LUẬN ĐẠI THỪA A TỲ ĐẠT MA TẬP

SỐ 1605

Tác giả: Bồ tát Vô Trước.
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 6

PHẨM 6: PHÁP TRONG PHẦN QUYẾT TRẠCH

Thế nào là pháp quyết trạch? Pháp là mười hai phần thánh giáo, mười hai phần là:

  1. Khế kinh.
  2. Ứng tụng.
  3. Ký biệt.
  4. Phúng tụng.
  5. Tự thuyết.
  6. Duyên khởi.
  7. Thí dụ.
  8. Bổn sự.
  9. Bản sanh.
  10. Phương quảng.
  11. Hy pháp.
  12. Luận nghị.

Thế nào là Khế kinh? Là dùng văn xuôi sắp xếp để nói lược những nghĩa phải nói. Như lai quán sát mười thứ thắng lợi, văn xuôi lược nêu các pháp, là dễ có thể kiến lập, dễ có thể giảng nói, dễ có thể thọ trì, vì cung kính pháp, tư lương Bồ-đề mau chóng được tròn đầy, mau chóng có thể thông đạt thật tánh các pháp, đối với những gì chư Phật đã chứng, phát tịnh tín, đối với chỗ chứng đắc tịnh tín của pháp tăng, tiếp xúc thì chứng hiện pháp lạc trụ bậc nhất, bàn luận quyết định lựa chọn thích hợp trí là tâm, đạt được thông tỏ, tinh túy sáng suốt là tâm sở.

Thế nào là Ứng tụng? Tức là trong các kinh, ở giữa kinh hoặc sau kinh dùng tụng để lặp lại. Lại nữa, kinh bất liễu nghĩa còn dùng tụng để giải thích, nên gọi là ứng tụng.

Thế nào là Ký biệt? Là trong kinh đó các thánh đệ tử ghi lại trong quá khứ các chỗ sinh khác nhau được mất. Lại nữa, kinh liễu nghĩa nói về ký biệt, là ký biệt khai thị các ý sâu kín.

Thế nào là Phúng tụng? Là trong các kinh dùng câu ngắn để giảng nói, hoặc dùng hai câu, hoặc ba câu, hoặc bốn, hoặc năm hoặc sáu.

Thế nào là Tự thuyết? Là trong các kinh, hoặc Như Lai có khi vui vẻ tự nói.

Thế nào là Duyên khởi? Là do thưa thỉnh mà nói. Lại có nhân duyên chế lập học xứ mà nói, cũng gọi là duyên khởi.

Thế nào là Thí dụ? Là trong các kinh có khi nói về các trường hợp so sánh.

Thế nào là Bổn sự? Là trong các kinh nói các sự tương ưng nơi đời trước của các thánh đệ tử.

Thế nào là Bản sanh? Là trong các kinh tuyên với các sự tương ưng của tạng Bồ-tát bổn hạnh.

Thế nào là Phương quảng? Là trong các kinh ngôn thuyết tương ưng của tạng Bồ-tát. Như gọi là phương quảng, tức cũng gọi là quảng phá, cũng gọi là vô tỷ.

Vì sao gọi là Phương quảng? Là vì chỗ nương dựa đem lại lợi ích an vui cho tất cả hữu tình, mà nêu pháp rộng lớn sâu xa. Vì sao gọi là Quảng phá? Vì có thể rộng phá tất cả chướng. Vì sao gọi là vô tỷ? Vì không có pháp nào sánh bằng.

Thế nào là Hy pháp? Hoặc trong kinh đó tuyên nói Thanh văn, các đại Bồ-tát và Như lai là hy pháp ít có, là pháp rất kỳ đặc.

Thế nào là luận nghị? Hoặc trong kinh đó không điên đảo giải thích tất cả tướng pháp sâu xa.

Mười hai phần thánh giáo như khế kinh v.v… như vậy là thuộc về ba tạng.

– Ba tạng là:

  1. Tạng Tô-đát-lãm.
  2. Tạng Tỳ-nại-da.
  3. Tạng A-tỳ-đạt-ma.

– Tạng nầy lại có hai thứ:

  1. Tạng Thanh văn.
  2. Tạng Bồ-tát.

Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, năm loại nầy trong tạng Thanh văn, thuộc về tạng Tô-đát-lãm.

Duyên khởi, Thí dụ, Bổn sự, Bản sanh, bốn loại nầy thì trong hai tạng, thuộc về tạng Tỳ-nại-da và quyến thuộc.

Phương quảng và Hy pháp, hai loại nầy trong tạng Bồ-tát, thuộc về tạng Tô-đát-lãm.

Luận nghị, một loại nầy trong tạng Thanh văn và tạng Bồ-tát, thuộc về tạng A-tỳ-đạt-ma.

Vì sao Như Lai lập ra ba tạng? Vì muốn đối trị tùy phiền não nghi, nên lập ra tạng Tô-đát-lãm. Vì muốn đối trị tùy phiền não thọ dụng hai bên nên lập ra tạng Tỳ-nại-da. Vì muốn đối trị tùy phiền não tự kiến thủ chấp nên lập ra tạng A-tỳ-đạt-ma.

