ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH SỚ

Đời Nguyên,Viện Sùng Thánh Sa-môn Sư Chánh thuộc tông Thiên Thai soạn thuật.

PHẨM 23: SƯ TỬ HỐNG

PHẦN 1- ĐẦU

Các sư đều cho phẩm này dùng thí dụ về người năng hỏi (chủ thể) mà đặt tên, chẳng phải không có nghĩa này, nhưng chẳng phải một bề như thế. Vì ở đây đều dụ cho cả người năng hỏi và đáp, dùng cả hai ý như thế mà đặt tên phẩm. Vì sao? Vì Bồ-tát và Phật đều có hai thứ trang nghiêm. Như văn sau có nói về sư tử đầu đàn và sư tử con. Nếu sư tử con đủ ba tuổi thì sẽ phát ra tiếng rống. Lại rống được tiếng rống sư tử khen ngợi đại bi và rống được tiếng rống vô lượng của sư tử. Nêu văn phải y cứ vào nghĩa, cả hai đều rõ ràng, người giảng nói do đâu mà chỉ nói một bên? Có người nghi ngờ cho rằng tên phẩm chỉ nói là phẩm Sư-tử-hống Bồ-tát, vì sao lại gượng lập ra hai nghĩa để giải thích? Trả lời, nếu theo tựa đề thì mất văn, nếu theo văn thì mất tựa đề, văn thì rộng bao gồm lược. Sư tử được coi là sư tử vật đứng đầu, Bồ-tát được coi là con, tiếng rống thì chung cho cả hai, hai nghĩa đều rõ ràng, sao lại có sự nghi ngờ. Vả lại, chữ Sư tức là gồm chữ Đôi ở bên phải và chữ Táp bên trái hợp thành, đặt ở vị cùng cực. Sự lý đều khắp đủ thì tự hành tròn đầy. Lại chữ Sư giải thích là Soái (thống lãnh), soái tức là sư (chỉ dạy, thống lãnh). Sư có khả năng giáo hóa, nên biết Sư được coi là Phật đã rõ ràng. Tử giải thích là đệ tử. Pháp của đệ tử bẩm thọ từ thầy, nếu theo thầy tu tập thì càng ngày càng được lợi ích. Cho nên biết, chữ Tử được coi là Bồ-tát đã rõ ràng. Hống (rống) thì chung cho cả hai. Rống là thuộc khẩu mật chung cho sáu vị (lục tức), v.v…

Nay nói rốt ráo và phần rống, chung cho cả hai chỗ. Thân mật, khẩu mật và ý mật đều có sáu vị. Khẩu mật chung cho sáu vị tức là Thế giới Tất-đàn. Nếu chỉ y cứ theo Tử tức là từ Vị nhân Tất-đàn; nếu chỉ y cứ theo Hống tức là từ Đối trị Tất-đàn; nếu chỉ y cứ theo Sư tức là từ Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. Vì vậy tên phẩm đã bao gồm các ý nghĩa như thế. Các Sư Địa Luận cho rằng đây là thuộc về Nhập chứng phần. Khai Thiện cho đây là trả lời câu hỏi về tánh an vui. Hà Tây và Hưng Hoàng đồng cho là thuộc về pháp môn Phật tánh.

Nay chẳng dùng các thuyết này. Nếu cho là Nhập chứng, đã nhập chứng thì không nói, nếu có nói thì chứng nhập chẳng phải là Bồ-tát nói. Nếu cho là trả lời câu hỏi về tánh an vui thì câu này do ai hỏi, mà nay lại dùng phẩm này để đáp? Nếu nói về Phật tánh thì Phật tánh do ai nói mà lại lấy phẩm này làm đề mục để nói về người. Các thuyết đều trái nên chẳng dùng.

Nay phẩm này là phần thứ tư, hỏi đáp về nghĩa Niết-bàn. Đây là sư tử con hỏi, sư tử đầu đàn đáp. Nếu theo văn này thì lẽ ra nên nói là hỏi đáp về nghĩa Phật tánh. Nhưng các chương trước đều gọi là Niếtbàn nên nay theo đó cũng gọi là nghĩa Niết-bàn. Mà Niết-bàn chính là Phật tánh, Phật tánh chính là Niết-bàn. Gọi Niết-bàn là chung, gọi Phật tánh là riêng. Chung gồm thâu riêng.

Toàn phẩm được chia thành hai đoạn lớn:

  1. Nói về Phật tánh.
  2. Khen ngợi kinh.

– Nói về Phật tánh được chia làm bốn phần:

  1. Nói về Phật tánh.
  2. Nói về Trung đạo.
  3. Nói về buộc và thoát.
  4. Nói về tu đạo.

Phật tánh là cơ bản, do biết Phật tánh mà trong đó được thông đạt; vì chẳng biết cho nên bị buộc, vì đã biết nên được thoát, muốn thoát khỏi sự trói buộc thì phải tu tập.

Thứ nhất lại có hỏi và đáp. Hỏi gồm bốn việc là khuyên hỏi, cầu hỏi, đồng ý hỏi, chính thức hỏi. Trong phần khuyên hỏi, trước là nêu các pháp môn, sau là chính thức khuyên.

Trong phần nêu các pháp, kể ra có sáu môn: Tam bảo, Tứ đế, Thật đế, bốn đức, năm Phật tánh, nhân quả; có thừa hay không thừa là nêu tánh liễu nhân. Vì sao? Vì muôn thiện Nhất thừa đều thuộc về liễu nhân. Có tánh, vô tánh là nêu quả tánh và quả quả tánh; có chúng sinh, không có chúng sinh là nêu tánh chánh nhân; có hữu hay không hữu, có chân không chân là nêu tánh cảnh giới. Vì sao? Vì hai đế là cảnh sở duyên của trí, cảnh lại sinh trí nên nói thuộc về tánh cảnh giới; có nhân, không có nhân tức là nêu nhân quả.

1/ Có người cho rằng hai câu trước nói về tập nhân nhân quả, ba câu sau nói về báo nhân nhân quả, lại có tạo tác, không tạo tác là nhân phiền não; nghiệp chẳng phải phiền não, nghiệp báo thiện ác này là nghiệp quả của phiền não.

2/ Có người cho rằng hai câu trên nói về nhân quả xuất thế, ba câu dưới nói về nhân quả thế gian, lại nữa nêu pháp môn để khuyên tu. Nói chung là chỉ nêu pháp môn Nhị đế, trong đó nói có Phật tức là Thế đế, không có Phật tức là Chân đế, cho đến có quả báo tức là thế đế, không có quả báo là Chân đế. Văn chỉ nêu hai đế. Nếu y cứ theo câu “Nay cho phép các thầy tự do thưa hỏi” thì đâu chỉ có hai đế. Văn đã nêu hai môn, bốn môn v.v… gồm tất cả các pháp chứ đâu chỉ có hai đế. Vả lại chung cả ba Đế cho bốn môn. Chung cho ba Đế thì có Phật tức là tục, không có Phật tức là chân, chẳng phải có Phật, chẳng phải không có Phật là Trung đạo, cho đến quả báo cũng như thế. Chung cho hai đế thì có Phật là môn Hữu, không Phật là môn Không, cho đến có quả báo, không có quả báo cũng như thế. Nếu y cứ theo câu “cho phép các thầy tự do thưa hỏi” thì lẽ ra có bốn môn, trong đó hai môn cũng giống như trên, còn vừa có Phật, vừa không có Phật là môn lưỡng diệc, chẳng phải có Phật, chẳng phải không có Phật là môn song phi, cho đến vừa có quả báo vừa không có quả báo, chẳng có báo chẳng phải không có quả báo cũng giống như nhế.

Hỏi: Đức Phật khuyên hỏi các pháp môn, vì sao chẳng y theo lời Phật khuyên mà lại hỏi riêng về Phật tánh?

Đáp: Các pháp môn tuy là riêng nhưng đều trở về Phật tánh, nếu hỏi về Phật tánh tức là dùng chung thâu nhiếp riêng. Vì sao? Vì y cứ theo năm câu khuyên hỏi về có thừa, không có thừa v.v… là hỏi về năm loại Phật tánh. Vả lại, nếu y cứ theo Tam bảo thì phải hỏi “Thế nào là Phật tánh?” Nếu y cứ vào Khổ, Tập đế thì là hỏi về cảnh giới Phật tánh; nếu y cứ Đạo đế thì hỏi về duyên liễu; nếu y cứ vào thật, không thật tức là hỏi về chánh tánh; nếu y cứ theo nhân quả thì hỏi về nhân tánh, nhân nhân tánh, quả tánh, quả quả tánh; nếu y cứ theo tạo tác, không tạo tác tức là hỏi nhân tánh; nếu y cứ theo có nghiệp, không nghiệp tức là hỏi về duyên tánh.

Lại nếu y cứ theo thừa thì phải hỏi “Thế nào là thể của Phật tánh?” Nếu y cứ theo quả báo, Tam bảo, Tứ đế v.v… thì phải hỏi “Vì sao gọi là Phật tánh?” Nếu y cứ theo bốn đức thì phải hỏi “Vì sao gọi là Phật tánh?” Nếu y cứ theo có nhân, không có nhân thì phải hỏi “Bồtát có loại mắt nào chẳng thấy rõ ràng?” Nếu y cứ theo hai câu tạo tác, không tạo tác v.v… thì phải hỏi “Vì sao chúng sinh chẳng thấy?” Nếu y cứ theo quả báo, không có quả báo tức là hỏi về chánh tánh.

Đức Phật khuyên mười tám việc, Bồ-tát y theo lời khuyên này mà nêu sáu câu hỏi đồng dị, rõ ràng như thế mà người chẳng thấy.

Ở đây nói thêm rằng khuyên thì hỏi riêng thật hợp với lời Phật nhưng chưa đạt được ý. Khuyên chung mà hỏi riêng thì chẳng gồm thâu tất cả pháp, chưa đạt được ý; khuyên chung mà hỏi chung cũng hợp ý Phật, nhưng sợ rằng đại chúng bấy giờ chưa hiểu được ý riêng trong chung. Cho nên Đức Phật khuyên riêng mà lập lời hỏi chung rất đạt ý chỉ của Phật mà chúng hội lại dễ hiểu. Vì thế, Đức Phật khuyên riêng mà Sư tử hống lập lời hỏi chung chính là do ý này.

Từ câu “Hôm nay v.v…” trở xuống tức là lời khuyên.

Trong phần chánh khuyên có chánh khuyên và đôn khuyên. Đức Phật thật hết lòng khuyên bảo giúp chúng sinh được lợi ích.

Từ câu “Bấy giờ trong chúng hội v.v…” trở xuống là đoạn hai, cầu hỏi. Đầu tiên các nhà kiết tập kinh tự trình bày, sau đó là chánh thức lên tiếng thưa hỏi.

Chữ Liễm cũng là chữ Kiểm, đều chỉ cho dáng vẻ cung kính.

Kế là phát lời thưa hỏi.

Từ câu “Bấy giờ Phật bảo v.v…” trở xuống là đoạn ba, cho phép hỏi. Trước khuyên cúng dường, kế là chính thức cho phép. Thứ nhất lại có ba: 1/ Khuyên; 2/ Giải thích; 3/ Kết luận.

Khuyên cúng có đủ ba nghiệp, trong đó tôn trọng là ý nghiệp, khen ngợi là khẩu nghiệp, cung kính và đưa tiễn là thân nghiệp.

Từ câu “Vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích lời khuyên. Văn có pháp, dụ và hợp. Trong phần pháp thuyết có nêu đức ở quá khứ, kế là nói về đức hiện tại.

Từ câu “Như Sư tử đầu đàn, v.v…” trở xuống là dụ thuyết, có hai:

trước là vì Phật lập dụ, kế là vì Bồ-tát lập dụ. Vì Phật lập dụ, trước là dụ Pháp thân, kế là dụ về Ứng tích. Dụ Pháp thân có ba: Chung, riêng và kết luận. Thứ nhất, một câu là dụ chung.

Từ câu “Tự biết sức lực v.v…” trở xuống gồm năm câu, là dụ riêng các đức.

Thân là sáu Độ, sức lực là mười Lực, răng nanh dụ cho trí tuệ dứt bỏ phiền não, bốn chân là bốn như ý, đất là giới, hang sâu là cảnh thiền định, đuôi là tâm đại bi, lòng đại bi xót thương cứu giúp như cái đuôi con vật cong xuống phía dưới, âm thanh là tám âm thanh nói pháp.

Thứ ba, từ câu “Nếu có đủ v.v…” trở xuống là tổng kết.

Từ câu “Sáng sớm v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về Ứng thân phương tiện. Văn có ba: một, là chánh ứng.

Sáng sớm là lúc bóng tối vừa tan biến, ánh sáng vừa lên, dụ cho cơ duyên diệt ác sinh thiện mà ứng hóa cứu độ.

Kế là nói ra khỏi hang, dụ cho nghĩa từ Pháp thân mà khởi Ứng thân.

Vươn thân là diệt ác, ngáp dài là sinh thiện, nhìn khắp bốn phía là bốn vô ngại, cất lên tiếng rống tức nói pháp, có mười một việc.

Thứ ba, từ câu “Tất cả cầm thú v.v…” trở xuống là nói chúng sinh đắc đạo.

Loài sống dưới nước dụ cho phàm phu nhiều ái nhiễm; loài sống trên mặt đất dụ cho Nhị thừa; loài bay trên hư không rơi rớt là dụ cho việc hàng phục các ma; loài voi bỏ chạy là dụ cho việc chế phục ngoại đạo.

Từ câu “Như loài chồn v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vì Bồ-tát lập dụ. Nói loài chồn tức là trước nêu điều chẳng đúng.

Kế là nói điều đúng.

Ba tuổi dụ cho ba hạnh, nhưng văn hợp ở sau chỉ nói lược ba hạnh này trong năm hạnh, lại phạm hạnh là hóa tha, trong hóa tha đồng có dứt hoặc, tức là hạnh bệnh, đồng với sinh ra điều thiện là hạnh trẻ thơ, chỉ có một phạm hạnh là gồm tất cả nên hai hạnh kia chẳng nói đến.

Từ câu “Như Lai Chánh giác v.v…” trở xuống là hợp dụ. Đầu tiên là hợp với dụ về Phật; kế là hợp với dụ Bồ-tát. Văn thứ nhất lại có hai, trước là hợp với diệu bản là chúng sinh, kế là hợp với Ứng tích.

Phần hợp dụ có chút phần không theo thứ lớp. Hợp đủ mười một việc. Hợp với câu “Muốn phá hoại những loài không phải sư tử mà giả làm sư tử” ở trước là câu “Vì chúng sinh mà cất lên tiếng rống sư tử”. Văn ở trước nói “Muốn thử xem sức lực của thân mình” thì văn hợp là “Hiển bày các lực”, v.v…

Từ câu “Từ hang sâu v.v…” trở xuống là thứ hai, hợp với chánh ứng nhưng không hợp với buổi sáng sớm.

Từ câu “Sư tử hống v.v…” trở xuống là ý thứ hai, hợp với câu chúng sinh được lợi ích ở trước.

Trước có bốn câu, ở đây hợp thì nói thẳng là quyết định thuyết, vì thế câu hàng ma và chế phục ngoại đạo gồm cả giải thích nghĩa sư tử rống.

Kế là từ câu “Thanh văn, Duyên giác v.v…” trở xuống là hợp với dụ về Bồ-tát, cũng gồm có hai: Trước nêu chẳng đúng, sau hợp nói về điều đúng.

Hàng Bồ-tát Thập trụ có khả năng tu tập ba hành xứ thì sẽ rống tiếng rống sư tử.

Khai dụ và hợp dụ đều nói về chư Phật và Bồ-tát. Hai nghĩa rõ ràng như thế, đâu thể theo một bên mà giải thích tên phẩm này.

Từ câu “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ ba, kết luận khuyên cúng dường.

Từ câu “Bấy giờ, Đức Thế Tôn v.v…” trở xuống là đoạn hai, chính thức cho phép hỏi.

Từ câu “Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, chính thức thưa hỏi, gồm có sáu câu nhưng chỉ cho hai ý. Ba câu hỏi trước là hỏi về pháp, ba câu sau là hỏi về người.

Ba câu hỏi này các sư xưa giải thích rằng một câu đầu là hỏi về quả tánh, câu kế là hỏi nhân tánh, câu cuối là hỏi về nhân quả tánh.

Các Sư Trung Quán cho rằng cách giải thích trên chẳng tương ứng với văn. Như theo văn thì câu thứ nhất hỏi về thể Phật tánh; câu kế nói về nghĩa Phật tánh, câu sau nói về tên gọi Phật tánh.

Hà Tây cũng đồng với ý này.

Nay dùng người sau (chúng sinh) để hỏi pháp trước (thể của Phật tánh). Đầu tiên là hỏi về lý, tức là thể Phật tánh, kế là hỏi về phần nghĩa Phật tánh, sau hỏi về rốt ráo tức là tên gọi Phật tánh.

Từ câu “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là hỏi về người thấy và người chẳng thấy. Đầu tiên là hỏi về người chẳng thấy.

Hai câu hỏi sau là hỏi về người thấy tánh. Đầu tiên là hỏi do pháp gì mà thấy rõ, hoặc chẳng thấy rõ; kế là hỏi do loại mắt gì mà có người thấy rõ, có người chẳng thấy rõ.

Bồ-tát Thập trụ dùng loại mắt gì mà chẳng thấy rõ, Phật dùng loại mắt gì mà thấy Phật tánh rõ ràng?

Pháp thì y cứ vào thể của tánh, mắt thì y cứ vào dụng của tánh.

Phật đáp có hai ý: Đầu tiên khen ngợi câu hỏi, kế là chánh đáp. Khen ngợi lại chia hai: Đầu tiên là khen ngợi, sau là nói về nghĩa. Khen ngợi lại được chia làm hai: 1/ Khen ngợi; 2/ Trang nghiêm.

Kế là khen hiểu được sáu nghĩa. Ông đã hiểu được sáu nghĩa, mà thưa hỏi là vì người.

Khen ngợi sáu nghĩa, chỉ khen ngợi hai nghĩa đầu và hai nghĩa sau, còn hai nghĩa ở giữa thì lược bỏ.

Từ câu: “Bồ-tát v.v… trở xuống là ý thứ hai, nói về nghĩa, gồm có hai phen hỏi đáp. Thứ nhất là hỏi.

Lời đáp có bốn ý, ba ý trước là y cứ theo nghĩa hơn kém để giải thích trí tuệ trang nghiêm cao quý hơn phước đức. Một câu sau là y cứ theo bình đẳng để giải thích.

Có chỗ cho rằng phen trả lời thứ nhất dùng giải Không làm trí tuệ, dùng giải Hữu làm phước đức, cho giai vị Thập địa là trí, cho năm đô là phước; Chỉ nói Bát-nhã, tức là nói trí tuệ trong Hữu, nên thuộc về phước đức, nếu biết được Ba-la-mật là thành tựu giải Không, tức thuộc về trí tuệ. Phen trả lời thứ hai cho Cửu trụ trở xuống là phước đức.

Đó là y cứ theo thể của pháp để so sánh hơn kém như thế. Nếu ở cõi này thì phước đức hơn trí tuệ, nếu ở Tịnh độ thì trí tuệ hơn phước đức; khiến cho cây cối phát sinh y phục, thức ăn uống, chỉ mong cầu ưa chuộng trí tuệ, nên nói tuệ là hơn. Nếu nói đã đầy đủ rốt ráo tức là pháp thiện.

 

 

PHẦN 1- CUỐI

Từ lại nữa, này thiện nam, v.v… trở xuống: Thập trụ cũng thấy được chút phần, đây cũng là nghĩa Viên giáo. Nếu nói Thập trụ chẳng phải Thập địa, mà lại nói chín trụ dưới chẳng thấy, trụ thứ mười thấy chút phần thì đây là nghĩa Biệt tiếp Thông, mọi người chẳng biết điều này nên chẳng thông được văn nghĩa.

Từ câu: “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là ý thức thứ ba, kết luận sự sâu xa.

Đây là nói năm Phật tánh; mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh tức là kết luận nhân tánh, Đệ nhất nghĩa Không là kết luận nhân nhân tánh, Trung đạo là kết luận chánh nhân tánh, Phật là kết luận quả tánh, Niết-bàn là kết luận quả quả tánh. Văn nghĩa đầy đủ, lời kết này rất sâu xa mầu nhiệm.

Từ câu: “Bấy giờ, Bồ-tát v.v…” trở xuống là thứ hai, nói về nghĩa.

Nghĩa này phát khởi từ câu kết luận ở trên. Hành nghiệp của chúng sinh rất sâu xa, nếu chúng sinh và Phật bình đẳng không hai, thì đâu cần phải tu đạo? Đầu tiên dường như chỉ một câu hỏi, mà Phật lại có hai lời đáp nên thành hai câu hỏi. Văn sau Đức Phật trả lời nghĩa Phật và Phật tánh và trả lời nghĩa tu đạo. Cho nên biết có hai câu hỏi.

Các sư Địa Luận cho rằng chúng sinh là Phật, có đủ vọng tưởng, nên chẳng cần tu đạo, chính là nên gạn hỏi câu này. Các sư Luận Thành Thật cho rằng quả Phật ở đương lai thì chẳng có câu gạn hỏi này, nhưng chẳng được nói “tức là Phật”; ở đây nên dùng nghĩa không khác nhau và khác nhau để trả lời: Vì không khác nhau nên nói tức là Phật, vì khác nhau nên không đầy đủ. Như cha có con thì họ của con chẳng khác với cha, mà Dụng chưa đầy đủ, nên cần phải trang nghiêm về sau mới đầy đủ. Nhưng ở đây chỉ nói về Phật tánh đâu liên quan gì đến đầy đủ hay

chẳng đầy đủ. Đầy đủ thì nhờ duyên mà đầy đủ, vậy lẽ ra Phật tánh cũng nhờ duyên mà đầy đủ mới phải.

Nếu nói Phật tánh ở đương lai, thì đây là y cứ theo quả tánh và quả quả tánh; nếu nói Phật tánh ở hiện tại thì đây là lấy theo nhân tánh và nhân nhân tánh; nếu nói Phật tánh chẳng phải ở đương lai và hiện tại, thì đây là lấy theo ý chánh nhân tánh; nếu mỗi pháp đều chấp là đúng, thì như người mù sờ voi. Còn như thấy được ý này thì không còn tranh luận là ở đương lai hay hiện tại.

Phật đáp có ba đoạn: 1/ Bác bỏ lại câu hỏi; 2/ Chánh đáp; 3/ Dẫn chứng. Thứ nhất như văn kinh có nói.

Chánh đáp có hai ý: 1/ Đáp trong không khác nhau cũng có khác nhau; 2/ Đáp câu “đâu cần tu đạo”. Lời đáp thứ nhất có ba ý: 1/ Chánh đáp; 2/ Dẫn kệ; 3/ Nêu sữa và lạc làm dụ, ý nói thể thì chẳng khác mà duyên thì khác. Văn thứ nhất có pháp, dụ.

Nói chưa đầy đủ tức là chỉ mới có ở lý, còn sử dụng thì chưa đủ, chứ chẳng phải cho rằng tất cả đều không mà nói chưa đủ.

Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống, là nêu dụ; có hai: Trước là dụ, sau là hợp. Dụ lại có hai: Trước là dụ ác, sau là dẫn điều lành. Dụ điều ác, như văn kính có ghi.

Chắc chắn phải đọa địa ngục như người giết mẹ sau sinh tâm hối hận. Hiện thời thân chưa đọa, mà chắc chắn phải đến đó không nghi ngờ gì. Chúng sinh cũng như thế, đã có lý Phật tánh, thì đương lai sẽ thành.

Kế là Phật dẫn rằng: Thực hành thiện lành gọi là thấy cõi trời, cõi người, thực hành mười ác thì gọi là thấy địa ngục, đó cũng là quả báo vị lai.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” là hợp dụ.

Tất cả chúng sinh chưa có tướng tốt, nhưng vị lai sẽ được, có người cho rằng sẽ được quả tướng tốt, có người cho rằng sẽ được quả Phật tánh; nhưng Phật tánh đâu có “sẽ được”, nếu có “sẽ được” thì thuộc ba đời, tức là vô thường, thế thì chẳng nên nói đương quả Phật tánh.

Thứ hai, là dẫn kệ để trả lời.

Lược giải thích ý nghĩa bài kệ, như văn trước đã nói. Bài kệ này được nêu lên bốn phen: Thứ nhất là để đáp về thuờng, vô thường, thứ hai là để trả lời về đắc, chẳng đắc, văn sau quyển hai mươi sáu được nêu ra để đáp về phá định tánh, còn ở đây là dùng để trả lời về co và không bất định, hiển bày Trung đạo. Nếu chỉ dùng có không để giải thích thì chẳng hợp với yếu chỉ bài kệ thường và vô thường, cũng nên như thế. Trong đây nếu y theo kinh thì nên lập bốn câu: sai biệt vừa sai biệt, không sai biệt vừa không sai biệt, chẳng sai biệt chẳng phải không sai biệt, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng thể nghĩ bàn, để giải thích thì mới hợp yếu chỉ bài kệ. Các câu thường, vô thường v.v… cũng giống như thế. Nay văn xuôi giải thích “vốn có” rằng: “Ba đời đều vốn có”, theo văn này thì sinh tử và Niết-bàn, mỗi pháp đều là sẵn có, mỗi pháp đều có “nay không”. Nếu sinh tử sẵn có, thì Niết-bàn đã sẵn có, chẳng phải nay mới “có”. Niết-bàn xưa không tức đã thành Phật từ lâu, chẳng còn các phiền não. Sinh tử tuy xưa có nay không, xưa không nay có, nhưng đều gom về Hữu (có), dùng Niết-bàn so với sinh tử, thì sinh tử có sở đắc. Niết-bàn tuy xưa có nay không, xưa không nay có mà đều gom về vô (không), tức là so sinh tử với Niết-bàn thì Niết-bàn vô sở đắc. Tức xưa có là nay không, chẳng lìa có mà nói không; tức xưa không mà nay có, chẳng lìa không mà nói có. Ba câu đầu thuộc về ba đời khác nhau. Có của xưa có chẳng phải có, không của nay không, chẳng phải là không, chẳng phải có chẳng phải không, ba đời có pháp thì “thật chẳng có việc ấy”, một câu này là không khác nhau, chẳng thuộc về ba đời.

Lại y cứ theo gốc ngọn để nói lại bốn câu, tức là có hai câu thuộc gốc, hai câu thuộc ngọn, một gốc một ngọn, ngọn mà chẳng phải gốc, gốc mà chẳng phải ngọn, chẳng phải gốc, chẳng phải ngọn. Văn kinh ở trên ghi: “Ở nhờ sinh một đứa con, chủ nhà bèn đuổi đi,” chủ nhà là cảnh, há chẳng phải sinh tử là gốc ư? Một đứa con là chánh quán, há chẳng phải Niết-bàn là ngọn ư? Văn kinh ghi: “Đại Bát-niết-bàn vốn tự có”, “Như Lai tạng hướng về đó mà kiến lập”, há chẳng phải Niết-bàn là gốc ư? Mê lý khởi hoặc, há chẳng phải sinh tử là ngọn ư? Mỗi pháp đều có gốc thì mỗi pháp đều có ngọn. Vì nghĩa ấy nên có hai gốc hai ngọn.

Vả lại, sinh tử vô chung mà lấy khởi đầu của Niết-bàn làm chung của sinh tử, Niết-bàn thì vô thỉ mà lấy chung của sinh tử làm thỉ. Hai dòng đối nhau làm chung thỉ cho nhau, đó là một ngọn một gốc. Vả lại, sinh tử dù gốc hay ngọn cũng đều gọi là ngọn, vì nó luống dối không có gốc, cho nên nói là ngọn. Còn Niết-bàn nếu gốc hay ngọn thì cũng được gọi là gốc, vì đó là chân thật chẳng hư giả, cho nên có gốc mà chẳng phải là ngọn. Gốc của ngọn chẳng phải gốc, ngọn của gốc chẳng phải ngọn, chẳng phải gốc, chẳng phải ngọn, chẳng thuộc ba đời.

Phân biệt bốn câu đã thành, thì so sánh với đủ chẳng đủ, đắc chẳng đắc, thường vô thường đều bất định, không thể nghĩ bàn, cũng giống như thế. Bốn câu bất định không thể nghĩ bàn tức ba Đế chẳng chung chẳng riêng như trước đã nói.

Từ câu: “Thí như có người v.v…” trở xuống là đoạn ba, nêu thí dụ sữa lạc để làm chứng cho Đương hữu.

Đây là y cứ vào sáu tâm để nói về có Phật tánh, cả hai có gì khác nhau? Chúng sinh có lý Phật tánh, về sau này khi thành Phật thì chẳng lấy chúng sinh làm tâm Phật nữa, tâm Phật cũng như thế, chỉ nói có tâm là Phật tánh, chẳng nói tức tâm là Phật tánh.

Từ câu: “Rốt ráo v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói phải tu đạo, tức là chánh đáp câu: “Đâu cần tu tập” ở trước. Chúng sinh đều có Nhất thừa chánh tánh, phải tu sáu Độ để trang nghiêm, nếu chẳng tu thì chẳng được chánh tánh. Có thuyết nói Nhất thừa là muôn pháp lành, nhưng văn này lại nói Nhất thừa là Trung đạo chánh tánh. Nhất đạo thanh tịnh này có năng lực đưa chúng sinh đến quả Phật, vì thế gọi là Nhất thừa, đâu đồng với muôn điều lành.

