ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH SỚ

Đời Nguyên,Viện Sùng Thánh Sa-môn Sư Chánh thuộc tông Thiên Thai soạn thuật.

 

PHẨM 22: ĐỨC VƯƠNG 

PHẦN 1

Dao Lượng cho rằng năm hạnh là lược, mười đức là rộng. Công đức thứ nhất, thứ hai là nói rộng về hạnh, cho đến công đức thứ chín, thứ mười là nói rộng về hạnh bệnh.

Thái Xương Tông cho rằng từ công đức thứ nhất đến thứ sáu là nói rộng về ba hạnh trước. Chỉ nói về tương ưng, bốn công đức là nói rộng về hai hạnh sau, hoàn toàn không tương ưng.

Quang Trạch cho rằng năm hạnh và mười đức chỉ có một thể mà nghĩa khác, đồng là nhân lành, phát khởi từ ngoại phàm, cuối cùng đến Vô học, cảm được tập quả về sau, đó gọi là Hạnh, đáp trả tập nhân ở trước thì gọi là công đức. Cho nên hạnh là nhân, đức là quả.

Khai Thiện cho rằng năm hạnh là y cứ theo nghĩa cạn, mười đức là y theo nghĩa sâu xa. Năm hạnh thì khởi khi nghe kinh mà cùng đạt Sơ địa. Mười đức là khởi từ Sơ địa, cuối cùng tại tâm Kim cương. Cho nên đầu phẩm đã khen ngợi và chẳng chung cho Thanh văn, Duyên giác, người nghe sinh kinh sợ. Công đức thứ sáu lấy tâm Kim cương làm thể.

Hà Tây cho rằng năm hạnh là nhân Niết-bàn, chỉ thú sâu xa, e rằng chẳng thể tu tập nên mới nêu mười đức trang nghiêm, khuyến khích người tu học.

Ở đây cho rằng tất cả các thuyết đều chẳng đúng. Hai vị trước cho rằng mở rộng và tóm lược đối nhau, nghĩa không tương ưng như lời nói của họ. Quang Trạch thì nói tập nhân, tập quả là giai vị Bồ-tát, chẳng quan hệ gì đến Phật thừa. Khai Thiện cho rằng hạnh cạn đức sâu, văn kinh ghi: “Công đức thứ chín, đầu tiên là phát khởi năm việc, tất cả đều thành tựu”.

Việc này chẳng nên nói là sâu. Hạnh thánh lấy tâm Đại Niết-bàn tu tập, còn hạnh trẻ thơ nói là được Đại Niết-bàn, điều này đâu thể nói là cạn mỏng. Hà Tây cho là lời khen ngợi khuyến khích, khen ngợi khuyến khích thì chung cho tất cả, chỗ nào chẳng có khuyên, xét các lời văn ấy thì chẳng hợp với kinh. Tất cả đều chẳng sử dụng được.

Nay y cứ theo văn kinh thì Bồ-tát nên tu năm hạnh, hạnh tức là tu. Kinh ghi:

“Bồ-tát tu tập kinh Đại-Niết-bàn được mười công đức về sự”.

Đó há chẳng phải là chứng ư? Ba hạnh Thánh ở trước, mỗi hạnh đều có nói quả của hạnh nhưng văn ít. Sau nói mười công đức đều là nói rõ về tu mà văn thì rộng nhiều, sự thì hiển rõ, cho nên xếp hạnh là tu và lấy đức làm chứng đắc.

Toàn phẩm được chia thành ba phần:

  1. Phật nói mười công đức.
  2. Bồ-tát cao quý thọ lãnh, tin hiểu.
  3. Tổng kết.

– Thứ nhất lại có hai đoạn:

  1. Nêu chung số mười.
  2. Giải thích riêng.

Nêu số lượng có ba ý: Một là hữu đối; hai là nêu số lượng; ba là khen ngợi.

Người được chỉ bảo, nói Quang Minh Biến Chiếu tức là nói ngoại hóa rất rộng, Cao Quý Đức Vương tức là nói về nội hạnh rất sâu. Lại Quang Minh là Bát-nhã; Cao Quý là Pháp thân; Đức Vương là Giải thoát. Giải thoát gồm thâu các pháp giống như vua, lý Bát-nhã trùm khắp nên nói Biến chiếu, pháp tánh tôn quý cùng tột nên cao quý. Dùng ba đức đồng đủ để đặt tên cho một người. Từ đức đặt tên, từ người đề phẩm.

Nói thẳng mười công đức chứ không kể tên từng công đức một.

Trong phẩm giải thích riêng nói nêu tên.

Thứ ba, là khen ngợi.

Hà Tây cho rằng bản Phạm ghi:

“Ít có, kỳ lạ, hàng độn căn tiểu trí khi nghe đến thì kinh sợ” mà người dịch đã lược bớt “ít có, kỳ lạ” chỉ còn lại chín câu. Chỉ là cảnh giới của Phật chẳng chung cho Tiểu thừa, vì đường ngôn ngữ dứt, cảnh tâm hành bặt, chẳng thể nghĩ bàn. Vì sâu xa không đáy nên kinh; vì rộng lớn không bờ nên sợ; vì trí tuệ Nê-hoàn chẳng ghé vào được nên dễ; vì vô sắc nên chẳng phải tướng; vì vô tâm nên chẳng phải chẳng tướng; vì chẳng quá khứ, vị lai, hiện tại nên chẳng phải thế pháp; không phải tự biên, không phải Trung đạo nên chẳng có tướng mạo; bặt bốn câu, lìa trăm lỗi nên thế gian chẳng có.

Từ câu “mười công đức là gì v.v…” là phần thứ hai phân cách giải thích. Trước là nêu lên.

Kế đến là chánh thức giải thích. Gồm có mười chương, các sư xưa chia phần này khác nhau. Trị Thành chia làm hai vòng, từ công đức thứ nhất là chẳng nghe mà nghe, từ cạn đến sâu, đến công đức thứ sáu là Kim Cương Tam-muội thành một vòng. Từ công đức thứ bảy lại vừa phát tâm, đến công đức thứ mười tu ba mươi bảy phẩm thấy Phật tánh là một vòng.

Khai Thiện lập ra ba vòng:

Vòng thứ nhất như Trị Thành đã chia; vòng thứ hai là công đức thứ bảy, thứ tám từ bạn lành sinh tức là duyên ngoài; vòng thứ ba là công đức thứ chín, thứ mười do tín tâm mà được tức là nhân trong.

Nếu nay so sánh với Pháp Hoa mà chia làm ba vòng là Pháp, Dụ và Nhân duyên thì đều lặp lại các nghĩa trước nên gọi là ba vòng. Nay danh nghĩa của công đức ở đây đều hoàn toàn khác trước, đâu đồng với ba hàng nên chỉ vẫn theo văn lập mười chương mà không chia thành các vòng.

Thứ nhất có ba: Một, là nêu năm việc; hai, là nói về nghĩa; ba, là kết luận.

Nêu năm việc lại có ba đoạn: Một, là nêu năm chương; hai, kể tên năm chương; ba, là giải thích riêng.

Xưa nói năm việc là ba tuệ. Việc thứ nhất là Văn tuệ, thứ hai là Tư tuệ, ba việc sau là Tu tuệ. Có chỗ cho rằng hai việc đầu thuộc Văn tuệ và tư tuệ; hai việc giữa là công đức của Văn và Tư. Một việc sau là tu tuệ.

Hưng Hoàng cho rằng một việc đầu là gốc, bốn việc sau thành tựu cho nhau, tức là do nghe mà được lợi ích, có lợi ích cho nên dứt nghi, dứt nghi rồi thì được chánh trực, vì chánh trực nên biết tạng Bí mật.

Nay chẳng cho là như thế, nói ba tuệ chỉ là tự đạo. Còn kinh này rõ ràng nói tu Đại Niết-bàn đạt được mười công đức, chân chứng rõ ràng nhiên như thế còn chẳng dùng được Biệt giáo chân đạo để giải thích, thì làm sao dùng Tiểu thừa nương tựa đạo để giải thích? Cho nên cách biệt với văn kinh quá xa.

Hưng Hoàng cho năm pháp làm nhân duyên cho nhau cũng chẳng đúng. Nhập chứng đạo là ở tâm chứ chẳng phải trước sau, chẳng phải khi còn tu hạnh, huống chi khi đã chứng mà còn có thứ lớp ư? Văn kinh nói về chứng đắc mà giải thích về tu, văn kinh nói bất cộng mà dùng cộng giáo để giải thích. Văn nói chẳng nghe mà nghe, mà giải thích là từ người khác nghe. Văn nói không nghĩ bàn mà nghĩ bàn giải thích. Văn nói bí mật mà giải thích hiển bày. Văn nói về viên bị mà nghiêng về, khuyết để giải thích, văn nói kinh sợ mà dùng tâm thường để giải thích. Văn nói không khác nhau mà dùng khác nhau để giải thích. Văn nói Trung đạo mà dùng hai bên để giải thích. Nếu y theo văn thì không có mười lỗi, chẳng biết vì sao lại chống trái với kinh Phật. Xin hỏi riêng người hậu học.

Nay hãy xem văn nói về năm pháp của công đức thứ nhất: Nói chẳng nghe ma nghe tức là còn xen lẫn chút nhân tướng, nghe rồi được lợi ích v.v… thì hoàn toàn là tên được lập trên quả. Đầu tiên, là phần nhiều đã đặt tên từ quả, thì chín công đức kia dẫn tựa tu nhân thì cũng là hạnh trong chứng. Ngài Chương An lập bao nhiêu lời thì ý nghĩa cũng giống như thế. Cho đến xét kỹ văn của chín câu khác cũng đều thuận theo nơi tu nơi chứng. Cho nên biết, hễ giải thích kinh thì phải xét văn để được nghĩa và y nghĩa để giải văn, nếu chẳng như thế thì chỉ mờ mịt giải văn, sẽ vời lấy sai lầm mà thôi.

Thứ ba, là giải thích năm pháp. Văn tự thì có năm đoạn: một, là giải thích chẳng nghe mà nghe. Gồm có ba ý là nêu lên, giải thích và kết luận.

Nếu chẳng nghe mà nghe tức là viên chứng diệu ngộ phát sinh Giải thoát nên gọi là nghe, chứ chẳng phải từ người khác mà lãnh thọ. Nếu từ người khác mà nghe tức là nghe nghe, chứ đâu thể nói chẳng nghe mà nghe.

Kế là từ câu “Đó là nghĩa v.v…” trở xuống là phần giải thích. Tức là giải thích nghe tròn đầy. Một là nghe tất cả đều nghe chẳng thể nói hết. Ở đây chỉ nêu ba loại: Một, là chẳng nghe mà nghe (Đệ nhất nghĩa đế); hai, chẳng nghe mà nghe (Tục đế); ba, chẳng nghe mà nghe (Chân đế).

ba Đế ba pháp một tâm này, chẳng trước chẳng sau, chẳng cạn chẳng sâu, cho nên nói chẳng chung cho Thanh văn và Bích-Chi-Phật. Hàng Nhị thừa chẳng bao giờ chứng Trung đạo đế nên chẳng cùng chung, chẳng chứng Tục đế nên chẳng cùng chung. Tuy chứng chân nhưng chẳng biết bí mật của chân nên cũng chẳng cùng chung.

Vì chẳng cùng chung như thế cho nên kinh sợ, cho đến chẳng phải thế pháp, khen ngợi tức là khen ngợi điều này. Nay y cứ theo loại thứ nhất là Đệ nhất nghĩa nghe mà chẳng nghe. Văn có hai là nêu chung và giải thích chung.

Đầu tiên là nêu năm nghĩa:

Một, Phật tánh.

Hai, Nhất thế Tam bảo.

Ba, Bốn đức.

Bốn, Niết-bàn thường trụ.

Năm, là Niết-bàn của Như Lai.

Kế là giải thích chung.

Trong mỗi việc đều có chứa đựng nghĩa Trung đạo sâu xa, gồm có hai mươi câu tiêu biểu, còn tất cả cũng giống như thế.

Kế là từ câu “lại có điều chẳng nghe v.v…” trở xuống là thứ hai nói Tục đế chẳng phải nghe mà nghe.

Nói về các pháp thế tục, căn bản chỉ có ba loại ngoại đạo, mỗi loại đều có kinh sách riêng. Nhưng ở đây chỉ kể Ca-tỳ-la, Ưu-lâu-khư mà chẳng nêu Lặc-sa-bà là văn kinh lược bỏ. Hơn nữa, Ca-tỳ-la chấp một tức ấm là ngã, Ưu-lâu chấp hai, khác ấm là ngã, Lặc-sa-bà chấp vừa một vừa hai, cũng tức là ấm, cũng khác ấm là ngã, hơi giống với hai ngoại đạo kia nên chẳng nói.

Từ câu “Lại có v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về Chân đế chẳng nghe mà nghe. Pháp Chân đế cũng có hai là nghe pháp Chân đế và nghe Bí mật.

Đều nói nhân kinh này mà được nghe, tức là nghĩa viên chứng. Trong Tỳ-phật-lược nói Tam bảo nhất thể, Phật tánh, thường trụ Niếtbàn. Tiểu thừa không có nên trừ ra.

Thứ ba kết luận như văn.

Kế là giải thích nghe rồi được lợi ích. Văn cũng có ba là nêu ra, giải thích và kết luận.

Nêu lên lợi ích của chứng đắc, chẳng phải lợi ích có thể nghĩ bàn. Văn ghi: “Được gần Tam-bồ-đề”, Nếu là Tư tuệ thì vẫn chưa phát được chân giải, nói chi đến nghĩa gần.

Kế là giải thích, có hai là lược và rộng.

Lược nêu có hai: một là nêu nguyên do, nên nói là “nghe nhận”.

Hai, là hiển bày chân chứng.

Đây là một tâm ba trí, nêu được ba việc để dụ. Chân trí chiếu lý như bóng hiện trong gương; giả trí chiếu sư như đuốc soi bên ngoài; Trung trí viên chiếu như mặt trời soi khắp. Luận nói ba lần để làm người dễ hiểu. Khi đã chứng thì trong một tâm có đủ ba trí.

Thứ hai, từ câu “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là nói rộng về lợi ích. Văn có hai đoạn: một, là nêu nguyên do.

Xét lần lượt qua bốn pháp để nói về lợi ích.

Nói chẳng từ người khác nghe là từ lợi ích của chân chứng mà tự biết gần Tam-bồ-đề, cho nên biết là chẳng phải tư tuệ.

Thứ ba là kết luận, như văn kinh có ghi.

Nói lợi ích là nội chứng, nói dứt nghi là ngoại luận biện, cũng gọi là xa lìa, là trí đoạn, sáng đến thì bóng tối tan biến, trước sau làm sáng tỏ cho nhau, đồng hiển bày công đức viên chứng. Xưa nói đó là công đức của Văn, Tư. Vậy nếu là văn tư của Tiểu thừa thì không hề văn tư nghĩa Phật tánh. Nay lập nghĩa lìa và đoạn thì hợp với nghĩa chứng.

Kế là giải thích văn, có hai: một, là nói lược nghĩa xa lìa; hai, là giải thích rộng nghĩa xa lìa.

Nói lược có ba phần: một, là lìa hai nghi về danh và nghĩa; hai, lìa nghi về tám điên đảo; ba, là nghi về quyền thật.

Đầu tiên lìa nghi về danh nghĩa rất dễ biết.

Kế là nói nghi tám đảo.

Nghi Phật Niết-bàn là vô thường điên đảo, theo lý phải đủ tám điên đảo mà văn kinh lược bớt chỉ đem ba đơn đối với một cặp thành năm loại.

Nói thêm rằng bốn điên đảo của Niết-bàn có chung và riêng khác nhau.

Thứ ba là “Nghi có ba loại v.v…” trở xuống là nói lìa nghi về quyền thật.

Nghi ba thừa là nghi về quyền, biết Phật tánh của chúng sinh là thật. Theo lý thì phải kể đến Phật tánh, nhưng nay văn chỉ hiển bày cho nhau.

Từ câu “Lại nữa v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích rộng về xa lìa. Văn có ba:

Lìa các nghi, lấy vô thường làm đầu, tức là nghi đối với thật pháp.

Từ câu “Sắc là ngã v.v…” trở xuống là nghi về giả danh.

Từ câu “Bốn tội trọng, năm tội nghịch v.v…” trở xuống là lìa y báo và chánh báo. Năm tội nghịch bốn tội trọng là y cứ chánh báo để nói về ác nặng. Có Phật tánh, không có Phật tánh là y cứ chánh báo để nói về cực thiện. Thế giới hữu biên, vô biên là y báo. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Kế là trong giả danh nói: “Pháp sinh tử có đầu có cuối” nói có đầu có cuối là sở chấp của ngoại đạo tà kiến. Nội đạo cũng có:

  1. Thuyết cho rằng sinh tử đều không có đầu cuối, mười hai nhân duyên trôi lăn không bờ mé.
  2. Cho rằng một niệm vô minh là đầu, sau Kim cương tâm là cuối.
  3. Cho rằng vô thỉ mà có chung.

Kinh nói vô thỉ vô minh tức là vô thỉ đến quả Phật tức có chung. Nếu nhất định lập ba chấp ở trên tức là gây tranh luận đến khi chân chứng thì liền được xa lìa.

Từ câu “Nghe kinh này v.v…” trở xuống là kết luận.

Thứ tư, là giải thích tuệ tâm ngay thẳng không cong vạy, gồm có ba là nêu lên; giải thích và kết luận. Thứ nhất, là trước nói bên trong chứng ba trí, bên ngoài là các nghi nhưng chưa biết trí nào. Nay nêu trí ngay thẳng, chẳng phải hai bên, vì thế nêu cả hai chương là ngay thẳng và tà vạy. Kế là giải thích.

Đã biết hai bên thì ngay thẳng tự hiểu. Khi Bồ-tát tu hạnh thánh thì trừ được cong vạy của phàm phu và Nhị thừa. Nên biết năm hạnh là tu, cái thấy tà vạy đã dứt thì thấy biết được ngay thẳng. Vậy mười đức là chứng đã rõ, giải thích văn thấy tà vạy thì như văn đã ghi. Thứ ba, từ câu “Tu hành v.v…” trở xuống là kết luận.

Thứ năm, giải thích nghĩa bí mật cũng có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất nói “nếu biết được” tức là nêu lên.

Trước nói không có tà vạy hai bên thì có tuệ Trung đạo ngay thẳng. Ở đây là nói tuệ khéo biết nghĩa sâu kín.

Kế là giải thích, có ba:

  1. Quả sâu kín.
  2. Nhân sâu kín.
  3. Chẳng thể nghĩ bàn sâu kín.

Thứ nhất từ câu “thì đó là v.v…” trở xuống là nói Đại Bát-niếtbàn của Như Lai tức là quả sâu kín.

Kế là từ câu “tất cả v.v…” trở xuống là y cứ theo nhân.

Thứ ba là từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là y cứ theo nghĩa chẳng thể nghĩ bàn.

Hai câu “Thật không có ngã v.v…” “năm ấm hiện đời diệt tận v.v…” là mượn Không để nói Có. Bốn câu còn lại từ câu “Tuy có các nghiệp v.v…” trở xuống là nhờ vào Hữu để nói Không, nhờ vào có không để nói chẳng có chẳng không. Lại nhờ vào chẳng có chẳng không để nói về không chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nghĩ bàn lại chẳng thể nghĩ bàn, U huyền lại u huyền. Y cứ theo không thể nghĩ bàn mà nói về sâu kín.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về nghĩa, gồm có bốn:

  1. Đức Vương nói.
  2. Lưu Quang nói.
  3. Vô Úy nói.

. Đức Vương lại nói.

Thứ nhất lại có hai là hỏi và khen ngợi. Phần hỏi lại có hai là lãnh chỉ và cung kính bác bỏ.

Thứ hai là chinh thức hỏi. Ở trên tuy nói năm việc mà ở đây lại chinh thức hỏi về việc thứ nhất, có ba cặp:

1/ Một cặp về môn đoạt.

2/ Một cặp về môn buông.

3/ Một cặp về môn so sánh.

Môn đoạt gồm có hai là pháp và dụ. Pháp thuyết gồm có ba phần:

1/ Y cứ chung theo có không mà đoạt.

2/ Y cứ vào chẳng nghe mà nghe để đoạt.

3/ Kết luận.

Thứ nhất là y cứ vào có không mà đoạt gồm có hai là đoạt và ngăn chặn. Văn đoạt chia thành hai câu.

Kế là từ câu “Nếu không thì lẽ ra chẳng sinh v.v…” trở xuống là ngăn chặn sinh diệt chẳng nên cho là một.

Thứ hai, từ câu “Như có nghe v.v…” trở xuống là y cứ theo chẳng nghe mà nghe để đoạt.

Từ câu “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là kết luận ấn định thành hai.

Kế là từ câu “Vì sao?” v.v… trở xuống là ấn định chẳng phải một.

Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là phần dụ thuyết, trước dụ sau hợp.

Trong dụ đoạt, gồm xếp ba dụ. Nói đến tức là tướng trụ, do nhân gì mà có đi? Đi đã chưa đến, cho nên cần phải đi. Sinh đã sinh rồi nên chẳng sinh nữa, nếu chẳng sinh tức là chẳng sinh, chẳng được thì chẳng được cũng y như thế, đều ấn định thành hai.

Kế đến từ câu “Đã nghe v.v…” trở xuống là hợp dụ nhất định chẳng thể là một.

Trong dụ, không có dụ về chẳng phải một, nhưng chỉ vì khai hợp để hiển bày cho nhau.

Từ câu “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là cặp thứ hai gạn hỏi về môn buông. Có ba: một, là buông chúng sinh; lại có ba lần buông, một lần nêu, kế là buông về quả Phật, gồm một buông và một nêu ra bằng cớ, thứ ba, là kết luận lại hai lần buông.

Từ câu “Bạch Đức Thế Tôn! v.v…” trở xuống là cặp thứ ba so sánh gạn hỏi. Trước là y cứ theo sắc và thanh để so sánh. Kế là y cứ theo ba đời để so sánh. Thứ nhất như văn kinh có ghi. Sắc, chướng bên trong thì dễ thấy, chướng bên ngoài thì chẳng thể thấy. Sắc thô thì dễ thấy, sắc sâu kín thì chẳng thể thấy. Như cây trụ chỉ thấy một bên, còn các bên khác thì chẳng thấy. Sắc thế gian là có thể thấy và chẳng thể thấy, huống chi Niết-bàn mầu nhiệm làm sao thấy được? Âm thanh cũng như thế.

Kế là y cứ theo ba đời.

Ba đời là pháp hữu vi chẳng thể thấy, huống chi Niết-bàn vô vi thấy nghe được hay sao?

Từ câu “Bấy giờ v.v…” là đoạn hai, Phật khen ngợi và trả lời.

Xưa nói đây là lời khen ngợi chứ chẳng phải lời đáp. Nay thì cho rằng đó cũng là lời đáp. Vì Bồ-tát Đức Vương dùng định tướng để gạn hỏi Phật, thì Phật lại nói các tướng huyễn v.v… đâu phải là định tướng, khiến các nghi đều dứt trừ, nên đó là lời khen ngợi đáp nghi. Bồ-tát Lưu Ly Quang phát ra ánh sáng đến chẳng phải xanh thấy là xanh, chẳng phải vàng thấy là vàng, đó đâu chẳng phải là chẳng nghe ư? Đó tức là hiện điềm lành để đáp. Sau đó Bồ-tát Lưu Ly Quang hỏi tức là đáp cả hai. Đức Vương không nghi nhưng vì đại chúng mà hỏi, giải thích căn bản như thế.

Hà Tây cũng cho rằng khen ngợi là đáp chung, sau là biệt đáp riêng.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai. Bồ-tát Lưu Ly Quang nói về nghĩa. Văn có hai:

  1. Từ xa đến.
  2. Đến rồi thì nói về nghĩa.- Thứ nhất có hai:
  3. Hiện tướng đến.
  4. Chánh thức đến.

Phần hiện tướng, trước nói phát ra ánh sáng, kế đến là hỏi đáp. Thứ nhất là phát ra ánh sáng.

Đó là nhờ vào tướng lạ để giải thích câu hỏi trước tức là thụy đáp. Vì thị hiện tướng đến nên phát ra ánh sáng, đó là thể của ánh sáng. Đại chúng thấy ánh sáng là dụng của ánh sáng. Định Sư Tử Vương là định tự tại, chính là nói lên thể của ánh sáng không thể nghĩ bàn.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai, hỏi và đáp. Văn có hai, trước nói về Bản, sau nói về Tích. Về Bản, văn có hai:

  1. Dùng vô ngôn để nói về Bản.
  2. Nhờ vào ngôn từ để nói về Bản.

Đầu tiên bốn vị Bồ-tát lần lượt hỏi nhau mà đều im lặng, đó là để nói lên pháp vô ngôn, hai là để nói lên mối nghi này, nên để ngài Vănthù giải đáp, tất cả các vị khác chẳng trả lời. Ngài Văn-thù hỏi Phật, Đức Phật im lặng. Đại chúng thấy Đức Phật im lặng cho rằng ngài Vănthù đã thầm hiểu. Cho nên ngài Ca-diếp mới hỏi ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù im lặng, đại chúng cho là ngài Ca-diếp thầm hiểu, cứ như thế mà chuyển dần đến năm trăm vị.

Từ câu “Bấy giờ Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là nhờ lời để nói về bản.

Đáp, có bảy phen. Sáu phen trước là phá tướng nhất định.

Kế là nói về nhân duyên.

Nay nói thêm rằng câu đáp về nhân duyên này là phá là lập. Nói nhân diệt vô minh tức là nghĩa phá như sự im lặng và năm trăm vị Bồtát ở trước, được Bồ-đề sáng tỏ tức là lập như thế tục nói ở sau. Vả lại, trước là tự hành pháp lập nên tất cả đều im lặng, sau là vì người phá lập, cho nên đáp. Về nhân duyên của ánh sáng thì biết gốc của ánh sáng này chẳng hơn đèn bồ-đề. Cho nên ánh sáng này chẳng phải sắc mà hiện sắc, từ chân khởi ứng, từ nơi kia mà đến, phát ra ánh sáng vời các loại căn cơ, cho nên chẳng hiện mà hiện.

Hỏi: Bồ-tát phát ra ánh sáng đâu thể là Thường trụ?

Đáp: Có người cho rằng nhờ vào năng lực Phật nên có ánh sáng Thường trụ. Có người cho rằng Bồ-tát ấy là Phật nên tự có ánh sáng này.

Từ câu “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về Tích của ánh sáng, cũng có hỏi và đáp.

Phật nói chớ nên nhập, tức là chớ nên nói về bản, nói về Thế đế tức là nên nói về Tích.

Văn nói về tích có ba đoạn:

  1. Bồ-tát cõi này nói về cõi nước kia.
  2. Bồ-tát cõi kia nói về cõi này.
  3. Nói về Bồ-tát cõi kia muốn đến.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn hai, Bồ-tát cõi kia đến.

Chẳng phải Đức Phật kia không đáp được nhưng để nêu rõ đạo của chư Phật đồng nhau, muốn sinh pháp lành cho cõi này, diệt ác cho cõi kia, giúp cho được thấy tánh đắc đạo nên mới sai đến.

Hỏi: Đạo của chư Phật đồng nhau, lẽ ra cõi kia sai đến cõi này, cõi này sai đến cõi kia?

Đáp: Lẽ ra có sai đến nhưng văn lược chẳng nói, vả lại tùy theo vị Hóa chủ đề cử. Đức Phật này đề cử Bồ-tát kia nên Bồ-tát kia đến, lẽ ra Đức Phật kia đề cử Bồ-tát này nhưng văn lược chẳng nói.

Hỏi: Thời Phật Ca-diếp là thời Phật thuần thiện nên không nói kinh này. Thời Đức Phật Thích-ca là đời ác trược vì đối với vô thường nên nói kinh thường. Đức Mãn Nguyệt Như Lai cũng ra đời vào thời thuần thiện, vì sao lại nói kinh này mà lời hỏi đồng với Bồ-tát Cao Quý Đức Vương?

