm trăm Đức Phật xuất hiện. Đức Phật thứ nhất thành Ứng Chánh Đẳng Chánh Giác hiệu là Tu-di Tràng Đại Tịch Tĩnh Cát Tường Nhãn Như Lai. Lúc ấy, ta làm con gái của Trưởng giả Danh Xưng, tên là Diệu Tuệ Quang Minh, xinh đẹp tuyệt vời, đầy đủ nhân tướng. Còn Thần chủ về đêm Tịnh Nguyệt, nhờ sức bản nguyện, làm Thần chủ về đêm trong thành của vua Chúng Sắc Tràng trong một châu thuộc thế giới Ly cấu thắng đức tên ông là Diệu Tịnh Nhãn. Vào một hôm, ta ở bên nhà cha mẹ mình, trong giấc ngủ say, Diệu Tịnh Nhãn đến chỗ ta gây chấn động nhà cửa và phóng ra ánh sáng lớn, hiện nguyên hình khen ngợi công đức của Phật: “Đức Như Lai ấy, ngồi nơi cội Bồ-đề, mới thành Chánh giác, động viên ta, cha mẹ và các quyến thuộc của ta. Để giúp cho mọi người sớm được thấy Phật, ông đi trước hướng dẫn, đưa đến chỗ Phật, mọi người phát tâm cúng dường. Vừa thấy Phật ta liền được môn Tam-muội giáo hóa chúng sinh thấy Phật và được môn Tam-muội vòng ánh sáng trí, chiếu khắp ba đời. Được Tam-muội ấy, cho nên ta có khả năng nhớ hết số kiếp như cực vi trần của núi Tu-di, cũng thấy tất cả chư Phật và Bồ-tát xuất hiện trong kiếp ấy. Ở chỗ các Đức Như Lai và Bồ-tát này lắng nghe diệu pháp, nhờ nghe giáo pháp, cho nên liền được môn giải thoát ánh sáng. Pháp giáo hóa điều phục phá tan bóng tối ngu si cho tất cả chúng sinh, do được môn giải thoát này cho nên liền thấy thân của mình ở khắp thế giới bằng số cực vi trần trong mười cõi Phật, cũng thấy các Đức Như Lai có ở trong thế giới ấy, lại thấy chính mình được gần gũi từng vị và thấy tất cả chúng sinh trong thế giới ấy, hiểu ngôn ngữ, căn tánh và biết từ xưa họ đã từng được bạn bè giúp đỡ; rồi tùy theo nhu cầu của họ, mà hiện thân giúp họ vừa tâm, hoan hỷ. Nơi ấy, bấy giờ, ta được giải thoát, tiến triển trong từng niệm, tâm không gián đoạn. Lại thấy thân mình đến khắp thế giới, bằng số cực vi trần trong trăm cõi Phật, tâm ấy cũng không gián đoạn; lại thấy thân mình đi đến khắp thế giới, bằng số cực vi trần trong ngàn Phật sát tâm ấy không gián đoạn, lại thấy thân mình đi đến khắp thế giới nhiều như cực vi trần trong trăm ngàn cõi Phật. Như thế trong từng niệm, từng niệm, cho đến thế giới nhiều như cực vi trần trong không thể nói, không thể nói cõi Phật, ta cũng thấy các Đức Như Lai trong thế giới ấy và cũng thấy bản thân mình ở chỗ Đức Phật ấy, lắng nghe diệu pháp, tiếp nhận ghi nhớ, quán sát thấu triệt; Ta cũng biết các biển bản sự của Đức Phật ấy và các biển đại nguyện. Các Đức Như Lai ấy làm nghiêm tịnh cõi Phật, ta cũng thế. Ta cũng thấy tất cả chúng sinh ở thế giới kia, biết rõ tâm tánh, căn khí, hình thể khác nhau, chủng loại không đồng; tùy theo căn cơ của họ, mà hiện thân giáo hóa điều phục, giúp cho họ được giải thoát.

Thiện nam! Ta chỉ biết mỗi môn giải thoát ánh sáng pháp giáo hóa điều phục phá bóng tối ngu si cho tất cả chúng sinh của Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát; thành tựu vô biên hạnh nguyện của Phổ Hiền; nhập vào khắp tất cả các biển pháp giới; được Tam-muội tự tại tràng trí kim cương của các Bồ-tát; diệu dụng trong thần thông, tâm không còn chướng ngại, phát sinh đại nguyện, duy trì hạt giống Phật, trong từng niệm, làm thành tựu viên mãn tất cả biển đại công đức, làm cho tất cả thế giới rộng lớn sạch đẹp; dùng trí tự tại giáo hóa cho tất cả chúng sinh được thành thục, dùng mặt trời trí tuệ diệt trừ tất cả tối tăm che phủ cho thế gian, dùng trí dũng mãnh đánh thức tất cả chúng sinh ngủ mê, dùng vầng trăng trí tuệ giải tỏa tất cả nghi ngờ của chúng sinh, dùng ý thanh tịnh dứt hẳn tất cả những chấp trước về hữu; ở trong mỗi mỗi hạt bụi trong tất cả pháp giới, đều biểu hiện tất cả thần lực tự tại, mắt trí và vầng trăng sáng thấy được cả ba đời thì ta làm sao có thể biết hết diệu hạnh, nói hết công đức của các vị ấy, nhập cảnh giới và chỉ hết thần thông diệu dụng tự tại của các vị ấy.

Thiện nam! Nơi Bồ-đề đạo tràng, bên bờ Nam sông Hằng, nước Ma-kiệt-đề, thuộc cõi Diêm-phù-đề này, có một vị thần chủ về đêm tên là Phổ Biến Cát Tường Vô Cấu Quang. Thuở xưa ta đã nhờ vị ấy mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề, ngài thường đem diệu pháp để khai ngộ ta. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồtát và tu đạo Bồ-tát?