Toàn văn có hai là nêu chương và giải thích.

Chương thứ nhất nêu hai cặp bốn pháp.

Kế là giải thích, đầu tiên dùng sáu độ để trang nghiêm, nhất thừa là rốt ráo, sau là giải thích thế gian và xuất thế gian.

Sáu độ và Nhất thừa đồng một thể, thuận theo nghĩa mà giải thích khác nhau. Trong đó có hợp với dụ thứ nhất. Quả báo sinh lên cõi trời Đao-lợi và Uất-đơn-việt tuy tốt đẹp hơn cõi người, nhưng chẳng thấy được Phật tánh. Đã bị vô minh che lấp, thì không thấy được nên cần phải tu tập.

Từ câu: “Nói Phật tánh v.v…” trở xuống là giải thích một cặp sau. Có hai: trước chỉ giải thích rốt ráo xuất thế gian, sau giải thích cả rốt ráo của thế gian và xuất thế gian. Thứ nhất lại có ba đoạn: 1/ Nêu Thể; 2/ Giải thích Danh; 3/ So sánh. Thứ nhất như văn kinh có ghi.

Thủ-lăng-nghiêm, Hán dịch là Kiên Cố, Hòa-xà-lê dịch là Tu Trị tâm. Tam-muội này có chung, có riêng; riêng thì chỉ có ở chung tâm, chung thì có ở khắp cho các địa.

Từ câu: “Như một môn” v.v… trở xuống là đoạn ba, nêu loại.

Giác gọi là Định giác, tức Định giác phần trong bảy giác; chánh gọi là chánh định, tức chánh định trong tám Chánh đạo. Lại nói giác gọi là Định giác, tức là Định giác trong tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Thủ-lăng-nghiêm cũng giống như thế, có năm tên gọi.

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích thế gian rốt ráo và xuất thế gian rốt ráo, hạ trung là thế gian rốt ráo, định bậc thượng là xuất thế gian rốt ráo. Văn có hai: Trước giải thích ba

67 định, sau giải thích Định bậc thượng.

Đầu trên giải thích thượng định là Phật tánh, tức nói liễu nhân, hoặc nói chánh nhân. Trung định tức là định cõi Sắc. Hạ định tức là tâm sở định. Các sư Số Luận cho rằng mười tâm sở đồng thời khởi gọi là Đại địa, chung cho năm phẩm: Thiện, ác, vô ký, bất công, uế ố. Luận Thành Thật cho rằng: “Pháp khởi theo thứ lớp trước sau mười số, theo nghĩa mà nói là mười”, có chỗ cho rằng mười chỗ ở của cõi Dục là mười số, đó là ba đường, người và sáu cõi trời.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là giải thích lại về xuất thế tức là Thủ-lăng-nghiêm.

Thích luận gọi là Tam-muội Kiện tướng.

Từ câu: “Có một thời v.v…” trở xuống là đoạn ba, dẫn chứng cho lời đáp. Đây là nói Như Lai quán sát các căn cơ để có thể nói hay chẳng nói. Hoặc có lúc nói Phật và Phật tánh không khác nhau, hoặc có lúc nói khác nhau, hoặc nói tu đạo, hoặc nói chẳng tu. Ví như biết căn cơ của ngoại đạo nên nói Ngã, hay nên nói vô ngã.

Văn có hai là: Dẫn việc xưa làm chứng cho nay, dẫn việc xưa lại có ba: 1/ Nói về tắm gội; 2/ Ngoại đạo nói về nghĩa; 3/ Chúng đương thời được lợi ích.

“Phật tánh này, v.v…” trở xuống là làm chứng cho nay.

Chính là nêu: Phật tánh chẳng phải ngã mà nói là ngã, tức dạy chẳng nên có chấp nhất định.

Như Lai tự tại hoăc cho ngã là vô ngã, vô ngã là ngã. Hoặc giải thích Phật tánh ở nhân, nên nói vô ngã, ở quả thì nói có ngã.

Từ câu: “Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử v.v…” trở xuống là đoạn ba trả lời câu hỏi thứ tư, có hai: Trước hỏi, sau là đáp. Thứ nhất là hỏi, thêm vào câu Kim Cương lực sĩ.

Phần chánh đáp có hai ý là chánh đáp và kết luận khen ngợi. Phần chánh đáp có bảy dụ, gom vào ba ý: 1/ Ba dụ đầu tiên là dụ có mà chẳng thấy; 2/ Một dụ kế là dụ cho nghĩa bình đẳng đều có; 3/ Hai dụ sau là dụ cho việc đợi đủ duyên mới thấy. Ba ý theo thứ lớp mà phát sinh. Nghĩa là tuy nói có mà chẳng thấy, vì chưa biết chắc chắn là có, nên chẳng thấy; chưa biết chắc chắn là không nên cũng chẳng thấy, kế một dụ là dụ cho nghĩa chắc chắn có, đã chắc chắn có, thì sao lại chẳng thấy, kế là đáp rằng đợi nhân duyên mới thấy.

Ba dụ đầu đều xếp trước dụ, sau hợp. Đầu tiên là dụ người mù.

Dụ hàng phàm phu thấp nhất như người mù chẳng thấy; sắc dụ cho Phật tánh. Các sư Số luận giải thích sắc có hai mươi loại: xanh, vàng, đỏ, trắng, cao, thấp, nghiêng, thẳng, vuông, tròn, dài, ngắn, ánh sáng, hình ảnh, sáng, tối, mây, khói, bụi, mù; có chỗ thêm hư không là không nhất hiển sắc.

Từ câu: “Như mắt bị nhặm, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, dùng mắt bệnh dụ cho Bồ-tát.

Như mắt hơi bị nhặm thì chẳng thấy được sắc, dụ cho các Bồ-tát có phiền não nên chẳng thấy Phật tánh, chẳng đồng với dụ người mù ở trước.

Trong phần hợp dụ trước nêu Bồ-tát Thập trụ, sau nêu bốn hạng người là phàm, phu, Nhị thừa, Bồ-tát Thập trụ và Như Lai. Như Lai thấy toàn thể, Bồ-tát thấy chút phần, còn hai người kia hoàn toàn chẳng thấy.

Từ câu: “Thí như mặt trăng v.v…” trở xuống là dụ thứ ba.

Cũng dụ cho các chúng sinh chưa dứt hoặc thì chẳng thấy, dứt hoặc rồi thì thấy. Như trăng đêm mồng một thì chẳng thấy, nhưng dần dần sẽ thấy. Phật tánh cũng giống như thế, vốn đã có lý này, chúng sinh bị phiền não che lấp nên chẳng thấy, nếu hoặc chướng dần dần dứt trừ thì dần dần thấy được Phật tánh.

Văn nói: Đại bi, mười Lực v.v… tất cả chúng sinh đều có, xưa cho rằng sẽ có, tức nay việc chưa có, dẫn văn sau rằng: “Phá Nhấtxiển-đề sau đó mới được.” Các sư Địa Luận giải rằng: “Chân thân Phật tánh giống như tượng vàng bọc trong vải xấu; đại từ, đại bi, mười lực, tướng tốt và vẻ đẹp phụ đều có đầy đủ, nhưng bị các hoặc che lấp, dứt phiền não thì sẽ thấy được; cũng như lột bỏ vải xấu thì được tượng vàng ròng”.

Các sư Trung Quán cho rằng: Hai cách giải trên mâu thuẫn với kinh. Nếu nói sẽ có thì kinh nói rằng: “Đại bi, mười lực, bốn vô úy chúng sinh đều có”, như thế đâu được cho là sẽ có? Còn nói hiện có như vàng bị hoặc che lấp, vậy Phật tánh mạnh mẽ sao chẳng phá được? Nếu chấp vị lai hoặc hiện tại thì tạo thành sự tranh luận. Vì đã đầy đủ lý này thì chẳng thể nói là vị lai mới được; vì tu đạo mới được, nên chẳng thể nói là hiện tại đã có. Ba cách giải thích trên đều thuộc chấp nghiêng về một bên, chưa hợp với ý Viên, vì sao? Vì Phật tánh chẳng phải là một, hai, ba, mà vì chúng sinh nên lập ra bốn môn khác nhau, hoặc nói Đệ nhất nghĩa không, như thành Ca-tỳ-la không, hoặc nói chẳng không như dụ người có trí tuệ, cô gái nghèo có kho báu, hay hạt châu trên trán; hoặc nói vừa có vừa không như dụ bình rượu và nước; hoặc nói chẳng phải có chẳng phải không gọi là Trung đạo, muốn cho người do bốn mà ngộ được chẳng bốn, xả chấp bốn để cầu sự thông đạt. Các sư Thành Thật nói Đương hữu tức là chấp không, các sư Địa luận nói bị hoặc che lấp tức là chấp có, còn lời giải thích của các Sư Trung Quán là chấp vừa có vừa không. Còn ở đây là giải thích Phật tánh như vua thấy voi, còn chỗ thấy của các Sư như người mù sờ voi.

Trong phần hợp dụ cuối cùng có nói: “Ba loại phá phiền não”, các sư xưa có hai cách giải thích:

1/ Cho rằng phiền não kiến tư của hai cõi là hai, hoặc là phiền não của cõi uế ở giới nội, tập khí là phiền não của tịnh độ trung gian hai cõi, vô minh là phiền não của giới ngoại. Bồ-tát Thất địa dứt trừ phiền não trung gian giữa hai nước, Trang Nghiêm theo thuyết này.

2/ Cho rằng Kiến đế là một phiền não, tư duy là hai phiền não, tập khí là ba phiền não. Phần số của nguyên phẩm vô minh đồng với tập khí cho nên chẳng kể riêng. Từ Sơ địa đến Tam địa thì dứt trừ Kiến đế, Bồ-tát Tứ địa đến Lục địa thì dứt tư duy, Bồ-tát Thất địa, Bát địa thì gồm dứt tập khí vô minh. Đây là thuyết của Khai Thiện.

Có một Sư gạn hỏi hai cách giải thích này rằng: Văn kinh có nói: “Ba thứ phá phiền não”, chẳng nêu ra ý phá phiền não; nếu chỉ nêu tên của ba loại thì trái với văn kinh, còn nói về ý phá thì phải như Thich luận nêu ba quán trị ba bệnh, như kinh Anh Lạc Bản Nghiệp nói từ giả vào Không gọi là quán hai đế, từ Không vào Giả là quán bình đẳng, dùng hai quán này làm phương tiện để nhập Trung đạo đó là Đệ nhất nghĩa đế quán. Dùng ba quán này để phá phiền não, lại Thế đế thì phá tánh bệnh, Chân đế thì phá giả bệnh, hai đế này chỉ nói phục là đoạn, nếu chẳng phải Chân, chẳng phải Hữu tức Trung đạo quán, dứt hết hai bệnh tánh và giả thì gọi là dứt phiền não.

Nay cho rằng các nghĩa trên chẳng đúng. Hai cách giải thích trước trái với kinh, các Sư Trung Quán phá nghĩa trái kinh kia. Các nghĩa trên đều cạn hẹp, nay gạn hỏi rằng:

Như nói phá ba thứ phiền não rồi thì thấy Phật tánh, tức phá phiền não Kiến, Tư ở cõi uế, phá phiền não ở định độ trung gian thì thấy tánh hay chẳng thấy tánh? Nếu nói thấy tánh thì Nhị thừa cũng phá Kiến, Tư, vì sao chẳng thấy? Nếu nói chẳng thấy tánh thì trái với kinh. Khai Thiện nói phá kiến đế là một, phá tư duy là hai, người Tu-đà-hoàn cho đến La-hán đều phá Kiến, Tư, sao không thấy tánh? Nếu nói là thấy thì chẳng đúng, nếu nói chẳng thấy thì trái với kinh. Hơn nữa, Nhị đế quán, bình đẳng quán đều là phương tiện, không nhập Trung đạo, cũng không thấy tánh, lại trái với kinh. Thế đế phá tánh, Chân đế phá giả, là phục chứ chưa phải dứt, lại chẳng thấy tánh, việc này cũng trái với kinh, chỉ có chẳng phải Chân, Tục dứt phiền não mới là thấy tánh. Tuy nêu tên ba thứ phá phiền não mà hai thứ phá thì chưa thấy tánh, chỉ có một loại phá là thấy tánh. Nhưng kinh thì nói ba thứ phá đều thấy Phật tánh, nếu một loại phá được thấy, hai loại phá chẳng thấy thì đâu tương ứng?

Nay nói Thất địa tu phương tiện nhập Bát địa, được đạo và quán song song, phá bỏ vô minh, thấy Phật tánh, đây là căn cơ Biệt tiếp Thông, là một loại phá phiền não được thấy Phật tánh. Nếu nhập Lý Bát-nhã thì gọi là Trụ; phá bốn trụ hoặc, sinh ra công đức, thì gọi là Thập hạnh; phá trần sa hoặc chưa thấy Phật tánh, đến Thập Hồi hướng hàng phục vô minh, nhập vào Sơ địa mới phá vô minh thấy Phật tánh, đây là thứ lớp phá hoặc của Biệt giáo, lại là một thứ phá phiền não thấy Phật tánh. Nếu Viên quán Pháp giới thì phiền não tức Bồ-đề, khi mới phát tâm liền thành Chánh giác vào Đồng luân vị, khi vào Sơ trụ thì phá vô minh thấy Phật tánh. Như thế thì nghĩa của ba thứ phá hoặc rõ ràng đều thấy Phật tánh, hợp với văn kinh, mà các Sư đâu biết. Vả lại, một Không tất cả đều Không thì ba quán đều Không, pháp quán này phá năm trụ hoặc, thấy Phật tánh; lại một Giả tất cả đều Giả, thì ba Đế đều giả, pháp quán này phá năm trụ hoặc, thấy được Phật tánh, lại một Trung tất cả Trung thì ba Đế đều trung. Pháp quán này cũng phá năm trụ hoặc, thấy Phật tánh. Ba thứ này, về số lượng và nghĩa đều hợp với kinh mà các Sư cũng chưa biết. Ba loại phá hoặc trước là ý Biệt giáo, ba loại phá hoặc sau là ý Viên giáo.

Từ câu: “Này thiện nam! Mười hai nhân duyên v.v…” trở xuống là ý thứ hai, có một thí dụ, thí dụ bình đẳng đều có. Trước nêu dụ, sau là hợp. Dụ ở trên là y cứ theo duyên ngoài, dụ này y cứ theo duyên trong. Gồm có bốn đoạn: 1/ Nói đều có; 2/ Nêu Thể của nhân duyên; 3/ Nói về đủ và chẳng đủ; / Kết luận là đều có.

Đầu tiên, là nói bình đẳng đều có, lại nói cũng có trong ngoài. Đây chỉ là nói ở nơi người, chẳng phải gồm cả vật ngoài, nghĩa là tâm thì bên trong (nội), sắc thì bên ngoài (ngoại), đầy đủ sắc tâm nên nói là trong ngoài. Lại trong thai là trong, ra khỏi thai là ngoài.

Nay nói thêm rằng: Trong văn kinh, tự đã nói trong ngoài tham cầu và vì các việc trong ngoài, nhưng văn chẳng cho lấy mười hai nhân duyên làm cảnh quán, chỉ lấy mười hai nhân duyên làm Phật tánh. Ví như có sự phân biệt nói riêng từng chi của mười hai nhân duyên, là vì giúp cho chúng sinh biết được tướng luân hồi của ba đời, đâu thể cho rằng khi vô minh chỉ có vô minh? Cho nên biết cho đến già chết cũng có mười hai chi. Vì vậy văn sau hợp rằng: Phật tánh cũng như thế, đâu thể nói khi ở chúng sinh chỉ là chúng sinh? Huống chi mỗi chúng sinh, niệm niệm đầy đủ, nhân duyên y chánh trong mười cõi; trăm cõi, trong mỗi cõi đều có Phật tánh. Bởi thế, lời trong ngoài chứa đựng rất nhiều nghĩa.

Từ câu: “mười hai chi là gì? v.v…” trở xuống là nêu mười hai thể, giải thích đủ mười hai chi.

Ở quá khứ có đủ nhân và quả, vì sao chỉ dùng hai nhân mà chẳng lấy quả? Vì quả ở quá khứ đã thù đáp nhân trước, cho nên chẳng lấy. Thế thì hai nhân sinh ra năm quả nay, lại dùng ba nhân nay để sinh hai quả mai sau. Về chi Thức thì có hai cách giải: 1/ Cho rằng lúc mới thọ thai bảy ngày là thức; bấy giờ có sắc nhưng chưa hiển hiện mà nghĩa thức đã hiển, nên lấy tên là Thức; 2/ Cho rằng chỉ y cứ theo một niệm đầu tiên gá thai, tuy cũng đã có sắc, nhưng sắc chưa đủ, cho nên lấy tên Thức vì Thức là chủ của báo, cho đến niệm thứ hai thì thuộc chi sắc, cách giải thích này có vài điểm hay hơn trước.

Nói năm phần nhập thai là giải thích chi thứ tư Danh sắc, tức là ba bào: hai tay, hai chân và đầu; bốn căn chưa đủ tức chỉ nói thân và ý, chưa có mắt, tai, mũi, lưỡi. Nói danh sắc, có hai cách giải thích: Một, là cho rằng sắc ấm là sắc, bốn ấm còn lại là Danh. Hai, là cho rằng chỉ có sắc này mà đặt tên chúng sinh nên gọi là Danh sắc.

Nói đầy đủ bốn căn tức giải thích chi thứ năm, là sáu nhập. Đã đủ bốn căn thì sáu căn đều đủ nên nói là sáu nhập. Từ đây về sau có các tướng thô tế sinh ra. Tế tướng sinh tức là thức tâm trong thai chưa có thọ tưởng; tướng thô sinh, tức khi mới ra thai chưa có thọ tưởng; tướng thô sinh, tức là khi mới ra thai chưa biết cầm lửa, chạm chất độc, như đứa bé mới sinh được hai tháng.

Từ câu: “Chưa biết khổ vui v.v…” trở xuống giải thích chi thứ sáu là xúc, nếu tướng vi tế sinh là tâm tưởng trong thai chưa biết khổ vui, nếu tướng thô sinh thì là đứa bé hai tuổi, biết bốc lửa, chạm chất độc, mà chưa biết gì, trong tay có vật nhưng chưa phân biệt được tốt xấu.

Nói “Quen nhiễm một ái” tức nói về chi thứ bảy là Thọ, sau năm Quả. Nếu tướng nhỏ nhiệm sinh tức là tâm thọ trong thai; nói một ái nghĩa là sinh ý tưởng chấp trước một duyên lạc; nếu tướng thô sinh là đứa trẻ ba, bốn tuổi chỉ biết thích ăn, chưa biết năm dục.

Nói: “quen gồm năm dục”, tức chi thứ tám là ái, nhân đầu tiên trong ba nhân; nếu tướng nhỏ nhiệm sinh khởi tức là hành tâm đầu tiên trong thai; hành tâm có ba: Đầu tiên gọi là ái, giữa gọi là Thủ, sau cùng gọi là Hữu; nếu tướng thô khởi, là đứa trẻ tám, chín tuổi biết một ít Dục ái.

Nói: “Trong ngoài tham cầu” tức là chi thứ chín thuộc về Thủ tức đứa trẻ hơi lớn, trên mười tuổi, dần dần chuyển tăng trong hành vi tham cầu.

Nói: “Vì các việc trong ngoài v.v…” tức nói chi thứ mười, tức trên mười tuổi, thân cao lớn cho đến một trăm tuổi.

Nói: “Thức hiện tại v.v…” tức chi mười một, là quả đầu tiên của hai quả vị lai; lại đồng với thời gian của chi thức hiện tại, tức là một niệm đầu tiên gá thai.

Nói: “Danh sắc ở hiện tại v.v…” là chi mười hai, lại đồng với thời gian của Danh sắc v.v… hiện tại, tức là chi già chết ở vị lai. Thức, danh sắc, sáu nhập đều là hai quả ở vị lai, hai quả vị lai lại là thức, Danh sắc, sáu nhập ở hiện tại, chỉ chuyển tên mà gọi như thế.

Thứ ba là nói về đủ và chẳng đủ.

Y cứ vào cõi Sắc nói không có ba thọ, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng trong ba thọ chẳng có thọ khổ, nên nói là không, cũng không có ý tưởng về thọ khổ nên không có ba xúc, cũng không có hành thọ khổ nên nói là không có ba ái. Như cõi Sắc và cõi Vô sắc đều không có mười hai nhân duyên, vì sao kinh nói: “Cũng được gọi là đủ mười hai nhân duyên?” Như mới Ca-la-la mà đã chết và các chúng sinh ở cõi Sắc và Vô Sắc, tuy không đủ mười hai nhân duyên nhưng bánh xe khổ chưa dừng, còn qua lại ba cõi, nên cuối cùng sẽ đủ mười hai chi. 2/ Cho rằng theo Đệ Tứ thiền cho đến cõi Vô sắc không còn khổ vui, cũng không còn xả trung dung, cho nên nói không có ba thọ. Cõi Vô sắc đã vô sắc thì chẳng đủ mười hai nhân duyên.

Từ câu: “Vì nhất định v.v….” trở xuống là ý thứ tư, tổng kết, đều đủ mười hai nhân duyên.

Đã chưa dứt vòng khổ, trước sau hướng về nhau mãi nên nói đều đủ.

Từ câu: “Phật tánh cũng như thế v.v…” trở xuống là đoạn hai, hợp dụ.

Sáu đường, bốn loài sinh đều có mười hai, dụ cho tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.

Từ câu: “Ở núi Tuyết v.v..” trở xuống là đoạn ba, gồm ba dụ nói về việc đợi duyên mới thấy. Có ba ý: Thứ nhất là dụ và hợp.

Phần hợp dụ có hai: Trước là hợp dụ, sau là nói về lý.

Nói về lý lại có ba: Đầu tiên nói về chín môn.

Mỗi môn đều có ba câu, hợp thành hai mươi bảy câu.

Thứ hai là giải thích.

Phần giải thích có thêm vào ba việc, tổng cộng ba mươi sáu câu.

Hai câu sau là đoạn ba, tổng kết.

Thứ hai là nêu dụ khối sắc đen.

Thứ ba, là nêu dụ hạt giống.

Hai dụ trước đều là trước dụ sau hợp, dụ sau này không có lời hợp, như văn kinh đã nói.

Từ câu: “Đại Niết-bàn v.v…” trở xuống, là đoạn hai, kết luận khen ngợi, như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi thứ năm. Trước là nêu lại hai câu hỏi trên, sau là nêu hai câu đáp để trả lời hai câu hỏi trước.

Lời đáp có hai: Trước nêu mười chương, sau là giải thích.

Tám môn đầu là tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, thuộc về tự hành, hai môn sau thuộc về hóa tha. Bát Đại-nhân-giác là danh giáo của Tiểu Thừa, vì sao Bồ-tát lại tu hành? Một, cho rằng pháp môn bất định ở Đại thì thuộc về Đại; hai, cho rằng Bát Đại Nhân-giác là tự hành tức thuộc về Tiểu thừa, nhưng cũng có hóa tha, cho nên được gọi là Đại.

Nay cho rằng dùng tâm Đại Niết-bàn tu tập, cho nên khác với Tiểu-thừa.

Từ câu: “Sư tử hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích mười pháp, gồm có năm phen, phen thứ nhất có hỏi và đáp.

Lời đáp thì giải thích chung ít muốn và biết đủ làm một câu, vì ý nghĩa liên quan nhau. Còn các môn khác thì giải thích riêng.

Thứ nhất giải thích ít muốn biết đủ gồm mấy phen giải thích. Thứ nhất là y cứ theo thiện ác.

Từ câu: “Có khi v.v…” trở xuống là y cứ theo Đại Tiểu để cùng giải thích.

Văn trên có bốn câu: Câu thứ nhất nói ít muốn là Tu-đà-hoàn. Trước nói ít muốn biết đủ là Thiện, nay giải thích chẳng ít muốn là thiện, kinh Pháp Hoa nói: “Được chút ít mà cho là đủ”, tức là chấp giữ Tiểu pháp mà cho là đủ. Nay giải thích ít muốn là Tu-đà-hoàn, biết đủ là hàng Trung thừa, đều là chấp giữ, chưa phải là cùng tột ít muốn biết đủ, cho nên biết bốn quả là cao nhất. Đối với Bồ-tát thì chẳng ít muốn, chẳng biết đủ; vì Bồ-tát, trên thì cầu quả Phật vô cùng nên chẳng có ít muốn, dưới hóa độ chúng sinh cũng vô cùng, nên cũng chẳng biết đủ.

Thứ tám là giải thích Giải thoát tức Niết-bàn vô thượng, có ba cách giải thích: 1/ Linh Vị cho dịch đúng của từ Niết-bàn là Giải thoát; nhưng ở đây nói Niết-bàn khác với Giải thoát; 2/ Khai Thiện cho rằng Niết-bàn dịch là diệt độ, Giải thoát tức vô lụy; 3/ Các Sư Trung Quán cho rằng Niết-bàn và Giải thoát đồng là Đoạn đức, nhờ dứt phiền não nên được Giải thoát, vì Giải thoát nên được Đại Niết-bàn, cả hai chẳng khác.

Nói bốn con sông dữ, tức là ba lậu ở trước; Nương sông kiến bạo: vì nói chung kiến hoặc của ba cõi, nên gọi là sông kiến bạo.

Từ câu: “Người xuất gia v.v…” trở xuống là phen thứ hai y cứ theo người xuất gia mà giải thích mười pháp, nhưng chỉ có tám đoạn. Đầu tiên ít muốn và biết đủ hợp thành một, sau chỉ giải thích Giải thoát mà chẳng nói về Niết-bàn, vì đã lược ghi.

Bốn tinh tấn tức là bốn Chánh cần.

Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phen thứ ba, y cứ Bồ-tát để giải thích mười pháp nhưng chỉ có chín pháp, vì Bồ-tát dùng tâm Niếtbàn để tu tập nên không nói về Niết-bàn.

Nói thuận theo hạnh trời, tức chánh định; có người cho rằng vì hạnh Trời lấy định làm thể; nay xin tạm nêu một vài câu hỏi: Nếu Chánh định thuận theo hạnh Trời thì hạnh Trời lấy định làm thể; vậy Ứng thân thuận theo chúng sinh, thì lẽ ra chúng sinh lấy Ứng thân làm Thể? Nay nói rằng hạnh Trời là lý, lấy lý làm gốc, nên nói là chánh định.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là phen thứ tư giải thích mười pháp.

Tám Giải thoát là chánh định, các sư Số Luận cho rằng: Tám Giải thoát lấy định làm Thể. Các sư Thành Thật cho rằng tám Giải thoát lấy tuệ làm thể. Nay cho rằng tất cả đều chẳng đúng.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là phen thứ năm, chỉ giải thích chín pháp.

Năm niềm vui, Hà Tây cho là niềm vui về nhân, niềm vui về Thọ, niềm vui về đoạn, niềm vui xa lìa và niềm vui Bồ-đề. Vui về nhân, tức là nhờ các duyên bên trong, bên ngoài mà được niềm vui. Về thọ, tức là do duyên bên trong, bên ngoài mà thân thêm lớn, tâm được an ổn. Tu tập đạo lý, dứt trừ các thọ, làm cho đạo được thêm lớn, gọi là niềm vui dứt các thọ, xa lìa hẳn phiền não, thân tâm không còn họa hoạn, gọi là niềm vui xa lìa. Vì thường lạc nên gọi là Bồ-đề lạc. Năm niềm vui này từ cạn đến sâu có ghi trong kinh Bồ-tát Địa.

Từ câu: “Này người Thiện nam! v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ sáu. Trước nêu câu hỏi, sau là trả lời:

Lời đáp có hai: là đáp và khuyên, đáp có hai đoạn: Trước nói về thấy rõ và chẳng rõ, sau là nói về nhãn kiến và văn kiến.

Nói về thấy rõ và chẳng thấy rõ, đã nêu lên năm phen, cuối cùng giải thích Nhất thiết giác, nhất tâm ba trì chiếu soi một đế, ba Đế, gọi là Nhất thiết giác. Bồ-tát Thập trụ cũng có giác này, nhưng so với Phật thì còn mờ tối, nên chẳng thấy được rõ ràng. Hàng Thập trụ trước Thập địa thì hoàn toàn chẳng thấy tánh, nên chẳng nói rõ hay chẳng rõ.

Phần nói về nhãn kiến và văn kiến có nêu lên hai phen: Đầu tiên nói Thập trụ là văn kiến, Phật địa là nhãn kiến, kế đó lại nói Cửu địa trở xuống là văn kiến, Thập trụ là nhãn kiến. Ở đây nêu lập bốn câu: Trụ thứ mười cũng có nhãn kiến, Cửu địa về trước chỉ có văn kiến, Phật địa chỉ có nhãn kiến. Trong văn kinh có nêu ba câu này, nếu chúng sinh nghe mà chẳng tin thì chẳng gọi là văn kiến, v.v…

Nếu Thập trụ khác Thập địa, thì chẳng những Sơ trụ không thấy mà Thập trụ cũng chẳng thấy, đây là giai vị Biệt giáo. Nếu Thập trụ đồng với Thập địa, thì Thập trụ thấy, Sơ trụ cũng thấy. Nay văn kinh nói là Trụ lại nói là Địa, nên biết ở đây Trụ và Địa chẳng khác nhau. Đây là giai vị của Viên giáo, mà phân biệt Cửu địa là văn kiến, vì giai vị này thấy Phật tánh chưa rõ ràng, nên hạ xuống định là văn, Trụ thứ mười cao quý hơn nên thêm vào nói là Nhãn kiến. Vì đây là vị Viên giáo mới giải thích như thế, các vị khác thì chẳng được.