Lại nữa, vì muốn khai thị ba thứ học nên lập ra tạng Tô-đát-lãm. Vì muốn thành lập giới học tăng thượng, tâm học tăng thượng nên lập ra tạng Tỳ-nại-da. Vì muốn lập ra tuệ học tăng thượng nên lập ra A-tỳđạt-ma tạng.

Lại nữa, vì muốn khai thị nghĩa của chánh pháp nên lập ra tạng Tô-đát-lãm. Vì hiển bày pháp nghĩa để tác chứng xứ an túc nên lập ra tạng Tỳ-nại-da. Vì khiến cho luận nghị của bậc trí được quyết đoán, trụ trong thọ dụng pháp lạc nên lập ra tạng A-tỳ-đạt-ma.

Như vậy sự thâu nhiếp các pháp của ba tạng là sở hành của ai? Là hành của pháp tâm, tâm sở do văn, tư, tu tạo thành. Như khế kinh nói: “Các tâm, pháp tâm sở có sở duyên, có hành tướng, có chỗ nương và tương ưng”. Các pháp kia đối với pháp nầy sở duyên là gì? Là khế kinh… Tạo hành tướng gì? Là nghĩa tương ưng với uẩn… Làm chỗ nương cho gì? Vì kẻ khác biểu hiện sự nhớ rõ về tập khí.

Thế nào là tương ưng? Là giúp đỡ lẫn nhau, đối với hành tướng sở duyên bình đẳng hiểu rõ.

Thế nào là đối với pháp sở duyên sai khác ?

– Nếu nói lược thì có bốn thứ:

  1. Biến mãn sở duyên.
  2. Tịnh hạnh sở duyên duyên.
  3. Thiện xảo sở duyên duyên.
  4. Tịnh hoặc sở duyên duyên.

– Biến mãn sở duyên duyên có bốn thứ:

  1. Hữu phân biệt ảnh tượng sở duyên duyên.
  2. Vô phân biệt ảnh tượng sở duyên duyên.
  3. Sự biên tế sở duyên duyên.
  4. Sở tác thành tựu sở duyên duyên.

Có phân biệt ảnh tượng sở duyên duyên, là do tác ý thắng giải, là tất cả cảnh giới sở duyên duyên của Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na.

Không phân biệt ảnh tượng sở duyên duyên, là do tác ý chân thật, là tất cả cảnh giới sở duyên của Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na.

Sự biên tế sở duyên, là tánh tận tất cả tánh, như tất cả tánh. Tánh tận tất cả là uẩn, giới, xứ, như tất cả tánh là bốn Thánh đế mười sáu hành tướng. Chân như tất cả hành Vô thường, tất cả Khổ hành, tất cả pháp Vô ngã, Niết-bàn vắng lặng không, Vô nguyện, Vô tướng.

Sở tác thành tựu sở duyên, là chuyển y, như vậy chuyển y là không thể nghĩ bàn. Trong mười sáu hành tướng. Không thâu nhiếp bao nhiêu hành tướng? Thâu nhiếp hai hành tướng. Vô nguyện thâu nhiếp bao nhiêu hành tướng? Thâu nhiếp sáu hành tướng. Vô tướng thâu nhiếp bao nhiêu hành tướng? Thâu nhiếp tám hành tướng.

– Tịnh hạnh sở duyên lại có năm thứ:

  1. Đa tham hạnh, là duyên cảnh bất tịnh.
  2. Đa sân hạnh, là duyên cảnh tu từ.
  3. Đa si hạnh, là duyên các cảnh duyên khởi của chúng duyên tánh.
  4. Kiêu mạn hạnh, là duyên giới cảnh sai khác.
  5. Tầm tư hạnh, là duyên cảnh niệm hơi thở ra vào.

– Thiện xảo sở duyên cũng có năm thứ:

  1. Uẩn thiện xảo.
  2. Giới thiện xảo.
  3. Xứ thiện xảo.
  4. Duyên khởi thiện xảo.
  5. Xứ phi xứ thiện xảo.

Xứ phi xứ thiện xảo phải làm thế nào để quán? Phải như duyên khởi thiện xảo mà dùng lấy các pháp nhuần thấm các pháp khiến lìa vô nhân nhân bất, bình đẳng sinh ra, thì nhân quả của duyên khởi thiện xảo là tương xứng, vì nhiếp thọ sinh là xứ phi xứ thiện xảo.

Tịnh hoặc sở duyên, là tánh thô của địa cõi dưới và tánh tịnh của địa cõi trên. Chân như và bốn Thánh đế gọi là tịnh hoặc sở duyên.

Nếu muốn đối với pháp siêng năng quán sát kỹ, thì do bao nhiêu đạo lý mới có thể quán sát đúng? Do bốn Đạo lý:

  1. Đạo lý quán đãi.
  2. Đạo lý tác dụng.
  3. Đạo lý chứng thành.
  4. Đạo lý pháp nhĩ.

Thế nào là đạo lý quán đãi? Là khi các hạnh sinh khởi thì phải đợi nhiều duyên.

Thế nào là đạo lý tác dụng? Là các pháp dị tướng mỗi pháp đều có tác dụng riêng.

Thế nào là đạo lý chứng thành? Là chứng thành nghĩa đáng thành, nói các lượng không trái với ngữ.

Thế nào là đạo lý pháp nhĩ? Là từ vô thỉ đến nay, thường ở trong pháp sở trụ của tự tướng và cộng tướng, nên tất cả thành tựu pháp tánh pháp nhĩ.

Chánh cần quán sát trong các pháp, làm sao đối với pháp khởi tầm tư ?

– Là khởi bốn thứ tầm tư:

  1. Danh tầm tư.
  2. Sự tầm tư.
  3. Tự thể giả lập tầm tư.
  4. Sai khác giả lập tầm tư.

Thế nào là danh tầm tư? Là suy tìm tự tướng danh thân cú thân văn thân của các pháp đều không thành thật.

Thế nào là sự tầm tư? Là suy tìm các tướng uẩn giới xứ của các pháp không thành thật.

Thế nào là tự thể giả lập tầm tư? Là suy tìm tự thể trong năng thuyên, sở thuyên tương ưng của các pháp, chỉ là giả lập tánh nhân của danh ngôn. Thế nào là sai khác giả lập tầm tư? Là suy tìm sai khác trong năng thuyên và sở thuyên tương ưng của các pháp, chỉ là giả lập nhân tánh của danh ngôn.

Đối với pháp chánh cần đã tu tầm tư rồi, thế nào là đối với pháp khởi trí như thật?

– Là khởi bốn thứ trí như thật:

  1. Danh tầm tư sở dẫn trí như thật.
  2. Sự tầm tư sở dẫn trí như thật.
  3. Tự thể giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật.
  4. Sai khác giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật.

Thế nào là danh tầm tư sở dẫn trí như thật? Là trí biết như thật về danh không thật có. Thế nào là sự tầm tư sở dẫn trí như thật? Là trí biết như thật sự tướng cũng không thể thủ đắc. Thế nào là tự thể giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật trí? Là trí như thật biết thật có tự tánh là không thật có. Thế nào là sai khác giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật? Là trí như thật biết thật có sai khác không thật có. Người nương vào pháp siêng tu Tam-ma-địa, thì du-già địa làm sao biết được?

– Có năm thứ:

  1. Trì.
  2. Tác.
  3. Kinh (gương).
  4. Minh.
  5. Y.

Thế nào là trì? Là đã chứa nhóm tư lương Bồ-đề, đối với các vị như Noãn tất cả đa văn nơi các Thánh đế. Thế nào là tác? Là duyên cảnh nầy mà tác ý như lý. Thế nào là cảnh (gương)? Là duyên nơi cảnh của Tam-ma-địa hữu tướng. Thế nào là minh? Là trí vô sở đắc của năng thủ sở thủ. Nương vào đạo lý nầy, đức Phật Bạc-già-phạm khéo nói:

Bồ-tát ở vị định,
Quán ảnh chỉ là tâm,
Nghĩa tưởng đã dứt trừ,
Quán kỹ chỉ tự tưởng.
Như vậy trụ nội tâm,
Biết sở thủ chẳng có,
Kế, năng thủ cũng không,
Sau, xúc vô sở đắc.

Thế nào là dựa vào? Là chuyển y, lìa bỏ các thô nặng mà đắc chuyển y thanh tịnh. Trong các pháp, thế nào là pháp thiện xảo? Là học rộng. Thế nào là nghĩa thiện xảo? Là trong A-tỳ-đạt-ma, Tỳ-nại-da khéo biết tướng của nó.

Thế nào là văn (văn tự) thiện xảo? Là khéo biết các văn từ giải thích chỉ dạy. Thế nào là từ (ngôn từ) thiện xảo ? Là có thể khéo biết về ngã, ngã sở v.v… đối với ngôn từ của thế tục không chấp trước, vì thuận theo mà nói. Thế nào là mật ý thiện xảo ở đời trước và đời sau? Là có thể khéo biết đối với đời trước thì lãnh thọ, đối với đời sau thì xuất ly.

Đối với các pháp, thế nào là trụ pháp ? Nếu không đắc tu tuệ, chỉ có phương tiện cần (tinh tiến) tu tập văn, tư thì không gọi là trụ pháp. Nếu không đắc văn, tư mà chỉ có phương tiện cần tu tập tu tuệ, cũng không gọi là trụ pháp. Nếu đồng thời đạt được hai thứ phương tiện và an trụ mới gọi là trụ pháp. Nếu chỉ đối với pháp thọ trì đọc tụng, giảng nói cho người khác nghe, tư duy về nghĩa, thì đó là văn tư. Nếu tu Tamma-địa phương tiện, thấy không đủ, thì gọi đó là tu tuệ. Tam-ma-địa phương tiện: Là phương tiện vô gián ân trọng và phương tiện vô đảo. Không biết đủ, là không sinh nhiễm chấp vị khi tu Xa-ma-tha phương tiện ở cõi trên.

