ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH SỚ

Đời Nguyên,Viện Sùng Thánh Sa-môn Sư Chánh thuộc tông Thiên Thai soạn thuật.

PHẨM 24: CA-DIẾP 

PHẦN 1

Vì đầu tiên đã khéo nêu lên các câu hỏi, nay muốn cho lúc cuối cùng cũng khéo léo như thế, nên lại phải nêu câu hỏi. Ở trước thuận theo nghĩa mà đặt tên phẩm, cho nên gọi là phẩm Ca-diếp. Ngài Cadiếp thì như trước đã nói.

Khai Thiện cho phẩm này là trả lời câu hỏi về tánh an vui ở trước. Các sư Địa Luận thì cho đây là Từ quang thiện xảo trụ trì phần. Hà Tây và Hưng Hoàng đều cho đây là môn Phật tánh. Còn ở đây cho là phần thứ năm nói về Dụng của Niết-bàn. Kinh này từ đầu đến cuối đều nói về Phật tánh, phẩm này có gì khác với phẩm trước? Xin nêu lên năm điểm khác nhau:

1/ Nghĩa Dụng khác nhau: Phẩm trước nói nghĩa Phật tánh Trung đạo là hạt giống Bồ-đề, phẩm này nói về dụng cao quý của Phật tánh có công năng nhiếp phục Nhất-xiển-đề cực ác và ngoại đạo tà chấp.

2/ Nhân quả khác nhau: Phẩm trước nói về Nhân tánh trụ ở nhân, chẳng ở quả; quả tánh quả quả tánh trụ ở quả, chẳng ở nhân; phẩm này nói tất cả các ấm ác đều là Phật tánh, đó tức là nhân tánh, từ năm ấm ác mà sinh ra năm ấm thiện, tức là quả tánh. Lại nói rằng Phật tánh có ba đời. Xưa nay có người giải thích quả tánh chung cho ba đời là Ứng thân Phật tánh, chẳng thông với ba đời là Pháp thân Phật tánh, nghĩa này chẳng đúng, chỉ nói về quả tánh chung cho nhân quả, đâu cần phân biệt pháp thân và Ứng thân. Nếu Phật tánh của năm ấm thiện chung cho nhân quả, thì Phật tánh trong nhân thuộc về ba đời, Phật tánh trong quả chẳng thuộc ba đời.

3/ Là khai hợp khác nhau: Phẩm trước nói sông sinh tử hợp với nhân quả mà lìa ba Thừa; phẩm này nói sông Niết-bàn lìa bốn quả mà hợp với Ba Thừa.

4/ Là chung riêng khác nhau: Phẩm trước là nói chung năm loại Phật tánh, trời người sáu đường đều có Phật tánh. Phẩm này chỉ nói về chánh nhân Phật tánh, do chánh nhân mà Xiển-đề lại sinh ra gốc thiện. Phẩm trước chỉ y cứ theo muôn điều thiện là liễu nhân Phật tánh; phẩm này y cứ theo cả thiện và ác, đều là Phật tánh. Vì thế nói người gốc thiện có, Nhất-xiển-đề không có, người xiển-đề có, người gốc thiện không có.

Năm, phẩm trước đối bảo với một người, phẩm này đối bảo với Ca-diếp. Chỗ sai khác rất nhiều.

Toàn phẩm chia làm hai:

1/ Nhiếp ác

2/ Nhiếp tà

– Trong nhiếp ác lại có hai:

1/ Nói về dụng của Phật tánh.

2/ Khen ngợi kinh.

– Nói về dụng lại có hai:

1/ Nói về dứt gốc thiện.

2/ Nói về sinh điều thiện. Vì năng lực luống dối nên cắt đứt điều thiện, nhờ sức Phật tánh nên sinh ra điều thiện. Xưa cho rằng hai người làm ác và sinh điều thiện đắp đổi nhau, nhưng không liên quan. Có sư lại cho rằng chỉ có một người, lúc trước do điên đảo nên khởi ác, sau gặp bạn tốt nên sinh ra điều thiện.

Nay cho rằng các thuyết đều chẳng đúng, hoặc có thể là một người, có thể là nhiều người, như bảy hạng người bên sông Hằng tức là nhiều người. Nếu là một người thì từ mới chìm cho đến thành Phật chỉ là một người. Xưa cho rằng sinh điều thiện có nghĩa là tiếp thức, nghĩa là chúng sinh từ hang vô minh thức ở giới ngoại, mới khởi một phẩm vô minh, chưa khởi bốn trụ, nếu có Phật tiếp dẫn đi thì liền được thành Phật. Nghĩa này rất chướng ngại, dầu có kinh này nhưng cũng là nhất thời đổi ác làm duyên, nếu không có kinh này thì hoàn toàn không thể y cứ. Nếu nói phải khởi năm trụ rồi mới có thể bỏ ác làm thiện, thì cũng không có một kinh nào nhất định nói như thế, dẫu có kinh này thì cũng là nhất thời làm duyên mà thôi. Nếu thế thì mặc tình khởi cực ác rồi tự do “bị tiếp”, đâu cần phải tu đạo, chẳng khác gì với việc trải qua tám muôn kiếp đắc đạo? Nếu nói từ hang thức mà đến, tức từ vô minh mà ra, sao lại nói mới khởi một phẩm vô minh? Nếu chưa khởi hoặc thì lẽ ra nên sinh vào một nơi khác; nếu từ trong hang vô minh mà ra, mới khởi một phẩm mà bị tiếp, thì sau khi khởi các phẩm khác cho đến bốn trụ, vì sao lại không bị tiếp? Cho nên thật khó tin. Nếu vậy thì chẳng cần tu.

Ở trên đã mấy lần phá nghĩa này. Nếu nhờ năng lực Phật tánh mà tự tại được Bồ-đề, chẳng cần tu tập thì chính là phá nghĩa này. Xưa nói Thiện Tinh không có nơi phát ra dấu vết, thật là người ác, nghĩa này chẳng đúng, tuy chưa thấy nghĩa kinh, nhưng suy ra biết là quyền, vì sao? Vì hai người con và hai người em của Phật, mỗi người đều có thiện ác. A-nan là thiện, Điều-đạt là ác, đều là quyền lập, nay La-vân là thiện, Thiện tinh là ác, so sánh mà biết cũng là Quyền.

Văn nói về dứt mất thiện có ba: Một là nói về người dứt mất thiện; hai là nói về tướng dứt mất thiện; ba là nói về kiến dứt mất thiện. Người dứt mất thiện tức là Thiện Tinh, tướng đoạn thiện tức căn tánh bất định nghe giáo bất định chấp là định. Kiến giải đoạn thiện, tức phân biệt suy tìm đạo lý các pháp.

Trong phẩm nói về người, gồm có hỏi và đáp. Hỏi có hai: Trước nói về duyên khởi, sau là chánh thức hỏi.

Về duyên khởi có hai: Một, là nói Phật có đức năng hóa; hai, nói Thiện Tinh có duyên được giáo hóa. Nói đức của Phật có hai câu: một, nói bên trong có Từ bi; hai, là bên ngoài có Phương tiện. Thứ nhất như văn kinh.

Thương là đại Từ, xót là đại Bi. Kế là từ câu: “Điều phục v.v…” trở xuống, nói về phương tiện bên ngoài, có bảy câu.

Từ câu: “Tỳ-kheo Thiện Tinh v.v…” trở xuống là nói duyên được giáo hóa. Thứ nhất nói như con. Thiện Tinh là anh của La-vân, đây là duyên quan trọng.

Nói sau khi xuất gia là đã có tín giới, thọ trì mười hai thể loại kinh là có tuệ, dứt trừ kết sử cõi Dục đạt được Tứ thiền là Định. Đầy đủ Ba học, há chẳng phải là nhân sâu xa ư?

Từ câu: “Vì sao Như Lai v.v…” là chánh thức hỏi. Trước là hỏi hai việc, sau là kết luận. Hỏi vì sao nói Thiện Tinh là người ác, sau hỏi vì sao chẳng nói pháp trước.

Thứ nhất lại có hai: Một là hỏi vì sao nói Xiển-đề là nhân ác.

Kế là hỏi vì sao ở địa ngục một kiếp là quả ác.

Từ câu: “Vì sao Như Lai v.v…” trở xuống là thứ hai, hỏi đã có duyên sâu với Như Lai, vì sao trước kia chẳng nói pháp?

Từ câu: “Như Lai Thế Tôn! v.v…” trở xuống là kết luận hai câu vặn hỏi ở trên. Từ câu: “Vì sao được gọi v.v…” trở xuống là câu thứ nhất.

Phật có lòng từ bi vì sao nói Thiện Tinh là người thấp hèn, ở địa ngục cả kiếp, nếu nói thì biết không có lòng Từ bi.

Kế là kết luận câu hỏi sau.

Phật trước đã không nói pháp, vì sao gọi là Đại phương tiện? Nếu có phương tiện thì lẽ ra nên nói pháp.

Phật đáp, chẳng đáp về duyên khởi, chỉ đáp hai câu hỏi và hai câu kết luận. Trước đáp câu sau, sau đáp câu trước. Thứ nhất là nêu bảy dụ, sáu dụ trước nói duyên có sâu cạn, nên nói pháp có thứ lớp, một dụ sau nói tâm Phật bình đẳng, nên bình đẳng nói, không nghiêng về bên nào. Trong sáu dụ trước, mỗi dụ đều có ba: một là nêu dụ để hỏi, hai là kể việc phụng đáp, ba là hợp dụ để giải thích.

Vì sao có thứ lớp ba hạng người này? Có người giải thích rằng: Đầu tiên Đức Phật nói năm giới Nhân thừa Thiên thừa cho Đề-vị, Văn Lân, Cổ Long nghe, kế là đến vườn Nai nói Tứ đế cho Nhị thừa nghe, sau cùng là nói giáo Phương Đẳng cho Bồ-tát nghe, đây là giáo Tiểu thừa làm đầu tiên; nếu nói lúc mới thành Phật dùng thân Xá-na giáo hóa, thì đầu tiên chiếu rọi trên núi cao, kế đến chiếu xuống bình nguyên, đây gọi là lấy Đại thừa làm đầu tiên. Nay ý văn này bao gồm trước sau, lấy núi cao làm đầu, Văn Lân làm giữa và Song Lâm làm cuối. Những người con thứ ba tuy có cực ác, nhưng vì đồng thể nên phải chỉ dạy. Ruộng bậc hạ tuy xấu, nhưng vì gia nghiệp nên phải gieo trồng chẳng thể bỏ; thau tuy vỡ, nhưng phòng khi dùng gấp; bệnh tuy sẽ chết, nhưng vì thân thuộc phải trị; ngựa tuy già, nhưng cũng có thể thay ngựa mệt; người tuy có thấp hèn, nhưng vì trí bình đẳng, nên chẳng bỏ.

Sáu dụ trước tuy có khác nhau, nhưng ý nghĩa thì chẳng khác, mà ý còn chưa hiển bày, đến dụ thứ bảy văn mới hiển rõ ràng. Nêu Sư tử đầu đàn chẳng xem trọng voi mà khinh loài thỏ, đều ra sức đối trị, dụ cho việc chẳng xem trọng điều thiện, xem nhẹ điều ác, đều vận sức từ bi. Nếu nhìn theo lớn nhỏ thì với voi chẳng đủ, với thỏ có dư, nếu xét theo sức lực thì đối với voi cần phải nhanh, đối với thỏ thì từ từ. Nay Sư Tử Vương này đều đối trị bình đẳng với cả hai không khác. Nếu xét theo duyên thì đối với Bồ-tát chỉ dạy nghĩa sâu xa, đối với Thanh văn chỉ dạy nghĩa cạn mỏng, đối với Nhất-xiển-đề chỉ dạy đạo thế gian. Đức Phật chẳng phân biệt hai ba, đối với tất cả đều bình đẳng đại bi.

Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi của kia, hỏi có hai câu: Trước trả lời về Xiển-đề, sau là đáp ý ghi nhớ. Đầu tiên đáp về việc Xiển-đề tự cho có Tín, tuệ, định; ra sức bác bỏ câu hỏi này; không chấp nhận có, để nói Xiển-đề không có Tín tâm. Văn có ba: Một, không tin Phật là bậc Vô Sở Úy; hai là từ câu: “Một thuở nọ ta ngự tại nước Ca-thi v.v…” trở xuống là nói không tin Phật là bậc không còn nó dối; ba là từ câu: “Một thuở nọ, ta cùng với v.v…” trở xuống, nói không tin Phật là người không ganh ghét.

Thầy nói xuất gia là nói lên có tín tâm, nên nay nêu lên ba việc để nói lên tâm vô tín.

Khi Đức Phật đi thì chân cách mặt đất bốn tấc (12 cm), hình bánh xe ngàn căm thường hiện rõ ở dấu chân, mọi người đều muốn nhìn thấy, nhưng thường bị xóa bỏ, nay Thiện Tinh đã không xóa mà còn bỏ con trùng chết vào dấu chân Phật, khiến cho vô lượng người nghĩ là Phật giết hại.

Quả báo của người và quỉ khác nhau, mà lại thấy rõ ràng, còn hỏi đáp qua lại, há người thật ác mà làm được ư? Do đó nghiệm biết là quyền hiện mà thôi.

Từ câu: “Tỳ-kheo Thiện Tinh v.v…” trở xuống là nói không có tuệ.

Chỉ biết văn tự mà không hiểu nghĩa thì không có tuệ.

Từ câu: “Gần gũi v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói không có định. Văn có hai: Một là nói tuy đã được mà sao lại mất, nên nói là không có định.

Từ câu: “Do mất v.v…” là tổng kết khởi tà kiến nên mới nói trước.

Từ câu: “Này người Thiện nam! v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi về ý nghĩa nói trước. Văn có hai: Trước nói về ý nghĩa nói trước, sau nói chẳng thể chữa trị.

Vì Thiện Tinh chắc chắn phải đọa, nên ta nói trước, để chứng minh cho tướng chắc chắn đọa nên cùng đến xem. Thấy Phật khởi tâm ác đọa vào địa ngục thì việc chắc chắn, đoạ địa ngục đã rõ. Đến chỗ Thiện Tinh ở, hoặc cho rằng sự thật có đến, hoặc do năng lực chẳng thể nghĩ bàn bất động là đến.

Từ câu: “Thiện Tinh tuy đọa vào v.v…” trở xuống là nói về người chẳng thể chữa trị. Do buông lung, nên chẳng thể trị, chỉ vì thương xót mà thôi. Văn có pháp, dụ và hợp.

Hợp dụ có hai phen, mỗi phen đều có chánh hợp và dùng dụ để hợp.

Từ câu: “Từ xưa v.v…” trở xuống là đáp hai câu kết. Đầu tiên là đáp câu không có tâm từ bi, lại có hai là chánh đáp và phân biệt. Phần chánh đáp có pháp, dụ và hợp.

Thứ hai hỏi đáp để phân biệt, có hai: Trước là hỏi, sau là đáp.

Trước là chánh đáp.

Kế là dẫn việc xưa để hiễn rõ. Dẫn việc nói trước của Mục-kiềnliên chẳng phải hoàn toàn đúng. Mục-kiền-liên chỉ thấy trước khi mưa, mà chẳng thấy biết sau đó bị Tu-la tiếp nước đổ xuống biển. Chỉ thấy đầu trắng, chẳng thấy thân có vằn, Như Lai thì chẳng phải như thế, nên nói là không hai.

Từ câu: “Tỳ-kheo Thiện Tinh v.v…” trở xuống, trả lời câu hỏi về phương tiện. Ta thường ở bên Thiện Tinh, chẳng bao giờ rời xa, vì sợ Thiện Tinh làm ác, vì sao nói không có phương tiện? Giải lực thứ năm là dụng lực, biết rõ ý muốn của chúng sinh.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về việc dứt mất gốc thiện. Văn có ba: Một, là nói về dứt mất gốc thiện; hai nói về căn tánh bất định, cho nên dứt; ba vì thuyết giáo bất định cho nên dứt. Thứ nhất có năm phen hỏi đáp. Phen thứ nhất là Phật đáp.

Vì cắt đứt gốc thiện, nên không có gốc thiện. Các Sư Số Luận cho rằng: “Hàng Xiển-đề khởi tà ác, vô ngại dứt các gốc thiện, như đạo vô lậu vô ngại dứt phiền não”. Nếu thế thì rốt cục chẳng thể nào còn sinh thiện, vì sao kinh nói lại được sinh thiện? Vậy nghĩa này chẳng đúng. Trong thân Xiển- đề có ác chướng nặng, gốc thiện chẳng thể phát khởi. Đây là bị ngăn che, nên thiện chẳng sinh, mai sau nếu ác dần dần trừ thì thiện lại sinh, nên nói là gốc thiện lại sinh.

Hỏi: Hàng Nhất-xiển-đề có thiện để dứt hay không có thiện để dứt.

Đáp: Có đủ hai nghĩa ấy. Vì người này trước đã làm thiện, sau gặp bạn ác, nên dứt mất gốc thiện ấy, nên nói có thiện để dứt. Còn lúc trước đã làm ác, hoàn toàn chưa có gốc thiện, mà nghiệp ác sắp diệt, nghiệp thiện sắp sinh, nhưng lại khởi chướng làm cho nghiệp thiện chẳng sinh, nên gọi là không có điều thiện để dứt?

Văn nói chúng sinh đều có năm căn như tín v.v… mà Xiển-đề đã đoạn diệt, Tương Thừa giải thích rằng: “Chúng sinh theo lý thì đầy đủ năm căn như tín v.v… , chúng sinh ngoài lý thì điên đảo luống dối, nên không có năm căn”. Nghĩa này chẳng đúng, chúng sinh ngoài lý cũng có tín, v.v… Xiển-đề đã là chúng sinh ngoài lý khởi ác, dứt bỏ năm căn này, nhưng chúng sinh làm ác đã có Phật tánh thì lẽ ra cũng sinh ra năm căn, Sự tuy chưa hiển, mà về nghĩa đã có, nên nói “Tất cả chúng sinh đều có”.

Kinh nói: “Giết Xiển-đề không phạm tội sát, giết muỗi kiến thì có tội”, vì Xiển-đề có nghiệp ác nặng ở thân nên giết không tội, muỗi kiến không có tội ác nặng, nên giết thì có tội. Kinh ghi: “Bố thí cho súc sinh thì được phước một trăm lần, bố thí cho Xiển-đề được phước một ngàn lần”. Vì Xiển-đề ở quá khứ tu tập năm giới, chiêu quả báo nay được thân người, nếu bố thí thì được phước nhiều hơn bố thí cho súc sinh. Các súc sinh ở quá khứ làm ác nên đời này chiêu cảm báo thân súc sinh, vì thế bố thí thì được phước ít.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai.

Thứ nhất là hỏi, xác định.

Lời đáp rất dễ hiểu.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba.

Hỏi: Xiển-đề chẳng dứt thiện ở vị lai, vì sao nói là dứt mất thiện?

Đoạn thứ hai là hiện diệt và chướng vị lai. Nếu hiện tại khởi ác thì pháp thiện chẳng sinh, nên nói là hiện diệt. Hiện tại đã làm ác, thì ngăn chặn khiến pháp thiện ở vị lai chẳng thể sinh, nên nói là dứt vị lai. Cũng có dứt ba đời, nếu quá khứ làm ác mà chẳng sám hối, tức không có thiện; vị lai lại có nghĩa sinh thiện, nhưng yếu kém chẳng thể cứu vớt nổi.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ tư, nói chẳng dứt Phật tánh.

Phật tánh chẳng thuộc bà đời vì sao nói là vị lai?

Từ câu: “Nếu Như Lai v.v…” là thứ hai hỏi về Xiển-đề.

Nếu nói Xiển-đề hoàn toàn không có pháp thiện, vì sao lại có tâm yêu thương, nếu có tâm ấy thì đã có thiện.

Từ câu: “Đức Phật đáp v.v…” trở xuống là lời đáp. Trước đáp câu hỏi thứ nhất, kế là nói nghĩa. Đáp câu thứ nhất có hai: Trước khen câu hỏi, kế là chánh đáp. Tánh chẳng thuộc ba đời, nhưng y cứ vào nghĩa vị lai sẽ được nên nói là vị lai, vì thế văn sau nói nhân là quả, nói quả là nhân, Phật tánh cũng như thế, nói ở vị lai là nói quả trong nhân.

Nói Thực và Xúc tức là nói Thực thì có thể tự biết, còn tên xúc thì khác nhau, hoặc lấy Thức làm Xúc. Ở đây có đủ hai nghĩa, nên luận nói: “Vì Xúc bất định nên không có pháp riêng”, nếu ý thức ở duyên mà gọi là Xúc, thì Xúc này ở tại Thức; nên nói nhãn thức nhãn xúc, thì xúc này ở nơi tưởng; nay nói thấy sắc là xúc, thì đó là Thức tâm lấy sắc làm Xúc. Vì sắc là tiền trần làm sinh ra thức xúc, nên nói sắc là xúc, cũng là trong nhân nói quả.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về nghĩa, trước hỏi sau đáp.

Câu hỏi này nhân lời dạy của Phật ở trước mà có, Phật tánh chẳng thuộc ba đời, vì sao nói chúng sinh đều có?

Phật nói tánh chẳng phải trong chẳng phải ngoài, giống như hư không, mà các chúng sinh chắc chắn có tánh này, nên văn nói: “Đều có”.

Từ câu: “Như lời thầy nói v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai. Thứ nhất là lặp lại câu hỏi và bác bỏ ngược lại.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là chánh đáp, có pháp, dụ và hợp.

Nói tuy có các điều thiện như từ, hiếu, nhưng đều là tà nghiệp, tuy có thấy nghe nhưng đều vô ký. Đã không có chánh thiện, thì đều gọi là tà ác. Thủ nghiệp, cầu nghiệp là đối với pháp thiện. Trong pháp thiện thì trước sinh thiện dục, kế là sinh thiện tư, nay lấy thủ nghiệp đối lại với thiện dục, cầu nghiệp đối với thiện tư. Tuy nói là thiện, nhưng chính là vô ký.

Trong dụ nêu lên cây Ha-lê-lặc chỉ thuần một vị đắng, còn sắc và hương thì chẳng phải đắng; nhưng trước hỏi Xiển-đề há không có điều thiện ư? Họ có tâm thương yêu, ắt là có điều thiện! Cho nên Phật đáp rằng đều là tà ác. Trang Nghiêm cho rằng: “Không có điều thiện xuất thế, có điều thiện thương yêu”. Quang Trạch cho rằng: “Dù có lòng thương yêu thì cũng đều là tánh vô ký, chẳng gọi là tánh thiện. Như đánh cờ viết nhữ v.v… là Công xảo vô ký”. Khai Thiện cho rằng: “Dứt thiện làm ác, dẫu có lòng thương yêu, thì cũng thuộc tà ác, đâu được gọi là thiện”. Các sư Trung Quán đồng ý với Khai Thiện cho rằng: Nghiệp ác nặng mang ở thân, như trồng dưa đắng, rễ lá đều đắng.

Hợp dụ, như văn ghi.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về căn tánh bất định, hoặc ác hoặc thiện. Văn có hai: Một là nói về bất định, hai là hỏi đáp nói về nghĩa. Nói bất định có hai ý là nói về bất định và dứt mất gốc thiện. Thứ nhất lại có ba: Một là biết căn bất định; hai là nêu tướng bất định; ba kết luận về bất định Thứ hai là nêu tướng.

Thường tu tập thì thành lợi căn, chuyển hạ thành trung thượng; chẳng tu tập thì độn, chuyển thượng thành trung hạ.

Thứ ba là kết luận.

Từ câu: “Vì không định v.v…” trở xuống là nói về bất định nên dứt mất gốc thiện. Văn có ba: một là nói bất định, dứt mất thiện.

Kế là nói nếu chắc chắn thì chẳng phải như thế.

Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là chứng minh cho bất định.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần nói nghĩa.

Phật đáp có hai: Một là y cứ theo Thiện Tinh; hai là y cứ theo người khác. Chẳng những biết căn tánh của Thiện Tinh, mà còn biết căn tánh của người khác. Thứ nhất lại chia làm ba đoạn: một, nói Thiện Tinh ở vương vị thì có khả năng phá diệt.

Từ câu: “Thiện Tinh v.v…” trở xuống là thứ hai, nói xuất gia hay chẳng xuất gia đều dứt trừ gốc thiện. Xuất gia thì tăng tâm cung kính, phát triển các pháp thiện như tu thiền định, đọc tụng v.v… như trên đã nói.

Từ câu: “Nếu ta chẳng cho v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận tri căn lực.

Kế là từ câu: “Phật xem chúng sinh v.v…” trở xuống là y cứ theo nhưng người khác mà trả lời. Văn có hai: một, là nói về bất định; hai, là nói theo nổi chìm. Thứ nhất lại có ba: Một, là nói việc về dứt mất gốc thiện.

Hai, Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là nói dứt mất thiện.

Thứ ba, từ: “Vì nhân duyên này v.v…” trở xuống là kết thúc về dứt mất thiện.

Từ câu: “Như Lai lại biết v.v…” trở xuống là nói về sinh thiện. Có pháp, dụ và hợp, thứ nhất là pháp thuyết.

Suối dụ cho Phật tánh, làng xóm dụ cho ấm thân, khát nước dụ cho khổ ép ngặt, muốn đi đến là dụ cho tâm cầu an vui, người trí là dụ cho Phật, Bồ-tát.

Hợp dụ, trước là hợp.

Sau lại kết luận biết căn lực.

Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là nói về lên xuống khác nhau, xuống thì nhiều, lên thì ít. Văn lại có ba: một là nêu việc để hỏi.

Ca-diếp lãnh chỉ, vâng đáp.

Thứ ba là hợp. Có ba: một là hợp quả.

Y cứ theo nhân mà hợp.

Thứ ba là kết luận tri căn lực.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói về giáo bất định. Phật quán sát căn cơ khác nhau, nên nói giáo có khác, chúng sinh chẳng biết căn giáo khác nhau, nên chấp trước mà gây ra sự tranh luận, dứt mất gốc thiện.

Văn có hai đoạn là hỏi và đáp. Phần hỏi có ba: một là nói về biết căn, hai là nói về tranh chấp, ba là kết luận. Hỏi vì sao nói bất định để 752 dẫn đến tranh luận. Thứ nhất nói về biết căn.

Lẽ ra cũng nói quá khứ, nhưng văn lược bỏ.

Từ câu: “Các chúng sinh ấy v.v…” trở xuống là nói về tranh luận.

Do đây mà tạo ra sự tranh luận. Khai Thiện nói hai mươi việc tranh luận, Dung Thành nói hai mươi mốt việc.

Từ câu: “Như Thế Tôn v.v…” trở xuống là kết luận nêu câu hỏi, v.v…

Phật đáp ba câu hỏi, trong quyển này đáp hai câu hỏi trước, quyển sau phần đầu đáp câu thứ ba. Đáp câu thứ nhất có hai: Trước là nói về giáo bất định, kế là nói về pháp bất định. Văn thứ nhất lại có bốn: một nói lý sâu khó hiểu; hai, là nói hai người ngu và trí; ba, nói cần nói bất định; bốn, kết luận tri căn lực. Tức là ý bốn Tất-đàn.

Đầu tiên nói lý sâu xa, sáu thức của phàm phu chẳng thể biết, chỉ có Thánh trí mới hiểu được. Đây là ý Đệ nhất nghĩa.

Từ câu: “Nếu đối v.v…” trở xuống là nói ngu trí, trước nói trí, sau nói ngu.

Người trí nghe nói có thì biết không, nghe nói không thì biết có, nghe nói có không thì biết chẳng phải có không, một và hai cũng giống như thế.

Người ngu nghe nói có thì liền chấp có đối lập với không, nghe nói không thì cho là không mà chẳng có, nghe nói vừa có vừa không, thì chấp cả hai cùng tồn tại, nghe nói đều bỏ thì chấp cả hai đều xả. Đối diện nghe mà còn như thế, thì đến đời mạt pháp lâu xa về sau, sẽ không có cách gì hiểu nổi. Đây là nghĩa Đối trị Tất-đàn.

Thứ ba từ câu: “Tất cả v.v…” trở xuống là nói phải thuyết bất định. Văn có pháp, dụ và hợp.

Vì độ chúng sinh nên nói bất định, đó vốn là vì lợi ích, chứ chẳng nên chấp bất định, để xảy ra tranh luận.

Như thầy thuốc dùng thuốc vốn là để trị thiện bệnh, chứ chẳng bao giờ muốn người uống thuốc mà thành bệnh.

Về cõi nước thì có ranh giới đất đai khác nhau, đâu phải chỉ một loại, một loại thì không có lợi ích; Như nước này thời tiết giá lạnh thì đắp chăn nệm, mặc áo da thú. Lúc đói khát chỉ xin được thịt. Ngôn ngữ của người, như Bồ-tát Cửu trụ nói chẳng thấy, Thập trụ nói thấy chút phần. Vì người là tùy theo căn tánh. Đây là ý nghĩa vì người.