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, chắp tay, cung kính hướng về Thần chủ về đêm Xuân Hòa, dùng kệ khen ngợi:

Con đang thấy thân Thánh giả thanh tịnh
Sắc tướng xinh đẹp như Diệu Đức
Oai quang siêu vượt hẳn thế gian
Tuyệt vời giống như núi báu chúa.
Thấy Pháp thân ngài đẹp thanh tịnh
Khắp cả ba đời không phân biệt
Nhập khắp tất cả các thế gian
Không lệ thuộc thế gian thành hoại
Nay con quán sát khắp các nẻo
Thấy ngài thị hiện thân khác nhau
Giống như trăng sao trên hư không
Mỗi lỗ chân lông đều thấy cả
Tâm ngài rộng lớn luôn thanh tịnh
Như hư không có ở khắp mười phương
Tất cả chư Phật đều vào ấy
Trí tuệ bình đẳng không phân biệt
Lỗ chân lông trên thân Thánh giả
Nổi mây ánh sáng như bụi trần
Khắp cả cõi Phật trong mười phương
Tuôn mưa các loại báu trang sức
Mỗi lỗ chân lông trên thân ngài
Bằng số chúng sinh ngài hiện thân
Ở trong thế giới khắp mười phương
Phương tiện hóa độ giúp điều phục
Mỗi lỗ chân lông thân Thánh giả
Thị hiện chẳng thể nghĩ bàn cõi.
Tùy theo tâm tất cả chúng sinh
Hiển hiện trang nghiêm giúp thanh tịnh
Chúng sinh nào được thấy thân Thánh giả
Nghe danh cảm mến tâm vui sướng
Được mạng thanh tịnh công đức khéo
Tất sẽ thành tựu đại Bồ-đề
Rơi vào đường ác vô biên kiếp
Luôn luôn chịu đủ vô lượng khổ
Nghe tên nguyện phát tâm hoan hỷ
Các nghiệp phiền não đều tiêu diệt
Trong kiếp vi trần ngàn cõi Phật
Khen ngợi công đức lông thân ngài
Kiếp số vi trần có thể cùng
Công đức thân ngài không cùng tận.
Khi dùng kệ này khen ngợi

Thần chủ về đêm rồi, Đồng tử Thiện Tài đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng, lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

*********

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài, nhiếp tâm tư duy về lời dạy của Dạ thần, hiểu rõ vị ấy từ khi mới phát tâm Bồ-đề của vị ấy thanh tịnh tuyệt đối nên đã phát sinh tạng của Bồ-tát, đã phát nguyện Bồ-tát, đã thanh tịnh các Ba-la-mật Bồ-tát, đã nhập vào các hàng trụ địa của Bồtát, đã tu hạnh Bồ-tát, đã hành đạo xuất ly, thuận theo biển ánh sáng Nhất thiết trí, phát tâm cứu hộ khắp tất cả chúng sinh, nổi mây đại Bi che khắp, đối với cõi giới của chư Phật đến tận đời vị lai vẫn còn có khả năng phát sinh hạnh nguyện của Phổ Hiền; rồi thong thả tiến bước. Đến chỗ vị Thần chủ về đêm ấy, đồng tử đảnh lễ sát chân vị ấy, nhiễu quanh vô số vòng, rồi tới trước chắp tay thưa:

–Bạch Thánh giả! Trước đây con đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề nhưng con chưa biết Bồ-tát làm thế nào để tu hành địa vị Bồ-tát, làm thế nào để phát triển địa vị Bồ-tát, làm thế nào để thành tựu địa vị Bồ-tát?

Thần chủ về đêm đáp:

–Lành thay! Lành thay! Thiện nam! Ông đã có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, mà còn có thể hỏi về các sự tu hành, phát triển, cho đến sự thành tựu của Bồ-tát.

Này thiện nam! Nếu Bồ-tát có đủ mười pháp, thì có thể viên mãn được các hạnh Bồ-tát. Đó là:

  1. Đạt Tam-muội thanh tịnh, thường thấy tất cả các Đức Như Lai trong hiện hữu.
  2. Luôn quán chiếu tướng tốt của tất cả các Đức Như Lai, bằng mắt thanh tịnh.
  3. Dùng trí sâu xa, biết biển cả phước trí của các Đức Như Lai.
  4. Biết biển ánh sáng pháp của vô lượng chư Phật ngang bằng pháp giới.
  5. Biết từ mỗi lỗ chân lông trên thân của các Đức Như Lai phóng biển ánh sáng lớn bằng số chúng sinh, để làm lợi ích cho tất cả.
  6. Thấy biển ánh sáng rực rỡ màu các báu, từ nơi mỗi lỗ chân lông trên thân của các Đức Như Lai phóng ra.
  7. Từng niệm xuất hiện biển biến hóa của Đức Phật, để điều phục chúng sinh khắp cả pháp giới.

8 Đạt được âm thanh của Đức Phật, đồng với biển âm thanh ngôn ngữ của các chúng sinh, có khả năng chuyển bánh xe pháp của chư Phật trong ba đời.

  1. Biết biển vô biên danh hiệu của tất cả các Đức Phật.
  2. Biết oai lực tự tại chẳng thể nghĩ bàn điều phục chúng sinh của các Đức Phật.

Thiện nam! Bồ-tát có đầy đủ mười loại pháp này, thì có thể hành trì viên mãn các hạnh.

Thiện nam! Ta được môn giải thoát của Bồ-tát, tên là pháp môn Dũng mãnh đi khắp với niềm vui Thiền định tịch tĩnh; thấy khắp tất cả chư Phật trong ba đời cũng thấy Đức Phật ấy, dùng Tam-muội và thần thông để làm thanh tịnh cõi nước và chúng hội đạo tràng tương ưng với biển hạnh; đủ các danh hiệu, thuyết pháp tuổi thọ, âm thanh, ngôn ngữ, thân tướng không đồng, đầy cả pháp giới, tất cả đều được thấy rõ và am hiểu sâu sắc; nhưng không có chấp trước, cũng không có đối tượng để nhập. Vì sao? Vì biết các Đức Như Lai cũng chẳng phải đi, bởi các nẻo thế gian đã diệt hẳn; cũng chẳng phải đến, vì thể tánh là vô sinh; cũng chẳng phải sinh, vì Pháp thân bình đẳng; cũng chẳng phải diệt, vì không có tướng sinh; cũng chẳng phải thật, vì trụ các pháp như huyễn; cũng chẳng phải hư, vì làm lợi ích chúng sinh; cũng chẳng phải dời đổi, vì vượt khỏi sinh tử; chẳng phải hoại, vì tánh thường bất biến; phải xa lìa tướng ngôn ngữ, vì vô tướng và tánh tướng vốn đều không.