 

PHẦN 2

Phần thứ hai ở đầu phẩm này là nói về khuyên tu. Gồm có hai đoạn là khuyên tu và nói về nghĩa.

Ở trên đã nói văn kiến của Bồ-tát Thập trụ, cho đến nhãn kiến của Phật. Nay nếu muốn văn kiến, nhãn kiến thì nên tu tập mười hai thể loại kinh, do đó có phần khuyên tu.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghĩa gồm sáu phen hỏi đáp: Phen thứ nhất là nói về thấy nghĩa, bốn phen giữa là nói về hạnh năng thấy, một phen sau là kết luận thành tựu. Thứ nhất là trước hỏi, sau đáp. Thứ nhất là thưa hỏi.

Trên đã nói: Như Lai thật mầu nhiệm hơn phàm phu, làm sao thấy nghe được? Cho nên nêu câu hỏi.

Kế đến từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là lời đáp, gồm có hai: Một, là nói thật chẳng thể biết.

Từ câu: “Nếu muốn quán tưởng v.v…” trở xuống là nói cũng có thể thấy biết. Ở trên là y cứ theo rốt ráo chứng nói là nhãn kiến, phần chứng là văn kiến, còn ở đây là y cứ theo sự tu tập của phàm phu, cho rằng văn kiến đắc thọ nên lực mạnh, nhãn kiến sắc thân nên sức yếu. Phẩm Đức Vương nói thấy Phật đản sinh xuất gia, là chẳng đạt được Diệu bản, đó đều thuộc về chỗ thấy tà vạy; nay thấy Như Lai sơ sinh đi bảy bước biết đó là phương tiện, thì thấy được Phật tánh. Mỗi pháp đều có chỗ y cứ, chẳng nên chấp nghiêng về một bên. Văn có ba là: Nêu chương, giải thích và kết luận. Thứ nhất, như văn kinh có ghi.

Y cứ theo văn giải thích thì gồm sáu phen: Đầu tiên nói về ba nghiệp thân, miệng, kế hai thù thắng là hình và thanh, ba là thân thông, tâm thông, bốn là thọ thân nói pháp, năm là thân miệng nhẫn, sáu là hình thanh thuyết. Năm phen trước rất dễ thấy.

Trong đoạn văn thứ sáu ở trên, cuối phần văn kiến có nói: “Vì Phạm vương mà nói Trung đạo”, ở đây nếu y cứ theo Hiển giáo thì Phật nói Tứ đế, năm người đắc quả; nếu y cứ theo lời Phật dạy thì nói Trung đạo, có vô lượng Bồ-tát được Vô sinh nhẫn cho đến Bổ xứ. Vả lại, người độn căn nghe nói bốn Đế sinh diệt, hàng Trung căn nghe bốn đế vô sinh, cho nên chẳng nghe nói Trung đạo, người lợi căn nghe nói Tứ đế vô lượng, vô tác, tức là nói Trung đạo. Nói về Trung đạo có năm phen: hoặc dùng song xả (xả bỏ cả 2) để nói về Trung đạo, hoặc dùng tương thành (cả hai đều thành tựu) để nói về Trung đạo, hoặc dùng song chiếu để nói về Trung đạo.

Nay nói theo rằng: Cả hai đều xả tức hai giáo, tương thành tức Biệt giáo, song chiếu tức Viên giáo; theo văn rất dễ hiểu.

Từ câu: “Tâm Như Lai…” trở xuống là đoạn ba, kết luận thành. Như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Bấy giờ v.v…” trở xuống là phần hai, gồm có bốn phen hỏi đáp nói về hạnh năng kiến. Phen thứ nhất, trước là hỏi, sau là đáp. Lời hỏi có hai: Trước y cứ theo Tăng bảo để hỏi, sau y cứ lời Phật nói để hỏi. Thứ nhất như văn kinh có ghi, gồm có chín, y cứ theo người mà hỏi, tâm là bên trong thuộc về Bản, hạnh là bên ngoài thuộc về Tích. Nói là hai loại đầu, là vì hai loại đầu dễ lẫn lộn với hai loại sau cho nên chẳng biết.

Từ câu: “Như lời Phật dạy v.v…” trở xuống, là đoạn hai, nêu lời Phật để gạn hỏi.

Gặp ngay Tăng bảo mà còn khó biết được, huống chi đối với Như Lai, chỉ thấy sắc thân nghe nói pháp, làm sao nương vào hai việc này mà biết là Như Lai?

Phật đáp có hai: Trước là trả lời về Tăng, sau trả lời về Phật. Thứ nhất lại có ba: 1/ Kết câu hỏi.

Từ câu: “Vì khó biết v.v…” trở xuống là nói vì bốn duyên cho nên mới biết.

Từ câu: “Đầy đủ bốn việc v.v…” trở xuống, là thứ ba, kết luận thành tựu, theo văn rất dễ hiểu.

Từ câu: “Giới có hai loại v.v…” trở xuống là đoạn hai, đáp câu hỏi về Phật, có sáu phen: Một, là nói về trì giới rốt ráo, chẳng rốt ráo.

Từ câu: “Lại có hai loại v.v…” trở xuống là phen thứ hai vì lợi và chẳng vì lợi.

Bốn phen sau: Y theo văn rất dễ hiểu.

Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai.

Văn trước nói: Nếu trì giới Bồ-tát thì thấy Phật tánh, đó là cần mà

cầu hay chẳng cần mà cầu? Nếu do cần mà cầu thì đó là pháp giao dịch mua bán, nếu chẳng cần mà cầu, thì như có hạnh mà không có nguyện, thật chưa biết thế nào? Cho nên có câu hỏi này.

Phật đáp có hai ý: Thứ nhất phát khởi mười bốn câu.

Pháp tánh tự như thế, gần gũi tiếp xúc nhau, tự tại pháp nhĩ, chẳng phải cần cầu, nếu tâm chẳng hối hận, thì giữ giới không cạn.

Từ câu: “Tỳ-kheo giữ giới v.v…” trở xuống là nói về tâm tự tại thành tựu, thấy Phật tánh, trụ Đại Niết-bàn, v.v…

Phen hỏi đáp thứ ba, phần hỏi có ba: Một, là lãnh chỉ; Hai, là gạn hỏi; Ba, là kết luận, thứ nhất như văn kinh có ghi.

Trong câu hỏi, thì hỏi giới là gốc của các hạnh, có quả mà chẳng có nhân lẽ ra là chân thường; Niết-bàn thì ở phần ngọn của các hạnh, có nhân mà không có quả lẽ ra là vô thường? Phần sau chỉ kết luận một bề, rất dễ thấy.

Phật trả lời. Trước là khen ngợi, sau trả lời. Khen ngợi có ba là khen ngợi nhân duyên sâu xa, khen ngợi sức trì giới và khuyên nghe. Thứ nhất như văn kinh có ghi.

Thời gian khi Phật Thiện Đắc trụ thế thì dài, còn ngày giờ vào thời Phật Thích-ca thì ngắn, đó là vì thích hợp với cơ duyên. Ví như sáu mươi tiểu kiếp vào thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, thì ở phương đông chỉ trong khoảng một bữa ăn.

Phật đáp có hai: Thứ nhất trả lời về giữ giới không có nhân; có pháp, dụ và hợp. Trong pháp thuyết có hai: 1/ Nêu có nhân; 2/ Ngăn chặn nêu vô tận. Thứ nhất, là nói có nhân.

Lấy việc nghe pháp và thiện hữu v.v… làm nhân cho giới.

Từ câu: “Tín tâm do nơi v.v…” trở xuống là ý thứ hai, ngăn chặn. Sợ hỏi không cùng nên nêu lên hai pháp làm nhân quả cho nhau.

Kế là từ câu: “Như Ni-kiền v.v…” trở xuống là nêu ba dụ để ngăn chặn. Một, là vì ngăn chặn vô cùng mà lập dụ.

Các Sư phần nhiều cho rằng hạnh của Ni-kiền Tử là không để bình chạm đất, nên dùng ba cây gỗ bắt chéo làm cự và đặt bình lên, bình nhờ cự mà đứng vững, cự do bình mà thành.

Lương Vũ Đế cho rằng: Ni-kiền Tử ăn phân bò, thân thể lõa lồ dơ bẩn, có tịnh hạnh gì đáng nói. Nay cho rằng cự giống như dáng chim khát uống nước, cũng gọi là Duẫn cự (thanh gỗ đặt nằm ngang gọi là cự, cột dọc là Duẫn) một bộ phận được lắp đặt trên miệng giếng để lấy nước. Cả hai làm trên dưới cho nhau; tức cả hai làm nhân quả cho nhau; nhưng nói về Ni-kiền là vì ngoại đạo ấy có lập ra loại cự này.

Kế là nêu dụ mười hai nhân duyên.

Nếu định theo ba đời để dụ thì không thuận tiện, nếu lấy theo nghĩa luân hồi chẳng cùng tận thì nghĩa làm nhân quả cho nhau sẽ thành.

Thứ ba, nêu tám tướng của Tiểu thừa để làm dụ.

Đại sinh gọi là sinh, Tiểu sinh gọi là sinh sinh, các Sư luận Thành Thật phá nghĩa Đại sinh, Tiểu sinh của Tỳ-đàm, nên giải thích văn này rằng: Thọ mạng của một đời là Đại sinh, niệm niệm sinh diệt là Tiểu sinh. Do một đời mà có niệm, do có niệm mà có một đời. Văn giải thích chẳng rõ mà lại chẳng chấp nhận nghĩa của Tỳ-đàm. Điều này chẳng nên như thế, khi phá lập đã thích hợp thì mượn dụ, có gì sai trái?

Nay nói thêm rằng: Người xưa dùng tuổi thọ một đời và niệm niệm sinh nhau, sao lại chẳng được? Nhưng chẳng bằng một sát-na có đủ tám tướng, chỉ trong một sát-na là sinh, là sinh sinh. Cho nên trong một sát-na, tướng Đại là nhân và tướng Tiểu là nhân nhân, tướng Tiểu là quả, tướng Đại là quả quả. Cho nên cả hai làm nhân quả cho nhau, như đối với một tín tâm là tâm nghe pháp, tâm nghe pháp tức là tín tâm. Tuy đồng một niệm mà là nhân cho nhau, đã là nhân cho nhau thì thành quả cho nhau.

Từ câu: “Tín tâm v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Trả lời câu hỏi ở trước, nói giới có nhân.

Từ câu: “Quả quả v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi sau, gồm có ba ý:1/ Nêu hai chương.

Một nói là quả, hai nói là chẳng phải nhân.

Kế là từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống giải thích là quả.

Là quả xuất thế nên nói quả vô thượng, là tập quả nên nói là quả Sa-môn, Bà-la-môn; là quả Phật nên nói là đoạn sinh tử, là quả dứt bặt đối đãi, nên nói là phá phiền não; phiền não là lỗi của lỗi, vì Thể là nhân của Tử, đó là một lỗi, lại dẫn đến quả khổ, là hai lỗi, cho nên nói là lỗi của lỗi. Hơn nữa vô minh làm mê lý mà lại còn làm chướng ngại trí tuệ nên nói là lỗi của lỗi.

Từ câu: “Niết-bàn không có nhân v.v…” trở xuống là ý thứ hai, giải thích chương chẳng phải nhân.

Không sinh diệt là không có nhân thế gian, không làm ra là không có nhân của quả báo, chẳng phải hữu vi là không có nhân của sinh, ba câu thường hằng chẳng thay đổi là nói không có nhân đối đãi.

Thứ ba, là từ câu: “Nếu Niết-bàn v.v…” trở xuống là kết luận nghĩa không có nhân.

Phen hỏi đáp thứ tư, hỏi có ba đoạn: 1/ Lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại; 2/ Nêu sáu câu hỏi về vô vi; 3/ Kết.

Nói rốt ráo “không”, đây chỉ là lời nói, chứ chẳng phải là ý chánh, chánh là lấy câu: “Có lúc không” để hỏi. Nói có nhân là có tập nhân, liễu nhân, nói không nhân là không có sinh nhân, báo nhân.

Nêu: “Có lúc không” và lấy đó để hỏi, như ao hồ trời mưa hoặc nắng hạn, như mặt trời, mặt trăng bị mây che hoặc trong sáng mà nói có nói không. Lại nói “vì ít nên nói không”, tức chẳng phải hoàn toàn không. Nói “chẳng thọ là không” chẳng phải không có pháp kia. Nói “chẳng thọ pháp ác” cũng giống như thế; nói “chẳng đúng” cũng giống như thế. Ba câu sau đều có ý nghĩa: là làm không lẫn nhau.

Thứ ba, kết luận, như văn kinh có ghi.

Đức Phật đáp có hai ý: Trước nói về không nhân, sau nói về có nhân. Thứ nhất nói về câu không có nhân, có ba: một, là bác bỏ năm mà theo một; hai, là bác bỏ sáu dụ; ba, là kết luận thành không nhân. Thứ nhất:

Ông dùng rốt ráo “không” để làm lý do vặn hỏi, chẳng hoàn toàn là đúng, chỉ đúng được ít phần. Vì thế y cứ theo đó để so sánh với năm dụ, thì năm dụ đâu thể hợp được?

Kế là bác bỏ lại sáu dụ.

Sáu việc này là pháp thế gian, chẳng thể đối đãi được với pháp xuất thế; nhưng lại bác bỏ rốt ráo “không”, vì dùng đó để thuận theo dứt bỏ vô ngã, vô ngã sở, trái với Niết-bàn, Niết-bàn có ngã, cho nên lặp lại.

Từ câu: “Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là kết luận.

Từ câu: “Là nhân v.v…” trở xuống là trả lời câu Niết-bàn là nhân, chẳng phải quả; văn có hai là nêu chương và giải thích. Thứ nhất là: Nói Niết-bàn là nhân, lấy Phật tánh làm nhân, tức là liễu nhân. Lại phân biệt nêu ra chẳng phải nhân tức chẳng phải sinh nhân. Nói phi quả tức chẳng phải tiểu quả Sa-môn. Trước nói quả Sa-môn, tức là chỉ cho quả Phật là quả Sa-môn, Bà-la-môn.

Từ câu: “Nhân có hai thứ v.v…” trở xuống là giải thích. Văn có ba: Một, là nói có hai nhân là sinh nhân liễu nhân. Hai là nêu ba dụ. Ba, là ba phen nêu pháp môn để hợp, trong hợp đều dùng thân làm sinh nhân, sơ làm liễu nhân. Ở đây tuy nói về pháp chẳng thể nghĩ bàn, nhưng cũng phải nêu sơ lược để phân biệt. Phen thứ nhất là sự lý đối đãi.

Năm độ là sự làm sinh nhân, Phật tánh là lý làm liễu nhân. Kế là định tán đối đãi. Sau là ngang dọc đối đãi.

Nói Bồ-đề, tức muốn nêu nhân giữ quả, nêu quả thành nhân. Hỏi:

Niết-bàn không có nhân, mà theo nghĩa nói có sinh nhân, liễu nhân, vậy lẽ ra cũng nên y theo nghĩa nói có sinh quả, liễu quả?

Đáp: Chỗ thành của liễu nhân tức là liễu quả, chỗ sinh ra của sinh nhân tức là sinh quả. Vì sao chẳng được lập hai quả chung riêng? Vì sinh quả là vô thường, liễu quả là thường, người thế gian cho rằng hai pháp này đối đãi. Đây là pháp môn không nghĩ bàn thì nơi nào mà chẳng được, có khả năng dùng định Thủ-lăng-nghiêm để giải thích. Thí như nhà ảo thuật đứng trước mọi người giả chết để được tài vật, sau đó thì sống lại. Nay kinh này nói hai chim cùng bay chính là nghĩa ấy, như đoạn văn sau có nói: “Thân Phật có hai là thường và vô thường, v.v…”

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là trả lời, có một phen hỏi đáp, quy kết thành bản tông.

Câu hỏi này sinh khởi từ câu nhãn kiến văn kiến, Như Lai Phật tánh nói ở trước.

Thân Như Lai có hai loại là sắc và phi sắc. Sắc là thân Giải thoát của Như Lai; phi sắc là thân Như Lai dứt trừ hẳn các sắc tướng. Phật tánh cũng có hai là sắc và phi sắc, sắc là Vô thượng Bồ-đề, phi sắc là phàm phu cho đến Bồ-tát Thập trụ. Bồ-tát Thập trụ thấy thân chưa được rõ ràng nên gọi là phi sắc. Phật tánh lại có hai là sắc và phi sắc, sắc là chư Phật, Bồ-tát, phi sắc là tất cả chúng sinh; sắc là nhãn kiến, phi sắc là văn kiến.

Phật đáp có hai đều là đáp lại, đều là khai mở hai ý; nên có thấy và chẳng thể thấy, như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai của phẩm này. Ở trước nói Phật tánh, ở đây nói về Trung đạo. Văn có ba phần: một là lược nêu Trung đạo; hai là phá chấp hai bên; ba là kết luận khen ngợi Phật tánh. Thứ nhất có ba câu.

Câu thứ nhất nói: “Chẳng ở trong, chẳng ở ngoài”, các Sư xưa giải thích rằng: Không nhất định ở trong thân chúng sinh, nên nói chẳng ở trong; vì chẳng lìa chúng sinh, tức do thần thức này mà được thành Phật, cho nên nói chẳng ở ngoài.

Các Sư Trung Quán cho rằng: Chẳng phải ở trong thân chúng sinh, nên nói là chẳng phải ở trong; cũng chẳng ở ngoài thân chúng sinh, nên nói là chẳng ở bên ngoài.

Ở đây nói chẳng đúng, như thuyết của các Sư xưa có lấy bỏ, như loài trùng bộ khuất, thuyết thứ hai như chim không cánh. Vì sao? Vì chúng sinh năm ấm là pháp do nhân duyên sinh, tức là không chẳng ở tục đế, nên chẳng ở ngoài, pháp này tức giả chẳng ở chân đế nên chẳng ở trong; pháp này chẳng trung nên chẳng ở hai đế; pháp này ở khắp mọi nơi nên chẳng phải chỉ ở Trung đạo đế; pháp này chẳng thể nghĩ bàn, chẳng dọc chẳng ngang, chẳng chung chẳng riêng, vậy đâu thể chỉ một mình mà nói được, như văn trên nói: “Nhất thiết giác là Phật tánh.”, các Sư chỉ nói: Chẳng phải Nhất thiết giác thì chẳng phải Phật tánh, chẳng gọi là Trung đạo. Ba điểm đầy đủ là Nhất thiết giác, là Phật tánh, mới là Trung đạo. Chỉ dùng tức không, chẳng ở bên ngoài, chẳng ở tục đế, chỉ nương vào ý này mà tùy ý phá thuyết của các Sư.

Nêu câu thứ hai, nói như thế là để thành tựu ý của câu trên. Xưa cho rằng chẳng ở bên ngoài nên chẳng mất, chẳng ở bên trong nên chẳng hoại. Nếu chắc chắn ở bên ngoài thì đông tây thất lạc, nếu chắc chắn ở bên trong thì lẽ ra đồng với thân chết và hư hoại, cho nên nói chẳng mất chẳng hoại. Các sư Trung Quán cho rằng: Vì xưa không thành cho nên chẳng hoại, vì xưa không được, cho nên chẳng mất.

Nay cho rằng hai nhà đều giải thích câu thứ nhất là chưa thành, giải thích câu thứ hai là không nương gá. Nhưng câu này là giải thích để thành tựu ý nghĩa chẳng ở trong, chẳng ở ngoài đã nói trên, vì tức trung cho nên nói chẳng hoại, vì song chiếu cho nên nói chẳng mất.

Câu thứ ba này các sư Trung Quán cho rằng: Tuy chẳng phải trong chẳng phải ngoài, chẳng phải có không, nhưng giả danh là có. Nay giải thích chẳng mất chẳng hoại nói trên tức là nghĩa “cùng khắp tất cả mọi nơi”, cho nên nói “đều có”.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phần thứ hai, phá kiến chấp hai bên. Văn kinh có hai đoạn: trước là phá kiến chấp trong nhân có quả để thành tựu ý nghĩa “chẳng ở trong” nói trên; kế là phá kiến chấp trong nhân không có quả để thành tựu ý nghĩa “chẳng ở trong” nói trên; kế là phá kiến chấp trong nhân không có quả để thành tựu ý nghĩa “chẳng ở ngoài” nói trên. Hai kiến chấp này nếu dứt hết thì nghĩa Phật tánh Trung đạo chẳng mất chẳng hoại đều sẽ hiểu được.

Văn phá chấp trong nhân có quả có bốn ý: Một, là y cứ lời Phật dạy; hai, là y cứ theo thế gian; ba, là y cứ theo nhân duyên; bốn, là y cứ theo chánh nhân.

Thứ nhất là y cứ theo lời Phật dạy: Gần thì y cứ theo đoạn văn trước, cho nên nói “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.” Xa thì y cứ theo các dụ “kho báu trong nhà cô gái nghèo”, và “hạt châu trên trán người lực sĩ” của phẩm trước, đó đều là nói bên trong có chứ đâu phải nói không có ở bên trong .

Y cứ theo thế gian: người thế gian vì muốn có chất lạc nên mới lấy

sữa, muốn có dầu nên mới dùng mè. Nếu không có dầu và lạc thì mọi người đâu cần đến sữa và mè.

Y cứ theo nhân duyên: nếu bên trong không có chánh nhân thì đâu cần duyên ở bên ngoài, như hạt lúa, nếu không có mầm thì không cần đất và nước.

Y cứ theo chánh nhân: do duyên bên ngoài mà chánh nhân bên trong sinh khởi.

Trên đây đều là y cứ theo nghĩa trong nhân có quả để nói lên trong tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vậy tánh lẽ ra phải ở bên trong.

Văn thứ nhất, y cứ theo lời dạy của Phật gồm có sáu phen hỏi đáp: Đầu tiên là dẫn văn ở đầu phẩm này và văn phẩm Như Lai tánh để hỏi.

Lời Phật đáp, nói sữa tức là không, cho nên chẳng nhất định nói là có, chỉ nói lạc từ sữa sinh ra, sữa tức là giả, từ nhân duyên sinh, cho nên nói có.

Phen hỏi đáp thứ hai.

Hỏi tất cả pháp đều có thời tiết, tức là trong sữa có chất lạc, đợi thời mới sinh, như hạt lúa vốn có mầm đợi mùa Xuân đến mới nảy mầm.

Phật đáp có ba ý: Thứ nhất là lập “tức không” để đoạt phá, cho nên nói khi sữa thì không có lạc.

Nếu có vì sao chẳng có hai tên gọi?

Thứ ba là từ câu: “Nhân có hai loại” v.v… trở xuống là nêu lại ý trên.

Phen hỏi đáp thứ ba.

Nếu trong sữa không có tánh lạc, vì sao chẳng từ sừng sinh ra, ở đây là nêu không có nhân để hỏi.

Phật trả lời sừng cũng sinh ra chất lạc, tức là buông.

Phen hỏi đáp thứ tư.

Lấy ý của Phật đáp để hỏi, nghĩa là người muốn có chất lạc. Vì sao chẳng dùng sừng để tìm chất lạc.

Phật đáp rằng sữa là chánh nhân cho nên mới dùng sữa; sừng chẳng phải duyên nhân, cho nên chẳng dùng.

Phen thứ năm nêu chẳng phải quả để hỏi.

Trước Phật lập nghĩa buông để đáp, cho rằng sữa cũng sinh ra cây.

Như văn kinh có ghi:

Kế là Phật dùng đoạt để đáp.

Nếu do một nhân mà sinh thì sẽ hỏi như thế, nhưng phải có hai

nhân mới sinh thì sữa chẳng phải là chánh nhân của cây, vì nhân duyên mỗi pháp đều khác nhau, thì đâu thể sinh ra cây, xét văn kinh rất dễ hiểu.

Phen hỏi đáp thứ sáu.

Chính là hỏi Phật tánh của chúng sinh có mấy nhân?

Trang Nghiêm y cứ theo văn này mà cho rằng giả danh là chánh nhân Phật tánh. Các sư Trung Quán không dùng nghĩa này mà cho rằng duyên nhân chẳng những có sáu độ mà còn có cảnh giới và các đạo phẩm; còn chánh nhân đâu chỉ có giả danh mà còn có năm ấm và tâm thần, v.v…

Nay cho rằng Trang Nghiêm đã cho ấm thành chúng sinh, đây là y cứ theo bên ngoài. Các sư Trung Quán thì cho năm ấm là chúng sinh, tức y cứ theo bên trong, há có thể như thế ư? Văn trên nói rằng: Phật tánh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng mất chẳng hoại, nay cho rằng không chúng sinh là chánh nhân, thì chúng sinh giả danh là định ở bên trong hay định ở bên ngoài? Như trong ngoài tìm cầu chẳng được, thì lại là chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Tuy chẳng phải trong chẳng phải ngoài mà có sáu Độ làm chánh nhân sinh thân năm ấm chẳng mất mát chẳng hư hoại, tất cả chúng sinh đều có ấm, lại thành nghĩa đã nói trước, chẳng nên giải thích khác. Tuy giải thích văn như thế, nhưng có thể suy xét lại.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là ý thứ hai, y cứ theo thế gian chấp hữu để hỏi. Đức Phật đáp có hai phần là chánh phá chấp và chỉ bày nghĩa chánh. Văn thứ nhất lại có hai: 1/ Lập ba phen; 2/ Lại phá. Phen thứ nhất hỏi về lấy sữa chẳng lấy nước, y cứ theo nghĩa sữa có lạc để hỏi.

Phật đáp có hai là bác bỏ câu hỏi và gạn hỏi chung. Thứ nhất như văn kinh có ghi.

Nói rằng: Muốn có lạc thì phải lấy sữa, chẳng phải lấy nước tức là nói rằng: Như người muốn thấy mặt thì phải cầm gương soi, mà nói gương, là muốn nêu ngang dọc để giải thích. Vả lại gương làm đao cũng được, như vị Tiên tên Tôn Bác bẻ cong đao để làm gương, uốn gương thẳng làm đao, v.v…

Phen thứ hai, chấp trong đao có mặt để hỏi.

Phật đáp nếu đao chắc chắn có mặt, vì sao lại điên đảo thấy mặt dài nếu dựng đứng đao, mặt rộng nếu đao nằm ngang. Nếu là mặt mình thì vì sao lại hẹp dài, thật chẳng hẹp dài mà thấy hẹp dài. Nếu nhờ mặt mình mà thấy hình người khác, vì sao chẳng thấy mặt lừa, ngựa.

Phen thứ ba, vẫn thông với Phật, đồng thời. Ánh mắt đến đao thì thấy mặt mình, mà chẳng thấy mặt lừa, ngựa; vả lại, ánh mắt nhìn đến đao, đồng với đao dựng đứng mà mặt dài, đồng với đao nằm ngang mà mặt rộng, cho nên thấy được.

Phật đáp có ba: Một là đoạt phá, ánh mắt thật chẳng đến. Hai, là buông phá, dù cho có đến thì phạm nhiều lỗi; Ba, là kết đoạn phá. Thứ nhất như văn kinh có nói, từ câu: “Nếu ánh mắt v.v…” trở xuống là buông phá, có bốn lỗi.

Nếu ánh mắt đến lửa, thì lẽ ra lửa đốt cháy mắt, vì chẳng cháy nên biết chẳng đến lửa.

Thứ hai, là nếu ánh mắt đến nơi xa kia, thì đâu chẳng sinh nghi?

Thứ ba, nếu ánh mắt có đến, thì lẽ ra chẳng thấy vật trong bình thủy tinh, vì thủy tinh chướng ngại mắt, chẳng thấy được vật chứa trong đó. Cá, đá dưới nước sâu, nước lẽ ra làm chướng ngại mắt, làm sao mắt đến mà thấy được?

Thứ tư, nếu ánh mắt chẳng đến mà thấy được, vì sao chẳng thấy được bên kia tường, nếu thấy bên kia tường, thì thấy các vật ở bên ấy.

Từ câu: “Vì thế v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận đoạt.

Từ câu: “Như lời ông nói v.v…” trở xuống là lại phá. Ở trên chưa được rốt ráo, cho nên mới lại phá, văn có ba đoạn: một là, buông; hai, là đoạt; ba, là kết luận quở trách. Thứ nhất là buông, có ba ý: một, là nêu giá tiền của lạc và ngựa con; hai, là lẽ ra có tánh của con cháu; ba, là lẽ ra có tánh của cây cao năm trượng. Đó là nêu tình chấp thế gian để hỏi, thì Phật cũng dùng thế tình để phá chấp.

Nếu trong sữa có lạc, thì người bán sữa lẽ ra nên tính tiền lạc, ví như có lạc thì lẽ ra đồng thời có năm vị. Nếu không có đề hồ, thì đâu thể chỉ có lạc? Người bán ngựa cái lẽ ra nên tính thêm tiền ngựa con, ngựa con lại có ngựa con, cứ như thế tính mãi không thôi. Nếu chẳng như vậy thì biết ngựa cái không có tánh của ngựa con.