Đáp: Dùng Thường đối trị Vô thường thì cõi kia chẳng có nhưng vì hợp với vô thường nên thuận theo lý mà nói vì vậy nói là đồng. Vả lại, còn nói “xưa chưa được nghe mà nay được nghe” thì đúng là chẳng phải để đối trị. Lại vào thời Như Lai Ca-diếp cũng có căn cơ thường, vì sao chẳng nói kinh. Nay giải thích chẳng phải như thế, cõi kia tuy không có thuyết đối trị nhưng cũng có thuyết ba tất-đàn kia. Thời Như Lai Cadiếp cũng giống như thế.

Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, đã đến thì nói về nghĩa. Văn có hai:

  1. Phụ nói về đến, đi.
  2. Chánh thức hỏi nghĩa đã nghi ngờ.

Văn thứ nhất hỏi trước đáp sau, đều tùy duyên chứ không nhất định. Ở đây trước là Phật hỏi, sau là Bồ-tát hỏi. Lại có phụ đối luận khác với phẩm Thuần-đà. Văn trên đối với Phật mà ngài Văn-thù phụ hỏi, tức là người thì phụ mà pháp chẳng phụ. Đây chính là hỏi về chẳng nghe mà nghe nhưng lại hỏi về đến đi. Vậy pháp là phụ, người chẳng phải phụ.

Ý Phật hỏi là thầy thấy các pháp có đến đi mà đến, hay không đến đi mà đến?

Bồ-tát Lưu Ly Quang v.v… là lời đáp gồm mười phen. Hai phen đầu là y cứ theo cảnh trước mắt mà nói không đến. Tám phen sau là y cứ theo mê ngộ. Ngộ thì không đến đi, mê thì có đến đi.

Lưu Ly Quang nói về lý thì không có đến đi mà về tích thì có đến đi. Mê ngộ cũng như thế, tức đáp cả câu chẳng nghe mà nghe của Cao Quý Đức Vương.

Từ câu “Bạch Thế Tôn v.v…” trở xuống là chánh thức nói về nghĩa. Có bốn:

  1. Xin Phật chấp nhận.
  2. Hỏi đáp.
  3. Xét lại.
  4. Kết luận lời hỏi.

Thứ nhất, như văn kinh có ghi.

Kế là từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là hỏi.

Nếu hỏi đủ thì phải là Bồ-tát Đức Vương nêu ba cặp sáu câu. Ở đây chỉ hỏi thẳng vào nghĩa “nghe được điều chưa nghe” mà thôi. Như thế thì có ba điểm khác nhau:

  1. Đức Vương hỏi rộng, Lưu Ly hỏi lược.
  2. Đức Vương hỏi về chứng, Lưu Ly hỏi về tu.
  3. Đức Vương hỏi “Chẳng nghe mà nghe”, Lưu Ly hỏi nghĩa “Nghe điều chẳng nghe”. Như thế làm thế nào để hội thông hai văn.

Giải thích: Bồ-tát Lưu Ly lúc ở cõi mình đã hỏi đủ ba cặp, đại chúng đã nghe rồi nên nay hỏi lược. Đức Vương hỏi chung về chứng của năm hạnh, chứng là sự thể ngộ bên trong, chẳng do nghe bên ngoài mà được nên hỏi nghĩa chẳng nghe mà nghe. Bồ-tát Lưu-ly hỏi về tu trong chứng, tức là hạnh trời, hạnh trời thì tự tại, niệm niệm thêm lớn, càng sáng tỏ nên nói nghe điều chẳng nghe. Cả ba tuy lời khác nhau mà lý thì đồng.

Phần hứa nhận gồm sáu câu, dường như sáu pháp Ba-la-mật mà chẳng theo thứ lớp:

  1. Ông muốn đạt đến cùng tận mà ta lại muốn giải thích, tức là y cứ theo tinh tấn.
  2. Hứa nhổ mũi tên độc là y cứ theo giới độ.
  3. Hứa làm đuốc tuệ chiếu sáng là y cứ theo Bát-nhã.

Hứa đáp câu hỏi về chẳng nghe mà nghe, Đức Phật nói “Ta sẽ làm đuốc tuệ soi sáng cho ông thấy rõ được Phật tánh” nên biết đó là nói rộng về nghĩa chẳng nghe mà nghe, tức là nói rộng về Phật tánh. Văn trên nói “Thế nào là chẳng nghe mà nghe” tức nghe được thường, lạc, ngã, tịnh. Vả lại, nếu nghĩa này Bồ-tát Lưu Ly Quang hỏi giống với Đức Vương, thì Lưu Ly Quang được liễu nhân, Cao Quý Đức Vương cũng được. Văn sau nói “Ta nhờ việc này mà giải được một câu, nửa câu, thấy được Phật tánh, nhập Đại Niết-bàn”. Nếu chẳng nghe mà nghe là Phật tánh thì ba câu “Thế nào là chẳng nghe mà nghe” là liễu nhân, “nghe mà chẳng nghe” là duyên nhân, “chẳng nghe mà chẳng nghe” là chánh nhân. Nghe là nghe tức cảnh giới, lại là nhân tánh; nghe mà chẳng nghe là nhân của nhân tánh v.v… Nếu đến mà chẳng đến, sinh mà chẳng sinh, đến mà chẳng đến cũng giống như thế. Làm Thiền sư là y cứ theo Nhẫn độ. Hứa xem là con ruột là y cứ theo Thiền độ. Hứa ban tuệ thí là y cứ theo Đàn độ.

Kế là từ câu “Hãy lắng nghe v.v…” trở xuống là khuyên nghe.

Văn có hai:

  1. Khuyên khi chưa nghe.
  2. Bảo khi đã nghe.

– Khuyên khi chưa nghe có ba ý:

  1. Lắng nghe là khiến chẳng che đậy vật chứa.
  2. Bảo hãy suy xét kỹ là khiến chẳng nên để vật chứa rỉ chảy.
  3. Nghĩ nhớ kỹ là chẳng để dơ bẩn vật chứa.

Vì chẳng che đậy nên có thể thọ nhận; vì chẳng rỉ chảy nên chẳng mất; vì chẳng nhơ bẩn nên uống được. Khuyên khi đã nghe cũng có ba:

  1. Dùng ba việc khuyên để ngăn che.
  2. Dùng hai việc khuyên về rỉ chảy.
  3. Dùng năm việc khuyên về nhơ bẩn.

Thứ nhất là nêu ngăn che, kế là giải thích.

Nên sinh tâm kính tin là nói về pháp, dốc lòng nghe nhận là nói về chính mình, cung kính tôn trọng là nói về thầy.

Chẳng tìm cầu lỗi là giải thích về ngăn che pháp, chẳng nghĩ đến tham, sân, si là giải thích về nghĩa che lấp chính mình; chẳng xét về chủng tánh là giải thích về nghĩa ngăn che cái thấy. Nếu không có ba việc này thì vật chứa chẳng bị che lấp.

Từ câu “Đã nghe pháp v.v…” trở xuống là ý thứ hai, khuyên về việc chớ để rỉ chảy.

Từ câu “Chớ sinh kiêu mạn v.v…” trở xuống là khuyên chớ để rỉ chảy sinh tử, không phạm vào bên này tức là chẳng rỉ chảy.

Từ câu “Đối với Phật, Pháp, Tăng v.v…” trở xuống là khuyên chớ làm nhơ bẩn.

  1. Chớ làm nhơ bẩn nhất thể.
  2. Chớ làm nhơ bẩn y đức.
  3. Chớ làm nhơ bẩn Đại thừa.
  4. Chớ làm nhơ bẩn Vô trụ.
  5. Chớ làm nhơ bẩn pháp tướng.

Nếu làm biệt thể nhơ bẩn thì chẳng thể tôn trọng thầy. Nếu khởi

59 bốn điên đảo làm nhơ bẩn thì chẳng thể tôn trọng pháp. Nếu khởi tâm Tiểu thừa chấp trước sinh tham nhơ bẩn thì chẳng thể tôn trọng chính mình. Không có năm điều lỗi này thì chẳng nhơ bẩn. Tất cả gồm mười lăm pháp, kết luận là nói về dốc lòng.

Hỏi: Bồ-tát Lưu Ly Quang phát ra ánh sáng, ánh sáng tức là thường trụ thì đâu bị lời khuyên này?

Đáp: Đó là chùy chạm vật gỗ, mượn Thánh để răn phàm.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chánh đáp, có hai:

  1. Y cứ vào bốn câu chẳng nghe mà nghe.
  2. Khai rộng hai phen bốn câu chẳng sinh mà sinh.

Các sư xưa ở Giang Nam giải thích bốn câu đầu là pháp thuyết, hai lần bốn câu là dụ thuyết. Các sư Địa Luận cho rằng bốn câu đầu là giáo tướng, hai lần bốn câu sau là chứng tướng. Các sư Trung Quán cho rằng các loại bốn câu không khác nhau, đều là thuận theo ba căn mà ba phen giảng nói. Các sư xưa giải thích phen bốn câu thứ nhất đều khác nhau:

1/ Y cứ theo Nhị đế mà cho rằng chẳng nghe mà nghe là ngay nơi chân mà tục, nên thật có nghe; chẳng nghe mà nghe thì chỉ là chân đế, bặt dứt chẳng thấy nghe, nghe mà chẳng nghe là ngay nơi tục mà chân, là không có chỗ nghe, nghe mà nghe chỉ là có thấy nghe trong tục.

2/ Một sư y cứ theo chân và ứng cho rằng chẳng nghe mà nghe tức pháp thân khởi ứng. Chẳng nghe tức chẳng nghe là pháp thân ứng nhiên. Nghe mà chẳng nghe tức thân ứng về chân. Nghe tức là nghe là ứng tích có thấy nghe. Một sư y cứ theo sinh tử Niết-bàn cho rằng Niết-bàn là chân tịch, chẳng nghe là chẳng nghe tức có cảm thì có ứng. Chẳng nghe mà nghe là sinh tử rối ren. Nếu tu đạo thì nghe mà chẳng nghe. Nếu chẳng tu đạo thường thì nghe tức nghe. Có sư cho rằng bốn câu nghe là nghe chẳng phải ý chánh, sau xét lại bốn câu chẳng sinh mới là ý chánh. Cần phải y cứ theo chẳng sinh để giải thích, chẳng nghe chẳng nghe là Niết-bàn vô thỉ vô chung, chẳng sinh mà sinh là Niết-bàn vô thỉ mà hữu thỉ. Sinh mà chẳng sinh là Niết-bàn vô chung mà chung. Sinh tử cũng giống như thế. Sinh sinh là sinh tử vô thỉ vô chung, chẳng sinh mà sinh là sinh tử vô thỉ mà có thỉ, sinh mà chẳng sinh là vô chung mà chung.

Nay cho rằng các nghĩa trên đều chẳng đúng. Vì sao? Vì ba phen bốn câu này bao gồm các pháp thông suốt tất cả. Dùng ý Viên giáo giải thích kinh còn sợ chẳng hợp thì đâu được dùng ý nghiêng về một bên để giải thích. Nếu dùng giáo, hạnh, chứng, pháp và dụ để giải thích thì chẳng phải chỉ có phương không hợp được viên, mà còn tổn thương đến thể. Lại có sư y cứ vào một đế để giải thích bốn câu, dù nói là gần gũi mà càng xa xôi, huống chi y cứ vào hai đế thì sự sai lầm càng nhiều. Còn về chân ứng, sinh tử Niết-bàn cũng giống như thế, huống chi dùng ba câu về sinh sinh để giải thích thì tổn hại đến sự càng sâu, huống chi lập Hỗ vô chỉ là chút phần ý của Tiểu thừa, chẳng liên quan gì đến đạo lớn.

Nay chẳng dùng các thuyết trên, vả lại mười việc này là đức nội chứng. Bồ-tát Đức Vương gạn hỏi về chẳng nghe mà nghe, hai lời tuy khác mà đồng hỏi về chứng. Trong lời đáp nói rộng về bốn câu. Nếu muốn giải thích thì dùng ngàn đường muôn lối đồng để hiển bày sự chứng ngộ này còn sợ là chẳng đúng, mà có các sư như “cỏ bay ngoài đồng nội, như lục bình nổi trên mặt sông”, nghiêng về sự tướng, chấp một hại nhiều, không chỉ trái với nhất viên thường mà còn chẳng bao giờ chứng ngộ.

Nếu dùng bốn câu giải thích chung các nghĩa thì chỗ nào cũng đều thông. Nếu muốn giải thích bốn câu thì nên dùng lời Phật. Tuy Phật đáp về chứng mà ý lại thông đến tu, mới vào chứng đạo, tu đạo liền xong, không còn có gì, đó gọi là chẳng nghe. Chân minh chợt mở, chiếu soi cùng khắp tức là nghe. Cho nên nói chẳng nghe mà nghe. Chứng đắc Đại Bát-niết-bàn như thế mà Đại Bát-niết-bàn chẳng có tướng nghe nên gọi là chẳng nghe chẳng nghe. Chứng khởi thì hoặc tiêu diệt nên gọi là nghe mà chẳng nghe. Vắng lặng mà thường chiếu, hễ gõ liền ứng nên gọi nghe mà nghe. Nay y cứ theo lời Phật giải thích bốn câu về chẳng sinh mà sinh để giải thích ý này. Đã là Phật giải thì chẳng phải là lời giải thích suông. Câu thứ nhất là nói về trí chứng; câu thứ hai nói về lý chứng; câu thứ ba là nói về đoạn chứng; câu thứ tư nói về ứng chứng. Sự lý trí đoạn ở trong chứng thì tự tha đều đầy đủ không thiếu. Chứng như thế thì chẳng chung với Tiểu thừa, chẳng thể nghĩ bàn, người khác nghe thì kinh sợ, cùng tận biển Niết-bàn. Đây là dùng một diệu chứng để giải thích tâm nghi của hai Bồ-tát.

Lại chẳng nghe mà nghe là chứng hạnh Thánh, nghe mà chẳng nghe là chứng phạm hạnh, chẳng nghe là chẳng nghe tức là chứng hạnh Thiền, nghe là nghe tức là chứng hạnh Trẻ thơ và hạnh Bệnh. Một chứng tất cả đều chứng, đầy đủ viên chứng, nên văn kinh ở trên ghi: “Phật bảo Ca-diếp: Chẳng những mình ông chứng năm hạnh này, mà trong chúng hội này năm mươi ba vạn người đều được như thế”. Tức là nghĩa này.

Lại chẳng nghe mà nghe là chứng liễu nhân, nghe mà chẳng nghe là chứng duyên nhân, chẳng nghe chẳng nghe là chứng chánh nhân, nghe là nghe tức chứng cảnh giới. Cho nên Đức Phật trả lời Bồ-tát Lưu Ly Quang: “Ta có ngọn đuốc tuệ chiếu sáng cho ông thấy rõ được Phật tánh”. Chính là nghĩa này.

Lại chẳng nghe mà nghe là chứng viên tịnh, chẳng nghe mà nghe là chứng Tánh tịnh, nghe mà chẳng nghe, nghe mà nghe là chứng Phương tiện tịnh. Cho nên Đức Phật trả lời Bồ-tát Lưu Ly Quang: “Nay thầy muốn cùng tận biển Đại Niết-bàn, ta sẽ giải thích đầy đủ cho thầy nghe”. Tức là nghĩa này.

Nếu đạt được ý này thì trong nhất chứng được tự tại giảng nói sâu rộng.

Thế nào gọi là Như? Vì đó là nghĩa chẳng khác. Bốn câu kia đây chẳng khác nhau, mà lại đối với bốn câu kia lập danh nghĩa nhằm để hiển bày giải thích lẫn nhau, so sánh ví dụ để thông suốt hiển bày. Cho nên lược nêu hai loại bốn câu để làm đầu mối hiển bày nghĩa sâu rộng, bao gồm tất cả pháp trong ngoài đâu thể nói bốn câu này là để dụ thuyết.

Hưng Hoàng lại cho rằng bốn câu này đồng với bài kệ “xưa có nay không” mà Bồ-tát ở núi Tuyết xả thân cắt thịt v.v… để được nghe. Trong đó chẳng sinh mà sinh là xưa không nay có, sinh mà chẳng sinh là xưa có nay không, sinh là sinh tức ba đời thật có pháp, chẳng sinh tức chẳng sinh là chẳng có việc ấy. Lại sinh mà chẳng sinh là các hành vô thường, chẳng sinh mà sinh là pháp sinh diệt, sinh là sinh tức là sinh diệt đã diệt, chẳng sinh là sinh tức vắng lặng là an vui. Lại chẳng sinh mà sinh tức Như Lai chứng Niết-bàn, sinh tức chẳng sinh là dứt hẳn sinh tử, sinh tử tức sinh là sinh. Nếu dốc lòng thì thường được vô lượng an vui tức chẳng sinh là chẳng sinh.

Ở đây cho rằng đầu tiên là y cứ theo gốc viên chứng, nghĩa đã lập, thông suốt đến các pháp trong ngoài. Ở đây chỉ thông các kinh Đại thừa mà còn thông đến các bộ luật Tiểu thừa. Trong đó, sinh là sinh tức các điều ác sinh mà chẳng sinh, tức chớ tạo tác; chẳng sinh mà sinh tức các điều lành nên vâng làm; chẳng sinh tức chẳng sinh là hãy thanh tịnh tâm ý mình, v.v… Bốn câu này chẳng những thông đến các kinh luật Đại Tiểu thừa mà còn thông đến Luận của Bồ-tát. Sinh mà sinh pháp do nhân duyên sinh; sinh mà chẳng sinh là câu “Ta nói tức là không”; chẳng sinh tức sinh là câu “cũng gọi là giả danh”; chẳng sinh tức chẳng sinh “cũng là nghĩa Trung đạo”, v.v…

Từ câu “Bạch Thế Tôn!” v.v… trở xuống là đoạn ba, nghiên cứu lại. Vì nghĩa chẳng sinh mà nghe v.v… để giúp cho lời giải thích. Nếu thấu hiểu được nghĩa chẳng nghe mà nghe v.v… thì chẳng cần nói lại nghĩa chẳng sinh mà sinh. Nay muốn so sánh để thông thấu, ý nghĩa bao gồm tất cả nên phải suy xét lại. Văn có hai đoạn:

  1. Y cứ theo bốn câu pháp trong.
  2. Y cứ theo bốn câu pháp ngoài.

Bốn câu pháp trong, mỗi câu trước đều có hỏi và sau là lời đáp. Nói “an trụ thế đế” có hai nghĩa. Nếu theo pháp ngoài sinh tử, một niệm đầu tiên gá thai gọi là an trụ thế đế. Nếu y cứ theo pháp ngoài Niết-bàn, tu tập phương tiện gọi là an trụ Niết-bàn. Từ tu được chứng, vô minh chợt phá tức là mới ra khỏi thai, cũng là Niết-bàn vô thỉ mà nói vô thỉ. Dùng nghĩa này so sánh biết các nghĩa chẳng nghe mà nghe v.v… tức là viên chứng, nghĩa ấy càng rõ ràng.

Thế đế sinh tử cũng có hai nghĩa. Nếu y cứ theo sinh tử pháp ngoài, khi phước và mạng đã hết thì gọi là chết thế đế. Nếu y cứ theo pháp trong Niết-bàn, khi vô minh diệt hết thì gọi là chết thế đế. Cũng là sinh tử vô chung mà nói có chung. Bồ-tát Tứ trụ, các sư xưa cho rằng đó là Sinh quý trụ trong mười trụ được tự tại sinh, lại nói đó là Tứ địa trong mười Địa, dứt kiến đế, chẳng đọa vào ba đường, có khả năng dùng thần lực, thị hiện tự tại sinh.

Nay xét hai cách giải trên thì một dường như nghĩa Biệt giáo, một dường như nghĩa Thông giáo, chưa hội thông với văn này. Xét kỹ ý nghĩa thì chỉ là làm cho Bồ-tát Tứ trụ dứt hết các hoặc, chẳng bị kết nghiệp dẫn sinh vào ba cõi mà năng thị hiện sinh, gọi là sinh tự tại. Kinh

Thập Địa có nói nghĩa Lục trụ, trụ thứ tư tương ứng với nghĩa này, trong Chỉ Quán quyển năm có trích dẫn đầy đủ. Ở đó cũng có dẫn chứng các nghĩa chẳng sinh mà sinh, v.v…

Thứ hai là y cứ theo bốn câu pháp ngoài.

Nói chưa sinh mà sinh, trong đó chưa và chẳng mỗi pháp tùy theo nghĩa mà lập.

Từ câu “Bồ-tát Lưu Ly Quang v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, kết luận lời hỏi. Trong ba loại bốn câu chỉ kết luận loại bốn câu chẳng sinh mà sinh v.v… lại trong đó chỉ kết luận câu gạn hỏi sinh tức sinh mà thôi.

Vì muốn nhân câu này mà hiểu rộng đến tất cả các câu. Văn có ba:

  1. Thưa hỏi.
  2. Giải thích.
  3. Thọ lãnh, tin hiểu.

Phần gạn hỏi gồm có sáu câu ba cặp:

  1. Cứ theo thường và vô thường để hỏi.
  2. Y cứ theo tự sinh, sinh tha để hỏi.
  3. Y cứ theo xưa có, xưa không để hỏi.

Tất cả đều hỏi về sinh sinh, đó là do thường mà sinh hay vô thường mà sinh; là tự sinh hay tha sinh; là xưa có sinh hay xưa không sinh.

Thứ nhất là thường vô thường. Nếu sinh là thường thì pháp hữu lậu lẽ ra không có việc sinh này. Nếu sinh là vô thường thì hữu lậu là thường. Sinh tự là vô thường, vô thường thì diệt, chẳng thể giữ được, há sinh là hữu lậu hay sao? Hữu lậu đã chẳng phải do sinh sinh ra, nên hữu lậu là Thường.

Kế là từ câu “Bạch Thế Tôn!” v.v… trở xuống là thứ hai, kết luận y cứ tự sinh và sinh tha mà hỏi.

Sinh nếu tự sinh thì sinh chẳng có tự tánh, tức là nói sinh đã tự là sở sinh, thì chẳng phải năng sinh. Vì không có tánh năng sinh nên nói là không có tự tánh. Thuyết thứ hai cho rằng sinh vốn là giả duyên chưa có tự tánh, thì đâu thể tự sinh. Nếu không tự tánh thì đâu thể sinh pháp khác (sinh tha). Nếu sinh ra được pháp khác v.v… là sinh, vì sao chỉ sinh pháp hữu lậu khác mà chẳng sinh pháp vô lậu khác. Hữu lậu vô lậu là đối với tự, còn tất cả đều là tha.

Từ câu “Nếu khi chưa sinh v.v…” trở xuống là lời hỏi thứ ba.

Nếu xưa có, tức khi chưa sinh đã sinh, vì sao đến nay mới gọi là sinh. Nay chính là lúc duyên hợp. Nếu xưa không sinh mà có thể sinh thì hư không là vô, vì sao chẳng nói là hư không sinh?

Từ câu “Đức Phật khen v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích, có ba ý:

  1. Bác bỏ là sáu câu hỏi.
  2. Giải thích sáu lời bác bỏ ngược lại.
  3. Đáp sáu câu hỏi, gồm sáu lời bác bỏ và một lời đúng, gồm có bảy chương.

Thứ nhất là bác bỏ sáu câu hỏi.

Nếu nhất định như lời ông hỏi thì đều không thể nói, đầu tiên nói chẳng sinh mà sinh không thể nói tức bác bỏ ngược lại câu hỏi sinh nhất định là thường, thứ nhất. Sinh mà sinh không thể nói là bác bỏ ngược lại câu sinh chắc chắn vô thường, thứ hai. Sinh mà chẳng sinh là bác bỏ lại câu “tự sinh thì mất tự tánh, nên sinh mà chẳng sinh”, thứ ba. Chẳng sinh mà chẳng sinh không thể nói là bác bỏ ngược lại câu sinh tha, thứ tư. Trước nói năng sinh tha (pháp khác) vì sao chẳng sinh vô lậu nên nói chẳng sinh mà chẳng sinh không thể nói. Sinh cũng không thể nói là bác bỏ ngược lại câu “xưa có” thứ năm. Chẳng sinh không thể nói là bác bỏ ngược lại câu xưa không thứ sáu.

Một câu sau kết luận là có nhân duyên nên có thể nói, tức là nói lên có nhân duyên bốn Tất-đàn mà có thể nói.

Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích sáu môn đã bác bỏ lại ở trên.

Giải thích môn thứ nhất tự cho là sinh, lại nói là chẳng sinh, chẳng sinh tức là thường, vậy hai việc trái nhau nên không thể nói.

Giải thích môn thứ hai. Nếu sinh là vô thường thì sinh lại sinh, sinh được sinh sinh ra, toàn thể đều sinh, lại bị diệt diệt mất thì toàn thể đều diệt. Sinh là sinh nên sinh tức toàn thể đều sinh. Sinh là sinh nên chẳng sinh tức toàn thể đều diệt, cho nên không thể nói.

Giải thích môn thứ ba: Chẳng sinh tự sinh vốn là dùng chữ trong sinh tử.

Giải thích môn thứ tư. Niết-bàn cũng có nghĩa sinh, chẳng thể nhất định nói Niết-bàn là chẳng sinh. Trước là hỏi: “Đều là sinh tha, vì sao chẳng sinh vô lậu?”. Vô lậu chỉ là Niết-bàn, Niết-bàn cũng có nghĩa sinh, do tu đạo mà được nên lại là sinh, sinh này chẳng bị diệt diệt mất, vậy sinh này là thường nên không thể nói.

Giải thích môn thứ năm. Vốn chẳng có sinh, đâu thể nói chưa sinh đã có.

Thế nào là chẳng sinh tức chẳng sinh không thể nói? Vì có được.

Giải thích môn thứ sáu. Chẳng thể nói nhất định có nơi chẳng sinh, mà lại có nơi việc có thể được vì thế lại là sinh, chẳng đồng với hư không chỉ một bề không sinh.

Thứ bảy là môn có thể nói: Trong mười hai chi nhân duyên, trừ hai chi sau cùng, còn mười chi trước là tác nhân duyên của sinh nên có thể được nói. Ở đây chỉ là giải thích văn, trong Chỉ Quán giải thích bốn câu hỏi rộng hơn. Nay nói thêm: Y cứ theo ý giải thích kia hợp với văn và hội với lý của Đại kinh này. Quán vô sinh của văn kia đều khế hợp với môn Niết-bàn vô sinh.

Nói “Chớ nhập Không định vì đại chúng ngu độn”, có hai cách giải:

  1. Cho rằng đại chúng thật có ngu độn chẳng biết Không định nên nói chớ nhập.
  2. Cho rằng nếu nhập Không định mà nói thì đại chúng hiểu chậm.

Nghĩa “Không” rất sâu xa, hiểu được cũng khó, khó nên gọi là ngu độn. Nhưng kệ văn có sáu câu đều không thể nói. Lại có một câu do nhân duyên có thể nói. Đức Phật dùng sáu phen giải thích không thể nói rồi lại chỉ ra do nhân duyên nên có thể nói, nhưng văn nghĩa còn sơ lược nên nay lập lại hai phen nói rằng hễ có nhân duyên thì đều có thể nói. Đối với một câu mà nói đầy đủ bốn câu, đó là chẳng sinh mà sinh, sinh là sinh, chẳng sinh là chẳng sinh, sinh mà chẳng phải sinh. Bốn câu đều nói như thế, đó là do nhân duyên nên có thể nói. Cũng có thể nói vì có nhân duyên nên không thể nói. Vì sao? Vì một câu đầy đủ bốn, đâu thể chỉ lập một, hai, ba câu mà nói. Vì nhân duyên này nên đều chẳng thể nói, cho đến bốn câu đều đủ bốn câu, đâu thể chỉ nói một, hai, ba câu mà do nhân duyên này nên tất cả đều chẳng thể nói. Hơn nữa, bốn câu ngay nơi sự mà lý, lý mà chẳng thể nói. Bốn câu ngay nơi lý mà sự, sự mà có thể nói. Vì sao? Vì văn sau ghi “Biết Như Lai thường chẳng nói pháp, đó là học rộng”. Nay so sánh với nghĩa này, nếu biết bốn câu ngay nơi sự mà lý, tức không thể nói. Các sư Địa luận cho rằng loại bốn câu trước là y cứ theo giáo, hạnh và chứng, vừa xem qua thì chẳng phải không có nghĩa này. Nay muốn phân biệt sáu câu dường như có đơn kép, hoặc chung riêng dứt. Trong đó, hai câu đầu nói về giải hoặc chung riêng, hai câu kế là nói giải chung riêng, bất sinh mà sinh là biệt hoặc thiền, sinh sinh là thông hoặc kép, bất sinh mà sinh là thông giải thiền, chẳng sinh chẳng sinh là biệt giải kép, câu sinh kế là kết luận thiền sinh kép đồng là hoặc sinh. Câu bất sinh kế tiếp là tổng kết thiền ở trước chẳng sinh kép, chẳng sinh đồng là giải. Cho nên thiền kép hoặc giải như thế đều không thể nói. Còn do nhân duyên có thể nói như trước đã luận.