Thiện nam! Ta biết hết các Đức Như Lai như thế. Lúc ấy, đối với môn giải thoát dũng mãnh đi khắp với niềm vui Thiền định tịch tĩnh của Bồ-tát ta phân biệt rõ ràng, sự tiến triển, thành tựu, quán sát tư duy, trang nghiêm kiên cố, chiếu sáng khắp các cảnh giới, viên mãn rộng lớn sâu xa, tùy thuận trụ vào ngằn mé bình đẳng, không sinh những vọng tưởng phân biệt, bằng đại Bi cứu hộ tất cả chúng sinh, nhất tâm không động. Tu tập Sơ thiền: Dứt các ý nghiệp, nhiếp hóa các chúng sinh, năng lực trí mạnh mẽ, tâm hỷ vui tươi. Tu tập Nhị thiền: Tư duy về tự tánh của tất cả chúng sinh, nhàm chán sinh tử, trụ vào niềm vui Niết-bàn. Tu Tam thiền: Có khả năng dứt hẳn các nổi khổ não của tất cả chúng sinh. Tu Tứ thiền: Phát triển toàn diện nguyện Nhất thiết trí, khéo léo làm phát sinh các biển Tam-muội, nhập môn biển giải thoát của các Bồ-tát, du hý thần thông của tất cả Bồ-tát, thành tựu tất cả sự biến hóa thanh tịnh; bằng trí thanh tịnh nhập khắp pháp giới.

Thiện nam! Khi tu tập môn giải thoát này, ta dùng đủ các phương tiện làm cho tất cả chúng sinh được thành thục. Như: Chúng sinh nào ở tại gia mà tham dục, phóng túng, thì giúp họ tưởng bất tịnh, tưởng không đáng để vui thích, tưởng đáng nhàm chán, tưởng mệt mỏi, tưởng thúc bách, tưởng ràng buộc, tưởng La-sát, tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng không, tưởng vô ngã, tưởng vô chủ, tưởng không được tự tại, tưởng già bệnh chết; để tự họ đối với cảnh dục không còn ham thích; đồng thời cũng khuyên nhủ chúng sinh, không nên đắm say dục lạc, mà nên để tâm đến niềm vui chánh pháp, nên thoát ly gia đình sống không gia đình. Nếu chúng sinh nào sống nơi yên tĩnh, ta sẽ giúp họ dứt trừ các âm thanh không vừa ý. Vào đêm vắng, ta sẽ thuyết giảng giáo pháp sâu xa cho họ, cho họ duyên thuận hạnh, mở cửa xuất gia, chỉ con đường chánh, phóng ra ánh sáng trừ bóng tối cho họ, dứt sợ hãi cho họ, tán dương việc xuất gia, ca ngợi công đức tràn đầy của Tam bảo và Thiện tri thức; đồng thời cũng ca ngợi hạnh gần gũi phụng sự cúng dường Thiện tri thức.

Thiện nam! Khi ta tu môn giải thoát như thế; Ta đồng thời cũng giúp cho các chúng sinh xa hẳn tham lam phi pháp, bỏ phân biệt tà vạy; giúp cho người chưa làm điều ác không làm điều ác, người đã làm thì đình chỉ; người vọng tưởng cõi không thể chuyển hóa, chưa sinh các thiện pháp, chưa tu Ba-la-mật, chưa cầu Nhất thiết trí, chưa phát nguyện thù thắng, chưa phát đại Từ bi, chưa tạo nghiệp trời người ta đều giúp cho họ được phát sinh. Người phát sinh rồi ta làm cho tăng trưởng. Ta trao những nhân duyên thuận với đạo như thế, cho đến giúp họ được thành tựu trí Nhất thiết trí.

Thiện nam! Ta chỉ được môn giải thoát dũng mãnh đi khắp với niềm vui Thiền định tịch tĩnh của Bồ-tát này thôi. Còn như các Đại Bồ-tát có đầy đủ những hạnh nguyện của Phổ Hiền, thông đạt hết vô biên pháp giới, thường có khả năng làm tăng trưởng tất cả thiện căn, thấu triệt trí lực của các Đức Như Lai, an trụ nơi cõi giới của các Đức Như Lai, luôn ở nơi sinh tử, tâm không bị chướng ngại, có khả năng nhanh chóng làm trọn vẹn nguyện Nhất thiết trí, có khả năng đến khắp tất cả biển cõi, có khả năng nhìn thấy tất cả biển Phật, có khả năng lắng nghe và giữ gìn tất cả mây pháp, có khả năng phá tan tối tăm của tất cả chúng sinh, có khả năng phát sinh tất cả ánh sáng trí tuệ ngay trong đêm dài sinh tử thì ta làm sao có thể biết và nói hết công đức cùng hạnh nguyện của các vị ấy.

Thiện nam! Cách đây không xa, bên phải của cội Bồ-đề đạo tràng, có một vị thần chủ về đêm, tên là Hỷ Mục Quán Sát Nhất Thiết Chúng Sinh. Ông đến thỉnh vấn vị ấy: Bồ-tát làm thế nào để học hạnh Bồ-tát và tu đạo Bồ-tát.