Thứ tư là kết luận nói tri căn lực; tức nghĩa Thế giới Tất-đàn. Có bản kinh không có phần kết này, đó là do sót mất.

Từ câu: “Đối với một danh v.v…” trở xuống là nói rộng về pháp bất định. Văn có ba: một là nói về pháp bất định, hai là dẫn chứng, ba là kết luận nói Nhị thừa chẳng biết. Văn thứ nhất có hai: Trước nói danh nghĩa bất định, sau nói rộng lược bất định. Về danh nghĩa, trước là nêu chương sau giải thích.

Trong đây nêu ba chương, nếu muốn đối đãi nhau để luận, thì nên lập sáu câu: Đối một danh mà nói vô lượng danh, nên lập câu: Đối với vô lượng danh mà nói một danh; câu: Đối một nghĩa mà nói vô lượng danh, nên lập câu: Đối vô lượng nghĩa mà nói một danh; câu: “Đối với vô lượng nghĩa nói vô lượng danh, nên lập câu: Đối với vô lượng danh mà nói vô lượng nghĩa. Ở đây văn đã lược, chỉ nêu một bên.

Nêu một từ Niết-bàn mà chứa đựng các danh khác nhau. Đại lượng nói: Niết-bàn là tên chung của tám vị, là gọi chung các đức, ý nghĩa nói này các Sư lại có nhiều cách phiên dịch khác nhau và cũng do đó mà sinh ra tranh luận.

Kế là giải thích một nghĩa nói vô lượng danh.

Nêu Đế Thích, so với sự giải thích ở trước có gì khác? Trước y cứ theo pháp, sau y cứ theo người, trong phần giải thích lại ở dưới thì y cứ theo năm ấm, ở đây thì y cứ theo quả pháp, cũng là một nghĩa mà đặt ra nhiều tên, phân biệt thành nhiều loại, dẫn đến giải thích khác nhau. Vì thế Hà Tây dịch từ Bà tha bà là Hảo Nghiêm Sức, vì khi xưa bố thí y phục tốt đẹp, nên nay được quả báo có y phục đẹp đẽ. Phú-lan-đà dịch là điều phục các căn, tức nói Thiên đế, bên ngoài thì dùng y phục tốt đẹp để trang nghiêm dung mạo, bên trong thì dùng pháp thiện điều phục tâm ý. Ma-khư-bà dịch là Vô Thắng Vô Quá, vì vượt hơn các vị trời. Nhân-đà-la dịch là Quang Minh, vì có ánh sáng rực rỡ nhất. Mắt trời: vì đồng thời biết được một ngàn nghĩa dứt trừ một ngàn việc. Kim Cương: vì thân bền chắc.

Thứ ba là giải thích vô lượng nghĩa nói vô lượng danh.

Đây là y cứ theo Như Lai đầy đủ muôn đức để giải thích, tức là vô lượng nghĩa, mỗi nghĩa một danh thành vô lượng danh. Tám trí có ba cách giải thích: Một là cho rằng thường v.v…, vô thường v.v… là tám; hai là cho rằng bốn đế mỗi đế đều có pháp và dụ thành tám, tức y cứ theo cõi Dục mà nói tức là pháp, nếu theo Sắc và Vô sắc thì đó là Trụ. Các Sư Thành Thật y cứ theo hiện tại mà nói là pháp, theo quá khứ, vị lai mà nói là dụ. Ba là kinh Ưu-bà-tắc giới nêu tám trí, trong đó gồm bảy trí giống như bảy pháp thiện nói trong phẩm Phạm Hạnh, cộng với tri căn là tám.

Thứ tư là từ câu: “Lại có một nghĩa v.v…” trở xuống là giải thích lại hai chương.

Trước y cứ theo Đế Thích chỉ dùng nghĩa Thiện, có vô lượng danh, danh này chẳng chung cho nghĩa ác. Vì muốn nói lên ý này, nên lại y cứ theo năm ấm. Đây là pháp hữu lậu, nên gọi là điên đảo, ấm là cảnh khổ đế, làm cảnh quán của niệm xứ, tức quán sắc bất tịnh, quán thọ khổ, tưởng và hành vô ngã, quán thức vô thường, nên gọi là Bốn niệm xứ. Trù sắc ấm ra còn bốn ấm kia là bốn thức trụ xứ. Ấm chung cho trong ngoài nên gọi là Bốn thực, vì thông nhau nên gọi là Đạo; từ chỗ thật pháp mà có thời giả danh nên gọi là Thời; vì thể là vô tướng nên gọi là Đệ nhất nghĩa; ba tu là phiền não của thân, giới và tâm chính là ở hành ấm, Giải thoát tức là hữu vi Giải thoát, cũng gọi là mười hai nhân duyên, tức lấy năm ấm làm thể của nhân duyên; cũng gọi là Ba thừa, năng thành thân của Ba thừa. Các nghĩa khác đều có thể tự hiểu, chẳng cần phải giải thích v.v…

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói rộng lược về bất định. Văn có ba: một là nêu chương; hai, là từ câu: “thế nào v.v…” trở xuống là giải thích; ba là kết luận.

Nói Thế đế là Đệ nhất nghĩa đế: A dịch là Vô, nhã dịch là trí, nghĩa là Kiều-trần-như được trí Vô sinh, đây là y theo Thế đế mà nói Đệ nhất nghĩa đế, các câu khác có thể tự suy ra mà biết.

Thứ ba, từ câu: “Cho nên v.v…” trở xuống là kết luận. Văn có hai, trước kết luận về bất định.

“Người có trí v.v…” trở xuống, nói người thấp kém chẳng thế biết được.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” là nói về người bất định.

Chẳng nói năm việc cho năm hạng người, tức chẳng dùng đối trị mà chỉ dùng vị nhân. Chỉ dạy giới, nhẫn thiền, tuệ cho người bỏn sẻn, còn tự mình thực hành bố thí. Đối với người phá giới thì dạy họ tu Thiền, tuệ, v.v…, còn tự mình giữ giới.

Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là dẫn chứng.

“Nói pháp v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận nói Nhị thừa chẳng thể biết.

Từ câu: “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai về tranh luận, chấp chặt. Văn có hai là đáp lược và nói rộng.

Đầu tiên nói giải lực, cũng gọi là Dục lực, là phép biết Dục giải của chúng sinh. Văn lại nói hai năng lực này tức là lực thứ tư căn lực và lực thứ năm giải lực.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là phần thứ hai đáp rộng, trong đó nói Phật vì ứng hợp cơ duyên nói có khác nhau, nhưng chúng sinh không hiểu, dẫn đến tranh luận. Có hai mươi mốt điều: một là nói Niết-bàn và chẳng Niết-bàn, phải giải thích theo Dị bộ: Như Tátbà-đa y cứ theo sự để nói về rốt ráo Niết-bàn, Đàm-vô-đức và Tăng-kỳ thì y cứ vào lý mà nói về rốt ráo Niết-bàn. Xưa nay các Sư phê bình hai bộ này rằng: Bà-đa thì sai mà đoản, Vô đức thì đúng mà trường” tất cả đều chẳng hợp ý Phật. Văn kinh ghi: “Nếu nói Như Lai rốt ráo Niết-bàn hay chẳng rốt ráo Niết-bàn thì đều là lời gây tranh luận, chẳng đạt được ý ta”; Vì sao lại phê bình mà vọng xếp vào trường đoản. Hà Tây cho rằng rốt ráo là Đoạn, chẳng rốt ráo là Thường. Nói đoạn thường, chẳng lẽ là đoạn thường ư? Mà đó chẳng đoạn chẳng thường, năng đoạn năng thường. Nói đoạn mà chẳng trái với thường, nói thường mà chẳng trái với đoạn, đoạn thường chẳng trái nhau, đoạn thường đều tròn đầy.

Các sư Trung Quán cho rằng Phật tùy cơ mà nói, đâu được cho là đúng sai, mất đi ý Phật. Như thầy thuốc tùy bệnh mà cho thuốc khác nhau. Các đệ tử chẳng hiểu, nên vọng chấp làm mất đi chỉ thú. Đây là lần tranh luận thứ nhất. Văn có hai: Trước là nêu chương.

Kế là giải thích. Văn có hai, một, là giải thích nhất định chấp Niết-bàn; hai là giải thích chấp không Niết-bàn. Văn thứ nhất lại có hai: là giải thích và kết luận.

Đầu tiên, Đức Phật vì năm việc mà nói Niết-bàn: Một là vì các vị tiên; hai là vì lực sĩ; ba là vì Thuần-đà; bốn là vì Tu-bạt; năm là vì vua A-xà-thế. Thứ nhất: Tiên sinh sống ở Hương Sơn, mà nói dần truyền đến, tức là do các vị trời truyền đến núi, chỗ ở của các vị tiên, đều chứng quả A-la-hán, nhưng có Quyền có Thật. Vì phá chấp thường, cho nên Phật nói vô thường.

Từ câu: “Ở thành Câu-thi-na-kiệt v.v…” trở xuống là vì lực sĩ.

Từ câu: “Có một người thợ giỏi v.v…” là đoạn ba, vì Thuần-đà mà Niết-bàn.

Từ câu: “Trong thành Vương xá v.v…” trở xuống là thứ tư, vì Tubạt.

Này Thiện nam! v.v… là thứ năm, vì vua A-xà-thế.

Từ câu: “Bồ-tát có hai hạng” v.v… trở xuống là phần hai, giải thích chấp nhất định chẳng phải Niết-bàn. Văn có hai là giải thích và kết luận.

Vì Bồ-tát giả danh mà nói chẳng Niết-bàn, còn đối với Bồ-tát chân thật thì chẳng nói Niết-bàn, Bồ-tát này biết Như Lai chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, đâu thể chỉ nói thường hoặc vô thường.

Từ câu: “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn hai, tranh luận. Nói về hữu ngã vô ngã, cần phải khéo nói về các bộ phái: Các Sư Số luận theo bộ Tát-bà-đa nên chỉ nói vô ngã để phá thuyết của ngoại đạo, cho đó là tà ngã, chẳng phải ngã giả danh, một bề nói là vô ngã, tuy nói vô ngã mà rốt cuộc là vô ngã vô thường được nhập đạo, chẳng đồng với ngoại đạo. Các sư luận Thành Thật đồng với bộ Đàm-vô-đức nói có giả ngã, phá thuyết tức ấm lìa ấm của ngoại đạo, nói có Tương tục giả ngã, nhân thành giả ngã, lại nói thật pháp niệm niệm diệt nên không, có giả danh tương tục giả ngã, nhân thành giả ngã. Lai nói thật pháp niệm niệm diệt cho nên vô nghĩa, vì giả danh nối nhau chẳng dứt nên có Ngã. Lại nói Chân đế vô ngã, Thế đế có ngã; ở đây một bề nói có ngã. Hai vị trên đều chẳng đạt được ý Phật nên dẫn đến tranh luận. Chiêu-đề giải thích rằng: Hai văn ấy nói Ngã và Vô ngã là để phá trừ hai bệnh; tức nói có ngã là trừ phá tà vô ngã, chẳng nói giả ngã mà nói vô ngã là để phá tức ngã lìa ngã; người chấp thường thì nói thẳng vào vô ngã cũng chẳng nói giả ngã. Chân Đế hỏi rằng: Nếu ngã vô ngã phá ngã vô ngã, thì có việc ấy chăng? Nếu trong lý chẳng có ngã và vô ngã thì cũng chẳng thể dùng ngã vô ngã để phá bệnh? Vả lại, trong sinh tử đã dùng ngã vô ngã để phá bệnh, thì trong Niết-bàn lẽ ra cũng nên dùng Thường vô thường để phá bệnh. Nếu trong Niết-bàn chỉ có thường không có vô thường thì trong sinh tử chỉ có vô ngã chẳng có ngã. Như Trung luận nói: “Chư Phật hoặc nói ngã hoặc nói vô ngã, trong thật tướng các pháp chẳng có ngã chẳng phải không có ngã, nên dùng ý này để so sánh giải thích các tranh luận. Văn có hai: Trước nói có ngã, sau nói vô ngã. Thứ nhất lại có hai: truớc nói tương tục giả ngã để phá tà vô ngã.

Từ câu: “Một thuở nọ, ta v.v…” trở xuống là nói về nhân thành ngã. Văn có hai: Trước nói về nhân thành, sau nói về nhân thành, sở thành.

Văn nói: Ngã tức là tánh, xưa có hai cách giải thích: một cho rằng đó là tánh của Phật tánh, dẫn văn trước nói: “Hai mươi lăm hữu có ngã hay chăng? v.v…” Hai là cho rằng tánh giả danh là ngã tánh, tánh tức là thể, thể tức là nhân thành. Trong ba giả chỉ có nhân thành là thể tục, đãi là dụng. Bên trong là bốn ấm, bên ngoài là bốn đại. Mười hai nhân duyên là tên chung của sắc và tâm; chúng sinh là giả danh tánh. Các thân này là nhân thành giả; Nếu từ đó mà lập nghĩa Phật tánh, thì thân chúng sinh đều do năm ấm mà thành, Phật tánh chính là y cứ theo pháp tánh của năm ấm trong thân chúng sinh. Ba cõi tức là tâm vương trong năm ấm.

Từ câu: “Công đức v.v…” trở xuống là nói nhân thành, sở thành.

Hạnh nghiệp tức là nhân, trời Tự Tại là quả. Tu nhân được quả. Nói tự tại, chẳng những nêu trời Tự Tại cõi Dục, mà còn nói chung các vị trời. Thế là bốn đường còn lại.

Từ câu: “Một thuở nọ, v.v… ”trở xuống là phần thứ hai, nói về vô ngã. Trước là Phật nói, sau là khởi chấp. Thứ nhất lại có ba: 1/ Giả hỏi; 2/ Giả đáp; 3/ Quán vô ngã được lợi ích. Hỏi có ba: 1/ Hỏi về danh, vì sao gọi là ngã? 2/ Hỏi về Thể, tức hỏi ai là ngã? 3/ Hỏi về duyên.

Từ “Bây giờ v.v…” trở xuống là giả đáp. Văn có ba: 1/ Đáp về đại ý chung; 2/ Đáp riêng; 3/ Kết luận không có lợi ích. Thứ nhất có hai ý là nêu chương và giải thích.

Giải thích.

Từ câu: “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là đáp riêng ba câu hỏi. Đại ý đã đủ đâu cần phải đáp riêng?

Nhưng đầu tiên nói chung về vô ngã, kế đó nói chung về giả danh, giả thể và giả nhân duyên.

Trong giả danh nói là Kỳ, Hà Tây cho rằng: Như người vào thời kỳ khế hợp, ứng thời kỳ mà đến tức là hợp nghĩa, chẳng ứng thời kỳ thì chẳng hợp. Năm ấm hòa hợp thì thành giả danh, nên nói là kỳ. Kế là nêu nghiệp để đáp câu hỏi về Thế, kế là nêu Ái để đáp câu hỏi về duyên.

Nghiệp có công năng thành quả nên có nghĩa là thể, Ái là phiền não nhuận sinh từ nghiệp, lại là nghĩa của duyên.

Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống, kết luận là không.

Hai bàn tay có thể làm phát ra tiếng, âm thanh là dụ cho Thể, vỗ vào nhau là dụ cho Ái.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói tức lìa đều không.

Từ câu: “Các ngoaị đạo v.v…” trở xuống là phân biệt.

Kinh ghi: “Rốt cuộc chẳng lìa các ấm”, tức ngoại đạo khởi chấp “tức lìa” mà ở đây nói lìa ấm thì không có việc ấy. Có hai cách giải thích: 1/ Vốn đều chấp tức ấm là ngã, không chấp lìa ấm, đối với cỏ cây chấp là ngã; Phật phá tức ấm vô ngã, thì lại chấp lìa ấm có ngã, nay ở văn này còn giữ ý phá nên nói” lìa ấm có ngã thì chẳng đúng”.

Hai, Tiểu thừa cũng có chấp nghĩa tức ấm có ngã, vì thế Phật mới phá, và cũng chẳng được chấp lìa ấm có ngã.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ tư, kết luận vô ngã.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ ba, quán vô ngã được lợi ích.

Lúc bấy giờ, giảng nói như thế thì hợp lý và được lợi ích.

Chấp đắm thành tranh luận.

Từ câu: “Trong kinh v.v…” trở xuống là đoạn ba, tranh luận về có Trung ấm hay không. Bà-sa ghi: Dục-đa-dề sắc-bà nói địa thọ sinh chắc chắn có Trung ấm. Tỳ-bà-sà-bà nói chắc chắn không có Trung ấm. Tátbà-đa cũng nói chắc chắn có. Các nhà Thành Thật cũng nói có. Lại nêu nghiệp có lợi độn như mâu thuẫn lìa khỏi tay, nghiệp ác nặng thì vào thẳng địa ngục, nghiệp thiện mạnh thì sinh về cõi trời cõi người, đều không có Trung ấm. Văn kinh, trước nói chắc chắn có, gồm ba phen, sau nói chắc chắn không, có bốn phen.

Nếu nói có Trung ấm tức có sáu hữu, sáu hữu tức là sáu đường; Phật vì Đế-thích mà trừ Tu-la, Tu-la chỉ là quỷ, nên chỉ có năm đường. Từ câu: “Ta lại nói v.v…” trở xuống là đoạn tranh luận thứ tư. Các Sư Số Luận nói vô lậu có lui sụt, như Sơ quả kiến đế một bề không lui sụt, tiến thẳng vào Tư duy, hai quả kế dùng Đẳng trí dứt hoặc nên có nghĩa lui sụt, A-la-hán vô lậu, theo lý thì không lui sụt. Hai quả trước lui sụt, kéo dắt A-la-hán lui sụt. Nêu dụ giếng cát, trên dưới đều có gạch khoảng giữa giếng cát, cát đã hư hoại thì gạch phía trên lại sụp xuống. Các sư Thành Thật cho rằng vô lậu chẳng lui sụt, chỉ có thiền định lui sụt. Tức là tu được định Điện quang của cõi Dục, nhưng định này khó an trụ, có lúc lại lui sụt, nên gọi là lui sụt, chứ vô lậu không có lui sụt.

Văn kinh trước nói lui sụt, sau chấp không lui sụt. Thứ nhất lại có ba là pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết được chia làm ba: Một là nói chung Tỳ-kheo lui sụt, hai là nói chung về La-hán, ba là nói chung sáu hạng người. Nói chung Tỳ-kheo gồm có hai: một là nói chung.

Kế là nói duyên lui sụt.

Từ câu: “lại có hai thứ, v.v…” trở xuống là nói duyên về La-hán: Đầu tiên là nói La-hán có lui sụt. Kế là nêu riêng về Cù-chi là nghĩa A-la-hán có chết.

Từ câu: “Ta lại nói v.v…” trở xuống là nêu chung sáu người.

Một là lui sụt, hai là chẳng lui sụt, ba là tuệ, bốn là câu, năm là thời, sáu là chẳng phải thời (phi thời). Thời là độn căn dễ lui sụt, chẳng phải thời là lợi căn, chẳng lui sụt.

Từ câu: “Trong kinh v.v…” trở xuống là nêu dụ.

Từ câu “Phiền não v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Nhân duyên chứa duyên ác bên ngoài.

Bên trong không có nhân ác, thì bên ngoài chẳng thể làm loạn động cho nên chẳng lui sụt.

Từ câu: “Trong kinh ta có nói v.v…” trở xuống là đoạn năm, nói về tranh luận, nói thêm Phật hữu vi vô vi. Tát-bà-đa thì nói là hữu vi, Tăng-kỳ nói là vô vi, luận Thành Thật nói hai bên, vì không lời cho nên vô vi, vì nương vào lời cho nên hữu vi, ứng thân hữu vi, chân thân vô vi.

Trước nói về hữu vi. Hai là nói về vô vi.

Từ câu: “Này thiện nam! Trong kinh v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ sáu; trước nói về chấp, kế là giải thích. Văn thứ nhất, Tát-bàđa chấp nhân duyên là hữu vi, Tăng-kỳ là vô vi. Hữu vi thì cho rằng nhân quả ba đời trôi lăn vô cùng, há chẳng phải là hữu vi hay sao? Chấp vô vi thì cho rằng lý mười hai nhân duyên là vô vi, tuy nhân quả vô thường mà lý của nó là vô vi. Văn chấp thứ nhất, thứ hai: Trước là chấp hữu vi, kế là chấp vô vi.

Giải thích: Trước nêu chương.

Đầu tiên giải thích câu một: Chẳng từ duyên sinh tức mười hai chi ở vị lai, nhưng vị lai chỉ có hai chi già và chết, vì sao nói mười hai chi? Đối với sự chưa có nhưng dần dần trôi lăn thì sẽ có; tuy chẳng từ duyên, nhưng nghĩa mười hai chi đã đủ, há chẳng phải là vô vi ư? Dùng một câu này để chứng minh cho vô vi, còn ba câu kia nhân tiện mà lập thêm. Giải thích câu hai: Từ duyên sinh mà chẳng phải mười hai nhân duyên tức là vị A-la-hán đã phá hoại ba nhân, không còn sinh tử, tức đã phá mười hai nhân duyên rồi mà thân năm ấm này từ mười hai nhân duyên sinh. Giải thích câu ba câu, bốn rất dễ hiểu.

Từ câu: “Trong kinh ta đã nói v.v…” trở xuống là đoạn bảy, nói về tâm thường, vô thường. Tát-bà-đa nói tâm không nối nhau tức là vô thường, Tăng-kỳ nói tâm có nối nhau tức là thường. Thành Thật dùng nghĩa của Tát-bà-đa. Văn có hai: Trước nói chấp tâm là Thường, sau nói chấp tâm Vô thường.

Nói bốn đại tan hoại, thân này hoại diệt, người làm thiện thì tâm đi lên; tức sinh về cõi nước thiện, lại mang tâm này đến cõi thiện, vậy há chẳng phải là nghĩa thường hay sao? Làm ác cũng giống như thế.

Từ câu: “Trong kinh ta nói v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ tám, nói về chướng đạo, chẳng chướng đạo.

Tát-bà-đa cho rằng có chướng đạo, Tăng-kỳ nói không chướng đạo, Thành Thật nói có chướng ngại và không chướng ngại.

Từ câu: “Lại nữa trong kinh v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ chín nói Thế đệ nhất ở cõi Dục là chung cho ba cõi. Nếu Tát-bà-đa nói bốn định căn bản của cõi Sắc có khả năng phát khởi Thế đệ nhất, thì Đàm-vô-đức cho rằng hai cõi Dục và Sắc cùng phát khởi năm phương tiện, bất luận nói cõi Vô sắc phát năm phương tiện. Bộ Độc Tử cho rằng cả ba đều phát, khi ở phàm phu đã dùng Đẳng tâm dứt hoặc đến cõi Vô sắc mà sau đó tu vô lậu dứt hoặc đến cõi Vô sắc, nhưng việc dứt hoặc ở trước, tức là phát khởi phương tiện; nên nói cả ba cõi đều phát.

Văn kinh có ba, mỗi phần chấp một cõi.

Kê là từ câu: “Trong kinh ta nói v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười, nói về bố thí chung cho cả ba nghiệp hay chẳng chung cho ba nghiệp. Thành Thật cho rằng chỉ ở ý nghiệp, lấy việc xả tài vật tương ưng với Tư làm chánh Thể, cũng dùng thân miệng giúp sức. Tỳ-đàm dùng nghĩa của Tát-bà-đa cho rằng định chung cho ba nghiệp, vì ý nghiệp thiện nên thân miệng cũng thiện.

Văn có hai: trước nêu chấp ở ý, sau nói chung cho năm ấm.

Nói bốn câu như thí chủ tin nhân quả v.v… thì đều nói lên Thí ở ý nghiệp, sau nói về sắc, lực là thuộc thân, biện tài thuộc miệng, mệnh là thuộc ý.

Từ câu: “Một ngày kia v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười một, nói về việc có ba vô vi hay không có ba vô vi.

Trong các bộ phái chẳng thấy bộ nào chấp không có ba vô vi, vì sao ở đây có văn này. Điều này cũng có nghĩa như các sư Thành Thật cho rằng ba vô vi đã đồng là vô vi thì đâu có khác thể, đó là chấp không có vô vi. Các sư Số Luận chấp ba vô vi có tự thể riêng, tức có ba loại, tức là chấp có ba vô vi.

Từ câu: “Một ngày kia v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười hai có tạo sắc và không có tạo sắc. Tỳ-đàm cho là có, vì bốn đại mới có hình sắc, hiển sắc, còn Thành Thật thì cho là không. Văn có hai: trước nói có, lại có hai: một là nói về bốn đại năng tạo.

Từ câu: “Thí như v.v… ” trở xuống là ý thứ hai nêu xanh vàng v.v… là sắc sở tạo, nhẹ nặng, trơn nhám là xúc sở tạo.

Kế là nói không tạo.

Văn này quá luợc, vì y cứ theo sự mà nói, phần nhiều do bốn đại mà có nghĩa tạo, cho nên chẳng nói rộng về nghĩa không có sắc sở tạo.

Từ câu: “Thuở xưa v.v… : “ trở xuống là nói lần tranh luận thứ mười ba, có sắc vô tác và chẳng có sắc vô tác. Tát-bà-đa chắc chắn là vô tác có sắc, Thành luận và Đàm-vô-đức thì chắc chắn vô tác không có sắc, Tăng-kỳ nói chung là vô tác mà chẳng nói là có sắc hay không sắc.

Văn trước chấp có sắc, chẳng phải nhân quả của dị sắc là tâm; nói vô tác tức chẳng làm nhân cho tâm, chẳng làm quả của tâm, nên biết là sắc. Hà Tây cho rằng: “Chẳng sinh các sắc khác”.

Văn có hai: Trước nói có, sau nói không.

Từ câu: “Trong kinh ta nói v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười bốn, nói về có tâm sở và không có tâm sở. Bộ Tát-bà-đa cho là có Dị thể tâm sở riêng, đồng thời sinh khởi, Tăng-kỳ nói không có tâm sở, Phật-đà-Đề bà nói không có tâm sở dị thể khởi, mà thứ lớp khởi trước là tâm, khởi sau là tâm sở, các Sư Thành Thật thì cũng đồng như trên.

Văn có hai: Trước nói không có tâm sở, sau nói có tâm sở. Thứ nhất lại có hai: một, là nêu mười hai nhân duyên của bậc thánh.

Kế là nói mười hai nhân duyên của phàm phu. Văn có hai: Một, là nói pháp sau tức pháp trước; Hai, là nói pháp trước tức pháp sau, đã tương tức thì một, nên không có tâm sở; văn thứ nhất có thể xét rõ.

Từ câu: “Từ thọ v.v…” trở xuống là nói pháp trước sinh pháp sau.

Nên xét kỹ, trong đây nói Thọ có chỗ cho rằng đó là chi ở đời vị lai, chứ chẳng phải chi ở đời hiện tại. Từ câu: “Trong kinh ta có nói, v.v…” trở xuống là ý thứ hai chấp có tâm sở.

Cũng y cứ theo năm ấm, mười hai nhân duyên để nói về tướng trạng, rất dễ thấy được. Tuy có sinh nhau mà chẳng tức nhau, nên có tâm sở khác nhau riêng.

Từ câu: “Hoặc có lúc v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười lăm, nói về năm hữu, sáu hữu.

Các bộ phần nhiều nói năm đường, chỉ có bộ Độc tử nói sáu đường. Thích Luận cũng nói sáu, nhưng đường Tu-la thì Bà-sa nói có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng thuộc cõi trời; 2/ Cho rằng thuộc quỉ thần.

Nói một hữu là chung cho một hữu vi. Nay nói thêm rằng: “Gọi chung hai mươi lăm Hữu chỉ trong một Hữu, nói chung tức là ba đường thấp cũng chỉ chung cho một Hữu, chẳng giống như cõi trời và người mỗi cõi chia ra làm nhiều hữu, như cõi người có bốn, cõi trời có mười bảy. Nói hai tức nhân quả, thiện ác; nói ba tức ba cõi, nói bốn tức bốn loài sinh; năm tức năm đường, sáu là sáu đường, bảy tức bảy thức xứ. Hà Tây cho rằng năm đường cộng với sắc và vô sắc thành bảy. Nói tám tức tám phước, Hà Tây cho rằng sáu đường cộng với Sắc, Vô sắc là thành tám phước, điều này chẳng đúng vì ba đường làm sao gọi là phước? Nói chín tức chín loài chúng sinh, hai mươi lăm tức hai mươi lăm hữu, Hà Tây cho rằng chín gồm có tám thiền và cõi Dục.

