LUẬN THẬP TRỤ TỲ BÀ SA
Tác giả: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 6

Phẩm 11: PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC

Hỏi: Sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, nên thực hành bao nhiêu thời trong ngày đêm?

Đáp:

Gối bên phải chấm đất

Để hở vai bên mặt

Chấp tay tâm cung kính

Ngày đêm đều ba thời.

Do tướng cung kính nên gối bên phải chấm đất, để hở vai bên mặt, chấp tay. Cách lễ ấy, nên hành trì vào thời lễ đầu đêm, kính lạy hết thảy chư Phật, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng. Giữa đêm và cuối đêm đều cũng như thế. Ban ngày: Buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều cũng hành trì như thế. Cả ngày đêm là sáu thời, nhất tâm nhớ nghĩ đến chư Phật như đang hiện tiền.

Hỏi: Hành trì như vậy được quả báo gì?

Đáp:

Nếu hành nơi một thời

Phước đức mà hiện hình

Hằng hà sa thế giới

Tự không thể dung nạp.

Hành trì như vậy trong một thời, phước đức đạt được, nếu chúng có hình tướng thì vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, như Hằng hà sa v.v… Tam thiên đại thiên thế giới cũng không dung nạp hết. Như trong phẩm Trừ Tội Nghiệp của Kinh Tam Chi nói: Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất: Nếu các thiện nam, thiện nữ đem bảy báu đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới, như Hằng hà sa v.v… bố thí cho chư Phật. Nếu lại có người khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân, thì phước đức của người này có được so với phước đức bố thí kia là hơn.

Lại nữa, như trong phẩm Tùy Hỷ Hồi Hướng Bát Nhã Ba La Mật nói: Lành thay! Lành thay! Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Tôn giả có thể vì Phật sự cùng các Bồ-tát nói pháp hồi hướng. Nếu Bồ-tát nghĩ như vầy: Như chư Phật đã thấy biết về thể tướng, gốc ngọn nơi phước đức của căn thiện này do nhân duyên nào mà có, ta cũng theo chỗ thấy biết của chư Phật mà hồi hướng, người ấy tức được nhiều phước. Ví như trong Hằng hà sa v.v… Tam thiên đại thiên thế giới, các chúng sinh đều thành tựu mười đạo thiện, thì phước đức của Bồtát hồi hướng kia là cao tột hơn hết, tốt đẹp hơn hết, không gì bằng, không gì có thể so sánh.

Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Để sang một bên các chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như Hằng hà sa v.v… đã thành tựu mười đạo thiện. Nếu chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như Hằng hà sa v.v… đều được thiền thứ tư, thì phước đức kia so với đây cũng lại là tối thắng, tối diệu, tối thượng. Bốn tâm vô lượng, bốn định vô sắc, năm thần thông, được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, đạo Phật-bích-chi, cũng như vậy. Như pháp hồi hướng, phước đức là tối thắng, tối diệu, tối thượng.

Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Để sang một bên các chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như Hằng hà sa v.v… đều thành Phậtbích-chi. Nếu có chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như Hằng hà sa v.v…, đều phát tâm cầu đạt đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Lại có chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như Hằng hà sa v.v…, trong ấy chỉ có một Bồ-tát, đem tâm chấp giữ tướng, cúng dường các chúng sinh này những y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men, trải qua vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng, dùng các thứ tạo an lạc cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, mỗi mỗi Bồ-tát đều cũng bố thí như vậy, này Tôn giả Tu-bồ-đề! Ý của Tôn giả thế nào? Các Bồ-tát ấy, do nhân duyên này có được nhiều phước đức chăng?

Tôn giả Tu-bồ-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Phước đức ấy là rất nhiều. Phước đức nhiều như thế, nên không thể tính đếm hay dùng lấy thí dụ nói được. Nếu phước đức ấy có hình tướng thì Hằng hà sa thế giới cũng không thể tiếp nhận hết.

Phật bảo Tôn giả Tu-bồ-đề: Lành thay! Lành thay! Này Tôn giả Tu-bồ-đề! Bồ-tát ấy vì hộ trì Bát-nhã Ba-la-mật, nên đem căn thiện thuận pháp tánh để hồi hướng thì phước đức có được so với phước đức có được do bố thí chấp giữ tướng của các Bồ-tát trước, tức phước đức trước không bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần vạn, một phần trăm ngàn vạn ức. Cho đến dùng toán số thí dụ cũng không thể nêu hết phước đức của hồi hướng thuận pháp tánh kia. Vì sao? Vì các Bồ-tát ở trước, khi bố thí còn chấp tướng, phân biệt, nên phước đức có được đều là có lượng có số.

Lại nữa, trong phẩm Hồi Hướng Bát Nhã Ba La Mật, nói: Phật bảo Thiên tử Tịnh Cư: Để sang một bên các chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như cát sông Hằng, đều phát tâm Bồ-đề cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Các chúng sinh khác trong Tam thiên đại thiên thế giới như cát sông Hằng, ở đấy, mỗi mỗi Bồ-tát với tâm chấp tướng, cúng dường các chúng sinh này những thứ vật dụng cần thiết cho đời sống như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men, theo ý cúng dường trong Hằng hà sa kiếp. Này các Thiên tử! Nếu các chúng sinh ấy trong Tam thiên đại thiên thế giới như cát sông Hằng, đều phát tâm Bồ-đề cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Ngoài ra, còn có các chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như cát sông Hằng, cũng đều phát tâm Bồ-đề cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, trong đó, chỉ một Bồ-tát cúng dường cho những Bồ-tát này những vật dụng cần thiết cho đời sống như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men, trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, bố thí có phân biệt chấp tướng! Như vậy, các Bồ-tát mỗi vị đều trải qua Hằng hà sa kiếp, cúng dường cho chư Bồ-tát này những thứ vật dụng cần dùng như y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc men, tùy ý cúng dường, cung kính, tôn trọng khen ngợi, đều là bố thí chấp tướng.

Nếu Bồ-tát vì hộ trì Bát-nhã Ba-la-mật nên hành trì những phẩm Giới Định Tuệ, phẩm Giải thoát, phẩm Giải thoát tri kiến của chư Phật nơi quá khứ, hiện tại, vị lai cùng năm phẩm của Thanh văn, và những phàm phu gieo trồng căn thiện ở đây, hoặc đã trồng, đang trồng, sẽ trồng, hết thảy đều hòa hợp, nêu xưng, đầy đủ không sót, thì phước đức tùy hỷ đó là tối thắng, tối diệu, tối thượng, không gì bằng, không gì có thể so sánh, không thể nghĩ bàn. Đem phước đức ấy hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, rồi nghĩ như vầy: Phước đức ấy của ta có thể đạt đến Phật đạo. Phước đức này so với phước đức chấp tướng trước kia thì phước đức kia không bằng một phần ngàn, một phần vạn, một phần ức, cho đến dùng toán số thí dụ cũng không nêu hết phước đức của sự hồi hướng kia. Vì sao? Vì những Bồ-tát ấy bố thí còn phân biệt chấp tướng.