Khi ấy, vì muốn nói lại môn giải thoát này, nên Dạ thần Phổ Biến Cát Tường Vô Cấu Quang nói kệ cho Đồng tử Thiện Tài:

Tất cả Đức Như Lai ba đời
Đều vì tín tâm mà xuất hiện
Nếu được mắt rộng lớn sáng ngời
Thì được thấy khắp biển chư Phật
Ông quán thân chư Phật vô cấu
Tướng tốt xinh đẹp rất thanh tịnh
Đều ngồi trong chúng hội đạo tràng
Thị hiện thần thông ở khắp nơi
Đức Thiện Thệ Tỳ-lô-giá-na
Hàng phục ma thành Phật dưới Bồ-đề
Tùy theo tâm tất cả chúng sinh.
Chuyển xe đại pháp khắp pháp giới
Phật chứng chân pháp tánh sâu xa
Pháp thể tịch tĩnh không sai khác
Sắc thân thanh tịnh thật đẹp đẽ
Hiện khắp chúng sinh không cùng tận
Thân Phật rộng lớn bất tư nghì
Khắp cả pháp giới không cùng tận
Bình đẳng hiện khắp ở mười phương
Trong tất cả cõi đều được thấy
Hào quang chư Phật thường biến mãn
Chiếu khắp tất cả vi trần cõi
Ánh sáng đan chéo vô biên sắc
Mỗi mỗi tròn vẹn khắp pháp giới
Chân lông Như Lai nổi mây sáng
Rộng lớn khó lường không cùng tận
Chiếu khắp tất cả tâm chúng sinh
Giúp họ trừ diệt hết phiền não
Chân lông Như Lai nổi mây hóa
Mỗi mỗi thần thông không thể lường
Điều phục tất cả các chúng sinh
Tất cả nỗi khổ đều trừ diệt
Giọng Như Lai tròn đầy rộng lớn
Thanh quang phát ra biển ngôn từ
Tuôn mưa đại pháp khắp chúng sinh
Giúp cho họ hiểu tánh Bồ-đề
Phật xưa trong vô biên biển kiếp
Hộ trì cho ta tu các hạnh
Nay giúp ta được thấy Như Lai
Ảnh hiện các biển cõi mười phương
Như Lai hiện thân khắp thế gian
Bằng với số tất cả chúng sinh
Cõi giới sâu xa khó nhập
Đó cũng chẳng phải trí ta biết được
Các Bồ-tát đủ đại oai đức
Vào trong chân lông Đức Thiện Thệ
Cõi giải thoát chẳng thể tư nghì
Ta không thể biết trí chư Phật
Ở gần đây có vị Dạ thần
Tên Tinh Tú Quang Đại Hỷ Mục
Ông đến thỉnh vấn sự tu hành
Ngài sẽ truyền ông đạo Bồ-đề.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài, đảnh lễ sát chân vị Dạ thần, nhiễu quanh vô số vòng, chiêm ngưỡng lưu luyến, rồi từ giã ra đi.

Khi cung kính tùy thuận và phụng mệnh làm theo lời dạy của Thiện tri thức, Đồng tử Thiện Tài nghĩ: “Bậc Thiện tri thức khó thấy khó gặp. Nhờ thấy được Thiện tri thức nên tâm suy nghĩ không bị tán loạn; nhờ thấy Thiện tri thức, nên phá được núi phiền não và chướng ngại; nhờ thấy Thiện tri thức, nên có khả năng nhập biển đại Bi cứu hộ chúng sinh, nhờ thấy Thiện tri thức, nên được ánh sáng trí tuệ chiếu khắp pháp giới; nhờ thấy Thiện tri thức, nên có khả năng tu hành đạo Nhất thiết trí; nhờ thấy Thiện tri thức, nên có khả năng thấy biển Phật khắp mười phương; nhờ thấy Thiện tri thức, nên được thấy các Đức Phật chuyển bánh xe chánh pháp; mình ghi nhớ hết không bỏ sót”. Nghĩ thế rồi, đồng tử muốn đến ngay chỗ Thần chủ về đêm Hỷ Mục Quán Sát Nhất Thiết Chúng Sinh. Cùng Lúc ấy, thần Hỷ Mục dùng sức oai thần, bảo hộ Đồng tử Thiện Tài, giúp cho ông biết rằng thân cận Thiện tri thức, có thể sinh thiện căn và phát triển thành thục. Nghĩa là làm cho ông biết rằng thân cận Thiện tri thức, có thể tu tập đủ các trợ đạo; biết thân cận Thiện tri thức, có thể phát tâm dũng mãnh; biết thân cận Thiện tri thức, có thể tạo sự nghiệp khó bị hoại; biết thân cận Thiện tri thức có thể được năng lực kiên cố; biết thân cận Thiện tri thức, có thể nhập khắp vô biên phương; biết thân cận Thiện tri thức, có thể tu hành bền bỉ; biết thân cận Thiện tri thức, có thể hoàn tất vô biên sự nghiệp; biết thân cận Thiện tri thức, có thể thực hành vô lượng đạo; biết thân cận Thiện tri thức, có thể được năng lực nhanh chóng đến khắp các cõi; biết thân cận Thiện tri thức, có thể không rời chỗ ở, mà vẫn đi khắp mười phương.