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, trả lời. Tức là đáp sáu câu hỏi, được chia làm hai:

  1. Trả lời hai câu trước.
  2. Đáp bốn câu sau.

Đáp hai câu trước, lại chia hai. Trước y cứ riêng bốn tướng, kế đó hợp y cứ theo bốn tướng. Y cứ riêng, có bốn.

Sinh là thường, tức ngay nơi phần ấy mà giữ lấy tự tánh nên được nói là thường. Nói vô thường nghĩa là trụ lại trụ sinh v.v… sinh tức thay đổi nên trở thành vô thường.

Trụ cũng như thế, bị sinh sinh ra nên chẳng phải là Thường.

Dị cũng như thế, mà nói các pháp vô thường là vì trong câu nói về sinh ở trước có ghi “Nếu trụ vô thường thì sinh cũng vô thường”. Nay nêu pháp đối với Dị lại là pháp sinh trụ vô thường nói ở trước và dị cũng có nghĩa là thường và vô thường, đầy đủ như sinh và trụ.

Hoại cũng như thế. Văn kinh ghi “Xưa không nay có nên hoại cũng vô thường”. Xưa không nay có chỉ là nghĩa sinh, đã sinh lại sinh nên hoại, hoại thì chẳng phải thường. Vậy xưa nay không lại là vô thường.

Từ câu “Vì có tánh v.v…” trở xuống là hợp nói về bốn tướng.

Mỗi tường đều giữ tánh phần của mình nên đều là Thường. Lại vì hai nghĩa ấy nên chẳng được gọi là Thường. Nói gần thì niệm niệm đổi dời; nói xa thì so sánh với Niết-bàn. Vì bị Niết-bàn cắt đứt nên chẳng phải thường.

Từ câu “Pháp hữu lậu v.v…” trở xuống là đáp bốn câu hỏi sau. Chia làm hai phần, trước chánh đáp câu thứ năm, đáp cả câu thứ sáu, sau chánh đáp câu thứ tư, đáp cả câu thứ ba. Thứ nhất là câu thứ năm.

Trên hỏi nếu xưa có, vì sao đến nay mới nói là sinh. Nay trả lời, xưa là có lý sinh, chẳng phải là đã có nay mới sinh ra. Tức là gồm đáp câu thứ sáu v.v… đều là vô sinh.

Vì sao chẳng nói hư không là sinh? Nay đáp, cũng cho rằng lý có thể sinh mới được gọi là sinh, hư không chẳng có lý để sinh thì đâu thể nói chẳng lấy đó làm sinh.

Từ câu “Pháp vô lậu v.v…” trở xuống là trả lời câu thứ tư, gồm có pháp, dụ và hợp.

Đầu tiên là hỏi sinh tha, lẽ ra có thể sinh vô lậu, nay đáp không có lý sinh vô lậu nên chẳng thể sinh pháp hữu lậu có tánh sinh, nên được gọi là sinh, tức đáp cả câu thứ ba sinh vô tự tánh. Nếu có tự tánh thì sinh có thể tự sinh ra nó. Đã không có tự tánh thì đâu thể sinh ra. Đó là đáp cả hai ý tự nhiên cách xa.

Nêu dụ lửa, mắt là vì mỗi pháp đều có tự tánh. Tánh lửa năng sinh; tánh mắt năng thấy. Trong đó nói có tánh sinh cho nên sinh, năng sinh tức là phá tánh nghĩa rồi, sau đó mới nói tánh, cho nên không lỗi. Cũng như trước phá tánh chấp rồi mới nói khi có nhân duyên thì có thể nói.

Kế là hợp, như văn kinh có ghi.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn ba thọ lãnh tin hiểu. Có hai phần:

  1. Các nhà kết tập kinh tự giảng nói.
  2. Chinh thức trình bày sự giải ngộ.

Trình bày giải ngộ có hai là tự trình bày và trình bày cho đại chúng.

Về mình thì nói “nghe mà chẳng nghe”, về chúng thì nói “chẳng sinh mà sinh” đây là trình bày môn được giải ngộ. Vì môn bốn câu “chẳng đến mà đến” có người chưa ngộ. Bồ-tát Vô Úy hỏi việc sinh về cõi Bất động. Đức Vương lại nói về bốn câu chẳng đến mà đến.

Từ câu “Bạch Thế Tôn!” v.v… trở xuống là đoạn ba, Vô Úy nói về nghĩa. Gồm ba ý:

  1. Xin chấp nhận.
  2. Luận nghĩa.
  3. Đáp câu hỏi của Đức Vương.

Thứ nhất như văn kinh có nói.

Thứ hai, Vô Úy nói về nghĩa gồm có ba phần là: Hỏi, đáp và tin hiểu. Hỏi lại có hai:

  1. Hỏi cõi này sinh về cõi kia.
  2. Hỏi chúng sinh cõi kia lợi căn.

Hai câu này thành tựu cho nhau, nếu phân biệt thì thành khác.

Hỏi: Kinh nói Bồ-tát ở hai cõi tịnh uế đều có hơn kém, nay làm sao hiểu?

Đáp: Nếu theo đối nhau để so sánh thì cõi tịnh cao quý, vào quyền thì cõi uế cao quý.

Kế là Đức Phật đáp, tức chánh đáp câu hỏi và gồm phá câu hỏi sau. Gồm hai mươi mốt hạnh, chia làm hai phần:

Mười hạnh dứt ác là điều lành.

Mười một hạnh nói về làm lành.

Nhưng nghiệp tịnh Độ tức là tâm Bồ-đề mà nay nói về hạnh riêng, chính là để nói lên chung riêng chẳng khác. [Thứ ba là lãnh giải như kinh ghi.

Từ câu “Bồ-tát Quang Minh v.v…” trở xuống là thứ ba thỉnh đáp câu hỏi của Đức Vương. Bậc thượng căn, trung căn đã hiểu. Bây giờ lại vì người chưa ngộ mà thỉnh đáp. Trước hỏi, sau là Phật đáp.

Đức Phật đáp, có hai: trước khen ngợi khuyên nên nghe; sau là đáp.

Trong phần đáp, trước nêu chưa đến thì chẳng đến, kế là nêu lại nghe mà chẳng nghe. Trước lại chia làm hai:

  1. Nêu chương đến mà chẳng đến.
  2. Giải thích.

Theo trong phần giải thích, tức là Đức Vương hỏi đầu tiên có ba loại, sáu loại, Đức Phật nói dụ và phát ra ánh sáng để đáp nghĩa chẳng nghe mà nghe xong. Kế đó, Bồ-tát Lưu Ly Quang nói về nghĩa rồi đáp nghĩa chẳng sinh mà sinh. Nay lại nên chẳng đến mà đến.

Đầu tiên nói bốn câu nghe mà chẳng nghe thì người thượng căn đã giải ngộ. Kế là nói bốn câu chẳng sinh mà sinh thì người trung căn đã ngộ. Nay vì người hạ căn mà giải thích về “đến mà chẳng đến”. Vì đây là tùy nghi theo duyên nên trước sau nêu ra. Y cứ theo bốn câu này; hai câu trước nói về Niết-bàn có đến mà chẳng đến, tu đạo dứt hoặc thì đến, không như thế thì chẳng đến. Hai câu sau nói sinh tử có đến mà chẳng đến. Nếu tu đạo nhàm chán sinh tử thì không đến, chẳng thế thì đến. Cứ thế xuôi ngược trùng lặp mà tạo thành các câu ở trên.

Nhưng trong đây giải thích phải so sánh với văn trước, trước nói chẳng sinh là chẳng sinh tức Đại Niết-bàn. Ở đây nói chẳng đến lại chẳng khác với bất sinh. Nếu thế thì sao chẳng đồng với ở trước nói về chẳng đến thì chẳng đến? Đáp: Vì duyên có đơn có kép, nói chẳng đến là vì phàm phu chẳng thể tu tập nên nói chẳng đến.

“Chẳng đến mà đến”, cũng phải đối chiếu với văn trước, mới ra khỏi thai thì gọi là chẳng sinh mà sinh. Ở đây nói chẳng đến mà đến, tức là đối với sinh tử mà chỉ nêu một bên.

“Đến mà chẳng đến”, cũng so sánh với văn trước; so sánh với thế đế, khi chết thì gọi là sinh, đó cũng là đắp đổi nhau để nêu lên.

“Đến tức đến” cũng đối với trước mà nói.

Trước nói “sinh sinh chẳng dứt”, ở đây lại nói về sinh tử nên đồng với ở trước.

Kế lại nêu “nghe điều chưa nghe”. Văn có hai. Trước là nêu bốn chương.

Kế là giải thích, chỉ giải thích một câu.

Trước đã giải thích xong, chẳng muốn nhiều lời. Các sư Địa Luận phân biệt giáo chứng có sâu cạn khác nhau. Nhưng nay ý văn chỉ là gặp duyên thuận tiện, phải lập ba thuyết. Chỉ vì ngộ có trước sau, chẳng liên quan đến cạn sâu. Vì sao? Vì lời thì khác mà nghĩa thì đồng.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ tư, Bồ-tát Đức Vương nói lại. Văn có hai:

1/ Chỉ hỏi về quả.

2/ Hỏi cả về nhân quả.

Thứ nhất lại có ba:

Một, hỏi về Niết-bàn mới có tức là vô thường.

Hai, hỏi về nhân trang nghiêm nên lại vô thường.

Ba, hỏi về Niết-bàn nên có cũng là vô thường.

Trong câu thứ ba lại có bốn chương. Nếu chẳng như thế thì chia thẳng thành bảy câu hỏi:

  1. Hỏi rằng xưa có nay không nên vô thường.
  2. Hỏi rằng vì trang nghiêm nên vô thường.
  3. Hỏi vì là có nên vô thường.
  4. Hỏi vì thấy được cho nên vô thường.
  5. Hỏi về chẳng bình đẳng cho nên vô thường.
  6. Hỏi vì cần sự cung đãi nên vô thường.
  7. Hỏi vì có danh tự nên vô thường.

– Câu thứ nhất có ba là lãnh chỉ, hỏi lược và hỏi rộng.

Về hỏi rộng thì có pháp, dụ và hợp.

Câu thứ hai, thứ ba, thứ tư như văn kinh có ghi.

Câu thứ năm, có hai lớp là thí dụ và hợp.

Câu thứ sáu có hợp và dụ, dẫn việc xưa.

Câu thứ bảy như văn kinh có nói.

Từ câu “Bấy giờ, Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, Đức Phật đáp có ba câu. Đầu tiên là đáp xưa không nay có, gồm có pháp, dụ và hợp.

Các sư Địa Luận lập luận chân tu và duyên tu để giải thích. Cho rằng chân tu là xưa có, duyên tu là mới có.

Các sư Tam Luận dùng chánh nhân và duyên nhân để giải thích, cho chánh nhân là xưa có, duyên nhân là mới có.

Từ câu “Ông nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ hai có pháp và dụ.

Trong dụ lại có ba lớp dụ, như văn kinh có nói.

Từ câu “Thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu thứ ba, Niết-bàn là có. Vừa xem qua thì hỏi và đáp dường như chẳng khớp nhau. Vì hỏi thẳng Niết-bàn là có tức thuộc về vô thường. Nay lại nêu năm nhân là nói Niết-bàn chẳng đồng với nghĩa có của năm nhân, sau đó nên sinh nhân và liễu nhân, lại lược giải liễu nhân. Chỉ đáp câu hỏi này tức đáp cả bốn câu kia.

Trước nêu năm nhân dường như bốn duyên ba nhân. Trong luận Thành Thật nói:

“Sinh nhân tức là báo nhân, chỉ làm cỏ cây thêm lớn, hòa hợp nhân tức là tập nhân, thiện ác tự nhiên tương tự. Trụ nhân tức y nhân. Nhân tăng trưởng tức duyên tăng thượng. Viễn nhân tức là duyên duyên. Chỉ không có duyên thứ đệ”.

Hai nhân sau chẳng đồng với tác nhân mà đồng với liễu nhân.

Như văn dùng hai nhân sau để phân biệt nói năm nhân trước đều là tác nhân.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là thứ hai, hỏi cả về nhân quả. Trước nói sáu Độ tức hỏi về nhân, kế là hỏi về Niết-bàn tức hỏi về quả.

Phật đáp có hai phần:

  1. Đáp cả nhân quả.
  2. Đáp riêng nhân và quả.

Đáp cả như văn kinh ghi.

“Này thiện nam! Thế nào là thí v.v…” trở xuống là thứ hai, trả lời riêng về nhân quả. Có hai phần là nhân và quả. Về nhân lại có hai:

  1. Thuận nhân.
  2. Nghịch nhân.

Về thuận nhân lại có hai:

  1. Chánh đáp.
  2. Khen ngợi kinh.

Chánh đáp có sáu lần nói về Độ và chẳng phải Độ. Năm phen trước là chút phần Niết-bàn, một phen sau chính thức xếp vào Độ.

Có tướng có đắc chẳng có nghĩa là Độ, Vô tướng vô đắc mới có nghĩa là Độ. Trong đó nêu Đàn Độ đầu tiên, năm độ kia đều chỉ cho kinh Tạp Hoa.

Từ câu “Thế nào là v.v…” là khen ngợi kinh. Trước là kết luận làm lời khen ngợi về Bồ-tát; sau là kết luận Ba thừa làm lời khen ngợi.

Nói mười hai thể loại kinh ý nghĩa sâu xa. Xưa mười hai loại chỉ nói về Không. Nếu so với sinh tử thì đó là sâu mà chưa xa. Kinh này nói về sinh là sinh, cho nên sâu xa. Đó cũng là có mà chẳng có, ngay nơi không mà chẳng không, ngay nơi chẳng không mà chẳng không. Vì thế rất sâu xa.

 

PHẦN 2

Đầu quyển Bồ-tát Đức Vương hỏi: “Nếu phạm v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về nghịch nhân. Gồm có hỏi, đáp và lãnh giải. Dung Thành cho là có sáu câu hỏi. Khai Thiện cho là năm câu hỏi, ở đây nói có ba ý:

  1. Gồm hai câu hỏi đầu về bốn tội nặng.
  2. Gồm hai câu kế, hỏi về Nhất-xiển-đề.
  3. Một câu hỏi về bất định.

Thứ nhất hỏi về bốn tội nặng. Nếu có Phật tánh, thì lẽ ra chẳng đọa địa ngục, nếu họ lui sụt thì Phật tánh chẳng giữ gìn được. Câu hỏi thứ hai, nếu có Phật tánh, sao lại nói không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh? Nếu chẳng có bốn đức thì đâu có Phật tánh.

Câu thứ ba, hỏi Nhất-xiển-đề dứt mất gốc thiện lẽ ra dứt cả Phật tánh. Câu thứ tư hỏi nếu chẳng dứt Phật tánh sao gọi là Nhất-xiển-đề?

Câu thứ năm hỏi về bốn giới trọng và Nhất-xiển-đề v.v… là bất định nên lại sinh ra Bồ-đề? Niết-bàn bất định nên lại thành phàm phu. Văn hỏi không rộng. Nhập Niết-bàn rồi, nếu lại ra tức Thánh trở lại phàm. Nếu thế thì Phật không có bốn đức. Nếu chẳng như thế thì Nhấtxiển-đề cũng chẳng có nghĩa thành Phật? Trước hỏi cho rằng Niết-bàn vô thường, Phật đáp chẳng vô thường, ở đây hỏi về bất định, tất cả đều bất định, tất cả đều vô thường. Niết-bàn cũng nằm trong “tất cả” đó nên cũng vô thường. Câu hỏi này vặn hỏi tất cả mọi người khiến đều chuyển biến. Đức Phật đáp: có hai:

  1. Khen lời hỏi.
  2. Trả lời.

– Khen gồm có bốn câu:

  1. Khen hiện đức.
  2. Khen ngợi nhân quá khứ.
  3. Khen ngợi câu hỏi vượt hơn trời, người.

. Khuyên nghe và chấp nhận. Phân biệt giảng nói như văn ghi.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần chánh đáp, gồm có ba ý:

  1. Đáp câu hỏi thứ năm về bất định.
  2. Đáp câu hỏi thứ ba là dứt mất gốc thiện tức đáp cả câu thứ nhất và câu thứ hai về người tội.
  3. Lại đáp câu thứ năm hỏi về bất định, đáp cả câu thứ tư.

Thứ nhất là đáp câu hỏi thứ năm, có ba phần: Một là nêu lên.

Thứ hai là đáp.

Thứ ba kết luận.

Từ câu “Như thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba, có ba phen:

  1. Y cứ trong ngoài.
  2. Y cứ hữu lậu, vô lậu.
  3. Y cứ thường, vô thường.

Phật tánh là Trung đạo, chẳng thuộc hai bên nên chẳng thể cắt đứt. Trời, người là thiện; ba đường là ác. Pháp phàm là ngoài, pháp Thánh là trong; Thế gian là lậu; xuất thế là vô lậu. Hữu vi là vô thường, vô vi là thường. Phật tánh chẳng thuộc hai bên này nên chẳng đoạn.

Từ câu “Nếu đoạn v.v…” trở xuống là đáp cả câu hỏi về người tội thứ hai, thứ ba.

Tuy tạo tội mà chẳng hề đoạn tánh là nói rõ tội bất định. Vì bất định nên được Tam-bồ-đề. Vốn lấy theo nghĩa đã đoạn mà được, nên gọi là Nhất-xiển-đề. Tánh chẳng phải đã đoạn mà lại được, vì sao mà đoạn được? Đã chẳng phải nhất định là có, thì đâu thể ngăn để khỏi đọa. Đây là đáp câu hỏi thứ nhất. Nếu chẳng nhất định có tức là trừ câu hỏi thứ hai. Vả lại, nói đã đoạn rồi mới đắc gọi là Nhất-xiển-đề. Nay nói tánh chẳng phải đã đoạn mà lại được cũng là ngăn trừ câu thứ tư.

Từ câu “Phạm bốn giới trọng v.v…” trở xuống là thứ ba, lại đáp câu hỏi thứ năm, có ba ý:

  1. Nói chung về bất định.
  2. Nói rộng về bất định.
  3. Tổng kết bất định. a/ Văn thứ nhất có bốn đoạn: b/ Người ác bất định.
  4. Nói các pháp bất định.
  5. Nói người thiện bất định.
  6. Nói Như Lai bất định.

Từ câu “Sắc và sắc tướng v.v…” trở xuống là nói về các pháp bất định. Có pháp và dụ. Thứ nhất là pháp thuyết.

Dụ, gồm ba dụ ba hợp, như văn kinh có nói.

Nói cũng có tướng nhất định là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, vì trước gạn hỏi về bất định rằng Như Lai nhập rồi lẽ ra cũng xuất. Thánh thành phàm, tức là vô thường, vô lạc, v.v… ở đây đáp chẳng đúng, trong bất định cũng có tướng nhất định, đó là thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai. Vì thế mà nói là có tướng nhất định.

Từ câu “Tu-đà-hoàn v.v…” trở xuống là , nói về người thiện bất định.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là , nói về Như Lai bất định.

Trong đạo phương tiện thì Như Lai bất định, trong Pháp thân bản địa thì quyết định. Hai đều chẳng đốt cháy được, có hai cách giải thích:

  1. Nói áo lót thân là dụ cho bản địa, lớp ngoài cùng dụ cho Tích ứng. Hai pháp này chẳng diệt.
  2. Cho rằng áo lót thân dụ cho trí Phật quán căn cơ, lớp ngoài cùng dụ cho thần thông ứng vật. Vật cơ vô cùng nên thần thông chẳng cùng tận. Vì thế chẳng cháy.

Đúng nên gọi là thâu y chẳng nên gọi là thấu y. Y này là áo mặc lót trong mình thân gọi là thâu y.

Từ câu “Nên biết v.v…” trở xuống là đoạn hai nói rộng về bất định. Xưa lập một còn một mất để giải thích các câu. Chẳng phải quỷ đến thì mất Pháp thân, chẳng phải chẳng phải quỷ đến thì còn Ứng thân. Nay cho rằng hai phần pháp và ứng là nghĩa nhất định chứ đâu phải bất định.

Hưng Hoàng cho rằng chẳng phải quỷ thì Pháp thân bất định, cho nên Pháp thân mất mà chẳng mất, chẳng phải chẳng phải quỷ là Ứng thân bất định, cho nên Ứng thân còn mà chẳng còn. Còn mà chẳng còn thì có khả năng làm quỷ, làm chẳng phải quỷ. Mất mà chẳng mất thì có khả năng làm chẳng phải quỷ và làm quỷ.

Ở đây cho rằng nghĩa ấy chưa tránh khỏi nhất định, vì sao? Vì quỷ chắc chắn làm chẳng phải quỷ. Chẳng phải quỷ chắc chắn có khả năng làm quỷ. Tuy nói bất định mà cũng gọi là Định.

Nay nói quỷ tức chẳng phải quỷ, cũng tức là chẳng phải qủy chẳng phải chẳng phải quỷ. Chẳng phải quỷ tức là quỷ cũng chẳng phải quỷ chẳng phải chẳng phải quỷ. Chẳng phải quỷ chẳng phải chẳng phải quỷ cũng tức là quỷ chẳng phải quỷ. Là một tức ba, là ba tức một, chẳng phải một chẳng phải ba, một và ba bất định. Đó mới thật là nghĩa bất định. Các câu khác cũng giống như thế.

Nay trước là nêu chương, sau là giải thích.

Sau là giải thích, gồm có hai mươi chương nhưng chỉ giải thích mười sáu chương.

Nói hiện thân ba thước, Hà Tây cho rằng nhà Trưởng giả không có con, chỉ sinh được một đứa bé cao ba thước nhưng chết yểu, cha mẹ vô cùng buồn khổ, tâm thần thờ thẫn. Phật xót thương nên thị hiện thành đứa trẻ. Cha mẹ thấy con thần trí liền hồi tỉnh, nói: “Cha mẹ nghĩ là con đã chết, bây giờ con từ đâu về đây?”. Đáp: “Con từ nơi cõi chết về đây! Do nhân duyên mà tạm hợp thân này, thân này thuộc duyên do bốn đại giả hợp mà thành, quán khắp các duyên thì cái gì là thân?”

Kế lại giảng nói các pháp yếu, khiến tâm mê mờ của Trưởng giả sáng tỏ. Đức Phật lại hiện thân Phật cao ba thước sắc tướng sáng chói. Trưởng giả lúc ấy chứng quả A-na-hàm.

Chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu mà môn thứ mười hai lại giải thích sau cùng. Vì sao? Vì Đức Phật muốn giải thích rộng môn này cho nên mới giữ lại.

Nay nói thêm rằng: trong các môn thì môn hữu lậu vô lậu phàm phu dễ hiểu.

Văn chia làm hai:

  1. Nói chẳng phải hữu lậu, văn lại quá rộng.
  2. Nói chẳng phải vô lậu thì văn quá lược.Rộng và lược so sánh rất dễ thấy.

Thứ nhất nói về chẳng phải hữu lậu, có hai đoạn:

Một, nói về ba lậu.

Hai, nói về bảy lậu.

Hỏi: Vì sao chẳng lấy phiền não của ba cõi làm ba lậu mà lấy Sắc, Vô sắc làm hữu lậu, lấy chung vô minh làm vô minh lậu?

Đáp: Đức Phật nói không nhất định, hoặc chuyển ba lậu làm bốn lưu. Nhưng nói ba lậu là vì dục sâu nặng nên chỉ lập một lậu sắc và vô sắc hợp thành một lậu, vô minh là căn bản chung cho ba cõi nên lập một lậu. Như các sư Số Luận cho rằng lậu là rơi vào sinh tử.

Các sư luận Thành Thật cho rằng lậu tức mất đạo lý. Nay ý kinh thì chỉ nói phiền não.

Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về bảy

lậu, gồm có Kiến, Tư duy, Căn, Ác, Thân cận, Thọ, Niệm. Hai lậu trước là thể của năm lậu. Kiến là lợi sử, Tư là độn sử. Căn là năm căn bên trong, Ác là các pháp ác bên ngoài. Thân cận là người ác. Thọ là nhận lấy, sắc là các pháp bên ngoài v.v…, Niệm là ngày đêm niệm niệm không dừng.

Nay văn không nói về tư lậu, lại ác lậu thì gọi là ly lậu. Năng lìa là đạo, sở lìa là ác. Đầu tiên là giải thích kiến lậu, lẽ ra đầy đủ mười sử nhưng nêu nghi, kiến là muốn nói bốn sử tham, sân, si, mạn có cả kiến tư, còn năm kiến và nghi thì chỉ ở kiến đế. Trong môn Tư duy thì thuộc về mạn.

Văn có hai. Trước nói rộng về tâm nghi, sau nói riêng về kiến sử.

Nghi chẳng phải kiến nhưng nghi và kiến tương quan nhau, nên nói là nghi kiến.

Từ câu “Sinh sáu tâm v.v…” trở xuống là nêu đủ các kiến chấp.

Trang Nghiêm cho rằng chỉ có năm kiến mà chia biên kiến thành đoạn thường nên thành sáu. Khai Thiện nói rằng chắc chắn có Ngã, chắc chắn vô ngã, chưa phải số sáu, chỉ nói chung là chắc chắn. Từ câu ngã thấy là ngã trở xuống v.v… mới thấy số sáu:

1/ Ngã thấy là ngã; 2/ Ngã thấy vô ngã; 3/ Vô ngã thấy là ngã; / Ngã tạo tác; 5/ Ngã lãnh thọ; 6/ Ngã rõ biết.

Một, đối với ngã mà chấp là chân ngã nên nói ngã thấy là ngã.

Hai, chấp không có ngã giả nên nói ngã thấy là vô ngã.

Ba, chấp thân năm ấm có chân ngã nên vô ngã thấy là ngã. Bốn, năm, sáu: Ngã tạo tác v.v… tức là ba thứ tri kiến trong mười sáu tri kiến.

Hà Tây cho rằng chắc chắn có, không phải là hai loại. Ngã thấy là ngã tức vốn chấp có ngã nhưng khi nhập định thấy ánh sáng mầu nhiệm như mặt trời, mặt trăng liền cho chỗ chứng chắc chắn có ngã. Ngã thấy vô ngã tức chấp hiện tại có ngã, quá khứ không có ngã là ngoại đạo đoạn kiến. Vô ngã thấy là ngã, cho rằng loài hữu tình đều vô ngã, lìa năm ấm thì thâý có ngã như lúa, mè v.v… Ngã tạo tác, ngã thọ nhận v.v… nghĩa là trước sau thường có, tức thường kiến cho rằng năng tạo nhân thì ngã năng lãnh thọ quả, cho đến biết rõ.

Từ câu “Phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích căn lậu.

Văn có ba:

  1. Nói phàm phu nhân căn mà khởi lậu.
  2. Nói Bồ-tát chẳng phải như thế.
  3. Kết luận Như Lai là vô lậu.

Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là , nói Bồ tát tuy do căn mà chẳng khởi các lậu.