Lại nữa, như có chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như cát sông Hằng, đều phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thân, miệng, ý đều hành tác nghiệp thiện. Lại có chúng sinh trong Tam thiên đại thiên thế giới như cát sông Hằng, đều phát tâm cầu đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Nếu như người trải qua Hằng hà sa v.v… kiếp, đều có thể chịu đựng, nhẫn nhịn vô số những lời mắng nhiếc, lời ác độc, cũng trải qua Hằng hà sa v.v… kiếp thân tâm luôn tinh tấn, trừ bỏ những biếng trễ, thâu giữ tâm nơi thiền định không có các tưởng loạn, nhưng đều chấp giữ tướng, thì không bằng Bồ-tát như pháp tánh hồi hướng, phước đức của sự hồi hướng này là hơn hẳn. Do vậy, trước đây ông đã hỏi: Hành trì như vậy được lợi ích gì? Tức được tụ phước đức lớn như vậy, thế nên nếu người muốn được tụ phước đức vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn như vậy, phải hành trì sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, không tiếc thân mạng, không màng tới lợi dưỡng, tiếng khen, đêm ngày siêng năng hành trì các pháp đó.

Hỏi: Ông chỉ nói phước đức trong việc khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, sao không thấy nói đến phước đức của sám hối?

Đáp: Phước đức của sám hối là lớn hơn hết trong các phước đức, vì tội lỗi của nghiệp chướng được diệt trừ, khéo hành được đạo Bồ-tát, khiến cho hành khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng cùng hòa hợp với không, vô tướng, vô nguyện không khác.

Lại nữa, sám hối ví như ngọc báu Như ý, tùy nguyện đều đạt, như Phật đã nói: “Nếu có người muốn sinh vào tộc họ lớn Bà-lamôn, sinh vào tộc họ lớn Sát-đế-lợi, hay sinh vào nhà Cư sĩ có uy thế lớn, thì nên sám hối nghiệp tội như thế, không được che giấu, về sau không hành tác như vậy nữa. Nếu có người muốn sinh lên các cõi trời: Tứ Thiên vương, Đao-lợi, Dạ-ma, Đâu-suất-đà, Hóa-lạc, Thahóa-tự-tại, thì cũng sám hối nghiệp tội như vậy, không che giấu, về sau không gây tạo như vậy nữa. Nếu người muốn sinh lên Phạm thế, cho đến xứ Phi tưởng phi phi tưởng, người ấy cũng sám hối nghiệp tội như vậy, không che giấu, về sau không tái phạm nữa. Nếu người muốn chứng được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, cũng sám hối nghiệp tội như thế. Nếu người muốn chứng được ba minh, sáu thông và diệu lực tự tại trong đạo Thanh văn, cùng tận công đức của Thanh văn để đạt tới bờ kia, cũng nên sám hối nghiệp tội như thế. Nếu người muốn chứng được đạo Phậtbích-chi, cũng nên sám hối tội nghiệp như vậy. Nếu người muốn chứng được Nhất thiết trí, trí tuệ không thể nghĩ bàn, trí tuệ vô ngại, trí tuệ vô thượng, thì cũng sám hối nghiệp tội như thế, không hề che giấu, về sau không còn gây tạo như thế nữa”. Do đấy nên biết, sám hối được quả báo rất lớn.

Hỏi: Ông nói sám hối trừ tội của nghiệp chướng, nhưng trong kinh khác lại nói: “Phật bảo Tôn giả A-nan: Cố ý tạo nghiệp tất sẽ thọ báo”.

Lại, trong A-tỳ-đàm cũng nói: “Nhân duyên của các nghiệp chẳng không, quả báo không mất, không diệt”.

Lại nữa, như kinh nói: “Chúng sinh đều ràng buộc do nghiệp, đều theo nghiệp mà có, nương dựa nơi nghiệp. Chúng sinh theo nghiệp đều tự thọ báo, hoặc hiện báo, hoặc sinh báo, hoặc hậu báo”.

Lại nữa, trong Kinh Nghiệp Báo, vua Diêm-la đã vì chúng sinh nói: “Ôi, chúng sinh! Tội này của các ngươi không phải do cha mẹ làm, không phải do trời làm, hay Sa-môn, Bà-la-môn làm. Chính các ngươi đã gây tạo, nên phải tự nhận báo”.

Lại nữa, trong kệ Hiền Thánh nói:

Pháp thật như kim cương

Đối nghiệp lực không hơn

Nay ta đã chứng đạo

Vẫn thọ báo nghiệp ác.

Lại nữa, Phật tự nói:

Biển lớn và núi đá

Những gò nổng, cây rừng

Cùng đất nước gió lửa

Các tinh tú, nhật, nguyệt.

Nếu đến khi kiếp thiêu

Đều hết không còn gì

Nghiệp nơi vô lượng kiếp

Luôn còn, không hề mất.

Ông gặp người đủ tướng

Nhất thiết trí, thầy người

Trước gây tạo nghiệp tội

Đã trả hết quả báo.

Nay tuy được gặp Phật

Cấu hết, chứng quả Thánh

Do nhân duyên tàn dư

Cây nhọn đâm nơi thân.

Do vậy, ông không nên bảo sám hối là trừ hết nghiệp tội!

Đáp: Tôi không nói sám hối thì nghiệp tội diệt hết, không có quả báo. Tôi chỉ nói sám hối thì tội nơi từng lúc thọ nhận sẽ nhẹ mỏng đi. Do vậy, phải nên sám hối. Như trong kệ nói: “Phải đọa ba đường ác, Nguyện trong thân người nhận”.

Lại nữa, trong Kinh Như Lai Trí Ấn nói: “Phật bảo Bồ-tát Dilặc: Thâm tâm của các Bồ-tát luôn yêu thích đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nếu có tội phải bị đọa vào đường ác thọ báo là tội nhẹ nhỏ, đời sau bị thân hình xấu xí, hoặc bị nhiều bệnh tật, không có oai đức, sinh vào nhà bần cùng, thấp kém, nhà tà kiến, nhà sống theo nghề tà vạy. Hoặc sinh vào xứ không hợp ý, xứ có nhiều ưu sầu. Nơi ở là đất nước bị tàn phá, xóm làng trơ trọi, nhà cửa hư hoại, những gì yêu thích đều bị tàn rụi. Không gặp tri thức thiện, không được nghe pháp, không được lợi dưỡng. Nếu được thì chỉ là những thứ thô xấu, thường không tự cung cấp, chỉ có thể khiến kẻ thấp kém tin kính, không được bậc Đại nhân kính tin. Khi tu tập các phước thiện thì có nhiều chướng ngại, không được thành tựu. Các căn độn, tối, tu thiền, ý bị tán loạn, không được công đức của giác ý vô lậu.

Không biết kinh pháp để tùy nghi hướng tới, cho đến mộng ác cũng thấy phải thọ báo ở nẻo ác”.

Lại nữa, Phật nói: “Người có tội nhỏ, ngay đời này phải nhận báo. Nếu tội này trở nên nhiều thì bị đọa vào địa ngục”.

Vì sao người đó nơi đời này chỉ có tội nhỏ, trở thành tội nhiều để rơi vào địa ngục? Do có người không tu thân, không tu giới, không tu tâm, không tu tuệ, không có ý chí lớn, người ấy dù mắc tội nhỏ cũng rơi vào địa ngục.