Lúc ấy, Đồng tử Thiện Tài lại nghĩ: “Nhờ thân cận Thiện tri thức, nên có thể dũng mãnh tu tập đạo Nhất thiết trí; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có thể nhanh chóng phát sinh các biển đại nguyện; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có thể làm lợi ích cho tất cả chúng sinh chịu vô biên khổ tận kiếp vị lai; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có thể mặc áo giáp tinh tấn dũng mãnh thuyết pháp nơi một cực vi mà giọng nói vang khắp pháp giới; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có khả năng nhanh chóng đi đến khắp các biển trong mười phương; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có thể tu hạnh Bồtát, đến tận đời vị lai, bằng đường ngắn như một sợi lông; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên trong từng niệm ta có thể thực hiện hạnh Bồtát và an trụ trọn vẹn vào địa vị Nhất thiết trí; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có khả năng nhập vào đạo trang nghiêm và thần lực tự tại của tất cả Như Lai trong ba đời; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên dù ta luôn nương vào pháp giới chưa từng rời khỏi nhưng có thể đi khắp vô biên cõi nước; nhờ thân cận Thiện tri thức, nên ta có khả năng nhập khắp môn tịnh pháp giới, tách rời ý tưởng quá khứ và vị lai, để đến khắp mười phương. Nghĩ như thế rồi, Đồng tử Thiện Tài liền đi đến chỗ Thần chủ về đêm Hỷ Mục và trông thấy vị ấy, ngồi nơi tòa Sư tử liên hoa, ở trong đạo tràng hội chúng của Đức Như Lai, nhập vào môn giải thoát tràng vô cấu, nhanh chóng tỏa niềm vui khắp; mỗi lỗ chân lông trên thân vị ấy, xuất hiện vô số loại mây hóa thân, để tùy theo căn cơ, mà ngài dùng lời vi diệu, thuyết pháp nhiếp hóa, khắp vô lượng chúng sinh, giúp cho tất cả đều hoan hỷ và lợi ích. Nghĩa là nổi vô lượng mây hóa thân làm đầy khắp tất cả thế giới trong mười phương, thuyết về các Bồ-tát hành Ba-la-mật cung cấp cho khắp tất cả chúng sinh không hề luyến tiếc, giúp cho tất cả chúng sinh đều cùng thực hành bố thí. Pháp giới chỉ có một tướng tâm ấy bình đẳng, cúng dường phụng sự không khinh mạn, trong ngoài đều bố thí, phải tập bỏ những thứ khó bỏ. Cũng từ mỗi lỗ chân lông lại xuất hiện ra vô lượng mây hóa thân ngang bằng với số chúng sinh đầy cả pháp giới, hiện khắp trước các chúng sinh; thuyết về thọ trì tịnh giới không bị hủy phạm và tu các khổ hạnh đều được viên mãn; đối với thế gian không có sự nương tựa, đối với các cõi giới không có gì say đắm, thuyết về sự xoay vần của sinh tử luân hồi; thuyết về các sự khổ, vui, thạnh, suy, của trời người; thuyết về các cõi giới đều bất tịnh; thuyết các pháp hữu vi đều vô thường; thuyết các pháp hữu lậu đều khổ và không có vị ngọt; thuyết tất cả các pháp đều không, vô ngã; làm cho các chúng sinh bỏ hẳn ý tưởng sai lầm điên đảo, an trụ vào cõi giới của Đức Như Lai thấu triệt thường, lạc, ngã, tịnh, bất tư nghì; trì giới của Như Lai một cách chân thật tuyệt đối; diễn thuyết đủ các giới hạnh như thế, hương giới đượm nhuần làm cho các chúng sinh đều được thành thục.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện đủ các loại mây thân bằng với số chúng sinh; hoặc thuyết giảng về khả năng nhẫn chịu tất cả các khổ như: Cắt, xả, đánh đập, chửi mắng, mạt sát; nhưng tâm vị ấy vẫn thản nhiên, không phẫn nộ, an nhiên tiếp nhận suy nghĩ kỹ lưỡng, không đọng không loạn trong tất cả các việc làm; không có hèn hạ cũng không có cao ngạo, không sinh ngã mạn với các chúng sinh, quán sát sâu sắc về các pháp tánh. Hoặc thuyết về tâm Bồ-đề không cùng tận, vì tâm không tận nên trí cũng không tận, cắt đứt hết phiền não của các chúng sinh. Hoặc thuyết về thân không đầy đủ, xấu xa bần tiện, hình tướng thô bỉ, làm cho họ sinh tâm nhàm chán, tìm cách trừ bỏ; bên cạnh những nhân như thế lại khen ngợi thân vô thượng, xinh đẹp, thanh tịnh, của các Đức Như Lai, giúp cho họ vui vẻ. Làm thành thục chúng sinh bằng những phương tiện như thế.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện mây thân đủ các loại bằng với số chúng sinh, rồi tùy theo sở thích chúng sinh mà thuyết về sự tinh tấn dũng mãnh tu pháp trợ đạo Nhất thiết trí, tinh tấn dũng mãnh dập tắt ma oán, tinh tấn dũng mãnh phát tâm Bồ-đề bất thoái bất động, tinh tấn dũng mãnh độ các chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử, tinh tấn dũng mãnh trừ diệt tất cả các nạn về đường ác, tinh tấn dũng mãnh dùng sức trí tuệ phá núi vô trí, tinh tấn dũng mãnh phụng sự cúng dường các Đức Như Lai tâm không nhàm chán, tinh tấn dũng mãnh thọ trì pháp luân của tất cả chư Phật không thiếu sót, tinh tấn dũng mãnh phá tan tất cả các núi phiền não sâu nặng hết sức chướng ngại, tinh tấn dũng mãnh giáo hóa làm thành thục tất cả chúng sinh, tinh tấn dũng mãnh làm trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, làm thuần thục chúng sinh bằng những phương tiện như thế.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện vô lượng mây thân bằng với số chúng sinh; rồi dùng mọi phương tiện giúp cho các chúng sinh, diệt trừ ưu buồn, thương tiếc, khổ não, tâm hoan hỷ, dứt bỏ ý xấu, nhàm chán các dục; rồi giảng về đức tánh hỗ thẹn giúp cho chúng sinh tích chứa các thiện căn, hoặc thuyết về phạm hạnh thanh tịnh tuyệt đối; hoặc thuyết các dục là cõi giới của ma, làm cho họ khiếp sợ hiện cảnh, không thích dục lạc của thế gian, an trụ pháp Alan-nhã, tiếp nhận niềm vui của chánh pháp. Theo thứ tự mà nhập vào niềm vui từ các Tam-muội của pháp thiền định, giúp họ tư duy quán sát, diệt trừ tất cả phiền não đã có, khen ngợi tính tình, chỉ bày sự vô sinh. Lại diễn thuyết các biển Tam-muội của tất cả Bồ-tát thần lực biến hiện, tự tại dạo khắp; làm cho các chúng sinh vui vẻ thích thú, rời xa nỗi hoang mang sợ hãi, khiến tâm họ thanh tịnh, tính tình thuần thục, các căn bén nhạy, có khả năng tiếp nhận và thọ dụng, quý trọng giáo pháp, tu tập tiến triển. Thành tựu chúng sinh bằng những phương tiện như thế.