Hành khổ, có hai cách giải thích:

  1. Cho là hành khổ trong ba khổ, khổ này chung cho ba cõi.
  2. Cho rằng hành là vô thường, khổ là báo, không được nói là một.

Hai mươi lăm dặm dụ cho hai mươi lăm hữu, bát dụ cho sắc và tâm, dầu dụ cho giới, chẳng rơi một giọt dụ cho chẳng phạm một giới, vua dụ cho Phật, quan dụ cho người tu hành, cầm đao theo sau dụ cho vô thường.

Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là kết luận nói Như Lai vô lậu.

Từ câu “Lại có ly lậu v.v…” trở xuống là thứ tư, giải thích ác lậu. Đương thể gọi là ác, theo đạo đối trị thì gọi là ly. Văn có hai: trước, nói về đạo năng lìa; sau, nói về điều ác phải lìa.

Thứ nhất lại có hai:

  1. Nói về Bồ-tát tu hành.
  2. Dẫn xưa chứng cho nay.

Trong văn có nêu năm hạng Pháp sư, nói một lần nghe qua mà trong bảy kiếp chẳng bị đọa. Phẩm Danh Tự Công Đức nói: “Nếu nghe được hai chữ Thường trụ thì đời đời chẳng đọa”.

Nghe có nhiều loại, nếu suy nghĩ sâu xa, như lời nói mà tu hành thì đời đời chẳng đọa. Nếu chẳng suy nghĩ sâu xa đúng như lời dạy mà hành thì chỉ được lợi ích nhỏ. Tám ma, xưa nói bốn điên đảo vô thường, vô lạc v.v… mỗi ma đều có nhân cộng thành tám ma. Hoặc cho rằng bốn ma là phiền não, vô thường v.v… là tám ma.

Từ câu “Ta nhớ v.v…” trở xuống là đoạn hai, dẫn xưa để chứng minh cho nay.

Bài kệ trên các sư xưa cho rằng hai câu trên là nói về quả, hai câu dưới là nói về nhân. Chứng Niết-bàn là quả, dốc lòng nghe nhận là nhân. Trong quả lại có hai việc là được và lìa. Trong đó, chứng Niếtbàn là được, dứt hẳn khổ đau là lìa. Nhân cũng có hai là dốc lòng tức tu hành và vô lượng an vui là được quả. Nói được quả an vui, chẳng phải thường lạc mà là quả an vui trong nhân, do hành nhân là được. Có người bình xét, cho đó là quá cuộc hạn hoàn toàn không quan hệ. Nếu chỉ có thế thì dâu cần bán thân, đâu thể vừa nghe thì thành Phật đạo ngay.

Các Sư Trung Quán cho rằng ý của bài kệ này vô lượng không thể

nói hết được, chứa đựng rất rộng, nghĩa vị chẳng bao giờ cạn hết, lại nêu ra mười nghĩa:

  1. Tam bảo.
  2. Bốn đế.
  3. Ba đức.
  4. Bốn đức.
  5. Bốn câu là sinh bất sinh, v.v…
  6. Bài kệ xưa có nay không.
  7. Bài kệ ở núi Tuyết.
  8. Bốn tất-đàn.
  9. Bài kệ trong Trung luận.
  10. Bốn thứ Phật tánh.

Bài kệ này chứa đựng Tam bảo:

Một câu “Như Lai chứng Niết-bàn” là gồm ý Phật bảo và Pháp bảo. Người năng chứng là Như Lai tức Phật bảo. Pháp sở chứng tức Niết-bàn, là Pháp bảo.

Một câu “dứt hẳn sinh tử” chỉ là trợ ngữ. Câu “Nếu dốc lòng” là Tăng bảo. Nếu dốc lòng nghe tức chúng thừa hành pháp, chẳng lẽ không phải là Tăng bảo ư? Chỉ một câu này mà cũng có hai điều so sánh. Nói dốc lòng cũng có thể cho là Pháp bảo, vì chí quyết mong đến nơi đây, tức đến nghe pháp mà nay lại nói thuộc Tăng. Còn câu “Được vô lượng an vui” cũng là trợ ngữ. Vậy nói về Tam bảo chỉ có hai câu, còn bỏ hai câu.

Nói chứa đựng ý nghĩa Tứ đế:

Chẳng lấy nghĩa đế, chỉ theo hành chứng. Người chứng pháp này là Phật, chứng Niết-bàn tức là chứng diệt. Vì sao biết được? Vì Niếtbàn dịch là Diệt, há chẳng phải là Diệt đế ư?

Câu “Dứt hẳn sinh tử” tức là trừ tap. Tập tức là phiền não và kết nghiệp, nay nói sinh tử cũng là phiền não và kiết nghiệp.

Câu “Nếu dốc lòng nghe nhận” là Đạo đế, do dốc lòng nghe nên chứng đạo.

Câu “Được vô lượng an vui” tức là Khổ đế, vì sao? Vì quả khổ đã dứt thì được quả báo an vui.

Chứa đựng ba đức:

Ba đức là ba mắt trên mặt của trời Ma-hê-thủ-la. Ba mắt này sắp xếp như chữ Y có ba điểm. Như Lai chứng Niết-bàn là đức Pháp thân, dứt hẳn sinh tử là đức Giải thoát. Dốc lòng nghe nhận là đức Bát-nhã. lAi mỗi đức có giải thích thêm, trong phẩm Tứ Y nói về ba đức là Pháp thân, Giải thoát và Bát-nhã. Trong phẩm Tứ Tướng thì nêu Niết-bàn, Giải thoát và Bát-nhã. Dùng Niết-bàn thay Pháp thân. Nay ở đây nói Niết-bàn chẳng lẽ không phải là Pháp thân ư?

Câu “Dứt hẳn sinh tử” là đức Giải thoát, vì có sinh tử thì bị trói buộc không thể Giải thoát. Nay đã dứt trừ thì không còn bị trói buộc, chẳng lẽ không phải là Giải thoát ư?

Dốc lòng nghe nhận tức Bát-nhã, do nghe pháp mà sinh trí tuệ, trí tuệ đã sinh chẳng lẽ không phải là Bát-nhã ư? Nếu chẳng dốc lòng thì đâu thể sinh trí tuệ. Nay đã dốc lòng nghe thì Bát-nhã sinh, lại được pháp lạc tự vui, đó chẳng phải là niềm vui của thế gian.

Chứa đựng ý nghĩa bốn đức:

Bốn đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Như Lai chứng Niết-bàn tức là đức thường.

Hỏi: Đó là Như Lai Thường hay Niết-bàn thường?

Đáp: Nay nói nhân pháp đều Thường, Văn trước có ghi:

“Vì thường nên nhân cũng Thường”. Nói “dứt hẳn” là đức Tịnh. Sinh tử là pháp ác, đầy dẫy sự bất tịnh, đã dứt bỏ bất tịnh thì được thanh tịnh, đó chẳng phải là đức Tịnh ư? Nói: “Dốc lòng nghe nhận” tức là đức Ngã, có ngã mới nghe, không có thì ai nghe. Nói “thường được vô lượng vui” là đức Lạc, cũng có thể cho câu này là lặp lại đức Thường.

Bốn câu sinh mà chẳng sinh:

Trước đã giải thích rõ ràng rồi, nay chẳng cần giải thích lại.

Bài kệ ứng với xưa có nay không:

Câu “Như Lai chứng Niết-bàn” tức là nói xưa có nay không, nay đã chứng tức nay mới có.

Câu “Dứt hẳn” tức là câu xưa có nay không. Tức khi Như Lai chưa dứt sinh tử thì còn phiền não, đó là xưa có; đã chứng Pháp thân không còn phiền não, chẳng phải là “nay không” ư? Hai câu sau không thể phân chia.

“Chỉ ba đời này” là không có việc ấy, cho nên hợp thành hai câu: “Ba đời có pháp, là không có việc ấy”. Thế nào là pháp ba đời? Chỉ chứng pháp Niết-bàn thường lạc này tức là ba đời này không có việc ấy.

Nói về bài kệ núi Tuyết:

Vì văn có xen lẫn qua lại chút ít, cần phải khéo phân biệt. Hai câu đầu chẳng hợp văn nghĩa, ở đây chỉ lấy hai câu kệ sau mà không hoàn toàn ứng hợp. Bốn câu ở đây chỉ hợp với hai câu nay mà thôi. Trong đó câu “Sinh diệt đã diệt” là hợp với câu “Dứt hẳn sinh tử”. Câu “Vắng lặng an vui” tức tương ưng câu “Thường được vô lượng vui”. Hai bài kệ này nếu đối chiếu nhau thì hai bên đều có chỗ thiếu sót, như từ bài kệ này đối chiếu với bài kệ kia, thì bài này không có ý “Các hành pháp vô thường là pháp sinh diệt”, nếu từ bài kệ kia đối chiếu với bài kệ này thì bài kệ kia không có ý “Như Lai chứng Niết-bàn, nếu dốc lòng nghe nhận”.

Ý bốn Tất-đàn:

Câu “Như Lai chứng Niết-bàn” tức Đệ nhất nghĩa đế vì có lúc nói Niết-bàn là Đệ nhất nghĩa. “Dứt hẳn sinh tử” là Đối trị Tất-đàn, Trung Luận nói: “Dùng ba Đế đối trị ba lậu” nay dứt sinh tử chẳng phải là đối trị ư? Câu “Nếu dốc lòng nghe nhận” là Thế giới Tất-đàn. Trong Thế giới Tất-đàn hoặc nói có ngã, hoặc nói vô ngã, tất cả đều dốc lòng nghe nhận ngã và vô ngã này. Nói “Thường được vô lượng vui” tức các Vị nhân Tất-đàn. Trung Luận nói: “Một pháp chia làm hai loại mà nói, nếu người chấp ngã thì nói vô ngã, người chấp vô ngã thì nói có ngã; người chấp khổ thì nói vui, chấp vui thì nói khổ”. Nay ở đây trừ chấp vô thường, khổ, nên nói các pháp Thường vui.

Kệ Trung luận:

Câu “Pháp do nhân duyên sinh” tức là Như Lai chứng Niết-bàn chỉ là pháp nhân duyên, nếu chẳng phải nhân duyên thì thành nghĩa định tánh.

Câu “Ta nói đó là không” tức là “Dứt hẳn sinh tử” đã dứt sinh tử cho nên không.

Câu “Cũng gọi là giả danh” tức “dốc lòng nghe nhận” vì có giả ngã mới có nghe nhận.

Câu “Cũng là nghĩa Trung đạo” tức là “Thường được vô lượng vui”. Trung đạo tức chẳng phải có, chẳng phải không, cũng chẳng phải thường chẳng phải vô thường, kết luận là Thường. Không khổ không vui, kết luận là đại lạc. Nay Thường Lạc ở đây là thường lạc của Trung đạo.

Bốn thứ Phật tánh:

Trừ chánh nhân chỉ lấy quả quả, nhân nhân, bốn duyên Phật tánh. Như Lai chứng Niết-bàn tức là quả quả tánh. Nên văn ở sau ghi: “Quả quả là đại Niết-bàn”

Sinh tử tức nhân nhân tánh. Văn ở sau ghi: “Pháp do mười hai nhân duyên sinh cũng dứt mười hai nhân duyên, phiền não dứt hết, sinh quán trí giải ngộ”.

Đó chẳng phải là nhân nhân ư? Dốc lòng nghe nhận tức là liễu

nhân tánh. Ba mươi phẩm, sáu Độ, bốn Đẳng tâm đều là liễu nhân; thường được vô lượng vui tức quả Bồ-đề. Vì thường lạc chẳng lẽ không phải là quả tánh ư?

Các sư Trung Quán nói: “Suy nghĩ như thế thì được mười nghĩa lớn”.

Cho nên biết lý ấy vô lượng chẳng thể nói hết. Trong phẩm PhạmHạnh ở trước nói là đau khổ, ở đây nói chẳng đau khổ. Các sư xưa cho rằng đó chỉ là nói giai vị sâu cạn mà thôi.

Kế là nói về điều ác phải xa lìa. Các thú dữ như voi dữ, ngựa dữ, v.v… thường làm hại người, là sinh khởi niệm ác, khởi động thân miệng ác; thành trì, nhà cửa là vật vô tình, làm sao có thể làm ác? Như ở bên thành cầm cung tên, canh gác, chặn đường, chẳng lẽ không phải làm cho người sinh tâm giết hại. Nhà ác cũng giống như thế, ở đây thuộc duyên ác. Nói tri thức xấu ác là kẻ chuyên nói lời ngon ngọt dối trá, dối gạt người, khiến người làm ác nên phải xa lìa.

Kế là giải thích thân cận lậu, như văn kinh có nói.

Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn sáu, giải thích thọ lậu. Như văn kinh có nói: Giác tức là thọ, phẩm Thánh Hạnh ghi: “Thọ là tướng giác”. Nhân ba thọ mà sau khởi ba phiền não, vì thế gọi là thọ lậu. Trong đoạn văn trên có giải thích các từ như Sa-môn v.v… tất cả đều có nhiều nghĩa, không nên chấp nhất định một nghĩa, ở đây nêu sáu điều khó, khác với phẩm Thuần-đà. Ở trước lấy Đàn (bố thí) làm điều khó. Phẩm Ai Thán lấy quả A-la-hán làm điều khó, ở đây cho tâm kinh sợ là điều khó. Vì sao ba phẩm nói về điều khó đều có năm điều giống và một điều khác? Vì phẩm Thuần-đà đối với thế tục nên nói lần cúng dường cuối cùng là khó. Phẩm Ai Thán đối với đạo nên nói quả A-la-hán đạt được là khó. Trong đây là đối chung chấp có phàm phu nên nói sinh tâm kinh sợ là khó.

 

PHẦN 3

Đầu quyển giải thích niệm lậu thứ bảy, có hai đoạn:

Trước nói về tướng hữu lậu; sau nói về Bồ-tát vô lậu có khả năng dứt trừ niệm lậu.

Hành tâm tà niệm là lậu, theo lý phải đầy đủ sinh niệm lậu trong ba thọ. Nay chỉ nêu sinh niệm lậu trong khổ thọ, sinh các tội lỗi tham, sân, v.v…

Từ câu Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Bồ-tát vô lậu, gồm có pháp, dụ và kết.

Đầu tiên nêu một lời về pháp thuyết để nói Bồ-tát suy nghĩ dứt trừ niệm lậu, phàm phu ngu si chẳng thể suy nghĩ để dứt các lậu.

Từ câu “Thí như có vị vua v.v…” trở xuống là phần dụ thuyết. Có hai là dụ và hợp, hoặc có bảy, tám, chín dụ khác nhau. Nếu đối chiếu với văn hợp ở sau thì nên nhất định là tám dụ:

  1. Dụ bốn rắn.
  2. Dụ năm người Chiên-đà-la.
  3. Dụ dối gạt người thân.. Dụ xóm làng.
  4. Dụ sáu tên giặc.
  5. Dụ sông lớn.
  6. Dụ bè cỏ.
  7. Dụ đến bờ.

– Gom tám dụ thành ba nhóm:

  1. Sáu dụ đầu nói về duyên của đạo.
  2. Một dụ kế nói về tu đạo.
  3. Một dụ sau nói về đắc quả.

Nói vua, có ba cách giải:

  1. Phật nói thân chúng sinh gồm có bốn đại.
  2. Vô minh tạo thành thân bốn đại của chúng sinh.
  3. Kinh này nói bốn đại của chúng sinh chống trái, tàn hại lẫn nhau như rắn độc.

Rương dụ cho thân, ăn uống dụ cho tắm rửa. Nói theo pháp thì y cứ theo các phẩm ác mà định tội nặng nhẹ.

Chém ở giữa là dứt gốc thiện, dứt tuệ mạng. Vì việc ấy rõ ràng cho nên nói ở giữa chợ.

Lệnh nghiêm tức răn điều ác chớ làm, khuyên nên làm điều thiện. Chạy trốn nghĩa là nếu được chân giải thì đường hoàng mà đi. Nay mới hàng phục các hoặc nên nói là chạy trốn.

Kế là từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là dụ năm người Chiên-đàla. Năm Chiên-đà-la dụ cho năm ấm. Đao dụ cho vô thường khổ. Quay đầu, ưa thích Niết-bàn là chạy trốn, nhàm chán sinh tử là quay đầu.

Thứ ba từ câu “Năm kẻ kia v.v…” trở xuống là dụ cho dối gạt người thân. Giấu đao tức dùng ngã luống dối che lấp vô ngã, vọng lạc che lấp khổ. Thầm sai một người, một người là dụ cho ái. Tâm hành của năm ấm có tham ái này làm mê hoặc chúng sinh nên dụ giả làm người thân thiện.

Thứ tư từ câu “Người kia v.v…” trở xuống là dụ cho xóm làng. Dụ cho năm căn, năm căn là nơi y cứ của thức. Như người sống trong xóm làng. Bình xưa cho là vật chứa có hai miệng, dụ cho năm căn, trọng tức là đạp, tự thư âm là hồng. Nói không có người tức là nhân không, không vật tức là pháp không, ngồi xuống nền đất ức trụ tâm trong cảnh không.

Thứ năm, từ câu “Nghe trên hư không v.v…” trở xuống là dụ cho sáu tên giặc. Dụ cho sáu trần cướp mất pháp thiện. Tiếng nói trên hư không là dụ trong lời Phật dạy có nói về sáu trần. Đêm nay sẽ đến là dụ cho vô minh tối tăm che phủ sáu trần.

Thứ sáu, từ câu “Trên đường đi v.v…” trở xuống là dụ cho các hoặc. Các chúng sinh ở trong phiền não đâu thể nói chỉ gặp có một. Nhưng vì chưa tu đạo thì chưa biết tội lỗi của hoặc. Nay chuyên tâm tu tập mới biết đó là chướng ngại nên gọi là gặp. Đoạn và thường xung đột nhau dụ như nước chảy xiết.

Thứ bảy, từ câu “Nên dùng v.v…” trở xuống là dụ chiếc bè với việc tu đạo. Nghĩ đoạn, liền đẩy chiếc bè xuống sông, nằm trên đó, tay chèo chân đạp nhắm thẳng dòng bơi qua bờ kia.

Tay chèo, chân đạp dụ cho dụng của đạo. Nói bè không bảo đảm chẳng thể nương gá là nghĩ rằng pháp thiện yếu kém chẳng thể tự qua. Thân nằm trên bè tức tâm nương vào pháp thiện ấy, thẳng dòng mà qua. Cỏ cây dụ cho các pháp thiện, hai tay dụ cho hai trí quyền thật, hai chân dụ cho giới và định.

Thứ tám, từ câu “Sang được v.v…” trở xuống là dụ cho việc được quả Niết-bàn. Bên bờ này hay giữa dòng đều có nhiều việc đáng sợ, đã sang đến bờ kia, đạt được quả vị, sẽ không còn lo sợ nữa.

Kế là hợp với tám dụ. Đầu tiên là hợp với dụ bốn rắn độc, tức bốn đại.

Bốn đại có trong và ngoài. Bốn đại trong thân hợp với bốn rắn độc. Bốn đại cùng tạo thành nhãn căn thì hợp với Kiến độc; bốn đại cùng tạo thành thân căn thì hợp với Xúc độc; bốn đại tạo thành tỷ căn thì hợp với Khí độc; bốn đại tạo thành thiện căn thì hợp với Xỉ độc.

Kế là hợp với năm người Chiên-đà-la, như văn kinh có ghi.

Thứ ba là hợp nói dối gạt làm người thân.

Thân chỉ là ái, ái thường xúc xiểm, phỉnh dụ làm hại chúng sinh nhưng ba tâm trước chẳng thể sinh ái, chỉ có hành tâm mới sinh ra thân ái. Năm ấm đều có làm ác, mà khởi ái thì chỉ có ở hành tâm, vì thế nói là một oán. Văn kinh nói: “Oán dối làm người thân có thỉ có chung; tâm ái chẳng phải như thế, vô thỉ vô chung”. Đoạn này có hai nghĩa:

1/ Như mười hai nhân duyên giống như bánh xe không có thỉ chung. Tâm ái cũng như thế, không có thỉ chung. Nhưng mười hai nhân duyên lại có thỉ chung, tức vô minh là thỉ, già chết là chung. Về nghĩa không thỉ chung, suy tìm chỗ phát khởi của ái không được là vô thỉ, chẳng biết đi về đâu là nghĩa vô chung.

2/ Hợp dụ thứ tư. Xóm làng hoang vắng là dụ cho sáu nhập bên trong. Đây là nơi người thế gian tu tập. Vì chẳng có người ở, nên gọi là hoang vắng. Sáu căn là nơi nương gá của ngã, tìm cầu chẳng thật có nên nói là không. Như người bên ngoài nhìn vào nhà cho bên trong là có người, đến khi vào nhà thì chẳng thấy gì. Bồ-tát cũng như thế, quán thấy sáu căn đều không, vô ngã, nhưng sáu căn này cùng với sáu trần trong ngoài hợp thành mười hai xứ. Sáu căn còn gọi là sáu tình cũng gọi là sáu thức. Căn lấy năng sinh làm nghĩa, tình là từ sinh thức mà đặt tên. Nhưng sáu căn không có tình, thức thì có tình, vì từ năng mà đặt tên nên gọi là sáu tình. Thức lấy hòa hợp làm nghĩa tức căn trần hòa hợp mà sinh ra thức.

Hợp dụ thứ năm.

Sáu tên giặc dụ cho sáu trần từ bên ngoài vào, cướp đoạt tài vật của người. Còn sáu trần thì cướp pháp thiện của người. Nhưng sáu trần sinh ba pháp: bốn việc thì sinh ra phiền não sâu kín nên gọi là bốn vi; còn pháp được sinh ra là Thô nên gọi là bốn việc. Bốn đại sắc, hương, vị, xúc; mỗi đại đều có bốn, cũng không đủ bốn. Năm việc sinh gọi là năm dục; nói năm việc tức bốn việc trên thêm thanh trần. Nói sáu việc sinh thì gọi là sáu trần, trần là tên của các căn vẩn đục.

Kế là hợp dụ thứ sáu, một con sông.

Sông là dụ cho phiền não, nhưng ở đây không nói hai sông, sáu sông là vì chẳng rảnh để đồng kể ra hết. Như sông sinh tử, sông Niếtbàn, sông pháp thiện, sông Phật tánh v.v… Trong kinh này nói ba con sông khác nhau. Như phẩm Sư-tử thì nói sông sinh tử; phẩm Ca-diếp thì nói sông Niết-bàn; phẩm này thì nói sông phiền não.

Từ câu “Đã đến bờ sông v.v…” trở xuống là hợp với dụ thứ bảy.

Giới, định, tuệ là ba phẩm.

Từ câu “Đến bờ kia v.v…” trở xuống là hợp dụ thứ tám. Đến bờ kia là dụ thường, lạc, ngã, tịnh.

Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích nửa câu “chẳng phải hữu lậu”.

Như Lai thường đi trong hữu lậu. Các sư Số Luận cho rằng đều phán định theo cảnh, nếu duyên cảnh hữu lậu thì gọi là hữu lậu; nếu duyên cảnh vô lậu thì gọi là vô lậu. Ở đây nói Như Lai hữu lậu dường như các sư Số Luận đã giải thích. Vì sao? Vì kinh nói Như Lai thường hành trong hữu lậu, hữu lậu tức hai mươi lăm Hữu. Cho nên biết từ cảnh hai mươi lăm hữu mà đặt tên.

Các sư luận Thành Thật thì cho là theo tâm, đâu có bao giờ theo cảnh? Ngã thể thanh tịnh khi không có phiền não, dù duyên với cảnh hữu lậu. Hai cách giải thích này là gốc của sự tranh luận. Trong đây nói đủ Như Lai chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu. Chẳng phải hữu lậu là nói Như Lai không có các lậu, chẳng phải vô lậu là nói Như Lai còn hữu lậu. Hữu lậu, vô lậu này là muốn nói Phật chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu; hữu lậu vô lậu đều chẳng đúng, chứ không hề nói là hữu lậu vô lậu.

Từ câu “Vì nhân duyên này v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận bất định.

Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, lãnh giải.

Từ câu “Như Phật v.v…” trở xuống là phần hai, Bồ-tát Đức Vương lại thỉnh đáp câu hỏi về quả ở trước. Câu hỏi cách ở trước xa nên phải nêu lên lại. Y cứ vào phần hai hỏi cả về nhân quả, trong đó trước đáp cả nhân quả, kế là đáp riêng nhân quả. Trong phần đáp riêng, Như Lai đã đáp rộng về nhân. Nay Bồ-tát Đức Vương lại nêu câu hỏi về quả, văn có hai. Trước là nêu câu hỏi.

Từ câu “Đức Phật v.v…” trở xuống là ý thứ hai, Như Lai đáp, trước khen câu hỏi, sau là chánh đáp.

Khen câu hỏi, trong đó có hai ý:

  1. Khen nhớ kỹ chẳng quên, đã qua rồi mà còn nhớ câu hỏi ở trước để xin Đức Phật trả lời, vì nói là “Được niệm tổng trì”.
  2. Trong Niết-bàn chứa đựng rất nhiều nghĩa, nay thầy muốn thọ trì tất cả nên nói là “Được niệm tổng trì”.

Từ câu “Như người đời v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh đáp, gồm có hai:

  1. Nêu đại tiểu đối đãi nhau là y cứ theo nghĩa tương đãi để đáp.
  2. Y cứ theo nghĩa dứt bặt đối đãi để đáp câu hỏi Đại Niết-bàn.

Thứ nhất nói về tương đãi gồm mười cặp. Nghĩa tuyệt đãi như văn sau dụ như hư không chẳng do Tiểu không mà gọi là Đại không. Niếtbàn cũng như thế, chẳng do tướng Tiểu mà gọi là tướng Đại. Trong văn nói về tương đãi có hai phần, trước là nêu mười cặp là mười dụ, sau là hợp.

Kế là từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích hai chương: trước giải thích Tiểu, kế là giải thích Đại. Giải thích Tiểu có hai:

1. Nêu năm việc có chút nghĩa diệt khổ là Niết-bàn, chẳng phải Đại Niết-bàn.

Từ câu “kẻ phàm phu v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu diệt đoạn phục gọi là Niết-bàn. Trước nêu ra hai môn phàm Thánh.

Kế là giải thích, có hai: Trước là giải thích; sau là giải thích thành tựu ý trên.

Từ câu “Do thế tục v.v…” trở xuống là giải thích phàm phu nói trên. Từ câu “Hoặc do Thánh đạo v.v…” trở xuống là giải thích Thanh văn. Thế tục là chỉ cho những người được thiền định, hàng phục các hoặc, thuộc về ngoại đạo. Thánh đạo tức các vị Tiểu thừa dứt hoặc.

Từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích để hoàn thành hai ý trên.

Lại sinh phiền não tức là giải thích phàm phu. Nói có tập khí là giải thích Tiểu thừa. Sau đó văn kinh nêu ra nghĩa tập khí. Nói chung mười sử đều có tập khí, như Xá-lợi-phất, Nan-đà, Tất-lăng-già v.v… còn có tập khí. Nay chỉ y cứ theo nghĩa kiến để nói về tập (thói quen). Không có ngã, không có lạc, chỉ có thường, tịnh. Đây là cho thường và tịnh, nếu đoạt thì không có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Từ câu “Thường, Lạc, Ngã, Tịnh v.v…” trở xuống có ba câu, giải thích môn Đại Niết-bàn.

Từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu dụ để hợp. Gồm mười dụ hợp nhưng chỉ có bảy dụ, còn ba dụ thì hợp chung, tức ba dụ vua, thành và địa cộng thành một hợp. Vì ba việc này tương quan nhau, như vua thì có thành, thành thì có địa, nghĩa ý tương quan và phụ thuộc nhau. Lại trời, người cũng cùng hợp nhau. Trong phần hợp riêng, trước hợp với biển, kế là hợp với sông.

Ba, là hợp với núi.

Ma-ha-na-già và Bát-kiền-đà: Đại luận gọi là Đại long, Đại tượng là các lực sĩ ở cõi trời, Lương Vũ Đế dịch là Cực tráng.