Từ câu: “Khi xưa v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười sáu nói về năm giới, tám giới, đầy đủ và chẳng đầy đủ. Tát-bà-đa cho rằng thọ đủ mới được, Thành Thật cho rằng chẳng đủ cũng được, như kinh Ưu-bà-tắc Giới nói nếu chỉ thọ Ba quy y mà chưa thọ một giới nào thì gọi là Vô phần Ưu-bà-tắc, cứ như thế mà gọi là nhị phần, đa phần, mãn phần. Như Trạch Châu giải thích: thọ đủ cả năm giới, nhưng chỉ giữ được một, hai thì gọi là nhất phần, nhị phần.

Văn có hai: Trước nói năm giới chẳng đủ, sau nói tám giới đầy đủ, nhưng lại cùng nêu ra.

Từ câu: “Lại trong kinh v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười bảy, nói về phạm giới trọng có mất và chẳng mất. Tỳ-đàm quyển bốn nói có phạm giới trọng, xả tức mất giới, cho nên Tỳ-đàm cho rằng: Điều ngự luật nghi giới có năm thời xả: Một là tà kiến tăng mạnh, hai là pháp diệt tận, ba là mạng căn bị cắt đứt, bốn là phạm giới trọng, năm là bỏ đạo. Như Tạp Tâm Tỳ-đàm lại có tăng và giảm, và cho đó là làm ô uế giới; trừ pháp diệt tận xả và phạm trọng cấm xả, đồng thời nói hai việc trên chẳng phải là xả mất giới, lại thêm hai căn sinh và chẳng nhập số chúng, cho rằng các thời xả này chẳng thuộc ni giới. Các bộ phái khác phần nhiều đều nói là chẳng mất giới.

Văn có hai: Đầu tiên chắc chắn mất giới, kế là chấp chẳng mất. Đạt đến đạo đức chân vô lậu chỉ bày đạo tức tương tự vô lậu, thọ đạo tức trí giới, ô uế đạo tức phạm giới.

Từ câu: “Trong kinh ta có nói, v.v…” trở xuống là lần tranh luận thứ mười tám về một Thừa và ba Thừa. Trong các Bộ phái đều không có loại chấp này, vì sao? Vì một hay ba đều là Đại thừa lập ra, chứ chẳng phải cảnh giới của các bộ phái, cho nên không chấp nghĩa này.

Văn kinh nói một thừa, một đạo, một nhân v.v… đồng thời nói: Chẳng hiểu được ý ta v.v… thí như kinh Pháp Hoa nói rõ về một thừa, một đạo, tức biết được ba Thừa đều quy về một lý tức là thừa này, vì sao lại nói chẳng phải?

Giải thích rằng: Văn kinh ở trước có nói: “Nếu đạt được hai chữ

Thường trụ thì chẳng đọa đường ác”, văn này lại nói: “Chấp Thường thì chẳng hiểu ý Phật” như thế đâu khác gì chấp một thừa, một đạo thì chẳng hiểu được ý Phật? Hơn nữa nếu nói Ba thừa đồng quy một thừa, được thành Phật, thì vì sao Đại Luận có câu hỏi rằng: “Thanh văn có thành Phật hay không? Luận chủ đáp: “Việc này chẳng thể luận bàn mà biết được”. Nếu thế thì đâu thể nói đồng quy về một lý là đúng.

Văn có hai: Trước nói đều được Phật đạo tức là một thừa.

Sau nói chẳng được, tức là ba nghiệp.

Nói A-la-hán có hai loại: Hiện tại và vị lai, hiện tại thì đã dứt, vị lai chẳng sinh.

Từ câu: “Trong kinh ta v.v…” trở xuống là phần luận nghị thứ mười chín, nói về Phật tánh lìa chúng sinh, tức chúng sinh. Các bộ cũng không có chấp này, mà là chỗ chấp tức lìa của các nhà cận đại. Đương quả và chân thần tức lìa chúng sinh mà có, tâm và chúng sinh tức chúng sinh mà có, cả hai đều chẳng đạt được ý Phật.

Văn có hai: Trước nêu sáu việc và ba văn để nói về lìa.

Sau nói chúng sinh tức là Phật tánh.

Từ câu: “Vì nhân duyên ấy v.v…” trở xuống là đoạn luận tranh thứ hai mươi, nói về phạm bốn giới trọng, có Phật tánh và không có Phật tánh. Khai Thiện cho rằng có hai mươi đoạn, đoạn này thuộc về nghĩa Phật tánh tức lìa của đoạn mười chín. Dung Thành cho rằng có hai mươi mốt đoạn, đây là đoạn hai mươi, đâu thể nói là thuộc đoạn trước, đoạn trước tức chúng sinh, lìa chúng sinh; ở đây nói về gây ra năm tội nghịch, phạm bốn giới trọng có hay không có Phật tánh; vậy đâu thể nói là đồng? Cho nên biết hai đoạn khác nhau.

Từ câu: “Trong kinh, ở nhiều đoạn v.v…” trở xuống là đoạn tranh luận thứ hai mươi mốt về việc có mười phương Phật hay không? Tát-bàđa nói không có, Tăng-kỳ nói có, Thành Thật nói rằng ở một thế giới thì không, đối với nhiều thế giới thì có.

 

 

PHẦN 2

Đầu phần hai là trả lời câu hỏi kết thứ ba. Đức Như Lai khéo biết căn tánh, vì sao nói bất định khiến cho mọi người tranh luận?

Văn có hai: Trước khen ngợi lý sâu xa, sau là phân biệt nghi chấp. Văn trước lại có hai: một là nói thuyết bất định là cảnh giới của Phật.

Vì lý sâu xa, chứ chẳng phải Phật cố ý nói bất định trái nhau để dẫn đến tranh luận. Do đệ tử chẳng đạt lý nên mới tranh chấp.

Từ câu: “Nếu có người v.v…” trở xuống là ý thứ hai, lại có hai: 1/ Khuyên nên sinh nghi; 2/ Là khuyên chớ nên chấp. Nếu nghe nói bất định mà cho là đúng, thì chắc chắn thành gốc mê lầm, vì thế mới khuyên.

Văn trước nói: “Nghi là bến bờ của giải ngộ”, lại là gốc mê hoặc, nếu là nghi trong mười sử thì đó là nghi kiến, chẳng phải là bến bờ của giải ngộ, chẳng thể phá hoặc. Nói như núi Tu-di, có người cho rằng phiền não cao lớn như núi Tu-di, tâm nghi có công năng phá trừ; có người cho rằng phiền não như núi Tu di vững chắc, tâm nghi có khả năng thổi bay. Vì thế lấy Tu-di làm dụ.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn hai, phân biệt về nghi chấp, có hai: Trước gồm hai phen hỏi về chấp, sau gồm bốn phen hỏi về nghi. Hai phen trước đều có hỏi và đáp, như văn kinh ghi.

Ý hỏi là chưa thấy Niết-bàn thì đâu thể nghi là có hay không.

Phật đáp: Sinh tử gọi là khổ, Niết-bàn chẳng phải khổ, nhất định nhân có khổ mà nghi, chẳng khổ nhất định có, phi khổ dứt trừ khổ ư?

Phen thứ hai nêu việc hiện tại để hỏi về nghi. Nếu thấy khổ thì nghi chẳng khổ, người thấy Sơ quả lẽ ra nghi có đọa khổ.

Phật đáp có bốn: một, phủ định.

Đây chỉ là nghĩa định chứ chẳng hợp vói nghĩa nghi. Ta chỉ nhất định nói quả này chẳng đọa, không hề nói đọa; cũng như nói Phật chắc chắn là Bậc Nhất Thiết Trí, đâu được đối với tâm quyết định mà sinh nghi chẳng định.

Từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là nêu tướng của tâm nghi để hiển bày chẳng nghi.

Trong đây có ba dụ, đồng nói trước thấy sau nghi.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là kết thúc nghi chấp.

Thứ tư, từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích lý do nghi.

Sự lý như thế không hề thấy qua mà vẫn sinh nghi, cần gì phải trước có thấy rồi sau mới sinh nghi.

Phật đáp, trước muốn định ra Niết-bàn và sinh tử, sinh tử là sở đối trị, Niết-bàn là năng đối trị. Suy tính thử xem năng trị là có hay không.

Từ câu: “Ý của ông v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi về dòng sông đục. Trước nêu lại câu hỏi và phá bỏ, kế là trả lời.

Dùng việc trước đã thấy sông đục, sông cạn ở những nơi khác, để nghi sông nơi đây có sâu cạn.

Phen hỏi đáp thứ tư.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ ba, nói về kiến chấp đoạn thiện. Văn có ba:

  • Lại nêu người.
  • Nói về khởi kiến.
  • Dứt mất gốc thiện.

Lúc trước đã nêu ra Thiện Tinh, nay lại nêu ra nữa là vì sắp nói về khởi kiến.

Từ câu: “Lìa bốn việc này v.v…” trở xuống là nói về khởi kiến. Văn có bốn đoạn: 1/ Có sáu phen nói về không có nghiệp bố thí; 2/ Có sáu phen nói không có cha mẹ; 3/ Có ba phen nói không có nhân quả; / Có chín phen nói không có bậc Thánh.

Phước từ duyên sinh, người thí và nguời thọ duyên hợp thì tự sẽ sinh phước, như gieo hạt vào ruộng tốt, gặp trời mưa, nhờ nhân duyên đất nước đầy đủ nên hạt nẩy mầm, đâu có bố thí cho kẻ nghèo lại bị quả báo nghèo cùng? Nghèo là quả kém, bố thí thì được quả báo tốt đẹp, chẳng thể gieo lúa mà thâu hoạch cỏ được. Ruộng xấu thí thâu hoạch ít, chẳng cần phải bàn.

Nay nói thêm rằng: Nếu bố thí cho người nghèo cùng mà bị nghèo cùng, thì lẽ ra gieo hạt xuống ruộng thì đến mùa đông sẽ thu lấy đất và nước. Nếu khởi kiến đoạn thiện, đoạn thiện khởi kiến, phần nhiều là ở cõi Diêm-phù; ba chân kia rất yếu, các vị trời thì tham đắm lục lạc, địa ngục thì quá khổ, đều không cương quyết, cho nên ít có tâm này.

1/ Nói Tử và quả giống nhau để nói vô nhân. 2/ Nói người thí, người thọ và vật thí đều không; 3/ Nói thí cho người, người lãnh thọ rồi dù có làm thiện làm ác, cũng chẳng liên quan đến người thí. Vậy nếu người thí bố thí cho dao bén để giết người, việc ác này chẳng lẽ không quan hệ đến thí chủ ư? / Thí vật, vật vô ký thì đâu có được quả thiện; 5/ Làm chẳng thể thấy, suy ra thí do ý, ý đã chẳng thể thấy, thì việc thí há có thấy hay sao? Nhưng lại thấy quả thiện ác; 6/ Nói không làm không chịu, nếu vì người chết mà tu phước, thì đâu có người nhận chịu phước này?

Từ câu: “Không cha không mẹ v.v…” trở xuống là đoạn hai, gồm sáu phen nói không có cha mẹ.

Đoạn ba, ba phen nói không nhân quả.

Nói làm thiện sau khi chết đọa vào ba đường ác, làm ác sau khi chết được sinh lên cõi trời cõi người. Giải thích rằng: Tất cả đều tùy thuộc vào một niệm thiện ác lúc sắp chết mà đọa hay thăng. Còn những nghiệp khác chưa trả thì cũng chẳng mất, dùng ba đời là hiện báo, sinh báo và hậu báo để phân biệt, theo lý rất dễ hiểu. Các câu khác đều rất dễ hiểu.

Đoạn thứ tư gồm chín phen.

Từ câu: “quán xét v.v…” trở xuống là ý thứ ba nói dứt mất gốc thiện. Trước nói dứt mất gốc thiện. Kế là phân biệt lợi độn.

Hỏi: quá khứ, người Xiển-đề có tu nhân trí tuệ, lẽ ra phải có tập quả, vì sao lại dứt mất gốc thiện?

Đáp: Chỉ có trí thế gian, không có trí xuất thế, mà trí tuệ thế gian đoạn dứt gốc thiện xuất thế, cũng dứt cả gốc thiện thanh tịnh. Ở thế gian việc như thế không phải ít. Xưa Từ Bộc Xạ rất giỏi xử đoán việc người, như khi ở thượng Ngu phạm lỗi thì hỏi đáp chẳng được. Như Thiên Trụ Du hiểu rõ được nghĩa sâu xa mà chẳng hiểu biết lời lẽ thế gian. Đó là những người Thượng trí mà chẳng hiểu việc thế gian, nhưng người Xiển-đề tuy có thế trí nhưng chưa hẳn biết được pháp xuất thế.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần thứ hai trong đoạn lớn, nói về sinh thiện. Văn có ba ý: 1/ Nói về Trung đạo, sinh thiện; 2/ Chỉ nói về Trung đạo; 3/ Chỉ nói về sinh thiện. Thứ nhất có năm phen hỏi đáp. Cũng có thể gom làm ba: 1/ Một phen đầu nói về thời tiết sinh thiện; 2/ Một phen kế nói chẳng dứt mất Phật tánh; 3/ Ba phen sau nói do tánh mà sinh thiện.

Phen thứ nhất:

Phật đáp có hai ý: Trước nói thời tiết, sau nói sinh thiện.

Người lợi căn thì lúc mới vào, người độn căn thì sau ra. Theo lý thì có hàng Trung căn sinh thiện trở lại vào giữa hai thời này. Nhưng lúc ở địa ngục cho chịu khổ không phút tạm dừng để có thể sinh thiện, nên chẳng nói đến.

Từ câu: “Thiện có ba loại v.v…” trở xuống, là đối với sinh thiện mà nói về đoạn thiện ở quá khứ, vị lai. Do còn thiện này nên thiện lại được sinh. Văn có ba: 1/ Nêu ba đời; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận.

Trong phần giải thích có hai: 1/ Là thiện quá khứ, thiện đã tiềm ẩn chẳng thể dứt được; 2/ Nói nhân tuy diệt mà quả chưa chín, tức vị lai chưa khởi thì chẳng thể dứt.

Ý thứ ba từ câu: “Vì thế chẳng gọi là, v.v…” trở xuống là kết luận. Văn có hai: Trước nói về thiện ở quá khứ, vị lai chẳng thể dứt; kế là nói thiện hiện tại có thể dứt.

Thiện ở quá khứ và vị lai chẳng thể dứt. Nói quá khứ tức là kết luận quá khứ chẳng thể dứt, nói quả tức kết luận vị lai chẳng dứt.

Kế là nói dứt nhân thiện ba đời, tức chánh thức dứt nhân thiện ở hiện tại.

Nhân thiện hiện tại diệt, thì không có thiện ở vị lai. Thiện ở vị lai chẳng khởi, theo nghĩa nói là đoạn. Đã không có thiện hiện tại và vị lai, thì quá khứ cũng dứt, theo nghĩa nói là đoạn; đó là dứt thiện ba đời. Tập nhân đã diệt hết thì chẳng thể dẫn đến tập quả của ba đời.

Phen hỏi đáp thứ hai nói Phật tánh chẳng dứt, hỏi cả hai câu: 1/ Hỏi Phật tánh thuộc ba đời chăng? 2/ Hỏi Phật tánh có thể bị cắt đứt hay chăng? Trước là lãnh chỉ, kế là định Tông, sau là kết câu hỏi.

Phân định Tông, tức chung riêng ba đời.

Kết luận vặn hỏi. Chỉ hói nghĩa riêng ba đời.

Nếu thuộc vị lai, thì có hai câu hỏi: Một là hỏi chẳng phải vị lai, hai là hỏi ở vị lai. Phật tánh đã thường, thường thì chẳng thuộc vị lai. Nếu chẳng phải vị lai thì vị lai sẽ được Tam-bồ-đề. Đó há chẳng phải vị lai hay sao?

Hiện tại cũng có hai câu: câu thứ nhất là nói chẳng phải hiện tại, vì Phật tánh là thường; câu thứ hai nói ở hiện tại; vì tánh đã thấy được, chẳng lẽ không phải là hiện tại ư?

Từ câu: “Như Lai cũng nói v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai rằng có dứt được hay không? Văn có hai: Trước nêu sáu việc, sau mới hỏi.

Nếu sáu nghĩa là duyên khởi của câu hỏi. Sáu nghĩa gồm có hai

cách giải: Một là liễu nhân, hai là chánh nhân, vì nhìn từ pháp tánh ở giai vị dưới thì đó là Phật tánh của cửu địa, cho nên có số lượng tương ứng.

Từ câu: “Nếu dứt gốc thiện, v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi, văn có ba: 1/ Hỏi Xiển-đề nếu có Phật tánh lẽ ra chẳng dứt mất gốc thiện.

Câu hỏi này phát khởi từ nghĩa Phật tánh thứ tư, là thiện trong sáu nghĩa.

Từ câu: “Nếu không có Phật tánh v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai: Nếu dứt mất Phật tánh, vì sao nói tất cả đều có?

Câu hỏi này phát xuất từ nghĩa phá kiến thứ sáu trong sáu nghĩa. Vì tất cả đều thấy được, vì sao nói là dứt?

Từ câu: “Nếu nói Phật tánh v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ ba, là đáp ý hỏi.

Nếu cho rằng khi xưa đều có, sau tự bị dứt trừ thì vừa có vừa dứt, vì sao nói thường, đây là từ nghĩa thường thứ nhất trong sáu nghĩa mà sinh.

Phật đáp có hai: Trước nêu bốn chương, sau giải thích.

Trong phần giải thích, trước giải thích ba môn, nhưng lại giải thích phân biệt đáp, sau mới giải thích trí đáp. Trước có ba đoạn văn:

Giải thích lại và phân biệt đáp, chính là dùng cách ngăn chặn câu hỏi. Trước đáp câu hỏi sau, sau đáp câu hỏi trước. Đáp câu hỏi sau có bốn: 1/ Từ câu: “Như Lai có vô lượng v.v… ”trở xuống là nêu bảy nghĩa của Phật tánh.

Kế là nêu Bồ-tát thân sau cùng có sáu nghĩa.

Nêu bảy, nêu sáu đều là lý do của lời đáp.

Từ câu: “Như trước thầy hỏi v.v…” trở xuống là nhắc lại câu hỏi.

Có ba lời hỏi, nay chỉ nhắc lại câu hỏi đầu.

Từ câu: “Cũng có Như Lai, v.v…” trở xuống là chánh đáp.

Trước nói tuy có mà không, sau nói tuy không mà có, là đáp chung cho ba câu trước.

Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là lại đáp câu hỏi về ba đời ở trước. Trước hỏi về Phật tánh là thường thì chẳng thuộc ba đời, nay Phật mới đáp. Trước phân biệt Phật tánh của Như Lai, trụ thứ chín, trụ thứ tám, trụ thứ năm khác nhau. Nhưng người dứt mất gốc thiện đều có tánh thứ bảy, thứ sáu v.v…này, vị lai sẽ được, cho nên chẳng thể nói không thuộc ba đời. Đương tướng của các pháp chẳng thuộc ba đời mà ở vị lai sẽ được, nên lại nói là vị lai.

Văn có năm đoạn: 1/ Nói Phật tánh của Như Lai và thân Bồ-tát sau cùng; 2/ Nói Phật tánh của Bồ-tát trụ thứ chín; 3/ Nói Phật tánh của Bồ-tát từ trụ thứ sáu đến tám; / Nói Phật tánh của Bồ-tát trụ thứ một đến trụ thứ năm; 5/ Tổng kết các câu hỏi. Đoạn một có bốn:

  1. Một, là nói Như Lai tánh chẳng thuộc ba đời.
  2. Phật tánh của Bồ-tát thân sau cùng.

Hiện tại thấy chút phần, vị lai sẽ thấy toàn phần.

Thứ ba, nói lại về nhân Như Lai là thuộc ba đời, còn quả thì có phải và chẳng phải.

Nếu năm ấm thiện thì còn thuộc ba đời, còn quả Bồ-đề thì chẳng phải ba đời.

Thứ tư, nói lại Bồ-tát thân sau cùng đều thuộc ba đời, vì có thể thấy.

Từ “Phật tánh v.v…” trở xuống là ý thứ hai.

Sáu nghĩa chỉ nói khả kiến, không khác với các nghĩa đã nói ở trên.

Từ câu: “Bồ-tát Bát trụ v.v…” trở xuống là nói Lục trụ đến Bát trụ.

Chỉ có năm nghĩa, không có nghĩa thường.

Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói Bồ-tát Sơ trụ đến Ngũ trụ.

Chỉ có năm việc, nói thiện, bất thiện là khác với sáu nghĩa của Bồ-tát thân sau cùng. Nói Thiểu kiến, tức giai vị đã cao, thấy được chút phần, vì tùy phần thấy tánh nên nói là thiểu kiến. Cửu địa đến Sơ địa thì giai vị thấp chưa thấy tánh, vì sẽ thấy nên nói là khả kiến. từ Sơ địa đến Ngũ địa có thiện bất thiện, thiện có nghĩa tu và chẳng tu, tu đắc là thiện, chẳng tu thì chẳng thiện. Lẽ ra cũng nói chân chẳng chân, giải thích rằng: Chân thật tức là thể Phật tánh, chẳng có mà đã có, tức chân thật. Chỉ một chân thật này, nên có thiện bất thiện khác nhau. Xưa giải thích rằng: Lục Địa thì Bát-nhã hiện tiền, nhưng có lúc mất niệm; mất niệm thì bất thiện, chẳng mất là thiện.

Hỏi: Bồ-tát thân sau cùng và Cửu địa đồng có sáu việc, trong sáu việc đều có một việc là thường. Sơ địa đến Bát địa đều có năm việc, vì sao không có một việc thuờng?

Có người giải thích rằng: Bồ-tát thân sau cùng giai vị cao, Cửu địa giai vị thấp nên đều có thưởng, nhưng chưa ngăn chặn đuợc lời gạn hỏi, nên phải lập từ Sơ địa đến Ngũ địa giai vị thấp đều có nghĩa vô thuờng, Bồ-tát thân sau cùng nếu so với Phật cũng là vô thuờng.

Có người đáp rằng: Phật tùy tự ý ngữ, chẳng nên gượng phân biệt. Câu hỏi cũng chưa ngăn trừ được.

Hỏi: Phật tánh của Bồ-tát thân sau cùng có thường tịnh, vì sao không có ngã lạc?

Đáp: Bồ-tát có hai tuệ hóa tha nên nói là thường, cảnh trí đều sáng tỏ nên nói là tịnh, chân đối với ngụy, thật đối với hư, không ác là thiện, vì thấy một phần nên nói là thiểu kiến, không có tám tự tại nên không có ngã, còn báo thân nên không có vui.

Nay cho rằng cách giải này chưa hoàn toàn, sau sẽ giải thích riêng.

Từ câu: “năm loại, sáu loại v.v…” trở xuống là ý thứ năm, kết luận đáp câu hỏi trước.

Từ câu: “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là giải thích trí đáp, trước là chánh giải thích.

Sau nói về hỏi đáp.

Trí đáp có hai: 1/ Gác qua chẳng đáp gọi là Trí đáp, hỏi lại vấn đề đáp cũng gọi là Trí đáp.

Nói thêm rằng: Gác qua không trả lời gọi là Trí đáp. Từ câu: “Cadiếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói nhờ Phật tánh mà sinh điều thiện. Có ba phen hỏi đáp: 1/ Nói về tánh nhân quả; 2/ Chánh nói nhân Phật tánh sinh thiện; 3/ Giải thích nghi.

Ý câu hỏi thứ nhất là: Quả tánh chẳng thuộc ba đời có thể là Phật tánh, nhân quả trong nhân Phật tánh thì thuộc ba đời, vì sao gọi là Phật tánh?

Phật đáp có hai là chánh đáp và kết luận nói tánh bị che lấp. Thứ nhất lại có ba: 1/ Phân biệt hai tánh nhân quả có khi thuộc ba đời, có khi chẳng thuộc ba đời. 2/ Nêu tánh thể của nhân quả; 3/ Dẫn chứng. Văn thứ nhất lại có hai: một, là nêu môn nhân quả; hai là giải thích.

Nói năm ấm có nhân và quả, nghĩa là hoặc nghiệp trong năm ấm là nhân, ấm thiện là quả. Nhị thừa trong nhân là thuộc ba đời, nếu là Đại Bồ-đề thì chẳng thuộc ba đời,. văn trước nói: “Khi Như Lai chưa được Bồ-đề, thì nhân tánh thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai, còn quả tánh chẳng phải như thế, có khi thuộc quá khứ vị lai, có khi cũng chẳng thuộc quá khứ, vị lai”. Đến đây mới có văn giải thích.

Kế là giải thích nhân, tất cả vô minh, phiền não, kết nghiệp năm ấm ác là nhân Phật tánh; Tức vô minh phiền não v.v… sinh năm ấm thiện tức là quả tánh. Năm ấm ác chỉ là nhân tánh, còn năm ấm thiện thì chỉ chung cho nhân và quả, nhân là ba đời, quả thì chẳng phải ba đời. văn trước nói quả tánh vừa thuộc ba đời vừa chẳng thuộc ba đời. có người cho rằng ứng thân quả tánh là ba đời, pháp thân quả tánh chẳng thuộc ba đời.

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai nêu thể của nhân quả. Văn có hai là thể của nhân và thể của nhân quả.

Muốn nói tánh trung đạo tức là các pháp. Nếu y cứ theo phiền não thì gọi là Nhân.

Từ câu: “Từ vô minh v.v…” trở xuống là nêu thể của quả. Văn có hai: Trước nói tánh của quả ấm thiện chung cho nhân, là quả của bốn quả mười địa, tức thuộc ba đời.

Kế là nói ấm của quả chỉ ở tại quả, đức chẳng thuộc ba đời.

“Vì thế v.v…” trở xuống là đoạn ba, dẫn chứng. Trước dẫn chứng về nhân. Văn có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Vì thế v.v…” là dẫn chứng về quả, cũng có pháp, dụ và hợp.

Quả thì gồm đủ quả trong nhân và quả Bồ-đề.

Từ câu: “Hiện ta v.v…” trở xuống là đoạn hai. Kết luận nói tánh bị hoặc ngăn che, lại nói Trung đạo bị hoặc ngăn che. Văn có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phen thứ hai nói về nhân tánh sinh thiện. Trước hỏi, sau đáp. Về hỏi, trước nêu lại bảy, sáu, năm nghĩa Phật tánh.

Trong phần hỏi, ý muốn nêu: Đã ở vị lai, vì sao nói có mà năng sinh thiện.

Phật đáp có ba: 1. Song dụ; 2. Song dụ và hợp; 3. Song kết. Song dụ có hai: Trước nói vì nghiệp ở quá khứ nên hiện tại được quả báo an vui.

Kế là nói nghiệp vị lai chưa sinh, nên rốt cuộc chẳng sinh quả.

Từ câu: “Có phiền não v.v…” trở xuống là song hợp dụ.

Văn có hai: Câu đầu hợp với nghiệp quá khứ trước với quả vui hiện tại.

Tức hợp với hiện tại: vì phiền não làm cho dứt mất gốc thiện, là do quá khứ. Nay nói phiền não hiện tại, tức là từ quá khứ nay đến hiện tại.

Kế là từ câu: “nếu không có phiền não v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ hai: Nghiệp vị lai chưa sinh, thì rốt cuộc quả chẳng sinh.

Tức hợp vì nhân duyên Phật tánh ở vị lai sẽ sinh ra gốc thiện.

Từ câu: “Cho nên người dứt mất gốc thiện, v.v…” trở xuống là song kết.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen thứ ba giải thích nghi, nghi rằng: Vị lai chưa có, vì sao nói sinh điều thiện?

Đức Phật đáp có hai là dụ và hợp.

Nêu dụ đèn và mặt trời, nếu cố chấp thì lúc đèn và mặt trời chưa xuất hiện, không thể xua tan tối tăm. Nếu theo nhân duyên giả danh thì chưa sinh khởi cũng có thể xua tan tối tăm.

Kế là từ câu: “Phật tánh cũng như thế v.v…” là hợp với nghĩa chúng sinh đều có điều thiện vị lai có thể sinh ra Phật tánh.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn hai, chỉ nói về Trung đạo thành tựu sinh thiện cho chúng sinh. Nếu không có lý Trung đạo thì làm sao sinh thiện được? Đó là nhờ có Phật tánh giữ gìn kiến lập. Văn có ba: 1/ Nói về Trung đạo chẳng phải trong chẳng phải ngoài; 2/ Nói Trung đạo chẳng phải có chẳng phải không; 3/ Y cứ theo pháp để nói rộng về Trung đạo. Cũng có thể nói hai đoạn trước nói về thể của Trung đạo, một đoạn sau nói về Dụng của Trung đạo. Đoạn một có hai phen hỏi đáp.

Phen thứ hai, trước Ca-diếp nói chẳng phải ý của mình, chỉ vì chúng sinh mà thôi.