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện đủ loại mây thân, bằng số chúng sinh, để giảng cho họ về việc đi đến tất cả cõi Phật thân cận phụng sự cúng dường các Đức Phật, cho đến sư trưởng, chân Thiện tri thức, thọ trì tất cả xe giáo pháp của chư Phật, lại diễn thuyết và khen ngợi tất cả biển Như Lai, quán sát tất cả biển pháp môn, chỉ bày tánh và tướng của tất cả các pháp, khuếch trương tất cả các môn Tam-muội, chiếu sáng cõi giới trí tuệ, làm khô biển nghi của tất cả chúng sinh, để chỉ rõ trí Kim cương, hủy hoại núi tà kiến, cất cao vầng mặt trời tuệ, xóa tan các bóng tối; giúp cho tất cả đều hoan hỷ và thành Nhất thiết trí.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện đủ các loại mây thân, bằng số chúng sinh, hiện đủ những sắc tướng, đủ các hình dáng và thân bất tư nghì, để đến trước tất cả chúng sinh, rồi tùy theo căn cơ của họ mà dùng đủ các ngôn ngữ và phương thức dạy bảo để thuyết pháp cho họ hoặc nói về phước lực và thần thông của thế gian; hoặc nói ba cõi đều đáng sợ, làm cho họ không tạo hạnh nghiệp của thế gian, tránh xa ba cõi, ra khỏi rừng già kiến chấp; hoặc khen ngợi đạo Nhất thiết trí, giúp họ vượt khỏi tất cả hàng Thanh văn và Bích-chiphật; hoặc diễn thuyết không trụ vào sinh tử, không dừng ở Niết-bàn, giúp cho họ không thiên về hữu vi hoặc vô vi, không vui buồn khi được kính trọng hoặc bị xem thường; hoặc diễn nói về việc khi còn ở thiên cung cho đến lúc ngồi nơi đạo tràng thành Đẳng chánh giác làm cho họ thích phát tâm Bồ-đề, chỉ bày môn phương tiện quyền xảo Bala-mật như thế, để giáo hóa cho tất cả chúng sinh được thành thục và giúp họ đạt được Nhất thiết trí tuyệt đối.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện đủ các loại mây thân bằng số cực vi trần trong tất cả thế giới, hiện trước tất cả chúng sinh, trong từng niệm hiện rõ tất cả hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, trong từng niệm hiện rõ đại nguyện thanh tịnh đầy khắp pháp giới, trong từng niệm hiện làm trang nghiêm thanh tịnh tất cả biển thế giới, từng niệm hiện sự cúng dường cho tất cả biển Như Lai, trong từng niệm hiện ra sự nhập vào tất cả biển pháp môn, trong từng niệm hiện ra sự nhập vào biển thế giới nhiều như cực vi trần trong tất cả biển cõi, trong từng niệm hiện rõ sự tu hành đạo Nhất thiết trí thanh tịnh trong tất cả cõi tận kiếp vị lai, từng niệm hiện ra sự nhập vào năng lực các Đức Như Lai khắp mười phương, từng niệm biểu hiện sự nhập tất cả biển phương tiện trong ba đời, trong từng niệm biểu hiện việc đi đến tất cả cõi, hiện đủ các thần thông biến hóa tự tại, trong từng niệm biểu hiện đủ các hạnh nguyện của tất cả Bồ-tát. Biểu hiện những nguyện Ba-la-mật như thế, giúp cho các chúng sinh an trụ vào Nhất thiết trí và những việc làm như thế nối tiếp không ngừng.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện mây thân biến hóa bằng đủ các loại tâm của tất cả chúng sinh; đến trước tất cả chúng sinh, thuyết về sự tích tập pháp trợ đạo Nhất thiết trí của các Bồ-tát đó là: Năng lực vô biên tế, năng lực không bị phá hoại; năng lực không cùng tận; năng lực tu hạnh vô thượng, không còn thoái chuyển; năng lực không gián đoạn; năng lực không còn đắm nhiễm pháp sinh tử; năng lực có khả năng phá tất cả ma quân; năng lực tránh xa tất cả bụi cấu phiền não; năng lực có khả năng phá tất cả núi nghiệp chướng; năng lực trụ tất cả kiếp tu hạnh đại Bi không biết mỏi mệt; năng lực làm chấn động tất cả cõi của các Đức Phật làm cho các chúng sinh hoan hỷ; năng lực chuyển pháp luân khắp cả thế gian. Dùng những năng lực Ba-la-mật như thế-làm phương tiện để thành thục cho các chúng sinh đạt đến Nhất thiết trí.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện mây thân biến hóa, với đủ các sắc tướng, ngang bằng với các loại tâm khác nhau của tất cả chúng sinh, đến khắp vô lượng thế giới trong mười phương; rồi tùy theo tâm của chúng sinh mà diễn thuyết về tất cả trí và hạnh của Bồtát. Đó là thuyết về trí nhập nơi biển thế giới của tất cả chúng sinh, thuyết về trí nhập vào biển tâm của tất cả chúng sinh; thuyết về trí nhập vào biển căn của tất cả chúng sinh; thuyết về trí nhập vào biển hạnh của tất cả chúng sinh; thuyết về trí hóa độ, điều phục và làm thành thục tất cả chúng sinh, chưa từng lỡ dịp; thuyết về trí phát ra âm thanh khắp cả pháp giới, thuyết về trí trong từng niệm có ở khắp cả biển pháp giới; thuyết về trí trong từng niệm biết tất cả biển thế giới bị hoại diệt, thuyết về trí trong từng niệm biết tất cả biển thế giới, thành trụ trang nghiêm hình tướng khác nhau, thuyết về trí trong từng niệm, bằng thần thông tự tại thân cận cúng dường các Đức Như Lai và tiếp nhận chánh pháp. Biểu hiện trí Ba-la-mật như thế, làm cho các chúng sinh vui mừng, phấn khởi, thích thú, tâm họ tịch tĩnh, sinh ra hiểu biết rõ ràng để cầu Nhất thiết trí không còn thoái chuyển; như thuyết về Ba-la-mật của Bồ-tát với những cách điều phục và làm thành thục chúng sinh, trong mọi thời gian, thuận theo đủ các tâm, biết đủ các căn tánh, làm cho họ bén nhạy, có thể đảm nhận sự việc, có thể sinh năng lực yêu thích và tin hiểu chắc chắn vào Nhất thiết trí một cách trọn vẹn tuyệt đối. Tuyên thuyết đủ các pháp hành của tất cả Bồ-tát, để làm cho chúng sinh lợi ích và thành thục.