Vì sao chỉ có một phần Phương quảng được gọi là tạng Bồ-tát Ba-la-mật-đa? Vì trong phần nầy nói rộng tất cả số, tướng, thứ lớp, giải thích từ, tu tập sai khác, thâu nhiếp, đối trị, công đức, quyết đoán lẫn nhau của Ba-la-mật-đa.

Vì sao phần phương quảng gọi là rộng lớn sâu xa? Là do tánh của nhất thiết chủng trí rộng lớn sâu xa.

Vì sao một phần chúng sinh đối với rộng lớn sâu xa của phần phương quảng không sinh thắng giải, lại có tâm kinh sợ? Vì xa lìa pháp tánh, chưa gieo trồng gốc lành, bạn ác dẫn dắt.

Vì sao một phần chúng sinh đối với rộng lớn sâu xa của phần phương quảng tuy sinh thắng giải nhưng không xuất ly? Vì do an trụ sâu trong tự kiến thủ, thường chấp chặt nghĩa như ngôn từ. Nương vào mật ý nầy mà đức Bạc-già-phạm trong kinh Đại Pháp nói những lời như vầy: “Nếu các Bồ-tát chỉ y theo ngôn từ mà lấy nghĩa, không bằng chánh lý để tư duy, chọn lựa pháp, liền sinh hai mươi tám thứ không chánh kiến”.

Hai mươi tám thứ không chánh kiến là:

  1. Kiến tướng.
  2. Kiến tổn giảm thi thiết.
  3. Kiến tổn giảm phân biệt.
  4. Kiến tổn giảm chân thật.
  5. Kiến nhiếp thọ.
  6. Kiến chuyển biến.
  7. Kiến vô tội.
  8. Kiến xuất ly.
  9. Kiến khinh hủy.
  10. Kiến phẫn phát.
  11. Kiến điên đảo
  12. Kiến xuất sinh.
  13. Kiến bất lập tông.
  14. Kiến kiểu loạn.
  15. Kiến kính sư.
  16. Kiến vững chắc ngu si.
  17. Kiến căn bản.
  18. Kiến thấy nôi không thấy.
  19. Kiến xả phương tiện.
  20. Kiến bất xuất ly.
  21. Kiến chướng tăng ích.
  22. Kiến sinh phi phước.
  23. Kiến vô công quả.
  24. Kiến thọ nhục.
  25. Kiến phỉ báng.
  26. Kiến bất khả dữ ngôn.
  27. Kiến rộng lớn.
  28. Kiến tăng thượng mạn.

Như phần Phương Quảng nói: “Tất cả các pháp đều không có tự tánh. Nương vào mật ý gì mà nói ? Là tánh không tự nhiên, tánh không tự thể, tự thể vô trụ, vô như ngu phu sở thủ tướng tánh. Lại nữa, đối với tự tánh Biến kế sở chấp thì do tướng vô tánh, đối với tự tánh Y tha khởi thì do sinh vô tánh, đối với tự tánh Viên thành thật thì do thắng nghĩa vô tánh.

Lại nữa, phần phương quảng nói: “Tất cả các pháp vô sinh vô diệt, xưa nay vắng lặng tự tánh Niết-bàn”. Nương vào mật ý gì mà nói? Như không tự tánh, không sinh cũng vậy. Như vô sinh, không diệt cũng vậy. Như vô sinh không diệt, xưa nay vắng lặng cũng vậy. Như xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn cũng vậy.

Lại nữa, có bốn thứ ý thú, do ý thú nầy nên tất cả ý thú trong phần phương quảng chư Như lai phải thuận theo để quyết định rõ. Thế nào là bốn ý thú:

  1. Bình đẳng ý thú.
  2. Biệt thời ý thú.
  3. Biệt nghĩa ý thú.
  4. Bổ-đặc-già-la ý lạc ý thú.

Lại nữa, có bốn thứ bí mật, do bí mật nầy nên tất cả bí mật trong phần Phương quảng các Đức Như lai phải thuận theo để quyết định rõ bốn thứ bí mật:

  1. Khiến nhập bí mật.
  2. Tướng bí mật.
  3. Đối trị bí mật.
  4. Chuyển biến bí mật.

Lại nữa, trong phần Phương quảng, đối với pháp Tam-ma-địa thiện xảo Bồ-tát tướng, làm sao biết được? Là do năm thứ nhân:

  1. Sát-na sát-na tiêu trừ tất cả chỗ nương thô nặng.
  2. Xuất ly các thứ tưởng đạt được pháp lạc ưa thích.
  3. Biết rõ vô lượng tướng vô phân biệt.
  4. Thuận theo phần thanh tịnh nơi tướng vô phân biệt thường hiện ở trước.
  5. Có thể nhiếp thọ nhân chuyển thượng chuyển thắng thành tựu viên mãn, nhận pháp thân Phật .