Phật đáp có sáu phen: 1/ Y cứ theo giải hoặc mà nói về trung đạo; 2/ Y cứ theo nội đạo, ngoại đạo để nói về Trung đạo; 3/ Y cứ theo quả trong ngoài để nói về Trung đạo; / Y cứ nhân duyên trong ngoài để nói về Trung đạo; 5/ Y cứ theo hạnh trong ngoài để nói về Trung đạo; 6/ Y cứ vào trong ngoài thân để nói về Trung đạo. Sáu phen này có hai ý: Một, là lược nói đại ý, nên y cứ theo giải hoặc, năm phen sau nói rộng về chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Thứ nhất, là lược nói, gồm có ba: Một, là nêu Trung đạo; hai là giải thích, ba là kết luận.

Thứ nhất từ câu: “Ta muốn chúng sinh v.v…” trở xuống là giải thích.

Nói chung vì lợi ích chúng sinh. Nói chẳng phải trong tức chẳng phải sáu căn trong thân; chẳng phải ngoài tức chẳng phải sáu trần ngoài thân. Nhưng năm phen sau phá riêng hai chấp.

Từ câu: “Cho nên Như Lai v.v…” trở xuống là kết luận.

Nay nói thêm rằng: Một bộ kinh này chia làm năm chương lớn, đều gọi là Niết-bàn; Niết-bàn chỉ cho Phật tánh, ngay nơi ba mà một, là tánh chánh nhân, ngay nơi một mà ba, là tánh ba đức. Nay nói chúng sinh có Phật tánh thì gồm có hai nghĩa. Đại sư Chương An khi nói đến đây thì gọi là Trung đạo, chẳng lẽ Trung của hữu vô, chân tục mà gọi là Phật tánh hay sao? Vì thế nói Phật tánh Trung đạo, thì Phật tánh trùm khắp tất cả. Cho nên văn kinh từ trước đến sau, chỗ nào cũng đều nói về trùm khắp. Vì thế đến đây lại nói: Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Nói song phi, chẳng những song phi mà còn là song thị nữa, nên văn sau bác bỏ rằng: Chúng sinh phàm phu, hoặc nói Phật tánh trong năm ấm, như quả trong vật chứa; lại như hư không. Thế gian nói Phật tánh chỉ là hữu tình. Như quả trong vật chứa, còn không thể chấp được như hư không, thì đâu thể hiểu được nghĩa chẳng phải trong chẳng phải ngoài? Huống chi văn kinh đã tự giải thích căn trần hợp mới gọi là Trung đạo. Căn hợp há chẳng phải là Nhất thể, há chẳng phải là tức nhau, há chẳng phải là tánh trùm khắp, há có thể đồng như quả trong vật chứa ư?

Nay hỏi tường vách là căn hay là trần? Hay là cả hai hợp? Hay là song phi? Nếu là song phi thì cũng chẳng phải năm ấm, đâu chỉ là tường vách? Ôi! Buồn thay người đời! Khổ thay người giảng! Xin cẩn thận dùng sáu chương môn để bao gồm một bộ, xin dùng một bộ để thâu nhiếp một đời giáo hóa, Đức Thích-ca Như Lai so với chư Phật trong mười phuơng ba đời, lý đều không hai, sự cũng chẳng khác. Vì chỗ sai lầm rất nặng, nên hết lòng khuyên bảo.

Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là nói rộng về Trung đạo; có năm phen, đều nói chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Phen thứ nhất, trước là nêu hai chấp.

Bốn phen đều nói về Trung đạo.

Từ câu: “Phật tánh nói chẳng phải có chẳng phải không v.v…” trở xuống là đoạn hai, văn có hai: Trước nói về Tông, sau là phá chấp. Về Tông, văn có ba: một là nói chẳng phải có chẳng phải không; hai là nói vừa có vừa không; ba là kết luận nói chẳng phải có chẳng phải không. Văn thứ lại có ba: một là nêu, hai là chẳng phải, kế là giải thích hai chẳng phải.

Thứ ba kết luận hai chẳng phải (phi).

Kế là nói vừa có vừa không. Văn có ba cặp: Nêu lên, giải thích và kết luận.

Kế là kết luận.

Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là kết luận hai chẳng phải.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá chấp trái với Trung đạo, phần nhiều nhờ vào dụ. Văn có ba: 1. Dùng dụ hạt giống để phá; 2. Dùng dụ sữa và lạc để phá; 3. Nêu dụ muối mặn để phá. Dụ thứ nhất có ba: Dụ, hợp và kết.

Nói thêm rằng: Văn hợp có hai: Trước nêu lên, sau giải thích.

Giải thích: Chúng sinh tức Phật tánh, Phật tánh tức chúng sinh, nghĩa là chẳng phải trong ngoài mà cũng là trong ngoài, trong ngoài chẳng hai; cũng có thể nói sắc tức Phật tánh, Phật tánh tức sắc. Phen thứ hai ở trên cho ba mươi hai tướng quý là pháp bên ngoài, cho mười Lực, bốn Vô úy v.v… là pháp bên trong. Nếu không có sắc v.v… thì cũng không có tướng quý. Ba phen sau y cứ theo đó cũng rất dễ hiểu.

Kế là dụ về sữa lạc: Trước lập dụ về sữa, sau lại từ sữa mà lập dụ sinh thức. Thứ nhất lại có ba: 1. Định Trung đạo; 2. Phá thiên chấp; 3.

Kết luận theo chánh lý. Định trung đạo: Trước hỏi, sau đáp.

Đáp có ba: Một là xác định.

Hai là kết luận, giả thuyết vừa có vừa không.

Thứ ba là giải thích.

Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá thiên chấp, cũng phá cả có không. Ở đây chỉ phá chấp có. Văn có ba: 1/ Nói nhân quả đồng thời đều có vặn hỏi; 2/ Nói trong nhân có quả, so sánh và vặn hỏi; 3/ Nói trong quả có nhân, so sánh và vặn hỏi.

Nếu nói sữa lạc đồng thời, thì lẽ ra bơ, đề hồ đều đồng thời xuất hiện; vì đồng thời; cho nên lại vặn hỏi: Nếu chẳng đồng thời thì ai làm cho thứ lớp xuất hiện?

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là nói trong có nhân quả. Trước so sánh, sau vặn hỏi chẳng giống nhau.

Sữa là nhân của lạc mà làm sinh ra lạc, nước cỏ là nhân của sữa thì lẽ ra cũng phải sinh ra sữa.

Kế là một câu, nói về chẳng giống.

Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là câu thứ ba, so sánh vặn hỏi trong quả có nhân. Nói so sánh tức nói sữa là nhân của lạc, lạc là quả của sữa, quả lẽ ra phải có nhân trong ấy. Văn có ba: trước là chánh thức gạn hỏi, kế là kết luận lời văn hỏi, trước kết luận vốn không.

Kế là kết luận chẳng phải có chẳng phải không.

Từ câu: “Vì thế Như Lai v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận về lý tánh; văn có hai: trước là lìa thiên chấp.

Sau, kết luận về Trung đạo.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là nêu dụ sinh thức, vì dụ mà lập dụ; Trước nêu dụ sinh thức.

Từ câu: “Trong sữa v.v… “trở xuống, lại dùng sữa lạc để hợp dụ.

Văn có hai: Trước là hợp, sau là phá chấp.

Phá chấp lại chia hai: Trước nêu lại lời chấp, sau là chánh phá.

Trong phần phá, trước nêu hai chương, kế là giải thích. Thứ nhất

là nói nhân khác quả khác.

Kế là nói chẳng phải một nhân sinh ra tất cả quả, chẳng phải tất cả quả từ một nhân sinh, đây là chương hai.

Từ câu: “Bốn việc v.v…” trở xuống là giải thích hai chương. Thứ nhất là giải thích chương sau.

Nói chỉ sinh nhãn thức, chẳng thể sinh các thức nhĩ, tĩ, v.v… như thế đâu phải là nhân sinh một quả? Sữa sinh ra bơ cũng giống như thế, phải đợi các duyên, do các duyên mới sinh thì thuộc về vô thường.

Kế là, từ câu: “cho nên v.v…” trở xuống là giải thích câu nhân khác, quả khác.

Nhân sinh nên chấp có, nhân diệt nên chấp không; có diệt và chẳng diệt, tức nhân khác, quả khác.

Từ câu: “Như muốn v.v…” trở xuống là dụ thứ ba, nêu muối mặn để phá. Văn có hai là nêu dụ và phá chấp.

Phá chấp có hai: Trước nêu lại câu chấp, sau mới phá. Nếu chấp thì nêu hai chấp: 1/ Chấp trong muối có mặn. 2/ Nêu chấp trong hạt giống có bốn đại.

Kế là, từ câu: “tánh của muối v.v…” trở xuống là phá hai chấp. Trước phá chấp trong vật không mặn có mặn. Kế là phá bốn đại. Thứ nhất: Trước là phá bỏ.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là chánh phá. Văn có hai: Trước là vặn hỏi, sau là so sánh với các vật khác.

Ý gạn hỏi: Nếu bỏ muối vào vật chẳng mặn làm cho mặn, thì biết không có bản tánh; xưa đã không mặn mà nay mặn há chẳng phải là xưa không ư? Kế là so sánh, đổ một thăng muối xuống một ao nước thì mất tánh mặn, trong nước vẫn không có tánh mặn, cả hai bên đều không, thì ở đâu có tánh mặn? Kế là nêu tất cả đều giống như thế.

Từ câu: “Nếu nói ngoài bốn đại v.v…” trở xuống là phá bốn đại, tức phá câu chấp trước sau. Văn có hai: Trước là phá, sau là so sánh.

Từ câu “Như mười hai thể loại kinh v.v…” trở xuống là ý thứ ba, y cứ theo các pháp mà nói rộng về Trung đạo, cũng là nói về Dụng. Văn có ba: Một, là y lý khởi giáo dụng; hai, là Tu nhân hướng quả dụng; ba, Tập giải trừ hoặc dụng. Về giáo dụng thì trước nêu lên, sau giải thích.

Trong phần giải thích có hai: Trước nói chung về ba ngữ, sau nói riêng về tự ý ngữ. Trước lại có hai: Một, là y cứ theo giáo xưa mà nói ba ngữ. Trong giáo xưa giải thích có đủ ba ngữ.

Các Tỳ-kheo mỗi vị tự nói nhân của thân, Phật cũng tự nói, đó là tùy tự ý ngữ.

Như Trưởng giả nói huyễn, Phật tùy lời nói của Trưởng giả mà cũng nói huyễn. Đó là Tùy tha ý ngữ.

Từ câu: “Như ta nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo giáo nay để nói về ba ngữ. Văn cũng có ba ý.

Từ câu: “Có lúc Như Lai v.v…” trở xuống là nói riêng về Tùy tự ý. Văn có ba: 1/ Nói rộng và lược; 2/ Nêu bảy loại; 3/ Nói về hữu vô Tùy tự ý.

Y cứ theo một pháp tức là lược, y cứ theo vô lượng tức là rộng.

Nêu bảy loại. Văn có hai là nêu lên và giải thích.

Phần giải thích tự có bảy đoạn: Thứ nhất là trong nhân nói quả.

Làm thiện thì được sinh lên cõi trời cõi người, làm ác thì đọa điạ ngục. Kế là trong quả nói nhân.

Thấy nghèo thì biết bỏn sẻn, thấy giàu thì biết ưa thích bố thí.

Năm việc còn lại như văn kinh.

Thứ ba là từ câu: “Như Lai lại có v.v…” trở xuống là nói hữu vô Tùy tự ý ngữ. Văn có ba: Một là nói có không (hữu vô); hai là nói chúng sinh chẳng hiểu; ba là lập bốn câu phân biệt.

Thứ nhất lại có hai: Một là y cứ theo Như Lai để nói về có không của Phật tánh; hai, là y cứ theo Xiển-đề để nói về có, không của Phật tánh. Về Như Lai lại có hai ý: Trước nói có không, sau so sánh đồng loại để giải thích. Thứ nhất lại có hai: Một là nói về vô sở hữu; hai, là nói về hữu sở vô.

Mười Lực, bốn Vô úy v.v… đều là vô hữu mà hữu, kế là nói về hữu sở vô.

Các nghiệp bất thiện, vô ký, tất cả phiền não đều là xưa có mà nay không.

Kế là từ câu: “Như có, không, thiện, bất thiện, v.v…” trở xuống là nêu hai mươi hai cặp so sánh với hai việc ở trước.

Nói hữu lậu vô lậu, hữu lậu so sánh giống với hữu sở vô, vô lậu so sánh với vô sở hữu; Thế gian so sánh với hữu sở vô, phi thế gian so sánh với vô sở hữu, các cặp khác cũng giống như thế.

Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là nói Nhất-xiển-đề có Phật tánh hay không.

Đều trái với có không của Như Lai ở trên. Như Lai có thiện thì Xiển-đề không có, Như Lai không có ác thì Xiển-đề có ác.

Từ câu: “Tuy ta nói v.v…” trở xuống là nói chúng sinh chẳng hiểu lời này của Như Lai. Văn có hai: Trước nói chẳng hiểu, kế là dẫn chứng việc xưa. Văn thứ nhất có hai: thứ nhất nói chẳng hiểu.

Bồ-tát có hạnh sâu xa còn chẳng hiểu, huống chi là người có trí tuệ cạn mỏng.

Từ câu: “Khi xưa v.v…” trở xuống là dẫn chứng.

Phật nói Thế đế hàng Thanh văn không hiểu, có hai cách giải thích: 1/ Thế đế có nhiều chủng loại khác nhau, sự thì rộng nhiều, hành nghiệp nhân quả thì sâu xa, cho nên khó hiểu. 2/ Cho rằng ứng thân là Thế đế nên hàng Nhị thừa chẳng hiểu.

Hỏi: “Phật nói Thế đế ở đâu mà năm trăm vị Thanh văn chẳng hiểu?

Đáp: 1/ Cho rằng chính là trong hội Hoa Nghiêm năm trăm vị Thanh văn như câm như điếc; 2/ Bản Phạm thì nhiều nhưng truyền đến Trung Quốc thì ít. Đại sư Thiên Thai giải thích việc này trong một chương riêng.

Từ câu: “Hoặc nói v.v…” trở xuống là lập bốn câu để phân biệt; gồm có hai: Trước y cứ bốn câu, kế là khuyên phân biệt.

Xưa giải thích rằng: Nhất-xiển-đề có tức là có tánh cảnh giới tà ác, người thiên căn có tức có Liễu nhân muôn điều thiện cũng gọi là duyên nhân; hai người đều có tức đã có chánh tánh, hoặc chúng sinh tánh; cả hai đều không tức không có quả quả tánh; Hà Tây cho rằng Xiển-đề có tức là có năm ấm ác, thuộc về tánh bất thiện; người thiện căn có; tức là có năm ấm thiện, thuộc tánh thiện; cả hai đều có tức là đều có tánh năm ấm vô ký, đều không tức không có quả tánh Niết-bàn mầu nhiệm. Ý này đồng với cựu giải, nhưng dùng lời thì khác. Hưng Hoàng thì giải thích từ một câu đến bảy câu: Một câu chỉ là Trung đạo; hai câu là Phật tánh của Như Lai và Xiển-đề hoặc có hoặc không; ba câu tức là ba loại ngữ: Phật tự ngữ tức Xiển-đề có tánh, tha ngữ tức Xiển-đề vô tánh, tự tha ngữ tức vừa có vừa không; bốn câu tức bốn câu ở đây; bảy câu tức bảy loại chúng sinh, hai loại đầu là ác, năm loại sau là thiện.

Lại có ba cách giải thích: 1/ Y cứ chung các nghĩa; 2/ Y cứ theo trong ngoài lý; 3/ Chỉ y cứ trong lý.

Y cứ chung các nghĩa thì lý không có thiện ác mà có dụng thiện ác, người thiện căn có tức có dụng thiện, Xiển-đề có tức có dụng ác, cả hai đều có tức mỗi thứ có một, cả hai đều không tức mỗi thứ không có một.

Y cứ theo trong ngoài của lý: Phật tánh vốn chẳng có được và chẳng được, nhưng theo duyên nên có được và chẳng được. Ngoài lý thì xiển-đề có được, trong lý thì không được; người thiện căn có tính vô đắc, người Xiển-đề có tánh hữu đắc; cả hai đều có và cả hai đều không thì giống như trên vừa nói.

Chỉ y cứ theo trong lý: Xiển-đề tức Thiện Tinh; người thiện căn tức La-vân. Đây là hai căn cơ giáo hóa thuận và nghịch. Xiển-đề có tánh bất thiện nghịch hóa, người thiện căn có tánh thiện thuận hóa. Cả hai đều có đều không cũng giống như trên đã nói. Cho đây là thuyết “hiểu được điều khó hiểu”.

Nay nói muốn y cứ theo văn này mà lập ra bốn câu: Xiển-đề có là có chìm, người thiện căn có là có nổi, cả hai đều có tức có tại bờ sông Hằng; cả hai đều không là đều chẳng đến bờ kia. Muốn suy nghĩ mà lập, lẽ ra cũng có vô lượng, nhưng chỉ nói lược như thế.

Lại y cứ theo ba Đế: Xiển-đề có tức có nhân ác Thế đế, người thiện căn có tức có nhân thiện xuất thế, cả hai đều có tức đều có quả báo thân thế đế, cả hai đều không tức đều không có nhân quả Trung đạo.

Từ câu: “Nếu các đệ tử ta v.v…” trở xuống tức là khuyên phân biệt, như văn kinh.

Từ câu: “Như bảy người xuống sông Hằng v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về Dụng tu nhân đến quả, cũng lập dụ để nói về Trung đạo, gồm có dụ hợp và kết. Dụ thuyết có hai là chung và riêng.

Từ câu: “Nói luôn chìm v.v…” trở xuống là hợp dụ riêng. Hợp thứ nhất thường chìm với Nhất-xiển-đề. Văn có bốn:

1/ Hợp với nghĩa trái thiện.

2/ Câu: “Mà nghĩ rằng v.v…” trở xuống là hợp với việc hướng về ác.

3/ Từ câu: “vì chẳng v.v…” trở xuống là hợp với trụ ác.

4/ Từ câu: “Người này v.v…” trở xuống là hợp với người dứt gốc thiện này.

Từ câu: “Tuy ta nói v.v…” trở xuống là hợp với người thứ hai tạm nổi rồi chìm, cũng có bốn: 1/ Khởi hạnh trái lý, tức là vì hữu mà tu thiện; 2/ Từ câu: “Thế nào gọi là chìm v.v…” tức là giải thích nghĩa nổi chìm; 3/ Từ câu: “người này tuy tin v.v…” trở xuống là nói hành chẳng đầy đủ; / Từ câu: “Nổi lại chìm v.v…” là nêu riêng người ấy.

Y cứ theo nghĩa Hạnh chẳng đầy đủ. Văn có hai: Trước nêu người, sau là từ câu: “Năm việc v.v…” trở xuống là kết luận chỉ rõ. Đầu tiên nêu năm việc: 1/ Tin chẳng đủ; 2/ Giới chẳng đủ; 3/ Nghe; 4/ Thí; 5/ Tuệ. Về Tín rất dễ hiểu.

Nói sai nghi giới nghĩa là bên trong không có thật đức, mà ngoài tỏ vẻ ngay thật, muốn người cung kính. Tùng giới tức trong ngoài tương xứng, chẳng vì việc người, chỉ cầu lợi ích chân thật mà giữ giới. Hữu giới tức là cầu cả ba; xả giới tức xả bỏ cả ba.

Nói tin sáu thể loại kinh, Hà Tây cho rằng đó là Tu-đa-la, kỳ-dạ, Tì-già-la, Ưu-đà-na, Y-đế-mục-đa già, Ưu-bà-đề-xá, sáu bộ kia ý nghĩa sâu kín khó hiểu, nên không tin. Có người cho rằng chỉ trong mười hai thể loại tin sáu, không tin sáu, các nghĩa còn lại có thể tự hiểu.

Từ câu: “Người này chẳng đủ v.v…” trở xuống là đoạn hai, kết luận.

Từ câu “Người thứ hai v.v…” trở xuống là đoạn ba, hợp với hạng người trụ lại. Theo lý thì phải nói là nguời thứ ba, vì sao lại nói là người thứ hai? Giải thích rằng: Vì hạnh tu tập của người thứ hai này tương ứng với nguời thứ ba. Phẩm Sư Tử Hống năm phương tiện, hai mươi tâm đều được trụ; nay phẩm này chỉ căn cứ theo vị mới chứng đắc, lại y cứ theo Tiểu thừa, nên nói hai phương tiện trước là Niệm xứ và Noãn pháp, nếu theo bảy phương tiện thì đó là bốn phương tiện trước từ Đảnh, Nhẫn cho đến Sơ quả, lại thuộc về người quan sát y phương. Nếu y cứ theo Đại thừa thì ba mươi tâm đều thuộc về người quán sát y phương; Từ Sơ địa trở lên là người đến bờ kia.

Văn có bốn: một là nói về bản khởi; hai là nêu người; ba là nói trụ lại; bốn là nói về hành pháp. Ba văn trước thì thuộc phần cuối quyển này; thứ nhất nói về bản khởi.

Vì người thứ hai ở trước là người thứ ba ở đây, có chỗ đổi thành người thứ ba thì không đúng.

Từ câu: “Đó là v.v…” trở xuống là thứ hai nêu người.

Lẽ ra nêu ra người tự giải, nhưng lại nêu Xá-lợi-phất, Mục-kiềnliên là chân giải, xưa giải thích việc này có hai nghĩa: Người thứ ba này về giai vị trên chung đến A-la-hán, nên mới nêu các vị ấy; hai, là dùng việc xưa, ban đầu là người tự giải, do tu tập mà đuợc nhập chân; nay vẫn xếp vào giai vị tự giải khi xưa.

Từ câu: “Thế nào là trụ, v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về được trụ.

Hỏi: Trong dòng sông Niết-bàn có bốn người đều được Niết-bàn là La-hán, Bích-chi-Phật, Bồ-tát và Phật; trong sông sinh tử có Phật là người thứ bảy, còn ba người kia vì sao chưa qua được?

Đáp: Có người cho rằng trong dòng sông Niết-bàn, Ba thừa đồng được Niết-bàn, vì thế đều thuộc người thứ bảy. Trong sông sinh tử, bốn quả chưa lìa khỏi sông sinh tử, nên chưa qua được. A-la-hán tuy vô sinh mà còn đời này, nên chẳng qua được. Vì vậy được Niết-bàn vẫn chưa khỏi sinh tử. Còn vượt sinh tử rồi thì chắc chắn được Niết-bàn, v.v…

Ở đây phê bình: Lời giải này dường như cách xa lý chưa rõ ràng. Bây giờ lại hỏi rằng: Nếu trong dòng sông Niết-bàn, bốn người đồng được Niết-bàn, thì bốn người có đồng thấy được Phật tánh hay không? Nếu kia đáp là đồng thấy tánh, thì đây đâu chẳng phải là thấy lý? Nếu đáp chẳng đồng thấy, thì cũng chẳng đồng thấy Niết-bàn, vậy sao văn trước nói đồng là người thứ bảy? Đã đồng là người thứ bảy mà có người thấy tánh và người chẳng thấy tánh, thì biết Niết-bàn có khác, sinh tử bất đồng. Ở đây xét ý kinh: Sông sinh tử chỉ ở biến dịch, chỉ có Phật mới qua được, còn những người khác vẫn ở trong sông. Sông Niết-bàn chỉ ở phần đoạn, chung cho bốn hạng người tức bảy hạng người của Tiểu thừa. Cho nên Thích luận ghi: “A-la-hán địa là Phật địa “. Lại Ca-diếp và Phật cùng ngồi giường Giải thoát, tức là nghĩa này. Chung riêng đồng nêu, thuận theo thời nghi, không nên chấp nhất định.

 

PHẦN 3

Đầu quyển là đoạn bốn, nói về hành pháp. Văn có năm đoạn: 1/ Nói về tu hành; 2/ Nói về chung riêng; 3/ Nói về danh thể; 4/ Nói về nhân số; 5/ Kết luận được trụ. Văn thứ nhất lại có bốn: 1/ Quán bất tịnh 2/ Quán niệm xứ; 3/ Quán nhân duyên; / Quán noãn pháp. Nhưng người được trụ chỉ có hai phương tiện, đâu cần dùng bốn? Quán bất tịnh và quán nhân duyên là Tiền phương tiện của Niệm và Noãn. Chia ra thì thành bốn, hợp lại thì chỉ có hai là Niệm và Noãn. Văn thứ nhất lại có hai: Trước nói về duyên khởi.

Nếu trí chẳng có đủ năm việc thì tức là tín, giới, thí, văn và tuệ đã nói ở trước. Kế là nói về bốn pháp.

Ở đây lấy bất tịnh làm tên, nếu theo luận Tạp Tâm thì thuộc môn Tam độ. Ở đoạn trên dư câu “Nặng về chấp ngã thì nên dạy mười tám giới”, nếu y cứ theo luận Địa trì thì thuộc môn Ngũ độ, có thêm quán nhân duyên.

Kế là, từ câu: “Như pháp v.v…” trở xuống là nói về quán niệm xứ.

Quán thì có chung và riêng, chung thì sâu, riêng thì cạn.

Từ câu: “Đạt được pháp quán v.v…” trở xuống là thứ ba, nói về quán nhân duyên.

Từ câu: “Quán rồi v.v…” trở xuống là thứ tự quán Noãn pháp.

Nói chung thì Tiền phương tiện cũng được trụ, nếu nói riêng, thì chính là y cứ theo Noãn pháp, khi thành tựu giải Không thì chắc chắn chẳng lui sụt, đó gọi là người được trụ.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là nói về chung riêng, phân biệt pháp Noãn. Trước hỏi sau đáp, hỏi lại có hai: Một, là hỏi về người, nêu chung noãn xúc để hỏi. Dẫn lời Phật nói để chứng minh.

Phật đáp có hai: Trước bác bỏ lại câu hỏi. Nghĩa là điều mà ông y cứ chẳng phải nghĩa ta nói.

Từ câu: “Pháp Noãn như thế v.v…” trở xuống là chánh đáp. Văn có hai: Trước nói về cõi riêng, sau nói về người riêng. Về cõi thì cõi Sắc có, cõi Dục không, về người thì đệ tử ta có, ngoại đạo không có.

Nói pháp Noãn chỉ có ở cõi Sắc, không có ở cõi Dục, lập ba nghĩa để giải thích: 1/ Dùng nhiều sắc định để phát khởi quán pháp Noãn, từ số nhiều mà gọi là cõi Sắc có; 2/ Y cứ theo định trung gian thì ba cõi đều phát Noãn pháp, nhưng cõi Sắc ở giữa nên nói cõi Sắc có; 3/ Y cứ theo Thắng xứ thì sắc dễ phát khởi pháp Noãn, còn cõi Dục thì rất khó. Từ câu: “Tuy cõi Sắc v.v…” trở xuống là nói về người riêng.

Trừ ngoại đạo, chỉ đệ tử Phật mới có. Nói ngoại đạo quán sáu hạnh tức duyên theo thắng, diệu, xuất ở các cõi trên, nhàm chán khổ, thô, trọng ở cõi dưới. Đệ tử Phật có đủ mười sáu hạnh, tức là mười sáu đế: Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, khổ tỉ (loại) nhẫn, khổ tỉ (loại) trí v.v… Trong đây đã chưa dứt hoặc, nên chỉ là mười sáu đế quán.

Nay nói thêm rằng: Duyên theo đế quán này mà tu ưa thích nhàm chán, đệ tử Phật cũng tu ưa thích nhàm chán. Còn ngoại đạo tu tập thì chỉ y cứ vào các cõi.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, định danh thể, trước hỏi sau đáp. Trong phần hỏi có hai: trước hỏi về danh, kế là hỏi về thể.

Đức Phật đáp, trước đáp câu hỏi sau, sau đáp câu hỏi trước. Trước trả lời về thể, văn có hai: Thứ nhất là chánh đáp.

Thứ hai là phân biệt, trong đó trước hỏi sau đáp.

Đầu tiên Phật dẫn Mã Sư không có tín tâm tức không có pháp Noãn.

Kế là Phật đáp: Ta cũng chẳng nói tín tâm là Noãn, tín là nhân của Noãn. Noãn là do trí quán bốn đế mà sinh. Nói mười sáu tức là mười sáu phân của bốn đế.

Từ câu: “Như lời thầy hỏi v.v…” trở xuống là đáp về danh. Văn có hai: Trước là chánh đáp, kế là nói thêm. Thứ nhất lại có hai: 1/ Nêu lại pháp Noãn để đáp lược, nói từ dụ mà có tên.

Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là đáp rộng. Văn có dụ và hợp.

Kế đó lại hỏi đáp thêm: Thứ nhất là hỏi, có hai: Trước là lãnh chỉ, kế là từ câu: “Nếu là pháp Hữu vi v.v…” trở xuống là chánh thức hỏi.