Vì sao người ấy có tội, đời này phải nhận quả báo? Do tội không tăng thêm nên khỏi bị đọa vào địa ngục. Có người do tu thân, tu giới, tu tâm, tu tuệ, có ý chí lớn, tâm không cố chấp, người như thế có tội, nhưng tội không tăng thêm, nên chịu quả báo ngay đời này. Ví như người dùng đồ chứa nhỏ đựng đầy nước, rồi bỏ vào đấy một vốc muối thì không thể uống được. Nếu lại có người dùng một thăng muối ném vào ao to thì khi uống nước ao ấy không ai biết đâu là vị mặn. Vì sao? Vì nước nhiều mà muối thì quá ít. Tội lỗi cũng như thế. Kệ nói:

Thăng muối ném biển lớn

Vị mặn không có khác

Đổ muối ấy vào chén

Mặn đắng không thể uống.

Như người chứa phước lớn

Nhưng có tội xấu nhỏ

Không đọa nơi đường ác

Duyên còn nên thọ nhẹ.

Lại người phước đức mỏng

Nhưng có tội xấu nhỏ

Tâm chí lại hẹp cạn

Tội khiến đọa nẻo ác.

Nếu người sức nóng yếu

Ăn ít, lại khó tiêu

Người này tuy không chết

Thân chịu nhiều khổ lớn.

Nếu người thân khỏe mạnh

Ăn ít, ăn khó tiêu

Người này trọn không chết

Chỉ thọ khổ nhẹ, ít.

Lửa phước tuệ thiện yếu

Nhưng có tội lỗi ít

Tội ấy không cứu nổi

Khiến bị đọa địa ngục.

Người có phước đức lớn

Cho dù mắc tội ác

Không khiến đọa địa ngục

Thân hiện thọ báo nhẹ.

Ví như Ương-quật-ma

Đã giết hại nhiều người

Lại muốn hại mẹ, Phật

Tu đắc A-la-hán.

Đời này nhận báo nhẹ là như vua A-xà-thế giết vua cha, là người đắc đạo, nhưng nhờ nhân duyên gặp Phật và Bồ-tát Văn-thùsư-lợi nên tội nặng của ông thọ nhận báo nhẹ.

Lại như có người dữ như rắn độc, khi sinh ra như có mưa máu. Về sau lớn lên, khi có ý muốn giết người, vừa mở mắt nhìn là người kia chết ngay. Hoặc khi nó hà hơi người khác cũng chết, thế nên thuở ấy người ta gọi nó là Khí Hư. Lúc người ấy mạng chung, Tôn giả Xá-lợi-phất đi tới đó, do tâm giận dữ, nó trố mắt nhìn Tôn giả Xá-lợiphất và hà hơi cũng không làm chết Tôn giả, Tôn giả bèn dùng thân sắc làm phương tiện, tỏa hào quang sáng ngời, khiến tâm của người ấy thanh tịnh. Tôn giả Xá-lợi-phất quan sát từ đầu đến chân người ấy bảy lần. Do nhân duyên này, nên sau khi chết, người ấy sinh lên cõi trời bảy lần, sinh trong kiếp người bảy lần, về sau, khi con người sống đến bốn vạn tuổi, người ấy sẽ thành Phật-bích-chi, thân màu vàng ròng, lúc đó người ta sẽ gọi tên ông là Khối Vàng Đến. Người ta muốn chém lấy thì ông ấy liền nhập Niết-bàn.

Lại như vua A-thâu-già đem binh đánh châu Diêm-phù-đề, giết chết một vạn tám ngàn cung nhân. Nhưng đời trước ông đã cúng đất cho Phật, xây tám vạn ngôi tháp, thường ở chỗ bậc Đại A-la-hán nghe nhận kinh pháp, nên về sau chứng quả Tu-đà-hoàn, thân ông chỉ nhận lấy tội nhẹ. Những tội lỗi như thế, phần nhiều nhờ hành phước đức với ý chí rộng lớn, các phước đức ấy được tích tập nên không bị đọa vào đường ác.

Do vậy, trước đây ông nêu vấn nạn là nếu sám hối nghiệp tội tức diệt hết không có quả báo, nói như thế là không đúng. Lại nữa, nếu nói tội không thể diệt trừ, thì trong Tỳ-ni Phật nói: Sám hối tiêu trừ tội, tức không thể tin. Sự việc này không như thế. Cho nên tội của nghiệp chướng phải nên sám hối.

***

Phẩm 12: PHÂN BIỆT BỐ THÍ, phần 1

Bồ-tát có thể hành trì sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng như vậy.

Sức phước đức chuyển tăng

Tâm cũng thêm hòa dịu

Tức tin công đức Phật

Cùng hạnh lớn Bồ-tát.

Bồ-tát này do sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng mà phước lực chuyển tăng, tâm trở nên hòa dịu. Đối với vô lượng công đức thanh tịnh bậc nhất của chư Phật, hàng phàm phu không tin, nhưng Bồ-tát đều có thể tin thọ và cũng có thể tin nhận những sự việc hy hữu khó làm nơi hạnh lớn thanh tịnh của các Đại Bồ-tát.

Lại nữa:

Các chúng sinh khổ não

Không pháp tịnh thâm diệu

Do đấy sinh xót thương

Nên phát tâm bi sâu.

Bồ-tát đã tin vào vô lượng sự thanh tịnh thâm diệu của chư Phật, Bồ-tát là công đức bậc nhất, nên thương xót chúng sinh. Do không có công đức ấy, nên chúng sinh chỉ hành theo các tà kiến, thọ nhận vô số thứ khổ não, thế nên Bồ-tát sinh tâm bi sâu xa.

Nghĩ các chúng sinh ấy

Chìm trong bùn khổ não

Ta sẽ cứu vớt họ

Khiến trụ xứ an ổn.

Bồ-tát này có tâm bi rồi, lại nghĩ như vầy: Các chúng sinh ấy thường bị bệnh tham, giận, si bức bách, nên thân tâm thọ nhận nhiều khổ não. Ta sẽ cứu vớt, khiến thân tâm họ ra khỏi vũng bùn lầy khổ não ấy, rốt cùng không còn tai họa của sinh già bệnh chết, được trụ nơi xứ Niết-bàn an lạc. Thế nên, đối với những chúng sinh khổ não, Bồ-tát sinh tâm bi sâu xa. Do tâm bi ấy, vì họ cầu tùy ý khiến đạt được an lạc, đó gọi là tâm từ.

Nếu Bồ-tát như vậy

Tùy tâm từ bi sâu

Đoạn hết thảy tham tiếc

Cho họ siêng tinh tấn.

Bồ-tát là người cầu Phật đạo, cứu độ chúng sinh khổ não.

Niệm là tùy theo, là tùy thuận tâm từ bi, không theo tâm khác. Tâm từ sâu xa gọi là trùm khắp, là tâm nhớ nghĩ đến chúng sinh thấu tận xương tủy. Hiện có gọi là tất cả trong ngoài, như hiện có vàng bạc, châu báu, đất nước, thành ấp, vợ con v.v… Tham là tham muốn được một điều gì không biết nhàm chán. Tiếc gọi là yêu mến chấp vướng, không muốn cho người khác. Đoạn trừ là xa lìa ba điều ác ấy, như vậy tức là mở ra cửa Bố thí Ba-la-mật. Do đó, Bồ-tát luôn phải siêng năng, một lòng hành trì, không khiến phóng dật. Vì sao? Vì Bồ-tát suy nghĩ như vầy: “Hôm nay ta phát tâm bố thí kiên cố, tùy theo những gì có thể đều nhằm đem lợi ích cho chúng sinh”.