Tạng pháp Thanh văn và tạng pháp Bồ-tát là chỗ lưu xuất từ pháp thân Như lai, vì sao dùng hương, hoa, tràng hoa… cung kính cúng dường tạng pháp Bồ-tát? Vì sinh khởi vô biên nhóm phước rộng lớn không phải là tạng pháp Thanh văn. Vì tạng pháp Bồ-tát là nơi nương tựa của mọi lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh, là có thể kiến lập đại nghĩa, là chốn sinh của vô lượng đại công đức nhóm vô thượng.

 

 

PHẨM 7: ĐẮC TRONG PHẦN QUYẾT TRẠCH (Phần 1)

 

– Thế nào là đắc quyết trạch?

– Nói lược có hai thứ:

  1. Kiến lập Bổ-đặc-già-la.
  2. Kiến lập hiện quán.

– Thế nào là kiến lập Bổ-đặc-già-la?

– Có Lược bảy thứ:

  1. Bịnh hành sai khác.
  2. Xuất ly sai khác.
  3. Nhậm trì sai khác.
  4. Phương tiện sai khác.
  5. Quả sai khác.
  6. Giới sai khác.
  7. Tu hành sai khác.

Phải biết kiến lập Bổ-đặc-già-la.

– Thế nào là bịnh hành sai khác?

– Có bảy thứ:

  1. Hành tham.
  2. Hành sân.
  3. Hành si.
  4. Hành mạn.
  5. Hành tầm tư.
  6. Hành cùng phân biệt.
  7. Hành bạc trần, Bổ-đặc-già-la sai khác.

– Thế nào là xuất ly sai khác ?

– Có ba thứ:

  1. Thanh văn thừa.
  2. Độc giác thừa.
  3. Đại thừa.

Là Bổ-đặc-già-la sai khác.

– Thế nào là nhậm trì sai khác?

– Có ba thứ:

  1. Tư lương chưa đủ.
  2. Vị tư lương đã đủ chưa đủ.
  3. Đã đủ tư lương, Bổ-đặc-già-la sai khác.

– Thế nào là phương tiện sai khác?

Có hai thứ:

  1. Tùy tín hành.
  2. Tùy pháp hành, Bổ-đặc-già-la sai khác.

– Thế nào là quả sai khác?

– Có hai mươi thứ:

  1. Tín thắng giải.
  2. Kiến chí.
  3. Thân chứng.
  4. Tuệ giải thoát.
  5. Câu phần giải thoát.
  6. Hướng dự lưu.
  7. Quả dự lưu.
  8. Hướng nhất lai.
  9. Quả nhất lai.
  10. Hướng bất hoàn.
  11. Quả bất hoàn.
  12. Hướng A-la-hán.
  13. Quả A-la-hán.
  14. Nhiều nhất là bảy lần sanh trở lại.
  15. Gia gia.
  16. Nhất gián.
  17. Trung nhập Niết-bàn.
  18. Sinh nhập Niết-bàn.
  19. Vô hành nhập Niết-bàn.
  20. Hữu hành nhập Niết-bàn.
  21. Thượng lưu.
  22. Thoái pháp A-la-hán.
  23. Tư pháp A-la-hán.
  24. Hộ pháp A-la-hán.
  25. Trụ bất động A-la-hán.
  26. Kham đạt A-la-hán.
  27. Bất động pháp A-la-hán, Bổ-đặc-già-la sai khác.

– Thế nào là giới sai khác?

– Là cõi Dục có ba thứ:

  1. Dị sinh.
  2. Hữu học.
  3. Vô học.

Như cõi Dục có ba thứ cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng vậy. Lại có Bồ tát nơi cõi Dục và cõi Sắc, lại có Độc giác ở cõi Dục và Như Lai không thể nghĩ bàn, Bổ-đặc-già-la sai khác.

Thế nào là tu hành sai khác? Lược có năm thứ:

  1. Thắng giải hạnh Bồ-tát.
  2. Tăng thượng ý lạc hạnh Bồ-tát.
  3. Hữu tướng hạnh Bồ-tát.
  4. Vô tướng hạnh Bồ-tát.
  5. Vô công dụng hạnh Bồ-tát, Bổ-đặc-già-la sai khác.

Thế nào là hành tham Bổ-đặc-già-la? Là có mạnh mẽ trong thời gian dài tham dục. Như vậy hành sân, hành si, hành mạn và hành tầm tư nơi Bổ-đặc-già-la đều có mạnh mẽ trong thời gian dài sai khác.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la hành đẳng phần? Là phiền não trụ nơi vị tự tánh. Thế nào là hành bạc trần nơi Bổ-đặc-già-la? Là phiền não mỏng nhẹ trụ nơi vị tự tánh.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Thanh văn thừa? Là trụ nơi pháp tánh Thanh văn, hoặc tánh định hoặc tánh bất định, là độn căn, tự cầu giải thoát, phát chánh nguyện rộng, tu chán lìa tham, ý vui thích giải thoát, dùng tạng Thanh văn làm cảnh của đối tượng duyên, tinh tiến tu hành pháp tùy, pháp hành, đắc tận bờ mé của khổ.