Nói quả báo được năm ấm cõi Sắc, nếu theo các Sư Số Luận thì

Thật có dùng pháp Noãn để được quả báo cõi Sắc; nhưng chẳng thọ thân, vì đó là nghiệp vô lậu, tức diệt báo. Các Sư Thành Thật cho rằng pháp Noãn đốt cháy sinh tử, không còn chịu báo, chỉ do sắc định mà được quả báo, nên từ đó mà đặt tên.

Phật đáp có hai: Trước khen lời hỏi.

Từ câu: “Pháp Noãn như thế v.v… “trở xuống là chánh đáp. Văn có ba là pháp, dụ và hợp.

Ý đồng với lời giải thích của Số luận. Vì lấy tâm tưởng làm ái, có ái nên thọ sinh; vì nhàm chán nên có quán hạnh, đó là tướng vô lậu.

Từ câu: “Người được pháp Noãn v.v…” trở xuống là nói về số lượng người.

Nói bảy mươi ba, có ba cách giải thích.

1. Trang Nghiêm cho rằng: Như mười điều thiện của cõi Dục tương ứng với tâm gọi là định Điện quang; vì có lúc được, có lúc mất, nên gọi là Điện quang. Người này gọi là có đủ các tánh phiền não, nhưng không chia ra phẩm số. Nếu nói về phương pháp, thì định có chín phẩm, hoặc cũng có chín phẩm. Dùng chín định đoạt chín hoặc cộng với người đạt được Điện quang là thành mười người. Bốn thiền của cõi Sắc, ba không cõi Vô sắc, mỗi địa đều có chín phẩm định trừ chín phẩm hoặc, tổng cộng là sáu mươi ba và mười người vừa nêu thành bảy mươi ba.

2. Khai Thiện cho rằng: Không có định Điện quang, khác với phương pháp, cũng không có phương pháp khác với Điện quang, chỉ dùng định Điện quang đối trị với chín hoặc mà thành chín định. Một phẩm định thứ nhất là Phật pháp, chưa nhờ vào giả, còn đối kháng với hoặc chưa thể hàng phục hoặc, phẩm định thứ hai làm tương tục giả cho phẩm định thứ nhất, cùng nhau phát ra lực dụng mới hàng phục được phẩm hoặc thứ nhất; phân định thứ ba chế phục phẩm vô minh thứ hai, cho đến phẩm định thứ chín chế phục phẩm hoặc thứ tám, còn lại một phẩm hoặc sau cùng của cõi Dục thì dẫn đến phẩm định thứ nhất của Sơ thiền, pháp khởi mới cùng điều phục. Bốn thiền và ba không, mỗi pháp đều có chín hoặc chín định, cho đến phẩm định thứ chín Bất dụng xứ chế phục phẩm hoặc thứ tám, còn lại phẩm hoặc thứ chín, lại dùng định Phi tưởng để chế phục phẩm hoặc thứ chín bất dụng xứ. Tám lần chín là bảy mươi hai, thêm định Phi tưởng là thành bảy mươi ba. Dẫn Uất-đầu-lam-phất được định Phi tưởng tức là nghĩa này.

Ở văn này nói cõi Dục, Sơ thiền cho đến Vô sở Hữu xứ; văn trước nói được định Phi tưởng dứt trừ hoặc bất dụng xứ đều là những lời dẫn chứng khéo léo.

3. Các sư Số Luận giải thích: Cũng có hai thuyết khác nhau, sự thì chướng vị lai, tánh thì chướng căn bản. Một thì chia làm chín phẩm giải, mỗi phẩm giải đối trị một phẩm hoặc. Lại có mười điều thiện tương ưng tâm, tức có đủ tánh phiền não, cộng với chín phẩm giải trước thành mười. Người có đủ phiền não và với phẩm định thứ nhất cùng dứt một phẩm hoặc, sau đó dùng một phẩm định dứt một phẩm hoặc, bốn Thiền và ba Không mỗi pháp đều có chín định, chín hoặc thì cũng thành bảy mươi ba người. Hai là nói tánh chướng căn bản, tức chín phẩm định của vị lai thiền dứt chín phẩm hoặc cõi Dục, lấy một người có đủ tánh phiền não cõi Dục cộng với chín phẩm thành mười người; như thế tám định đều có vị lai. Định vị lai cõi Nhị thiền dứt chín phẩm hoặc của Sơ thiền, chín phẩm định vị lai của Tam thiền dứt chín phẩm hoặc của Nhị thiền, cho đến định vị lai cõi Phi tưởng dứt chín phẩm hoặc của Bất dụng xứ như thế cũng thành bảy mươi ba vị.

Hỏi: Trước nói rằng Noãn là pháp của cõi Sắc, vì sao ở đây nói chung cho ba cõi, lập bảy mươi ba người?

Đáp: Người mới học phải nương vào Tứ thiền; y cứ vào việc lợi ích về sau thì chung cho ba cõi, vả lại, xưa ở tại phàm phu ngoại đạo từng được bảy mươi ba định, nên nay nhập vào Phật pháp thì quán Noãn pháp.

Từ câu: “Những người như thế v.v…” trở xuống là đoạn năm, kết luận người được trụ chẳng gây ra năm tội nghịch, chẳng phạm bốn tội trọng, chẳng dứt mất gốc thiện.

Từ câu: “Người này v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nhìn phương hướng. Văn có hai: Trước nêu thể của người nhìn bốn phương, kế là hỏi đáp, nói về ý nghĩa của Sơ quả. Thứ nhất, văn có hai: Một, nêu lại văn trước; hai, chánh đáp.

Lặp lại người thứ hai tạm nổi rồi chìm, nếu gặp bạn ác thì thường làm người như thế. Nếu gặp bạn thiện thì tiến lên mà làm người trụ vững, lại trở thành người quán sát bốn phương. Vì thế trước nói về người thứ hai.

Kế là, từ câu: “nói quán bốn phương v.v…” trở xuống là nêu thể của người quán bốn phương.

Hoặc cho rằng từ Khổ nhẫn cho đến Sơ quả mới là người được nói trong đoạn này, ý văn chẳng phải thế. Gồm có năm hạng người: Đảnh pháp, Nhẫn pháp, Thế đệ nhất pháp, Khổ nhẫn đến mười lăm tâm, Sơ quả đến tâm thứ mười sáu, năm hạng người này đều quán bốn đế, đều gọi là người nhìn bốn phương. Nhưng pháp Noãn ở trước cũng nói là quán bốn phương, vả lại từ nghĩa được trụ mà đặt tên là chìm, còn nghĩa nhìn bốn phương thì từ Đảnh pháp trở lên mới được gọi. Nói năm vị này là gồm năm chương, theo văn kinh rất dễ thấy. Nhưng hai văn trước đều nói Tánh là năm ấm, nếu nói cho đúng thì Đảnh pháp chỉ là hành ấm; mà nói năm là vì chưa khỏi bị các ấm khác ngăn che. Do đó mới nói chung năm ấm quán được bốn đế, Thế đệ nhất pháp. Nói năm căn, vì chúng rất sâu xa thù thắng, sinh ra chân giải, hiển bày nghĩa căn này. Bản riêng cũng ghi là ấm. Kế là được khổ pháp nhẫn tức là chân giải. Nói duyên Nhất đế, tức là được Nhất đế bình đẳng chân không. Trong phẩm Sư Tử Hống thì dụ bốn phương với bốn quả, nay dụ cho bốn đế, mỗi đế đều có nơi y cứ, Bà-sa nói: Phương Đông dụ cho khổ, cho đến phương Tây là Đạo.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nghĩa, tức nghĩa của Sơ quả. Có ba phen hỏi đáp: Phen thứ nhất: Là trước hỏi, gồm bốn câu: 1/ Hỏi về dứt hoặc; 2/ Hỏi về nhìn bốn phương; 3/ Hỏi về danh nghĩa; / Hỏi về thí dụ.

Kiến tư hoặc gồm chín mươi tám sử, kiến đế có tám mươi tám thứ, tư duy có mười tám. Mười tám tư duy trước đã dứt sạch, chỉ còn mười sử, nên nói là nhẹ. Có kinh nói Tu-đà-hoàn mộng thấy rắn tám mươi tám đầu chết, tức nói lên ý này, nói như vùng nước rộng bốn mươi dặm thì như kinh Trì Dụ đã ghi.

Phật đáp bốn câu hỏi, trước là câu hỏi về dứt hoặc; văn có hai: Một là chánh đáp; hai là nói về việc làm. Thứ nhất lại chia làm hai là nêu chương và giải thích. Nêu chương có hai: Trước là nêu chương quan trọng.

Thứ hai, chương gồm thâu tất cả phiền não.

Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là giải thich chương, thứ nhất giải thích chương gồm thâu, gồm có dụ và hợp.

Ba phiền não này gồm thâu tất cả, như vua ra khỏi cung, có rất nhiều người theo hầu, nhưng người đời chỉ nói vua đến vua đi; vì ba hoặc này là gốc gồm thâu các hoặc.

Từ câu: “Do nhân duyên gì v.v…” trở xuống là giải thích chương môn quan trọng. Có năm câu: 1/ Vì thường khởi; 2/ Nhỏ nhiệm khó biết; 3/ Khó dứt trừ; / Nhân của hoặc; 5/ Kẻ thù. Câu thứ nhất là thường tồn tại Hữu ngã, tức ngã kiến; tin tà thần tức giới thủ; do dự chưa quyết định tức là tâm nghi. Kế là nói khó biết.

Ngã kiến dường như chánh kiến, giới thủ giống như chánh giới, tâm nghi giống như chánh giải.

Thứ ba, thứ tư rất dễ thấy.

Ngã kiến trái với chánh tuệ, giới thủ trái với chánh giới, tâm nghi trái với chánh định.

Từ câu: “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về việc làm.

Tức là vì dẫn dắt chúng sinh nên nói là ba. Nếu nói dứt vô lượng phiền não thì chúng sinh sẽ sinh tâm lui sụt, cho nên không nói nhiều.

Kế là đáp câu hỏi về quán bốn phương, văn có hai: trước là nêu câu hỏi.

Kế là chánh đáp.

Nói năm căn là năm căn như tín, tấn, v.v…; phiền não trong ngoài tức ba độc là bên trong, si và các kiến là bên ngoài.

Kế là trả lời về danh nghĩa. Văn có hai: Trước là chánh đáp, sau là hiển bày lại. Chánh đáp có hai: Một là nêu câu hỏi; hai là chánh đáp. Phần chánh đáp có hai: trước giải thích danh từ tu vô lậu.

Từ câu: “Tu là v.v…” trở xuống là giải thích danh từ nghịch lưu.

Lưu có hai: Một là sinh tử lưu, người Tu-đà-hoàn ngược với lưu (dòng) này, còn chúng sinh thì thuận với lưu này. kinh Tiểu Bát-nhã ghi:

Gọi là nhập lưu mà không có chỗ nhập.

Kế là nói nghĩa và hiển bày lại. Đầu tiên là hỏi về nghĩa chung.

Nếu nói là nghịch lưu thì ba người sau cũng là nghịch lưu, có được gọi là Tu-đà-hoàn chăng?

Phật đáp: có hai: Trước là chánh đáp, kế là nói căn cơ khác nhau. Chánh đáp có hai: Một là nói tên của giai vị dưới chung cho tên của giai vị trên; Hai, là nói tên giai vị trên chung cho tên của giai vị dưới. Thứ nhất lại có hai: Một là nói tên tu vô lậu là chung; Hai là nói tên nghịch lưu là chung.

Vì thế tên giai vị dưới chung cho giai vị tên; mới được thì gọi là Tu-đà-hoàn, được sau thì gọi là Tư-đà-hàm.

“Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, tên của giai vị trên chung cho giai vị dưới. văn lại có hai: Một là nói danh từ Bồ-tát chung cho giai vị dưới.

Nói từ Phật chung cho các giai vị dưới.

Phật là giác, có khả năng thấy chánh lý, nên nay Tu-đà-hoàn giác biết các pháp, dứt hoặc thấy lý, há chẳng phải là Phật ư?

Từ câu: “Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là nói về căn cơ khác nhau.

Trước nêu hai căn.

Kế là giải thích riêng, trước là giải thích độn căn.

Cực độn căn thì bảy lần sinh tử, hoặc là ít hơn, cũng đều thuộc về độn căn; trong đó lại có sáu lần, hoặc là năm, bốn, ba, hai lần.

Kế đến là giải thich lợi căn, tức từ sinh đến quả thứ tư.

Kế là đáp bốn thí dụ, văn có hai: trước nêu lại câu hỏi.

Sau là giải thich. Văn có hai là nêu lên và giải thích.

Nói giữ chặt, như ma nói năm đế, Trưởng giả không tin, đó là giữ chặt.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Trước hỏi sau đáp. Hỏi có hai câu xác định, hai lần kết luận nêu câu hỏi. Thứ nhất là từ câu: “Nếu trước đắc đạo v.v…” trở xuống là kết hai câu hỏi. Thứ nhất là câu kết thứ nhất.

Nếu mới đắc đạo gọi là Tu-đà-hoàn, thì khi đã được chân giải khổ nhẫn cũng gọi là Tu-đà-hoàn, chẳng gọi là Hướng.

Kế là kết câu hỏi thứ hai.

Nêu ngoại đạo xưa đã dứt phiền não, được Thượng định, hàng phục kết sử ở cõi dưới; sau đó, khi hồi tâm thì đồng với chỗ hàng phục mà dứt kết sử liền thành A-na-hàm. Đã là Sơ quả lẽ ra phải gọi là Tuđà-hoàn.

Phật đáp: Trước trả lời câu thứ nhất.

Vốn lấy Sơ quả mà gọi Tu-đà-hoàn; khi đạt được Khổ nhẫn thì chưa được Sơ quả, mà còn là Hướng, vì thế mới bác bỏ ngược lại.

Từ câu “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi sau. Văn có hai: 1/ Nêu lại câu hỏi; 2/ Chánh đáp, rất dễ thấy.

Này Thiện nam! Vì Sơ quả nên mới gọi là Tu-đà-hoàn, vì người này có đủ tám trí và mười sáu hạnh.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen thứ ba; trước hỏi, sau đáp.

Hỏi A-na-hàm cũng có đủ tám trí, mười sáu hạnh.

Phật đáp có hai: Trước nói về hạnh khác nhau, sau nói về cảnh khác nhau. Thứ nhất nói hạnh khác nhau.

Nói mười sáu hạnh, tức là quán mười sáu đế. Hữu lậu tức là tự giải có cộng và bất cộng; gồm ba cách giải thích:

1/ Tì-đàm cho rằng mười lăm tâm trước là cộng, tâm thứ mười sáu là bất cộng; nhất thời đồng quán, như khi quán khổ thì chỉ được quán khổ, không được quán không cho đến các đế khác, còn Đạo cũng như thế, nên nói là Cộng. Tâm thứ mười sáu, nhất thời quán mười sáu đế nên nói là bất cộng.

2/ Ái sư cho rằng mười sáu hạnh hữu lậu thì chung (cộng) với

phàm phu, còn mười sáu hạnh vô lậu chẳng chung (bất cộng) với phàm phu. Nghĩa này chẳng đúng, kinh đã nói: “Hữu lậu có cộng và bất cộng” sao lại dùng vô lậu để giải thích.

3/ Hà Tây cho rằng: Ba phương tiện trước trong bảy phương tiện cũng quán mười sáu đế thì gọi là Cộng; bốn phương tiện sau thì Bất cộng. Nếu Sơ quả theo thứ lớp tu hành thì lập đầy đủ bảy phương tiện quán, xả bỏ cộng được bất cộng. Nếu là người vượt hơn thì chỉ tu quán bốn phương tiện sau, chứng quả thứ ba, cho nên nói Bất cộng. Mười sáu hạnh vô lậu cũng có hai loại là Hướng và Đắc, các sư Thành Thật giải thích rằng: Trước Sơ quả thì chưa có quả, nên nói xả Hướng được quả; trước Na-hàm có hai quả, người vượt hơn tuy không thủ chứng, nhưng cũng đều từ trong đó mà vượt lên cho nên mới nói là: “Chẳng phải như thế”.

Nếu theo nghĩa của Số Luận thì người vượt hơn đã đắc quả A-nahàm, cũng chẳng từ hai quả trước mà vượt qua, thế thì từ Phương tiện đạo mà vào mười sáu tâm, tâm thứ mười lăm là hướng A-na-hàm, tâm thứ mười sáu là chứng quả A-na-hàm, cũng là xả Hướng mà đắc quả. Cách giải này chẳng hợp; Họ còn giải thích rằng: Nếu Sơ quả chắc chắn như thế thì A-na-hàm sẽ bất định. Nếu là người vượt hơn cũng như thế, thì người theo thứ lớp chẳng phải như thế. Đã bất định nên nói “chẳng phải như thế”.

Tám trí cũng có hai, tức bốn đế mỗi đế đều có Tỉ và Hiện nên thành tám, chẳng phải là tám của mười trí. Nếu theo các Sư Số Luận thì trong Hướng chỉ có bảy trí, trong quả chỉ có một trí. Nghĩa này cũng chẳng hợp.

Từ câu: “Hàng Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về cảnh khác nhau.

Nói Sơ quả duyên bốn Đế, A-na-hàm chỉ duyên một Đế, tức Sơ quả mới nhập đạo, khi tu Phương tiện đạo thực hành đủ mười sáu hành quán nên có đủ bốn Đế, A-na-hàm thì ở tại tư duy đạo tu Trạch pháp, giác chi tùy thời được Nhất đế làm duyên, cho nên chỉ nói là một đế.

Từ câu: “Nhìn khắp rồi đi v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ năm, tức quả Tư-đà-hàm. Nếu nhiếp hết các Hiền Thánh thì nhiếp cả Nahàm hướng, Tư-đà-hàm hướng và quả ở tự địa; gồm thâu ba việc này vì sao lại gồm thâu A-hàm hướng? Na-hàm vốn đã quán rồi thì trụ, khi còn ở Hướng thì đi mà chẳng trụ, cho nên gồm thâu được. Hướng vị đã nêu trên đều thuộc về quả dưới, nếu chứng quả A-na-hàm thì được gọi là: “Đi rồi lại trụ”. Ví như A-la-hán hướng thì thuộc quả A-na-hàm. Theo đó Tư-đà-hàm hướng nên thuộc Sơ quả, nhưng chẳng phải vì Sơ quả chỉ nói về chánh vị, chẳng nói về hạnh tiến tu, vả lại hai đạo kiến tư khác nhau nên chẳng thuộc nhau. Nay nói về Tư-đà-hàm thì vị chỉ có một mà quả có hai Hướng. Văn nói: “Vì dứt bốn hoặc, ba độc và mạn”, lẽ ra có nêu đủ mười sử, nhưng trong suy nghĩ đạo thì có năm kiến và nghi thuộc về Mạn, nên chẳng kể.

Văn có hai: trước là chánh hợp, kế là nêu dụ để hợp

Từ câu: “Đi rồi lại trụ v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ sáu, nói về A-na-hàm, có bốn chương: 1/ Nêu chương, 2/ Giải thích, 3/ Phân biệt Trung diệt, / Giải thích lại trụ. Thứ nhất nêu chương gồm có bốn: Một là nêu hai người; hai là nêu năm người; ba là nêu sáu người; bốn là nêu bảy người. Thứ nhất nêu hai người, tức kinh sinh và chẳng kinh sinh.

Kinh sinh là bậc thượng hạnh.

Hỏi: Nếu theo thuyết của Trang Nghiêm thì có mười một loại Ana-hàm, trong chín người lại nói Tín giải và Kiến đắc, thành mười một. Khai Thiện chỉ nói có chín, bác bỏ Trang Nghiêm rằng: “Đây là phân biệt lợi độn, nên chẳng có hai người sau”. Nay hỏi rằng văn này chỉ nói bảy loại trong chín loại, không nói thân chứng và chuyển thế?

Đáp: Có ba nghĩa: 1/ Chẳng nói thân chứng và chuyển thế là vì người chuyển thế chẳng xuất quán, còn thân chứng thì nhập định Diệt tận. Đại thừa chẳng nói về định này; do đó không kể. 2/ Đây chỉ là triển khai rộng và lược nêu mà thôi. 3/ Chuyển thế và phần chứng là do là do luận lục Túc lập ra, còn Đại thừa thì không có.

Từ câu: “Hành Bát-niết-bàn v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích chương trên tuy có bốn nhưng ở đây chỉ giải thích hai chương. Trước giải thích hai hạng, kế là giải thích năm hạng. Còn hai chương sáu và bảy không giải thích. Thứ nhất giải thích hai người, trong đó người thứ nhất là Hiện diệt thì đã giải thích ở chương trước. Vả lại, nếu thân hiện đời được A-na-hàm, tiến tu đắc quả A-la-hán, mà thân này chưa diệt, như thế một thân này được hai quả, là hàng rất lợi căn; vì dễ hiểu nên không giải thích, này chỉ giải thích hàng thượng hạng.

Văn có hai, trước nói số lần thọ sinh, sau nói về hạnh khác nhau. Thứ nhất, Hành bát tức là thượng lưu tham đắm cả Sắc và Vô sắc. Nói thọ hai thân tức từ Sơ thiền qua đời sinh lên Nhị thiền. Nói thọ bốn thân tức thọ sinh đủ ở bốn Thiền. Nói thọ sinh hai thân là hàng lợi căn, bốn thân là độn căn, lợi hay độn cũng không chánh thức liên quan đến số lần sinh, nay chỉ y cứ theo nhiều ít để phân biệt. Hàng Na-hàm lợi căn ở Sơ thiền qua đời, sinh về Nhị thiền thì chứng A-la-hán. Hàng độn căn đầu tiên từ Sơ thiền qua đời sinh về Nhị thiền, nếu chưa được quả Ala-hán thì sinh lên Tam thiền, nếu chẳng được thì tiếp tục sinh lên Tứ thiền, bấy giờ mới đắc quả A-la-hán. Ở đây y cứ theo Tứ thiền mà có lý thuyết này.

Từ câu: “lại có hai loại v.v…” trở xuống là nói về hạnh khác nhau.

Đồng nói có hai loại, là gồm bốn câu y cứ vào hai hạnh tấn, định có hay không.

Từ câu: “Chúng sinh cõi Dục v.v…” trở xuống là giải thích chương năm hạng người. Có năm đoạn: trước là giải thích hạng Trung ấm diệt, vì sao? Vì đã lìa cõi Dục mà chưa đến cõi Sắc, ở trung gian được quả A-la-hán, lại có ba: Một là nói về nghiệp dụng; hai là giải thích danh từ Trung ấm; ba là nói nhập diệt. Thứ nhất nói về nghiệp dụng của Trung ấm.

Nói hai nghiệp, trong đó Tác nghiệp tức là Tán nghiệp, Thọ sinh tức là định nghiệp sinh lên cõi trên.

Từ câu: “Xả thân ở cõi Dục v.v… ” trở xuống là giải thích danh từ Trung ấm.

Ở khoảng giữa hai thân Dục và Sắc.

Nói thêm rằng: Ở ngay thân trung ấm của cõi Sắc mà nhập vào Niết-bàn, chứ chẳng thọ chánh thân, nên gọi là lợi căn.

Từ câu: “Hàng A-na-hàm v.v…” trở xuống là nói về tâm nhập diệt.

Bốn tâm này, có hai cách giải thích:

1/ Cho rằng hai tâm trước là hai tâm không và hữu của quả A-nahàm, hai tâm sau là hai tâm không và hữu của quả A-la-hán. 1/ Chẳng phải Học, chẳng phải Vô học tức tâm A-na-hàm duyên với Thế đế, 2/ Hữu học tức tâm A-na-hàm duyên với chân đế; 3/ Vô Học tức tâm A-lahán duyên với chân đế; / Chẳng phải Học, chẳng phải vô học tức tâm A-la-hán duyên với Thế đế. Vì A-na-hàm diệt độ thì đắc A-la-hán, nên y cứ theo hai quả để giải thích.

2/ Cho rằng bốn câu này đều nói theo quả A-na-hàm: 1/ Chẳng phải Học chẳng phải Vô học là Tâm được dắt dẫn 2. Hữu học là tâm duyên chân; 3. Vô học là tâm tu hạnh xưa; . Là tâm thất niệm. Có Sư cho rằng cách giải thích này chẳng đúng, vì thấy kinh ghi: “A-na-hàm có bốn tâm” thì liền lầm cho là bốn tâm này đều thuộc A-na-hàm. Cách giải thích trước hợp lý hơn, hai tâm trước là tâm A-na-hàm, hai tâm sau thuộc A-la-hán.

Hỏi: Đã nói hai quả gồm bốn tâm, vì sao nói A-na-hàm có bốn tâm.

Đáp: Nay nói A-na-hàm có bốn tâm là y cứ theo gốc mà nói như thế, chứ ở đây giải thích người Trung diệt, diệt rồi là thành A-la-hán. Lại nói hai phải, hai chẳng phải cho nên có hai cách giải thích: Như thuyết thứ nhất thì nói hai tâm La-hán là Niết-bàn, hai tâm A-na-hàm chẳng phải Niết-bàn; vì A-la-hán được Vô dư là cực quả cho nên nói Niết-bàn; A-na-hàm chưa được Vô dư nên chẳng phải Niết-bàn. Như theo thuyết sau thì hai tâm Thế đế là Niết-bàn, hai tâm chân đế chẳng phải Niết-bàn, lại cần giải thích thêm.

Kế là giải thích thọ thân Niết-bàn. Văn có hai: Một là chánh giải thích, hai là nói về nghĩa.

Đây là chánh giải thích, nói người sinh diệt được sinh lên Sơ thiền diệt độ.

Kế là nói về nghĩa. Trước hỏi, sau đáp.

Kế là giải thích Hành diệt.

Thường tu hành tức là người độn căn, Tam-muội là tuệ tâm vắng lặng.

Kế là giải thích Bất hành diệt.

Nói đạt Đệ tứ thiền rồi lui sụt Sơ thiền, giải thích rằng: Thật sự không có bậc Thánh đã được định cõi trên mà còn lui sụt xuống cõi dưới, có lời này là vì từng được huyền ký tu định đặc biệt ở cõi trên rồi, mà lui sụt, chứ chẳng phải thân đã ở cõi trên rồi mà còn đoạ.

Nói nhờ đạo lưu mà được sinh lên cõi trên, tức đây chỉ là Phương tiện, chứ chẳng phải thật do phiền não thọ sinh.

Từ câu: “Trong Tứ thiền v.v…” trở xuống là giải thích, gồm cả hai cõi trên.

Từ đây chia dòng (lưu) mà sinh lên hai cõi. Người thích luận nghĩa thì sinh lên cõi A-ni-trá, người thích Tam-muội thì sinh lên cõi Bất Dụng.

Hỏi: Có người từ Sơ thiền sinh lên cõi A-ni-trá liền nhập diệt, lại có người sinh lên cõi Bất dụng được nhập diệt, có người chưa đến Ani-trá thì nhập diệt, chưa đến cõi Bất dụng thì nhập diệt, ở đây thuộc người nào?

Đáp: Ở đây thuộc về hai hạnh kiến đắc và Tín giải, chẳng được gọi là Thượng Lưu, Có bốn nghĩa đối đãi: Một là y cứ theo thích định, thích tuệ; hai là tu năm bậc và chẳng tu năm bậc; ba là thích tịch tĩnh, thích luận nghĩa; bốn là huân tu thiền, chẳng huân tu thiền. Bốn nghĩa này gồm hai ý, trong đó nghĩa thứ ba lại thành nghĩa thứ nhất ưa thích trí tuệ, ưa thích Tam-muội, nghĩa thứ tư lại thành nghĩa có năm bậc và không có năm bậc khác nhau nói ở trước. Ba nghĩa trước thì như văn. Trong nghĩa thứ tư, nói huân là có hai cách giải thích: 1. Các Sư Số luận cho rằng hai tâm vô lậu kèm một tâm hữu lậu mà huân tu; 2. Các sư Thành Thật cho rằng dùng tâm từ bi mà huân tu định này.

Sở dĩ không giải thích hai môn sau là vì sáu người thì năm người đã nói thêm Hiện diệt, Hiện diệt thì chương trước đã giải thích. Còn bảy người thì vốn có sáu người đã nói, thêm hàng Thượng hạnh, sinh lên cõi Vô sắc diệt độ, trên cũng gồm giải thích chung với người thứ năm rồi, nên ở đây chẳng cần nói nữa.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về nghĩa, phân biệt Trung diệt. Trước hỏi sau đáp. Hỏi có hai: Trước hỏi Trung diệt là hàng lợi căn, vì sao chẳng hiện diệt được A-la-hán.

Thứ hai hỏi vì sao cõi Dục có, mà cõi Sắc không có.