Hết thảy vật hiện có

Có mạng hoặc không mạng

Làm Chuyển luân, Thiên vương

Ai cầu xin là cho.

Cho đến cả nam, nữ

Thê thiếp tộc họ tốt

Tuổi trẻ rất đoan nghiêm

Khéo léo hầu hạ người.

Tâm cung thuận nhu hòa

Tình thương nhớ cùng tột

Tiếc hơn mạng sống mình

Người xin đều ban cho.

Cả đến máu thịt, thân

Xương tủy cùng tay chân

Đầu, mắt và tai, mũi

Cả thân đều cho hết.

Bồ-tát này tâm định bố thí, thì các vật bên ngoài hiện có, thứ có mạng sống hay không có mạng sống, không bao giờ có người đến xin lại không cho. Vật không có mạng sống là vàng bạc, châu báu, cho đến cả ngôi vị Chuyển luân Thánh vương, ngôi vị Thiên vương. Vật có mạng sống là con trai, con gái, tộc họ cao quý, thê thiếp tuổi trẻ, con nhà danh giá, đoan nghiêm, nhu hòa, cung kính, khéo tùy thuận, yêu tiếc hơn cả thân mạng nhưng có thể đem bố thí cho người. Như Bồ-tát hành nhất thiết thí, hết thảy vật dụng bên ngoài hiện có và cả vợ con, đều có thể đem cho. Bồ-tát này bố thí cả đến thân mình như máu, đầu, mắt, tay, chân, tai, mũi, lóc thịt, khoét xương, đập xương lấy tủy, như Tát-đà-ba-luân. Hoặc bố thí nguyên thân mình. Hết thảy những thứ con người yêu mến, không gì hơn thân mạng mình, nhưng Bồ-tát vẫn có thể thí cho người khác, như Tát-hòa-đàn, như Bồ-tát làm kiếp thỏ, đã đem mạng mình bố thí cho Tiên nhân, như vua Thi Tỳ dùng thân chết thay cho chim bồ câu.

Hỏi: Bồ-tát này do phân biệt nhận biết bố thí và quả báo của bố thí nên có thể dùng việc khó để bố thí hay chỉ do tâm từ bi nên phát tâm bố thí?

Đáp:

Người bố thí như thế

Tức được báo như thế

Trong đem các chi phần

Cùng các vật bên ngoài.

Vật bên trong là đầu, mắt, tay, chân v.v… Vật bên ngoài là vợ con, vàng bạc, vật báu v.v… Bồ-tát này biết như thật về bố thí. Sự đạt được ấy, hay quả báo ấy, mỗi mỗi việc đều phân biệt rõ. Lại tin ở các kinh đã nói, hoặc dùng thiên nhãn nên biết được.

Hỏi: Trước đây, ông nói: Dùng các phần của thân để bố thí và vật bên ngoài để bố thí sẽ được quả báo. Nay có thể nói về quả báo đạt được ấy chăng?

Đáp: Phẩm thứ 30: Bồ Tát Vô Tận Ý trong Kinh Bảo Đảnh và trong nghĩa Bố thí Ba-la-mật có nói: “Bồ-tát lập nguyện: Ai cần ăn thì cho ăn”, khiến ta được 5 thứ quả báo: 1. Được sống lâu. 2. Được chăm sóc. 3. Được an vui. 4. Được sức mạnh. 5. Được sắc đẹp.

Ai cần nước uống cho nước uống, trước hết, đối với con người, được uống nước thơm ngon. Về sau diệt trừ được phiền não khát ái. Ai cần xe cho xe, tức được quả báo vui thích tùy ý, thành tựu bốn như ý túc, về sau sẽ được đạo ba Thừa.

Ai cần áo cho áo, tức được quả báo là có áo biết hổ thẹn. Ai cần đèn sáng cho đèn sáng, tức được Phật nhãn sáng tỏ.

Ai cần nhạc hay cho nhạc hay, tức được thiên nhĩ đầy đủ. Ai cần hương bột, hương xoa, cho hương bột, hương xoa, sẽ được thân không mùi hôi hám.

Ai cần chất nước ép cho chất nước ép, tức được quả báo là luôn có hương vị nối tiếp. Ai cần nhà phòng cho nhà phòng, tức được làm nơi nương dựa cứu giúp cho tất cả chúng sinh.

Bố thí vật cần dùng cho đời sống tức được công đức trợ đạo Bồđề. Bố thí thuốc men thì được khỏi sự già bệnh chết, thường được an ổn, vui vẻ. Bố thí tôi tớ thì được trí tuệ đầy đủ, tùy ý tự tại.

Bố thí vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, tức được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt. Bố thí những thứ vật tạp để trang sức thân sẽ được tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Bố thí voi, ngựa, xe, sẽ được đầy đủ pháp Đại thừa.

Bố thí vườn rừng sẽ được thiền định an lạc đầy đủ. Bố thí người nam nữ, tức được tâm yêu thích đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Bố thí kho lúa thóc, kho báu, sẽ được Tạng pháp đầy đủ.

Đem ngôi vua một nước, ngôi vua một châu Diêm-phù-đề, ngôi vua bốn châu thiên hạ để bố thí, sẽ được làm bậc Pháp vương tự tại nơi đạo tràng.

Bố thí những thứ tạo an lạc vui chơi sẽ được sự an lạc của chánh pháp.

Dùng chân để bố thí sẽ đạt được chân pháp, có thể đi đến đạo tràng. Dùng tay để bố thí sẽ được cánh tay báu có khả năng ban cho tất cả. Dùng tai, mũi để bố thí sẽ được thân thể đầy đủ.

Dùng mắt để bố thí sẽ được pháp nhãn đầy đủ, không hề chướng ngại. Dùng đầu để bố thí sẽ được hết thảy trí tuệ đặc biệt tôn quý trong ba cõi.

Đem máu thịt bố thí khiến các chúng sinh được hạnh kiên cố. Đem tủy bố thí sẽ được thân kim cương, không gì có thể hủy hoại.

Mở rộng cửa bố thí với những quả báo như vậy, còn quả báo của những bố thí khác cũng nên biết.

Bố thí vật dụng để ngồi sẽ được giường giải thoát an ổn của ba Thừa. Bố thí chỗ ngồi sẽ được xứ đạo tràng dưới tán cây Bồ-đề không thể phá hoại.

Bố thí vợ sẽ được những sự vui vẻ của chánh pháp. Bố thí đường đi sẽ làm mất con đường sinh tử, khiến chúng sinh bước vào chánh đạo.

Bố thí bè qua sông sẽ có quả báo vượt khỏi dòng chảy của dục, dòng chảy của hữu, dòng chảy của kiến, dòng chảy của vô minh. Bố thí xương sẽ được giới kiên định, giải thoát kiên định, giải thoát tri kiến kiên định và chúng sinh kiên định.