Thế nào là Độc giác thừa Bổ-đặc-già-la? Là trụ trong pháp tánh Độc giác, hoặc tánh định hoặc tánh bất định, là trung căn, tự cầu giải thoát, phát chánh nguyện rộng, tu chán lìa tham, ý lạc giải thoát, và tu độc chứng ý lạc Bồ-đề, dùng tạng Thanh văn làm cảnh của đối tượng duyên, tinh tiến tu hành pháp tùy, pháp hành, hoặc trước chưa khởi thuận phần quyết trạch, hoặc trước đã khởi thuận phần quyết trạch, hoặc trước kia chưa đắc quả, hoặc trước kia đã đắc quả, không gặp Phật ra đời, chỉ có bên trong tư duy Thánh đạo hiện tiền, hoặc độc trụ như lân giác, hoặc lại riêng bộ hành thù thắng đắc tận bờ mé khổ.

Thế nào là Đại thừa Bổ-đặc-già-la? Là trụ pháp tánh Bồ-tát, hoặc tánh định, hoặc tánh bất định, là lợi căn, vì cầu giải thoát cho tất cả hữu tình, phát chánh nguyện rộng lớn. Tu Niết-bàn vô trụ xứ ý lạc, dùng tạng Bồ-tát làm cảnh của đối tượng duyên, tinh tiến tu hành pháp tùy, pháp hành, thành thục chúng sinh, tu tịnh cõi Phật, được thọ đại ký chứng thành chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la tư lương chưa đủ? Là duyên pháp tăng thượng của đế làm cảnh, phát khởi nhuyễn phẩm thắng giải thanh tín, thành tựu nhuyễn phẩm thuận phần giải thoát khi chưa sinh định.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la tư lương đã đủ, chưa đủ? Là duyên pháp tăng thượng của đế làm cảnh, phát khởi trung phẩm thắng giải thanh tín, thành tựu trung phẩm thuận phần giải thoát khi đã sinh định.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la tư lương đã đủ? Là duyên theo pháp tăng thượng của đế làm cảnh, phát khởi thượng phẩm thắng giải thanh tín, thành tựu thượng phẩm thuận phần giải thoát sinh ngay lúc nầy.

Lại nữa, tư lương chưa đủ, là duyên theo pháp tăng thượng của đế làm cảnh, trong các đế, thành tựu đế hạ phẩm xét kỹ pháp nhẫn, thành tựu hạ phẩm theo thuận phần quyết trạch khi chưa sinh định. Tư lương đã đủ chưa đủ, là duyên theo pháp tăng thượng của đế làm cảnh, trong các đế, thành tựu đế trung phẩm xét kỹ pháp nhẫn, thành tựu trung phẩm theo thuận phần quyết trạch khi đã sinh định. Tư lương đã đủ, là duyên theo pháp tăng thượng của đế làm cảnh, trong các đế, thành tựu đế thượng phẩm xét kỹ pháp nhẫn, thành tựu thượng phẩm theo thuận phần quyết trạch sinh ngay lúc nầy.

Trong đây, ba phẩm thuận phần quyết trạch, là trừ pháp thế đệ nhất, do tánh của pháp thế đệ nhất nầy chỉ có một sát-na thì không nối nhau, ngay lúc sinh ấy quyết định nhập hiện quán chẳng phải nơi vị trước. Từ hạ phẩm trung phẩm thuận phần giải thoát, thuận phần quyết trạch, có nghĩa thoái lui, đây là chỉ thoái lui về hiện hành, không phải thoái lui tập khí. Đã nương vào Niết-bàn thì trước khởi gốc lành, vì không phát khởi mới nữa.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la tùy tín hành? Là tư lương đã đủ tánh là độn căn, thuận theo sự chỉ dạy của người khác tu hiện quán đế .

Thế nào là Bổ-đặc-già-la tùy pháp hành? Là tư lương đã đủ tánh là lợi căn, tự nhiên thuận theo nơi pháp tăng thượng của đế tu hiện quán đế.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la tín thắng giải? Là Tùy tín hành đã đạt đến quả vị.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la kiến chí? Là tùy pháp hạnh đã đạt đến quả vị.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la thân chứng? Là các bậc Hữu học đã chứng đầy đủ tám định giải thoát.

Thế nào là tuệ Bổ-đặc-già-la giải thoát? Là đã dứt hết các lậu, nhưng chưa chứng đủ tám định giải thoát.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la cùng câu phần giải thoát? Là đã dứt hết các lậu và chứng đắc đầy đủ tám định giải thoát.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la hướng dự lưu? Là trụ thuận phần quyết trạch và trụ nơi vị mười lăm tâm sát-na của kiến đạo.