Phật đáp có hai, đây là đáp câu thứ nhất, vì có ba nghĩa nên chẳng hiện diệt: Một là yếu kém, hai là thiếu các duyên, ba là thích làm các việc thế tục lăng xăng; tất cả các nghĩa khác đều dễ biết. Thứ nhất như văn kinh ghi. Thứ hai là thiếu các duyên.

Việc này ghi trong Bà-sa, đó là Thiên Tu-bồ-đề, chẳng phải Giải không Tu-BỒ-đề.

Từ câu: “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là đáp câu hai, văn có hai: Một nói về duyên khác nhau; hai nói về căn cơ khác nhau. Thứ nhất lại có hai: Một là nói cõi Dục phần nhiều do duyên; hai, là nói vì tánh mạnh mẽ.

Ở cõi Sắc không có các khổ bên ngoài, vì thế không được; cõi Dục thì có các phiền não bên ngoài, vì nhàm chán, nên tu tập Đạo phẩm, gọi tu là mạnh mẽ. Nếu y cứ theo các sư Số Luận thì cõi trên hoàn toàn không có người mới nhập đạo, các sư Thành Thật cũng có vị đồng như trước nói là không, có vị cho rằng cõi trên cũng có người mới nhập đạo. Kinh Phổ Diệu nói: “Tám muôn vị trời được mắt pháp thanh tịnh”, cho nên cõi trên cũng có người chứng Sơ quả; nhưng có văn này là vì hàng Tín hành, pháp hành đầu tiên trụ ở Phương tiện đạo, có thể xuất quán mà thượng sinh cho nên nói đắc quả, chẳng phải mới phát, mới từ phàm nhập vào Thánh.

Kế là nói căn tánh mạnh mẽ.

Kế là, từ câu: “Trung Niết-bàn v.v… “trở xuống là nói căn tánh khác nhau.

Từ câu: “Thí như cá Tích v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, giải thích nghĩa đi rồi lại dừng.

Đến bờ kia là người thứ bảy.

Lại có bốn người là A-la-hán, Bích-chi-Phật, Bồ-tát và Phật. Ba người trước là phần chứng, Phật là rốt ráo chứng ngộ.

Từ câu: “Như bảy người v.v…” trở xuống là phần thứ ba, kết luận các dụ. Văn có ba: Một là chánh kết luận; hai là nói về được mất; ba là nói về đồng khác để thành tựu ý trên. Thứ nhất lại có ba: Một là kết luận chung bảy người; hai là hỏi đáp nói nghĩa; ba là chỉ kết luận người đến bờ kia. Kết luận chung lại có hai: 1/ Kết luận bảy người, tức thấy Phật tánh; 2/ Kết luận bảy pháp, pháp tức là Phật tánh. Đầu tiên nói bảy người đều chẳng lìa nước Phật tánh. Gồm có dụ và hợp.

Trong Đại Bát-Niết-bàn mầu nhiệm thì từ Nhất-xiển-đề cho đến chư Phật, tuy khác tên, nhưng chẳng lìa nước Phật tánh.

Từ câu: “Bảy loại chúng sinh v.v…” trở xuống là nói bảy pháp, tức là Phật tánh.

Một là thiện, hai là bất thiện, ba là phương tiện, bốn là Giải thoát, năm là thứ lớp, sáu là nhân, bảy là quả. Hai trước, hai sau rất dễ biết; ba pháp ở giữa là ba đạo ghi trong luận Bà-sa; phương tiện là Tự giải; Giải thoát là Giải thoát đạo; Thứ lớp là Vô ngại đạo. Nêu phẩm Niệm xứ của luận này ghi: “Như thứ lớp vô ngại sẽ sinh Giải thoát. Nhưng bảy pháp ở đây là Phật tánh thì gồm có hai ý: 1/ Thứ lớp hợp với bảy hạng người ở trước; 2/ Hợp chung. Theo thứ lớp hợp, tức khéo hợp với ngươi thứ hai, phàm phu có một ít gốc thiện; bất thiện hợp với hạng người thường chìm thứ nhất, Nhất-xiển-đề không có gốc thiện, nên gọi là bất thiện. Phương tiện đạo hợp với người được trụ thứ ba, có đủ bốn niệm xứ, hai pháp phương tiện Noãn, Đảnh; Giải thoát đạo hợp với người thứ tư nhìn bốn phương, tức từ Đảnh pháp đến tâm thứ mười sáu là người Giải thoát chân thật; Thứ đệ đạo hợp với người nhìn bốn phương rồi đi, tức từ Đạo kiến đế dần dần nhập Tư duy đạo, chứng quả Tư-đà-hàm, nên gọi là thứ lớp; Nhân là hợp với người đi rồi lại trụ; chưa được quả A-la-hán, mới được A-na-hàm nên gọi là nhân, quả là hợp với người thứ bảy đến bờ kia; tức là A-la-hán, Trung thừa, Bồ-tát và Phật. Hợp chung bảy người, tức hai thứ thiện ác là người thường chìm và người nổi rồi chìm, nhân là từ người được trụ đến A-na-hàm; quả tức bốn người là A-la-hán v.v… Phương tiện đạo đều là nhân vị.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghĩa, gồm hai phen hỏi đáp. Thứ nhất về hỏi, có hai câu: Trước hỏi Niết-bàn không có nhân thì được gọi là quả hay chăng?

Kế đó hỏi rằng: Vì sao Niết-bàn là quả Sa-môn?

Phật đáp có hai: trước đáp câu hỏi thứ nhất, sau đáp câu hỏi thứ hai. Thứ nhất có hai phần: Trước nói bảy quả, Niết-bàn là quả xa lìa.

Kế là nói hai nhân.

Niết-bàn có Liễu nhân; nói chung được theo nghĩa thuyết nói Bất sinh là sinh nhân, nhưng thật ra là liễu nhân. Kinh ghi: “Giải thoát môn có thể làm Bất sinh sinh nhân cho tất cả phiền não”, nghĩa là làm cho phiền não chẳng sinh, pháp thiện được sinh, tức là nghĩa thuyết; ba môn Giải thoát là liễu nhân mà làm sinh nhân; lại làm liễu nhân cho Niếtbàn, tức là nghĩa chánh ở đây.

Từ câu: “Như lời ông hỏi v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ hai.

Có đủ ba nghĩa: một là dứt trừ sự nghèo thiếu, hai là thích vắng lặng, ba là bậc Thượng nhân.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai.

Thứ nhất là hỏi, lại nói về ý trước.

Phật đáp rằng Phiên-na là Đạo, Sa-môn là nghèo thiếu, dứt nghèo thiếu, dứt các đường khác là tám Chánh đạo, tức cả hai đều chẳng phải.

Từ câu: “A-la-hán v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận người đến bờ kia. Văn có hai: Trước kết luận về A-la-hán và Bích-chi-Phật, sau kết luận về Bồ-tát và Phật.

Hỏi: Bích-chi-Phật là quả thuộc về người đến bờ kia, còn giai vị Hướng thuộc về người nào?

Đáp: Như trước đã nói A-na-hàm hướng thuộc người thứ năm nhìn bốn phương rồi đi; Vốn lấy sự dừng trụ làm người thứ sáu, trong giai vị Hướng thì còn đi, vậy đâu chẳng thuộc về người thứ năm? Cũng lấy bản quả làm người thứ bảy, Hướng thì còn thuộc về nhân, nên đó là người thứ sáu, đi rồi lại dừng trụ.

Hỏi: Vốn lấy việc đắc quả làm người thứ bảy, Bồ-tát chưa đắc quả, vì sao gọi là người thứ bảy?

Đáp: Trong kinh giải thích rằng: Thế nào là Bồ-tát? Vì tu hành sáu ba-la-mật? Ba-la-mật dịch là “Đến bờ kia”. Lại mười địa là mười Ba-la-mật, vì sao chẳng phải là người vượt đến bờ kia? Nay cho rằng lời đáp này chưa giải thích được câu hỏi, còn phải có nghĩa khác.

Từ câu: Bảy hạng chúng sinh v.v…” trở xuống là nói về được mất. Văn có ba: Một là lại kết luận, Trung đạo bất định; hai là chính thức nói về được mất; ba là tổng kết tông chỉ lớn. Văn thứ nhất có bốn: Một là nói về người bị chìm.

Nói bảy nguời đều chẳng tu thân giới tâm tuệ, nhưng có bốn người đạt quả, chính là hay tu tập, vì sao nói là không tu tập?

Đáp: Đầu tiên đều chẳng tu tập, sau đó Phật, Bồ-tát tu tập nên đạt đến bờ kia, Nhất-xiển-đề chẳng thể tu thì chẳng đến bờ kia. Phật tánh vừa có vừa không, đạt được Phật tánh vừa có vừa không này thì cả hai đều phá.

Nay cho rằng: Chẳng nên theo cách giải thích này, vì bảy người lúc đầu đều chưa tu, khi chưa tu thì chẳng phải là người thứ bảy. Văn kinh hiện nói: bảy người đều chẳng tu tập, vì sao lại nói đầu tiên chẳng phải là người thứ bảy?

Nay nói đây là dùng Biệt phá Thông, nên mới nói bảy người đều chẳng tu thân, giới, tâm tuệ. Trong đây dùng Niết-bàn của Thông giáo làm sông, rõ ràng là văn kinh ở tại ý này, chẳng nên nghi ngờ gì.

Từ câu: “Nếu người nói rằng, v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói Thiên chấp thì chẳng đúng.

“Bảy người này v.v…” trở xuống là đoạn bốn, nói Trung đạo bất định.

Nói một người đầy đủ bảy thì đó là nói theo đầu và cuối. Đầu tiên tuy làm ác, nhưng sau đó dần dần tu tập thành người thứ hai, thứ ba cho đến thứ bảy. Hoặc bảy người, mỗi người một hạng, là nói theo đương phần.

Từ câu: “Nếu có người v.v..” trở xuống là phần hai, nói về được mất. Đầu tiên chỉ nói về mất, sau nói cả về được mất. Thứ nhất lại có hai: 1/ Y cứ theo ba pháp để nói về được mất; 2/ Kết luận về mất. Thứ nhất lại có ba: 1/ Y cứ Nhất-xiển-đề; 2/ Theo Thánh đạo; 3/ Y cứ theo Phật tánh mà định thì đều chẳng được.

Hai, từ câu; “Vì thế v.v…” trở xuống là đoạn hai, kết luận về nghĩa mất. văn có bốn: Một là nêu lên hai người phỉ báng.

Ba, từ câu: “Nếu người có v.v…” trở xuống là, nói không có lòng tin.

Từ câu: “người chẳng tin v.v…” trở xuống là, kết luận nói đều là phỉ báng.

Bốn, từ câu: “Vì thế ta nói v.v…” trở xuống là , kết luận không có.

Từ câu: “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói cả về được và mất. Văn có hai: Trước y cứ theo nghĩa Xiển-đề thành Phật hay không thành Phật; sau y cứ theo nghĩa có Phật tánh hay không có Phật tánh. Mỗi trường hợp đều có ba câu, ba câu thứ nhất.

Hai hạng người trước phỉ báng, một người sau chẳng phỉ báng. Vì sao? Vì mỗi người chấp một bên, hoặc có hoặc không, nên trở thành phỉ báng. Vì giải thích theo Trung đạo dung thông nên một người không phải là phỉ báng. Có người cho rằng người Xiển-đề không xả tâm ác mà thành Phật, tức là phỉ báng. Lại nói Xiển-đề ngay thân này chẳng thể thành Phật, đến thân khác mới thành Phật, đây cũng là nghĩa phỉ báng. Có người nói Nhất-xiển-đề bỏ ác tu thiện, tâm thiện nối nhau, chẳng dứt, tức chẳng phải nghĩa phỉ báng. Nghĩa Phật tánh cũng thế, có người nói rằng chúng sinh có Phật tánh trong thân, thì có tướng tốt, vẻ đẹp, thường lạc đầy đủ, dứt hoặc rồi thì được Bồ-đề, thì cũng là nghĩa phỉ báng. Nếu nói chúng sinh hoàn toàn không có Phật tánh thì cũng là nghĩa phỉ báng. Thời nay có người nói Phật tánh ở đương quả, thì cũng rơi vào trường hợp này.

Ba câu sau thì hai câu đầu là nghĩa phỉ báng, một câu sau chẳng phải phỉ báng.

Từ câu: “Nói về Phật tánh v.v…” trở xuống là phần thứ ba, tổng kết Tông chỉ lớn. Văn có bốn: Một là nói về lý Phật tánh.

Từ câu “Chưa được Bồ-đề v.v…” trở xuống là y cứ theo pháp, trong nhân nói quả.

Thứ ba là dẫn chứng nói Như Lai hoặc trong nhân lập quả, hoặc trong quả nói nhân.

Từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là kết luận Tùy tự ý ngữ.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, nói về đồng khác. Tăng Triệu nói: “Vì người thích đồng thì nói đồng, tuy đồng mà khác; vì người thích khác thì nói khác, tuy khác mà đồng”. Trước nói Phật tánh có đồng với hư không và chẳng đồng với hư không, đó là chánh điển của Đấng Pháp Vương có đồng và chẳng đồng, để phá ngoại đạo. Hư không là hư không phá thể tánh nhìn thấy của mắt.

Đầu tiên nói về nghĩa đồng: trước hỏi sau đáp.

Trong lời đáp có ba: Một là nói Phật tánh đồng với hư không, chẳng thuộc ba đời; hai là nói đồng hư không chẳng phải trong chẳng phải ngoài; ba là nói đồng hư không chẳng ngăn ngại.

Đầu tiên là nói rộng về ba đời đối đãi là không, nên chẳng có ba đời. Ba đời đã không thì hư không chẳng thuộc ba đời. Kinh nói: “Vì hư không là không cho nên chẳng thuộc ba đời, tướng nó như thế nào? Không chỉ là không, không tức là thường; Phật tánh là có mà lại thường, nên nói chẳng thuộc ba đời. Hư không là không mà cũng là Thường, nên cũng chẳng thuộc ba đời.

Hỏi: Như thế, lẽ ra Phật tánh là có, chẳng thuộc ba đời, vì sao nói Thường thì chẳng thuộc ba đời?

Đáp: Phật tánh chẳng phải hoàn toàn có, nên chẳng nói là có.

Từ câu: “Vả lại, hư không là không v.v…” trở xuống là phần hai, nói Phật tánh đồng với hư không, chẳng phải trong chẳng phải ngoài.

“Như thế gian v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói Phật tánh đồng với hư không, chẳng ngăn ngại, lại chẳng thể phân chia nhỏ.

 

PHẦN 4

Từ câu: “Ca-diếp bạch rằng v.v…” trở xuống là nói khác với hư không, có hai phen hỏi đáp.

Câu hỏi thứ nhất, là nói Phật tánh, Niết-bàn, hư không đều chẳng thuộc ba đời, mà hư không gọi là Không, còn Niết-bàn là Thường, làm sao gọi là có? Phật đáp có ba ý: 1/ Nêu chương; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận trả lời. Như văn kinh.

Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là giải thích ba môn đều có lý do.

Niết-bàn, Như Lai, Phật tánh, vì lợi ích, nên nói đối đãi nhau; hư không thì chẳng có lợi ích nên không có đối đãi. Nhưng được “không” này chẳng gọi là Thường.

Nói thêm rằng: Nói lợi ích là chỉ vì muốn hộ trì hạng quyền cơ ở thời mạt pháp, chẳng thuận theo nghe sinh tử là Niết-bàn, Nhị thừa là Như Lai, gạch ngói là Phật tánh; nhưng nếu bỗng nhiên có cơ duyên thì không thể không nói. Chỉ y cứ theo lời đáp ở sau, thì lời nói ấy có chỗ quy hướng. Kinh Pháp Hoa đã nói, đâu thể cố ý trái nghịch. Cho nên kinh ghi: “Tướng thế gian thường trụ”. Lời thế gian đâu có vượt qua năm ấm, cõi nước v.v… Huống chi ấm, giới, nhập, sắc, hai thừa Đại Tiểu không chỉ có chánh báo.

Từ câu: “Tất cả thế gian v.v…” trở xuống là kết luận câu trả lời.

Vì hư không chẳng có đối đãi nên gọi là Không, Niết-bàn có đối đãi nên gọi là Thường.

Hỏi: Niết-bàn đã đối với phi Niết-bàn, thì cũng có hư không đối với phi hư không, vì sao chẳng có?

Đáp: Muốn hiển bày cho nhau, nên Niết-bàn vốn dứt đối đãi mà nói là đối đãi, hư không vốn đối đãi mà nói dứt đối đãi. Vì Niết-bàn đối đãi nhau nên có chỗ nói Diệu hữu; hư không dứt đối đãi cho nên được gọi là vô minh, là Diệu vô. Ở đây không nêu ra.

Ca-diếp nhân câu trả lời của Phật ở trên liền nêu câu hỏi rằng: “Trước Như Lai đã nói Niết-bàn có đối đãi nên gọi là có, hư không chẳng đối đãi nên nói là không, vậy bốn đại không có đối đãi lẽ ra cũng là không? Bốn đại không có đối đãi mà lại có, hư không chẳng có đối đãi lẽ ra cũng có, văn này chẳng thay đổi; tất cả thế gian không có khi bốn đại đối đãi mà còn nói là có, nghĩa là các vật ở thế gian đều là bốn đại tức là có; không có phi bốn đại đối với bốn đại. Tuy nêu các câu hỏi, nhưng rốt cuộc Phật chẳng đáp, chỉ lặp lại hư không đối với Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao chẳng đáp? Cũng có ý nghĩa sâu xa, Ca-diếp vốn nói: bốn đại không đối nên gọi là có, hư không lẽ ra cũng không đối thành là có.

Nay nói đại tuy không có ngoại chấp, chẳng phải bốn đại để đối với bốn đại, nhưng trong bốn đại tự có đối đãi, như đất, nước v.v… đều tự đối đãi nhau, mà trong hư không lại không có vật tự đối đãi, cho nên nói không, đây đều là dối nêu, nên Phật chẳng đáp. Phật đáp có ba: Một, nêu lại câu hỏi để bác bỏ, kế là giải thích.

Nói về Niết-bàn có mười lăm câu nên gọi là có, hư không chẳng có mười lăm câu nên là không.

Từ câu: “Nếu có lìa v.v…” trở xuống là ý thứ ba chánh đáp, có năm câu: Một, là nói hư không nếu là có thì đồng với mặt đất, thuộc về ba đời.

Từ câu “Như người đời v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói nếu hư không là có, thì lẽ ra đồng là tâm sở, có ba câu.

Từ câu: “Nếu hư không v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói nếu có pháp thì thuộc ba đời.

Thứ tư nói là bốn ấm chỉ đồng bốn ấm, trừ sắc ấm. Bốn ấm còn lại gọi là ấm, bốn ấm chẳng thể thấy, hư không cũng thế, ấm thuộc ba đời, hư không cũng như thế. Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là ý thứ năm, kết luận nói chẳng phải có.

Ý này chính là nói về pháp, nếu là có thì có thể nói đối đãi nhau, không đã là vô thì sao có đối đãi?

Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn ba, phá chấp không của ngoại đạo. Văn có hai: 1. Chánh phá chấp; 2. Kết luận về đồng khác. Chánh đáp có hai: 1. Phá riêng tám chấp; 2. Nêu chung năm đại để so sánh mà phá.

Phá riêng tám chấp: 1/ Phá nghĩa hư không là ánh sáng; 2/ Phá chấp hư không là chỗ ở; 3/ Phá chấp hư không là thứ lớp; 4/ Phá chấp hư không ở tại ba chỗ; 5/ Phá chấp hư không có thể tạo ra; 6/ Phá chấp hư không ở chỗ vô ngại; 7/ Phá cả hai chấp; 8/ Phá lại hư không là chỗ ở.

Thứ nhất phá chấp hư không là ánh sáng: Các Sư Số Luận nói không là thuộc về minh sắc trong hai mươi mốt sắc. Trước nêu câu chấp, sau là phá.

Văn kinh ghi: “Cũng có thể nói hư không là Thường”, nếu ghi đầy đủ là: “Cũng chẳng thể nói hư không là Thường”, vì văn kinh đã lượt bỏ chữ Bất (chẳng). Hư không tuy chẳng thể chẳng nói là Thường, nhưng rốt cuộc là Vô thường, các ngoại đạo này chẳng hiểu được nghĩa Không, nói không là sắc; đó là trong không chứa đựng ánh sáng; đâu được nói hư không là sắc? Nói “Cũng có thể”, lẽ ra nên nói: “Chẳng thể”, vì lời nói đã bị lược bỏ.

Từ câu: “Lại có người v.v…” trở xuống là thứ hai, phá chấp không trụ chỗ ở. Cũng trước là nhắc lại, kế là phá, sau là kết luận.

Quang Trạch cho rằng: Đã nói Chân đế có trùng số, cũng nói hư không có chỗ ở, như hai ngôi nhà, một ở phía đông thì đầy người, một ở phía Tây, thì trống không, nên biết nói có chỗ ở cũng đồng một cách phá này.

Từ câu: “Lại có nguời nói v.v…” trở xuống là thứ ba, phá chấp hư không là thứ lớp. Nói thứ lớp, như trong ống tiêu, ống sáo và cửa hướng vào trong. Các Sư Số Luận cho rằng trong cửa sổ thấy được hư không ngoài cửa sổ, đầu tiên ở trong lớp chấn song thứ nhất nhìn thấy, rồi kế đến thấy lớp thứ hai, thứ ba, đó là thứ lớp.

Văn kinh trước nhắc lại, sau là phá.

Từ câu: “Lại có người v.v… ” trở xuống là thứ tư phá chấp hư không ở ba chỗ, tức có ba chấp. Trước là nhắc lại, sau là phá.

1/ Không tại ở nơi không, chẳng có trong hữu; 2/ Chấp không ở nơi hữu, chẳng có trong không; 3/ Chấp tại Hữu không , như vật sắp mục nát mà chưa mục nát, gọi là hữu không.

Kế là phá chấp, như văn kinh.

Từ câu: “Như nói hư không v.v…” trở xuống là thứ năm, phá chấp hư không là pháp được làm ra. Cũng trước là nhắc lại chấp, sau phá chấp.

Ngày nay các sư Số Luận v.v… mỗi vị đều chấp đào đất, chặt cây, v.v… đều được hư không, tức cho hư không được làm ra.

Từ câu: “Người thế gian v.v…” trở xuống là thứ sáu, phá chỗ không ngăn ngại, trước là nhắc lại chấp.

Kế là phá chấp. Có hai câu: 1. Từ: “Nếu đủ và chẳng đủ v.v…”

Đầu tiên là nêu hai câu để định.Kế là vặn hỏi.

Chỉ hỏi chỗ không ngăn ngại là hư không, hư không này có dung chứa đầy đủ hư không ở mười phương hay không? Nếu chứa đủ thì nên biết mười phương chẳng có hư không, nếu chẳng đầy đủ, thì đây có kia không.

Từ câu: “Lại có nguời nói v.v…” trở xuống là thứ bảy, phá hai chấp: 1/ Chấp không và hữu; 2/ Chấp hư không ở trong vật. Trước nhắc lại hai chấp.

Kế là chánh phá, trước nêu chung chẳng phải.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” là phá cả hai chấp: Trước phá chấp không và hữu hợp, kế là phá chấp vật trong vật chứa.

Văn thứ nhất có hai: Trước nêu ba chương, kế là theo thứ lớp giải thích ba chương.

Một là dị nghiệp, giống như chim bay nhóm họp trên cây, chỉ có chim đến đậu trên cây, cây chẳng đến đậu ở chỗ chim; cũng giống như thế, vật đến hợp với không, không chẳng đến hợp với vật.

Cộng nghiệp hợp nhau như hai con dê cụng nhau, cũng như thế, hư không cũng hợp với vật, vật cũng hợp với hư không.

Đã hợp rồi như hai ngón tay xúc chạm nhau, tức dụng của vật hợp với vật rồi, vật chỉ là thế, dụng là động dụng của vật, thể dụng hai việc đã hợp. Dụng của không đã hợp với không, không tức là thể của hư không, dụng là công dụng dung chứa của hư không, thể và dụng này đã hợp lại còn dùng vật mà hợp với hư không. Như hai ngón tay trước đã hợp rồi, sau đó từng cặp hợp với nhau.

Từ câu: “Nếu nói dị nghiệp v.v…” trở xuống là giải thích ba chương ở trên. Chương một có ba ý: Một là hỏi về vô thướng, hai là hỏi về thường, ba hỏi vừa thường vừa vô thường. Thứ nhất như văn kinh ghi.

Nói vật nghiệp tức là động nghiệp, hư không nghiệp tức là không nghiệp. Không nghiệp hợp với vật, thì hư không vô thường, vật đã vô thường mà hư không hợp với nó, há chẳng phải vô thường hay sao? Nếu vật hợp với không, vật thì chẳng cùng khắp, đây đã hợp với kia, lẽ ra thì hư không cũng được cùng khắp, lẽ ra tùy hư không cũng là thường. Bách luận nói nếu tâm thần là giác thì dùng các thần như giác, v.v… để phá. Nhưng lời này hơi khác, mà lại là chấp nghĩa này. Chính là nói vật đã chẳng khắp vì sao lại hợp với hư không. Nói là vô thường, thì hư không cũng là vô thường ư?

Từ câu: “Nếu nói hư không v.v…” trở xuống là ý thứ hai, hỏi về thường. Văn có hai: Trước nêu chấp để bác bỏ, sau là hỏi.

Ý hỏi là hợp thì khiến cả hai đều vô thường.

Từ câu: “Nếu nói hư không là thường, v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nói về thường, vô thường.

Hoặc nói nếu hợp với vật thì hư không tự vô thường, chẳng hợp với vật thì hư không thường tự là thường. Nói vừa thường vừa vô thường, nay hỏi rằng: “Không có việc đó”, nghĩa là trong pháp tướng, không có pháp nào nửa thường nửa vô thường.

Từ câu: “Nếu cộng nghiệp hợp v.v…” trở xuống là giải thích chương hai, văn có hai: Trước nêu chấp để bác bỏ, kế là phá.

Nói hư không và nghiệp hợp, thì nghiệp phải cùng khắp, tức là Thể và Dụng của không hợp, lẽ ra Dụng cũng cùng khắp, nếu Dụng cùng khắp thì lẽ ra hợp khắp với tất cả vật, chẳng thể có hư không lìa vật, chẳng được nói có hợp và chẳng hợp.

Từ câu: “Nếu nói đã hợp v.v…” trở xuống là giải thích chương môn thứ ba. Văn có hai: Trước nêu chương môn để bác bỏ.

“Vì sao v.v… “ trở xuống là chánh phá, gồm có pháp, dụ và hợp.

Nói “trước không sau có”, nghĩa là không và vật khi trước chưa hợp, sau đó mới hợp, là xưa không nay có, lẽ ra là vô thường nhưng đây mới chỉ phá nghĩa hợp sau, chưa phá nghĩa hợp trước. Vì sao? Vì trước là thể Không và nghiệp dụng Không, Thể vật và nghiệp dụng vật không có thì thôi, đã có thì đồng thời đâu được nói trước thì không hợp, sau mới hợp. Mà người nông cạn cho rằng “không” mà thể mà có, khi đến mức quá dụng của không; vật cũng như thế, khi thể di động thì mới có dụng. Chỉ cần ý hợp trước này cũng đã là xưa không nay có, khi phá thì nên nói là vô thường. Chỉ một nghĩa “trước không nay có” này mà phá là phá đầy đủ hai hợp trước sau. Chánh là phá hai hợp sau, phụ là phá một hợp trước.

Từ câu: “Nếu nói hư không v.v…” trở xuống là phá chấp sau, nói hư không ở vật chứa. Văn có ba: Một là nêu lời chấp và bác bỏ; hai là vặn hỏi; ba là kết luận.

Thứ nhất nêu lời chấp.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là vặn hỏi. Trước y theo lý để hỏi, sau y theo hợp để hỏi. Thứ nhất lại có ba:

1/ Chánh thức hỏi.

Nếu nói có vật thì hư không ở trong vật ấy, vậy khi không có vật chứa, thì hư không ở đâu?

2/ Từ câu: “Nếu có trụ xứ v.v…” là vặn hỏi rằng lẽ ra có nhiều hư không.

Chưa có vật chứa thì đã có một hư không, có vật lại có thêm một hư không, vậy chẳng phải là nhiều hư không hay sao?

3/ Từ câu: “Nếu nhiều v.v…” trở xuống là kết luận nêu lỗi.

Kết ba lỗi: Một, chẳng được nói thường, nghĩa là trước chẳng có hư không trong vật chứa, nay có hư không trong vật chứa, chẳng lẽ là thường được ư? Hai, chẳng được nói là một; Ba, chẳng được nói cùng khắp; nghĩa là hư không khi đã có vật chứa chẳng phải là hư không khi không có vật chứa, như thế thì đâu thể nói là cùng khắp?