Bố thí quyến thuộc sẽ thành tựu được vô lượng vô biên A-tăngkỳ phước đức, quyến thuộc nơi cõi trời, người đồng tâm thanh tịnh, không thể hủy hoại. Bố thí lời “Lành thay!”thì khi thuyết giảng pháp sẽ được các chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Sa-môn, Bàla-môn hoan hỷ khen ngợi.

Đem kinh quyển bố thí sẽ được chín bộ kinh trụ lâu trong vô lượng thời gian. Bố thí pháp sẽ thông đạt được tất cả các pháp, tích tập hết thảy công đức.

Bồ-tát này ưa thích hành bố thí như thế, biết bố thí thanh tịnh, biết quả báo của bố thí đạt được nhiều ít. Thế nên:

Thí tiền của phi pháp

Cho đến thí trí trách Không có thí như thế

Thí chỉ hợp với không.

Phi pháp là hành ác để có được của cải. Của cải gọi là vật dụng của đời sống. Nói tóm lại do nghiệp ác có được tiền của rồi đem bố thí, Bồ-tát biết bố thí đó là không thanh tịnh.

Những cách bố thí phi pháp như thế, cho đến lối bố thí bị người trí quở trách, không phải là bố thí của Bồ-tát. Bồ-tát hành bố thí là chỉ nhằm ban cho trí tuệ thông suốt cùng hòa hợp với vô số công đức.

Hỏi: Đã nói về bố thí của cải mình có được bằng phi pháp và bố thí trí tuệ thông suốt cùng hòa hợp. Hai thứ bố thí này, nên phân biệt rộng chăng?

Đáp: Hai thứ bố thí này, trong phẩm: Hội Bồ Tát Vô Tận Ý và trong Bố thí Ba-la-mật nói:

Trước nên phân biệt công đức của bố thí, đó là: Các Bồ-tát không cầu tìm tiền của phi pháp để bố thí. Không đem nhiệt não bố thí chúng sinh. Không đem lo sợ bố thí chúng sinh. Không bố thí với tâm vướng mắc.

Không bố thí khi không có người xin. Không bố thí với tâm không giữ lời hứa. Không bố thí với tâm keo kiệt, tham thứ tốt, đem thứ xấu thí cho. Không bố thí với tâm không sâu xa.

Không bố thí với tâm dua nịnh, quanh co. Không bố thí một cách giả dối. Không tổn hại quả để bố thí. Không bố thí với tâm tà.

Không bố thí với tâm ngu si. Không bố thí với tâm tạp loạn. Không bố thí với tâm không tin giải thoát. Không bố thí với sự mệt mỏi, chán nản.

Không bố thí với sự nhờ cậy người thân. Không bố thí với hy vọng được nương dựa nơi mình bố thí. Không bố thí với tâm mong cầu về phước điền. Không bố thí với tâm khinh miệt những chúng sinh chẳng phải là phước điền.

Không bố thí với tâm phân biệt hơn kém đối với người trì giới, kẻ phá giới. Không bố thí với tâm cầu được tiếng tốt. Không bố thí với tâm tự cao. Không bố thí với tâm hạ thấp người khác.

Không bố thí với tâm luyến tiếc, buồn bực. Không bố thí với tâm hối hận. Không bố thí do tiếng kêu la khẩn cấp. Không bố thí cho kẻ xấu ác hạ tiện. Không bố thí pháp một cách tự nhiên.

Không bố thí để cầu có quả báo. Không bố thí với tâm giận dữ. Không bố thí bằng cách khiến cho họ thiếu thốn để bố thí. Không bố thí bằng cách gây não hại cho người cầu xin.

Không bố thí bằng cách khinh miệt, đùa cợt người cầu xin. Không bố thí bằng cách gian trá lừa dối. Không bố thí bằng cách hẹn lần hồi, lánh mặt. Không bố thí bằng cách ném cho.

Không bố thí khi không nhất tâm. Không bố thí khi không tự tay mình trao cho. Không bố thí bất thường. Không bố thí với sự ngừng nghỉ đình trệ.

Không bố thí chỉ một lần rồi dứt hẳn. Không bố thí với tâm tranh hơn cùng người khác. Không bố thí với tâm xem thường vật bố thí. Không bố thí theo lối tùy thích, tự ý, đem vật xấu kém cho.

Không bố thí những gì không tương xứng với sức mình. Không bố thí vì chẳng phải là phước điền. Không bố thí với tâm niệm thấp kém với những vật quá ít ỏi. Không bố thí với tâm cậy vật nhiều, kiêu mạn bố thí.

Không bố thí với hành tà. Không bố thí với tâm mong cầu thọ sinh nơi an vui. Không bố thí với tâm cậy vào hình sắc, tộc họ giàu sang. Không bố thí với tâm mong cầu sinh nơi trời Tứ vương, Thích, Phạm.

Không bố thí với tâm mong cầu thừa Thanh văn, Phật-bích-chi. Không bố thí với tâm mong cầu làm vua, làm con vua. Không bố thí với giới hạn trong một đời. Không bố thí với tâm thỏa mãn, coi như đã xong, đủ.

Không bố thí khi không hồi hướng đến Nhất thiết trí. Không bố thí với tâm bất tịnh. Không bố thí phi thời. Không bố thí đao gậy, chất độc. Không bố thí với hành tác não hại, đùa cợt chúng sinh. Không bố thí những gì bậc trí đã quở trách.

Mở bày chỉ rõ về môn bố thí như vậy. Ngoài ra, có những lối bố thí không thanh tịnh, cũng nên nhận biết. Đó là: Bồ-tát không nên vứt bỏ vật vừa được bố thí. Không bố thí cho người không ưa thích Niết-bàn. Không bố thí cho người sung túc, dễ đạt được tiền của. Không bố thí cho người tính chuyện trả ơn.

Không bố thí với tâm mong cầu báo đáp. Không bố thí với tâm mong cầu có qua có lại. Không bố thí với tâm mong cầu có nơi che chở. Không bố thí với tâm mong cầu được điều tốt.

Không bố thí với tâm kiêu căng. Không theo “Gia pháp”để bố thí. Không bố thí cho người vừa nhận được liền đem cho người khác. Không bố thí cho người không có thân trọn vẹn.

Không bố thí với tâm cấu uế. Không bố thí cho người ở không, rong chơi. Không đem tri thức thiện để bố thí. Không bố thí cho người khinh thường.

Không bố thí cho người ăn chơi, phóng dật. Không bố thí do có nguyên nhân mất mát. Không bố thí do mình được khen ngợi. Không bố thí vì mình bị quở mắng.

Không do chú nguyện nên bố thí. Không bố thí do được khen vì làm việc hy hữu. Không bố thí do tâm tin của mình được làm sáng tỏ cho người khác biết. Không bố thí vì sợ hãi.

Không bố thí bằng lừa dối. Không bố thí để cầu được nhiều quyến thuộc. Không bố thí cho người không nêu rõ sự dẫn dắt. Không bố thí cho người dẫn dắt đám đông.

Không bố thí cho người không có tâm tin. Không bố thí cho người không có nhân duyên. Không bố thí một cách tùy ý. Không bố thí cho người đang trá bày điều kỳ lạ.