Thế nào là quả Dự lưu Bổ-đặc-già-la? Là trụ ở vị tâm sát-na thứ mười sáu của kiến đạo. Ngay ở kiến đạo nầy cũng gọi là hướng nhập chánh tánh quyết định, cũng gọi là pháp hiện quán. Nếu người đối với cõi Dục chưa lìa dục, sau khi nhập vị chánh tánh quyết định thì đắc quả Dự lưu. Nếu người đối với cõi Dục đã lìa dục, sau khi nhập vị chánh tánh quyết định thì đắc quả nhất lai. Nếu người đã lìa dục cõi Dục, khi nhập vị chánh tánh quyết định thì đắc quả bất hoàn. Nếu đã lìa hẳn tất cả phiền não kiến đạo dứt trừ đắc quả Dự lưu, tại sao chỉ nói dứt hẳn ba kiết đắc quả Dự lưu? Vì thuộc về phần tối thắng. Do đâu là tối thắng? Là do đối với giải thoát là nhân của hành không phát khởi hướng tới, tuy đã phát khởi hướng tới nhưng lại làm nhân của xuất ly tà, và làm nhân của xuất ly bất chánh. Lại nữa, ba kiết nầy là nhân mê lầm đối với cảnh sở tri, vì mê nhân kiến, mê lầm nhân đối trị.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la hướng Nhất lai? Là trong tu đạo đã dứt năm phẩm phiền não của cõi Dục, an trụ nơi đạo.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la quả Nhất lai? Là trong tu đạo đã dứt phẩm phiền não thứ sáu của cõi Dục, an trụ nơi đạo.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la hướng Bất hoàn? Là trong tu đạo đã dứt phẩm phiền não thứ bảy, thứ tám của cõi Dục, an trụ trong đạo.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la quả Bất hoàn? Là trong tu đạo đã dứt phẩm phiền não thứ chín của cõi Dục, an trụ nơi đạo. Nếu đã dứt hẳn tất cả phiền não do kiến đạo dứt trừ, đã dứt hẳn tất cả phiền não của cõi Dục do tu đạo dứt trừ thì đắc quả Bất hoàn. Tại sao chỉ nói dứt hẳn năm kiết thuận hạ phần thì đắc quả Bất hoàn? Vì thuộc về phần tối thắng. Tại sao là tối thắng? Vì có thể là nhân thắng của cõi dưới và đường dưới.

Thế nào là hướng A-Bổ-đặc-già-la-la-hán? Là đã dứt hẳn tám phẩm phiền não của hữu đảnh, an trụ nơi đạo.

Thế nào là quả A-Bổ-đặc-già-la-la-hán? Là đã dứt hẳn phẩm phiền não thứ chín của hữu đảnh, an trụ nơi đạo rốt ráo. Nếu A-la-hán dứt hẳn tất cả phiền não của ba cõi, vì sao chỉ nói dứt hẳn năm kiết thuận thượng phần thì đắc quả A-la-hán? Vì tối thắng. Vì sao? vì thuộc về phần tối thắng? Là lấy nhân của thượng phần và nhân không xả thượng phần.

Thế nào là tối đa là Bổ-đặc-già-la bảy lần sanh trở lại? Tức là quả Dự lưu, đối với việc thọ sanh cõi người, trời, sinh qua lại thọ nhận xen lẫn, đến tối đa là bảy lần trở lại thì đắc tận bờ mé của khổ.

Thế nào là gia gia Bổ-đặc-già-la? Tức là quả Dự lưu, hoặc ở cõi trời, hoặc ở cõi người, từ nhà nầy đến nhà kia được dứt hết bờ mé khổ.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la nhất gián? Tức là quả Nhất lai, hoặc ở cõi trời chỉ thọ một lần sanh thì được tận bờ mé của khổ.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la trung nhập Niết-bàn? Là sinh kiết đã dứt, khởi kiết chưa đoạn, hoặc trung hữu mới khởi liền ở nơi Thánh đạo hiện tiền, được hết bờ mé của khổ. Hoặc trung hữu khởi đã làm sinh hữu nơi cõi mới khởi tư duy, liền ở nơi Thánh đạo hiện tiền được tận bờ mé khổ. Hoặc tư duy đã phát khởi, hướng tới sinh hữu, chưa đến sinh hữu liền hiện tiền ở Thánh đạo, được hết bờ mé khổ.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la sinh nhập Niết-bàn? Là hai kiết đều chưa dứt, vừa sinh cõi Sắc rồi liền ở nơi Thánh đạo hiện tiền, được hết bờ mé của khổ.