Từ câu: “Ví như v.v…” trở xuống là hợp để vặn hỏi. Nếu cho rằng hư không lúc không có vật chứa lìa hư không khi có vật chứa mà có chỗ ở, thì vật lìa hư không lẽ ra cũng có chỗ ở.

Từ câu: Cho nên biết được v.v…” trở xuống là kết luận.

Từ câu: “Nếu có người nói v.v…” trở xuống là đoạn tám lại phá chấp hư không là chỗ ở. Trước nêu lời chấp, sau là phá.

Nói chỗ ở của ngón tay, tức là nếu nói tất cả chỗ ở của ngón tay là chỗ ở của hư không, đã có bốn phương, mà phương khác nhau, thì hư không lẽ ra cũng có bốn phương, tùy theo chỗ ở của hư không.

Từ câu: “Nếu có pháp nào v.v…” trở xuống là đoạn hai, tổng kết, nêu năm đại trụ, so sánh phá tất cả.

Từ câu: Vì hư không là không v.v…” trở xuống là kết luận đồng khác trong phần phá chấp ngoại đạo. Nói đồng thì Niết-bàn và hư không đồng, không thuộc ba đời; nói khác thì Niết-bàn là thường, hư không là không.

Văn có ba ý: 1. Nói hư không chẳng thuộc ba đời, kế là đến nêu sừng thỏ cũng chẳng phải.

1/ Từ câu: “Vì thế nên ta nói v.v…” trở xuống là kết luận đồng khác.

2/ Từ câu: “Này người Thiện nam! v.v…” trở xuống là về Dụng tập dứt trừ hoặc thứ ba, cũng là Dụng vô tánh. Vì sao dứt được hoặc? Vì đã được Trung đạo quán, nên sẽ dứt bỏ được các hoặc, nếu không có pháp quán này thì lấy gì dứt hoặc. Có hai đoạn lớn: 1/ Nói Như Lai tập giải đã đầy đủ, không còn tranh tụng với thế gian; 2/ Nói các Bồ-tát v.v… có quán giải dứt hoặc.

Đoạn một có ba ý: 1/ Quán giải; 2/ Luận nghĩa; 3/ Kết luận thành dụng vô tránh. Văn ý thứ nhất: Người trí thế gian, thể hiện lý Trung đạo, nói cả có không, Phật cũng nói thế, chẳng có chống trái. Vả lại, Phật đã chứng Trung đạo nên hòa hợp với chúng sinh, do đó chẳng tranh cãi, đó há chẳng phải là Dụng của Trung đạo quán ư? Người ngu thế gian lời nói trái với chánh lý, chẳng đúng với Pháp tướng, cho dù nói có nói không cũng đều trái với ý chỉ của Phật, như tranh luận với Phật, huống chi với người thế gian?

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là ý thứ hai, luận về nghĩa gồm bốn phen hỏi đáp. Phen thứ nhất, là trước hỏi, sau đáp.

Trong lời đáp có ba phần: Một là nêu mười pháp. Hai là nêu người pháp. Ba, là kết luận không tranh cãi.

Trong hai đoạn văn nêu mười pháp và kết luận đều có chữ Triêm, phải đọc âm là Điểm.

Phen thứ hai hỏi đáp nói về người trí thế gian nói có không, thứ nhất là hỏi.

Trong lời đáp là định về pháp thể. Văn có hai: trước nói về có, kế là nói về không.

Phen thứ ba. Hỏi có hai: trước đặt ra câu hỏi trái nhau. Kế là kết luận Phật có điên đảo.

Lời đáp chẳng trái nhau, mỗi lời đều có y cứ: Sắc của chúng sinh từ phiền não sinh, nên sắc là Không, sắc của chư Phật chẳng phải như thế, cho nên nói là Có.

Phen hỏi đáp thứ tư nói về tướng sắc Thường, Vô thường .

Câu hỏi chứa đựng hai ý: Một là hỏi thế nào là sắc ấm từ phiền não sinh mà gọi là Vô thường? Hai là hỏi thế nào là sắc chẳng từ phiền não sinh mà nói là Thường? Lời đáp cũng có hai nghĩa; nay trong lời hỏi đã lược, nên chỉ nêu sắc từ phiền não sinh là vô thường mà thôi.

Đức Phật đáp có ba: Một là nói quán và chẳng quán, là gió của Thường và Vô thường; Hai là nói về quả của Thường và Vô thường; Ba là kết luận nêu người lệ thuộc. Thứ nhất, văn có hai: Đầu tiên nói chung về quán và chẳng quán, kế là nói người quán. Cũng có thể nói trước lược sau rộng. Trong rộng chỉ nói một nghĩa. Văn trước lại có bốn, đây là đoạn một nói sinh ba lậu là cảnh sở quán. Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là đoạn hai, nêu người năng quán; từ câu: “Như có người v.v…” trở xuống là đoạn ba, nêu người chẳng thể quán; từ câu: “Lại có bốn hạng người v.v…” trở xuống là đoạn bốn, nêu cả hai hạng người.

Nói người chẳng thấy, người dụ cho ba lậu, kẻ mù dụ cho chúng sinh, rừng gai dụ cho đường ác; Muốn nói ba lậu dắt dẫn các chúng sinh rơi ba đường ác, dẫu có ra khỏi được thì pháp thân bị tổn thương, pháp thân tổn thương thì ba thân cũng bị hoại.

Thứ tư là kết cả hai hạng người, trong đó có bốn câu: Hai câu

đầu là hai nguời quán và chẳng quán, hai câu sau là nói hạng người bị nghiệp dẫn dắt.

Từ câu: “Nếu có người v.v…” trở xuống là đoạn hai, chỉ nêu người năng quán; Trước nêu người, kế là nói rộng về người. Văn có hai là nói chung và nói riêng, nói chung lại có hai: Một là nói quán các lậu, gồm sáu câu.

Từ câu: “lại nghĩ rằng v.v…” trở xuống là nói tự mình khuyên tu, có năm câu.

“Vì thế v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về quán hữu lậu, cũng có hai: thứ nhất nói về quán các loại, kế là siêng tu tập. Thứ nhất lại có ba đoạn: Quán nhân, có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Người có trí v.v…” trở xuống là quán quả báo.

Từ câu: “Quán quả báo v.v…” trở xuống là nói, quán nặng nhẹ.

Từ câu: “Người trí nếu biết v.v…” trở xuống là , nói về tự mình siêng năng tu tập, gồm có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Nếu người biết v.v…” trở xuống là , nói về quả Thường, Vô thường. Văn có hai: Trước nói chẳng từ phiền não sinh thì được quả thường, kế là nói phiền não sinh thì được quả vô thường.

Từ câu: “Biết phiền não v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba, kết luận về người. Văn có hai: trước nói người được quả thường, tức Như Lai.

Kế là nói người được quả vô thường tức phàm phu.

Từ câu: “Người trí ở thế gian v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận thành dụng vô tránh.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Bồtát dứt hoặc, tức các Bồ-tát v.v… tu tập quán giải, xa lìa các kết sử lậu hoặc, nếu không có lực dụng của Trung đạo, làm sao có thể khiến cho các hoặc dứt hết. Văn có bốn phần: 1. Quán thể của lậu; 2. Quán nhân của lậu; 3. Quán quả của lậu hoặc; . Kết luận trí quán. Quán thể gồm ba phen hỏi đáp: Thứ nhất, trước hỏi thể của ba lậu hoặc.

Phật đáp có ba câu: một đáp về Dục lậu, ở đây lại chia làm ba: 1. Nêu thể; 2. Dẫn chứng; 3. Kết luận. Thứ nhất là nêu thể.

Ác giác bên trong là nội tâm, do duyên bên ngoài là ngoại duyên.

Từ câu: “Vì thế khi xưa v.v…” trở xuống là dẫn chứng.

Kế là nói về hữu lậu cũng có ba:

  1. Nêu thể.
  2. Phân biệt khác với dục lậu.
  3. Kết luận nêu danh.

Kế là nói về vô minh lậu. Văn có hai: 1. Nêu thể; 2. Nói sinh ra các lậu.

  1. Câu này là nêu thể của vô minh lậu.
  2. Từ câu: “Vô minh v.v…” trở xuống là nói về công năng sinh ra các lậu. Văn có ba là nêu lên, giải thích và kết luận.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ hai. Trước hỏi vì sao nói khác nhau.

Từ câu: “Hai pháp như thế v.v…” trở xuống là Đức Phật đáp; Văn có ba:

1/ Nêu hai chương: Một làm nhân quả lẫn nhau, hai là giúp nhau lớn lên.

2/ Từ câu: “Chẳng khéo suy nghĩ, v.v…” trở xuống là giải thích hai chương: trước giải thích làm nhân quả.

Từ câu: “Chúng giúp nhau lớn lên, v.v…” trở xuống là giải thích lớn lên.

Từ câu: “Như hạt giống v.v…” trở xuống là lập dụ, kết luận.

3/ “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” là lần hỏi đáp thứ ba.

Ý hỏi: Trước Phật nói lậu thứ ba là vô minh, vì sao nay lại nói từ vô minh mà sinh.

Từ câu: “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là Phật đáp, Văn có ba: trước nói có hai thứ vô minh.

Từ câu: “Nếu nói vô minh, v.v…” trở xuống là giải thích hai thứ vô minh. Văn có hai: Trước nói vô minh lậu là vô minh bên trong, kế giải thích từ đó sinh là lậu bên ngoài.

Nội tâm chẳng biết là vô minh, bên ngoài lại sinh phiền não là ngoại vô minh.

Từ câu: “Nếu nói vô minh lậu, v.v…” trở xuống là kết luận hai quả.

Nói vô minh lậu là thỉ chung, nghĩa là được quả vô thỉ, vô chung. Trong mười hai nhân duyên thì vô minh là chi thứ nhất, làm sinh ra các quả hành thức v.v… nhân duyên này trôi lăn ba đời, nên gọi là vô thỉ chung. Nếu được Trung quán, trừ diệt nhân duyên thì thành có thỉ chung, ngược dòng sinh tử trở về Niết-bàn cuối cùng. Nói từ vô minh sinh ấm nhập v.v…, nghĩa là từ vô minh sinh ra các lậu, vời lấy quả ấm.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, quán nhân của các lậu, gồm có hai lần hỏi đáp. Thứ nhất là từ câu: “Người trí, v.v…” trở xuống là Phật đáp. Văn có bốn: Thứ nhất nói về nguyên nhân bên ngoài.

Từ câu: “Do nhân duyên gì v.v…” trở xuống là nói về nguyên nhân bên trong.

Từ câu: “Khi Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói nhờ có tu quán nên đắc đạo.

Từ câu: “Vì thế v.v…” là thứ tư, dẫn chứng.

Từ câu: Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ hai, tức là hỏi.

Kế là Phật đáp: trước là dụ, sau là hợp.

Nói một vật chứa là dụ cho một thần minh; có các hạt giống là dụ cho các hoặc đã thành thục, được mưa thì các hạt đều nẩy mầm, nghĩa là nếu chấp tướng thì tự tướng mỗi hạt đều sinh khởi, nếu chấp tướng đẹp thì sinh tham, chấp tướng xấu thì sinh sân. Kế là hợp dụ.

Nói do ái nên sinh ra các phiền não, nghĩa là lại chấp tướng.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn ba, quán quả của các lậu; cũng có hỏi và đáp.

Phần đáp có hai: Trước nói về quả báo, sau nói về tập quả.

Trong quả báo có ba khổ và ba vô thường, có hai cách giải thích: Một là cho rằng ba khổ tức khổ khổ, hành khổ và hoại khổ; ba vô thường là sinh diệt, lưu động và đại kỳ. Hai là cho rằng ba cõi là ba khổ, ba vô thường tức ba cõi đều vô thường.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần thứ hai phân biệt quả báo vô lậu. Phần hỏi có hai là lược và rộng. Lược hỏi lại có ba: Một là nói có quả vô lậu.

Hai là nói người trí dứt bỏ quả báo.

Ba là chánh thức hỏi.

Từ câu: “Những người đắc đạo v.v…” trở xuống là hỏi rộng. Văn có ba: Thứ nhất là nêu có quả vô lậu.

Từ câu: “Như người trí v.v…” trở xuống là hỏi vì sao nói đoạn?

Từ câu: “Như đoạn v.v…” trở xuống là thứ ba, hỏi vì sao nói có.

Ý hỏi là: Có quả hữu lậu, lại có quả vô lậu. Nếu bậc Thánh dứt quả vô lậu thì làm sao được quả báo bậc Thánh? Nhưng Phật đáp có hai ý: Một là nếu nói theo đương thể tức pháp vô lậu không có quả báo, mà nay nói có tức là trong nhân nói quả. Phật đáp, văn có ba: Một, là nhân quả cùng nói; hai là nói không có quả vô lậu; ba là không có quả phiền não. Thứ nhất lại có ba câu: 1/ Nói Như Lai có hai thuyết.

2/ Từ câu: “Như người thế gian v.v…” trở xuống là câu thứ hai, nêu người thế gian nói.

3/ Từ câu: “Ta cũng thế v.v…” trở xuống là câu thứ ba, nêu Như

Lai nói.

Nói thân nhờ tâm vận mà đến Phạm thiên, là trong nhân nói quả, nghĩa là cõi Sắc là thân, định sở thiền là tâm, định là ý nghiệp, vì thế gọi là Tâm, là Thường. Cho cõi Sắc là tâm sinh thân, đó là định tâm; tâm thật ra chẳng phải thân, nhưng từ tâm có thể được thân, nên gọi là thân. Đó là trong nhân nói quả, còn trong quả có nhân thì rất dễ hiểu.

Từ câu: “Tất cả bậc Thánh v.v…” trở xuống là nói về vô lậu không có quả báo.

Trong ba Hữu chỉ có nghiệp Hữu lậu được quả báo, nên nói không có quả vô lậu. Câu sau lại nói về quả vô lậu, đây là trong nhân nói quả, tức nhân vô lậu mà được quả Phật. Nhân thật chẳng phải quả mà vẫn sinh quả, nên nói nhân là quả.

Từ câu: “người có trí v.v…” trở xuống là thứ ba, nói không có quả phiền não. Văn có hai: 1/ Nói về dứt hoặc. Kế là nói tu đạo. Thứ tư, kết luận về quán trí.

 

PHẦN 5

Đầu quyển là đoạn thứ ba, chỉ nói về sinh thiện, gồm hai phen hỏi đáp: Thứ nhất, gồm có ba: Một, nói về duyên khởi; hai, hỏi; ba, kết luận lời hỏi. Về duyên khởi, văn có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Nếu từ nghĩa này v.v…” trở xuống là hỏi.

Nói phiền não là chúng sinh, chúng sinh là phiền não; phiền não là chúng sinh, tức nhân khổ mà không có điều thiện; chúng sinh lại là phiền não tức là quả khổ bất thiện. Nếu thế thì đều chẳng thiện, vì sao nói sinh được pháp thiện? Làm sao lại có thuốc hay?

Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là kết luận câu hỏi.

Phật đáp có ba câu: 1/ Khen câu hỏi; 2/ Hợp dụ; 3/ Kết luận nói người năng tu, tức năng lực Phật tánh. Thứ nhất như văn kinh.

Từ câu: “Núi Tuyết v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Ở truớc thì thuốc quý dụ cho Phật tánh, ở đây lạc dụ cho phạm hạnh. Lời nói hơi khác nhau.

Từ câu: “Nếu có chúng sinh v.v…” trở xuống là kết luận.

Từ câu: “Ca-diếp bạch Phật v.v…” là phen hỏi đáp thứ hai, nêu ra hạnh được sinh.

Đây là hỏi lại ý trước.

Phật đáp có hai ý là đáp chung và đáp riêng. Đáp chung, trước là nêu dụ. Sau là hợp dụ. Ý Phật đáp là: Chúng sinh cũng chẳng phải hầu hết đều có phạm hạnh này; Như quả cây ở thế gian, đã là quả nhưng chưa hẳn đã sinh ra hạt; hoặc do chim ăn, lửa đốt, nước làm mục rã thì chẳng thể sinh. Chẳng bị ba việc này thì sẽ sinh ra hạt. Chúng sinh cũng như thế, người chẳng thể tu tập gọi là quả phiền não, từ quả này sinh lại sinh nhân của hoặc. Nếu người tu điều thiện, tức chỉ có hoặc quả mà không có hoặc nhân, tức trong thân chúng sinh có phạm hạnh thanh tịnh.

Từ câu: “Chúng sinh quán Thọ…” trở xuống là thứ hai, đáp riêng, nói về tu quán giải. Văn có năm đoạn: 1. Quán Thọ; 2. Quán Tưởng; 3. Quán dục; . Quán nghiệp; 5. Quán mười hai nhân duyên. Năm pháp quán này gom thành hai khoa: bốn pháp trước là quán năm ấm; một pháp sau là quán nhân duyên. Trong phần quán năm ấm vì sao chẳng quán hai ấm thức và sắc? Vì lúc Thức mới khởi chưa phân biệt được khổ vui. Các sư Thành Thật cho rằng: Thức thì được thật pháp, Tưởng thì được giả danh, đều chưa thể phân biệt; cho nên chẳng quán. Còn Sắc ấm thì thô thiển nên cũng chẳng quán. Ba ấm còn lại rất mạnh mẽ, nên cần phải quán. Trong ba ấm này, Thọ và Tưởng ấm thì chẳng chia, hành ấm chia làm hai là dục và nghiệp. Vì sao? Vì hành ấm quá nặng nên phải chia ra để quán; trong quán mỗi quán đều có bốn phần: 1/ Quán thể của Thọ; 2/ Quán nhân của Thọ; 3/ Quán quả của Thọ; / Nói về tu đạo. Thứ nhất là quán thể của Thọ.

Phàm Thọ tâm chỉ là quả báo, mà nói nhân gần là vì Thọ là chi cuối trong năm quả, từ đây lại khởi ra ba nhân, sinh các phiền não, gọi là xúc nhân duyên. Nói nhân duyên là vì tên xúc chẳng nhất định, không có tự thể riêng, cũng có thể nói thức là xúc, Tưởng là xúc. Đây là theo thứ lớp nhân duyên; nói vô minh xúc tức là tâm trước của phiền não, nói minh xúc tức là tâm trước của vô lậu, nói chẳng phải minh, vô minh xúc tức là tâm trước của các thiện hữu lậu.

Từ câu: “lại quán v.v…” trở xuống là dứt hai quán nhân của Thọ.

Trước nói nhân của Thọ không từ đâu sinh, sau nói từ hòa hợp sinh.

Từ câu: “lại quán quả báo v.v…” trở xuống là thứ ba, quán quả.

Từ câu: “Nếu có người v.v…” trở xuống là ý thứ tư, tu đạo.

Xúc có ba: Một là vô minh xúc, nếu tâm hành tạo ác thì Thức, Tưởng Thọ gọi là vô minh xúc; tâm hành khởi điều thiện thì ba tâm Thức, Tưởng Thọ là vô minh xúc. Hành vô ký chẳng phải thiện chẳng phải ác thì ba tâm trên gọi là chẳng minh, vô minh xúc. Lại có một cách giải thích rằng: Như văn trước nói minh xúc là tám Chánh đạo, hai xúc kia làm cho các điều ác thêm lớn.

Từ câu: “Lại nữa, này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, quán về Tưởng, cũng như trước, văn có bốn. Nói Tưởng ở đây không phải là Tưởng ấm, mà nói về Tưởng điên đảo trong tâm hành; lại trong tư duy đạo gọi là Tưởng đảo, tâm đảo; trong Kiến đế gọi là Kiến đảo. Nay nói chung chẳng được gọi là Kiến mà gọi chung là Tưởng. Văn kinh ghi: “Cõi Vô sắc là tất cả Tưởng” nghĩa là trong cõi Vô sắc mới có bất dụng xứ, chẳng phải cho rằng tất cả đều có. Nhưng hai cõi trước là tất cả, cho nên gọi là Tưởng. Văn quán thể của Tưởng có hai: trước là chánh quán thể, kế là đáp.

Nói diệt Thọ Tưởng là Giải thoát, các sư Số luận nói rằng: “Người được Giải thoát chẳng những diệt hai tâm này, mà còn diệt tất cả tâm mới được Giải thoát; nay chỉ nói hai tâm là vì hai tâm này nhiều tội lỗi. Tâm Thọ tu thiền, Tưởng tu định Vô sắc. Tâm Thọ đắm thiền, Tưởng tâm chấp Vô sắc là Niết-bàn”. Các sư Thành Thật chẳng cho như thế: “Nói rằng duyên thế đế gọi là Tưởng Thọ, duyên nhân đế gọi là Tuệ tâm, tâm Tưởng thế đế có thể diệt để được Giải thoát. Tuệ tâm chân đế chẳng thể diệt”. Nghĩa này đồng với các sư Số Luận, Ca-diếp hỏi rằng: Phải diệt tất cả pháp gọi là Giải thoát, đâu thể diệt hai tâm mà được Giải thoát?

Đức Phật đáp phải diệt tất cả tâm mới được Giải thoát. Đức Phật có lúc nói chung tức gồm thâu tất cả, hoặc có lúc nói riêng. Nay nói Thọ và Tưởng diệt được Giải thoát, tức nói chung rồi mới nói tất cả. Văn kinh trước nói: “Nhân chúng sinh mà nói, người nghe hiểu pháp”, nghĩa là nhờ duyên vào chúng sinh mà nói các pháp thiện ác, người nghe liền hiểu. Văn kinh lại ghi: “Do pháp mà nói chúng sinh, chúng sinh cũng hiểu, pháp ác nên bỏ, chúng sinh nghe xong thì hiểu được. Hai ý này chính là để trả lời câu hỏi ở trước.

Kế là quán nhân của Tưởng, cũng có hai: trước là chánh quán.

Kế là hai phen hỏi đáp. Thứ ba là quán về quả.

Thứ tư là nói về tu đạo.

Từ câu: “lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn ba, quán Dục, tức là môn phiền não, cũng có bốn phần: Một là quán thể của Dục.

Chính là do nội tâm, mà nay chỉ nói về ngoại trần, là vì ngoại trần làm phát sinh tâm dục, nên nói trần là dục. Đây là trong nhân nói quả.

Từ câu: “Do điên đảo v.v…” trở xuống là thứ hai, quán nhân của Dục, kế là quán quả báo.

Thứ tư nói về Tu đạo.

Từ câu: “Lại nữa người trí v.v…” trở xuống là đoạn bốn, quán nghiệp. Cũng có bốn: Một, là quán Thể.

Nói Thọ, Tưởng, Xúc, Dục là phiền não, có hai cách giải thích của Số luận và Thành Thật.

– Cho rằng Thọ, Tưởng, Xúc, Dục, khi tâm vương khởi thì tâm sở liền khởi theo, trong đó nói Thọ, Tưởng tức là bốn tâm sở trong mười tâm sở, Thọ là tâm sở Thông, đã thuộc Thông tâm thì đều có chung cả Thiện ác. Tâm sở khởi thiện thì gọi là Tâm thiện, tâm sở khởi ác thì gọi là phiền não. Ở đây ý cứ theo tâm sở khởi ác nên gọi như thế.

– Các sư Thành Thật cho rằng: Tâm vương là tâm sở không khác, trong đây nói bốn pháp Thọ, Tưởng, v.v… tức bốn tâm nhưng không có sắc ấm, xúc là thức ấm, Dục là Hành ấm. Nếu hành khởi thiện thì gọi là thiện, còn hành khởi ác thì gọi là phiền não. Ở đây là nói về phiền não.

Kinh ghi: “Tạo ra sinh nghiệp, chẳng tạo ra Thọ nghiệp”, có hai cách giải thích:

– Cho rằng do nhân duyên phiền não này chẳng dứt mất, nên nói là sinh nghiệp, nhưng chẳng thể phân biệt quả báo của năm cái, các Thọ khác nhau, nên chẳng tạo Thọ nghiệp.

– Do phiền não nhuận nghiệp mà được sinh, nên nói là tạo sinh nghiệp, nhưng chẳng thể vời lấy xả Thọ. Hai xả vừa chừng, tâm xả đã là phiền não làm sao thuận sinh Thọ được? Lạc Thọ chính là tâm lạc, lại cũng chẳng thể nhuận sinh. Đây là cùng nói về nghĩa nhuận nghiệp sinh.

Văn nói: “Cùng đi với nghiệp thì có hai loại”, nghĩa là Dục sinh ra thể của nghiệp; đây là nói khi nghiệp còn có các hoặc, nên nói “đi chung với nghiệp”, nhưng nghiệp và pháp khác nhau, nên có hai nghiệp là sinh và Thọ.

Lại nói: “hai nghiệp thân miệng là nghiệp, cũng gọi là quả”. Vì năng tạo tác nên gọi là Nghiệp, lại làm vui thích miệng ý nên gọi là quả, ý chỉ gọi là nghiệp, nhưng không có nghĩa tự vui thích, nên chẳng gọi là quả.

Lại nói “Chánh nghiệp là ý” vì ý chánh là thể của nghiệp. Nói Kỳ nghiệp là nghiệp thân và miệng, vì thân miệng tự nhiên, phù hợp với ý mà có, như đến thời kỳ thì khế hợp, nên gọi là Kỳ nghiệp.

Thứ ba là quán quả báo. Văn có hai: Một, là giải thích bốn nghiệp, kế là hai phen hỏi đáp phân biệt. Phen hỏi đáp thứ nhất.

Trong lời đáp nói: Vô lậu gọi là quả, chẳng gọi là báo, nghĩa là hoặc có lúc nói không khác, còn ở đây chắc chắn là khác. Nói thêm rằng: Vô lậu là tập quả, cho nên chỉ gọi là quả, chẳng gọi là Nhân. Phen hỏi đáp thứ hai.

Nói mười bất thiện có thượng, trung, hạ, tức là khổ nặng thì đọa vào địa ngục, khổ nhẹ thì đọa vào ngạ quỷ, chẳng nhẹ chẳng nặng thì vào súc sinh. Mười thiện có bốn quả báo sinh vào bốn châu. Quả báo Thọ mạng ở cõi Diêm-phù là quả của nghiệp thấp kém nhất mà nói là thượng thượng, vì ở đây là lấy về mặt tu đạo, làm thiện có thuận lợi.

Thứ tư, Từ câu: “Người trí quán v.v…” trở xuống là nói Tu đạo.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn năm, quán mười hai nhân duyên. Văn cũng có bốn là phiền não, nghiệp, hữu và khổ. Nhưng văn này y cứ theo Thọ, Tưởng v.v… ở trước đều có bốn môn, mà nay chỉ nói phiền não. Nói thêm rằng: Ba nghĩa Thể, nhân và quả báo đều có đủ trong mười hai nhân duyên. Trí năng quán tức là tu Thọ. Vả lại, y cứ theo văn này thì đó là quả báo. Từ đó suy ra biết phiền não sinh khổ. Chẳng nên nói phiền não chẳng vời lấy quả báo.

Kinh Thập Địa chia mười hai nhân duyên làm ba đạo là phiền não, nghiệp và khổ, trong đó vô minh, ái thủ là phiền não đạo; hành, hữu là nghiệp đạo; thức, lão tử là khổ đạo. Trong đây, bốn trường xuất xứ từ hữu; tức chỉ cho năm quả hiện tại là hữu; sinh tử là khổ, khổ và hữu ở đây cũng không nhất định. Nhưng văn trước nói tám khổ, không lấy thức danh sắc, chỉ lấy lão tử, vì thế lập thuyết này. Nhưng bốn câu này, nếu nói đủ thì: Một, từ phiền não sinh phiền não; hai, từ phiền não sinh nghiệp; ba, từ phiền não sinh hữu; bốn, từ phiền não sinh ra khổ. Kế là y cứ theo nghiệp: Một là từ nghiệp sinh nghiệp; hai là từ nghiệp sinh hoặc; ba là từ nghiệp sinh ra hữu; bốn là từ nghiệp sinh ra khổ. Hai câu này cũng như thế, tức gồm mười sáu câu. Nay văn này chỉ có chín câu thì thiếu, mười hai câu thì thừa. Theo lý thì chỉ nên có mười một câu. Vì sao? Vì mười hai nhân duyên theo thứ lớp sinh nhau: vô minh sinh hành, nhân hành sinh thức, cho đến do sinh mà sinh lão tử, lão tử lại chẳng biết sinh pháp nào nữa, như vậy thì chỉ có mười một câu. Nhưng người kết tập kinh lập ra mười hai, là muốn nói lên mười hai nhân duyên.