Cũng từ nơi mỗi lỗ chân lông, lại xuất hiện cõi tu tập công đức từ lúc mới phát tâm của vị Dạ thần. Như phụng sự các bậc Thiện tri thức; thân cận các Đức Phật; tu tập thiện pháp. Hành Bố thí ba-la-mật, dứt bỏ những thứ khó bỏ hành trì Giới ba-la-mật, bỏ ngôi vua giàu sang tự tại, cung điện quyến thuộc, xuất gia học đạo, bằng tâm tăng thượng. Hành Nhẫn nhục ba-la-mật, có thể nhẫn chịu đủ các nỗi khổ, những việc khó thực hiện của thế gian, cho đến sự thanh tịnh trọn vẹn của Bồ-tát, việc tu khổ hạnh, việc hộ trì chánh pháp tất cả đều vững chắc, nhưng tâm ấy không động, cũng có khả năng nhẫn chịu, tất cả chúng sinh nói ác, làm ác, đối với bản thân mình; nhẫn với tất cả sự nghiệp là không để hoại mất; nhẫn với tất cả pháp là niềm tin mạnh mẽ trọn vẹn, hiểu rõ sự thật; nhẫn các pháp tánh là có thể tư duy chắc chắn không có phân biệt. Hành Tinh tấn ba-la-mật là phát sinh hạnh Nhất thiết trí, thành tựu tất cả Phật pháp, thành thục cho toàn thể mà không bị thoái chuyển. Hành Thiền định ba-la-mật là thanh tịnh tuyệt đối người hành Thiền ba-la-mật ấy, có những vật dụng riêng, phải có sự chuyên cần khẩn cầu, sự tu hành, sự thành tựu, sự thanh tịnh, sự phát sinh Tam-muội và thần thông trọn vẹn; việc nhập vào môn biển Tam-muội đều được hiện rõ. Hành Trí tuệ ba-la-mật, tâm không chấp trước; người hành Trí tuệ ba-la-mật ấy, có những vật dụng riêng như mặt trời đại trí tuệ thanh tịnh, mây đại trí tuệ, kho đại trí tuệ, biển đại trí tuệ, hạnh đại trí tuệ, cửa đại trí tuệ, tất cả đều hiện rõ. Lại thị hiện sự tu hành môn Phương tiện ba-la-mật, người hành môn phương tiện ấy có vật dụng riêng có tu hành, có thể tánh, có lý thú, có thanh tịnh, có sự tương ưng tất cả đều hiện rõ. Hành Nguyện ba-la-mật, người hành hạnh nguyện này có thể tánh, có thành tựu, có tu tập, có khế hợp các việc, tất cả đều hiện rõ. Hành Lực ba-la-mật, người hành Lực bala-mật ấy có vật dụng riêng, có nhân duyên, có lý thú, có diễn thuyết và có sự khế hợp các việc, tất cả đều hiện rõ. Hành Trí ba-la-mật, người hành trí ấy, có vật dụng riêng, có thể tánh, có tu hành, có thành tựu, có phát sinh, có thanh tịnh, có xứ sở, có tăng trưởng, có thâm nhập, có ánh sáng, có biểu hiện, có lý thú, có sự khế hợp các việc, có khả năng giảng trạch, có các hành tướng, có pháp tương ưng, có pháp nhiếp hóa, biết pháp, biết nghiệp, biết cõi, biết kiếp, biết đời, biết Phật xuất hiện, biết Phật, biết Bồ-tát, biết tâm Bồ-tát, quả vị của Bồtát, vật dụng riêng của Bồ-tát, sự hướng đến của Bồ-tát, sự hồi hướng của Bồ-tát, việc làm của Bồ-tát, đại nguyện của Bồ-tát, xe pháp của Bồ-tát, sự thanh lọc của Bồ-tát, biển pháp của Bồ-tát, biển pháp môn của Bồ-tát, dòng nước pháp của Bồ-tát, kho pháp ngầm của Bồ-tát, pháp lý thú của Bồ-tát, tất cả những cõi giới khế hợp với Trí ba-la-mật như thế đều hiện rõ. Từ mỗi lỗ chân lông, trên thân vị Thần chủ về đêm ấy đều hiện đầy đủ mười độ như thế, để giáo hóa và làm thành thục tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Đồng tử Thiện Tài lại thấy nơi mỗi lỗ chân lông trên thân của thần chủ Dạ Hỷ Mục Quán Sát Nhất Thiết Chúng Sinh, xuất hiện vô lượng mây thân tương tự hình tướng chúng sinh. Như xuất hiện mây tương tự thân trời Sắc cứu cánh, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Vô nhiệt, trời Vô phiền. Xuất hiện mây tương tự thân trời Quảng quả, trời Phước sinh, trời Vô vân. Xuất hiện mây tương tự thân trời Biến tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Thiểu tịnh. Xuất hiện mây tương tự thân trời Cực quang tịnh, trời Vô lượng quang, trời Thiểu quang. Xuất hiện mây tương tự thân trời Đại phạm, trời Phạm phụ, trời Phạm chúng. Xuất hiện mây tương tự thân trời Tha hóa tự tại, trời Hóa lạc, trời Đâu-suất, trời Tu-dạ-ma, trời Đao-lợi, tất cả vua trời, thể nữ và các Thiên tử như thế. Xuất hiện mây tương tự thân Đề-đầu-lại-tra, vua Càn-thát-bà, nữ Càn-thát-bà, con Càn-thát-bà. Xuất hiện mây tương tự thân vua Cưu-bàn-trà Tỳ-lâu-lặc-xoa, nữ Cưu-bàn-trà, con Cưubàn-trà. Xuất hiện mây tương tự thân Long vương Ty-lâu-bát-xoa, Long nữ và Long tử. Xuất hiện mây tương tự thân vua Dạ-xoa Tỳ-samôn, nữ Dạ-xoa và con Dạ-xoa. Xuất hiện mây tương tự như thân vua Khẩn-na-la đại thọ, nữ Khẩn-na-la và con Khẩn-na-la. Xuất hiện mây tương tự như thân vua Ma-hầu-la-già diệu trí, nữ Ma-hầu-la-già và con Ma-hầu-la-già. Xuất hiện mây tương tự thân vua Ca-lầu-la đại thế tốc tật lực, nữ Ca-lầu-la và con Ca-lầu-la. Xuất hiện mây tương tự thân vua A-tu-la La-hầu, nữ A-tu-la và con A-tu-la. Xuất hiện mây tương tự thân vua Diêm-la pháp, nữ Diêm-la vương và con Diêm-la vương. Xuất hiện mây tương tự thân các vị vua, phu nhân, hoàng tử và công chúa. Xuất hiện đủ các loại mây thân trong các đường như thế. Xuất hiện mây có các tướng tương tự thân các hàng Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và chư Phật. Xuất hiện thân tương tự thân của tất cả thần đất, thần nước, thần lửa, thần gió, thần sông, thần biển, thần núi, thần rừng, thần chủ lúa, thần chủ thuốc, thần chủ cây, thần chủ đất, thần chủ thành, thần chủ ngày, thần chủ đêm, thần chủ không, thần chủ phương, thần chủ chúng, thần túc hành, thần chủ đạo tràng, cho đến thần chấp Kim cương, khắp mười phương đầy cả pháp giới. Hiện trước tất cả chúng sinh, với đủ các âm thanh. Đó là tiếng phong luân, tiếng thủy luân, tiếng lửa cháy, tiếng nước biển dâng, tiếng động đất, tiếng núi va chạm, tiếng thiên thành chấn động, tiếng Ma-ni chạm nhau, tiếng Thiên vương, tiếng Long vương, tiếng Dạ-xoa vương, tiếng Cànthát-bà vương, tiếng A-tu-la vương, tiếng Ca-lầu-la vương, tiếng Khẩn-na-la vương, tiếng Ma-hầu-la-già vương, tiếng nhân vương, tiếng Phạm vương, tiếng Thiên nữ ca vịnh, tiếng âm nhạc của chư Thiên, tiếng Ma-ni bảo vương, tiếng Thanh văn, tiếng Độc giác, tiếng Bồ-tát. Dùng các âm thanh như thế để diễn thuyết về sự tuần tự và liên tục tích tập công đức của thần chủ Dạ Hỷ Mục Quán Sát Chúng Sinh kể từ khi mới phát tâm; sự tuần tự và liên tục tu tập thiện căn, sự tuần tự và liên tục phát tâm Bồ-đề; sự tuần tự và liên tục tu vô lượng Ba-la-mật; sự tuần tự và liên tục chết chỗ này sinh nơi kia và danh hiệu của vị ấy; sự tuần tự và liên tục thân cận bạn bè và phụng sự các Đức Phật; sự tuần tự và liên tục chấp nhận các loại xe pháp của các Đức Như Lai, sự tuần tự và liên tục thọ trì chánh pháp, sự tuần tự và liên tục tu hạnh Bồ-tát; sự tuần tự và liên tục nhập các Tam-muội, sự tuần tự và liên tục dùng năng lực Tam-muội thấy các Đức Phật; sự tuần tự và liên tục thấy khắp các cõi; sự tuần tự và liên tục biết hết các kiếp; sự tuần tự và liên tục thâm nhập pháp giới; sự tuần tự và liên tục quán sát chúng sinh, sự tuần tự và liên tục nhập biển giáo pháp; sự tuần tự và liên tục biết các chúng sinh sinh nơi này tử nơi kia; được Thiên nhĩ thanh tịnh, nên tuần tự và liên tục nghe tất cả âm thanh, đủ các biện tài và tùy thuận tư duy, được Thiên nhãn thanh tịnh, nên tuần tự và liên tục thấy tất cả màu sắc, đủ các loại hình tướng và khéo léo, được Tha tâm trí nên tuần tự và liên tục biết tâm của chúng sinh, được túc trụ trí, nên tuần tự và liên tục biết tất cả sự việc trong đời trước; được thần túc trí thông tự tại bất tư nghì không nương tựa, không tạo tác, nên tuần tự và liên tục đi khắp các cõi trong mười phương; được pháp giải thoát khác nhau của Bồ-tát, nhập biển giáo pháp giải thoát chẳng thể nghĩ bàn của Bồ-tát, an trụ nơi tâm tưởng của Bồ-tát; được Du Bộ dũng mãnh của Bồ-tát, an trụ nơi tâm tướng của Bồ-tát; làm quyến thuộc của Bồ-tát, gia nhập vào đạo tràng của Bồ-tát, tuần tự và liên tục có những công đức như thế tất cả đều diễn thuyết, hiện rõ và phân biệt, để thành tựu chúng sinh. Trong từng niệm ngay lúc diễn thuyết như thế có vô lượng vô lượng cõi của chư Phật khắp mười phương, đều được làm cho thanh tịnh trang nghiêm và độ thoát vô lượng chúng sinh nơi đường ác; giúp cho vô lượng chúng sinh sinh vào cõi trời, cõi người, giàu sang nhàn nhã; làm cho vô lượng chúng sinh thoát khỏi biển sinh tử; làm cho vô lượng chúng sinh an trụ vào hàng Thanh văn và Bích-chi-phật; làm cho vô lượng chúng sinh được pháp môn của Bồ-tát; làm cho vô lượng chúng sinh trụ ở hàng trí của Như Lai.

 

Xin xem tiếp trang 05

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8