Người thế gian vì muốn có con nên cưới vợ, nếu vợ đã có con thì chẳng được gọi là con gái. Con gái thì không có con, đã có con thì chẳng phải là con gái. Nếu con gái có con, thì con lại có cháu, rồi có chít cháu, thật vô cùng tận, tất cả đều là anh em, vì đều một bụng mẹ sinh ra, thế gian há lại như thế ư? Nếu chẳng phải như thế, thì biết trong con gái không có tánh của trẻ con.

Trong hạt có cây, lẽ ra cao đủ năm trượng, to lớn sừng sững tận trời mây, cành lá giao xen che phủ tám phương. Nếu chẳng phải thế, thì biết trong hạt không có cây.

Từ câu: “Khi là sữa v.v…” trở xuống là đoạn hai, đoạt phá.

Màu sắc khác nghĩa là sữa màu trắng, lạc màu vàng, vị khác, tức sữa ngọt, lạc chua, công dụng khác, tức sữa trị nhiệt, lạc trị lạnh. Đã không có các tánh chất này thì làm sao nói có lạc?

Từ câu: “Thí như v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận quở trách.

Sáng sớm mới uống bơ mà giờ đã sợ hôi, cũng là nói sáng ngày mới chưng cất ủ ấm, mà giờ đã uống no chất lạc, thì đâu có việc ấy?

“Thí như có người v.v…” trở xuống là thứ hai, chỉ cho nghĩa chánh; hai, là dẫn kệ chứng minh; ba, là y cứ theo chúng sinh; bốn, là suy tôn cảnh Phật. Thứ nhất có ba dụ, đều là trước nêu dụ, sau là hợp.

Trong dụ chỉ bày rằng đối với vô tánh nhờ duyên mà có, như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Tất cả các pháp v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Từ câu: “Vì nghĩa này v.v…” trở xuống là ý thứ hai dẫn kệ để chứng minh.

Chỉ dùng hai câu đầu để chứng minh vô tánh cũng đủ. Nếu chắc chắn có tánh, lẽ ra chẳng phải xưa không mà nay có, xưa có mà nay không. Xưa có lẽ ra là thường có, xưa không lẽ ra là thường không. Đã chẳng nhất định, vì sao lại nói trong sữa có tánh lạc. Hai câu sau do nương vào nhau mà có. Đây là lần thứ tư bài kệ này được nêu ra để làm chứng cho nghĩa này.

Từ câu: “Nếu các chúng sinh v.v…” trở xuống là y cứ theo nghĩa thân chúng sinh là không để nêu nghĩa chánh. Tự có pháp dụ, hợp dụ và trùng dụ, như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là đoạn bốn, suy tôn cảnh Phật.

Xem văn kinh, sau khi đã buông và đoạt phá, thì nói Phật tánh là Không; kế đó nêu ba dụ để nói Phật tánh là Giả; kế lại dẫn kệ để chứng minh cho nghĩa Phật tánh tức Không tức Ngã, kế lại nói thân chúng sinh là Không, dụ cho Phật tánh cùng khắp tất cả mọi nơi; dẫn cảnh giới chư Phật để nói Phật tánh tức Trung. Xem văn kinh thấy rất khế hợp, cũng đồng tương ứng với nghĩa: Phật tánh gọi là Đệ nhất nghĩa Không, Không gọi là trí tuệ.

Nay nói thêm rằng: Đại sư Chương An y cứ theo văn kinh biết rõ Phật tánh cùng khắp tất cả mọi nơi mà chưa chịu nói rõ, bởi vì người thời ấy còn chưa tin là có, thì đâu thể nêu là cùng khắp tất cả các loài? Phật tánh đã đầy đủ ba nghĩa không, giả, trung, tức ba Đế, thì tất cả pháp đâu chẳng phải là ba Đế, đâu chẳng phải là Phật tánh? Nếu chẳng

69

như thế thì làm sao có thể nói trong thân chúng sinh có hư không. Chúng sinh đã có thì các nơi khác chẳng lẽ là không ư? Nếu không có thì chẳng được gọi là hư không. Hãy suy nghĩ cho kỹ! Suy nghĩ cho kỹ!

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là y cứ theo duyên năng phát khởi quả trong nhân. Nếu không có thì đâu cần duyên? Văn có năm phen hỏi đáp.

Ý lời hỏi là: Nếu sữa không có tánh lạc, thì đâu cần duyên nhân.

Hư không chẳng có tánh thì chẳng cần đợi nhân.

Lời đáp như trong kinh đã ghi.

Phen thứ hai chuyển duyên nhân thành liễu nhân. Trong lời hỏi có ba dụ, kế là dẫn thí dụ về sữa và hợp dụ.

Phật đáp có bốn: một, nói tánh là liễu nhân; hai, là nói nếu đã có liễu thì lẽ ra tự liễu; ba, là nói lẽ ra có hai liễu; bốn, là nêu chánh nhân để quyết định.

Đầu tiên là nói tánh là liễu nhân, liễu vốn là liễu thì sẽ khiến cho chất kia xuất hiện. Nếu đã có tánh, thì tánh tự là liễu, đâu cần đến việc khác làm cho liễu. Như sữa có tánh lạc, tánh tự là liễu, đâu cần phải ủ men và giữ hơi ấm mà liễu sữa để lạc sinh ra.

Kế là, từ câu: “Nếu là liễu nhân v.v…” trở xuống, chính là muốn nói ủ men và hơi ấm là liễu nhân lẽ ra phải tự liễu, nếu chẳng tự liễu thì làm sao liễu nhân cho sữa? Đầu tiên là nói nếu tự liễu lẽ ra có thể tự liễu mà cho ra lạc, chẳng cần phải liễu sữa, khiến sữa cho ra lạc.

Từ câu: “Nếu nói liễu nhân v.v….” trở xuống là ý thứ ba, lẽ ra có hai liễu, tức muốn nói: Ủ men và hơi ấm liễu cho ra lạc, lại liễu sữa cho ra lạc.

Từ câu: “Nếu có hai, v.v…” trở xuống là ý thứ tư, nêu ra chánh nhân để quyết định.

Muốn nói ủ và hơi ấm để làm hai liễu, thì sữa lẽ ra cũng có hai chánh nhân là: Chánh nhân tự tạo ra lạc và chánh nhân ủ và hơi ấm.

Phen thứ ba, ý hỏi ở trước tuy có bốn phen gạn hỏi, nhưng chính là chấp ý thứ ba tự liễu và liễu tha.

Nói chúng ta có tám người, tức tính người là bảy cộng với mình là thành tám. Đây là tự tính số của tha, tha cũng giống như thế, tự liễu và liễu tha.

Đức Phật đáp có hai: trước phá chấp, sau nêu nghĩa chánh. Phá chấp có hai ý: 1/ Phá chấp.

Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là giải thích.

Trí có khả năng tự tính sắc của mình và sắc của người (tha), còn

sắc thì chẳng thể tự tính và tính cho người. Liễu nhân thì như sắc, đâu thể tự liễu và liễu tha; phải có một pháp khác tự liễu và liễu tha, nên nói liễu nhân chẳng phải liễu nhân.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chỉ bày nghĩa chánh.

Muốn nói chẳng phải xưa chắc chắn có, nhờ duyên mới có. Phen thứ tư lại chuyển lời hỏi, dẫn lời Phật nói, vì có sữa có lạc nên biết là có.

Phật đáp có hai: Trước nêu chung ba lời đáp.

Chuyển đáp tức là tùy câu hỏi mà đáp; im lặng đáp tức gác qua là đáp; nghi đáp tức bất định đáp.

Sau là chính thức dùng chuyển đáp, như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen thứ năm, chẳng cho phép nói sẽ có, cho nên lập câu hỏi này. Trước bác bỏ ngược lại.

Sau là chánh thức hỏi, có pháp, dụ và hợp.

Đức Phật đáp có hai là dụ và hợp. Dụ thuyết có bốn:

  • Một, là nói quá khứ có.
  • Thứ hai, là nói vị lai có.
  • Thứ ba, là nói lại quá khứ có.
  • Thứ tư, nói lại vị lai có.

Vị lai có tức là sẽ có, là đã lời đầy trả câu hỏi, mà nói thêm về quá khứ, đó là do có nhiều bộ phái khác nhau, nợ chấp trước cũng chẳng phải một. Như Tát-bà-đa bộ chấp ba đời đều có, tức đã có, sẽ có và đang có. Đàm-vô-đức chấp quá khứ, vị lai không có, chỉ hiện tại là có. Ở trên đã phá hữu rồi, mà nay sử dụng chỉ là dùng giả danh tùy tục mà thôi. Hơn nữa, đó là việc của Đấng Pháp Vương sử dụng, đâu thể dùng thế tình mà so lường. Ở trước nói trồng quít, ban đầu thì ngọt mà khi trái chín thì chua, vị chua sau này chính là ở trong vị ngọt trước kia, để chứng minh cho quá khứ là có. Lại nói quít này đầu tiên thì chua, sau thì ngọt, hoặc đó là do đất đai khác nhau, hoặc là do lúc trái chín sau, nên bây giờ trái chín có vị chua.

Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Chính là nói về Đương hữu, tức là chúng sinh sẽ được. Từ câu: “Sư Tử Hống…” trở xuống là đoạn thứ tư, y cứ vào chánh nhân mà chấp có. Gồm bốn phen hỏi đáp. Phen thứ nhất có bốn là pháp, dụ, hợp và kết. Ban đầu, trong pháp nói chánh nhân Phật tánh, tức chánh tánh Trung đạo.

Từ câu: “Ni-câu-đà v.v…” trở xuống là nêu dụ, gồm bốn phần:

Một, là nêu dụ; hai, là phụ nêu họ Cù-đàm; ba, là hợp dụ; bốn, từ câu: “Giống như v.v…” trở xuống là dùng dụ liên hệ với họ để hỏi.

Ý gạn hỏi là: Hạt Ni-câu-đà không có tánh của cây, vì sao được gọi là hạt Ni-câu-đà, lẽ ra nên gọi là hạt Khư-đà-la. Sữa không có tánh lạc thì cũng chẳng được gọi là sữa, vì lẽ ra sinh ra một chất khác.

Từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là hợp dụ.

Phật đáp có hai ý: Đầu tiên nêu tám việc chẳng thể thấy.

Kế là từ câu: “Nếu nói vì quá nhỏ, bị che lấp v.v…” trở xuống là phá hai việc: trước bác bỏ chung, sau từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là phá.

Trong văn phá có hai: Trước phá cho rằng nhỏ, sau phá cho rằng ngăn che, thứ nhất là phá chấp nhỏ.

Hễ hình tướng cây rất thô, thì ở đâu mà chẳng thấy! Nếu vốn là nhỏ, thì sau đâu thể lớn? Nếu nói đã lớn thì đầu tiên lẽ ra đã lớn.

Kế là phá ngăn che. Nếu hạt Ni-câu-đà che cây Ni-câu-đà, khiến chẳng thấy được, thì lẽ ra phải thường che không thấy được mới phải.

Phen hỏi đáp thứ hai. Phật đáp có năm lớp: một, là nói vốn có vốn không, đều chẳng cần liễu nhân.

Từ câu: “Nếu hạt Ni-câu-đà v.v…” trở xuống là lớp thứ hai, nêu chẳng phải quả để hỏi.

Hỏi về vốn không, hạt Ni-câu-đà vốn không có tướng cây Ni-câuđà thô, cũng không có tướng cây Khư-đà-la thô, vì sao chẳng sinh ra cây Khư-đà-la?

Từ câu: “Nếu nhỏ v.v…” trở xuống, là hỏi “nếu thô thì lẽ ra thấy được”.

Thứ tư là nêu tướng cháy để hỏi.

Nếu cây vốn có tánh, sau mới sinh cây thì lẽ ra cũng vốn có tướng đốt cháy rồi sau mới cháy, thế thì tánh của hạt bị cháy, vậy cây chẳng sinh.

Thứ năm, là dùng ý để phá chấp trước sinh sau diệt.

Văn nói tất cả pháp sinh diệt đồng thời. Hãy y cứ theo hạt Ni-câuđà có sinh diệt đồng thời vì sao nói trước sinh sau diệt? Đã sinh diệt đồng thời, thì được nói trước sinh sau diệt, lẽ ra cũng được nói trước diệt sau sinh.

Phen hỏi đáp thứ ba. Nêu chẳng phải nhân để hỏi, đã không có tánh vì sao chẳng cho ra dầu?

Kế là Phật đáp cũng có dầu, tức là ép hạt có nước, nước ấy chính là dầu.

Thứ tư lại hỏi lẽ ra cũng được gọi là dầu mè.

Phật đáp là vì tùy duyên mỗi pháp khác nhau, nên đặt tên cũng khác nhau, như chẳng được gọi là dầu mè mà gọi là dầu Ni-câu-đà. Phật tánh của chúng sinh cũng giống như thế, trong chúng sinh có Phật tánh, trong cây cỏ không có Phật tánh mà có tánh của cây cỏ.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, phá chấp trong nhân không có quả, đã chẳng phải nghĩa của ngoại đạo, nên chỉ có một phen hỏi đáp. Hỏi có ba là lãnh chỉ, gạn hỏi và kết luận.

Lãnh chỉ và bác bỏ ngược lại, tức lãnh thọ chỉ thú không có quả, mà chẳng nghi. Trong nhân đã không có quả thì trong chúng sinh cũng không có Phật tánh, nghĩa này đáng tin, chúng sinh liền chấp chắc chắn không chân thật. Đã chấp chắc chắn không thì chẳng được nói tất cả có tánh, cho nên mới nói: “Chẳng đúng!”, đó há chẳng phải là chấp không ư?

Từ câu: “Vì sao? v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh thức vặn hỏi; trước là hỏi, sau là đáp. Thứ nhất có bảy phen: 1/ Y cứ theo hành nghiệp; 2/ Y cứ theo đoạn thiện; 3/ Y cứ theo phát tâm; / Y cứ theo lui sụt và không lui sụt; 5/ Y cứ theo muôn hạnh; 6/ Y cứ theo sự lui dụt muôn hạnh. 7/ Y cứ theo Tăng bảo. Thứ nhất y cứ theo hành nghiệp để hỏi.

Trời, người vô tánh, chỉ có nghiệp duyên. Như giữ năm giới được thân người, giữ mười thiện thì sẽ được làm thân trời. Trời sinh làm người, người được làm Trời. Bồ-tát cũng như thế, chỉ có nghiệp duyên mà thành Phật, chứ chẳng phải do Phật tánh.

Thứ hai, là y cứ theo đoạn thiện để gạn hỏi.

Nếu chúng sinh có tánh thiện thì chẳng thể bị dứt trừ mà đọa vào địa ngục; vì nhờ năng lực Phật tánh mà ngăn dứt tội đọa địa ngục. Phật tánh là thường, thường thì đâu thể cắt đứt, cắt đứt gốc thiện thì biết là vô thường, nếu vô thường thì không có Phật tánh.

Thứ ba, y cứ Sơ phát tâm để hỏi.

Nếu vốn có tánh thì lẽ ra vốn đã phát tâm, tâm đã mới phát thì biết vốn chẳng có tánh, vả lại Phật tánh không có phát, nếu có phát thì chẳng phải tánh.

Thứ tư, y cứ theo lui sụt và không lui sụt để hỏi.

Nếu vốn đã có tánh thì lẽ ra chẳng nên lui sụt chỉ nên không lui sụt, đã có lui sụt, thì biết không có Phật tánh.

Thứ năm, y cứ theo muôn hạnh để vặn hỏi.

Như sữa chẳng đợi duyên mà thành lạc, nhưng bơ thì chẳng phải như thế, phải đợi đủ nhân duyên như sức người, nước, bình, dây, khuấy

v.v…, chúng sinh cũng như thế, người có Phật tánh lẽ ra lìa nhân duyên cũng được vô thượng Bồ-đề.

Nếu vốn có tánh thì đâu cần muôn hạnh. Đã tu tập thì biết chẳng có Phật tánh.

Thứ sáu, y cứ theo lui sụt muôn hạnh để hỏi.

Phật tánh là thường, làm sao có lui sụt, đã thấy ba ác mà lui sụt, thì biết không có Phật tánh.

Thứ bảy, là y cứ Tam bảo để hỏi.

Như Phật nói Tam bảo là thường, Tăng đã là thường thì lẽ ra thường trụ, đâu thể tiến tu để sau này thành Phật? Đã có tiến tu thì là vô thường. Vì vô thường nên vô tánh, tại sao nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?

Từ câu: “Phật bảo rằng v.v…” trở xuống là đáp bảy câu hỏi trên, nhưng không theo thứ lớp. Thứ nhất là đáp câu hỏi thứ nhất về hành nghiệp, thứ hai là đáp câu hỏi thứ ba về phát tâm, thứ ba là đáp câu hỏi thứ sáu về lui sụt muôn hạnh; thứ tư là đáp câu thứ hai hỏi về dứt mất điều thiện; thứ năm là đáp câu thứ năm về hỏi về muôn hạnh; thứ sáu là đáp câu hỏi thứ bảy về Tăng Bảo; thứ bảy là đáp câu thứ tư hỏi về lui sụt, không lui sụt. Sau đây là câu thứ nhất.

Chỉ tám chữ này là trả lời đầy đủ. Ý câu hỏi là nêu trời, người do nghiệp, chẳng quan hệ gì đến Phật tánh; lẽ ra cũng do nghiệp mà dẫn đến Phật, không liên quan gì đến Phật tánh? Đức Phật đáp trời, người chẳng cần Phật tánh, chỉ do nghiệp dẫn mà có qua lại lên xuống, chẳng quan hệ gì với Phật tánh. Phật tánh là thường nên thành Phật cũng thường biết có Phật tánh.

Từ câu: “Ông nói v.v…” trở xuống là câu thứ hai, trả lời câu thứ ba hỏi về phát tâm. Trước nêu lại câu hỏi.

Kế là chánh đáp.

“Ông lại hỏi v.v…” trở xuống là câu thứ ba, đáp câu thứ sáu hỏi về lui sụt muôn hạnh.

Phật nói rằng thật chẳng có lui sụt, chỉ vì chậm chứng đắc nên gọi là lui sụt, mà chẳng trả lời về muôn hạnh, vì văn sau có thể đáp nghĩa này.

Từ câu: “Tâm Bồ-đề v.v…” trở xuống là câu thứ tư, trả lời câu thứ hai, dứt mất điều thiện.

Nói tâm Bồ-đề chẳng phải Phật tánh, như hàng Nhất-xiển-đề chẳng phát tâm Bồ-đề mà Phật tánh chẳng bị cắt đứt.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là câu thứ năm, đáp

câu thứ năm hỏi về muôn hạnh. Một, là chánh đáp.

Thứ hai, lại dùng ý để hỏi.

Ở trước không có lời này, có người cho rằng ở trước lẽ ra có câu hỏi này, nhưng người dịch bỏ sót. Có người cho rằng trước không có câu này, câu hỏi này chỉ theo ý mà lập.

Từ câu: “Ông nói Tăng Bảo v.v…” trở xuống là câu thứ sáu trả lời câu thứ bảy, có bốn lần “lại nữa”. Thứ nhất là nói hai thứ hòa hợp.

Kế là nói mười hai thể loại kinh hòa hợp.

Thứ ba là nói mười hai nhân duyên hòa hợp.

Thứ tư là nói chư Phật hòa hợp.

Tất cả đều nói về Tăng thường, đó là Nhất thể Tăng, chứ chẳng phải là sự tăng nay.

Từ câu: “Ông nói chúng sinh v.v…” trở xuống là câu thứ bảy đáp câu thứ tư hỏi về lui sụt, không lui sụt. Văn có hai: Trước là nêu lại câu hỏi khuyên nghe, kế là chánh đáp. Hỏi rằng: Nếu có Phật tánh, thì đâu có hợp với Bạt trí và A-bạt-trí khác nhau?

Văn trả lời có bốn đoạn: 1/ Nói hạnh lui sụt; 2/ Nói về nguyện không lui sụt; 3/ Nói cả về hai hạng người lui sụt và không lui sụt; / Nói lại hai hạnh không lui sụt. Ý Đức Phật đáp là chẳng liên quan đến Phật tánh, có lui sụt hay chẳng lui sụt chỉ là do chí nguyện mạnh hay yếu khác nhau. Tuy lui sụt nhưng chẳng mất, chỉ chậm được nên gọi là lui sụt. Đầu tiên nói về hạnh lui sụt, lại gồm có bốn: Một, là nói về mười ba pháp; hai, là nói về sáu pháp; ba, là nói về năm pháp; bốn, là nói về hai pháp. Thứ nhất là nêu mười ba pháp như văn kinh có ghi.

Nêu sáu pháp, có người theo sự nghiệp thế gian, tức người xuất gia học đạo mà kinh doanh theo pháp thế tục thì có hại rất lớn. Nói pháp tục, tức các pháp ngoài pháp chân tu đều gọi là pháp tục. Như truyện Tả Thị trong Xuân Thu có nói Tạng Văn Trọng có ba điều bất nhân: một là bảo vợ đan cỏ làm chiếu để bán, bị người nước khác chê bai rằng: “Đại phu của nước ông thất đức, tranh lợi với người.” (Còn hai điều kia, một là biết Liễu Hạ Tuệ là hiền tài mà không tiến cử; hai là xem tinh tú ngày giờ, nhưng Sớ chủ không ghi). Người thế tục mà còn bị chê là tham, huống chi người xuất gia bậc chân tăng mà bôn ba theo việc cày bừa, buôn bán, làm trở ngại, bỏ phế tu đạo, thì dẫu bị chê trách cũng đâu đáng nói. Lại mỗi câu đều nói về quán tuệ; sợ văn dài dòng nên chẳng chép, nếu đạt được ý thì tự tại vô ngại. Phàm xét lời giải, không nên chỉ cho làm ruộng đốn củi là việc thế tục mà việc như ngồi không, năm trần, sáu dục đều là việc thế tục. Lại chuyên tâm nhớ nghĩ đến Không, Vô tướng, Vô nguyện cũng gọi là việc thế tục. Lại nghĩ đến chúng sinh lầm than, đau khổ, khởi tâm từ bi cứu độ cũng là việc thế tục. Nếu vô niệm mà niệm vô niệm, chẳng phải niệm chẳng phải vô niệm, rõ biết trong một tâm, thì đó mới gọi là chẳng phải việc thế tục.

Nay nói thêm rằng: Như Đại sư giải thích kinh, mỗi câu đều y văn giải thích, nay xem lời giải thích trong mỗi câu thì chưa phải là yếu nghĩa. Nhưng các hành giả vì pháp hãy tùy văn khởi quán, thì chỗ nào cũng đều rõ ràng.

Từ câu: “Thế nào gọi là v.v…” trở xuống là đoạn hai nói về nguyện không lui sụt.

Nguyện làm thầy của tâm, có hai cách giải: Một, là hai tâm trước và sau, tâm trước khởi ác, tâm sau theo đó trôi lăn, đây chẳng phải là thầy của tâm. Tâm trước khởi ác, tâm sau đoạn dứt thì mới gọi là thầy của tâm. Hai, cho rằng nhờ vào người để hàng phục tâm, chẳng theo tâm mà tạo tác, việc tạo tác nhờ vào người, thì người là thầy của tâm. Nay nói một cách rất gần gũi rằng: Văn kinh ở trên đã nói: “Thầy của chư Phật chính là Pháp”, tâm duyên với Pháp thì Pháp là thầy của tâm, sâu cạn đều được tự tại.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về hai hạng người lui sụt và không lui sụt. Đây chính là trả lời câu hỏi. Gồm có pháp, dụ và hợp.

Từ câu: “Sư tử hống v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói về hạnh không lui sụt. Trước hỏi, sau đáp.

Nói chung sáu Độ đều là hạnh không lui sụt. Nay lại nêu nghiệp nhân ba mươi hai tướng tức y cứ theo tâm cầu Phật là hợp lý. Văn trên nói một trăm phước thành một tướng, văn ở đây lại nói tu một nghiệp thành một tướng hoặc nhiều tướng. Đó là nói theo nhân quả tương tự, nói một nghiệp, một tướng, nhiều tướng là nói lên nhân quả không khác nhau. Đức Phật có bốn răng nanh nhưng văn chỉ nêu hai cái, tức hai cái lớn, hai cái trắng, hai cái trắng tính là một, hai cái lớn tính là một, nên nói là hai răng nanh. Có người lại cho rằng nếu nói về răng thì có bốn, nếu nói mỗi bên thì có hai cái, nay nói rằng hai bên, nên ghi là hai cái.

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận khen ngợi Phật tánh.

Văn này đã đủ năm thứ Phật tánh, trong đó chúng sinh là chánh tánh, cảnh giới chư Phật là quả tánh, quả quả tánh, nghiệp quả là liễu nhân, Phật tánh, tức cảnh giới tánh. Lại có cách giải thích rằng: Chúng sinh là chánh nhân, cảnh giới chư Phật là cảnh giới tánh, nghiệp là liễu nhân tánh, quả là quả tánh, quả quả tánh, sao nói Phật tánh là tổng kết toàn chương? Lại có cách giải thích rằng: Tất cả chúng sinh là nói về phàm phu, chư Phật tức là nói về bậc thánh, nghiệp là nhân tánh nhân nhân tánh, quả là quả tánh quả quả tánh, Phật tánh là tánh nhân tánh, sao cùng là tổng kết bốn pháp, tức bốn điều này gọi là chẳng thể nghĩ bàn; chẳng nên chấp một tướng nhất định, một tánh là năm tánh, năm tánh là một tánh, chẳng phải một tánh năm tánh mà là một tánh năm tánh, chẳng phải dọc chẳng phải ngang, chẳng phải chung chẳng phải riêng, thế mới gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu đọc được ý này, như đối chiếu với hai phen phá ở trên thì biết vô tánh là hữu tánh, hữu tánh là vô tánh, chẳng phải hữu tánh chẳng phải vô tánh mà là hữu tánh vô tánh, tức chẳng phải trong chẳng phải ngoài, tuy chẳng phải trong ngoài mà chẳng bao giờ hư mất, đó gọi là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Nếu mất ý này thì hoàn toàn chẳng phải là tông chỉ bí mật, văn lý mâu thuẩn, đâu thể giải thích Niết-bàn.

Văn nói bốn pháp, là chúng sinh, cảnh giới chư Phật, nghiệp và quả. Văn lại nói chúng sinh bị phiền não che lấp nên thường, đó là nói thường khởi phiền não; lại có chỗ giải thích rằng: Trong chúng sinh có lý Phật tánh nên gọi là Thường. Nay cho rằng các cách giải thích trên quá cạn thấp! Chẳng đúng với nghĩa thường. Nói chúng sinh bị phiền não che lấp tức là thường, nghĩa là chúng sinh là sinh tử, sinh tử tức Niết-bàn, phiền não tức Bồ-đề. Đã nói “tức là” thì há chẳng phải là Thường hay sao?

Hỏi: Quả quả, liễu nhân và muôn pháp thiện, vì sao gọi là Thường?

Có người giải thích rằng vì hiểu được Phật tánh, cho nên nói Thường.

Ở đây cho là không đúng. Vì đều chẳng thể nghĩ bàn, cho nên là thường. Hiểu rõ văn thì chỉ ở tại đây, đâu cần phải nhọc tìm cách giải thích khác. Vì chẳng thể nghĩ bàn cho nên Thường, là nghĩa viên giáo. Vô thường che lấp, phá vô thường rồi thì được an vui, đó là nghĩa Biệt giáo.

 

PHẦN 3

Đầu quyển là đoạn ba nói về buộc và thoát. Chúng sinh tuy đều có Phật tánh, nhưng bị các hoặc che lấp, nên chẳng thấy, cần phải tu tập muôn hạnh, sinh giải, dứt hoặc thì lý Phật tánh mới hiện. Vì thế mới nói về buộc và thoát.

Toàn văn có ba phen hỏi đáp. Phen thứ nhất, về hỏi, gồm có hai phần là lãnh chỉ và nói không có.

Kế là từ câu: “Năm ấm này v.v…” trở xuống là dùng sinh diệt để hỏi. Nếu chánh tánh bất sinh bất diệt thì không buộc không mở; như duyên nhân niệm niệm chẳng dừng trụ lại cũng chẳng có buộc mở. Tánh thế của hoặc này thoạt khởi thoạt diệt, làm sao trói buộc chúng sinh? Đã không buộc thì cũng không có mở. Gồm có pháp, dụ và hợp.

Lời đáp có hai: Một, là khuyên nghe và hứa đáp.

Kế là chánh đáp. Lại có hai phần: Trước nói về buộc, sau nói về mở. Nói về buộc có ba ý: Một là Tử ấm, hai là Trung ấm, ba là Sinh ấm; trong văn nói Tử ấm lại có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất là pháp thuyết, như văn kinh ghi.

Mặt trời lặn về Tây, ánh sáng sắp tắt của mặt trời chiếu về Đông, chẳng bao giờ trở về Đông, mạng người sắp hết, tuy còn chút khí lực, nhưng chẳng thể sống lại. Năm ấm này diệt rồi, thì năm ấm sau lại tiếp tục sinh. Đây là dùng tử để nói sinh.

Từ câu: “Nghiệp quả v.v…” trở xuống là hợp dụ. Trước là chánh hợp dụ.

Thứ hai, lại dẫn dụ để chứng minh.

Từ câu: “Như ấn sáp v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Trung ấm. Có dụ và hợp.

Sáp dụ cho Tử ấm, đất sét dụ cho Trung ấm, ấn hoại dấu hiện dụ cho Tử ấm diệt thì Trung ấm liền sinh. Dấu chẳng phải từ đất xuất

hiện tức thân này chẳng từ Trung ấm sinh, chẳng phải không có nhân, cũng chẳng phải từ nơi khác đến, chỉ nhờ vào Tử ấm diệt mà xuất hiện.