Không bố thí cho người tự khen ngợi mình. Không bố thí những gì trái với mong cầu. Không bố thí để chế ngự người kia. Không bố thí với tâm không ưa thích.

Không bố thí cho người không nhận dùng đồ vật. Không bố thí với tâm không cung kính. Không bố thí với tâm thấp kém. Không do tướng quá dị nên bố thí.

Không bố thí với ý muốn đè ép ai. Không bố thí cho người cậy thế mạnh chiếm lấy vật. Không bố thí với tâm không thanh tịnh. Không bố thí với tâm nghi ngờ.

Không bố thí cho người có ý phá hoại người cầu xin. Không bố thí vật bị cấm kỵ. Không bố thí với tâm phân biệt. Không bố thí rượu.

Không bố thí các thứ vũ khí binh đao. Không bố thí của cải cướp đoạt của người khác. Không bố thí bằng cách khiến cho người khác sinh tâm nghi. Không bố thí vì người kia là chỗ thân cận với mình.

Không bố thí cho người đi nói xấu người khác. Không bố thí bằng cách chọn cho những vật mình thích. Không bố thí với tâm giận dữ. Không bố thí với tâm ngu tối. Không bố thí với những hý luận. Không bố thí không vì Bồ-đề.

Hỏi: Từ câu: Các Bồ-tát không cầu tìm tiền của phi pháp để bố thí, cho đến câu: Không bố thí không vì Bồ-đề, Bồ-tát vì có hay là vì không?

Nếu hoàn toàn không, tức có lỗi là không cầu phước điền, không có tâm phân biệt đối với chúng sinh, cũng không biết ơn, báo ơn, cũng không bố thí theo phép nhà, phép nước.

Nếu có, vì sao đều nói không?

Đáp: Các Bồ-tát không cầu tìm tiền của phi pháp để bố thí, cho đến: Không bố thí không vì Bồ-đề, Bồ-tát không hẳn hoàn toàn là không. Hoặc có khi bố thí này không thuộc về bố thí Ba-la-mật, không thể đầy đủ bố thí Ba-la-mật nên nói là không. Bố thí do công đức hòa hợp như không v.v…, thì như trong Phẩm Bố Thí Ba-la-mật của Kinh Vô Tận Ý Bồ Tát nói: Bồ-tát bố thí cùng với tâm không hòa hợp nên không cùng tận.

Bố thí này là tu tập vô tướng nên không cùng tận. Bố thí này do vô nguyện giữ gìn nên không cùng tận. Bố thí này thuộc về căn thiện nên không cùng tận. Bố thí này theo tướng giải thoát nên không cùng tận.

Bố thí này có thể phá trừ hết thảy ma nên không cùng tận. Bố thí này không lẫn lộn với phiền não nên không cùng tận. Bố thí này được chuyển đổi thắng lợi nên không cùng tận. Bố thí này với tâm quyết định nên không cùng tận.

Bố thí này tích tập pháp trợ Bồ-đề nên không cùng tận. Bố thí này là hồi hướng chân chánh nên không cùng tận. Bố thí này được quả của đạo tràng giải thoát nên không cùng tận. Bố thí này là vô biên nên không cùng tận.

Bố thí này không thể hết nên không cùng tận. Bố thí này không dứt mất nên không cùng tận. Bố thí này rộng lớn nên không cùng tận. Bố thí này không thể hủy hoại nên không cùng tận.

Bố thí này không thể vượt hơn nên không cùng tận. Bố thí này đạt đến hết thảy trí tuệ nên không cùng tận. Bố thí này đoạn trừ các thứ cấu uế của bố thí tiền của cầu tìm do phi pháp và thành tựu các công đức như không v.v… nên không cùng tận.

Cầu tìm tiền của do phi pháp để bố thí thì đó là bố thí cấu uế. Cùng với cấu uế nên là bố thí không tịnh. Hòa hợp với các công đức như không v.v… là bố thí tịnh.

Lại nữa, bố thí ấy là tịnh và bất tịnh, nay sẽ nói thêm. Kinh nói có bốn thứ bố thí:

  1. Có bố thí, người bố thí là tịnh, người nhận không tịnh.
  2. Có bố thí, người nhận tịnh, người bố thí không tịnh.
  3. Có bố thí, người bố thí tịnh, người nhận cũng tịnh
  4. Có bố thí, người bố thí, người nhận đều không tịnh.

Nếu người bố thí thành tựu nghiệp thiện nơi thân khẩu ý, người nhận thì thân khẩu ý hành bất thiện, đó gọi là người bố thí tịnh, người nhận không tịnh.

Nếu người bố thí thân khẩu ý hành bất thiện, người nhận thân khẩu ý hành thiện, đó gọi là người nhận tịnh, người bố thí không tịnh.

Nếu người bố thí thân khẩu ý hành thiện, người nhận thân khẩu ý cũng hành thiện, đó gọi là người bố thí, người nhận đều tịnh.

Nếu người bố thí thân khẩu ý hành bất thiện, người nhận thân khẩu ý cũng hành bất thiện, đó gọi là người bố thí, người nhận đều không tịnh.

Tham dục, giận dữ, ngu si, đoạn trừ hay không đoạn trừ cũng nên phân biệt như vậy.

Lại nữa, trong bốn cách bố thí, việc xác định tịnh hay bất tịnh còn tùy: Người bố thí tịnh, người nhận tịnh, cả hai cùng tịnh, đó gọi là tịnh. Người bố thí không tịnh, người nhận không tịnh, cả hai không tịnh, đó gọi là không tịnh.

Ở đây, người bố thí có công đức, nên theo người bố thí, thí ấy được gọi là tịnh. Người nhận có công đức, nên theo người nhận, thí ấy được gọi là tịnh. Người bố thí, người nhận đều có công đức, nên theo người bố thí, người nhận, thí ấy được gọi là tịnh.

Người bố thí có tội, nên theo người bố thí, thí ấy gọi là không tịnh. Người nhận có tội, nên theo người nhận, thí ấy gọi là không tịnh. Người bố thí, người nhận đều có tội, nên theo người bố thí, người nhận, thí ấy thì không tịnh.

Người bố thí có công đức, người nhận có công đức. Người bố thí có tội, người nhận có tội: Như trước đã nói.

Hỏi: Trong bốn thứ bố thí này, Bồ-tát hành trì theo thứ nào?

Đáp:

Trong bốn thứ bố thí

Hành hai thứ thí tịnh

Không cầu nơi lợi danh

Cũng không cầu quả báo.

Bố thí này có bốn thứ, ba tịnh, ba không tịnh. Bồ-tát hoàn toàn không hành trì thí không tịnh.

Trong bố thí tịnh, nên hành trì hai loại tịnh:

  1. Người bố thí tịnh, người nhận không tịnh.
  2. Cả hai cùng tịnh.

Hai thứ bố thí tịnh này nên luôn tinh tấn hành trì. Vì sao? Vì Bồ-tát này không cầu mong nơi quả báo. Nếu có cầu mong nơi quả báo tức cầu mong cho người nhận thanh tịnh. Tịnh nghĩa là người bố thí, người nhận có công đức trang nghiêm, tâm họ thanh tịnh. Không tịnh nghĩa là người bố thí tâm có luyến tiếc, keo kiệt. Như Đức Phật nói: “Keo kiệt là cấu uế của bố thí. Các phiền não khác tuy đều là không tịnh, nhưng keo kiệt là hết sức nặng”.