Thế nào là vô hành nhập Niết-bàn? Là đã sinh Niết-bàn rồi, không do gia hạnh mà hiện tiền Thánh đạo, được tận bờ mé của khổ.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la hữu hạnh nhập Niết-bàn? Là đã sinh Niết-bàn rồi, do năng lực gia hạnh mà Thánh đạo hiện tiền, được tận bờ mé của khổ.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la thượng lưu? Là trong các địa của cõi Sắc đều đã thọ sinh, cho đến sau cùng nhập sắc rốt ráo, đối với Thánh đạo vô lậu hiện tiền, được hết bờ mé của khổ. Lại cho đến sanh tới cõi hữu đảnh, Thánh đạo hiện tiền được hết bờ mé khổ.

Lại nữa, tạp tu tĩnh lự thứ tư có năm phẩm sai khác:

  1. Tu hạ phẩm.
  2. Tu trung phẩm.
  3. Tu thượng phẩm.
  4. Tu thượng thắng phẩm.
  5. Tu thượng cực phẩm.

Do tạp tu năm phẩm này mà tĩnh lự thứ tư như thứ lớp của nó sinh ở năm tầng trời tịnh cư.

Thế nào là A-la-hán thoái pháp? Là tánh độn căn, hoặc phân tán, hoặc không phân tán, hoặc tư duy hoặc không tư duy, đều có thể thoái lui mất hiện pháp lạc trụ.

Thế nào là tư pháp A-la-hán? Là tánh độn căn, hoặc phân tán, hoặc không phân tán, hoặc không tư duy, liền có thể thoái lui sụt hiện pháp lạc trụ. Nếu đã tư duy rồi thì có thể không lui sụt.

Thế nào là A-la-hán hộ pháp? Là tánh độn căn, hoặc phân tán liền có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ, hoặc không phân tán thì có thể không lui sụt.

Thế nào là A-la-hán trụ bất động? Là tánh độn căn, hoặc phân tán hoặc không phân tán, đều có thể không thoái thất hiện pháp lạc trụ, cũng không thể luyện căn.

Thế nào là A-la-hán kham đạt? Là tánh độn căn, hoặc phân tán hoặc không phân tán, đều có thể không thoái thất hiện pháp lạc trụ, nhưng có thể gắng hành luyện căn.

Thế nào là A-la-hán pháp bất động? Là tánh lợi căn, hoặc phân tán hoặc không phân tán, đều có thể không thoái thất hiện pháp lạc trụ.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la cõi Dục dị sinh? Là đối với cõi Dục hoặc sinh hoặc trưởng không đắc thánh pháp.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la cõi Dục Hữu học? Là đối với cõi Dục hoặc sinh hoặc trưởng đã đắc thánh pháp, cũng còn các kiết khác.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la cõi Dục Vô học? Là đối với cõi Dục hoặc sinh hoặc trưởng đã đắc thánh pháp, không có kiết khác. Như cõi Dục có ba thứ, cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng vậy.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la cõi Dục và cõi Sắc Bồ-tát? Là cùng với sự diệt lìa sinh tướng tĩnh lự nơi cõi Vô sắc, nên trụ lạc của tĩnh lự, sinh nơi cõi Dục, hoặc sinh cõi Sắc.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la cõi Dục Độc giác? Là khi không có Phật ra đời, sinh ở cõi Dục, tự nhiên chứng đắc Bồ-đề của Độc giác.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Như lai bất khả tư nghì? Là đối với cõi Dục bắt đầu từ việc thị hiện an trụ ở cõi trời đỗ-sử-đa tại cung điện diệu bảo, cho đến thị hiện đại nhập Niết-bàn, thị hiện chỗ hành đại hạnh của tất cả chư Phật, Bồ-tát.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Bồ-tát thắng giải hạnh? Là trụ trong địa thắng giải hạnh, thành tựu nhẫn hạ trung thượng của Bồ-tát.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Bồ-tát tăng thượng ý lạc hạnh? Là tất cả Bồ-tát trong mười địa.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Bồ-tát hữu tướng hạnh? Là tất cả Bồ-tát trụ trong các địa Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Cực nan thắng, Hiện tiền.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Bồ-tát vô tướng hạnh? Là tất cả Bồ-tát trụ trong địa Viễn hành.

Thế nào là Bổ-đặc-già-la Bồ-tát vô công dụng hạnh? Là tất cả Bồ-tát trụ trong các địa Bất động, Thiện Tuệ và Pháp Vân.

Lại nữa, như nói quả Dự lưu Bổ-đặc-già-la, quả nầy có hai thứ:

  1. Tiệm xuất ly.
  2. Đốn xuất ly.

Tiệm xuất ly, là như trước đã nói rộng. Đốn xuất ly, là đã nhập hiện quán đế, nương vào định vị chí phát khởi đạo xuất thế gian, dứt nhanh tất cả phiền não trong ba cõi, từng mỗi phẩm dứt riêng chỉ lập hai quả, là quả Dự lưu và quả A-la-hán. Như vậy, Bổ-đặc-già-la phần nhiều đối với hiện pháp, hoặc khi lâm chung khéo phân rõ thánh chỉ, nếu không thể phân rõ thì do nguyện lực, tức là dùng nguyện lực để sinh trở lại cõi Dục, xuất hiện không có Phật ở đời, mà thành quả độc thắng.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7