Chẳng thể tìm được nơi chốn của nó, chỉ do nhân duyên mà có.

Hỏi: Có trường hợp nào chẳng thọ thân Trung ấm hay chăng?

Đáp: Nói chung thì đều có thọ, như Đại Lý Tự (ngục) phán định hình án; Trung ấm cũng giống như thế, phán định thiện ác, nếu ác thì đọa, thiện thì thăng cao. Nếu nói riêng thì tùy theo thiện ác mạnh, như gây ra năm tội nghịch thì đọa thẳng vào địa ngục, thực hành mười điều lành thì sinh thẳng lên cõi trời, như mũi tên rời khỏi tay liền đến phương kia, vì thế chẳng nói về Trung ấm.

Từ câu: “Ấm hiện tại diệt v.v…” trở xuống là hợp dụ: Thứ nhất là chánh hợp, kế là nói hai loại mắt, ba là nói về thức ăn. Thứ nhất lại có hai ý: Đầu tiên là chánh pháp.

Nêu dụ để hợp dụ.

Thứ hai là phân biệt hai thứ mắt, ba loại thức ăn.

Không có Sủy thực, là đã thay đổi báo thân thì đâu có cơm để nắm thành viên. Đã có tưởng ấm thì có tư thực, có thân nên có xúc thực, có ý nên có thức thực. Trong luận Câu-xá có nói rộng về Trung ấm v.v… Người xưa có nói về chương Tứ Thực, nhưng ở đây thì không quan trọng.

Nếu nói chung thì sáu đường đều có sinh ấm. Ở đây y cứ theo cõi người, nên đầu tiên nói khởi ba phiền não, kế là nói bốn điên đảo, vì thế mới bị trói buộc. Chẳng được hỏi rằng: Vì niệm niệm diệt nên không có trói buộc. Ba phiền não là ái, sân và cho rằng mình có, đây là ngã kiến, cũng gọi là Si.

Từ câu: “Người này v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Giải thoát.

Đoạn trên nêu bốn pháp là gần gũi, nghe pháp, suy nghĩ và tu hành, như văn kinh có nói.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Trước là hỏi, có hai đoạn: 1/ Lập nghịch dụ, nêu trong hư không chẳng có gai, sau nêu ấm không trói buộc.

Ở trên Bồ-tát Đức Vương nói: “Tâm vốn không tham, làm sao tham dục buộc được tâm?” Tức là nghĩa này.

Phật đáp có hai là pháp và dụ. Thứ nhất nói theo lý thì vì nối nhau nên chẳng dứt, vì hư hoại nên vô thường, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng buộc chẳng mở, nếu chưa đạt được lý này thì có buộc có mở.

Nêu lên, nắm tay, nếu y cứ khi bàn tay hợp thì nói là nắm; khi bàn

70 tay rời thì nói là mở. Vốn khi chẳng hợp thì nói chẳng nắm chẳng mở. Vốn khi chẳng hợp thì nói chẳng nắm chẳng mở. Ba pháp như trói buộc, v.v… là thuộc ý này. Buộc là nói theo Giả, mở là nói theo Chân, chẳng buộc chẳng mở là nói theo Trung đạo. Đó là tướng ba Đế tức nhau.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba, trước hỏi sau đáp.

Câu hỏi này gồm thâu cả câu đáp ở trên để lập ra. Ở trên nói danh sắc trói buộc chúng sinh, chúng sinh lại trói buộc danh sắc, danh sắc chỉ là chúng sinh, làm sao tự trói buộc được, như đao chẳng tự cắt. Cho nên bây giờ lại hỏi: Nếu chúng sinh chỉ là danh sắc thì lại là danh sắc trói buộc danh sắc, vì sao nói danh sắc trói buộc chúng sinh?

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ tư, như văn kinh có ghi.

Trong phần đáp có pháp, dụ và hợp. Thứ nhất, là pháp thuyết.

Bậc A-la-hán, hạt giống trói buộc đã tiêu nên không bị trói buộc, nhưng quả báo vẫn còn nên có trói buộc. Nhưng nói chưa thấy Phật tánh là vì nhìn từ Đại thừa thì Tử và quả đều là buộc, còn Tiểu thừa thì chẳng phải như thế.

Kế là dụ và hợp, như văn ghi.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ năm, trước hỏi sau đáp.

Ý hỏi là: ở trước, Đức Phật dụ đèn là chúng sinh, dầu dụ cho phiền não, nay hỏi về lời này, có hai cách giải thích: 1/ Cho rằng đèn soi thấy các pháp; ánh sáng, dầu và vật hợp thành đèn sáng. Ánh sáng gọi là ánh sáng đèn, vật thì gọi là đèn; 2/ Cho rằng ánh sáng và dầu khác nhau, là lấy ánh sáng làm đèn, đèn thuộc về tánh lửa, dầu là tánh ướt. Ở đây muốn dùng ý sau để hỏi đèn và dầu, hai tánh khác nhau; còn chúng sinh và phiền não thì chẳng khác, vì sao lại dụ như thế?

Phật đáp đầu tiên nêu tám dụ, sau hợp với dụ về đèn. Tám dụ được chia làm hai: Trước là nêu chương, kế là giải thích.

Từ nhỏ hướng đến lớn là thuận dụ, từ lớn trở về nhỏ là nghịch dụ; hiện là dùng việc ở hiện tại làm hiện dụ. Các dụ thuận nghịch ở trước cũng là việc hiện tại; trừ hiện sự của dụ thuận nghịch, còn các hiện sự khác đều chẳng phải cùng một loại; đầu tiên là trước dụ sau hợp; sau đó tức trước nêu pháp, sau nêu dụ. Tiên hậu dụ (dụ trước sau) thì có thể tự hiểu. Biến dụ là dụ từ khi khởi đầu cho đến lúc cuối cùng.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ tư nói về Tu đạo. Đã bị trói buộc, làm sao để thoát? Cho nên mới nói về tu đạo để thoát khỏi sự trói buộc. Văn có bốn phen hỏi đáp: Thứ nhất nói đạo để tu, thứ hai chánh thức nói về tu đạo, thứ ba nói về dụng của Tu đạo, thứ tư là khuyên tu. Bốn việc này theo thứ lớp như sau: Các pháp tuy rốt ráo “không’, nhưng có đạo để tu, cho nên có chánh tu, tu thì dứt hoặc, vì thế khuyên tu. Phen thứ nhất có ba câu hỏi đáp.

Đầu tiên là hỏi năm ấm và chúng sinh, nhân pháp đều “không”, vì sao lại có tu?”

Phật trả lời các tâm đều niệm niệm nối nhau chẳng dứt, tuy niệm niệm diệt, nhưng phiền não mãi mãi lúc nào cũng nối nhau, cho nên có tu.

Vì thế, thứ hai lại hỏi niệm niệm diệt thì đâu cần tu đạo?

Phật đáp tuy có niệm niệm diệt, nhưng cũng được nói về tu đạo; như đèn sáng tuy niệm niệm diệt mà phá trừ tối tăm.

Từ câu: “thầy nói v.v…” trở xuống là dùng ý nghĩa để giải thích.

Thầy nói không lớn thêm thì chẳng đúng. Lại nêu sáu dụ, đều nói có lớn thêm.

Phen hỏi thứ ba, lại gồm thâu sáu dụ để hỏi: Tuy niệm niệm diệt mà phá được tối tăm v.v… tu đạo cũng như thế, đầu tiên tuy chưa viên mãn, nhưng lâu ngày sẽ phá được hoặc. Bồ-tát Sư Tử Hống nhân các dụ ấy mà hỏi: Như hàng Sơ quả có năm ấm thiện lẽ ra phải tương tự nối nhau sinh vào cõi nước thanh tịnh, chứ đâu thể sinh vào nhà mổ dê ở cõi nước ác?

Đức Phật đáp rằng tuy sinh vào cõi nước xấu ác, nhưng chẳng mất tên, tên tức vô lậu, vô lậu thì thường hằng còn mãi, còn ấm thì chẳng như thế, thiện ấm hay ác ấm đều do nghiệp mà có, chẳng phải do pháp vô lậu vời lấy. Đức Phật trả lời là chẳng nương tựa, tuy sinh vào cõi nước ác mà chẳng làm ác là do năng lực vô lậu giữ gìn.

Trong phần trả lời, trước là pháp thuyết.

Nêu cả sáu dụ: Hương sơn dụ cho thân đầu tiên, Sư tử dụ cho kiến đế vô lậu, núi Tuyết dụ cho năm ấm ác, chim thú dụ cho các pháp ác. Lại Hương Sơn dụ cho ấm thiện, núi Tuyết dụ cho ấm ác, chim thú ở núi Tuyết đều chẳng dám ở, là dụ ở trong hai cõi nước thiện ác đều chẳng sinh pháp ác. Ở đây thiếu nghĩa của hai nhân tập và báo. Tập nhân thì chủng loại tương tự, thường sinh, chẳng bao giờ làm ác; còn báo nhân dẫn dắt đến quả dị loại, nên đọa vào cõi nước ác. Người là dụ cho vị Tu-đà-hoàn, sản nghiệp to lớn dụ cho kiến đế vô lậu, có khả năng dứt hoặc; chỉ có một người con dụ cho Sơ quả. Vả lại, trong hai đạo kiến tư chỉ có kiến đạo, nên nói “chỉ có một người con”; chết sớm là dụ cho

kiến đế vô lậu chẳng hiện tiền, xuất quán thì chẳng có; nhờ tư duy vô lậu mà kiến đế sinh, cho nên nói người con ấy lại có một đứa con; tư duy vô lậu hướng về kiến đế nên gọi là “ở phương xa”; bỗng nhiên qua đời là dụ cho vị Tu-đà-hoàn bảy lần sinh đã hết; người cháu nghe tin trở về nhận lãnh sản nghiệp là dụ cho việc trong đạo suy nghĩ, lại thừa kế công năng của kiến đế ở trước. Tuy biết tài sản chẳng do đứa cháu làm ra tức nói kiến đế vô lậu chẳng phải vô lậu trong đạo suy nghĩ. Không ngăn cản là nói kiến hoặc tư hoặc tuy khác mà đồng là một vô lậu.

Từ câu: “Sư Tử Hống bạch rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh thức nói về tu đạo; có hai, đầu tiên là nói về nhân duyên tu đạo, kế là nói về nhân duyên tu đạo, lại chia làm hai: Giải thích và luận nghĩa. Đầu tiên nêu kệ để hỏi. Hai câu đầu là tu đạo, hai câu sau là đắc quả; tu được ba phẩm thì được quả không lui sụt, ba phẩm là nhân gần, Đại Niết-bàn là quả. Thứ nhất nêu kệ để hỏi.

Trong lời đáp có ba phen giải thích: 1/ Chân ngụy đối luận; 2/ Chỉ nói phá ác; 3/ Chỉ nói sinh thiện. Chân ngụy đối luận có hai: Trước nói ngụy, sau nói chân.

Về ngụy có ba phẩm là: 1/ Hạ hạ tức một bề chẳng thể thọ trì giới cấm; 2/ Hạ trung tức sợ đường ác khổ nên giữ giới; 3/ Hạ thượng là vì độ thoát khổ não cho chúng sinh nên giữ giới. Cả ba đều là ngụy, nay y cứ theo ba hạng này còn chẳng đạt được.

Kế là nói về chân.

Biết các pháp không mà giữ giới; vì các chúng sinh mà cầu quả Phật, quả không thật có. Chúng sinh còn không huống chi là có quả Phật? Đó gọi là giữ giới chân thật.

Kế là nói phá mười sáu ác luật nghi; tức y cứ theo diệt ác, lại giải thích ba phẩm.

Khôi quái: xưa cho là người bán thịt cá, hoặc là người dùng gậy để đánh đập. Tam-muội Vô thân, vì tu không định diệt sắc, nên nói là vô thân. Vô biên tâm là định Thức xứ, Tịnh Tụ tức là chỗ Bất dụng. Thế biên tức phi tưởng định, định này biết được tám muôn kiếp và lấy đây làm bờ mé. Vả lại, Phi tưởng còn ở trong ba cõi nên gọi là Thế biên. Thế đoạn, nghĩa là ngoài tám muôn kiếp thì chẳng thể biết, liền cho là đoạn. Thế tánh tức là minh sơ, là bản tánh của thế gian. Thế trượng phu, tức là dùng sức định mà thấy được tướng trượng phu trong nước, tức là Tỳ-nữu. Phi tưởng Phi phi tưởng tức là trời quán Tồn vong, là thể của định.

Từ câu: “Người tu tập giới v.v…” trở xuống là đoạn ba, y cứ theo

sinh thiện để giải thích ba phẩm.

Các hữu tức ba hữu, hai mươi lăm hữu; các cõi tức ba cõi cho đến mười tám cõi; các đế là sáu đế cho đến hai mươi lăm đế.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nghĩa. Nhân trước nói tu đạo nên thấy Phật tánh được Bồ-đề Niết-bàn, nên nay gạn hỏi về Niết-bàn và Phật tánh. Gồm có bảy phen hỏi đáp, ba phen đầu hỏi về Niết-bàn, phen thứ tư hỏi về Phật tánh.

Đầu tiên nói chẳng sinh diệt là Niết-bàn, vậy thì phàm phu chẳng sinh diệt, lẽ ra cũng gọi là Niết-bàn. Phàm phu một đời từ sinh đến già chẳng còn sinh nữa nên nói là chẳng sinh, mà chưa diệt nên gọi là chẳng diệt, loại chẳng sinh diệt này có phải là Niết-bàn chăng? Lại nói rằng nếu dùng tướng sinh trong ba tướng để hỏi, như trong một niệm này, thì sinh đã sinh nên gọi là chẳng sinh, lại chưa diệt nên nói là chẳng diệt, nghĩa này có phải là Niết-bàn chăng?

Trong lời đáp, đầu tiên xác định, thuật lại lời hỏi, sau giải thích chẳng phải Niết-bàn, vì có thỉ chung. Lại cũng cần nói chung cho hai lời giải ở trên để thành nghĩa thỉ chung, tức nói mới sinh là thỉ, mạng hết là chung. Một niệm gồm ba tướng, trong đó tướng sinh cũng như thế; mới khởi là thỉ, niệm diệt là chung.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai.

Ở đây muốn nói rõ pháp sinh tử cũng không có thỉ chung, vì mười hai nhân duyên trôi lăn chẳng đừng trụ, thì làm sao có thỉ chung?

Phật trả lời pháp sinh tử có nhân quả, mười hai nhân duyên trôi lăn chẳng dừng trụ, hai nhân quá khứ sinh năm quả hiện tại, nên chẳng phải Niết-bàn.

Phen gạn hỏi thứ ba, ý muốn nói trong Niết-bàn cũng có nhân quả, tu tập Giới, Định, Tuệ đạt được Niết-bàn, đó há chẳng phải là nhân quả hay sao?

Phật đáp Niết-bàn có nhân mà chẳng có quả; lại là quả mà chẳng phải là sở đắc. Lại Phật tánh là nhân Niết-bàn mà chẳng sinh quả Niếtbàn.

Thứ hai gồm bốn phen hỏi đáp để nói về nghĩa Phật tánh, phen thứ nhất y cứ theo cộng hữu và bất cộng hữu để hỏi. Trước là nêu hai chương, sau là giải thích.

Phật trả lời, có pháp và dụ.

Nói chẳng phải một, nên chẳng cùng chung; chẳng phải hai, nên chẳng có riêng. Tuy thế, nhưng tất cả chúng sinh đều đồng có. Các sư Địa luận cho rằng: “Tất cả chúng sinh đồng một thức A-lê-da, là thể tánh của pháp giới”, nếu thế thì một người được lẽ ra nhiều người cùng được! Các sư luận Thành Thật cho rằng: “Mỗi chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng khi thành Phật thì quyền trí bình đẳng đồng nhất với Pháp thân, mười Lực, bốn Vô úy v.v… cũng như vậy”. Nếu thế thì Phật tánh có thể tính đếm, là vô thường, chính là gạn hỏi ý này. Nhưng Phật tánh bình đẳng chẳng phải một, chẳng phải hai, chẳng phải chung chẳng phải riêng; cũng như hôm nay, người tu hành giữ giới, chẳng phải một, chẳng phải khác, mỗi người đều tu thì đâu phải là một? Ta hiểu thì người hiểu, người hiểu thì ta hiểu, cho nên chẳng khác. Vả lại, năm loại Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải khác, như chúng sinh bình đẳng đồng có, chẳng lẽ là khác ư? Năm loại khác nhau thì đâu thể là một?

Trong năm loại Phật tánh, chúng sinh có được mấy tánh? Đáp: Có chúng sinh có đủ và có chúng sinh chẳng có; chúng sinh không có trí quán thì không thể phát cảnh, không có trí phát cảnh cũng không có nhân cảnh quán, đã không có nhân thì đâu có quả và quả quả. Đã không có nhân quả, thì đâu có phi nhân phi quả. Nói chúng sinh có đủ là vì sẽ được, từ duyên mà hiện, nên nói có đủ, hôm nay tuy không, nhưng vị lai sẽ có.

Phen gạn hỏi thứ hai, nêu dụ cỏ nhẫn nhục.

– Nếu nói một người tu rồi thì những người khác cũng có được. Phật đáp Phật tánh là một, thuận theo nhiều người, ai tu thì được, không hề ngại nhau.

Phen hỏi đáp thứ ba.

Nếu như nhiều người đi trên đường thì người đi sau bị chướng ngại, Phật tánh cũng như thế, người tu trước chướng ngại người tu sau.

Phật đáp là như đường, cầu, thầy thuốc đều chỉ lấy một phần nghĩa, chứ con đường chánh đạo chẳng phải như thế.

Câu hỏi thứ tư.

Sáu đường thân tướng chẳng phải một, vì sao nói là cùng có một Phật tánh?

Phật đáp: Hòa thuốc độc vào sữa, mà năm vị đều có thể giết người, Phật tánh cũng như thế, cùng khắp tất cả mọi nơi.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về nhân duyên tu đạo. Trước nói về duyên, sau nói về nhân. Nói duyên gồm có bốn xứ duyên, thời duyên và nhân duyên. Chẳng có xứ, chẳng có trời, chẳng có Thiện tri thức thì chẳng được, nên nói đợi thời, đợi xứ, đợi bạn. Xứ có hai là thành và cây, thành có hai, là trước hỏi, sau đáp.

Hỏi: Đã có sáu thành lớn, vì sao Như Lai đến thành nhỏ hẹp này?

Đáp có hai: Trước quở trách, sau giải thích. Đầu tiên là quở trách người hỏi.

Nơi Đức Phật cư trú chẳng nên nói là nhỏ hẹp. Nêu ba dụ để so sánh Như Lai là bậc tôn quý trong loài người, nơi cư trú của người quân tử đâu có nhỏ hẹp!

Từ câu: “Ta nhớ khi xưa v.v…” trở xuống là phần thứ hai, chánh giải thích, có hai ý: Báo ân đất, trừ tà đảng. Báo ân có ba ý báo đáp phát tâm, báo đáp bốn tâm vô lượng, báo đáp hoằng thệ.

Kế là trừ dẹp tà đảng, có hai: 1/ Cùng khắp sáu thành lớn; 2/ Nói đến đây hàng phục, đã rõ biết tà hết, chánh cũng hết, tức vắng lặng Niết-bàn; sáu thành gồm sáu chương. Thứ nhất là đến Vương xá.

Ngoại đạo não loạn dụ dỗ chúng sinh, khiến bị đọa vào ba đường ác, nên phải đến đó để đuổi trừ. Hơn nữa Vua có mời, Phật chẳng thể trái lời, nên đến thành Vương xá; ngoại đạo tự biết pháp thuật của mình cạn thấp, nên mới chạy đến Xá-vệ, Đức Phật nhân đó giáo hóa ba anh em Ca-diếp và hai vị Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên.

Từ câu: “Bấy giờ, v.v…” trở xuống là thứ hai, đến thành Xá-vệ đuổi ngoại đạo. Văn có hai đoạn: 1/ Nói nguyên do đến; 2/ Cùng thử thần lực, chánh thức nói về việc đến nơi ấy.

Các ngoại đạo ở thành Vương xá chẳng dám chống cự, nên đến thành Xá-vệ tìm cách đối luận. San-đàn-na, Hán dịch là Hộ di, người ở thành Vương xá. Kỳ-đà, Hán dịch là Thắng Thị; Tu-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Ôn, người ở thành Xá-vệ.

Hỏi: Đức Phật vang tiếng khắp mười phương, Tu-đạt-đa là một trong sáu đại Cư sĩ, vì sao trong đêm cưới vợ cho con mới nghe danh hiệu Phật?

Đáp: Chẳng phải không nghe gì, nhưng như trong tiếng sóng gầm thét mà nghe, như qua bụi mù mịt mà thấy. Hôm nay khi căn cơ đối với đạo pháp đã thuần thục nên vừa nghe thì toàn thân nổi gai ốc.

 

PHẦN 4

Đầu phẩm là phần thứ hai nói về việc đến thành Xá-vệ tỉ thí thần lực. Văn có ba đoạn: 1/ Lý do tỉ thí; 2/ Chánh thức tỉ thí; 3/ Đại chúng được lợi ích. Thứ nhất được chia làm bốn: 1/ Xin tỉ thí; 2/ Vua chẳng cho phép; 3/ Xin một lần nữa; / Vua bằng lòng. Sở dĩ xin tỉ thí, là vì lúc trước, khi còn ở thành Vương xá đã bị bác bỏ, nay lại đến thành Xá-vệ bị đoạt mất danh, không còn lợi lộc nên chẳng thể nhẫn nhịn được nữa, vì vậy tâu vua xin tỉ thí. Thứ nhất lại có hai: Một, khen vua, dùng lời gian xảo, giả hiện dung mạo thuần thiện. Hai, là chê bai Phật, ra sức phỉ báng.

Nói tuổi nhỏ, tức Đức Phật năm ba mươi tuổi thành đạo, nên bấy giờ có lẽ mới ngoài ba mươi; tu tập khổ hạnh chỉ sáu năm, nên nói học lực còn cạn cợt. Nói thật chẳng phải sinh trong dòng vua chúa, tức cho Phật là huyễn hóa. Nói: “Cướp đoạt cha mẹ của người”, Đức Phật dạy người lìa tục xuất gia tức là cướp đoạt con cái của cha mẹ, cũng là cắt đứt con cháu nối dõi, chẳng cho cưới vợ, tức là cướp đoạt cha mẹ của nhà người.

Từ câu: “Vua liền nói v.v…” trở xuống là ý thứ hai, vua không cho phép.

Từ câu: “Sáu vị giáo chủ ngoại đạo lại nói v.v…” trở xuống là ý thứ ba, lại xin tỉ thí.

Từ câu: “Vua nói v.v…” trở xuống là ý thứ tư, vua bằng lòng.

Vua tuy đã tự ý cho phép, nhưng phải đến bạch lên Đức Phật.

Từ câu: “Phật nói rằng v.v…” trở xuống là đoạn hai, chánh thức tỉ thí, gồm có hai: trước bảo vua xây dựng nhiều Tăng phường.

Bấy giờ, ta vì sáu vị giáo chủ ngoại đạo kia nên từ ngày mồng một đến ngày mười lăm luôn hiện ra các thần thông biến hóa vô cùng ít có.

Như kinh Hiền Ngu v.v… đã nói.

Ba là chúng đương thời được lợi ích.

Ở đây chẳng nói tranh luận qua lại, mà chỉ là thị hiện các việc kỳ lạ ít có, ngoại đạo thấy thần biến, tự biết chẳng bằng nên chạy đến thành Bà-chỉ-đa.

Hỏi: Vì sao chẳng tranh luận?

Đáp: Vì trong ba luân, thì Thần thông luân là thích hợp với lúc bấy giờ. Đại chúng và các môn đồ của ngọai đạo đã được lợi ích, còn sáu vị giáo chủ ngoại đạo thì chưa tin phục.

Từ câu: “Bấy giờ sáu vị giáo chủ ngoại đạo, v.v…” trở xuống là

đoạn ba, Phật lại dời đến thành ấy.

Hỏi: Phật có tâm đại bi, chẳng bao giờ não hại chúng sinh, vì sao lại truy đuổi sáu vị giáo chủ ngoại đạo khắp nơi chẳng dừng nghỉ?

Đáp: Vì muốn phá đổ dị kiến, cứu vô lượng chúng sinh ra khỏi đường tà, dứt trừ sinh tử trói buộc, để đạt được Đại Niết-bàn. Nếu đó chẳng phải là đại bi thương xót, thì lấy làm gì Từ bi đây?

Từ câu: “Sáu vị giáo chủ lại, v.v…” trở xuống là thứ tư, đến thành Tỳ-xá-ly.

Như Lai lại đến nước Tỳ-xá-ly nói các pháp môn cho Am-la nữ và các Ly-xa Tử. Đó là phu nhân Bình-sa mẹ của Kỳ-bà, có nhan sắc rực rỡ. Phật khuyên dạy các Tỳ-kheo quán thân niệm xứ; kế đến vì các Ly-xa mà nói về pháp chẳng buông lung, phá dẹp tâm kiêu mạn. Theo phép nước này, thường chọn người có trí năng làm chủ, còn những người khác thì tham gia luận nghị, cho nên dịch là Biên địa chủ, cũng dịch là Truyền tham quốc sự.

Từ câu: “Bấy giờ sáu vị giáo chủ ngoại đạo, v.v..” trở xuống là đoạn năm, đến thành Ba-la-nại.

“Sáu vị nghe việc này v.v…” trở xuống là đoạn sáu, chạy đến thành Chiêm-bà.

Từ câu: “Bấy giờ, sáu sư v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói đến thành Câu-thi, đều bị truy đuổi, nên chẳng biết đi đâu. Chính là nói Câu-thi nhỏ hẹp, hãy tự giữ gìn mà ở, chẳng cho Phật đến. Văn có ba ý: Một là nói về tà giáo; hai, là chánh giáo; ba, là tà chánh luận nghị.

Đầu tiên khi ngoại đạo mới đến thành Câu-thi, vọng rao nói lỗi của Phật khiến mọi người sinh tà kiến. Văn ghi: “Mẹ là huyễn, thì con là huyễn”, câu này có nghĩa gì? Ý nói phép sinh của con người tự có pháp tắc thông thường, do nhân gì mà sinh từ hông bên phải, đó há chẳng phải là mẹ huyễn sinh con huyễn hay sao?

Thứ hai, Phật đến nói chánh pháp.

Dẹp tà về chánh, thì tà chánh mỗi thứ đều có hành pháp khác nhau.

Từ câu: “Bấy giờ sáu vị giáo chủ, v.v…” trở xuống là đoạn ba, tà chánh hợp luận. Gồm bảy phen hỏi đáp: sáu phen trước là chinh thức luận nghị, một phen sau là hàng phục, phen thứ nhất trước lập nghĩa tà.

Cho kiến là ngã, tức là một trong sáu mươi hai tri kiến. Phật đáp phá, có ba: Một, là khiến sáu căn đều có tác dụng. Ở trên nêu hướng làm dụ, nay y theo đó mà hỏi, người ở tại một hướng thấy sắc, nghe âm thanh, đều nhận đủ sáu trần, nay các thầy nói ở mắt chỉ thấy sắc, chẳng thể nhận đủ các trần, nên biết các ông nói chẳng đúng.

Kế là nói già trẻ chẳng khác.

Như đã nói “đối với hướng”, thì dù một trăm tuổi vẫn thấy bên ngoài rất rõ ràng. Nếu già, ngã ở trong nhãn căn thấy không bằng lúc trẻ, thì đâu cần dùng hướng để làm dụ?

Thứ ba là trong ngoài đều thấy.

Người đối với “hướng” thì trong ngoài đều thấy, ngã ở trong mắt, vì sao chẳng thấy bên trong?

Từ câu: “Sáu vị giáo chủ, v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai.

Đây không phải là câu hỏi chính, vì câu hỏi trước rất sâu, cho nên lại hỏi về ngã.

Từ câu: “Phật nói v.v…” trở xuống là lời đáp. Có ba ý: Một là nêu nhân duyên, hai là phá tà ngã, ba là kết luận nói chánh ngã.

Đây là lời đầu tiên, Đức Phật nói nhờ nhân duyên mà được thấy, sắc chẳng phải Ngã, thấy chỉ tạm tưởng thấy mà nói có thấy.

Từ câu: “Nầy sáu vị, v.v…” trở xuống là ý thứ hai, phá tà ngã, văn có ba: Một là nêu chẳng đúng như thế.

Thứ hai, từ câu: “Vì sao v.v…” trở xuống là nêu các lỗi.

Ngã lấy tự tại làm nghĩa, vậy chỉ nên tạo chủng tánh Bà-la-môn mà thôi, vì sao lại thọ thân sáu đường khác nhau? Sắc đã chẳng phải ngã thì thọ, tưởng, hành, thức đều vô ngã.

Từ câu: “Vì vô ngã v.v…” trở xuống là đoạn ba, kết luận nêu lỗi.

Từ câu: “Này sáu vị, v.v…” trở xuống là kết luận nêu chánh ngã. Văn có hai là lược chỉ bày và đối luận.