Hỏi: Nếu Bồ-tát đối với người bố thí tịnh, và cả hai cùng tịnh, nên siêng năng hành trì hai thứ bố thí này. Keo kiệt là cấu uế của người bố thí, cũng là cấu uế lớn của bố thí. Nếu Bồ-tát chưa lìa dục, chưa có thể đoạn trừ keo kiệt, làm sao có thể hành trì được hai thứ thí tịnh ấy?

Đáp:

Nếu vật hay khởi xan (keo kiệt)

Tức không chứa vật ấy.

Bồ-tát nếu đối với vật có mạng sống hay không có mạng sống, nếu nhận biết vẫn sinh tâm keo kiệt, thì không cất chứa vật ấy. Do vậy, Bồ-tát hành bố thí đều không có luyến tiếc, keo kiệt.

Hỏi: Vật bên ngoài có thể không chứa cất, nhưng thân mạng mình thì nên thế nào?

Đáp:

Thường vì lợi chúng sinh

Hiểu thân như cây thuốc.

Vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên Bồ-tát tin hiểu thân mạng mình như cây thuốc. Như cây thuốc, tức chúng sinh có bệnh cần thuốc để trị khỏi, hễ cần gốc, cộng, nhánh, lá, hạt, hoa, đều có thể đến lấy nơi cây thuốc ấy, không có ngăn giữ gì cả. Bồ-tát cũng như vậy, vì tạo lợi ích cho chúng sinh, nên có thể tự xả bỏ thân mạng. Suy nghĩ như vầy: Nếu chúng sinh cần đầu, mắt, tay chân, cùng các chi phần nơi thân v.v…, theo chỗ cần dùng, Bồ-tát đều có thể thí cho hết. Nếu cần nguyên thân thể, Bồ-tát cũng thí tất. Do vậy, Bồ-tát luôn hàng phục tâm mình, tu tập căn thiện, đó là phương tiện giúp Bồ-tát thực hành bố thí Ba-la-mật.

***

Phẩm 12: PHÂN BIỆT BỐ THÍ, phần 2

Thí có tướng tổng, biệt

Thảy đều hồi hướng cả.

Bồ-tát này do có thể thực hành hai thứ thí tịnh trên, nên cũng có thể nhận biết hai thứ hồi hướng: Tướng chung (Tổng tướng) và tướng riêng (Biệt tướng).

Hồi hướng theo tướng chung: Là hành bố thí những gì Bồ-tát đều hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Hồi hướng theo tướng riêng: Như trong phần quả báo của bố thí đã nói.

Lại nữa, hồi hướng theo tướng chung: Là vì đem lại an lạc, lợi ích cho hết thảy chúng sinh. Hồi hướng theo tướng riêng: Là nếu có chúng sinh không tin thì giúp họ được tin. Đối với kẻ phá giới giúp họ trì giới. Đối với người ít hiểu biết giúp họ hiểu biết rộng. Nơi người biếng trễ giúp họ tinh tấn. Người tâm tán loạn giúp họ được thiền định. Người ngu si giúp họ có trí tuệ. Người keo kiệt giúp họ có tâm xả bỏ. Đó là các thứ tướng riêng.

Lại nữa, hồi hướng theo tướng chung: Là dùng sáu pháp Ba-lamật hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Hồi hướng theo tướng riêng: Là khi bố thí vật bên ngoài, nguyện cho hết thảy chúng sinh được an lạc bậc nhất. Khi bố thí các chi phần của thân thể, Bồ-tát nguyện cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ thân Phật.

Hỏi: Bố thí có bao nhiêu thứ hồi hướng, bao nhiêu thứ không hồi hướng?

Đáp: Về bố thí tịnh có bốn thứ hồi hướng và có ba thứ không hồi hướng.

Bồ-tát bố thí vì bốn sự thanh tịnh nên hồi hướng.

Ba thứ không hồi hướng là:

  1. Không vì được làm vua mà hồi hướng.
  2. Không vì được dục lạc mà hồi hướng.
  3. Không vì được địa Thanh văn, Phật-bích-chi mà hồi hướng.

Không vì được làm vua mà hồi hướng: Là ngăn chận tâm ý mong làm vua, cũng là ngăn chận uy lực tự tại của những người quyền quý.

Không vì được dục lạc mà hồi hướng: Là ngoài hạng quyền quý trên, những người khác đều thọ hưởng vui giàu nơi năm dục.

Không vì được địa Thanh văn, Phật-bích-chi mà hồi hướng: Là ngăn chận nhân nơi Tiểu thừa nhập Niết-bàn vô dư, khiến an trụ trong Đại thừa, phải rất lâu về sau mới chứng được Niết-bàn vô dư.

Bốn thứ hồi hướng thanh tịnh: Nghĩa là Bồ-tát bố thí:

  1. Vì làm thanh tịnh cõi Phật nên hồi hướng.
  2. Vì làm thanh tịnh Bồ-đề nên hồi hướng.
  3. Vì giáo hóa chúng sinh thanh tịnh nên hồi hướng.
  4. Vì làm thanh tịnh Nhất thiết trí nên hồi hướng.

Bồ-tát nên dùng phương tiện hồi hướng như vậy, tức không khiến bố thí bị tổn giảm mà còn khiến có được uy lực.

Hỏi: Do pháp gì khiến bố thí bị tổn giảm và do pháp gì khiến bố thí được tăng thêm?

Đáp:

Nếu thí không hồi hướng

Cũng không có phương tiện

Cầu sinh nơi xứ kém

Gần gũi tri thức ác

Người bố thí như vậy

Tức là bị tổn giảm.

Nếu bố thí không hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, thuận theo an vui của thế gian nên cầu sinh nơi chốn thấp kém, không có phương tiện để có thể xuất sinh quả báo của bố thí thiền định nên được nơi sinh tự tại. Gần gũi tri thức ác thì gây chướng ngại cho Đại thừa. Do bốn thứ ấy nên bố thí bị tổn giảm.

Lìa bốn, thí được tăng

Lại dùng ba tâm thí

Bồ-tát thuận lời Phật

Cũng không cầu quả báo.

Lìa bốn thứ ấy thì

Bố thí được tăng trưởng:

  1. Hồi hướng về đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
  2. Có phương tiện hồi hướng.
  3. Cầu được xứ Pháp vương.
  4. Gần gũi tri thức thiện.

Lại nữa, nên đem ba pháp tâm để hành bố thí:

  1. Xót thương hết thảy chúng sinh, nên đem tâm Bồ-đề hành bố thí.
  2. Không xa lìa pháp Phật mà hành bố thí.
  3. Không cầu quả báo mà hành bố thí.

Lại nữa:

Vì đạt được ba pháp

Mà hành trì bố thí

Vì muốn cầu hai pháp

Nên phải hành bố thí.