Nay văn này không đầy đủ, đó chỉ là rộng lược khác nhau mà thôi. Phàm nói sinh nhau thì có loại pháp trước sinh pháp sau, pháp sau sinh ngược lại pháp trước, lại có loại khoa tiết sinh nhau, như xét câu thứ nhất: phiền não sinh phiền não, thì vô minh là gốc, tức do phiền não mà sinh ái thủ; nói phiền não sinh nghiệp tức là vô minh sinh ra hành; phiền não sinh hữu tức vô minh sinh thức v.v…, phiền não sinh ra khổ tức sinh ra lão tử. Câu thứ hai: Từ nghiệp sinh ra nghiệp, tức là từ hành sinh ra hữu, từ nghiệp sinh ra phiền não, tức là từ hành sinh ra vô minh, từ nghiệp sinh ra hữu tức là từ hành sinh ra thức v.v…; từ nghiệp sinh ra khổ tức là từ hành sinh ra lão tử. Câu thứ ba: Từ hữu sinh hữu, tức từ thức sinh sáu nhập v.v…, từ hữu sinh ra phiền não, tức từ thức sinh ra vô minh; từ hữu sinh ra nghiệp tức từ thức sinh ra hành; từ hữu sinh ra khổ tức là từ thức sinh ra lão tử. Câu thứ tư: Từ khổ sinh ra khổ tức từ sinh sinh ra lão tử; từ khổ sinh phiền não tức là từ lão tử sinh ra vô minh; từ khổ sinh ra nghiệp tức là từ lão tử sinh ra hành, hữu; từ khổ sinh ra hữu tức là năm quả như thức, v.v…

Văn kinh nói: “Vì trong ngoài có ái thì có ái khổ”. Kinh có hai văn: một nói ái khổ, hai nói Thọ khổ, nhưng nghĩa ái yếu kém; tuy hai nghĩa đều thông. Nói Thọ, là vì ái này mà lãnh chịu các khổ. Nói ái khổ, trong kinh phần nhiều nói ân ái là khổ.

Y cứ theo quán nhân duyên, nay cũng ý cứ theo bốn pháp quán khác nhau ở trên. Một là quán thể; văn có bốn: Một là nói nhân quả sinh nhau; hai là quán năm đường đều khổ; ba là quán ba cõi đểu khổ; bốn là quán tám khổ. Văn thứ nhất có hai: Trước nói về sinh nhau, sau kết luận mười hai nghĩa.

Chín câu sinh nhau đều liên quan nhau.

Từ câu: “Người có trí v.v…” trở xuống là quán năm đường đều khổ.

Y cứ theo năm đường thì gồm có mười hai nhân duyên, trong đó có phiền não, nghiệp, khổ và hữu, địa ngục là khổ, phiền não là phiền não, nghiệp là nghiệp, Thể tức là Hữu. Các đường kia suy theo đây cũng có thể biết.

Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là quán ba cõi đều khổ.

Nhưng hai cõi chưa hẳn đều là khổ, chỉ có ba đường là toàn khổ, còn cõi trời, người và đệ Tam thiền đều lạc, Đệ Tứ thiền là xả. Ở đây chỉ nói một bên, nếu y cứ lúc Như Lai mới thành đạo một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, thì ba cõi đều khổ.

Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là quán tám khổ.

Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là quán nhân khổ.

Nhân khổ là ái vô minh, đối với Tiểu thừa thì nghiệp phiền não là nhân khổ; trong pháp Đại thừa thì ái hữu, vô minh là nhân khổ. Trong Tiểu thừa thì ái là gốc khổ, vô minh la phụ. Vì thế văn kinh ghi: “Ái là tập đế”, đều có phiền não làm gốc của khổ. Văn kinh lại ghi: “Ái vô minh có hai thứ là trong và ngoài”, gồm hai nghĩa: Một là nêu trong ngoài của ái, thấy sắc cảnh bên ngoài thì tâm sinh chấp đắm, đó là ái bên ngoài, tự tâm khởi nhiễm là ái bên trong; thấy thân người khác là ái bên ngoài, thấy thân chính mình lá ái bên trong. Hai là nêu vô minh, nếu nội tâm chẳng liễu ngộ thì gọi là vô minh bên trong, chẳng phân biệt việc bên ngoài, thì gọi là vô minh bên ngoài.

Văn kinh ghi: “Ái là duyên thủ, thủ duyên ái”, đó là mười hai nhân duyên, nếu nói thuận thì ái duyên thủ; nói nghịch thì thủ duyên ái, hai nghĩa này là nói thủ và ái làm nhân duyên đối đãi nhau, như vô minh duyên hành, hành duyên vô minh, vừa làm nhân, vừa làm quả.

Thứ ba là quán quả báo.

Thứ tư, Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là nói tu Thánh đạo.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp bạch v.v…” trở xuống là phần hai trong phẩm, khen ngợi kinh, được chia làm ba phần:

  • Y cứ theo giáo để khen ngợi.
  • Y cứ theo hạnh để khen ngợi.
  • Y cứ theo Phật để khen ngợi.

Thứ nhất, khen ngợi giáo sinh ra Trung đạo Phật tánh. Vì khiến Xiển-đề trở lại sinh ra gốc thiện, nên mới khen ngợi giáo; ý giáo mà tu hành, thì hành thật ít có, do đó mà khen ngợi hạnh. Đức Phật là giáo chủ nên khen ngợi Phật. Đây là khen ngợi Tam bảo. Thứ nhất văn có hai phen hỏi đáp.

Đầu tiên ý hỏi thế nào là duyên của phạm hạnh, chứ không phải là hỏi về thể của phạm hạnh.

Phật đáp: “Tất cả pháp”, đó là nói chung tất cả pháp đều có khả năng sinh ra phạm hạnh. Ý văn là đối với Niết-bàn Mãn giáo, chứa đựng tất cả pháp. Nghĩa sau tự hiển bày. Phen hỏi đáp thứ hai, chính thức khen ngợi kinh.

Ý hỏi là: Kinh sinh ra các hạnh, vì sao nói chung là tất cả pháp?

Đức Phật đáp có hai: Trước khen, sau đáp.

Ý lời đáp nói chỉ có kinh Đại Niết-bàn này là tất cả pháp. Văn có hai: Trước nêu rộng hai mươi lăm dụ; sau từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là kết luận chỉ cho Niết-bàn, khen ngợi kinh này.

Nói cắt đứt phiền não, tức là phẩm nhẹ thì đồng được, nay dứt phẩm vô minh nhẹ nhất, nên nói là tập khí. Nếu nói Tạng giáo và Thông giáo đều trước dứt chánh sử, sau dứt tập khí, thì đó chính là chánh và tập của giới nội, kế là dứt chánh sử của giới ngoại và sau là dứt tập khí của giới ngoại. Nếu theo Viên giáo thì chánh và tập của giới nội, giới ngoại đồng thời dứt. Nay văn ghi: Dứt tập, tức là khen Viên giáo đồng thời dứt tập, chứ chẳng phải Phương tiện.

Từ câu: “Như trước kia v.v…” trở xuống là khen ngợi hạnh. Văn có hai: Một là nói Đạo phẩm; hai là nói về Tưởng. Ở đây có hai nghĩa: Một là hạnh cốt yếu; hai đều là Đại hạnh. Nói hạnh cốt yếu thì đâu được dùng Đạo phẩm, mười Tưởng của Thanh văn để làm cốt yếu. Ở đây nói Đạo phẩm là lấy vị chân giải trở lên, còn Thập Tưởng thì lấy vị Phương tiện. Đó là tự giải chánh quán, là Tông chỉ nhập đạo, há chẳng phải là cốt yếu ư? Vả lại, dùng tâm Đại Niết-bàn để tu tập, thì đó chẳng phải là pháp của Nhị thừa.

Nói Đại hạnh là muốn nói tất cả các pháp thiện đều là sở hành của Đại sĩ. Văn đầu tiên nói Đạo phẩm, trong đó chia ra hai đoạn: Một, nói về thể của đạo phẩm; hai là nói về nhân duyên của Đạo phẩm. Nói về thể, văn có ba ý: Một là nói chân giải là đúng; hai, nói hữu lậu là sai; ba, kết luận nói chân giải là đúng. Trang Nghiêm giải thích Đạo phẩm rằng: Bốn niệm, Bốn chánh, Bốn như là sở quán của ngoại phàm; Năm căn, năm lực là năng quán của nội phàm; tám chánh và bảy giải là sở quán của bậc chân Thánh. Khai Thiện thì cho ba mươi bảy phẩm đều chung, cho nội phàm và ngoại phàm, trong đó bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như y túc, năm Căn, năm Lực đều là cảnh quán của hàng nội phàm Tự giải; còn tám Chánh đạo và bảy Giác chi thì đều là cảnh quán của bậc chân Thánh; Tám chánh đạo là Kiến đế, bảy Giác chi là Tư duy.

Các sư Trung Quán bác bỏ Trang Nghiêm rằng: Đại phẩm nói ba mươi bảy phẩm là pháp xuất thế, vì sao nói ba Bốn là ngoại phàm. Lại bác bỏ Khai Thiện rằng: Văn này nói Thế đệ nhất pháp chẳng phải phạm hạnh thanh tịnh, ba mươi bảy phẩm là phạm hạnh thanh tịnh, vì sao nói ngoại phàm là năng quán? Các nhà Thiên Thai nói đạo phẩm có rất nhiều loại, nói đầy đủ trong văn giảng về Đạo phẩm trong Chỉ quán.

Trang Nghiêm thì y cứ theo vị mà nói về Đạo phẩm, còn Khai Thiện thì y cứ theo pháp tu chung để nói về Đạo phẩm; đều chỉ thiên về một đường.

Thứ nhất, nói là đúng. Văn có bốn: Một là nói ba mươi bảy phẩm là gốc của phạm hạnh.

Từ câu: “Nếu xa lìa v.v…” trở xuống là nói lìa Đạo phẩm thì chẳng đắc quả.

Từ câu: “Vì nhân duyên v.v…” trở xuống là kết luận đúng.

Từ câu: “Vì ba mươi bảy đạo phẩm v.v…” trở xuống là ý thứ tư, giải thích vì sao đúng.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là nói về chẳng đúng, có bốn lần hỏi đáp. Lần thứ nhất nói về hữu lậu là chẳng đúng.

Ý hỏi là: Thiện hữu lậu cũng giúp cho vô lậu thêm lớn, vì sao chẳng gọi là phạm hạnh?

Ý muốn nêu thế pháp để hỏi, cho nên trước định ra ý nghĩa.

Phật đáp Hữu lậu, Khai Thiện nói rằng: Hàng phương tiện vị đều chấp tướng, thật là Hữu lậu; nhưng lại là tương tự vô lậu; vì chưa thể dứt các lậu, chẳng thuộc về quả vô lậu, nên nói là hữu lậu. Nhưng thể của nó thật chẳng chấp tướng, cho nên văn vặn hỏi ở sau ghi: “tánh của nó chẳng phải điên đảo”.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ ba.

Nói hướng về vô lậu, nên chẳng gọi là điên đảo, tức là nói từ pháp quán này mà phát sinh pháp vô lậu, nên chẳng gọi là điên đảo, nhưng tự thể lại có chấp.

Nói pháp Thế đệ nhất chỉ là một tâm, chính là lấy gần với khổ nhẫn làm pháp Thế đệ nhất, thế thì chỉ trong một sát-na tâm. Nay ý Phật đáp là vốn nói Phạm hạnh là muốn cho chúng sinh phát tâm nối nhau, còn Thế đệ nhất thì chỉ một niệm tâm, cho nên chẳng chấp.

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là lần hỏi đáp thứ tư.

Văn kinh nói: Năm thức của chúng sinh chẳng điên đảo, câu này có nhiều cách giải thích: Có thuyết cho rằng thức ấm chưa có chấp tướng, hoặc cho rằng thức tâm có tướng nhưng còn nhẹ hơn ba tâm sau, mà nay người hỏi lại nói năm thức chẳng điên đảo, nghĩa là chỉ vừa bắt cảnh thì chưa phân biệt được tướng khác nhau của ba giả, nên nói là chẳng phải điên đảo; còn nói chẳng phải một tâm, vì như mắt thấy sắc là tâm nối nhau. Nếu thế thì chẳng thể gọi là Phạm hạnh.

Phật đáp: “Nhưng vì hữu lậu, là điên đảo”, nên biết thức tâm đã có chấp tướng. Lại nói: “Thể chẳng chân thật, chẳng phải chấp Tưởng, cho nên điên đảo”, văn sau lại giải thích: “Nghĩa là nam nữ cho đến Tưởng là xe cộ, nhà cửa v.v…” nghĩa là thức tâm chưa biết được thân tâm nam nữ, bình chén, y phục v.v… đây chỉ mới do tâm Tưởng mà có. Văn này muốn nói khi tuởng, vì sao có chấp? Đó là do thức tâm, truớc đã chấp đắm sắc thanh rồi, nên nay sinh ra Tưởng, đây là nêu quả mà nói nhân.

Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nhân duyên của Đạo phẩm, tức biết chín nghĩa; chín nghĩa là Dụng của Đạo phẩm. Trong luận Bà-sa nói Đạo phẩm có chín tánh, thì đó là tánh, nếu nói về thể thì mỗi pháp có chỗ y cứ. Chín tánh là: giới, định, tuệ, niệm, tín, tinh tấn, hỷ, ỷ, xả. Trong Đạo phẩm thì chỉ có ba loại là Giới: Tức chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; tám loại là Định: Bốn Như ý túc là bốn định, năm là định căn, sáu là định lực, bảy là định giác, tám là chánh định, chín loại là tuệ: bốn niệm xứ là bốn, Tuệ căn, Tuệ lực là sáu, giác phần Trạch pháp là bảy, chánh kiến, chánh tư duy là chín; bốn loại là niệm: Tức niệm căn, niệm lực, chánh niệm và niệm giác; hai loại là tín: Tức tín căn và tín lực; tám thứ là tinh tấn: Tức bốn chánh cần, căn, lực, chánh tinh tấn và giác phần tinh tấn, còn xả, ỷ và hỷ mỗi pháp chỉ có một.

Văn có năm phần: Một là nêu tên; hai là nói về Thể; ba là giải nghĩa; bốn là nói về pháp; năm là phân biệt. Thứ nhất là nêu tên.

Chín nghĩa này có ba phần: Bốn nghĩa đầu là nhân của đạo phẩm, ba nghĩa kế là Thể của đạo phẩm, và hai nghĩa sau là quả của đạo phẩm. Nói bốn nghĩa trước là nhân, vì căn là dục, muốn phát tâm cầu Bồ-đề; nhân là minh và vô minh, nhân thiện là minh, nhân ác là vô minh; nhiếp là thâu nhiếp chẳng để tản mát, tăng là khéo suy nghĩ, suy nghĩ để tạo nghiệp thiện. Cho nên nói bốn nhân; chủ là niệm, đạo là định, thắng là tuệ. Đã nói niệm định tuệ, thì há chẳng phải là Thể ư? Thật là Giải thoát được ít phần, rốt ráo là quả Niết-bàn; hai nghĩa này, chẳng phải là quả ư?

Từ câu: “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần thứ hai nêu thể.

Trước hỏi, sau đáp.

Văn đáp có hai: Trước là khen câu hỏi.

Kế là chánh đáp.

Nói nhân là minh xúc, tức duyên của thiện tri thức.

Từ câu: “Thiện dục v.v…” trở xuống là phần thứ ba, giải thích chín nghĩa; có chín câu. Thứ nhất giải thích căn bản. Văn có hai: Trước giải thích, sau là phân biệt. Trong phần giải thích thì một là đáp, hai là nêu dụ.

Kế là phân biệt, có hai phen hỏi đáp.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là giải thích xúc.

Nêu rất nhiều, vì xúc không nhất định, tùy theo nghĩa xúc đối mà lập. Kinh nói: Nhân chánh mạng mà được giới căn thanh tịnh, tức trước nói chánh mạng đã là Mộc-xoa, Mộc-xoa Hán dịch là giới, mà chưa nói về Định cộng, Đạo cộng. Vì sao biết được? Vì văn sau tự nêu: Vì giới căn thanh tịnh nên ưa thích vắng lặng, thì mới được định, khéo suy nghĩ thì mới được tuệ. Do đó, chưa nói định tuệ thì vì sao đã có Đạo giới, định giới? Nay được Mộc-xoa rồi, trước Đạo, định, lại nói giới căn thanh tịnh, có hai cách giải thích: Một, là cho rằng trước nói chánh mạng là giới Mộc-xoa, tức là nói giữ chắc chẳng phạm, ở đây lại nói căn thanh tịnh, vì nói giới này dần dần sâu kín cho đến nhiếp giữ năm căn chẳng để phạm tội, vì thế nói là căn thanh tịnh. Hai, cho rằng chẳng nói thanh tịnh năm căn, mà chỉ là Bồ-tát tự có năm căn như tín, tấn v.v…, giới có nghĩa năng sinh, tức giới là căn, giới này đã thanh tịnh thì năng sinh ra định, tuệ, cho nên nói là giới căn thanh tịnh. Luận Thập Trụ và kinh Ưu-bà-tắc Giới đều có nói căn thanh tịnh.

Từ câu: “Thọ là nhiếp thủ v.v…” trở xuống là câu thứ ba, giải thích Thọ.

Trước nói về quán Thọ, Thọ là gốc để sinh ra phiền não, nhiếp lấy phiền não. Nay nói Thọ sinh Đạo phẩm nên lại cho Thọ là nhiếp lấy.

Từ câu: “Do khéo suy nghĩ, v.v…” trở xuống là câu thứ tư, giải thích Tăng. Do suy nghĩ nên tâm hiểu biết tăng tiến, gọi là Tăng. Trước nêu lên, sau giải thích.

Từ câu: “Nếu năng lực quán v.v…” trở xuống là câu thứ năm, giải thích niệm. Có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Đã nhập định v.v…” trở xuống là câu thứ sáu, giải thích Đạo.

Nghĩa là Định năng dẫn sinh ra trí, nên gọi là Đạo.

Từ câu: “Ba mươi bảy phẩm này v.v…” trở xuống là câu thứ bảy, giải thích Thắng. Văn có pháp, dụ và hợp.

Ý nói tuệ có công năng chánh đoạn, nên gọi là Thắng.

Từ câu: “Tuy nhờ tu tập v.v…” trở xuống là câu thứ tám, giải thích Thật. Trước nêu định chế phục, chẳng phải thật.

Kế là chính thức nói về trí đoạn là thật.

Từ câu: “Ba mươi bảy phẩm v.v…” trở xuống là giải thích rốt ráo.

Văn có hai: Trước nói bốn quả Sa-môn chưa rốt ráo.

Sau nói được Đại Niết-bàn mới là rốt ráo.

Văn nói: Dứt trừ sở hành của ba mươi bảy phẩm, nghĩa là ngày đắc quả xả bỏ các tuệ hữu vi trong nhân.

Từ câu: “Tâm khéo ái niệm v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói về pháp. Văn có ba: Một là y cứ theo pháp; hai là y cứ theo người; ba là y cứ theo dụ. Thứ nhất là chín pháp gồm ba ý: Bốn pháp trước là nhân, ba pháp kế là thể, hai pháp sau là quả.

Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo người.

Chín pháp ở đây có hai ý: bốn pháp trước là y cứ theo nhân, năm pháp sau là y cứ theo quả. Nhưng trong nhân bao gồm nội phàm, trong quả chung cho Học và Vô học.

Từ câu: “Lại nữa, Dục gọi là v.v…” trở xuống là đoạn ba, y cứ theo dụ.

Đoạn này có ba cách giải thích:

– Khai Thiện cho rằng: Ở đây là nêu mười hai nhân duyên, là cảnh của chín pháp, giống như mười hai nhân duyên sinh nhau. Chín pháp này cũng như thế, theo thứ lớp sinh nhau. Nhưng mười hai nhân duyên này gồm có ba việc khó giải thích: một là không đủ, hai là tri thức nêu hai lần, ba là không theo thứ lớp. Sở dĩ không đủ là vì đã lược bỏ; nhưng lược bỏ Hành, không lược bỏ vô minh, vì vô minh là căn bản của nhân duyên. Sở dĩ tri thức nêu hai lần, là vì tri thức và xúc là thức. Sở dĩ không theo thứ lớp là vì muốn nói mười hai nhân duyên trôi lăn vô cùng không có thứ lớp nhất định.

Từ câu: Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn năm, phân biệt:

trước hỏi sau đáp.

Phật đáp: Có năm phen.

Nói gốc thiện mới phát thì có thể tự hiểu, nhân là tương tự, tức hai tâm trước sau nối nhau chẳng dứt; Tăng là diệt tương tự lại được tương tự, tức diệt tâm tương tự trước lại được tâm tương tự sau. Nhưng trong phân biệt ba pháp này còn có thuyết ba đạo, Kiến đạo tức Kiến đế, Tu đạo tức tư duy đạo, chỉ trừ quả A-la-hán, Vô học đạo tức quả A-la-hán.

Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo mười Tưởng đề nói về Hành. Trước hỏi sau đáp.

Lời đáp có ba là nêu chung, giải thích và tổng kết. Thứ nhất là nêu chung mười Tưởng.

Kế là nêu.

Nói về Thể thì đúng thật là tuệ, nhưng lại lấy Tưởng làm tên gọi. Khi mới khởi quán thì chưa thấy được rõ ràng, chỉ Tưởng tượng ra việc ấy. Sau đó khi quán đã thành, thì từ phương tiện mà đặt tên, cũng gọi là Tưởng. Nếu nói theo vị thì chung từ cạn đến sâu, vì mới tu tập cũng gọi là mười Tưởng. Trong Đại Phẩm cũng có nói về mười Tưởng, Thích Luận ghi: “Mới tu tập thì gọi là chín Tưởng, đã thành tựu thì gọi là mười Tưởng, danh số rất sơ lược đồng với kinh này. Nhưng có hai điểm khác nhau: một, trong Đại phẩm thừa có bất tịnh Tưởng và đoạn Tưởng; hai, Đại phẩm không có đa quá tội Tưởng và vô ái Tưởng, trong đó lìa ác Tưởng, tức lìa Giải thoát Tưởng, tận Tưởng tức diệt Tưởng. Mười Tưởng này gồm có hai phần: Một, sáu Tưởng đầu nói về Quán hạnh; hai, bốn Tưởng sau nói về xuất ly. Trong sáu Tưởng đầu lại chia làm hai: Ba tuởng đầu là chánh quán, nghĩa là khổ, vô thường, vô ngã, ba Tưởng bốn, năm, sáu chỉ là thành nhau mà thôi. Xưa nay có hai cách giải thích:

– Một, cho rằng các tướng riêng đối với nhau thành tựu trong đó tư Tưởng thành tựu là vô thường, lạc Tưởng thành cho khổ, chán lìa thực Tưởng thành tựu vô ngã; nói chán lìa thực thành tựu vô ngã, như thế gian đối với thực sinh tham, là do chấp ngã muốn sắc được đẹp, Đức Phật biết vô ngã nên chẳng tham cầu thức ăn uống ngon ngọt; vì thế chán lìa thực, thành tựu Tưởng vô ngã; Tưởng không đáng vui thành tựu cho Tưởng khổ, vì thế kinh Thụy Ứng nói: “Ba cõi là khổ, đâu có gì đáng gọi là vui?” Tử Tưởng thành tựu cho vô thường, điều này rất dễ thấy, vì chết nên vô thường. Hai, là nếu thành tựu chung cho nhau thì chỉ do yểm thực, không đáng vui, chết cho nên vô ngã, cũng chỉ do yểm thực, không đáng vui, chết nên có khổ, cũng do yễm thực, không đáng vui, chết nên vô thường.

Bốn Tưởng sau, thì nhiều tội Tưởng đồng với nhàm chán thế gian; Lìa Tưởng Giải thoát và diệt Tưởng khác nhau, có ba cách giải thích: Một là cho rằng dứt hết nhân là lìa, dứt hết quả là diệt. Hai là cho rằng biết từng phần là lìa, hoàn toàn diệt là Diệt. Ba, là cho rằng hàng phục các hoặc là lìa, dứt hết là diệt.

Vô ái Tưởng, nghĩa là đã lìa diệt thì tâm không ái nhiễm. Kinh lại nói: “Xứng hợp với nghĩa Tỳ-kheo”, thì có thể biết, nên văn sau nói: “Xứng với tướng Sa-môn”.

Từ câu “Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích. Văn có ba: Một là giải thích riêng sáu Tưởng; hai là khen ngợi chung sáu Tưởng; ba là lược nêu bốn Tưởng. Thứ nhất giải thích riêng sáu Tưởng: một là vô thường; trước hỏi, sau đáp.

Đáp sáu Tưởng, văn có sáu đoạn. Về vô thường thì trước nêu lên, sau là giải thích.

Giải thích: Trước giải thích thô về Tưởng vô thường.

Hai nhân khổ, có hai cách giải thích: Một, cho rằng nhân bên trong thì sinh khổ bên trong, nhân bên ngoài thì sinh khổ bên ngoài. Hai là ở văn này, đói khát là bên trong, lạnh nóng là bên ngoài. Nói hành sáu xứ, tức là đối với sáu trần.

Kế là từ câu “Tu khổ Tưởng v.v…” trở xuống là giải thích khổ Tưởng.

Nói quán thân này là vật chưa vô thường, vì ba khổ, tám khổ đều ở trong thân nên mới nói là vật chứa khổ. Kinh lại nói: “Vì vô thường nên khổ”, các sư Số Luận cho rằng: Vô thường ép ngặt cho nên khổ, nếu không bị vô thường ép ngặt thì chẳng khổ. Các sư Thành Thật cho rằng chẳng phải thế, khổ hẳn là vô thường, nhưng vô thường chưa hẳn có khổ, như tất cả cỏ cây cũng vô thường mà chẳng khổ. Còn các loài hữu tình có khổ hẳn là vô thường. Ba tụ, thì sắc và vô ký đều vô thường mà chẳng khổ, chỉ có tâm mới khổ.

Từ câu “Người trí v.v…” trở xuống là đoạn ba, quán Ngã Tưởng.

Kế là nói về Tưởng Thực yểm. Văn có ba là: Chính thức nói, luận nghĩa và kết luận.

Kinh nói có bốn thứ thực: Sủy thực, tư thực, xúc thực và thức thực. Sủy thực tức là cơm mà người bây giờ ăn, được chia ra từng phần. Xúc thực là y báo như y phục, đồ nằm, v.v… sự xúc chạm mềm mại, thô cứng. Thực là nghiệp thực, thức thực thì chỉ là ý thực.

Kế là nói về Tưởng không có gì đáng vui thích.

Kế là nói về Tưởng chết. Văn có hai: Một, là nói về sự chết trong thời gian lâu dài.

Sau nói về sự chế trong từng niệm; có hỏi và đáp.

Văn kinh ghi: Một hơi thở, một cái chớp mắt có bốn trăm lần sinh diệt, còn luận Thành Thật ghi rằng: “Trong một niệm có sáu mươi lần sinh diệt, vì sao hai văn lại khác nhau?”

Đáp: gồm có hai ý: Một, là cho rằng Luận Thành Thật là Tiểu thừa, nói vô thường còn xa, nên cho rằng chỉ có sáu mươi lần sinh diệt, còn kinh này thuộc Đại thừa nói vô thường rất ép ngặt nên lập ra bốn trăm lần sinh diệt. Hai là luận nói một niệm là thời gian rất ngắn, nên chỉ có sáu mươi lần; Kinh nói một hơi thở thì dài, nên nói có bốn trăm lần.

Từ câu “Người trí có đủ v.v…” trở xuống là đoạn hai, khen ngợi chung sáu Tưởng.

Từ sáu Tưởng được bảy Tưởng, thường tu Tưởng chẳng phải là quán cảnh thường, mà thường khởi tu tập pháp quán này. Lạc tu Tưởng tức là ưa thích tu tập.

Từ câu “Nếu người nào v.v…” trở xuống là đoạn ba, lược nêu bốn Tưởng.

Nhàm chán ba cõi là quá tội Tưởng, xa lìa ba cõi là ly Tưởng, dứt trừ ba cõi là Diệt Tưởng, chẳng tham đắm ba cõi là Vô ái Tưởng.

Từ câu “Đó gọi là người trí v.v…” trở xuống là đoạn ba, tổng kết.

Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp v.v…” trở xuống là phần ba, kệ khen ngợi Phật. Gồm bảy mươi hai câu, chia làm ba đoạn: Một là bốn câu đầu nêu chung; hai sáu mươi câu kế là chánh thức khen ngợi; ba là tám câu cuối là kết luận.

Sư Linh Vị cho rằng phẩm Sư Tử Hống khen ngợi tâm đại Từ của Phật, phẩm này là khen ngợi Đại bi. Nay nói chẳng phải thế. Trong kinh đã nói rõ: “Phật có một vị từ tâm”, lại nói: “Đó là tâm từ cứu giúp thế gian”, đâu chỉ nói Đại bi như Linh Vị. Phẩm Sư Tử Hống nói về Phật tánh tức là đại từ ban vui, phẩm này nói về Nhất-xiển-đề sinh điều thiện, tức là đại bi cứu khổ. Nói riêng thì như thế, nhưng nói về đại từ chẳng phải là không có đại bi, nói đại bi chẳng phải không có đại từ.