Ý đoạn này muốn nói: trước đã phá sắc, thọ v.v… vô ngã, thì kia lại hỏi: Như Lai có phải là sắc v.v… hay không? Nên nay sự nêu ý này trước là đáp rằng: Ngã của Như Lai chẳng bị sắc cho đến thọ, tưởng, hành, thức trói buộc, có đủ bốn đức, còn ngã mà các thầy nói đó thì chẳng tránh khỏi bốn nợ trói buộc.

Kế là lại kết luận, cũng cùng với ngoại đạo đối luận.

Ngoại đạo nói Ngã là từ nhân duyên, vì thế vô thường ngã của Như Lai chẳng phải từ nhân duyên mà được, nên có Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Từ câu: “sáu vị giáo chủ nói rằng v.v…” trở xuống là phen thứ ba, ngoại đạo đổi tông chỉ.

Hoặc cho rằng Bộ riêng của ngoại đạo chấp nghĩa “cùng khắp tất cả mọi nơi” là ngã, chẳng lấy sắc làm ngã.

Từ câu: “Đức Phật nói v.v…” trở xuống là Như Lai phá ý này. Gồm có hai phần: Đầu tiên y cứ vào nghĩa cùng khắp để phá, sau y cứ theo một khác để xem xét. Văn thứ nhất lại có hai lần “lại nữa”, lần thứ nhất là hỏi về nghĩa cùng khắp.

Ngã đã cùng khắp thì lẽ ra trước phải không thấy, lẽ ra phải thường thấy.

Kế là hỏi Ngã cùng khắp, lẽ ra phải khắp trong năm đường, vì sao lai sợ ba đường ác, lại vì muốn làm thân trời, người mà giữ giới làm lành.

Kế đến là y cứ theo một khác, trước nêu hai chương.

Kế là giải thích. Trước y cứ theo một để hỏi, như văn kinh có ghi.

Y cứ theo nhiều để hỏi, trong mỗi thân đều có một ngã; ngã là tự tại, vì sao có lợi độn, ngu trí khác nhau?

Từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là phen thứ tư, ngoại đạo lại luận biện.

Ngã là một, cũng thường hằng cùng khắp, chúng sinh tu nghiệp thì có khác nhau nên nghiệp quả khác nhau.

Phật phá rằng: Ngã đã cùng khắp lại thường thì đâu có thiện ác đắp đổi nhau, mà lẽ ra tội phước cùng có. Cho nên nói “làm ác lẽ ra có thiện, làm thiện lẽ ra có ác”, nếu chẳng đồng có thì chẳng phải cùng khắp. Vả lại Ngã là tự tại, lẽ ra thiện ác tự làm.

Từ câu: “Thưa Cù-đàm v.v…” trở xuống là phen thứ năm, ngoại đạo lại luận biện, dùng đốt đèn làm dụ.

Tuy cùng một ánh sáng mà thể của mỗi ngọn đèn khác nhau, rốt cuộc Ngã thì cùng khắp, chỉ do thiện ác khác nhau mà thôi; như trong một ngôi nhà đốt một trăm ngọn đèn.

Phật lại phá: Trước nói chẳng phải như thế.

Kế là nêu ba loại để phá: Một từ duyên để phá; hai y cứ theo nơi ánh sáng xuất hiện khác nhau để phá; ba là y cứ theo sáng tối cùng trụ để phá.

Đầu tiên phá rằng: Ông dùng đèn dụ cho pháp, ánh sáng dụ cho ngã, ánh sáng do đèn, nếu nhiều dầu ở tim đèn thì ánh sáng mạnh; Nếu thế thì ngã do nghiệp, nghiệp hết thì ngã tiêu, nghiệp đã nhỏ hẹp thì ngã chẳng cùng khắp.

Thứ hai là hỏi về nơi chốn.

Ánh sáng từ đèn phát sinh, vậy ngã từ nghiệp mà có, thế thì nghiệp có ngã, chẳng phải ngã có nghiệp.

Thứ ba, nói ánh sáng đèn lúc đầu tiên thì ở chung một chỗ với tối.

Nếu thế thì ngã thường của thầy lẽ ra ở trong ngã vô thường; ngã vô thường lẽ ra ở trong ngã thường.

Từ câu: “Thưa Cù-đàm! Nếu vô ngã v.v…” trở xuống là phen thứ sáu, ngoại đạo lại hỏi. Phật đáp, có hai ý: trước phá tà ngã, Ngã đã là thường, vì sao có tạo tác, thường thi đâu có tạo tác. Dù cho có tạo tác, vì sao chẳng làm lành, mà có lúc lại làm ác? Thiện ác đã chẳng cố định, thì biết là vô thường.

Kế là nói chánh ngã. Tức là Như Lai thường trụ.

Phen thứ bảy, ngoại đạo quy phục Như Lai, là kết luận chương này, như văn kinh có ghi…

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là phần hai, nói về nơi chốn của cây Ta-la. Văn có hai: Đầu tiên là kết văn trước, khởi văn sau; kế là nói về nơi chốn. Thứ nhất như văn kinh.

Từ câu: “Một cặp ở phương Đông”, v.v… trở xuống là thứ hai, nói về nơi chốn của cây. Có ba ý: một, là biểu thị nghĩa lý; hai, là hộ pháp; ba, là lợi ích của pháp vị. Thứ nhất là biểu thị nghĩa lý.

Lý là bốn đức. Ý nói dùng hướng Đông biểu thị cho thường và vô thường? Có người cho rằng thuận theo mà lấy một việc, không có mục đích nào khác. Cũng có thể lấy hướng Đông biểu thị cho lạc và không lạc. Hà Tây cho rằng: Hai cây khô biểu thị cho thân ứng hóa diệt, hai cây tươi tốt biểu thị cho Pháp thân thường còn. Nhưng cây Bồ-đề cũng có một gốc khô một gốc tươi, đến khi Phật pháp diệt thì hai gốc đều khô. Nếu thế, cần gì phải nhất định phá thường và vô thường? Nhưng Đức Phật tùy duyên, ứng hóa đều có nguyên do. Hà Tây cho rằng hai gốc phương Đông biểu thị cho thường và vô thường, vì các ngoại đạo tôn thờ trời Đại Tự Tại trụ ở phương Đông, giáo hành ở phương Tây; nay Phật pháp phá vô thường của ngoại đạo, nên nói hai câu ở phương Đông biểu thị cho Thường và Vô thường. Hai cây ở phương Nam biểu thị cho ngã và vô ngã, vì Nam là phương bên phải, tay phải thì thuận, dụ cho dụng của ngã tự tại. Phương Tây biểu thị cho lạc, vì phương Tây tu hành Phật giáo được an vui, biểu thị cho sự an vui của Phật pháp. Phương Bắc biểu thị cho tịnh, vả lại đó là nơi xuất gia, cho nên biểu thị cho sự thanh tịnh trong Phật pháp. Lại nói trời Đại Tự Tại, mặt hướng về Đông, tay phải thuộc phương Nam; đều biểu thị cho ý nghĩa phá bốn điên đảo của ngoại đạo, đạt được bốn đức của Phật pháp; cho nên lập ra cách phối hợp này.

Từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ hai, hộ pháp.

Trước nêu Sự, sau nói về Lý. Sự là dưới cây Ta-la mà nhập Niếtbàn, bốn vị Thiên vương thường giữ gìn cây này, chẳng để người ngoài chặt phá cành lá. Ngày xưa, Thiệu Bá ngồi dưới cây tiểu thường mà thành Tiên, người đời sau vẫn còn bảo vệ cây này, huống chi Ta-la song thọ của Như Lai.

Từ câu: “Ta-la song thọ v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói lợi ích của pháp vị.

Trước là dụ, sau là hợp giải thích. Hoa quả: Hoa nở tô điểm, người thấy sinh tâm ưa mến dụ cho pháp thân vắng lặng thường trụ không thay đổi. Dùng hoa biểu thị cho Ngã, quả biểu thị cho Lạc, vì chúng có vị ngon ngọt, đầy đủ sắc và hương, người thấy, ngửi, xúc chạm, ăn vào đều ưa thích, Pháp thân cũng như thế, tất cả chúng sinh đều đồng có tánh lạc này.

Từ câu: “Bố-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về thời duyên, có hai ý: một, là nói về tháng hai; hai nói về ngày mười lăm. Thứ nhất có hỏi và đáp.

Đáp có hai ý: Một là nêu dụ để nói về Sự; hai, là hợp dụ để nói về Lý. Thứ nhất:

Nếu nói theo lịch nhà Hạ thì thuộc tháng hai, nếu theo lịch nhà Châu thì thuộc tháng tư, bấy giờ chúng sinh đều nghĩ là thường và rất ưa thích; nên phá chấp trước, được ngộ đạo. Lại nói trong sáu thời, có hai cách giải thích: Hà Tây cho rằng ở Ấn-độ hai tháng là một mùa (thời), một năm có sáu mùa, thế thì ba mùa xuân, hạ và đông mỗi mùa đều có trước và sau. Kinh Kim Quang Minh chép rằng: Nếu hai tháng là một mùa thì một năm có sáu mùa; nếu nói ba tháng là một mùa thì một năm có bốn mùa. Ở đây nói hai tháng là một mùa, đầy đủ sáu mùa. Chiêuđề cho rằng: Hai mùa Xuân và Đông mỗi mùa đều có mạnh, trọng và quý, nên nói là sáu thời, trong văn nêu Mạnh đông đối lại với Dương xuân, v.v…

Từ câu: “Tháng hai v.v…” trở xuống là hợp dụ để nói về lý.

Hai loại Pháp thân tức là chân thân và Ứng thân. Hà Tây cho rằng thân Thường và thân Vô thường đều thuận theo thế gian. Quả dụ cho bốn quả, lý thuyết cho rằng bốn quả Tiểu thừa, vì Đại bao gồm Tiểu. Có chỗ cho rằng đó là bốn đức.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về ngày. Trước hỏi, sau đáp.

Kinh Trường A-hàm nói mồng tám xuất gia, mồng tám nhập Niết-

bàn, ở đây nói ngày mười lăm, đó là do cơ cảm của chúng sinh mà thấy khác nhau, đó cũng là thân mật tự tại của Như Lai.

Đức Phật đáp: Một, là y cứ theo Bản, hai, là y cứ theo Tích. Thứ nhất, là muốn nói diệu bản viên mãn tột cùng , nên lấy ngày mười lăm làm dụ.

Từ câu: “ngày mười lăm v.v…” trở xuống là y cứ theo Tích.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về người làm duyên: Trước nêu người, kế là nói nghĩa. Thứ nhất có hỏi và đáp.

Nói trang nghiêm; tức là người này phải có đủ đức, hạnh, trí, khéo chỉ bày, giảng nói mới có thể trang nghiêm Song thọ; cũng là nói người có đầy đủ đức hạnh có khả năng làm chỗ nương cho tất cả chúng sinh, cho nên được duyên này.

Phật đáp có hai: Một, là nói sáu hạng người trong nhân, sáu người có lẽ là lược nói, hoặc là cơ nghi của chúng sinh, hoặc là đối trị với sáu vị giáo chủ ngoại đạo ở trên, cho nên nêu sáu.

Hỏi: Vì sao chẳng dùng Bồ-tát để trang nghiêm song thọ.

Đáp: Vì Bồ-tát du hóa vô định, không thường theo cạnh Phật, còn sáu vị này thì thường ở bên Phật nên có duyên đối với người, hơn nữa sáu vị Tỳ-kheo này đều là Bồ-tát, v.v…

Văn kinh nói: Ngài Thân Tử nghe Niết-bàn mà chẳng lo buồn, điều này trong A-hàm nói: Thân Tử nghe nói Phật sắp nhập Niết-bàn, không nỡ thấy Phật diệt độ, nên nhập diệt trước, vì sao nay lại nói nghe Phật Niết-bàn mà không lo buồn? Trong lời đáp của Phật, ngài đã nói về quả đức thì biết đó là nghĩa của Bồ-tát, chẳng nên giải thích theo ý Tiểu thừa.

Từ câu: “Nếu có Tỳ-kheo, v.v… trở xuống là đoạn hai nói về người đã chứng quả, tức Như Lai là người đã nêu ở trước.

Kế là từ câu: “Kính mong v.v…” trở xuống là phần nói nghĩa, có ba phen hỏi đáp.

Tuy chẳng phải là chánh thức hỏi, nhưng cũng được cho là một câu hỏi.

Từ câu: “Phật bảo v.v…” trở xuống là lời đáp, có hai; Trước nói về Bản, sau nói về Tích. Về Bản lại có hai: Một là nói lược về vô trụ.

Hai là nói rộng về vô trụ, có hai ý; trước là nêu pháp thuyết, sau là dụ thuyết, trong pháp thuyết, trước giải thích về Trụ. Kế là giải thích Vô trụ.

Diệu thể là phi hữu nên nói là hư không. Tam-muội Kim cương

tức là Như Lai, xưa giải thích rằng: Thập địa tu học tột cùng mà vẫn chưa phải là Phật, nhưng trong đạo tương tục thì chuyển tâm Kim cương tức gọi là Phật. Nay y cứ theo văn này nên nói là Như Lai, từ này chung cho nhân và quả, thí như Thủ-lăng-nghiêm chung cho nhân quả. Nói Đàn ba-la-mật, chẳng nên cho rằng sáu hạnh có công năng thành tựu quả. Văn trên nói đủ sáu Ba-la-mật, Đạo phẩm cũng như thế.

Từ câu: “Thí như hư không v.v…” trở xuống là đoạn hai, y cứ theo dụ để nói về vô trụ. Trước là dụ, sau là hợp.

Kế là hợp dụ, trái lại dùng khác nhau để phân biệt Không, Không tức là Vô trụ.

Nói Bồ-tát trụ thứ sáu vì nhân duyên phiền não mà đọa vào ba đường ác, đây có lẽ là chỉ cho sáu tâm, hoặc là nói Lục địa.

Nói thêm: E rằng đó là Lục địa.

Từ câu: “Hôm nay v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về Tích.

Trong đạo Phương tiện lại trở về vắng lặng, chúng sinh chẳng thấy, cho rằng Phật nhập Niết-bàn.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi thứ hai, là hỏi vì sao Như Lai chẳng thường trụ làm lợi ích chúng sinh mà lại nhập Niết-bàn.

Phật đáp rộng nghĩa trên. Nói Pháp tạng bất cộng là chẳng chung với hàng Nhị thừa, trong đó hoặc là nói Diệt ác, hoặc là nói Sinh thiện, tức là ý bốn tất-đàn, nên cần phải nhập định vắng lặng.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ ba, hỏi vì sao gọi Niết-bàn là Vô tướng?

Phật đáp có ba ý, trước nói không có mười tướng.

Kế là nói về chỗ mất của hữu tướng.

Thứ ba là nói về chỗ được của vô tướng.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về Dụng của tu đạo. Văn có ba: Một, là nói ba pháp; hai là nói về hai pháp giúp nhau; ba là nói về lực dụng. Thứ nhất, trước là hỏi đáp lược, sau là hỏi đáp rộng.

Nhưng ba pháp khác nhau, nếu ở phẩm Thánh Hạnh dùng ba pháp Giới, Định, Tuệ, thì nay văn này dùng ba pháp giới, tuệ và xả, trong đó định tuệ là chánh, xả là tùy nghi (hoặc xả định tu tuệ, hoặc xả tuệ tu định). Nhưng nói thường thường tức chẳng phải chỉ chuyên tu một phẩm mà phải điều hòa, để được tự tại.

Từ câu: “Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, hỏi đáp rộng.

Phần hỏi có hai: trước hỏi chung thế nào là tướng của định, tuệ, xả.

Kế là hỏi riêng ba pháp, có hai: Một là rộng y cứ theo định để hỏi; hai, là dùng tuệ xả để dụ. Hỏi về định có ba ý: Một là y cứ theo bản hữu; hai, là y cứ theo một cảnh; ba, là y cứ theo một hạnh.

Nói đều có, tức chúng sinh đều có Tam-muội. Các sư Số Luận nói trong mười đại địa pháp có Tam-ma-đề, đó là định số, định này vốn có, đâu cần tu tập. Hà Tây cho rằng đây là lấy tâm chuyên chú làm định, chẳng cần phải là định số trong mười Đại địa.

Kế là nói tâm ở một cảnh.

Nếu chỉ hành một cảnh gọi là định, thì tất cả các duyên khác chẳng phải là định, nếu chẳng biết các duyên khác thì đâu được gọi là bậc Nhất Thiết Trí?

Thứ ba là y cứ theo một hạnh để hỏi.

Nếu một hạnh là Tam-muội thì khi thực hành các hạnh khác chẳng phải là Tam-muội. Nếu chẳng thực hành các hạnh khác thì chẳng phải là Nhất Thiết Trí.

Kế là nói tuệ xả cũng như câu hỏi trên.

Phật đáp, trước là đáp câu hỏi riêng, sau đáp câu hỏi chung. Đáp câu hỏi riêng có hai ý: Trước đáp về định, sau đáp về tuệ xả. Đáp về định, trước hỏi định có ba hướng, bây giờ thứ nhất là đáp câu hỏi thứ hai, dùng câu thứ ba để so sánh; kế đến câu hỏi thứ nhất là xưa có (bản hữu).

Nói: Các duyên khác cũng là duyên một cảnh, tức là chuyên tâm vào một duyên. Đây là định cảnh; dùng định mà duyên thì không cảnh nào chẳng định; chẳng thể cho rằng giống như câu hỏi trước chỉ duyên một cảnh. Bởi vì định tâm duyên định cảnh, chứ chẳng phải tán tâm. Dùng định mà chuyên nhất ở Nhất thiết, nên gọi là Nhất thiết trí. Nếu dùng tán tâm duyên cảnh thì bị cảnh dẫn dắt. Nếu dùng định tâm duyên cảnh thì dẫu có đổi duyên thay quán, chẳng phải cảnh kéo dắt tâm, nên gọi là định. Hạnh cũng giống như thế, tức đáp cả câu hỏi thứ ba về nhất hạnh. Nếu dùng tán tâm mà tu tập các hạnh thì hạnh dẫn dắt tâm, nếu dùng định tu tập các hạnh, thì khiến các hạnh là một hạnh.

Từ câu: “lại nói v.v…” trở xuống là truy đáp câu hỏi thứ nhất, hỏi về vốn có.

Thiện Tam-muội: Chẳng phải lấy định chung cho ba tánh định là lấy định khéo tu (Định thiện tu, tức tam chỉ viên tu) làm Thiện Tammuội.

Kế là từ câu: “Vì trụ trong v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi về tuệ, xả; có hai ý: Trước đáp tướng của tuệ. Kế là đáp về tướng xả.

Từ câu: “Lại nữa, Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là đáp câu hỏi chung. Có bốn ý: Một, lược nêu thể của ba pháp; hai, là giải thích tên của ba pháp; ba, là nói rộng thêm về thể của ba pháp; bốn, là nói về công dụng. Thứ nhất nêu thể, có ba ý: một, là nêu thể của định.

Nói thủ tướng sắc, chẳng phải là tâm định chấp tướng sắc, mà đó là tướng nhập, trụ, xuất của môn thiền định. Nói chẳng quán tướng Thường và Vô thường của sắc; vì đã thuộc về tịnh, chẳng thực hành chiếu tri nên chẳng thể quán.

Từ câu: “Nếu có thể quán v.v…” trở xuống là nêu thể của Tuệ.

Thường và Vô thường đều chiếu soi, nên chẳng phải là Thiên tuệ.

Thứ ba, là từ câu: “Tam-muội, tuệ v.v…” trở xuống là nói về thể của xả. Hai việc hòa hợp nên gọi là Bình đẳng. Văn có ba: là pháp, dụ và hợp. Kế là dụ. Thiên định là chậm, Thiên tuệ là nhanh, hai pháp phải ngang bằng, vì thế dùng xe bốn ngựa kéo làm dụ.

Từ câu: “Bồ-tát cũng như thế” v.v… trở xuống là hợp dụ.

Nói Bồ-tát Thập Trụ tuệ nhiều, định ít, Hà Tây giải thích rằng: Mười trụ tiến cầu cảnh giới cao quý mới xây dựng Đại Thừa, trang nghiêm cõi nước, giáo hóa mọi người, thiên khởi trí dụng, cho nên chẳng thấy tánh. Hàng Nhị thừa tự hàng phục, tự tịnh tâm ý, mong cầu chứng đắc, nên định nhiều tuệ ít, do đó chẳng thấy tánh. Nếu định tuệ đồng nhau thì mới thấy tánh. Ở đây nói rằng nếu nhập “Không” nhiều thì là tướng chậm, nhập “giả” nhiều thì là tướng nhanh, không giả đều bặt là tướng bình đẳng, thấy tánh, đó là ý Biệt giáo. Như tức không tức giả tức trung, chẳng chậm chẳng nhanh, khéo cỡi xe bốn ngựa kéo, mới thấy được Phật tánh, đây là ý Viên giáo.

Từ câu: “Xa-ma-tha” v.v… trở xuống là thứ hai, giải thích tên gọi.

Trước giải thích tên Định. Có bản gọi là Đà, đều do âm Phạm nặng nhẹ, dịch danh khác nhau, hoặc dịch là chỉ, tức dứt bỏ duyên ác; hoặc dịch là Định; từ này có rất nhiều cách dịch cho nên âm Phạm không theo một nghĩa riêng nào. Tỳ-bà-xá-na dịch là Quán, cũng gọi là Kiến. Ưu-tất-la dịch là tướng xả, cũng dịch là Bình đẳng, bất tranh, v.v…

Từ câu: “Xa-ma-tha v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói rộng về thể của ba pháp, đều dùng tăng số để nói. Thứ nhất nói về định, tăng đến mười pháp.

Làm được lợi ích lớn, Bách luận giải thích là Tam-muội đạt phần;

nhân quả đều vui, Hà Tây giải thích rằng: Định mà chư Phật đạt được thì xuất nhập tự tại, trước sau thường vui; niệm giác quán, tức là thiện ác giác quán đều là tội lỗi; quán sinh diệt, tức là con người phần nhiều đối với sinh diệt mà khởi quán đoạn thường. Mười Nhất thiết xứ, chỉ nêu đất, nước và gió mà không nói lửa, có người cho rằng kinh này ghi sót mất chữ Lửa. Hà Tây cho rằng người tu hành quán bốn đại trong thân chứ chẳng phải quán bốn đại bên ngoài. Ba đại trong thân; trong đó xương thịt v.v… là đất, nước mắt, nước mũi v.v… là nước, còn lửa yếu kém, chỉ là hơi ấm, cho nên chỉ nêu ba. Nhưng chẳng dùng làm xứ là vì muốn nói từ Hạ địa trở xuống chẳng dùng xứ. Chiêu-đề cho rằng: Hỏa đại chẳng thường hằng, nhờ củi đốt mới có, không có củi thì chẳng phát sinh, cón ba đại kia thường hằng, vì thế mới dùng làm xứ. Còn chẳng dùng xứ là muốn nói pháp quán này đã thành tựu, nên chẳng dùng xứ, cho nên tính là một.

Từ câu: “Tuệ có hai v.v…” trở xuống là nói rộng về thể của tuệ.

Bát-nhã chính là Tuệ, Tỳ-bà chính là quán, cũng gọi là Kiến, Xá-na chính là Trí. Giải thoát Bát-nhã là tất cả chúng sinh, tức hiển bày Bát-nhã là Tuệ biết tất cả số chúng sinh. Lại giải thích Tỳ-bà là tướng chung, cũng có tam-muội, vì thế Tam-muội và Tuệ biết được tất cả. Thường giải thích rằng Tuệ là bất si, cho nên ở phàm phu, Kiến gọi là Tiểu thắng nên ở bậc Thánh, trí là quyết đoán, là tối thắng, nên ở chư Phật. Tướng chung, tướng riêng, Phá tướng cũng y cứ theo hơn kém. Hưng Hoàng cho rằng phàm phu có phân biệt tức là tướng riêng, bậc Thánh Nhị thừa là gom chung các pháp vô thường nói ở trước nên thuộc về tướng chung. chư Phật, Bồ-tát phá chung riêng nên gọi là Phá tướng.

Ở đây cho rằng chẳng đúng như thế, đó là nói một tâm ba trí, Phá tướng là chiếu Không, tướng riêng là chiếu Giả, tướng chung là chiếu Trung. Trong ba trí một tâm chỉ được nói về Tuệ không nghĩ bàn, chẳng nói xả, là vì khác thể thì chẳng phải.

Thứ tư nói về công dụng, như văn kinh có nói.

 

PHẦN 5

Đầu phần này là đoạn hai nói về Định, Tuệ giúp nhau, cũng là Định, Tuệ tức nhau, lẽ ra cũng nên nói là xả, nhưng lược bỏ. Vả lại, xả chẳng phải là một pháp riêng, khi Định, Tuệ đồng đẳng thì gọi là xả. Trước là hỏi, sau là đáp.

Ý muốn hỏi: Tuệ có công năng dứt hoặc, thì đâu cần dùng Định. Nêu câu hỏi Thiên, Biệt mà mong được lời đáp Viên dung. Đầu tiên, Bồ-tát Sư Tử Hống dẫn kinh để hỏi; thật biết chẳng phá ngoại đạo, cũng chẳng phá người hỏi, chỉ là kinh phá Phật làm duyên. Kinh Phật không ngoài bốn giáo; xem nghĩa này thì chính là dùng Viên để phá Biệt, Biệt đã bị phá, thì các giáo khác so sánh có thể biết.

Kế là Phật đáp, đầu tiên nêu phá chung và kế là phá riêng.

Trong phần phá chung có nói rằng: “Nghĩa này chẳng đúng”, thì chỗ nào không bao gồm, hoặc là tà chấp, hoặc là Tiểu thừa giáo, hay Cộng giáo, Tiệm giáo, tất cả đều rơi vào câu “chẳng đúng” này. Nhưng đây chỉ đối trị với những trệ ngại của nội giáo, chứ chẳng phải phá tà học của ngoại đạo.

Kế là Biệt giáo, có hai ý: Một, là dùng phá để phân biệt; hai, là nêu Định, Tuệ viên dung vô cùng. Trong ý thứ nhất có bảy đoạn: Một là y cứ theo không khác; hai là y cứ theo vô hữu; ba là y cứ theo vô sở; bốn là y cứ theo vô khuyết; năm là y cứ theo vô động; sáu là y cứ theo vô năng; bảy là y cứ theo vô tác. Y cứ theo vô dị để phá, văn có hai: Một nói về thể đồng, hai là nêu dụ, thể của dụ là đồng.

Vì sao? Vì người mê hoặc đều cho rằng phiền não và trí tuệ như nước và lửa, cần phải tu tập trí tuệ để phá phiền não. Từ Biệt giáo trở xuống đều như thế cả, nên Bồ-tát Sư Tử Hống mới dùng đó để lập câu hỏi, mong được nghe điều khác lạ. Đức Phật dùng Viên phá Biệt. Thế nào là trí tuệ, thế nào là phiền não? Đó đều là giải và hoặc của pháp giới, giải và hoặc đồng thể chẳng hai, chẳng khác. Nếu khi mê hoặc thì toàn thể là hoặc, ngoài hoặc không có trí; nếu khi giải ngộ thì toàn thể là Giải thoát, ngoài giải ra thì không có hoặc. Kinh nói phiền não tức Bồ-đề, Bồ-đề tức phiền não. Kinh lại nói ngoài pháp tánh chẳng có pháp, ngoài pháp thì chẳng phải pháp giới. Nếu như thế, thì khi có phiền não, không có trí tuệ, vậy có gì để nói là phá? Nếu có trí tuệ thì không có phiền não, vậy có gì để phá mà nói là trí tuệ hay phiền não? Kinh lại nêu khi sáng thì không tối, khi tối thì không sáng để làm dụ. Pháp Viên giáo này văn, lý đều rõ ràng, chẳng nên theo cách giải thích nào khác.

Từ câu: “Ai có trí tuệ? v.v…” trở xuống là ý thứ hai, y cứ theo vô hữu để phá. Văn có hai: Trước vặn hỏi về nhân và pháp, kế là kết luận không có nghĩa phá.

Từ Tam Tạng giáo đến Biệt giáo chẳng thể đạt được pháp giới viên dung, ngã pháp đều quên. Hàng Nhị thừa còn chấp y của ta, bát của ta, Bồ-tát thì còn tu tập trang nghiêm cõi nước, hóa độ chúng sinh, người và ta vẫn còn; trí, đoạn đều đã chứng đắc, như thế thì vẫn còn có “ai”, chưa thể nói là không có “ai”. Đức Phật dùng viên pháp vặn hỏi, chỉ nơi trí tuệ này là phiền não, ai dùng phiền não dứt phiền não; chỉ ngay nơi phiền não này là trí tuệ, ai lại dùng trí tuệ dứt trừ trí tuệ?

Phiền não dứt phiền não còn không có, thì đâu thể có trí tuệ dứt trí tuệ? Vì kết luận như văn trên đã ghi.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là ý thứ ba, y cứ theo vô sở để phá. Văn có hai: Trước gồm đến mà chẳng đến, sau gồm kết luận không có nghĩa phá.

Vì sao? Vì trí tuệ là pháp giới, dù cho ra ngoài pháp giới có phiền não, dùng trí tuệ trong pháp giới để phá phiền não ngoài pháp giới, như vậy là đến nơi ấy để phá hay chẳng đến nơi ấy để phá? Nếu chẳng đến nơi của phiền não mà phá được, thì phàm phu chẳng thể đến lẽ ra cũng phá được? Còn đến nơi ấy để phá, thì niệm đầu tiên liền phá hay niệm sau mới phá? Nếu niệm đầu tiên chẳng phá thì niệm sau cũng chẳng thể phá. Vì thế kết luận rằng: “Đến hay chẳng đến đều có thể phá”, thì nghĩa này chẳng đúng. Ngoài pháp giới không có pháp, nên không có nơi chốn.