Bồ-tát vì đạt được

Ba pháp nên hành bố thí:

  1. Pháp Phật.
  2. Thuyết pháp.
  3. Khiến chúng sinh trụ nơi an lạc vô thượng.

Lại nữa, vì muốn cầu hai pháp nên hành bố thí:

  1. Giàu có lớn.
  2. Đầy đủ bố thí Ba-la-mật.

Vì sao? Vì nếu Bồ-tát giàu có lớn thì lìa nghèo khổ, không nhận của cải người khác, không mong cầu lợi tức, không có chủ nợ, không lo việc trả nợ. Có nhiều của cải thì có thể tự lo cơm áo, có thể hành bố thí, đem lợi ích cho thân tộc và tri thức thiện, khiến bà con được an vui, gia đình sung túc, thường tham dự lễ hội với tâm hân hoan, bố thí rộng khắp, quyến thuộc không xem thường, mọi người đều kính mộ, lời nói được người tin, là chốn nhờ cậy của nhiều người, được thầy bạn quý mến, vào nơi đông người không lo sợ, luôn được tắm gội, xoa hương thơm, mặc y phục mới đẹp, đầy đủ nghiêm trang, luôn được trông thấy các thứ sắc đẹp, được nghe các âm thanh hay, ngửi mùi thơm vi diệu, ăn các món ngon thượng hạng, tiếp xúc với các thứ mềm mại. Kẻ oán thù khó phá hoại, tri thức thiện hoan hỷ, ấy là thân người được quả báo thiện. Nhiều người mến mộ, luôn khen tặng tốt đẹp. Quên dáng hình xấu xí của mình. Tuy sinh nơi thấp kém mà có tướng Đại nhân. Tuy lời nói vụng về vẫn trở nên hay khéo. Dù học ít cũng trở thành hiểu biết rộng. Trí tuệ kém trở thành có trí tuệ.

Nếu trước đã đoan nghiêm bây giờ gấp bội, thù thắng. Nếu trước đã nổi tiếng bây giờ được tôn quý hơn. Nếu trước kia ăn nói khéo, nay lại khéo hơn. Nếu trước kia học rộng, nay lại hơn. Nếu trước kia có trí tuệ, nay lại hơn nữa. Có thể ngồi nằm trên giường quý báu, sang trọng, ngủ nghỉ an ổn, đủ kẻ hầu hạ, bảo vệ. Dùng các vật báu làm nhà, tùy ý du ngoạn đó đây thỏa thích, thân sắc được quý trọng. Cần kinh sách vừa ý là có ngay. Do uy lực, địa vị, tùy ý thân cận với vua. Được các quý nhân nhớ nghĩ. Các danh y tự đến thăm viếng. Luôn có người thân tín, tin tức đúng lúc. Nếu có bệnh đều là nhẹ, chóng khỏi.

Đời này, đời sau đều xa lìa sợ hãi. Hoàn toàn lìa bỏ nỗi lo sợ không thể sống nổi luôn có người cứu giúp. Đa số những người thân cận đều cho mình có nhiều phước. Được nhiều người đồng ý, tự thấy hân hoan sâu xa. Chỉ thi ân một chút ít mà được đền đáp quá nhiều. Nếu gia thêm một ác nhỏ tức thành tai họa lớn. Tộc họ người nữ danh giá, trẻ tuổi, đoan chánh, trang nghiêm gồm đủ. Muốn kẻ hầu hạ theo ý đều được hài lòng, các thứ lợi ích đều đến với mình. Nếu có tạo việc ác thì việc ấy liền thành nhẹ, nhỏ.

Chỉ bố thí ít mà đạt được lợi to. Ngày một thêm nhiều tri thức thiện, kẻ oán ghét ngày càng ít. Rắn rít, độc dược, kẻ phóng dật, hung dữ, những sự việc ấy không giả dạng để đến gần được. Các sự việc yêu kính thảy đều quy hướng. Khi đạt được lợi ích thì muôn người vui mừng thay. Nếu có suy sụp lo sầu thì mọi người đều buồn bã chia sẻ. Nhiều người cùng chỉ dẫn, tranh nhau cho là thiện tốt. Khiến lìa phi pháp, an trụ nơi pháp thiện. Hành nghiệp bố thí lớn, nhiều người trông thấy đều hân hoan. Nếu cùng đồng tâm tức cho là đủ, không còn mong cầu giàu sang lợi lộc gì ở thế gian nữa.

Giả sử ở phần vị con người, cần phải nghĩ giúp để trừ các thứ suy não. Thấy người khác giàu sang không mong cầu như thế. Con người hay ca tụng, khen ngợi phần đức, chứ ít ai tự nêu lỗi của mình.

Lìa bỏ tiểu nhân được gọi là Đại nhân, hình sắc được đầy đủ. Khi nhìn dung mạo người khác, không nên tạo dáng vẻ khác lạ. Nếu làm Bà-la-môn ở trong đền thờ trời, thì được nhiều lợi lộc lớn. Đọc kinh sách được nhiều lợi ích thật sự. Được những gì rồi có thể bố thí.

Nếu là dòng Sát-đế-lợi thì hành tập thành tựu khéo bắn cung, chọn âm thanh, khéo có thể luyện tập thành quen. Cai trị đời theo điển tịch, thì được quả báo không nhỏ. Nếu làm nhà nông thì gieo trồng đều thuận lợi. Nếu làm khách buôn thì lời nhiều. Nếu làm Thủ-đà-la thì sự nghiệp tạo ra đều như ý.

Hỏi: Trước đây, ông nói: Bồ-tát bố thí tâm không cầu báo, lại không vì cầu giàu sang mà bố thí. Nay ông lại nói cầu giàu có lớn để bố thí. Lời nói như thế có trái nhau chăng?

Đáp: Không trái nhau. Nếu tự vì thân cầu giàu có để tự thọ hưởng an vui thì tôi nói không nên mong cầu giàu sang. Nay nói mong cầu giàu sang chỉ là vì tạo lợi ích cho chúng sinh. Thế nên, tôi nói muốn bố thí rộng lớn nên mong cầu giàu sang, chứ không phải do tự thân mà mong giàu sang thọ lạc. Đó là nói nhân trong quả. Nếu Bồ-tát không được giàu sang, thì tuy có lòng tin, ưa thích bố thí, Bồtát cũng không lấy của cải đâu để ban cho mọi người. Do vậy, ông không nên nêu vấn nạn.

Lại nữa, do đoạn trừ hai pháp nên Bồ-tát hành trì bố thí. Những gì là hai pháp? 1. Keo kiệt. 2. Tham lam. Hai pháp này là cấu uế lớn của hành bố thí.

Lại nữa, do được hai pháp nên hành bố thí:

  1. Tận trí.
  2. Vô sinh trí.

Lại nữa, còn làm tăng thêm ba thứ tuệ:

  1. Trí tuệ tự lợi.
  2. Trí tuệ căn bản.
  3. Trí tuệ đa văn.

Có người nói: Vì tăng trưởng hai pháp nên Bồ-tát hành trì bố thí: Một là thiện. Hai là tuệ.

Nói tóm lại, Bồ-tát nên thực hành bốn thứ bố thí, gồm thâu hết thảy pháp thiện:

  1. Bố thí với tâm bình đẳng.
  2. Bố thí không đối nhau.
  3. Bố thí hồi hướng về Bồ-đề.
  4. Bố thí đầy đủ với tâm hoàn toàn vắng lặng.

Do đầy đủ bố thí Ba-la-mật như thế, nên Bồ-tát siêng năng hành trì tài thí.

HẾT – QUYỂN 6