Từ câu “Nơi mà v.v…” trở xuống là thứ tư, hợp ba dụ: đại vương, đại thành, và đại địa.

Từ câu “Bốn thứ binh v.v…” trở xuống là đoạn năm, hợp dụ thứ bảy, chúng sinh và đại chúng sinh.

Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là hợp với các dụ là nhân, đại nhân; thiên, đại thiên.

“Chỉ dạy v.v…” trở xuống là phần hai, giải thích Đại Niết-bàn tức là y theo dứt bặt đối đãi để giải thích.

Văn có hai là chung và riêng. Giải thích chung có hai: một, là không thể nói.

Kế là nói về có thể nói.

2. Kế là trong phần giải thích riêng chỉ y cứ theo ba đức mà chẳng nói thường là vì:

  1. Cho rằng trước khai tông đã nói thường rồi nên ở đây lược qua chẳng nói.
  2. Cho rằng phẩm Danh Tự ghi: “Đại là Thường”, ở đây lại nói về Đại nên chẳng cần nói về Thường.

Y cứ theo ba đức, mỗi mỗi cũng có hai. Thứ nhất nói đại ngã, có hai là y cứ Chẳng thể nghĩ bàn để giải thích Đại và y cứ nhân duyên để giải thích Đại, tức có thể nói và không thể nói.

Vì có đại ngã nên gọi là Đại Niết-bàn, lại nói Niết-bàn vô ngã.

Xưa có hai cách giải thích:

  1. Cho rằng vô ngã tức dứt bặt tên gọi, thầm hợp với chân. Niếtbàn là vô ngã.
  2. Nói vô ngã, trong Niết-bàn thì vô ngã là không có vọng ngã sinh tử, có ngã tức có ngã thường lạc.

Các sư Trung Quán hỏi về hai cách giải: Nếu nói dứt bặt tên gọi, thầm hợp với chân là vô ngã. Vậy lẽ ra bặt danh hợp chân cũng gọi là vô thường. Kia giải rằng “Chẳng được nói vô thường, vì Niết-bàn là thường”. Cho nên thầm hợp với chân, dứt bặt bốn danh cũng là vô thường. Hỏi thuyết thứ hai “Đã nói vô ngã trong sinh tử thì cũng nên nói vô thường trong sinh tử”.

  • Kia hỏi lại: Trong sinh tử cái gì là thường? Vậy trong sinh tử cái gì là ngã?
  • Nếu kia giải thích rằng trong sinh tử không có chân ngã mà có giả ngã đồng thời nói không có ngưng nhiên thường mà có tương tục thường, thế thì chẳng những không có ngã trong sinh tử mà cũng không có thường trong sinh tử. Điều này thật vô cùng.

Tám tự tại ngã: một là một và nhiều; hai là lớn và nhỏ; ba là khinh trọng; bốn là sắc tâm; năm là căn; sáu là chứng đắc; bảy là nói; tám là thấy. Như văn có ghi.

Kế là từ câu “Thí như v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích nhiều nhân duyên nên gọi là Đại ngã.

Kế là nói đại lạc. Văn có hai Một, là nói đại lạc không thể nói; hai, nhiều nhân duyên là đại lạc.

Thứ nhất, giải thích bốn lạc; một là nói về lạc, và ba lần “lại nữa” nói về lạc chẳng phải chẳng lạc.

Thứ hai, từ câu “Thứ hai, là đại tịch tĩnh v.v…” trở xuống là nói không động không tĩnh là đại tịch tĩnh, là lạc.

Thứ ba từ câu “Vì nhất thiết trí v.v…” trở xuống là giải thích chẳng biết chẳng phải không biết là đại tri, đó là lạc.

Thứ tư là giải thích thân chẳng hoại.

Tức là thân chẳng phải sinh tử chẳng phải Niết-bàn, chẳng phải hoạn, nên gọi là đại lạc.

Kế là từ câu “Danh tự v.v…” trở xuống là đoạn hai, dùng có nhân duyên đối với không có nhân duyên để giải thích. Vì thế chia làm hai phần là có nhân và vô nhân. Thứ nhất nói có nhân duyên, sau là nói không có nhân duyên. Niết-bàn đồng với không có nhân duyên, đó lại là ý dứt bặt đối đãi đã nói ở trước.

Nói Ca ca là tiếng chim, Cứu cứu là tiếng kêu của gà, Đát đát là tiếng kêu của chim trĩ.

Man-đà, Hà Tây gọi là Mạn-đà-bà, bản Phạm nói một âm chỉ cho hai vật, một là tòa cao nhà xấu; hai là người dịch kinh nói ở đây lại là điện đường và thức uống. Tát-bà-xa-đa cho rằng tựa như ngựa và rau cần, một âm mà hai tên. Để-la-bà-di là chim yến và chim sẻ, cùng một âm mà hai tên.

Kế là từ câu “Thí như có pháp v.v…” trở xuống là thứ ba, y cứ theo nghĩa không thể lường để giải thích Tịnh.

Trong phần giải thích ở trước, văn nêu nhiều nhân duyên nhưng văn ở đây thì lược.

Kế là nói vì thuần tịnh nên gọi là Đại. Sau là giải thích nghĩa Tịnh.

Nêu bốn nghĩa tịnh, như văn kinh đã ghi.

“Người thiện nam là tên gọi, v.v…” trở xuống là tổng kết chương ba.

 

PHẦN – ĐẦU

Đầu quyển nói về công đức thứ hai. Có người giải thích mười công đức, mỗi công đức đều có nói về thể, cho rằng công đức đầu tiên dùng năm việc làm thể. Nay công đức này lấy năm thông làm thể. Ở đây cho rằng chẳng phải như thế. Văn kinh có ghi: “Vì được năng lực oai thần của Đại Niết-bàn”.

Nên biết mười công đức đều lấy Niết-bàn làm thể, tùy theo sự mà có nhiều loại khác nhau. Thể là gốc, đâu có theo cành lá để nói về mười công đức? Năm thông đều y cứ theo vô phân biệt mà phân biệt mười loại, năm loại. Xưa nói công đức thứ nhất sâu, công đức thứ hai cạn. Chẳng đúng như thế, ở trên dùng bốn câu để phân tích nhân thì cho là sâu; ở đây nói thẳng vào nhân thì cho là cạn. Nếu muốn chia đây thành bốn câu thì đó là chẳng đắc mà đắc, đắc mà chẳng đắc, chẳng đắc là chẳng đắc và đắc là đắc. Các môn khác cũng thế, đâu có gì là cạn, v.v…

Xưa nói Đại thừa khác Tiểu thừa, chỉ có Phật mới lậu tận. Bồ-tát là người ở giai vị nhân nên chỉ nói năm Thông, chẳng nói lậu tận. Đó mới chỉ là nói qua dùng nhân để nói quả; nếu nói đủ thì chỉ có Phật, Thế Tôn mới có Thiên nhãn (mắt trời) chân thật, chẳng dùng hai tướng để thấy cõi Phật. Tha tâm thông, Túc mạng thông, rốt ráo chỉ có Phật mới đạt được. Bồ-tát đã từng phần được năm thông, vì sao chẳng nói phần đắc vô lậu. Trong văn này tuy nói năm chương nhưng ý đầy đủ sáu Thông. Xưa cho rằng câu “chẳng đắc mà đắc” là nêu chung năm thông. Nay nói rằng chẳng đúng như thế. “Chẳng được mà được” là Đại Niếtbàn, Đại Niết-bàn là Phật tánh Trung đạo và vô lậu của Phi hữu lậu, phi vô lậu. Cho nên văn kinh nói “chẳng phải ngoại đạo” tức chẳng phải hữu lậu; “chẳng phải Nhị thừa” tức chẳng phải vô lậu mà đạt được Đại Niết-bàn tức là vô lậu của phi hữu lậu phi vô lậu. Giải thích rằng nói thần thông chẳng phải như mười tám thứ biến hóa của Tiểu thừa; nói Thần tức thiên tâm, Thông tức là tuệ tánh. Tuệ thiên nhiên tức Trung đạo lìa hai bên lậu, vô lậu, đó gọi là Đại Niết-bàn. Chỉ cho đây là vô lậu thông.

Nói thêm rằng nghiệm xét mười công đức là chứng. Văn đầu tiên đã nói biết tạng sâu kín há chẳng thể phần chứng sáu Thông ư? Cho nên biết văn nói về đức đều quán thông nhau mà luận, chẳng riêng mà riêng nên mười tướng khác nhau, riêng mà chẳng riêng nên đồng là một Niết-bàn, vì thế đối với các địa cũng chẳng được sai lầm, huống chi nghĩa mười địa chung cho Viên và Biệt. Biệt mà chẳng biệt tức là nghĩa viên; chẳng Biệt mà Biệt tức nghĩa Biệt. Nếu theo ý này thì lấy mỗi pháp môn trong mười đức này hợp với mười địa, dùng pháp môn đới viên để giải thích Thông, Biệt thì ý nghĩa càng sáng tỏ thêm, chính xác thêm. Như thế thì hợp với kinh này, hợp với năm thời, hợp với các giáo, hợp với cơ hội.

Văn có bốn đoạn: nêu lên, trình bày chương, giải thích và kết luận.

Nêu sáu danh đã khác Tiểu thừa, mà sáu thông cũng chẳng đồng với họ. Văn kinh giải thích mỗi tên gọi đều có phân biệt dứt trừ; nêu các tên gọi tuy khác nhau nhưng nay chỉ cho văn này cũng gọi là sáu thông. Trong đó, chẳng đắc mà đắc là Lậu tận thông; chẳng nghe mà nghe là Thiên nhĩ thông; chẳng thấy mà thấy là Thiên nhãn thông; chẳng đến mà đến là như ý thông; chẳng biết mà biết là Tha tâm và Túc mạng thông.

Thứ ba là giải thích. Văn có năm đoạn nhưng phần nêu chương và giải thích có chút phần không theo thứ lớp, đó là do duyên nghi khác nhau. Thứ nhất, là chương chẳng được mà được, gồm có ba: một là nêu lên; hai là dứt trừ để hiển bày; ba là kết luận.

Nêu thần thông: Thần là Đại Niết-bàn, là lý thiên nhiên. Lý này dung thông, tự tại vô ngại nên gọi là Thần thông. Tên tuy đồng mà lý thì rất khác nhau. Nêu phân biệt dứt trừ phàm phu và Tiểu thừa, hiển bày Trung đạo tròn đầy tự tại, cho nên biết lậu tận mới gọi là Thần thông.

Từ câu “Thần thông v.v…” trở xuống là dứt trừ để hiển bày, gồm có nêu lên và giải thích.

Giải thích có hai là dứt trừ điều chẳng đúng và hiển bày điều đúng.

Đầu tiên là dứt bỏ ngoại đạo và Nhị thừa, như văn kinh đã ghi.

Kế là hiển bày điều đúng, gồm có hai: Một là nói trong một tâm đầy đủ viên mãn, như văn kinh có nói. Thứ hai, hiển bày thân tâm tự tại, đầy đủ, là y cứ theo thể viên, tự tại nói về diệu dụng. Văn nói về tự tại có hai: một là phân biệt dứt trừ chẳng tự tại. Kế là nói về tự tại.

Thứ ba là kết luận. Như văn kinh ghi có thể tự hiểu.

Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là giải thích chẳng đến mà đến, tức là Thân thông. Văn có ba: một, là nói về các cõi xa.

Thứ hai, phân biệt khác với Nhị thừa.

Thứ ba, là nói về tự tại. Như văn kinh có ghi.

Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là đoạn ba giải thích chẳng nghe mà nghe tức Thiên nhĩ thông. Văn có hai phần là giải thích và nói về nghĩa. Giải thích có bốn ý là tu, đắc, phân biệt và không chấp đắm. Hai ý trước như văn kinh có ghi.

Nói chuyển tu thì được nhĩ căn kỳ lạ, tức là nói tu đắc đều khác Tiểu thừa và ngoại đạo. Chuyển tu tức là tu Đại Niết-bàn tâm vô ngại tự tại. Tuy nghe âm thanh mà không nghĩ là âm thanh, đó gọi là chuyển tu, được nhĩ căn khác lạ, chẳng giống như Tiểu thừa.

Thứ tư là nói về không chấp đắm, nói tướng chủ, tướng y chẳng đồng với ngoại đạo Đà-phiếu-cầu-na. Chẳng tạo ra tướng quả v.v… tức chẳng lấy thiền định làm nhân, thần thông làm quả, đó phân biệt khác với Tiểu thừa. Các câu khác có thể tự biết.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghĩa. Có hai phen hỏi đáp. Thứ nhất là hỏi, có hai là lãnh chỉ và kính bác bỏ ý Phật.

Từ câu “Vì sao?” v.v… trở xuống là gạn hỏi hai câu: một, là âm thanh thiện; hai, là hỏi về âm thanh ác, đều hỏi về tướng định.

Phật đáp, có hai ý: một là khen ngợi câu hỏi; hai là chánh đáp.

Chánh đáp có hai: một, là đáp chung; hai, là đáp riêng. Đáp chung lại chia làm hai: một, là nói đều bất định; hai, là nói định, lại là định trong bất định. Thứ nhất có hai lớp, đều trước là pháp, kế là nêu dụ, sau là kết.

Kế là từ câu “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là phần đáp riêng, có hai: một, là đáp câu hỏi về âm thanh thiện.

Kế là trả lời về âm thanh ác.

Đó là muốn nói nguyên do chẳng có liên quan đến tiếng ác.

Từ câu “Bạch Thế Tôn!” trở xuống là hỏi đáp thứ hai, trước là hỏi, sau đáp, như văn kinh có ghi.

Từ câu “Thế nào là xưa chẳng thấy mà nay được thấy?” v.v… trở xuống là phần thứ tư giải thích chẳng thấy mà thấy, tức Thiên nhãn thông. Văn có sáu đoạn: tu, đắc, phân biệt, không chấp đắm, nói về biết khác, kết luận.

Ở đây có một vài câu nói về “biết”, nhưng chẳng phải “biết” ở sau. Đây chỉ là mượn biết để nói rõ về thấy mà thôi.

Văn kết luận chính là nhờ vào văn mới nói về Thiên nhãn để giúp cho kết luận, vì là bất cộng.

Từ câu “Này thiện nam!” v.v… trở xuống là thứ năm, giải thích biết mà chẳng biết, tức Tha tâm thông và Túc mạng thông. Văn có bốn đoạn:

  1. Biết tâm người.
  2. Biết túc mạng.
  3. Lặp lại về tha tâm.

. Từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là kết luận.

Thứ nhất là tha tâm, có hai ý: Trước là biết tha tâm, kế là biết Phật tánh.

 

PHẦN – CUỐI

Từ câu “Lại nữa v.v…” trở xuống là nói về biết rõ Túc mạng. Văn kinh có hai: Một, là chánh thức nói về Túc mạng.

Kế là, nghĩ nhớ quá khứ, phân biệt khác lạ y cứ theo trước có thể biết; ở đây lược không nói đủ.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích lại về Tha tâm thông. Văn có hai: một, là ngang thì biết sáu đường; hai là dọc thì biết mười sáu tâm.

Nói mười sáu tâm là thuận theo nghĩa của Số Luận. Luận rằng vô lượng tâm của kiến đạo rất nhạy bén nên gọi là tâm Vô gián.

Luận Thành Thật ghi: “Hàng Thanh văn muốn biết tâm thứ ba Đến tâm thứ mười sáu. Duyên giác muốn biết tâm thứ ba đến tâm thứ thứ bảy, chỉ có Bồ-tát biết rõ tất cả”.

Hàng Tiểu thừa độn căn cho nên muốn biết từ tâm thứ ba trở đi, đồng thời muốn biết các tâm sau, lại so sánh muốn biết đến tâm thứ sáu. Hàng Trung thừa căn tánh khá nhạy bén, muốn biết tâm thứ ba đến tâm thứ bảy. Bồ-tát chẳng phải như thế, đều biết tất cả không một tâm nào chẳng biết. Đây là nghĩa chung của ba Thừa, lại có ba người chẳng đồng mà đồng. Mười sáu tâm này chẳng phải là ý kinh ở đây. Trước biết sáu đường là biết có ngằn mé, kế là biết mười sáu tâm là biết không có, dùng thể Trung đạo chẳng phải có chẳng phải không để biết được có và không.

Từ câu “Này thiện nam!” trở xuống là nói về công đức thứ ba. Xưa cho rằng trong văn này nói về Từ, thành nghĩa của phẩm Phạm hạnh ở trên. Văn có hai là nêu lên và giải thích.

Trong phần giải thích, trước là giải thích, sau là kết luận. Nội dung phần giải thích rằng trong công đức này lẽ ra nêu đầy đủ bốn tâm nhưng chỉ nói về tâm Từ, vì: một, chỉ có văn lược thì nghĩa sẽ đầy đủ; hai, cho là gốc của tất cả pháp thiện, vì sao chẳng được nêu? Tức ba tâm này bỏ sự thiên lệch mà nêu sự viên mãn, nêu một biết ba, nêu lược chẳng nói đến. Giải thích văn có hai ý:

  1. Nêu hai chương xả và đắc.
  2. Giải thích.

Giải thích, trước là nêu câu hỏi; sau là giải thích.

Giải thích có năm phen: Một, là y cứ hai đế.

Hai, là y cứ phàm Thánh.

Ba, là y cứ Xiển-đề đối với Như Lai là một cặp thiện ác.

Bốn, là y cứ theo kẻ thấp hèn đối với Bồ-tát, là một cặp hơn kém.

Năm, là nói về không chấp đắm.

Kết luận như văn kinh ghi.

Kế là nói về công đức thứ tư. Văn có hai đoạn là nêu công đức và luận nghĩa. Kế có bốn: Hỏi, nêu chương môn, giải thích và kết luận.

Dung Thành cho rằng hai việc trước thuộc về các giai vị trước Thập địa; tám việc tu sau phải phối hợp với Bát địa. Trước nói căn sâu tức là Tánh địa cũng là Sinh không. Tâm quyết định vào sơ y cũng là pháp không. Tám việc sau, đầu tiên là nói chẳng quán ruộng phước tức Sơ địa viên mãn Đàn độ. Đến thứ mười là dứt trừ hai bên tức Bát địa.

Nghĩa trên chẳng đúng, ở đây đều là công đức chân chứng.

Từ câu “Thế nào là căn sâu v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích. Trong đó có thứ năm, thứ sáu hợp thành một đoạn giải thích. Việc thứ nhất, văn có ba ý: hỏi nêu, giải thích và kết luận.

Trong việc đầu tiên có đủ năm nghĩa:

  1. Căn bản.
  2. Căn sâu.
  3. Căn rộng.
  4. Căn tăng tưởng.
  5. Căn thù thắng.

Nói chẳng buông lung tức là căn bản.

Nếu nói chung về hành thiện thì tất cả đều chẳng buông lung. Nhưng nếu nói chỉ lấy việc đầu tiên là xem xét tâm chẳng làm buông lung. Đầy đủ hai ý này, tức là căn bản.

Kế là nói Vô thượng Bồ-đề, tức là nói căn sâu.

Sâu tận cùng thật tướng, đạt đến bờ mé tức chân, đó là gốc Bồ-đề nên nói sâu.

Kế là nói gốc thiện của chư Phật đều chẳng buông lung tức là nói căn rộng.

Nói vì làm cho thêm lớn tức là nói căn thêm lớn.

“Hơn hết trong các điều thiện” tức là căn cao quý.

Nêu mười ba dụ, dụ cho tướng cao quý của pháp chẳng buông lung.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là nêu mười căn để giải thích lại về thêm lớn.

Đầy đủ mười nghĩa thì sâu, bền chắc khó lay động.

Nói thêm rằng thêm lớn, cao quý đã dùng nhiều nghĩa để giải thích, nghiệm biết ba việc kia cũng như thế, trừ căn thêm lớn đã nêu, các căn còn lại cũng có mười nghĩa, mười ba cặp dụ.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là chương hai, văn có ba: Hỏi, giải thích và kết luận.

Hỏi: như văn kinh có nói.

Giải thích có hai: Một, là thân quyết định; hai, là tâm quyết định.

Quán thân là có tức là vật sinh tử, quán thân là không tức là pháp khí Niết-bàn. Nay quán thân chẳng phải có chẳng phải không tức là chính thức hiển bày Trung đạo, là pháp khí Vô thượng Bồ-đề đó gọi là thân quyết định.

Kế là tâm cũng giống như thế, nếu tâm nhỏ hẹp là tâm tự vì mình, nói biến dị tức là gồm hai nghĩa:

  1. Nếu nói theo tu nhân thì sinh diệt vô thường là biến dị.
  2. Nếu nói theo chịu quả thì sinh tử biến dị là biến dị. Thanh văn, Bích-chi-Phật từ người mà nêu tâm, đó là vô vi, tâm ma tức ma trời, tâm tự vui thì chung cho các vị trời; tâm thích sinh tử chung cho ba cõi. Ba tâm này thuộc về hữu biên không quyết định. Cầu tâm từ là tâm từ vô duyên; cầu tâm bi là tâm bi bạt hữu. Đó mới là tâm quyết định.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích chương ba, văn gồm có hỏi, giải thích và kết luận.

Trong phẩm Tứ Y nói: “Phò trì Phật pháp phải phân biệt trì phạm”.

Còn ở đây vì tự tu nên dùng bình đẳng. Vả lại trước là khuyên hàng xuất gia vâng giữ giới hạnh; còn ở đây khuyên người tại gia phải quên tướng bố thí. Nói niệm xứ khác lạ là khác hai bên, là chánh quán Trung đạo. Ngoại đạo giữ giới, chẳng những là giữ giới mà còn được định cõi trên. Như văn kinh sau có ghi: “Ngoại đạo dứt kết sử còn hơn cả Tỳ-kheo giữ giới”. Vì Tỳ-kheo giữ giới chỉ hàng phục pháp ác cõi Dục, do đó so sánh mà nói là hơn.

Bốn loại thí đều được quả báo thanh tịnh, tức là không bố thí, không có quả báo tức là quả báo thanh tịnh.

Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương bốn, văn có ba: Hỏi, giải thích và kết luận.

Nêu câu hỏi như văn kinh có ghi.

Trong phần giải thích chỉ nói nghiệp Tịnh độ, lấy Bồ-đề làm gốc. Ở đây nêu mười điều thiện, chẳng phải chỉ riêng mười điều thiện mà phải hòa hợp với tâm Bồ-đề mà tu hành. Ví như ở trên đáp câu hỏi vô úy, nhưng mười điều thiện là nói nhân tương tự được quả tương tự. Như nói lìa bỏ nói dối được hoa quả, nghĩa là nói rằng vọng thì không thật, như hoa không kết trái. Nay chẳng nói dối thì có quả báo chân thật, khi chịu báo thì cảm được hoa quả tốt đẹp.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là hợp giải thích hai chương thứ năm và thứ sáu. Ý nghĩa liên quan nhau nên hợp thành một để giải thích. Có hai cách giải khác nhau:

  1. Cho rằng trong đây phần khai chương nói về ba loại hữu dư, hai việc đầu là giải thích chương năm, dứt trừ hữu dư, một việc sau giải thích chương sáu, dứt trừ nghiệp duyên.
  2. Nói phiền não dư báo là giải thích dứt trừ hữu dư, nói dư nghiệp là giải thích trừ nghiệp duyên ở đoạn trên, còn lại một việc chỉ là nêu ra.

Văn có ba đoạn: một, là nêu chương ba; hai, là thứ lớp giải thích; ba, là kết luận.

Thứ hai, là giải thích chươngba , thứ nhất là giải thích phiền não dư báo.

Nếu phân biệt tập và báo thì tập nhân là phiền não, báo nhân là nghiệp. Nay phần tập và báo khác nhau nên nói phiền não dư báo. Nhưng cảm báo là do nghiệp, phiền não chỉ có thể làm cho nghiệp này thêm lớn. Như trong Đại Luận nói thì chỉ có phiền não cũng có thể cảm báo.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích trừ nghiệp duyên.

Đây là nghiệp của phàm phu thông minh và Nhị thừa. Nói Tuđà-hoàn có nghiệp bảy lần thọ sinh tức Tu-đà-hoàn tuy đã dứt trừ kiến hoặc nhưng còn suy nghĩ, nhuận sinh cõi trời, cõi người nên còn bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh xuống nhân gian, lên xuống hợp thành một vòng nên nói bảy, nếu chia ra thì thành mười bốn. Tư-đà-hàm có nghiệp hai lần thọ sinh, người Tư-đà-hàm chỉ còn một lần sinh lên cõi trời, một lần sinh xuống cõi người. Đây là chia nên nói hai, nếu hợp thì chỉ là một. Có người hỏi:

– Vì sao đối với Sơ quả thì hợp lại để tính, còn quả thứ hai thì lại chia ra?

Đáp: Đó chỉ là hiển bày cho nhau mà thôi.

A-na-hàm có nghiệp thọ thân ở cõi Sắc, tức A-na-hàm đã dứt hết tư hoặc cõi Dục nhưng vẫn còn tư hoặc cõi Sắc. Nhưng A-na-hàm gồm năm hạng chỉ nêu ra hạng thượng lưu, hạng Thượng lưu có hai hạng:

  1. Đến A-ca-ni-trá.
  2. Đến Vô Sắc.

Cho nên kinh nói:

“Thích nói về nghĩa thì sinh lên cõi Tịnh cư; người thích thiền định thì sinh lên cõi Vô sắc”.

Nhưng sinh vào cõi A-ca-ni-trá thì đã trải qua khắp Tứ thiền, nếu ở Sơ thiền chưa được diệt thì sinh lên cõi Nhị thiền. Ở Nhị thiền chưa được diệt thì sinh vào Tam thiền. Ở Tam thiền chưa diệt lại sinh vào Tứ thiền mới diệt. Trong đó lại có ba là siêu, bán siêu và khắp mất. Sinh lên cõi Vô Sắc thì gọi là Vô sắc ban, v.v… nếu sinh lên Vô sắc thì chẳng còn sinh trở lại, cũng là sinh tức diệt, chẳng đồng với việc thọ sinh của Tứ thiền cho nên lược bỏ, chẳng nói “thọ nghiệp cõi Vô sắc” mà chỉ nói “thọ thân cõi sắc” vì chẳng sinh vào đó. Cũng là nói “hành hữu hành vô đồng sinh cõi Sắc”, cho nên cũng chẳng nói.

Kế là từ câu “Thế nào là hữu dư v.v…” trở xuống là thứ ba, giải thích trừ hữu dư ở trên.

Nói không có nghiệp, không còn kết sử mà chuyển hai quả. Trang Nghiêm nói: “A-la-hán chuyển thành Bồ-tát Lục địa, Bích-chi-Phật chuyển thành Bồ-tát Thất địa nên nói chuyển hai quả. Nay nói đó là nghĩa của Thông giáo, chẳng thể dùng để giải thích kinh này.

Khai Thiện cho rằng không có việc ấy. Nói chuyển tức vốn là Ala-hán độn căn chuyển thành lợi căn. Bích-chi-Phật cũng như thế, vì dư tập nên chuyển thành hai quả. Nay nói đó cũng là Nhị thừa chẳng phải ý của kinh này.

Hà Tây cho rằng câu trên nói hai quả đắc đạo và đắc hướng tức chuyển A-la-hán đắc quả A-la-hán; Bích-chi-Phật cũng như thế. Văn kinh nói: “đắc và quả” thì đâu thể chẳng giải thích như thế. Nay nói cũng là nghĩa của Nhị thừa, chẳng phải là ý của kinh này.

Lại có người giải thích: Nhân phiền não đã hết, quả báo cũng dứt, mà nay chẳng diệt là vì dư thế trôi lăn nhưng nghiệp đã dứt chỉ còn hai quả này, đối với Bồ-tát là hoạn lụy cho nên nói là chuyển, chuyển tức là xả. Đây cũng là nghĩa kia, chẳng liên quan đến kinh này.

Hưng Hoàng cho rằng chuyển hai quả nghĩa là quả Nhị thừa, thân còn nóng lạnh đói khát. Nay quả này đã dứt cho nên nói chuyển hai quả. Đây cũng là nghĩa của Tiểu thừa.