Từ câu: “lại nữa v.v…” trở xuống, là ý thứ tư, y cứ theo vô khuyết để phá. Trước y cứ theo pháp để chánh phá, sau đó là nêu dụ.

Ý nói trí tuệ là pháp giới, tròn đầy không thiếu sót, trí tuệ tức là giới định, bình đẳng không khác nhau, vậy thì đâu thể cho là ngoài pháp giới mà còn có các duyên phụ để cùng phá phiền não ngoài pháp giới.

Đã không có các duyên phá, thì đơn độc cũng chẳng thể phá. Nêu dụ người mù, dù một người hay nhiều người cũng đều chẳng thấy sắc. Như đơn độc hay gom nhiều duyên cũng đều là nghĩa thiếu sót.

Từ câu: “Này Thiện nam!” v.v… trở xuống là ý thứ năm, y cứ theo vô động để phá. Văn có hai: Trước nêu đồng loại để phá, sau kết luận phá.

Như tánh của bốn đại chẳng thể động chuyển, lại chẳng có một vật nào biến động bốn đại làm cho mất bản tánh của nó. Phiền não cũng như thế, đồng tánh với trí tuệ, tánh của trí tuệ tự dứt, tánh của phiền não cũng tự dứt, vì sao lại dùng đoạn làm năng đoạn để đoạn?

Kế là kết phá. Văn ghi: Tỳ-bà-xá-na chắc chắn chẳng thể phá các phiền não.

Từ câu: “Nếu muốn tánh mặn v.v…” trở xuống là đoạn sáu, y cứ theo vô năng để phá. Văn có bốn: Một là đoạt, hai là buông, ba là đoạt, bốn là buông.

Đầu tiên nêu muối, mật để chuyển người đồng với mình, tức là đoạt; trí tuệ chẳng thể như muối và mật, pháp chẳng diệt, thì trí tuệ chẳng thể gượng diệt, trí tuệ không có công năng dứt hoặc, kế đến là buông.

Dẫn muối hay là vật mặn, nghĩa là buông; Trí tuệ có thể diệt phá, nhưng trí tuệ tự niệm diệt, thì đâu thể khiến pháp khác diệt, như người tự chìm thì đâu có thể vớt được người khác

Thứ ba, Từ câu: “Tất cả pháp v.v…” trở xuống là lại đoạt.

Chính là dùng tánh diệt để đoạt, tức trí là tánh diệt thì chẳng thể khiến cho phiền não diệt.

Thứ tư, từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là lại buông.

Nêu lửa đốt búa, chặt tìm chỗ diệt chẳng thể được. Một lần buông đoạt ở trước nói vô thường, khổ, không và duyên tu v.v… trí tuệ tự vô thường thì đâu thể dứt hoặc, rõ ràng sẽ tự thấy. Một lần buông đoạt, sau cật vấn, chẳng thấy nơi chốn của năng đoạn và sở đoạn. Đây là phá biệt hoặc ngoài pháp giới, bị trí đoạn vì sao chẳng thấy nơi chốn, như lửa cháy còn tro, như búa chặt có dấu vết. Nếu chẳng có tro và dấu vết thì không có hoặc để phá; đã không có hoặc thì trí tuệ phá cái gì?

Dùng Viên phá Biệt, văn nghĩa thật rõ ràng.

Từ câu: “Tất cả pháp v.v…” trở xuống là ý thứ bảy, y cứ theo vô tác để phá, cũng gọi là tổng kết các ý trước.

Nói tánh các pháp tự không thì cái gì khiến cho sinh diệt, không có người tạo tác, như thế thì đâu được nói trí tuệ phá phiền não.Từ câu:

“Nếu tu tập định v.v…” trở xuống là đoạn hai, nêu Viên dung vô cùng, Định, Tuệ đều là pháp giới, chẳng phải chỉ có tuệ mới dứt hoặc mà định cũng có thể dứt hoặc.

Văn có bốn ý: Một, là nói Định, Tuệ có đủ trong nhau, cũng đầy đủ tất cả pháp; hai, là nói Định, Tuệ tức nhau, tức tịch mà đoạn, tức đoạn mà tịch; ba, là nói về danh tướng của Định, Tuệ; bốn, là nói về tự tại thích ứng với thời. Bốn đoạn này là ý bốn Tất-đàn, trong đó Định, Tuệ chỉ có Tam-bồ-đề là Đệ nhất nghĩa; ngay nơi tịch mà đoạn là đối trị; Danh tướng của Định, Tuệ là thế giới; hợp thời là vị nhân. Thứ nhất gồm ba ý: Một, là Nơi Định có Tuệ tức là chánh tri kiến.

Hai là Định có đủ các pháp sinh diệt vô thường của thế gian, dẫn chứng kinh.

Ba là đầy đủ Tam-bồ-đề.

Định là pháp giới chứa đựng tất cả, Tuệ và Xả cũng giống như thế.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là nói về Định, Tuệ tức nhau, nếu nói giúp nhau thì nghĩ quá sơ lược. Văn có hai đoạn: Trước nói tức Định mà Tuệ, kế là nói tức Tuệ mà Định. Trong văn thứ nhất có nêu tám dụ, dụ cho tức định mà tuệ khéo dứt hoặc; kế là nói hàng phục năm căn, để nói ngay nơi tuệ mà định, thì an ổn ở nơi nguy ách, lợi ích ở nơi giảm tổn.

Nói Ngãi gian (cắt cỏ), Kinh Thi nói: Bạch mao gian hề: Truyện ghi: “Vô khí gian”. Nhĩ nhã nói: “Bạch hoa giả gian” (Hoa trắng cỏ hoang); Quách Phác nói: Mao là giống.

Âm là oa, Phương ngôn cho rằng người Quan Tây gọi phủ là oa, như loại nồi ở phương Nam. Người thời gần đây dùng vật này để chứa vàng nấu chảy.

Kế là, văn có hai: Một là chinh thức giải thích; hai từ câu: “Này thiện nam! v.v…” trở xuống là nói về công năng, như văn kinh có ghi.

Từ câu: “Định tướng v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về danh tướng.

Không danh mà có danh, duyên tướng nhất thật mà nói ba tướng. Y cứ ba tướng mà đặt ba tên, danh tướng đều là pháp giới, đầy đủ tất cả pháp. Định mà không có tướng định nên gọi là không, Tuệ thì đạt được pháp thanh tịnh, nên không nguyện cầu; xả thì không còn năng sở nên không có tướng.

Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, tự tại, hợp thời khéo sử dụng. Văn có hai: trước nói đúng thời và phi thời, sau là hỏi đáp.

Trong phần đáp có nói về đúng thời và phi thời của ba pháp, tức là tự thực hành bốn Tất-đàn. Nói thọ an vui, v.v… sinh đại ngã mạn thì nên tu định, đó là khéo dùng Vị nhân Tất-đàn; nói tinh tấn v.v… khởi tâm hối hận thì cần phải tu tuệ, đó là khéo tu Đối trị Tất-đàn; hai pháp bình đẳng thì nên xả, tức khéo dùng Đệ nhất nghĩa Tất-đàn; nói khi khởi phiền não thì nên đọc tụng mười hai bộ kinh, thực hành sáu niệm, tức khéo dùng Thế giới Tất-đàn. Kinh nói: “Tu tập ba tướng, nhờ nhân duyên này mà thành tựu Niết-bàn vô tướng”, đã nói nhân duyên tức là khéo tu tất đàn, từ nhân duyên mà thành tựu Đại Niết-bàn. Lại nói nên tu tâp định, tức là môn Hữu, tu tập tuệ tức là môn Không, tu tập xả tức là môn phi hữu phi không, nên tu tập mười hai thể loại kinh, sáu niệm v.v… là môn vừa Không vừa Hữu. Từ nhân duyên bốn môn mà thành Đại Niết-bàn. Lại nên khéo lập bốn Tất-đàn hóa tha, nhưng sợ văn dài dòng nên chẳng nói, người tu hành phải có đầy đủ.

Từ câu: “Nếu có Bồ-tát v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói lực dụng của tu đạo. Văn có hai: Đầu tiên nói về cảm vui mà được Niết-bàn, sau đó nói về lìa khổ chuyển chướng. Văn thứ nhất lại có hai: Thứ nhất nói được Niết-bàn.

Kế là nói nghĩa, có hai phen hỏi đáp.

Tu cả ba pháp thì được Đại Niết-bàn, nên phải hỏi về tướng của ba pháp. Văn có hai: Đầu tiên nhắc lại không có mười tướng là Đại Niết-bàn. Đức Phật đáp xong thì đã lãnh hội được, nhưng còn những ý khác thì chưa hiểu, nên mới dùng mười pháp làm câu hỏi.

Khai Thiện gọi các lửa kết sử diệt là diệt độ để dịch từ Niết-bàn; Trang nghiêm lấy ý lìa giác quán là Niết-bàn để bác bỏ Khai Thiện rằng: Trói buộc hết gọi là diệt độ, ràng buộc hết gọi là Niết-bàn, vì sao lại dùng văn nói Tử phược để dịch quả Niết-bàn? Khai Thiện giải thích rằng: Nếu giữ đủ ý của từ Phạm thì Tử phược tận và quả phược tận đều gọi là Giải thoát; hữu dư vô dư diệt đều gọi là diệt độ. Nhưng người dịch kinh khéo dùng từ, nên gọi Tử phược tận là diệt độ, quả phược tận thì giữ nguyên âm là Niết-bàn Giải thoát. Nhưng trong văn này mười lời đáp đều là đáp về viên đức của Niết-bàn, hai sư mỗi vị chấp một câu mà khởi lên tranh luận, tức do giải nghĩa mà sinh phiền não, lại đồng ý với người mù sờ voi.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là hỏi lại.

Đã nghe mười nghĩa, nhưng chưa biết người tu sẽ tu tập mấy pháp để được Đại Niết-bàn.

Kế là từ câu: “Phật đáp v.v…” trở xuống là Đức Phật đáp. Ý đáp là: Mười pháp nói trên chỉ là quả Niết-bàn, quả thì khác nhau, nếu muốn tu hành, phải có đủ mười pháp. Văn gồm ba phần là nêu tên, giải thích và kết luận.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về lìa khổ chuyển chướng. Văn có hai ý: Một là nói về nghiệp chướng được chuyển; hai nói về đạo đối trị năng chuyển. Có hai phen hỏi đáp: Phen thứ nhất nói về nghiệp bất định, nên chướng có thể chuyển; kế là nói về nghiệp bất định nên có thể tu tập chánh đạo. Phen hỏi đáp thứ nhất lại có hai: Trước hỏi về nghiệp thiện, sau hỏi về nghiệp ác. Hỏi về nghiệp thiện có năm câu: Một là nói vô cùng, hai là nói nhất định, ba là nói lại về vô cùng, bốn là nói lại về nhất định, năm là nêu dụ để kết thúc câu hỏi. Thứ nhất lại có ba: Một là khai lời hỏi, hai là lãnh chỉ, ba là kết thành câu hỏi.

Đầu tiên nêu việc Thuần-đà là muốn lập lý do cho lời hỏi.

Từ câu: “Như lời Phật dạy v.v…” trở xuống là lãnh chỉ.

Nói bố thí cho súc sinh được phước gấp một trăm lần, bố thí cho Nhất-xiển-đề phước gấp một ngàn lần, vì súc sinh trước kia gây nhân ác nên nay chịu quả báo thấp hèn; còn Xiển-đề thì nhờ phần nhân đời trước thiện nên nay được quả báo tốt hơn, vì vậy được phước có một trăm, một ngàn khác nhau.

Hỏi: Văn trên nói giết súc sinh thì bị tội nhẹ, còn giết Xiển-đề thì vô tội, ý này thế nào?

Đáp: Súc sinh không có lỗi dứt mất gốc thiện và phỉ báng pháp, còn Nhất xiển đề thì có tội này.

Từ câu: “Nếu Thuần-đà v.v…” trở xuống là kết thành câu hỏi.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là hỏi về nhất định. Văn có hai: trước là lãnh chỉ.

Kế là chánh thức đặt câu hỏi.

Thứ tư là từ câu: “trong kinh lại nói v.v…” trở xuống là nói lại nhất định.

Thứ năm, từ câu: “A-ni-lâu-đà v.v…” trở xuống là nêu dụ để kết thúc câu hỏi.

Từ câu: “Đức Phật bảo v.v…” trở xuống là ý thứ hai là đáp, trước là khen câu hỏi, sau là trả lời.

Đáp có hai: Đầu tiên là nói về duyên khổ, kế là chánh đáp. Đầu tiên khen ngợi nghiệp lực sâu, là đáp câu hỏi duyên khởi.

Nhưng mười lực của Phật cũng không có hơn kém, chỉ thuận theo

cơ nghi mà nói như thế. Hơn nữa, nghiệp nhẹ hay nặng, định hay bất định đều khó biết, người khác chẳng hiểu nên gọi là Đại.

Từ câu: “Có các chúng sinh v.v…” trở xuống là phần chánh đáp, có bốn ý: Một là khai quyền, hai là hiển thật, ba là giải thích quyền, bốn là giải thích thật. Thứ nhất là khai quyền. Vì người chẳng tin, nên nói là quyết định.

Từ câu: “Các nghiệp tạo ra v.v…” trở xuống là hiển thật. Nghiệp bất đồng có nhẹ và nặng, có định và bất định, đâu được một bề cho là quyết định?

Từ câu: “Hoặc có người v.v…” trở xuống là giải thích Quyền.

Chỉ vì kẻ tà kiến chẳng tin, nên mới nói là quyết định.

Từ câu: “Hoặc có nghiệp nặng v.v…” trở xuống là giải thích Thật, trước nêu người ngu và người trí.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nêu cả hai chuyển.

Người trí chuyển nặng thành nhẹ, định thành bất định; người ngu chuyển nhẹ thành nặng, bất định thành định.

Nếu như thế v.v…” trở xuống là phen hỏi đáp thứ hai. Nói nghiệp bất định, nên tu tập được chánh đạo.

Ý lời hỏi có hai: Một, là vì nghiệp bất định, thì đâu cần tu phạm hạnh để cầu Niết-bàn? Hai là vì nghiệp thiện bất định, nên cũng đâu cần dùng phạm hạnh để cầu Niết-bàn?

Đức Phật đáp câu hỏi này, văn rất rộng, nghi hoặc được phá rất nhiều, nên chẳng thể chẳng nói tỉ mỉ. Nếu chẳng hiểu thì chẳng thành tựu Nhất hạnh. Cho nên văn này hơi dài. Văn có bốn đoạn: Một là nói nghiệp bất định nên mới tu chánh đạo, hai là nói định nghiệp có nhiều lỗi, ba là nói cả nghiệp định và bất định, bốn là kết luận bất định, nên có tu chánh đạo. Văn thứ nhất lại có hai: Trước là nói về bất định, sau nói về thiện ác lấn đoạt lẫn nhau. Nói về bất định lại chia làm hai: Trước nói nếu nhất định thì chẳng cần tu tập.

Thứ hai nói vì bất định nên phải tu đạo.

Từ câu: “Nếu xa lìa được v.v…” trở xuống là nói thiện ác lấn đoạt nhau.

Vì ác bất định nên có thể làm thiện, vì thiện bất định nên có thể làm ác.

Từ câu: “Nếu tất cả v.v…” trở xuống là thứ hai nói nếu nhất định thì nhiều lỗi, văn có hai đoạn: Trước nói nếu nhất định thì không có tu đạo; kế là nói nếu nhất định thì nhiều lỗi. Thứ nhất lại có hai: Một là sơ lược; hai, là nói rộng. Sơ lược có hai ý: Một nói nếu nhất định thì không có tu đạo.

Kế là nói nếu chẳng tu đạo thì không Giải thoát.

Từ câu: “Nếu tất cả v.v…” trở xuống là nói rộng, văn cũng có hai, trước nói rộng nếu nhất định thì không cần tu tập.

Từ câu: “Nếu xa lìa v.v…” trở xuống là nói rộng nếu không tu tập thì không mong có ngày Giải thoát.

Từ câu: “Nếu tất cả v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói nếu là nhất định thì có nhiều lỗi. Văn có hai: Một, là nói lỗi của nghiệp nhất định; hai, là nói lỗi của người và thời nhất định. Văn trước lại chia làm hai: trước nói là có lỗi, thì lẽ ra chỉ tạo một nghiệp thiện hay ác thì mãi mãi được quả thiện hay chịu quả báo ác, không có ngày thiện ác chấm dứt.

Từ câu: “Nếu nghiệp quả v.v…” trở xuống là kết luận nói không có tu đạo.

Từ câu: “Người làm v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói về lỗi nếu người và thời quyết định. Văn có hai: Trước nói về lỗi, sau kết luận nói chẳng tu đạo. Thứ nhất lại có hai, đầu tiên nói về lỗi người nhất định.

Nếu nghiệp nhất định thì đường sáu, trời người v.v… sang hèn, đẹp xấu mãi mãi như thế, chẳng thể thay đổi.

Từ câu: “Lúc nhỏ v.v…” trở xuống là nói lỗi của thời gian nhất định.

Nếu lúc nhỏ tạo nghiệp thì lúc nhỏ chịu báo, tuổi tráng niên và tuổi già cũng giống như thế.

Kế là từ câu: “Nếu nghiệp v.v…” trở xuống là kết luận không tu thánh đạo.

Từ câu: “Nghiệp có hai v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói rộng về nghiệp có định và bất định. Văn có hai: Trước nêu hai chương, sau là giải thích.

Nghiệp có bốn câu: Một, là báo định, thời bất định; hai là thời định, báo bất định; ba là cả hai đều định; Bốn là cả hai đều bất định. Nay hợp thành hai chương: Báo định, Thời bất định.

Từ câu: “Duyên hợp v.v…” trở xuống là giải thích; Trước là giải thích Báo định, Thời bất định.

Nói Thời bất định tức ở ba thời gian: hiện đời, đời kế và đời sau lẽ ra chịu báo mà chẳng chịu, đây là mãi mãi chẳng thọ, phải là thời bất định. Nói báo định tức các nghiệp báo thiện ác đã có chỉ đợi duyên hợp là thọ, không sai mảy may.

Từ câu: “Nếu tịnh tâm v.v…” trở xuống là chương hai, giải thích

cả hai đều định. Văn có ba: Một là giải thích báo định; hai là thời định; ba là kết luận hai môn. Thứ nhất lại có ba: một, là nói về định nghiệp; hai là nói về bất định; ba là giải thích nghi và chứng chuyển. Thứ nhất nói về định nghiệp: Có bốn trang nghiêm là: tín tâm, hoan hỉ, phát nguyện và cúng dường. Đây là nói dùng bốn việc của nghiệp thiện để trang nghiêm. Nghiệp ác cũng như thế: một là tin ác; hai là hoan hỉ với điều ác; ba là phát nguyện ác; bốn là cung cấp cho ác đảng, lấy đây mà tô điểm cho nghiệp ác.

Từ câu: “Người trí v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói nghiệp này nếu gặp duyên thì chuyển thành bất định. Văn có ba: Một là người trí chuyển nặng thành nhẹ.

Hai, người ngu chuyển nhẹ thành nặng.

Thứ ba kết luận là bất định.

Từ câu: “Bồ-tát Ma-ha-tát v.v…” trở xuống là ý thứ ba giải thích nghi và chứng chuyển.

Sợ chúng sinh nghi khi thấy bậc thánh mà còn đọa vào địa ngục, thì há chẳng phải là định nghiệp hay sao? Nên nay giải thích việc thọ sinh đó chẳng phải là nghiệp của họ, mà là do nguyện lực thọ sinh để độ chúng sinh. Cho nên kết luận rằng: Chẳng phải hiện đời, đời kế tiếp và đời sau sẽ chịu quả báo này.

Nói chứng chuyển, nghĩa là văn trước tuy đã nói ngu trí chuyển nghiệp mà chưa thấy sự chứng ngộ, nên bây giờ nói bậc Thánh vào đường ác giáo hóa chúng sinh. Nếu nghiệp chẳng chuyển thì ở đó cũng vô ích, nếu đã có ích thì biết sẽ chuyển được. Văn có sơ lược và nói rộng.

Từ câu: “Ta nhớ khi xưa v.v…” trở xuống là đoạn hai, giải thích nhất định. Trước giải thích hiện báo, kế là kết luận đời kế và đời sau. Hiện báo lại có hai phần: Trước nói bị Điều-đạt làm hại, tức là hiện báo.

Kế là nói Ca-la-phú làm hại.

Tiểu Bát-nhã ghi là tiên Ca-lợi. Kinh Hiền ngu cũng gọi là Ca-lợi. Thích luận ghi là Ca-lê, chỉ là một người, nhưng dịch âm Phạm khác nhau.

Nói Nhẫn nhục là giới. Theo thứ lớp sáu độ dung nhiếp nhau thì đều chẳng nói Nhẫn là Giới, nay nói Nhẫn là giới là vì sao? Ở đây là nói Giới và nhẫn nương nhau mà thành tựu. Nếu giới bên trong sáng suốt thì bên ngoài thanh tịnh; Nhẫn chỉ là nhẫn đối với sát, đạo, dâm, vọng; còn giới thì ngăn chặn các điều ác này. Vì thế, Nhẫn có năng lực giúp cho thành tựu giới, cho nên nói Nhẫn là giới. Ở đây nói Nhẫn là pháp giới, đầy đủ tất cả pháp, chẳng thể nói hết, chỉ mới nêu một mối, nên nói Nhẫn là giới. Thuyết văn nói: Tỷ là xẻo mũi; hĩnh là chặt chân.

Từ câu: “Nghiệp thiện sinh báo hậu báo, v.v…” trở xuống là đoạn hai, kết luận hai báo.

Từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là kết luận cả báo và thời nhất định. Văn có hai: một, là song kết; hai, chỉ kết luận về thời. Thứ nhất như văn kinh nói: Nhất-xiển-đề, người phạm bốn giới trọng, năm tội nghịch, không cảm quả báo ở hiện đời và đời sau mà chịu quả báo ở đời kế tiếp. Đó là thời gian và quả báo quyết định. Văn ghi: “Khi được Bồ-đề thì tất cả các nghiệp đều có quả báo ở hiện đời, vì bấy giờ Bồ-tát đã dứt trừ hết tất cả kết hoặc, không còn sinh báo và hậu báo. Chỉ còn một đời nữa là thành Phật, nên nói được hiện báo. Lại có người giải thích rằng: Nói một đời thì đồng với phần đoạn, chẳng gọi là hiện báo, vì tăng thêm một phẩm trí đoạn nên nói là một đời, tuy một đời nhưng vẫn gọi là hiện báo. Có cách giải thích khác: Chỉ có Pháp thân Phật mới có hiện báo này; hoặc giải thích rằng thân Phật thùy tích mới hiện báo, tức nói về Ứng thân.

Từ câu: “Nếu nghiệp v.v…” trở xuống là ý thứ hai, chỉ kết luận về thời gian nhất định.

Chính vì thời gian nhất định, nên chỉ được hiện báo, chẳng được sinh báo và hậu báo. Vả lại, tu ba mươi hai tướng chẳng được hiện báo, vì nghiệp này khó thành, là nhân của quả Phật, nên không được quả báo hiện tại.

Từ câu: “Nếu nghiệp v.v…” trở xuống là một câu, giải thích môn bất định.

So sánh với văn trên sẽ tự biết, nên chẳng cần nói nhiều.

Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, kết luận thành bất định nên có tu Thánh đạo. Văn có hai: đầu tiên kết luận nếu nhất định là sai.

Từ câu: “Tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là kết luận nếu nói bất định là đúng.

“Có hai hạng người v.v…” trở xuống là nói về chuyển chướng tu đạo. Văn có ba: một là người chuyển chướng; hai là hạnh chuyển chướng; ba, là tướng chuyển. Văn thứ nhất lại có hai: Trước là pháp thuyết, kế là nêu mười hai dụ. Hai dụ đầu và cuối thì có hợp, mười dụ giữa không có hợp.

Trong mười dụ này, dụ thứ chín nói không có trục phụ, có hai thuyết: một, cho rằng cỡi xe đi xa phải chuẩn bị sẳn các trục để ngừa khi trục bị gẫy hoặc bị hư, như xe vua có chuẩn bị các con trâu phụ để thay đổi khi mỏi mệt; hai là cho rằng viết lầm, lẽ ra phải ghi là bức trục, tức bánh xe có căm và trục, nếu muốn cỡi xe thì xe phải có hai bộ phận này.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn hai, nói về hạnh chuyển chướng, có hỏi đáp, phần hỏi có hai là lãnh chỉ và thưa hỏi.

Ý hỏi là: “Vì sao nghiệp nhẹ mà chịu báo nặng, nghiệp nặng mà chịu báo nhẹ?

Phật đáp có ba ý: Một là nêu ngu trí hai người tạo nghiệp nặng nhẹ khác nhau; hai là gồm có sáu phen; ba, là nêu mười bốn dụ và các tạp dụ khác. Văn thứ nhất có hai: trước nêu người, kế nêu pháp thuyết để nói rộng về tướng trạng.

Nói thân giới tâm tuệ, nếu hợp chung mà nói thì chỉ là giới và tuệ. Như thế tu giới và tuệ có công năng giúp cho nghiệp nặng thành nhẹ. Không tu hai việc này thì khiến nhẹ thành nặng. Nếu phân biệt ra thì nói là tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ. Thân có bảy chi, giới để ngăn ngừa ý, tu tâm tức nhiếp tịnh, tu tuệ tức Bát-nhã.

Bảy thứ tịnh tức bảy chi giới. Chẳng tu tâm tức chẳng tu ba tướng nhập, trụ, xuất; lại chẳng thể quán ba tướng sinh, trụ, diệt là vô sinh, vô trụ, vô diệt. Chẳng tu tuệ tức chẳng tu phạm hạnh, trong phạm hạnh có ba pháp đều lấy tuệ làm chính. Kế là nêu sáu phen.

Nói thân số tức năm ấm, năm căn, bốn đại v.v…, nói hạ giới tức giới gà, giới chó, giới heo, giới trĩ v.v… lại nói vì năm dục cõi trời mà giữ giới cũng gọi là hạ giới. Về giới biên, Hà Tây cho năm giới của ngoại đạo, chẳng phải trong Phật pháp; nội pháp thì gọi là trung, nên gọi ngoại giới là biên. Có chỗ nói cùng tận bờ mé ác trụ (ác dục biên), như giữ giới lạc là tận cùng lạc biên, giữ giới khổ là cùng tận khổ biên, bốn pháp kia cũng như thế.

Ở trên nói Thần lửa, lửa là miệng của trời, nếu dâng cúng cho trời thì chỉ nướng các loài cá, hơi khói này bốc lên, trời sẽ hưởng được hơi này, nên nói là miệng của trời, vả lại ngoại đạo thờ lửa. Lấy lửa làm thầy, lại dùng lửa này cúng dường cho thầy, vì để tôn kính vị thầy nên gọi lửa là miệng trời.

Cuối cùng là phần tạp dụ có nói tơ đâu-la, tức tơ hoa cây dương liễu. Thân là thân tám thước (2m); tướng là năm bào; nhân là ăn uống; quả là năm giới ở quá khứ cảm thành thân; tụ là năm ấm nhóm họp, thân một tức gom chung giả và thật hợp thành một thân; thân tức thân do bốn đại hòa hợp mà thành, thân này là tự thân, thân kia là thân của người khác; lại thân này là thân do nghiệp lực tạo thành, thân kia là di thể; thân diệt tức niệm niệm chẳng dừng; thân bình đẳng, tức quán thân và hư không bình đẳng. Lại nói sáu đường mỗi đường đều có thân, nên nói là “Đẳng”; Thân tu là pháp được tu tập; người tu là người năng tu tập, tức là nhân và pháp. Giới và Tuệ cũng như thế.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về tướng nghiệp chuyển. Văn có hai phen hỏi đáp. Đầu tiên hỏi: Thế nào là chuyển nhẹ thành nặng; sau hỏi: Thế nào là chuyển nặng thành nhẹ. Lời đáp như văn kinh có ghi.

PHẦN 6

Bắt đầu là phần thứ tư của quyển là khuyên tu, văn có hai đoạn; một là nêu pháp để khuyên tu; hai là nêu người để khuyên tu. Trong đoạn nêu pháp, trước hỏi sau đáp. Hỏi có ba ý: Một là hỏi về có năng lực của Phật tánh, nên lẽ ra đồng được Niết-bàn, đâu có sáu đường khác nhau? Hai, là hỏi có Phật tánh, lẽ ra tự được Bồ-đề, đâu cần tu đạo? Ba, là hỏi đã có Phật tánh tức chẳng thể hấp thu được Bồ-đề? Câu hỏi thứ nhất, trước là lãnh chỉ, sau là hỏi.

Từ câu: “Bạch Thế Tôn! v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ hai, gồm có bốn ý là lãnh chỉ, lập dụ, hợp dụ và kết luận câu hỏi.

Từ câu: “Nếu Nhất-xiển-đề v.v…” trở xuống là câu hỏi thứ ba, gồm có pháp, dụ và hợp.