Nay nói quả này chẳng sinh, hễ diệt thì dứt, đâu cần do kinh mà chuyển? Đáp rằng quả của ba cõi tuy đã hết mà quả ngoài ba cõi mới sinh. Nói chuyển quả tức chuyển quả ngoài ba cõi. Nay lại nói rằng đó cũng là nghĩa của Biệt giáo chưa phải là ý của Viên giáo.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích chương bảy, cũng có nêu câu hỏi, giải thích và kết luận. Nêu hỏi như văn kinh ghi.

Thứ hai là giải thích, trong đó có phẩm Sư Tử Hống. nói: “Hoặc là một nghiệp, một tướng, hoặc là một nghiệp hai tướng, ba tướng”.

Trong đây nói một trăm phước thành một tướng, văn có hai đoạn:

  1. Nói về nghiệp của tướng quý.
  2. Nói nghiệp của vẻ đẹp.

Ngoại đạo kính thờ một vị thần, mỗi vị chỉ có một tướng. Phật thì tu tập tất cả các tướng vào một thân. Mười hai nhật tức mười hai chi: Tý, Sửu, Dần, v.v… Hà Tây cho rằng một năm có mười hai ngày tốt dùng để cúng tế và cầu phước. Nhưng tu tướng quý và vẻ đẹp cũng có ý nghĩa bốn Tất-đàn:

  1. Thể của Pháp vương nên dùng tướng quý và vẻ đẹp để trang nghiêm thân, chư Phật đều như thế, đó là Thế giới Tất-đàn.
  2. Khiến cho người thấy sinh tâm tín tâm, khởi hạnh thiện tức là Vị nhân Tất-đàn.
  3. Một thân đầy đủ các vẻ đẹp, đối phá ngoại đạo là Đối trị Tấtđàn.

. Vì sắc thanh tịnh nên Bát-nhã thanh tịnh, Bát-nhã thanh tịnh tức Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.

Văn nêu bốn dụ hoặc nêu y cứ theo đó để phối hợp.

Từ câu “Vì sao v.v…” là chương tám, có ba: hỏi, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh có ghi.

Có người nói “Biết nhân duyên hòa hợp tức là Thế đế”.

Nghĩa trên chẳng đúng. Vì chẳng thấy tướng sắc là chi hành diệt; chẳng thấy duyên của sắc là vô minh diệt; chẳng thấy thể của sắc là thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ diệt; chẳng thấy sắc sinh tức các chi ái, thủ, hữu, sinh diệt; chẳng thấy sắc diệt tức lão tử diệt; chẳng thấy tướng một là chẳng thấy mười hai nhân duyên; chẳng thấy người thấy là chẳng thấy nhân duyên giả, chân tục đều bặt, hai đế đều mất, cũng chẳng thấy Trung đạo. Thông đạt rõ biết nhân duyên như thế, vì sao chỉ là Thế đế? Tất cả pháp cũng như thế.

“Vì sao v.v…” trở xuống là chương chín, văn có ba đoạn là hỏi, giải thích và kết luận.

Nêu hỏi như văn kinh có ghi. Kế là giải thích, có hai phần:

  1. Lìa oán.
  2. Phân biệt oán.

Thứ nhất, lìa bỏ phiền não là tự lìa oán.

Nói năm trụ tức là nói tha lìa oán.

Từ câu “Thế nào là oán v.v…” trở xuống là phân biệt nêu lên kẻ oán.

Hà Tây giải thích tám ma:

Bốn ác như phỉ báng kinh Phương đẳng v.v… là bốn ma, tức là ma sinh tử. Bốn ma như vô thường, vô ngã v.v… là ma Niết-bàn.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là chương mười cũng gồm hỏi, giải thích và kết luận. Thứ nhất, như văn kinh nói hai mươi lăm hữu và phiền não là hai bên tức là hai pháp nhân quả.

Nay nói thêm rằng phá ba hoặc trong hai mươi lăm hữu nên nói là xa lìa hai bên.

Hà Tây cho rằng nghiệp và phiền não là hai bên.

Nay nói thêm, nếu nói ba hoặc có ba thứ nghiệp mới hợp ý kinh này, vậy phải lấy hoặc nghiệp của giới nội làm hai bên, như thế thì hoàn toàn chẳng phải ý kinh này. Đã đạt được ý này thì như tất cả pháp hữu vô, thường đoạn, cấu tịnh, buộc mở, v.v… đều là hai bên.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần nói về nghĩa, văn gồm có hỏi và đáp. Ý hỏi nếu Bồ-tát tu tập mười công đức, vì sao Như Lai chẳng tu tịnh độ.

Phật đáp có bốn ý:

1. Nói ta nhờ tu mười việc, các bậc Thánh cũng như thế. 2. Từ câu “Ví như v.v…” trở xuống là quở trách câu hỏi.

Từ câu “Về phương Tây v.v…” trở xuống là , chỉ bày cõi Tịnh độ Vô Thắng.

3 Từ câu “Vì giáo hóa v.v…” trở xuống là nói vì giáo hóa chúng sinh nên xuất hiện ở cõi uế.

4. Từ câu “Lại nữa v.v…” là công đức thứ năm. Văn có ba đoạn:

Hỏi, giải thích và kết luận.

Phần giải thích có hai là giải thích và nói về nghĩa.

Thứ nhất là phần giải thích. Xưa giải thích về năm việc có ba thuyết:

1/ Dung Thành cho rằng chung cho hàng ngoại phàm và ba mươi tâm. Đã nói chẳng sinh biên địa và đầy đủ các căn. Đó là minh chứng.

2/ Cho rằng đức này chẳng phải là cạn hẹp. Vì sao? Vì Bồ-tát Đăng Địa trở lên đều nương vào sự để hiển lý. Nói các căn đầy đủ chẳng phải chỉ cho mắt tai v.v… mà chính là nêu các căn tín, tấn, v.v… xuất thế. Nói biên địa chẳng phải các vùng biên giới của cõi nước thế gian, không có Phật pháp, mà chính là nói lìa hai bên đoạn thường. Nói các vị trời hộ niệm tức nói Phật là trời, nói bốn chúng cung kính tức là làm ruộng phước cho chúng sinh.

3/ Khai Thiện cho rằng đây là nói Bồ-tát Đăng Địa còn sinh vào cõi Dục nên gọi là các căn đầy đủ. Nếu nói theo vô lậu thì được quả báo Biến dịch, nhưng Bồ-tát này còn hữu lậu nên nay thọ sinh.

Tuy có năm việc này nhưng tâm không chấp đắm, chính là lấy không chấp đắm làm thể. Nay bình rằng ý của Khai Thiện hoàn toàn là nghĩa của Bồ-tát Tạng giáo. Nhà thứ nhất nói “chung cho Bồ-tát trước Thập địa” đó chỉ là nghĩa tâm ban đầu của Biệt giáo chẳng quan hệ gì đến kinh này. Nhà thứ hai nói Bồ-tát Đăng địa thì đó là ý chứng đạo.

Nay y theo văn có hai là nói về công đức và nói về nghĩa. Nói về công đức thì nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất, như văn kinh có chép.

Giải thích: Bốn việc trước là báo quả, một việc sau là tập quả.

Kế là phần nói về nghĩa, trước là hỏi.

Kế là Đức Phật, trước khen câu hỏi, sau là chánh đáp.

Trong phần trả lời có hai đoạn: trước là nêu hơn kém.

Kế là từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là hiển bày tướng kém.

Đầu tiên là nêu năm chương, trong đó định là lạc, cao quý là ngã, thường tinh thì sẽ thấy, kỳ lạ là Trung đạo, vô lậu là chứng Trung đạo, lợi ích an vui là hoa sen.

Nói xa lìa khát ái là giải thích về định, về lạc; dứt sinh tử chẳng nối nhau là giải thích thường; làm Bồ-tát là giải thích tịnh; dứt trừ sự nghèo thiếu pháp thiện là giải thích cao quý, giải thích ngã; quả vô phân biệt là giải thích dị, giải thích bất cộng, giải thích cả vô lậu, lợi ích chúng sinh.

Đức Phật nói năm việc này do Đại Niết-bàn mà được, có sư giải thích là chung cho ba mươi tâm ngoại phàm. Nên biết trước Thập địa thì chẳng gọi là đắc; Đức Phật nói là vô lậu, còn Khai Thiện cho là hữu lậu, đã đối kháng ý Phật lại còn làm người sau lầm lẫn. Cho nên biết, chẳng thể hoàn toàn tin theo người giải thích, người học đời sau nên nương theo kinh.

Đó gọi là Bồ-tát tu tập kinh Đại-Niết-bàn mầu nhiệm, thành tựu đầy đủ phần công đức thứ năm.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là nói về công đức thứ sáu. Xưa giải thích Tam-muội Kim cương. Nếu nói theo Thập địa thì đó là tâm sau cùng (chung tâm). Nếu nói theo ba nhẫn thì đó là Thượng nhẫn. Như thế lùi chẳng phải là Bồ-tát Đẳng giác; tiến thì chẳng phải Diệu giác, đó là Bồ-tát Kim cương tâm. Thuyết khác thì cho rằng đầy đủ giải tâm và hữu; một thuyết thì chỉ dùng nghĩa chiếu hữu, chẳng lấy giải không vì giải không chưa đủ. Trang Nghiêm cho rằng Kim cương tâm dứt hết hoặc, dẫn văn “Do bảy mặt trời cùng chiếu nên núi Càn-đà đều bị cháy hết”. Cho nên biết Đẳng giác đã dứt bỏ hết các hoặc.

Khai Thiện cho rằng Kim cương Tâm chỉ mới hàng phục vô minh, đến Diệu giác thì dứt một niệm hoặc nhẹ mỏng, liền thành Phật; dẫn kinh Thắng Man rằng: Trí Bồ-đề của Phật là năng đoạn, văn này nói hàng phục là dứt hết. Kim cương Tâm thì giải Hữu là tròn đầy, nhưng còn chưa đủ giải không, dẫn kinh Nhị Thập Nhị Ngộ và kinh Phu Nhân để minh chứng rộng nghĩa này.

Các sư Trung Quán cho rằng chẳng thể xét định giai vị ấy, nên ví như Bát-nhã, quán thông các Địa. Vả lại, Thập địa thì quá cao, vậy công đức thứ năm thì thuộc Địa nào? Chẳng nên phán định quá xa cách, chỉ nên tương ưng với Tam-muội mà chẳng cần phân biệt cao thấp. Xưa lại cho Thập địa được một trăm Tam-muội rồi mới được định Thủ-lăngnghiêm, mới nhập Tam-muội Kim cương, trên thì chưa đến Phật, dưới thì chẳng phải hàng Hạ địa, chỉ ở bậc đã cùng học mà thôi. Nghĩa này cũng chẳng đúng. Môn Tam-muội này cũng có Thông và Biệt, Biệt thì y cứ theo bậc cùng học, Thông thì suốt khắp các Địa, cũng chung cho Tự đạo, đâu khác gì Kim cương Bát-nhã thông từ Sơ địa đến Thập địa. Bát-nhã đã là Thông thì Tam-muội chẳng lẽ lại là Biệt ư? Vì sao? Vì toàn thể cứng chắc như Kim cương, toàn thể an định như Tam-muội, thể bén nhạy như Bát-nhã. Cho nên kinh nói: “Tam-muội Kim cương có ba tên”. Văn sau cũng ghi: “Phật tánh có năm tên gọi”. Nếu nói chung tâm có dứt và không dứt thì hai nhà đối nhau. Vì duyên làm lợi ích nên nói có dứt và không dứt, theo thật lý thì chẳng dứt, chẳng phải chẳng dứt.

Nay cho rằng Trang nghiêm dẫn “núi Càn-đà đều cháy” chỉ là Thiên, vì sao? Vì hễ khi bảy mặt trời đều hiện, thì chẳng những đốt cháy núi Càn-đà mà tất cả đều bị cháy rụi cả, nay lại chẳng lấy nghĩa tất cả đều cháy rụi làm dụ, mà chỉ lấy việc cỏ cây cháy còn lại núi để làm dụ. Đó chẳng phải dụ chung cho tâm của Thập địa dứt hoặc. Chỉ lấy bảy mặt trời lúc mới mọc, trước chiếu trên núi Càn-đà, khiến cỏ cây đều bị cháy, để nói Tam-muội này là công đức của Sơ địa. Vì mới dứt hoặc cho nên lấy việc đốt cháy cỏ cây làm dụ. Văn có nêu lên, giải thích và kết luận, thứ nhất là giải thích, có ba đoạn: 1) Nói lược về Tammuội; 2) Giải thích rộng Tam-muội; 3) Giải thích tên. Phần nói lược có hai là nói về tự đức và nói về hóa tha. Văn nói về tự đức lại có hai: 1) Năng đoạn; 2) Nêu điều sai.

“Đều phá tan hết” tức là năng đoạn, “thấy tất cả pháp” là nêu lên sai lầm.

Từ câu: “Bồ-tát trụ v.v…” trở xuống là nói về hóa tha.

Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói rộng Tammuội, văn có hai: Trước nói về tự hành, sau nói rộng về hóa tha. Nói về tự hành có ba phần: 1/ Năng đoạn; 2/ Năng kiến; 3/ Nói lại về năng đoạn. Năng đoạn có tám dụ:

1) Dụ về năng đoạn.

Thứ bảy là dụ khen ngợi.

Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói rộng về năng kiến. Đầu tiên, một là dụ về năng kiến.

Kế là ba dụ khen ngợi.

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là thứ ba, lặp lại năng đoạn; cũng có ba dụ, thứ nhất là dụ về năng đoạn.

Kế là hai dụ về quên công lao.

Từ câu: “Nếu Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai, nói rộng về hóa tha, có bốn đoạn:

  1. Nói biến thân như Phật.
  2. Trở về bản xứ.
  3. Dứt hoặc cho người.
  4. Tam mật thị hiện: Thị hiện lại có bốn:
  1. Nói về khẩu mật.
  2. Thân mật.
  3. Lặp lại khẩu mật. Trước thì nói dùng một âm mà sự thích hợp lại khác, nay nói một pháp mà sự thích hợp lại khác.
  4. Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là ý mật.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là đoạn ba, giải thích danh, có ba dụ:

  1. Nói bất định, ví dụ cho vô tướng.
  2. Chẳng thể định giá, dụ cho vô danh.
  3. Nói lìa khổ, độc, dụ cho vô úy.Kết luận, như văn kinh có ghi.

 

PHẦN 5

Đầu quyển là nói về công đức thứ bảy, Khai Thiện cho rằng công đức này và công đức thứ tám là vòng thứ hai. Do gần bạn thiện mới nghe chánh pháp, giai vị còn cạn thấp. Đến công đức thứ tám, dùng chín việc làm thể để nói về tâm Tuệ Giải thoát, nghĩa rất sâu xa.

Nay cho rằng lời này chẳng đúng, đó đều là công đức đạt được khi mới chứng chẳng nghe mà nghe. Phật nói phen thứ bảy, thứ tám để nói về việc biết rõ pháp làm nhân gần Niết-bàn, làm thiện tri thức cho chúng sinh; đâu thể bỏ qua công hóa tha của nội đức mà lập ra kiến giải tự hành, cầu thầy bên ngoài làm khuôn phép. Dẫu nay tự cầu thiện tri thức, thì đó cũng là nương vào sự để hiển lý, ví như ngài Tịnh Danh nghĩ đến Phật thì các Đức Phật như Sư Tử Hưởng v.v… đều đến nói pháp, nói xong thì đi. Thiện tri thức như thế, nghe pháp suy nghĩ tu tập, thì đâu thể nói là giai vị cạn thấp?

Văn có ba đoạn là nêu chương, giải thích và kết luận.

Nêu câu hỏi như văn kinh đã ghi.

Nêu pháp đúng, như văn kinh ở trên đã ghi.

Nêu khổ hạnh là chẳng đúng, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng ngoại đạo không lìa khổ hạnh; 2/ Cho rằng chỉ ở trong Phật pháp, nếu tu khổ hạnh thì chẳng thể đạt đạo, phải tu tuệ phẩm làm chánh, còn các hạnh khác thì trợ giúp.

Thứ ba là nêu tên, như văn kinh.

Từ câu: “Ví như v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích; trước giải thích chung, sau giải thích riêng. Giải thích chung có nêu ba dụ, hai dụ đầu là dụ cho Bồ-tát, một dụ sau là dụ cho phàm phu. Dụ về Bồ-tát, đầu tiên là thí dụ về tự hành, gồm có bốn việc. Tức Bồ-tát trụ ở nhân vị, Thánh pháp chưa đủ, nên cũng cần có bạn thiện, nghe pháp về tu hành v.v… Dụ thứ hai là Bồ-tát hóa tha, cũng vâng làm v.v… Một dụ sau cùng là phàm phu. Vì phàm phu có tội nặng, nên nói là: “Như bệnh hủi”. Ba dụ này, mỗi dụ đều có hợp thuyết.

Trong dụ trên, bệnh nóng là dụ cho ái, lạnh là dụ cho si, suy nhược dụ cho mạn, tả dụ cho sân, sốt rét dụ cho si, các tà dụ chung cho năm lợi sử, v.v…

Hỏi: Đối với Bồ-tát thì lợi sử, độn sử đều dứt hết thì đâu có các bệnh này?

Đáp: Nhờ vào chung mà nêu riêng, hoặc riêng của Bồ-tát thì đến quả Phật mới sạch, cho nên đâu được không bệnh.

Nói thêm: Hoặc chung riêng, tên thì đồng mà thể lại khác.

Từ câu “Thí như có người v.v…” trở xuống là giải thích riêng bốn việc. Trước sơ lược, sau giảng rộng. Đầu tiên là lược giải thích tri thức.

Lại có bốn. Trước là khen ngợi gồm có dụ và hợp, như văn kinh ghi.

Từ câu “Thiện tri thức v.v…” trở xuống là nêu người.

Về người thì có năm bậc: Phật, Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, và người tin kinh Phương đẳng.

Từ câu “Vì sao gọi là Thiện tri thức v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về giai vị. Đầu tiên là nói năm vị:

  1. Dạy bỏ ác làm thiện.
  2. Đúng như lời dạy tu hành.
  3. Tu tập đạo Bồ-đề.
  4. Thực hành giới và thí.
  5. Chẳng vì mình mà vì người.

Hoặc phối hợp đây với năm người ở trên nhưng chưa hẳn phải như thế.

Từ câu “Như mặt trăng v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói được lợi ích của Thiện tri thức.

Vào ngày mồng một, tuy chẳng thấy mặt trăng nhưng không thể nói là không có. Lúc mới gần Thiện tri thức tuy cho rằng chưa có lợi ích nhưng thật ra đã được thấm nhuần.

Từ câu “Nếu có thể nghe v.v…” trở xuống là thứ hai giải thích người nghe pháp. Có hai đoạn: Trước nói nghe ba kinh, sau nói được ba giải.

Ba kinh tức là mười hai thể loại, Đại thừa Phương đẳng và kinh này. Xét ý văn tựa như một đời giáo hóa mà có sơ, trung và hậu.

Kế là từ câu “Chuyên tâm v.v…” trở xuống là nói ba giải.

Đó là tám Thánh đạo, mười một Không và Đại Niết-bàn, có người dùng ba giải đối với ba giáo nói ở trước. Nay cho rằng chưa hẳn hoàn toàn như thế. Trong mỗi giáo đều sinh ra ba giải. Văn nói nhờ tu tập nên được Đại Niết-bàn. Nếu có người tu tập tám Thánh đạo thì thấy được Phật tánh, được Đại Niết-bàn. Nếu chỉ nghe Đại Niết-bàn mà chẳng tu tập thì đâu thể được Tam-bồ-đề?

Từ câu “Thí như người bệnh v.v…” trở xuống là giải thích suy nghĩ.

Văn sau nói năm trần, bốn tướng và vô trần là mười tướng. Văn này dùng năm trần, ba tướng, nam và nữ làm mười tướng. Đó là do giáo môn khác nhau.

Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là giải thích việc thứ tư, như văn kinh có ghi.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích rộng bốn pháp. Cũng có bốn: thứ nhất nói về Thiện tri thức. Người thì nêu sơ lược mà văn giải thích rộng, trước là pháp thuyết, kế là nêu bảy dụ.

Trong phần pháp thuyết có nêu ba thứ ngôn ngữ. Tất cả đều do Như Lai khéo thông đạt các căn cơ. Nên dùng lời nhu hòa để quở trách pháp thiện, nên dùng lời quở trách để nói pháp khổ não ép ngặt, nên dùng hai loại để hợp cả hai.

Trong bảy thí dụ trên, hoặc lập dụ trước, hoặc lập dụ sau.

Từ câu “Thế nào là Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần thứ hai, giải thích rộng về nghe pháp. Trước giải thích, sau dẫn chứng. Trong giải thích có pháp và dụ.

Trong dụ gồm có bốn dụ.

Từ câu “Vì thế v.v…” trở xuống là phần thứ hai, dẫn chứng. Trước dẫn chứng các kinh, sau dẫn hai việc.

Đầu tiên dẫn chứng chung các kinh.

Từ câu “Vì nghe pháp v.v…” trở xuống là dẫn hai việc để chứng minh. Trước nói về Sơ quả.

Trưởng giả Tu-đạt bị bệnh, nghe ngài Thân Tử nói bốn công đức và mười dụ an ủi thì bệnh liền hết. Bốn tức là bốn pháp ở đây; mười dụ an ủi, xưa cho rằng tám Thánh đạo tức là tận Vô sinh trí nhưng Sơ quả không có hai trí. Kia lại giải thích rằng kiến đế đã tận tức là tận trí, kiến đế chẳng sinh tức là Vô sinh trí. Lời này không có chỗ căn cứ. Hà Tây cho rằng tám Thánh đạo tức là chánh trí chánh Giải thoát, nghĩa này của A-hàm chẳng được giải thích khác hơn. Không mắt dụ cho phàm phu; một mắt dụ cho mắt pháp; hai mắt dụ cho mắt pháp và mắt tuệ. Lại không mắt dụ cho hàng phàm phu tán tâm, một mắt dụ cho mắt trời, hai mắt dụ cho mắt trời và mắt tuệ.

Từ câu “Khi xưa v.v…” trở xuống là dẫn việc của ngài Thân Tử.

Đức Phật bảo A-nan nói pháp, A-nan mới đạt Sơ quả, vì người thượng quả không chịu nghe pháp của người hạ quả, nên sai đệ tử khiêng đến trước Đức Phật để nghe Phật nói pháp, bệnh liền hết.

Từ câu “Thế nào là v.v…” là thứ ba, giải thích rộng về tư duy, gồm có năm đoạn:

  1. Lìa năm dục.
  2. Lìa bốn điên đảo.
  3. Lìa bốn khổ.
  4. Biết nhân xưa.
  5. Biết pháp thường.

ăn nói: “Tâm đã suy nghĩ, chẳng lẽ lại có tâm duyên theo năm dục”.

Nếu chưa nghe thì chấp ngã, thường. Đã suy nghĩ thì diệt được thường, ngã, v.v…

Trong đó nói về diệt, diệt chỉ là chết.

Từ câu “thế nào là đúng như pháp” trở xuống là thứ tư, giải thích rộng về tu hành, có ba:

  1. Nói chỉ thực hành điều thiện.
  2. Nói về việc giải thích Không, vô thường.
  3. Nói bảy thứ tri kiến. Tri kiến lại có ba là nêu lên, giải thích và phân biệt.

Đầu tiên là nêu chương môn, kế đến là lược nêu phần giữa, nêu hai chương thật và chẳng thật. Thật thì có bảy tri kiến, không thật thì chẳng có.

Từ câu “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích. Thứ nhất nói về biết Niết-bàn. Trước nêu ba loại Niết-bàn, sau là giải thích:

  1. Niết-bàn của Phật.
  2. Niết-bàn của phàm phu.
  3. Niết-bàn của Thanh văn.

Hai Niết-bàn sau đều thiếu phần diệt. Đầu tiên là nói về Niết-bàn của Phật.

Phật đầy đủ muôn đức, chỉ lược nêu tám đức. Tận nghĩa là tất cả phiền não dứt hết; tánh thiện nghĩa là tất cả pháp thiện của Như Lai; thật nghĩa là chẳng luống dối; chân là chẳng tà ngụy. Bốn pháp khác thì như văn kinh có nói.

Niết-bàn của ngoại đạo có tám việc, nếu ngoại đạo tán tâm thì chẳng liên quan đến văn này. Nay chỉ nói theo ngoại đạo được định Phi tưởng, xa lìa được các hoặc của cõi dưới nên gọi là Giải thoát, tức là có tánh thiện nhưng chẳng phải rốt ráo chân thật, Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, nên nói là Không.

Sáu tướng của Niết-bàn Thanh văn đều có cho và đoạt, vì chẳng bằng Phật cho nên đoạt mất Ngã và Thường, chỉ còn sáu việc. Vì hơn ngoại đạo nên cho là Lạc và Tịnh. Đây là y cứ theo Niết-bàn hữu dư nên nói tám Thánh đạo vô lậu, còn thân trí nên nói là an vui: Dứt hạt giống trói buộc nên nói là thanh tịnh, là thứ hai giải thích môn ở trên, chẳng giải thích Niết-bàn thứ nhất, chỉ giải thích hai loại sau. Vì Niết-bàn của Phật kinh này đã nói nhiều nên không cần phải nói thêm. Hai loại sau cần phải giải thích. Thứ nhất là giải thích Niết-bàn của phàm phu.

Từ câu “Thế nào là sáu tướng v.v…” trở xuống là giải thích Niếtbàn của Nhị thừa.

Văn đã nói chẳng chân, chẳng thật, nhưng vì được tám Thánh đạo vô lậu nên nói là Tịnh, Lạc. Vị lai sẽ được Đại Niết-bàn nên nói là vô thường. Sau cùng là kết luận nêu khác nhau.

Kế là giải thích môn thứ hai là biết Phật tánh.

Trong phẩm Ca-diếp ở sau có nói về năm chủng tánh khác nhau:

1/ Phật tánh của Phật, gồm bảy đức là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, Chân, Thật, và Thiện.

2/ Phật tánh của Bồ-tát thân sau, cùng gồm có sáu đức là Thường, Tịnh, Chân, Thật, Thiện và Thiển kiến.

3/ Phật tánh của Bồ-tát trụ Cửu địa cũng gồm có sáu đức, là năm đức trên và đức thứ sáu là khả kiến thay cho thiển kiến. Nay ở đây nói chẳng phải Phật tánh của Phật, là nghĩa khác nhau. Khai Thiện cho rằng cả hai loại trên đều là Phật tánh của Cửu địa. Như phẩm Ca-diếp thì y cứ theo vị để phân biệt nên từ Sơ địa đến Ngũ địa có năm tánh. Từ Lục địa đến Thất địa có năm tánh. Bát địa, Cửu địa có sáu tánh. Thập địa có sáu tánh. Phật tánh của Kim cương hậu tâm có bảy tánh. Nay văn này chẳng phân biệt theo vị để nói sáu hay bảy, chỉ y cứ theo nhân vị của Thập địa Không để phân biệt, phối hợp với các Địa nhưng phải biết rõ là nói chung cho mười địa. Đương kiến và khả chứng đều chưa đắc. Giai vị dưới quả Phật trở xuống đều nói theo thuyết này.

4/ Phật tánh của Bát trụ trở xuống đến Lục trụ có năm đức là Tịnh, Chân, Thật, Thiện và Khả kiến.

5/ Phật tánh của ngũ trụ trở xuống đến Sơ trụ có năm đức là Tịnh, Chân, Thât, Thiện bất thiện và khả kiến.

Kế là giải thích biết tướng Như Lai. Có Nhất thể và Biệt thể.

Trước nói về thể Thường Lạc.

Kế là nói chỉ bày đạo để thấy (khả kiến), tức là nêu tự thể riêng.

Giải thích chương thứ tư là biết pháp.

Cũng có đủ hai nghĩa:

  1. Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là pháp nhất thể.
  2. Vô thường v.v… là biệt thể.