Phật đáp có hai là chánh đáp và tổng kết. Phần chánh đáp có bốn:

một, trả lời câu hỏi về đều được Niết-bàn; hai, là trả lời câu thu hút Bồđề; ba là trả lời câu hỏi chẳng tu tập Thánh đạo; bốn là trả lời lại câu hỏi về thu hút.

Câu trả lời đầu tiên có dụ, hợp và kết. Trong dụ trước nêu chung đại ý, như bên sông có bảy người đầy đủ tay chân, nhưng có người qua được, có người không qua được. Kế là nêu riêng bảy người, đầu tiên nêu riêng bảy người, hai người đầu dụ cho ngoại phàm, một người kế là nội phàm, bốn người sau là bậc Thánh. Ngoại phàm một là hạng Xiểnđề cực ác, và một người sắp được nhập mà lui sụt nên nói là hai người. Hàng nội phàm có năm phương tiện, nhưng đều kể là một, vì tuy có hơn kém nhau, nhưng đều chưa phá chân. Bậc Thánh gồm có bốn, tức Thanh Văn chưa phá trừ tập khí, Duyên giác đã phá trừ tập khí, Bồ-tát đã phá trừ tập khí, lại giáo hóa chúng sinh, Phật thì tập khí đã dứt hết. Nếu không giải thích như thế thì không có cách nào khác hơn. Ở trên nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, vì sao không đều được Niết-bàn? Vì muốn hiểu rõ nên lại lập dụ một con sông và bảy người khác nhau. Kinh này trước sau có nói về sáu con sông lớn đó là: Sông sinh tử, sông Niết-bàn, sông phiền não, sông Phật tánh, sông pháp thiện, sông pháp ác; từng cặp đối đãi nhau. Như sinh tử thì nói là ra khỏi, chẳng ra khỏi; Niết-bàn thì nói là được nhập, chẳng được nhập; phiền não thì nói là dứt và chẳng dứt; Phật tánh thì nói là thấy và chẳng thấy; pháp ác thì nói là lìa bỏ và chẳng lìa bỏ; pháp thiện thì nói là cùng cực và chẳng cùng cực. Trong đây chính là muốn dùng sông Hằng dụ cho sinh tử. Trong phẩm Ca-diếp, Đại Niết-bàn được dụ cho sông, trong sông có bảy hạng người khai hợp khác nhau. Phẩm này nói bảy hạng người, phẩm sau nói bảy hạng chúng sinh. Ở đây hợp bốn quả thành một người thứ tư, chia Ba thừa thành ba hạng người. Phẩm sau chia bốn quả thành bốn hạng nguời, hợp Bích-chi-Phật, Bồ-tát và chư Phật thành người thứ bảy. Đến văn sau sẽ phân biệt rõ.

Nói tắm gội dụ cho người xuất gia thọ giới, tự thân thanh tịnh. Sợ cuớp biển là dụ cho phiền não; hái hoa có hai cách giải thích: một, cho là hoa thất tịnh, tức là cầu nhân; hai, cho rằng là dạo đi trong hoa giác, tức là cầu quả.

Người xuất gia lẽ ra phải ra khỏi dòng sông, nhưng ở đây nói vào là muốn nói sinh tử Niết-bàn không khác nhau, phải ở trong sinh tử mà cầu Niết-bàn.

Từ câu: “Người thứ nhất, v.v…” trở xuống là nêu riêng bảy người.

Người chìm thứ nhất là Xiển-đề, do nhân thiện ở quá khứ đã kém, hiện tại lại chẳng tu nên nói là chẳng biết bơi. Người thứ hai sắp vào được mà lại lui sụt, nói thân có sức mạnh tức nhân thiện quá khứ sâu dày, nhưng đời này chẳng tu tập, nên gọi là chẳng biết bơi, cắt đứt gốc thiện. Người thứ ba nổi lên và trụ vững dụ cho hàng Nội phàm; nói chìm rồi nổi tức là ngày xưa đã chìm. Người thứ tư là bốn quả dụ cho bốn phương; văn sau dùng dụ bốn phương với bốn đế chứ chẳng phải dùng dụ này. Văn kinh lại ghi: “Vì chẳng chỗ nào thoát ra nên quan sát phương hướng”, vì xưa chẳng biết chỗ thoát ra, nên chẳng quán sát, nay đã biết chỗ, nên nói quán sát phương hướng. Vả lại chẳng biết chỗ thoát ra của Đại thừa nên giữ lấy quả Tiểu thừa. Người thứ năm là Bích-chiPhật, cũng nói quan sát phương hướng, vuợt trên bốn quả; vì lợi căn nên chẳng chấp bốn quả, nhưng vì tự chứng cho nên nói là “bơi đi”, còn sợ sinh tử nên nói là “sợ hãi”. Người thứ sáu là Bồ-tát, xuống nước liền bơi đi mà chẳng trụ lại, tức chẳng trụ sinh tử; trụ nơi cạn mỏng, tức tâm an ổn nơi sinh tử; Luận theo tâm nên nói là nơi cạn mỏng. Người thứ bảy là chư Phật.

Từ câu: “Sông lớn sinh tử v.v…” trở xuống là ý thứ hai hợp dụ, trước là hợp thí dụ chung.

Sợ giặc phiền não là hợp với câu: “sợ hãi giặc cướp” ở trước, “nếu phát tâm muốn qua” là hợp với câu “Xuống sông “, “xuất gia cạo tóc” là hợp với tắm gội, thân mặc pháp phục là hợp với việc hái hoa ở dụ trước.

Từ câu: “Đã xuất gia v.v…” trở xuống là hợp với bảy người trong dụ riêng. Đầu tiên hợp với người thường chìm, tức Nhất-xiển-đề. Ở đây là hợp sơ lược.

Từ câu: “Có sáu nhân duyên v.v…” trở xuống là hợp rộng.

Năm bộ tăng, có hai cách giải thích: một, cho là năm chúng, là nói lỗi của năm chúng; hai, cho là năm bộ luật, sau khi Phật diệt độ hơn một trăm năm, vua A-dục lập đại hội, Thượng tọa Tha-tỳ-la lập nghĩa, đại chúng Ma-ha Tăng-kỳ (Đại chúng bộ) không đồng ý, nên chia làm hai bộ. Về sau Thượng tọa lại chia làm hai bộ là Tuyết Sơn và Tát-bà-đa. Về sau bộ Tuyết Sơn tan rã, còn Tát-bà-đa rất phát triển; bộ Tăng-kỳ thì sinh ra ba bộ là Di-sa-tắc, Đàm-vô-đức và Ca-diếp-di, cộng với Bađa và Tăng-kỳ thành năm bộ. Như Lai biết trước về sau các đệ tử tranh nhau luận bàn đúng sai, nên trong kinh Đại Tập đã nêu trước năm bộ, như luận Tông luân đã nói rộng về việc chia thành hai mươi bộ. Việc này chẳng phải là điểm chính ở đây, nên chẳng nêu.

“Người thứ hai v.v…” trở xuống là hợp với nghĩa sắp nhập vào mà lui sụt.

Tức hàng Ngoại phàm cũng có thể cắt đứt gốc thiện mà chẳng đồng như người chìm dưới sông Hằng.

“Người thứ ba v.v…” trở xuống là hợp với hàng Nội phàm trụ vững.

Hai vị Đại, Tiểu đều ở trong đó, há chẳng phải là ba người cùng ở một giai vị trong Thông giáo ư? Nếu giải thích theo nghĩa của Biệt giáo, thì Đại thừa có khác, chẳng thể ba người đồng một vị; Hơn nữa văn kinh có ghi: “Tin Như Lai là Bậc Nhất Thiết Trí thường hằng bất biến, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Thuyết khác lại cho rằng đây là Ba thừa, sơ nghiệp (nội phàm của Thông giáo) chẳng mê lầm đối với pháp, như kinh Thắng Man đã nói, có liên quan rất nhiều đến văn này; nếu tin Như Lai là thường trụ bất biến, chúng sinh đều có Phật tánh, thì dường như có ý nghĩa của Biệt giáo dùng tâm Đại Niết-bàn tu hạnh phương tiện vào được Phương tiện vị. Văn sau nói Tu-bạt đắc quả chính là nghĩa này.

Người thứ tư hợp bốn quả thành một vị, tức đã dứt chánh sử mà chưa dứt tập khí; người thứ năm là Bích-chi-Phật chỉ mới dứt trừ ít phần tập khí, người thứ sáu là Bồ-tát dứt trừ phần nhiều tập khí, lại thực hành giáo hóa chúng sinh, người thứ bảy là Phật, tập khí rốt ráo dứt hết. Vì nghĩa này nên phân biệt bốn hạng người khác nhau; Đây là hàng Thông giáo; đã đầy đủ hai văn Kinh và Sớ, chẳng nên dùng một giáo để giải thích nghĩa. Nay lập một nghĩa, thì suy ra biết đó chỉ là nghĩa Thông giáo, nhưng lấy sinh tử phần đoạn làm sông, dùng tâm Đại Niết-bàn phát tâm cầu mong vượt qua, nên có bảy hạng người khác nhau, nhưng đều có nghĩa Phật tánh, đều được thành tựu Niết-bàn; Để trả lời câu hỏi trên phải giải thích như thế.

Từ câu: “Các người v.v…” trở xuống là đoạn thứ ba kết luận, trả lời câu hỏi: lẽ ra đều được Niết-bàn, đầy đủ tay chân là đáp đều có Phật tánh; biết bơi và chẳng biết bơi, qua được chẳng qua được là đáp câu hỏi chẳng đều được Niết-bàn. Văn có hai: Đầu tiên nói chẳng tu chẳng được không phải là lỗi của Như Lai; có dụ và hợp như văn kinh đã ghi.

Kế là nói do tu mà được, nêu ba dụ. Thứ nhất là trước dụ sau hợp. Như Lai bình đẳng vì tất cả chúng sinh mà giảng nói phân biệt rộng mười hai thể loại kinh, mà có chúng sinh chẳng chịu thọ nhận, đó chẳng phải là lỗi của Như Lai. Nếu người tu tập Thánh đạo sẽ được Vô thượng Bồ-đề.

Từ câu: “Thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu thứ ba; trước nêu lại câu hỏi để khen và chê.

Nếu có tu tập thì sẽ không nghi ngờ gì, cho nên mới khen; nói chẳng cần tu tập, mà tự nhờ vào tánh để hấp thu thì chẳng đúng, cho nên chê trách.

Từ câu: “Thí như có người v.v…” là dụ thứ hai chánh đáp, có hai: một, là đáp câu nếu tu sẽ được, nêu múc nước giếng để làm dụ.

Giếng dụ cho thân năm ấm, khát nước dụ cho tâm chán khổ tìm vui, giếng sâu dụ cho lý tánh của thân tuy xa chẳng thấy được nhưng chắc chắn là có, múc nước dụ cho việc nhờ tu mà thấy tánh.

Từ câu: “Phật tánh cũng như thế v.v…” trở xuống là hợp dụ.

“Thí như v.v…” trở xuống là dụ cho việc chẳng tu thì chẳng thấy.

Kế là hợp dụ.

Từ câu: “Như thầy nói v.v…” trở xuống là đáp câu hai, có hai ý: trước là quở trách dẫn kinh sai lầm.

Về lục trụ có hai cách giải thích: Một, cho là Lục trụ trong mười trụ; hai, cho là Lục địa trong mười Địa, ở Địa này, Bát-nhã hiện tiền, có nghĩa là tự thiện bệnh. Đức Phật quở trách rằng: Ta nói gặp hay chẳng gặp thì bệnh cũng tự thiện là nói cho Bồ-tát Lục trụ nghe, chứ chẳng nói cho phàm phu, đây là nêu ra chỗ dẫn chứng sai lầm.

Từ câu: “Thí như hư không v.v…” trở xuống là chánh đáp, có ba dụ.

Có người cho rằng ở đây là nêu hư không mà mắt thế gian nhìn thấy để làm dụ, có người nói là dùng Không của Chân đế làm dụ, có người cho rằng đây là Không chẳng trong chẳng ngoài của lý. Trung luận nói: Hư không chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải trong chẳng phải ngoài; đây là dụ cho Phật tánh.

Nói tài sản cất ở một nơi khác, tuy không được hiện dùng, nhưng đi đến đó lấy thì được, dụ cho Phật tánh tuy chưa thấy, nhưng nếu tu thì sẽ thể hội.

Văn kinh có ghi: Tạo nghiệp, tạo dụ cho sơ tâm, nghiệp dụ cho tu tập, quả dụ cho thấy tánh. Trong đây có sáu câu: Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải xưa nay không có, chẳng phải không có nhân mà xuất hiện.

Từ câu: “Chẳng phải v.v…” trở xuống là ý thứ hai, nói tu tập thì sẽ được.

Gồm năm câu theo thứ lớp giải thích: một, là chẳng phải thân năm ấm này làm, năm ấm này lãnh thọ quả báo, nếu đây làm đây chịu thì chỉ một ấm, một ấm thì thường. Vả lại, chẳng do ấm này mà có ấm sau, đây là nghĩa đoạn hai, chứ chẳng phải bao gồm cả năm câu, tức chẳng phải đây làm kia chịu, nghĩa là chẳng phải ấm này tạo nghiệp ấm kia chịu quả. Hà Tây cho rằng: Người làm trời chịu thì có nhân mà không có quả, có quả mà không có nhân, có quả không nhân thì là thường kiến, có nhân không có quả là đoạn kiến. Lẽ ra cũng có câu “kia làm đây chịu”, nhưng không ghi, vì có thể tự hiểu; ba, là kia làm kia chịu thì đồng nghĩa với câu thứ nhất. Câu bốn không làm không chịu tức không có nhân quả, thế thì chẳng đúng. Thời tiết hòa hợp là câu thứ năm.

Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp dụ. Đầu tiên là hợp với câu thứ sáu là tạo nghiệp.

Chỉ hợp với năm câu, chẳng hợp với câu “chẳng phải không có nhân mà sinh ra”. Đầu tiên là hợp với câu năm, kế là chẳng phải trong chẳng phải ngoài hợp với cặp thứ nhất, chẳng phải có chẳng phải không hợp với cặp thứ hai.

Từ câu: “Chẳng phải đây chẳng phải kia v.v…” hợp với câu thứ hai “Có tu sẽ được tướng cảm quả”.

Trước có năm câu. Ở đây hợp đủ. Đầu tiên nói chẳng phải đây là hợp với câu “chẳng phải đây làm đây chịu”, chẳng kia là hợp với câu “Chẳng phải kia làm kia chịu”, câu “chẳng phải từ nơi khác đến” là hợp với câu: “chẳng phải đây làm kia chịu”, câu “chẳng phải không có nhân duyên” là hợp với câu: “không làm không chịu”. Câu: “chẳng phải tất cả chúng sinh v.v…” trở xuống là hợp với câu: “do thời tiết hòa hợp mà có”.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là trả lời câu hỏi thứ ba, ở trước hỏi đáp có pháp dụ, ở đây chỉ đáp về dụ, đầu tiên bác bỏ ngược lại câu hỏi, kế là đáp. Thứ nhất là bác bỏ ngược lại câu: Nam châm chẳng thể hút sắt.

Từ câu: “Vì sao?” v.v… trở xuống là giải thích chẳng hút. văn có hai là giải thích và nêu dụ.

Đá nam châm không có tâm thức thì đâu thể hút lấy, như hoa quỳ hoa hoắc vô tâm mà vẫn hướng về phía mặt trời hoặc Đông hoặc Tây. Cây chuối không có tai, nhưng khi có tiếng sấm thì bể bắp. Đó đều là do dị pháp mà sinh ra, luôn thuận theo, luôn nghe nhận. Như hổ phách hút lấy hạt cải cũng như thế, đâu thể so sánh các vật này đồng như Phật tánh? Nay giải thích dị pháp sinh ra, dị pháp hoại diệt: Vì dị pháp có nên dị pháp sinh ra, các pháp đều do nhân duyên mà khởi, nhân duyên đối với các pháp gọi là dị, có dị nhân duyên thì liền có các pháp, vì thế nói là dị pháp có nên dị pháp sinh ra, như nước và đất là duyên của mầm; mầm và nước đất đâu bao giờ có tâm để hiểu nhau việc sinh ra pháp mà nói rằng: “Ta cho ngươi sinh, ngươi hãy thọ sinh”. Chỉ có dị duyên này thì mầm mới sinh, cũng như do nhân duyên của nước mà lửa tắt; nước lửa cũng chẳng hiểu với nhau rằng: “Ta sinh ngươi diệt”!

Nêu hoa quỳ, hoa hoắc xoay về hướng Đông, hướng Tây tùy theo mặt trời, há là có tâm ư? Cho nên vì dụ mà lập dụ; nêu lên năm dụ.

Từ câu: “Nam châm v.v…” là thứ hai, trước dùng dụ hợp với dụ.

Từ câu: “Phật tánh của chúng sinh” v.v… trở xuống là hợp với pháp được dụ tức là Phật tánh. Văn có ba: Một là nói nhân chẳng hút quả; hai là nói Phật tánh không có trụ xứ; ba là nói rộng về Phật tánh.

Văn thứ nhất lại có ba: Một là hợp dụ nam châm.

Kế là nêu mười hai nhân duyên, nói lên ý nghĩa không hút.

Vô minh là nhân, các hành là quả, cho đến sinh là nhân, tử là quả, vô minh đâu có hút giữ các hành? Cũng như Phật tánh chẳng thể hút lấy Bồ-đề.

Thứ ba, Từ câu: “Có Phật v.v…” trở xuống là chinh thức hiển bày không hút.

Từ câu: “Nếu nói v.v…” trở xuống là nói Phật tánh không có chỗ ở, gồm có pháp, dụ và hợp. Pháp thuyết như văn kinh rất dễ thấy.

Kế là nêu Như Lai để hợp dụ.

Như Lai là nêu mặt hiển bày, Phật tánh là nêu mặt ẩn mật.

Kế là hợp dụ.

Từ câu: “Thí như bốn giai được v.v…” trở xuống là nói rộng về

Phật tánh; văn có bốn đoạn: một, là nói về chẳng phải sẽ có, hiện có mà nói về sẽ có; hai, là nói chẳng tức chẳng lìa; ba, là phân biệt tà chánh; bốn, là nói rộng về Thể tánh. Thứ nhất, nói chẳng phải sẽ có, hiện có, nhưng y cứ theo chúng sinh sẽ được, nên nói sẽ có. Gồm dụ và hợp.

Bốn đại không có nghiệp, có công năng vời lấy địa đại, cũng lại có một nghiệp có công năng vời lấy hỏa đại. Hai đại kia cũng như thế. Chỉ do nghiệp duyên nghe mà đồng cảm được. Phật tánh cũng như thế, thời đến thì liền hiện, cho nên lấy bốn đại làm dụ. Dụ nói có nhẹ nặng, tức gió và lửa nhẹ, đất và nước nặng. Lại nói đỏ, trắng, vàng, đen, đây là phối hợp bốn đại với bốn màu, trong đó lửa thì đỏ, gió thì trắng, đất thì vàng, nước thì đen. Nếu phối hợp với năm hành thì: Hỏa đỏ, Kim trắng, Thủy đen, Thổ (địa) vàng, Mộc xanh. Lại trong Tiểu thừa nói gió không có màu sắc, Đại thừa nói gió có màu sắc. Trong Năm hành thì Kim thuộc màu trắng vị ở hướng Tây, chủ vị là màu trắng, hơi thu; Hơi thu màu trắng, gió thu lạnh, buồn hiu hắt nên phối hợp gió với màu trắng, chưa rõ thế nào?

Hợp như văn kinh ghi.

Từ câu: “Thi như có vị vua v.v…” trở xuống là nói Phật tánh chẳng tức chẳng lìa. Văn có dụ và hợp.

Nói lại phục căn, Nhĩ Nhã gọi là lô phục, họ Quách chú thích là là bặc, đúng là la bặc (củ cải), là bặc căn, tức là củ cải.

Dẫn voi đến chỉ cho người mù, có người dùng một còn một mất để giải thích. Đầu, chân v.v… đều chẳng phải là voi, mất, không lìa đầu, chân, v.v.., là voi còn, Phật tánh cũng chẳng phải sáu pháp mất; ngoài sáu pháp cũng chẳng có Phật tánh riêng, lại dùng sáu pháp là còn. Giải thích như thế thì chẳng lìa hai câu tức và lìa, đừng nói gì đến bặt bốn câu, lìa trăm lỗi?

Văn này có hai lần bác bỏ tức và lìa. Chẳng phải đầu, chân v.v…

là voi, đây là bác bỏ tức, lìa đầu chân thì không có voi nào khác là bác bỏ lìa: Trong đầu chân v.v… đã chẳng phải voi thì chẳng thể tức, ngoài đầu chân v.v… lại không có voi nào khác, thì chẳng thể lìa. Chẳng tức, chẳng lìa, chẳng trong, chẳng ngoài, mà lại gọi là Voi; Phật tánh của chúng sinh cũng như thế chẳng phải tức sáu pháp, chẳng phải lìa sáu pháp, chẳng phải trong chẳng phải ngoài nên gọi là Trung đạo, gọi là Phật tánh. Nếu chấp sáu pháp là Phật tánh thì đó là Phật tánh như người mù sờ voi; nếu lìa sáu pháp mà có Phật tánh thì như chỉ hư không cho là Phật tánh, như các Bà-la-môn phỉ báng kinh Đại thừa bị vua Tiên Dự giết chết; nếu chứng Trung đạo chẳng tức chẳng lìa là Phật tánh, thì thấy Phật tánh như vị quan có trí tuệ của vua. Nếu đạt được ý chẳng tức chẳng lìa, thì tất cả các pháp xúc phạm đều là Phật tánh. Bốn Tâm vô lượng và sáu Độ v.v… cũng giống như thế.

Hợp dụ có hai: Thứ nhất là hợp chung.

Từ câu: “Các chúng sinh này v.v…” trở xuống là hợp riêng. Văn có ba: một, là chánh hợp; hai, là lại nêu các người mù bẩm sinh để hợp; ba, là kết luận. Chánh hợp có sáu, mỗi pháp đều có ba là sáu hợp pháp, nêu dụ hợp và kết luận, tất cả đều như văn kinh có nói.

Từ câu: “Có các ngoại đạo v.v…” trở xuống là đoạn ba, phân biệt Tà chánh. Văn có hai: Trước phân biệt tà ngã là chẳng đúng.

Ngoại đạo chấp trước, hoặc nói là thường hằng cùng khắp, hoặc là chấp như hạt cải, đều có tà chấp.

Kế là nói về chánh ngã. Trước nói giả Ngã, sau nói chân Ngã. Nói giả Ngã có hai: Một là nói pháp.

Kến là dụ, gồm có sáu dụ, trong đó dụ thứ nhất và dụ thứ sáu có hợp, bốn dụ kia không có văn hợp. Khai Thiện cho rằng giả danh có dụng, có danh mà không có thể. Trang Nghiêm cho rằng danh, dụng, thể đều có. Hai ý này đều chẳng đúng. Nếu có danh, dụng, thể thì đâu thể cho là giả; Khai Thiện tuy nói không có thể, nhưng lại có danh và dụng thì cũng chẳng phải Giả. Các sư Trung Quán dẫn Trung Luận: “Vô ngã và Vô vô ngã”. Vô ngã phá thường, Vô vô ngã phá đoạn, cũng phá cả tức và Lìa. Vì phá các nghĩa này nên nói ngã và vô ngã. Tuy nói ngã và vô ngã nhưng đều là giả danh, nên văn kinh nêu sáu dụ để dụ cho giả ngã.

Từ câu: “Như Lai v.v…” trở xuống là nói về chân ngã.

Chân ngã này để đối phó với nói dối. Nếu rốt ráo thanh tịnh tức là vô ngã, vô vô ngã thì lẽ ra chúng sinh cũng được chân ngã này.

Từ câu: “Đại từ đại bi v.v…” trở xuống là đoạn thứ tư, nói rộng về Phật tánh. Văn có ba: Một là nói về Phật tánh, có tám phen; hai là từ câu: “Như ta nói v.v…” trở xuống là kết luận sẽ được; ba là từ câu: “Nếu ta nói v.v…” trở xuống là kết luận chẳng phải năm ấm.

Nói năng lực thứ tư, có người cho rằng đó là căn lực thứ tư trong mười lực, có công năng biết được căn duyên của chúng sinh, là pháp quan trọng cần phải có để hóa đạo. Có người cho rằng có một danh giáo khác đó là: một, tín tuệ, hai là nhẫn lực, ba là lực định, bốn là thiện quyền lực. Có thiện quyền lực thì thuận tiện cho việc hóa đạo nên nói là năng lực thứ tư.

Phen thứ sáu nói mười hai nhân duyên là Phật tánh, có hai cách

giải đều chẳng hợp: Một là cho rằng mười hai nhân duyên là Trí quán, vậy đâu được nói là có tánh cảnh giới; hai cho rằng đó là quả tánh; cũng chẳng thể được. Nay nói rằng mười hai nhân duyên tức Phật tánh, sẽ có chỗ giải thích riêng v.v… Hai phen trên đã nói, tất cả chúng sinh chắc chắn sẽ được các pháp ấy, nên ta nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.

Từ câu: “Nếu các chúng sinh v.v…” trở xuống là đoạn hai, tổng kết đáp các câu hỏi trước. Văn có ba: Một là kết luận câu hỏi về chẳng cần tu tập Thánh đạo.

Kế là từ câu: “Nếu các chúng sinh v.v…” trở xuống là kết luận khuyên bảo.

Thứ ba là từ câu: “Phật tánh v.v…” trở xuống là kết luận khen ngợi; văn có hai: Thứ nhất Đức Phật khen ngợi.

Kế là Bồ-tát Sư Tử Hống khen ngợi.

Từ câu: “Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là nói về người thấy Phật tánh mà khuyên tu, gồm có hỏi và đáp.

Phật đáp có ba ý: Một là thử xét tâm mình, hai là vì chúng sinh mà chịu khổ, ba là dùng sáu Độ giáo hóa người. Ý thứ nhất là tự hành, hai ý sau là hóa tha.

Đầu tiên nói tự thử nghiệm, là vì hạnh còn cạn mỏng, khi sâu thì chẳng cần phải thử. Chữ Hòa mọi người thường đọc âm Hòa, thì chẳng đúng, hoặc đọc là Lê, hoặc đọc là hòa, tìm kỹ thì không có chữ này.

Từ câu: “Bồ-tát vì phá v.v…” trở xuống là nói vì chúng sinh mà chịu khổ.

Từ câu: “Lại nữa v.v…” trở xuống là đoạn ba, nói về sáu Độ hóa tha.

Từ câu: “Bồ-tát Ma-ha-tát v.v…” trở xuống là đoạn lớn thứ hai của phẩm này là khen ngợi giáo. Văn có ba phần, một là khen người mở rộng kinh, tức Bồ-tát, hai là khen pháp được mở rộng, phải do người; giáo chẳng tự nêu ra mà phải do Phật, nên làm nhân cho nhau mà khen ngợi, đó cũng là khen ngợi Tam bảo.

Văn thứ nhất có hai: Trước lược khen ngợi chung, kế là giải thích rộng. Đầu tiên lại có hai ý: một là khen ngợi chúng Bồ-tát, kế là khen ngợi các Bồ-tát Bổ xứ khổ nhọc, siêng năng làm lợi ích chúng sinh. Vì chỉ có Bồ-tát Bổ xứ mới tiếp nối Phật vị, nên khen ngợi riêng.

Đầu tiên có chín phen khen ngợi chung, như kinh có ghi.

Kế là từ câu: “Bồ-tát v.v…” trở xuống là khen ngợi riêng, có bảy phen.

Nói ba điều cao quý, nghĩa là trong các tầng trời cõi Dục thì các vị trời cõi trời này có tuổi thọ nhất định; trong cõi người thì người ở cõi Uất-đơn-việt có tuổi thọ nhất định; nếu cộng thêm Phạm thiên thì thành bảy tầng trời, cõi Đâu-suất ở giữa.

Từ câu: “Này Thiện nam! v.v…” trở xuống là khen ngợi kinh, gồm có hai đoạn. Trước khen ngợi, sau là phân biệt, văn khen ngợi có ba là pháp, dụ và hợp.

Nói sâu khó đến đáy, có người giải thích rằng: Nếu nói theo chiều dọc thì chỉ là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chẳng thể có vô thường, khổ. Nếu nói theo chiều ngang thì đầy đủ thường, vô thường, v.v… cho nên nói sâu khó đạt đến đáy. Cách giải thích này chẳng đúng; kinh chỉ nói sâu thì đâu được giải thích đơn lẻ. Nay cho rằng: Thường, vô thường, chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải một chẳng phải ba, chẳng thể nghĩ bàn, cho nên nói là sâu.

Kế là hợp dụ, như văn kinh.

Từ câu: “Bồ-tát Sư Tử Hống bạch v.v…” trở xuống, gồm hai khoa, có hỏi và đáp.

Hỏi rằng trước nói sâu khó đạt đến đáy là do chẳng sinh chẳng diệt, vì sao chẳng có ba thứ sinh, mà chỉ có một thứ sinh?

Phật đáp: Đầu tiên nói chung chẳng làm thân noãn sinh và thấp sinh.

Kế là, nói riêng chẳng thọ hóa sinh.

Từ câu: “Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử Hống v.v…” trở xuống là nói ba bài kệ khen ngợi chủ nói kinh; gồm có bốn mươi câu:

  1. Hai câu đầu là xin được nói kệ.
  2. Ba mươi bảy câu chính thức khen ngợi.
  3. Một hàng kết luận.