Thường, lạc tức là Nhất thể Tăng, tướng đệ tử này là Biệt thể Tăng.

Giải thích môn thứ sáu là biết thật tướng.

Thể thật tướng thì chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải có, chẳng phải không. Nếu nói theo dụng thì cùng khắp các quả, tất cả đều có nghĩa khác nhau.

Giải thích môn thứ bảy là biết hư không. Môn này ở trước chưa nói mà nay làm lời kết luận các môn. Văn kinh có ba:

  1. Nói về chân không
  2. Nói về sự không.
  3. Nói về Niết-bàn không.

Không thì chẳng khác nhưng y cứ theo pháp thì có ba. Vả lại, chỉ có hai Không, thì Niết-bàn thuộc về Chân không.

Đầu tiên nói về Chân không nên nói là Tuệ nhãn thấy được, cái thấy này tức là thấy mà chẳng thấy.

Từ câu “Này thiện nam! Không gọi là vô pháp, v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Không của sự đoạn. Nêu điều này để làm dụ.

Từ câu “Này thiện nam! Tánh của chúng sinh, v.v…” trở xuống là nói về Niết-bàn không. Văn kinh nói vì ánh sáng nên gọi là hư không. Có hai cách giải:

1/ Cho rằng hư không chẳng thể thấy, chỉ có công dụng để ánh sáng chiếu thông, nếu chỉ là không thì chẳng có mầu sắc ánh sáng. Như sắc do hư không mà thấy được, nếu sắc có chướng ngại thì chẳng thể thấy sắc. Do hư không chẳng chướng ngại nên thấy ánh sáng mầu sắc.

2/ Hư không chẳng phải là pháp mà thức tâm thấy được, thức tâm chỉ thấy ánh sáng, dẫn sinh ra tâm hành mới thấy được hư không.

Từ câu “Niết-bàn v.v…” trở xuống là đoạn ba, liệu giản, tức phân biệt bốn loại. Văn có bốn:

  1. Phân biệt Niết-bàn. Vì là đức riêng nên chỉ có vắng lặng mầu nhiệm.
  2. Phân biệt Phật tức nói về người. Người bao gồm pháp nên có hai lạc: Chứng Niết-bàn thì có Tịch diệt lạc; có trí chiếu cảnh nên có Giác tri lạc.
  3. Phân biệt thật tướng. Đã thông đạt nên có ba lạc.
  4. Phân biệt Phật tánh Trung đạo. Vị lai sẽ thấy nên có Bồ-đề lạc, đây là nói theo chánh nhân.

Từ câu “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nghĩa. Có hai: một, là hỏi; hai, là kết luận, vặn hỏi. Phần hỏi chánh có ba: một, là hỏi nơi đã dứt phiền não là Niết-bàn; hai là , hỏi nơi dứt phiền 6 não chẳng phải là Niết-bàn; ba, là hỏi lại câu thứ nhất.

Câu thứ nhất có hai:

  1. Lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại.
  2. Chánh thức thưa hỏi.

Gạn hỏi có hai ý: đầu tiên là y cứ lời đáp về ma, sau là y cứ Bồ-tát cũng dứt bỏ hoặc này. Câu hỏi này là y cứ vào câu nói ở trước “chính là nơi mà chư Phật dứt phiền não là Niết-bàn”. Lẽ ra chỉ hỏi về phiền não mà lại nói nơi chẳng phải Niết-bàn, đó là sợ rằng Phật lại chuyển sang hỏi ngược lại, vì muốn ngăn chặn ý Phật nên dùng thêm “nơi (xứ)” để thưa hỏi.

Thứ nhất là y cứ theo lời đáp câu hỏi của ma.

Nếu nói dứt phiền não là Niết-bàn, vì sao lúc mới thành đạo đã dứt phiền não thì liền Niết-bàn, vì sao phải đợi có đệ tử học rộng, v.v… mới Niết-bàn? Lại nói rằng sau ba tháng là Niết-bàn, nên Niết-bàn mới dứt phiền não thì chưa phải là Niết-bàn. Đáp câu hỏi của ma vương xuất xứ từ Trường A-hàm.

Thứ hai là dẫn Bồ-tát để thưa hỏi.

Nếu nhất định dứt bỏ phiền não là Niết-bàn thì các Bồ-tát cũng đã dứt, lẽ ra cũng là Niết-bàn.

Từ câu “Nếu dứt bỏ phiền não v.v…” trở xuống là câu thưa hỏi thứ hai.

Đây là ngăn ý Phật, chẳng phải là hỏi đúng, cho nên văn không nhiều. Nếu dứt hoặc chẳng phải là Niết-bàn, vì sao khi xưa Phật bảo Bà-la-môn rằng “Nay thân ta chính là Niết-bàn”. Nếu thân là Niết-bàn thì dứt chẳng phải Niết-bàn, nếu dứt là Niết-bàn thì thân chẳng phải Niết-bàn.

Từ câu “Như Lai lại thường v.v…” trở xuống là thứ ba, hỏi lại câu “nơi đã dứt là Niết-bàn”. Văn có ba ý: một là y cứ theo câu đã trả lời cho ma.

Về ba tháng, nói tháng thì có khác nhau, có thể cho là sau hai tháng, ba tháng, bốn tháng. Nói bốn tháng là thời gian của nhà Chu, nói ba tháng là thời gian của nhà Ân, nói hai tháng là thời gian của nhà Hạ. Ở đây nói ba tháng là dùng thời gian của nhà Ân. Hai là cho rằng chẳng phải như thế, như tháng mười một năm nay, ma thôi thúc Phật nhập Niết-bàn, Phật đáp là sau ba tháng ta sẽ nhập Niết-bàn. Tức y cứ thời gian tại đạo tràng. Ba, là y cứ theo lời dạy của các lực sĩ mà hỏi.

Nói “Bấy giờ” có hai cách giải:

  1. Cho rằng lúc bấy giờ là từ lúc ở đạo tràng, lúc bấy giờ là đã Niết-bàn, vậy đâu cần nói cuối đêm nay sẽ Niết-bàn.
  2. Cho rằng lúc bấy giờ tức là sáng sớm ngày mười lăm tháng hai là thời gian Niết-bàn, vì sao lại nói cuối đêm nhập Niết-bàn?

Đức Phật đáp, có hai ý: Trước đáp thẳng câu hỏi; sau là kết luận nói lỗi của Đức Vương.

Lời thành thật đã chẳng luống dối, huống chi là hiện tướng lưỡi rộng dài, há là luống dối ư? Vả lại, Như Lai biết rõ cơ duyên, ứng thời hợp cơ làm lợi ích, cho nên có khi nói dứt là Niết-bàn, có khi nói dứt chẳng phải Niết-bàn đều là lời chân thật của Phật chỉ dạy.

Sau là phần đáp ba câu hỏi nhưng chẳng theo thứ lớp. Câu đầu tiên đáp câu thứ nhất; câu thứ hai đáp câu sau cùng; câu thứ ba đáp câu thứ hai.

Thứ nhất, có hai câu: Thứ nhất trả lời câu nói của Ma vương.

Ma chẳng biết Niết-bàn, cho rằng im lặng là diệt độ, Đức Phật thuận theo ý ma, chẳng lẽ đó là thể của Niết-bàn ư?

Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi của Bồ-tát.

Nói Phật và Bồ-tát tuy đồng mà có khác, tức Phật có Niết-bàn, Bồ-tát không có, Tăng là thật, cho nên nói Tam bảo có tướng khác nhau, chỉ nói hai pháp thường trụ và thanh tịnh không khác nhau. Văn sau giải thích cũng như thế.

Từ câu “bấy giờ v.v…” trở xuống là ý thứ hai. Trả lời câu hỏi thứ ba là nơi dứt phiền não. Trước nói về dứt ác nên nêu Niết-bàn, sau nói là sinh điều thiện nên nêu Niết-bàn. Nói dứt ác, đầu tiên là pháp thuyết, kế là nêu rộng năm dụ.

Từ câu “Như Lai v.v…” trở xuống là nói vì sinh ra điều thiện cho nên nói Niết-bàn.

Từ câu “Này thiện nam! Có loại Niết-bàn v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba đáp câu hỏi thứ hai “Nơi dứt phiền não chẳng phải Niếtbàn”. Nói về phải và chẳng phải, nếu chẳng thấy Phật tánh chỉ dứt phiền não thì gọi là Niết-bàn, chẳng phải là Đại Niết-bàn. Nếu thấy Phật tánh, dứt phiền não thì được Đại Niết-bàn. Phải và chẳng phải như thế, đâu được nói một bề.

Văn có hai phần:

  1. Nói về phải, chẳng phải.
  2. Giải thích rộng Đại Niết-bàn, gồm mười một câu.

Xưa nay người dẫn câu văn ở đây cho rằng Bát-niết là bất, bàn-na là chức (dệt) mà dịch như thế. Nên biết trong đoạn văn trên không có từ Bàn-na. Vả lại hai chữ thức (biết) và chức (dệt) trong kinh này cũng 66 khác nhau. Mười câu còn lại rất dễ thấy.

Thứ ba kết luận như văn kinh có ghi.

Giải thích công đức thứ tám, gồm có nêu câu hỏi, giải thích và kết luận, thứ nhất như văn kinh có ghi.

Phần giải thích gồm chín việc, có hai đoạn, trước nói về công đức, sau là nói về nghĩa. Thứ nhất lại có hai: trước kể ra chín việc, sau thứ lớp giải thích. Kế chín việc có chín chương, như văn kinh có ghi.

Nói dứt trừ năm việc tức là năm ấm, nhưng thật ra Bồ-tát chưa hoàn toàn dứt sạch năm ấm mà chẳng bị năm ấm che ngăn. Đầu tiên giải thích năm ấm. Trước giải thích chung, sau giải thích riêng.

Đầu tiên là giải thích chung nói ngăn che và gánh nặng.

Từ câu “Tuy thấy v.v…” trở xuống là giải thích riêng.

Sắc ấm là gồm năm căn, năm trần, tổng cộng là mười sắc, tất cả đều do nhân duyên sinh nên không có tự tánh. Nói thọ có một trăm lẻ tám món, gồm hai cách giải thích:

  1. Cho rằng trong thọ ấm không có từ ngữ một trăm lẻ tám, chỉ có hành ấm mới có phiền não gồm chín mưới tám sử và mười triền thành một trăm lẻ tám.
  2. Theo Thích Luận cho rằng trong thọ ấm tự có một trăm lẻ tám món, gồm chung cả sáu căn, mỗi căn có ba, thành ra mười tám. Trong một căn lại có thiện và bất thiện, thành ba mươi sáu, lại nhân với ba đời thì được một trăm lẻ tám.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích môn thứ hai.

Nói lìa bỏ năm kiến, lại nói do năm kiến này mà sinh sáu mươi hai kiến. Câu này có hai cách giải thích:

1/ Cho rằng hợp ngã kiến gồm có năm mươi sáu, biên kiến gồm có sáu, Ngã kiến năm mươi sáu món, năm ấm cõi Dục mỗi cõi đều có bốn kiến tức lìa bốn kiến thành hai mươi. Cõi Sắc cũng như thế tức thành bốn mươi món, cõi Vô sắc chỉ có bốn tâm, mỗi tâm đều có bốn kiến, tức thành mười sáu, cộng với bốn mươi thành năm mươi sáu.

Sáu món của biên kiến tức ba cõi, mỗi cõi đều có Đoạn và Thường tức thành sáu món.

2/ Cho rằng chỉ y cứ theo biên kiến là sáu mươi hai chẳng nói thân kiến và nói theo ba đời mà thành. Hiện tại có ngã và vô ngã, bốn kiến nhân năm ấm thành hai mươi. Vị lai có hữu biên, vô biên kiến thành hai mươi. Quá khứ có như khứ và chẳng như khứ bốn kiến thành hai mươi, tổng cộng là sáu mươi, lại chẳng lìa Đoạn và Thường nên thành sáu mươi hai món.

Phẩm quán Niết-bàn trong Trung luận nói sau khi Phật diệt độ, y cứ vào Phật mà sinh hai kiến chấp đoạn thường, lại ý cứ vào quá khứ, vị lai chẳng nói hiện tại mà chấp Như Lai là như khứ và chẳng như khứ, lại y cứ theo năm ấm mà thành hai mươi món. Thường và vô thường bốn kiến nhân với năm ấm thành hai mươi. Vị lai hữu biên, vô biên nhân với năm ấm cũng thành hai mươi, cộng với đoạn và thường thành sáu mươi hai kiến chấp.

“Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích chương ba.

Thành tựu sáu niệm xứ đồng với phẩm Phạm Hạnh chỉ hơi khác nhau về thứ lớp.

Từ câu “Thế nào là tu v.v…” là giải thích chương thứ tư.

Tức là tu tập năm định, trước là bốn Thiền định, sau là Bát-nhã. Tri định tức Sơ thiền, vì có giác có quán cho nên được. Tịch định tức là Nhị thiền, vì không còn giác quán cũng gọi là Thánh im lặng, nên gọi là Tịch. Thọ khoái lạc, tức Tam thiền. Lạc thọ cùng tột cho nên được, định vô lạc tức Đệ Tứ thiền đã dứt khổ lạc tức xả thọ. Định Thủ-lăng-nghiêm lại có chung và riêng, chung thì suốt tử Thập địa về trước cho đến Địa tiền, riêng thì chỉ trong mười địa, lại tu một trăm lẻ tám Tam-muội mới được định này.

Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương năm.

Nghĩa là giữ gìn tâm Bồ-đề, tùy pháp thiện đã tu tập, tất cả đều là hạnh Bồ-đề. Văn có pháp, dụ và hợp.

Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương sáu. Tức bốn Tâm vô lượng.

Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương bảy.

Tức là Nhất thừa, Nhất thừa là thật, kinh Pháp-hoa nói: “Chỉ một sự thật này, nếu hai thì chẳng chân”.

Từ câu “Thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương tám.

Tâm và tuệ khác nhau, có hai cách giải thích:

  1. Dung Thành cho rằng duyên với tục đế nào mà tâm chẳng khởi tham sân tức là tâm Giải thoát, duyên với chân đế tâm không còn vô tri thì gọi là Tuệ Giải thoát.
  2. Cho rằng dứt tham sân là tâm Giải thoát. Dứt vô minh là Tuệ Giải thoát. Dẫn luận rằng: “Phiền não thuộc về tâm, vô minh thuộc về tuệ”.

Từ câu “thế nào là v.v…” trở xuống là giải thích chương chín.

Như trên giải thích, nói nhờ có Tuệ Giải thoát nên xưa chẳng nghe mà nay được nghe v.v… có hai cách giải thích:

  1. Cho rằng nghe là tai trời, thấy là mắt trời, cho đến tức thân thông.
  2. Cho rằng Cửu địa là nghe thấy Phật tánh, Thập địa là mắt thấy Phật tánh, rõ ràng đầy đủ. Nay nhờ tuệ Giải thoát nên đến Cửu địa tức chẳng nghe mà nghe. Nhờ Cửu địa mà đến Thập địa tức chẳng thấy mà thấy. Nhân Thập địa mà đến Phật địa tức chẳng đến mà đến.

Từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần thứ hai nói về nghĩa. Tức nói về tâm Giải thoát ở tám chương trước, trước là hỏi, sau là đáp.

Hỏi thì gồm có ba câu:

  1. Y cứ theo vốn không, tức đạo mà hỏi.
  2. Y cứ theo vốn có, tức buông mà hỏi.
  3. Y cứ theo bất định để hỏi. Tất cả đều là Giải thoát, trói buộc. Thứ nhất có hai: lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại, sau là vặn hỏi.

Ý hỏi là nếu tâm vốn đã có phiền não thì chẳng đúng, nếu tâm vốn không có phiền não cũng chẳng đúng. Nếu chắc chắn có phiền não cũng chẳng đúng, nếu nhất định là không thì cũng chẳng được.

Thứ nhất, câu hỏi y cứ theo nghĩa vốn không, gồm có chín câu, gom vào ba ý:

  1. Một câu nói về tâm không buộc không thoát.
  2. Năm câu nói về tâm không buộc.
  3. Ba câu sau nói về tâm không thoát.

Thứ nhất gạn hỏi không buộc không thoát.

Từ câu “Nếu bản tánh của tâm v.v…” trở xuống là ý thứ hai, gồm năm câu nói về tâm không buộc. Văn có hai: Bốn câu trước nói không bị ràng buộc.

Một câu sau nói không thể buộc.

Nêu dụ đóng cọc, tức đóng cọc vào hư không thì không biết nương vào đâu mà đứng vững.

Từ câu “Nếu tâm, v.v…” trở xuống là ý thứ ba, gồm có ba câu nói về không Giải thoát, gồm có ba: trước nói về không Giải thoát, thứ hai, nói về không có người Giải thoát, thứ ba nói về không đắc đạo Giải thoát.

Từ câu “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo vốn có tức buông mà hỏi. Văn có hai ý:

  1. Nói nếu có thì tâm thiện có tham.
  2. Từ câu “Thí như cọ xát cây lấy lửa v.v…” trở xuống là ứng với cảnh trước mắt mà có tham. Thứ nhất có hai: trước nêu pháp thuyết, sau là nêu dụ.

Phần pháp thuyết ý nói nếu cho tâm vốn có tham thì cũng chẳng được, nếu có thì chẳng do nhân duyên. Nay đã do sắc kia mà tham khởi thì biết chẳng phải vốn có. Vả lại, nếu tâm vốn có tham thì chẳng thể làm cho không có, vậy lẽ ra chẳng được Giải thoát mà tâm lẽ ra cũng thường là tham.

Kế đến dùng cảnh đối với tâm cũng như thế mà hỏi.

Từ câu “Tâm cũng bất định” trở xuống là đoạn ba, y cứ vào bất định để hỏi. Có ba: Thứ nhất nói về tâm bất định.

Kế là nói tham bất định.

Thứ ba là nói tham và cảnh cũng đều bất định.

Từ câu “Bấy giờ Thế Tôn v.v…” trở xuống là phần hai, Đức Phật trả lời. Có người cho rằng theo thứ lớp đáp ba câu hỏi trước, tức ba câu riêng. Đầu tiên là đáp câu “vốn không”.

Từ câu “Có các ngoại đạo v.v…” trở xuống là đáp câu thứ hai “vốn có”.

Từ câu “Này thiện nam! chư Phật v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba “bất định”.

Ở đây cho rằng chẳng phải như thế, vì đâu có nơi nào theo thứ lớp hỏi đáp đối nhau. Vả lại xem ý văn, hoàn toàn cũng chẳng liên quan. Ở đây tùy theo nghĩa mà chia làm ba, trước là y cứ theo nghĩa chánh, thứ hai là phá chấp, thứ ba là nói rộng về nhân duyên Trung đạo.

Đây là đoạn thứ nhất nói thể của tâm chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải tâm, chẳng phải phi tâm, chẳng tham, chẳng phải không tham, mọi việc đều phi, cả hai đều xả, như thế há chẳng phải là chánh nghĩa Trung đạo hay sao?

Kế là từ câu “Có các ngoại đạo v.v…” trở xuống là ý thứ hai, phá chấp nhất định. Lại có hai đoạn: Trước phá chấp có; sau pháp chấp không. Nếu ông cho rằng tâm có nhất định tham, nhất định không tham thì đồng với Ni-kiền Tử.

Văn thứ nhất có hai: trước nêu rộng về sở chấp.

Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là phần thứ hai, kết luận nêu lỗi và quở trách.

Từ câu “Có các phàm phu v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá chấp không. Cũng có hai: trước nêu sở chấp.

Từ câu “Những người như thế v.v…” trở xuống là chánh thức quở trách, kết thành lỗi. Văn có pháp và dụ.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói rộng về nghĩa nhân duyên Trung đạo, không có chấp nhất định. Văn có hai:

  1. Nói về nhân quả, các pháp chẳng phải có chẳng phải không, vì nhân duyên cho nên có.
  2. Nói về tâm có tham cũng có cũng không, vì nhân duyên nên có.

Văn thứ nhất có ba: một, là nói lìa bốn câu.

“Nếu nói v.v…” trở xuống là thứ hai, chấp nhất định là sai.

Từ câu “chư Phật, Bồ-tát v.v…” trở xuống là ý thứ ba, chinh thức nói lên pháp Trung đạo.

Từ câu “chư Phật v.v…” trở xuống là chương hai, chính thức nói về tâm có, tham chẳng phải có chẳng phải không. Vì nhân duyên cho nên có, văn có hai:

  1. Nói tâm tánh vốn thanh tịnh, không nhất định chẳng phải có chẳng phải không.
  2. Nói tâm tánh vốn nhất định không có hòa hợp.

Văn thứ nhất lại có ba là nêu lên, giải thích và kết luận.

Giải thích có ba: một, là nêu chương môn.

Gồm hai môn là từ duyên sinh tham, từ nhân duyên mà giải thoát.

Từ câu “Nhân duyên có hai v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích hai môn.

Từ câu “Vì có nhân duyên v.v…” trở xuống là ý thứ ba, phân biệt bốn câu.

Thứ ba, từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống, là kết luận về nhân duyên.

Từ câu “Này thiện nam! Tâm này không cùng v.v…” trở xuống là nói vì nhân duyên hòa hợp cho nên có buộc và thoát.

Nói rốt ráo thanh tịnh nên không hòa hợp.

Từ câu “chư Phật, Bồ-tát, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về nhân duyên hòa hợp có buộc và thoát. Văn có hai: trước nói về cảnh buộc và thoát; sau nói về người bị buộc và được thoát. Về cảnh, văn có hai là nêu lên và giải thích.

Nêu cảnh: Trừ tham dục là được cảnh giải thoát, có tham dục là cảnh trói buộc.

Kế là từ câu “Thí như nơi cao v.v…” trở xuống là giải thích môn thứ hai. Gồm có hai: Trước là giải thích cảnh trói buộc, gồm có hai đoạn: một là dụ; hai là hợp.

Núi dụ cho tám Chánh đạo, cao chót vót dụ cho khổ hạnh khó làm; người dụ cho ma; khỉ vượn dụ cho ngoại đạo; cả hai đều chẳng đi

được, dụ cho ma trụ ở cõi Dục; cả hai đều đi được, dụ cho năm trần, sáu dục đều có thể vào; thợ săn lại dụ cho ma và tà đạo; keo dính dụ cho cảnh ái dục; đặt bày trên bàn dụ cho năm dục bày trên quả báo để dối gạt chúng sinh; dùng tay lấy dụ cho mắt, tai v.v… xúc đối với sắc, thanh v.v… Tay dính vào tức trong tâm sinh khởi chấp trước; năm chi đều dính chặt dụ cho năm căn nhiễm ô; dùng gậy xỏ qua là dụ cho hạnh giáo hóa của ma và tà đạo; mang về nhà là dụ cho sắp rơi vào ba đường ác.

Hợp dụ như văn đã ghi.

Từ câu “Thí như quốc vương v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích cảnh được Giải thoát, tức bốn Niệm xứ.

Từ câu “vì sao lệ thuộc, v.v…” trở xuống là nói về người bị buộc và được thoát. Có hai: trước nói về người bị buộc; sau nói về người được thoát. Về người bị buộc có bốn ý:

  1. Khởi điên đảo nên bị buộc.
  2. Chấp tướng nên bị buộc.
  3. Vì ngã kiến nên bị buộc.
  4. Vì phi pháp nên bị buộc.

Văn nói: “Bỏn sẻn với người” tức là nhà này đối với ta rất tha thiết, ta chẳng cho người khác đến. Nói về “danh tiếng” thì chỉ được khen một mình ta thôi, không cho khen người khác.

Từ câu “Nếu có người v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về người được giải thoát.

Văn tóm lược, chỉ nêu một lời kết luận ở sau, như văn kinh có ghi.

 

PHẦN 6

Đầu quyển nói về công đức thứ chín. Khai Thiện cho rằng từ công đức thứ nhất đến công đức thứ sáu, bắt đầu từ chẳng nghe mà nghe đến tâm Kim cương. Công đức thứ bảy, công đức thứ tám bắt đầu từ bạn thiện đến Tuệ Giải thoát. Công đức thứ chín, thứ mười bắt đầu từ tín tâm cho đến ba mươi phẩm Trợ đạo. Quyển này là vòng thứ ba. Có Sư cho rằng chẳng đúng như thế, mười công đức này tạo thành từng cặp, lúc cạn lúc sâu, trang nghiêm năm hạnh trước.

Ở đây, chẳng cho như thế, năm hạnh là nói về tu; mười công đức là nói về chứng. Công đức của chứng thì có sâu cạn khác nhau. Nếu thế thì vì sao trước sâu sau cạn?

Đáp: Cũng có ý này, như ở công đức thứ nhất nói là chẳng chung cho Thanh văn và Bích-chi-phật, sau cùng là nói ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Nghe nói danh từ đạo phẩm thì nói rằng đó là cạn cợt, nếu nói về nghĩa lý thì vượt hơn Nhị thừa, v.v…

Toàn quyển được chia thành ba là: Nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất như văn kinh có ghi.

Kế là giải thích, gồm có hai phần: Trước nói về năm việc, sau nói về nghĩa. Thứ nhất có ba: Một là nêu năm việc; hai, là giải thích; ba, là hỏi. Nêu năm việc lại có hai: Một, là đề ra. Kế là kể tên năm việc.

Tín do bên trong phát khởi, thấy được Thánh tánh. Trực tức là trực khởi tâm, chẳng phải từ duyên do. Giới là tánh giới, bạn thiện đầy đủ Bồ-đề, học rộng tức là nghe ở nơi chẳng nói. Năm việc này đều y cứ theo lý mà giải thích, đâu thể cho là cạn cợt, trong văn có thể thấy.

Từ câu “Thế nào gọi là tín v.v…” trở xuống là phần thứ hai giải thích, gồm có năm chương. Đầu tiên nói về tín, có ba câu:

  1. Tín thể.
  2. Tín đức.
  3. Kết luận.

1. Tín thể: Tin những pháp gì? Gồm nêu lên năm pháp: 1. Tin Tam bảo; 2. Tin nhân quả; 3. Tin hai Đế; .4 Tin Nhất thừa; 5. Tin ba Đế.

Có Sư cho rằng tin Đệ nhất nghĩa Đế là tin chân; tin phương tiện khéo léo là tin tục. Có sư cho rằng trước đã nói hai Đế rồi đâu cho lặp lại nữa. Y cứ theo kinh Hoa-nghiêm nói: “Nếu khen ngợi Bồ-tát thì nêu tên hai trí; nếu khen ngợi Phật thì nêu tên hai thân”. Chỉ có một thể, tùy ẩn và hiển mà tên có khác nhau. Có sư cho rằng Đệ nhất nghĩa Đế và phương tiện khéo léo là hai thân cũng là hai trí.

Nay nói văn này tự nói là Đệ nhất nghĩa Đế, đâu cho sửa đế là trí là thân. Nay lập ba Đế thì tự đã khác với hai đế, không thành nói lại, mà văn kinh lại y cứ theo Nhất thừa để hiển bày ý nghĩa của tín nhưng vì chúng sinh nên phân biệt nói ba. Vì biết không khác đường nên nói là một. Y cứ theo một việc này thì thông suốt bốn pháp kia. Tam bảo cũng như thế, vì chúng sinh nên phân biệt thành hai thể, biết trở về chỗ chí cực nên nói một thể. Nhân quả cũng thế vì chúng sinh nên nói từ nhân cho đến quả, đến chỗ người kia rồi thì chẳng có người thí, chẳng có người thọ. hai Đế, ba Đế cũng như thế.

2. Tín đức:

Từ câu “Người tin như thế v.v…” trở xuống là giải thích Tín đức.

Giải thích có bốn ý thứ lớp nối tiếp nhau mà sinh, tín này bền chắc chẳng ai hoại được, vì sao? Vì được tánh của bậc Thánh làm cội gốc, tức là tâm tin thấy tánh sâu chắc khó nhổ lên được. Vì gốc sâu nên sẽ lớn thêm, gần gũi Đại Niết-bàn, thành tựu giới, v.v…

Đầu tiên tất cả các pháp đều từ Thánh tánh, gần gũi Đại Niết-bàn là dọc cao, giới, học rộng, trí tuệ v.v… tức là ngang rộng. Tuy có dọc cao ngang rộng khác nhau mà chẳng thấy tướng ngang dọc, rộng sâu. Nói về tín như thế, đâu thể vội cho là cạn cợt.

3. Kết luận.

Kế là giải thích việc thứ hai, gồm có ba là nêu lên, giải thích và kết luận. Thứ nhất là nêu lên. Văn giải thích có hai:

  1. Chẳng tà vạy là trực tâm.
  2. Lấy sám hối làm trực tâm.

Thứ nhất nói chẳng tà vạy, có hai đoạn là giải thích và nói về nghĩa. Phần giải thích có chánh giải thích và giải nghi, thứ nhất là chánh giải thích.

Vì hiểu nhân duyên cho nên chẳng tà vạy.

Từ câu “Tuy thấy các…” trở xuống là giải thích nghi.

Qua lại giải thích cho nhau. Đầu tiên thấy điều ác mà chẳng nói; sau thấy điều thiện thì khen ngợi nên nghi rằng thấy điều ác lẽ ra nên nói mà lại chẳng nói, đó là chẳng trực tâm. Thế nào là Trực tâm? Giải thích: Sợ sinh phiền não. Lại nghi: Lại thấy điều ác chẳng nói, thấy điều thiện lẽ ra chẳng nên nói mới đúng là Trực tâm. Kế đến nói: “Chẳng phải như thế” tức là giải thích: Khen ngợi Phật tánh để được Bồ-đề.

Kế là trong phần nói về nghĩa có hỏi và đáp. Hỏi có sáu câu, gồm ba cặp. Hai cặp đầu tiên từ phẩm Hiện Bệnh mà sinh. Có người nói ba loại, năm loại người bệnh. Kế là hai câu là từ công đức thứ nhất sinh. Hai câu cuối là từ văn này sinh.

Y cứ hai câu đầu, câu thứ nhất gồm có ba: thứ nhất bác bỏ ngược lại ý chỉ của Phật.

Kế là nói lại ý chỉ khi mới nói kinh Niết-bàn.

Từ câu “nếu gặp hay chẳng gặp v.v…” trở xuống là thứ ba, chinh thức thưa hỏi.

Đã tự phát được tâm Bồ-đề thì đâu cần Phật tánh mới được Bồ-đề. Đây là y cứ theo người bệnh thứ ba để thưa hỏi.

Câu thứ hai của cặp thứ nhất, có hai ý: trước lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại; sau là chính thức hỏi.

Đây là nói hàng Nhất-xiển-đề cũng phát tâm được. Vì sao? Vì họ đã có Phật tánh lẽ ra tự có thể phát tâm đâu cần đợi khen ngợi. Đây là y cứ theo người bệnh thứ hai để hỏi.

Từ câu “Như lời Phật nói v.v…” trở xuống là câu thứ hai từ công đức thứ nhất khởi phát. Trong quyển mười hai nêu năm câu hỏi, trong đó có hai câu đầu y cứ theo người phạm bốn giới trọng, hai câu kế y cứ theo Nhất-xiển-đề, một câu cuối là y cứ theo bất định. Phật đáp rằng “Phật tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng thường chẳng vô thường, vì thế chẳng đoạn”: Bây giờ lại nhân đó mà khởi nghi, vặn hỏi.

Đầu tiên là lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại.

Kế đến là chính thức vặn hỏi.

Đã nói chẳng đoạn Phật tánh, vì sao lại nói là cắt đứt gốc thiện? Chỉ vì Phật tánh này là gốc thiện, đã cắt đứt gốc thiện tức là cắt đứt Phật tánh. Vì sao lại nói Phật tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài?

Từ câu “Như khi trước v.v…” trở xuống là câu vặn hỏi.

Nếu Phật tánh chẳng bị cắt đứt, vì sao chẳng ngăn chặn để khỏi đọa địa ngục? Đã chẳng dứt bỏ phiền não, chỉ cắt đứt gốc thiện, vì có Phật tánh lẽ ra phải có công năng ngăn chặn các điều ác? Lời đáp chưa được rõ nên phải nói về nghĩa.

Từ câu “Nếu do Phật tánh, v.v…” trở xuống là thứ ba, lại có hai câu hỏi, gần từ đây mà sinh.

Nếu khen ngợi Phật tánh mà khiến phát tâm thì đâu cần nói mười hai thể loại kinh? Nhưng khen ngợi Phật tánh đã tự có đầy đủ ý nghĩa.

Văn đã có pháp, dụ và hợp.

Từ câu “chư Phật Như Lai v.v…” trở xuống là câu hỏi sau.

Từ công đức thứ tám, Đức Phật đáp là tâm tham chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải nhân chẳng phải quả; hoặc nói trong nhân có quả, hoặc nói trong nhân không có quả. Nay y cứ theo đây để hỏi, nếu như thế thì trong sữa không có lạc, cây không cao năm trượng. Nếu trong sữa có lạc, có cây cao năm trượng thì nên biết trong nhân có quả, chẳng nên vọng nói là không.

Từ câu “bấy giờ, Đức Thế Tôn, v.v… trở xuống” Là Đức Phật đáp, có hai ý: một, là khen ngợi; hai, là đáp.

Khen ngợi có hai: một, là khen ngợi câu hỏi; hai, là nêu năm câu khen ngợi công dụng.

Đầu tiên là nêu sáu loại hai người, khen ngợi họ khai phát đại chúng khiến được Giải thoát, chẳng những dứt nghi cho người ở hiện tại mà còn khiến cho chúng sinh ở đời vị lai không còn dính mắc. Thật là ít có cho nên khen ngợi. Hai người đầu tiên, người thứ nhất vốn chẳng gây ra điều ác, người thứ hai đã gây ra điều ác lại sám hối tức là đứa bé khỏe mạnh đã dụ ở trước. Người thứ hai biết ân báo ân, người ban ân cho ta, ta cần phải báo đáp. Người thứ ba, một là nghe nhận pháp mới; hai là ôn luyện pháp cũ. Sách nói “ôn cũ biết mới mới đáng làm thầy”. Người thứ tư, là sáng tạo việc mới tốt đẹp, hai là tu bổ việc cũ. Người thứ năm, thích nói, thích nghe pháp. Nếu không có người nói thì nghe điều gì; nếu không có người nghe thì nói cho ai? Người thứ sáu, thứ nhất là khéo hỏi; thứ hai là khéo đáp. Ý chánh là ở hai vị này, còn năm hạng người kia là chỉ đễ dẫn dắt mà thôi. Khéo hỏi là ông, khéo đáp là ta. Không có ta khéo đáp thì đâu có được ông khéo hỏi. Có người thuận nghịch đều thông, biện luận trôi chảy, năng làm chủ làm khách. Có người chỉ được một mà không được hai. Như môn hạ của Trang Nghiêm là Pháp sư Tịnh Tạng chỉ khéo hỏi mà không thể đáp. Có người chỉ khéo giải thích mà nói nghĩa thì chẳng thông, như Chánh Công ở Bành thành, v.v…

Nay suy ra sáu cặp ở trước thành năm câu nói ở sau, trong đó hai cặp luôn nghe luôn nói, khéo hỏi khéo đáp thành câu xoay bánh xe pháp. Tạo mới sửa cũ thành cây khô mười hai nhân duyên, chấp có là mới, vô minh là cũ; chẳng sinh là mới, khi Thế đế chết là cũ, phá mới gọi là tạo pháp mới; dùng cũ phá cũ gọi là sửa cũ. Làm ân nhớ ân thành câu vượt biển, ban ân tức vì người mà làm chiếc thuyền; nhớ ân tức tự lái chiếc thuyền này, vì thế thành câu vượt biển. Cặp chẳng tạo ác, tạo rồi thì sám hối thành câu phá dẹp cờ ma. Ma lấy ác làm cờ, nay ta phá đổ lại tự xây dựng chánh pháp. Các câu trước sau thành tựu cho nhau.

Khen ngợi sinh điều thiện là một câu đầu; khen ngợi diệt ác là bốn câu sau.

Đã nói: “Nhờ câu hỏi khéo léo này mà xoay được bánh xe pháp vô thượng”. Đó há chẳng phải là nghĩa sinh ra điều thiện hay sao?

Bốn câu sau được chia làm hai:

  1. Hai câu đầu khen ngợi dứt ác.
  2. Hai câu sau khen ngợi phá ác.

Hai câu này, câu trên khen là làm khô cây mười hai nhân duyên. Nghĩa là mười hai nhân duyên cành lá sum suê cao vót dụ như cây lớn, nay làm khô chết cây này thì hoa lá chẳng mọc nữa.

Câu “Vượt qua biển sinh tử vô biên”, nghĩa là biển sinh tử nổi sóng gió đáng sợ mà nay vượt qua được, mãi mãi tránh được hiểm nguy không còn kinh sợ.

Chiến đấu với ma, đây là nói lúc khởi đầu; đạp ngã cờ cao của ma là nói lúc cuối cùng. Nêu cuối cùng để gạn nhiếp khởi đầu. Ở Ấn-độ khi thắng trận là dựng cờ, khi thua trận thì phá đổ cờ này. Nay bại trận nên ma tự đạp ngã cờ của chúng.

Kế là trong lời đáp, theo thứ lớp đáp có ba cặp sáu câu hỏi. Đầu tiên đáp hai câu hỏi về ba bệnh ở trước. Kế là đáp câu hỏi về công đức thứ nhất, sau cùng là đáp câu hỏi về văn này.

Chỉ trả lời hai câu trước nhưng chẳng theo thứ lớp. Giải thích ba thứ người bệnh xong tức là trả lời hai câu hỏi thứ nhất. Nếu theo lý thì chỉ nên giải thích hai loại người bệnh thứ nhất và thứ ba, mà nay lại giải thích người bệnh thứ hai chẳng cần lấy đây làm câu trả lời, chỉ vì ở giữa đã nêu lên mà nay theo thứ lớp giải thích nên phải nói, nếu kia chẳng nêu thì đây cũng chẳng giải thích.

Từ câu “Nhất-xiển-đề, v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ ba.

Trước đã nói nếu chẳng dứt Phật tánh lẽ ra cũng chẳng dứt gốc thiện, vì gốc thiện tức là Phật tánh, Phật tánh tức là gốc thiện. Nay đáp Trung đạo Phật tánh chẳng đồng với gốc thiện. Vì sao? Vì Nhất-xiển là Tín, đề là chẳng có. Phật tánh chẳng phải tín cũng chẳng phải có thì làm sao có thể dứt. Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải ác, Xiển-đề chỉ có thể dứt điều thiện thì làm sao dứt được tánh? Trong đó các câu đều nói như thế.

Xưa nay đều cho rằng Xiển-đề nghĩa là có đủ các điều ác mà chưa biết dịch thế nào. Chỉ có Hà Tây dịch là Cực Dục. Nói về Cực dục chỉ là ở trong tổng ác, mới lấy một việc để dịch như danh từ Niết-bàn bao gồm các đức, không có từ chánh phiên mà phiên là diệt độ, cũng trong chỗ chung ấy lấy một việc này để phiên dịch, vả lại pháp thiện gọi là sinh rồi mới được. Các sư Số Luận cho rằng thiện có hai loại là sinh đắc thiện và phương tiện thiện. Việc từ hiếu ở thế gian là sinh đắc thiện mà hàng Xiển-đề cũng không có nên nói là đã dứt.

Từ câu “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ tư.

Trước hỏi vì sao chẳng ngăn chặn tội đọa địa ngục, nay lặp lại lời hỏi để trả lời. Nói Phật tánh của Xiển-đề chẳng phải có chẳng phải không. Vì ngay nơi sự cầu mong chẳng được nên nói chẳng có, nhưng lại có lý này cho nên nói chẳng phải không. Vả lại có phương tiện khéo léo nên chẳng phải không, chẳng có phương tiện khéo léo nên nói chẳng phải có. Vì thế nêu cây đàn không hầu để dụ cho có và không. Trước nêu dụ, sau là hợp.

Vua là dụ cho chúng sinh, đàn không hầu dụ cho thân chúng sinh, âm thanh dụ cho Phật tánh, đại thần dụ cho Phật Bồ-tát khéo giảng nói pháp mầu, bứt dây đàn dụ cho thân mạng đã hết, chẻ cây xé da dụ cho năm căn bốn đại, tìm cầu chẳng được tức là không có phương tiện, nên chẳng phải có.

Hợp dụ, Phật tánh không có nơi chốn tức chẳng phải có, vì có phương tiện khéo léo nên thấy được tức chẳng phải không.

Từ câu “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ năm và thứ sáu, nói lẽ ra có tánh nhất định.

Ý của lời đáp là nêu chẳng có tánh nhất định vì nhân duyên cho nên có. Nếu trong sữa chắc chắn có tánh lạc thì đã tự sinh, chẳng nhờ tìm nước cây, đã nhờ vào các duyên thì biết trong nhân không có quả. Nhưng trước đã lập sáu câu hỏi mà nay chỉ bị một lời quở trách. Vì sao?

Đáp: Cho và đoạt đều hợp thời nghi đều vì lợi ích, chính là nói các câu hỏi này thuộc về chấp tánh, nghĩa tánh này đồng với ngoại đạo. Nhờ vào chánh để quở trách tà. Chê là người ngu si thật ra chẳng phải quở trách Bồ-tát Đức Vương. Câu đáp là gồm đáp câu thứ năm. Khen ngợi điều thiện đã tự đầy đủ thì đâu cần nói mười hai thể loại kinh. Nay nói đã không có tánh, nhân duyên nhất định mà có cho nên phải nói mười hai thứ làm duyên.

Kế là dùng sám hối để nói về trực tâm. Nếu có tội mà chẳng sám hối thì chẳng phải trực tâm. Văn có ba đoạn: thứ nhất, từ câu “dù có tội v.v…” trở xuống là nói về sám hối.

Kế là từ câu “Với thầy v.v…” trở xuống là phát lộ.

Thứ ba, từ câu “Hổ thẹn tự trách v.v…” trở xuống là nói dứt trừ tâm nối nhau.

Kết luận như văn kinh ghi.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là giải thích Giới. Văn có hai: một, là lìa giới ác.

Tức chấp lấy tướng của trâu, chó v.v… để làm theo. Có ngoại đạo tu được thần thông, thấy trâu chó chết đi được sinh lên cõi trời, liền học theo cách sống của trâu chó, cầu mong được sinh lên cõi trời. Các giới khác cũng như thế.

Kế là nói được giới thiện. Như văn kinh có ghi.

Từ câu “Thế nào v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, giải thích bạn thiện. Văn có bốn: nói về đúng, nói về chẳng đúng, dẫn chứng về đúng, dẫn chứng về chẳng đúng. Đầu tiên nói về đúng. Văn có hai: một, là Bồ-tát là đúng, hai là nói Như Lai là đúng.

Sát-đa thấy Phật được sinh lên cõi trời, có hai cách giải thích:

  1. Các sư Số luận cho rằng phải có định cõi trên mới được sinh lên cõi trời. Nay nhờ Phật lực, phát được định khi xưa đã tu cho nên được sinh lên cõi trời.
  2. Cho rằng thấy Phật thì chế phục được các điều ác của cõi dưới, thuận theo tánh thiện mà được sinh lên cõi trời.

Từ câu “Tuy có…” trở xuống là thứ hai, nói về chẳng đúng.

Đã chưa biết rõ căn cơ thì chẳng xứng hợp với duyên cho nên nói chẳng đúng. Như Lai xứng hợp với duyên biết thuốc biết bệnh nên nói là đúng.

Từ câu “Khi xưa v.v…” trở xuống là ý thứ ba chứng dẫn về nghĩa chẳng đúng.

Quán xương trắng là thiền bội xả, quán sổ tức là thiền căn bản. Xưa nói thợ kim hoàn biết xem sắc của lửa nên dạy sổ tức. Ở đây chẳng cho là như thế, thợ kim hoàn khéo điều khiển búa vì giúp cho thói quen nên dạy sổ tức.

Nay nói thêm rằng theo luận Trang Nghiêm ghi: “Khéo thổi bể lò rèn, thì khéo biết hơi thở”. Người giặt y phục khéo biết tướng tịnh, nên dạy quán xương trắng. Chẳng đúng như thế, vì người giặt áo quần ghét sự nhơ uế nên dạy quán bội xả dễ hơn.

Từ câu “Ví như v.v…” trở xuống là thứ tư, dẫn chứng cho việc đúng. Như văn kinh có ghi.

Từ câu “Thế nào là đầy đủ học rộng, v.v….” trở xuống là giải thích chương năm, văn có năm đoạn.

Một việc trước là y cứ theo lời văn, bốn việc sau là y cứ theo nghĩa lý. Mười hai thể loại kinh thì văn nhiều nghĩa xa. Tỳ-Phật-lược văn ít mà nghĩa thiết yếu, vì nghĩa thiết yếu nên gọi là học rộng. Nói trừ mười hai thể loại, chỉ cho thọ trì kinh Niết-bàn này. Ở đây chẳng nói lý Niếtbàn ở ngoài mười hai bộ kinh, mà chính là nói văn của mười bộ loại kinh này quá rộng, bỏ rộng theo lược mà lý ấy vẫn giữ, đó là học rộng, đâu cần phải ở nơi lời.

Lại nói không theo toàn thể bộ kinh, chỉ giữ bốn câu kệ, lại không giữ bốn câu kệ, chỉ thọ trì một câu thường trụ, lại không thọ trì một câu thường trụ mà chỉ giữ lấy im lặng, nên biết giảm lại càng giảm, cho đến không còn làm gì. Thông suốt được lý này tức là học rộng, chẳng y cứ theo việc thọ trì nhiều văn ngôn mà gọi là học rộng.

Kế là từ câu “Nếu có v.v…” trở xuống là đoạn ba, khen ngợi. Văn có hai là pháp thuyết khen ngợi và dụ thuyết khen ngợi. Pháp thuyết có hai là nêu ba chương và giải thích.

Giải thích có hai:

  1. Giải thích ba việc.
  2. Chẳng chấp giữ.

Như văn kinh có ghi.

Dụ thuyết có ba: một, là dụ về khó bố thí. Cũng có hợp.

Kế đến dụ về khó nhẫn, khó làm. Cũng có hợp, dụ.

Thứ ba, là lập dụ về không chấp đắm có pháp, dụ và hợp.

Từ câu “bấy giờ, Quang Minh v.v…” trở xuống là phần thứ hai, nói về nghĩa. Gồm có hai phen hỏi đáp. Thứ nhất là hỏi đáp, có hai: một, là định hai ý; hai, là gạn hỏi hai ý.

Đầu tiên định hai ý là định tự không và định không không.

Nếu tự tánh là không là kết câu thứ nhất thành một lời hỏi. Nếu tự tánh chẳng không tức kết câu thứ hai thành một lời hỏi.

Từ câu “này ngưới thiện nam” trở xuống là lời đáp, có hai: một, là đáp câu thứ nhất tánh vốn tự không. Vì sao? Vì văn sau nói tất cả pháp không thật có thì há chẳng phải là không ư? Hai, tức cũng phải tu không mới được không. Vì bản tánh của nó theo lý vốn là không mà chẳng thể thấy được, phải tu không mới thấy được không.

Đã đáp hai câu ấn định thì hai câu thưa hỏi tự phá. Đáp câu ấn

định thứ nhất, gồm có ba: Một, là lược nêu.

Kế là từ câu “Vì sao v.v…” trở xuống là giải thích rộng.

Thứ ba là từ câu “Vì tương tự v.v…” trở xuống là nêu được mất để làm kết luận. Văn có ba phần: Một nêu phàm phu là mất, kế nói Bồ-tát là được.

Lại quở trách phàm phu là mất.

Từ câu “Tánh các pháp v.v…” trở xuống là đáp câu thứ hai về ấn định. Ý nói tuy vốn vắng lặng mà phải tu tập mới thấy. Vì có tánh vô thường, nên diệt sẽ diệt được nó; vì có tánh không nên tu không mới được không, nên biết là vốn không. Có pháp, dụ, hợp.

Dụ có hai, từ câu “Như tánh các pháp v.v…” trở xuống là nêu nội pháp để làm dụ.

Từ câu “Như tánh v.v…” trở xuống là nêu ngoại pháp để làm dụ.

Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phen thứ hai nói về nghĩa. Lại từ dụ về đến muối phát sinh. Hỏi có hai: một, là hỏi quán không điên đảo.

Vì sao? Vì xưa nay chẳng phải không, tu không mới thấy không, tức là nơi chẳng không mà thấy không, như thế chẳng phải là điên đảo hay sao? Thí như thật thường mà thấy vô thường, vô thường mà thấy thường, đó là điên đảo. Văn có dụ và hợp, lại chuyển thí dụ về muối để làm dụ.

Thứ hai hỏi không đã là vô thì thấy được gì?

Nếu thấy được thì chẳng phải không, nếu không thấy được thì chẳng nên nói là thấy.

Đức Phật đáp hai câu hỏi, gồm có hai chương. Đáp câu thứ nhất có ba: một là nêu chung, hai là giải thích rộng, ba là kết luận. Trong phần nêu chung có pháp, dụ và hợp.

Nói thấy pháp chẳng không trở thành không mà chẳng phải điên đảo, đây chỉ là nói theo lý. Vì các pháp đều là không mà chúng sinh cho là bất không, vì muốn dứt trừ tình chấp ấy nên nói “khiến cho pháp chẳng không trở thành không mà chẳng điên đảo”.

Từ câu “tham là v.v…” trở xuống là giải thích rộng. Văn có hai ý: một là giải thích chẳng phải không trở thành không; hai là giải thích chẳng phải điên đảo. Văn thứ nhất nói chẳng không vì do duyên mà có. Lại chia làm hai ý: 1/ Nói tham dục đối với chúng sinh là có; 2/ Nói sắc tánh đối với chúng sinh là có.

Nếu chẳng có, vì sao lại tham đắm? Nay cho rằng chẳng phải không, khiến cho không thì các pháp này đều không.

Từ câu “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là thứ hai, giải thích rộng về chẳng phải điên đảo, có hai: đầu tiên là nêu chẳng phải điên đảo.

Từ câu “Tất cả phàm phu v.v…” trở xuống là giải thích rộng. Văn có hai: một, là không sinh tướng tham cho nên chẳng phải điên đảo.

Kế là, nói thấy Phật tánh nên chẳng điên đảo.

Hỏi: Khi nhập Sơ địa thì thấy được Không. Văn này lại nói trụ ở Cửu địa thấy pháp có tánh. Nghĩa này thế nào?

Đáp: Nếu giải thích theo hai nhẫn thì Sơ địa đến Thập địa là Vô sinh nhẫn, chỉ có Phật địa mới là Tịch diệt nhẫn. Nay y cứ theo hai nhẫn thì Cửu địa nếu so sánh với Phật địa tịch diệt thì còn thấy pháp có tánh, tuy thấy không nhưng so sánh với Phật thì chưa phải là rốt ráo không mà vẫn còn là phần hữu không, cho nên kinh Hoa Nghiêm ghi:

“Bồ-tát Thất địa có khả năng vào vắng lặng”.

Vắng lặng tức là không, vì ứng duyên nên nói khác nhau, chẳng nên mê chấp.

Từ câu “chư Phật, Bồ-tát v.v…” trở xuống là kết luận.

Có lúc Phật cũng nói có, có lúc nói không, đó là vì duyên. Như nay đều nói là không.

Từ câu “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là thứ hai, đáp câu hỏi thứ hai; trước nêu lại câu hỏi.

Văn nói lấy không thấy làm không, ví như Bát-nhã không biết mà không gì chẳng biết.

Từ câu “Vì thế v.v…” trở xuống là dẫn rộng việc xưa để chứng minh, như văn kinh có ghi.

Sau cùng là nói công đức thứ mười, cũng gồm có hai là nêu lên và giải thích.

Xưa dùng ba mươi bảy phẩm làm thể, Hưng Hoàng cho rằng Niếtbàn Phật tánh là thể; xưa cho rằng Bồ-tát thực hành nhân mà đạo phẩm là nhân nên lấy văn trước làm thể. Hưng Hoàng cho rằng các công đức trước không lấy Niết-bàn làm thể công đức sau cùng, nghĩa lý sâu xa nên lấy văn sau làm thể.

Hỏi: Vì sao trong đây không lấy sáu độ làm thể mà dùng ba mươi bảy phẩm làm thể? Có người giải thích rằng trong Thích luận nói sáu luận là nhân xa, ba mươi bảy phẩm là nhân gần. Có người lại cho rằng đó chỉ là nói lược. Ở đây cho rằng chẳng phải thế, Đạo phẩm thì gồm các nhiếp độ, trừ các nhiếp đàn độ ra còn các pháp khác để thấy. Trong luận Bà-sa có nêu mười một pháp nhiếp hết đạo phẩm, mười một pháp tương đương với danh thể của sáu độ, chỉ trừ hai niệm, còn tất cả đều chung với các độ.

Văm có hai: Đầu tiên là nói về công đức, kế là nói về nghĩa. Văn thứ nhất lại có hai: Trước nói về đạo phẩm nhập Niết-bàn.

Kế là phân biệt đúng sai.

Nếu nói tin là đúng, chẳng tin là sai. Công đức thứ nhất nói chẳng nghe mà nghe, thường trụ bí tạng tức Trung đạo; Chẳng nghe mà nghe luận Tỳ-già-la, kinh sách của ngoại đạo tức Tục đế; Chẳng nghe mà nghe mười một thể loại kinh tức Chân đế, ba Đế trong một tâm chẳng nghe mà nghe. Nay công đức thứ mười cũng giống như thế. Ba mươi phẩm tức Chân đế, nhập Đại Niết-bàn tức Trung đạo đế, vì chúng sinh phân biệt giảng nói tức là Tục đế. Đây cũng là Nhất tâm ba Đế, trước sau chẳng khác. Người tin thì được nhập vào Đại Niết-bàn. Ý muốn nói rằng giáo gần với lý. Hưng Hoàng cho rằng dùng công đức Niết-bàn cuối cùng làm thể, còn công đức thứ chín trở xuống thì đều chẳng phải như thế. Cách giải thích này quá sai lầm, như trước đã hỏi.

Kế là nói về nghĩa, gồm có hỏi và đáp.

Đáp có hai: Trước là nêu người ác để răn nhắc; sau nêu người thiện để khuyến khích. Thứ nhất lại có ba: trước là pháp thuyết.

Kế là nêu năm dụ.

Thứ ba là hợp năm dụ. Trước là hợp riêng; sau là hợp chung.

Đầu tiên là nói Chiên-đàn đổi lấy gỗ tạp. Như hai chiếc xe, một chiếc chở than, một chiếc chở gỗ Chiên-đàn; gặp mùa đông cần than, người bán Chiên-đàn bèn đốt gỗ để lấy than, tuy dễ tiêu thụ mà không có giá trị gì. Người giữ giới nghèo khổ đói khát thấy người phá giới giàu có no ấm bèn phá giới để được ăn ngon mặc đẹp, như thế lợi ích có được chẳng nhiều mà mất mát thì quá lớn.

Dụ thứ hai nói vàng đổi lấy thau. Xưa, có người cỡi ngựa lưng thắt dây vàng, thấy người cỡi lừa lưng thắt dây da lừa, bèn hỏi: “Ở chợ này vật gì bán đắt nhất?” người kia trả lời: “Đai da lừa đắt nhất”. Người kia liền đổi lấy đai da lừa. Người ta vì sắc thanh mà bỏ chánh pháp cũng giống như thế. Ba thí dụ kia như văn kinh có ghi.

Kế là hợp chung.

Từ câu “Lúc bấy giờ v.v…” trở xuống là phần hai, nêu người làm thiện.

Kế là từ câu “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần lãnh thọ ý nghĩa.

Đoạn lãnh thọ ý nghĩa của phẩm này như văn kinh đã ghi.

Thứ ba là từ câu “Đó gọi là v.v…” trở xuống là tổng kết.