ĐẠI THỪA A TÌ ĐẠT MA TẬP LUẬN
Bồ-tát Vô Trước tạo luận
Tam tạng pháp sư Huyền Trang dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN 1

Phẩm 1: PHẨM BA PHÁP TRONG BẢN SỰ PHẦN

Bản sự với quyết trạch,

Là đều có 4 thứ,

Gồm 3 pháp nên thành,

Đế pháp được luận nghị.

Thủ tướng bao nhiêu nhân,

Kiến lập với thứ tự,

Nghĩa dụ rộng phân biệt,

Gồm hết tất cả tụng.

Uẩn, giới, xứ mỗi thứ có bao nhiêu?

Uẩn có 5, là sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn.

Giới có 18, là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỹ giới, hương giới, tỹ thức giới, thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới, thân giới, xúc giới, thân thức giới, ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Xứ có 12, là nhãn xứ, sắc xứ, nhĩ xứ, thanh xứ, tỹ xứ, hương xứ, thiệt xứ, vị xứ, thân xứ, xúc xứ, ý xứ, pháp xứ.

Vì lẽ gì uẩn chỉ có 5? Vì hiển thị 5 việc của ngã, là thân cụ, thụ dụng, ngôn thuyết, tạo tác tất cả pháp phi pháp. Y chỉ của chúng là tự thể của ngã.

Vì lẽ gì giới chỉ có 18? Vì thân cụ v.v… có thể duy trì tính thụ dụng của 6 hành quá khứ và hiện tại.

Vì lẽ gì xứ chỉ có 12? Vì chỉ do thân cụ có thể cùng với 6 hành thụ dụng vị lai làm sinh trưởng môn.

Vì lẽ gì gọi là thủ uẩn? Bởi hợp với thủ nên gọi thủ uẩn. Những gì là thủ? Là trong các uẩn có dục tham. Vì sao gọi dục tham là thủ? Là vì các uẩn trong vị lai hiện tại có thể dẫn không bỏ mong cầu vị lai, đắm nhiễm hiện tại dục tham gọi là thủ. Vì sao giới xứ gọi là pháp hữu thủ? Nên nói như uẩn.

Tướng của sắc uẩn thế nào? Tướng biến hiện là sắc tướng. Đây có 2 thứ: một là xúc đối biến hoại, hai là thị hiện phương sở. Thế nào là xúc đối biến hoại? Là do tay chân khối đá dao gậy lạnh nóng đói khát muỗi mòng rắn rết, khi xúc đối thì liền biến hoại. Thế nào gọi là thị hiện phương sở? Là do có tướng phương sở thị hiện sắc như thế như thế. Sắc như vậy như vậy hoặc do định tâm, hoặc do bất định tầm tư tương ưng vẽ ra các thứ.

Tướng của thụ uẩn thế nào? Tướng lãnh nạp là tướng thụ. Nghĩa là do thụ nên lãnh nạp các quả dị thục của các thứ nghiệp tịnh bất tịnh.

Tướng của tưởng uẩn thế nào? Cấu tạo ra tướng là tướng tưởng. Nghĩa là do tưởng cho nên vẽ ra các loại hình tượng các pháp rồi tùy theo nghĩa của thấy nghe hay biết mà khởi các ngôn thuyết.

Tướng của hành uẩn thế nào? Tạo tác tướng là tướng hành. Nghĩa là do hành nên khiến tâm tạo tác các phẩm loại thiện bất thiện vô ký trong đó sai khiến cái tâm.

Tướng của thức uẩn thế nào? Tướng liễu biệt là tướng thức. Nghĩa là do thức nên liễu biệt các cảnh giới sắc thanh hương vị xúc pháp.

Tướng của nhãn giới thế nào? Là mắt từng hiện thấy sắc và chủng tử này chứa nhóm trong thức A-lại-da dị thục là tướng của nhãn giới. Như tướng của nhãn giới, tướng của nhĩ tỹ thiệt thân ý giới cũng vậy.

Tướng của sắc giới thế nào? Là sắc mắt từng hiện thấy và nhãn giới nơi đó tăng thượng là tướng của sắc giới. Như tướng của sắc giới, tướng của thanh hương vị xức pháp giới cũng vậy.

Tướng của nhãn thức giới thế nào? Là y nhãn duyên sắc, liễu biệt tương tự sắc và chủng tử này chứa nhóm trong thức A-lại-da dị thục là tướng của nhãn thức giới. Như tướng của nhãn thức giới, tướng của nhĩ tỹ thiệt thân ý thức giới cũng vậy.

Tướng của xứ thế nào? Nên biết như giới tùy theo thích ứng.

Sắc uẩn kiến lập thế nào? Là các sở hữu sắc như tứ đại chủng và những thứ do tứ đại chủng tạo ra. Thế nào là tứ đại chủng? Là địa giới, thủy giới hỏa giới phong giới. Những gì là địa giới? Là những gì có tính cứng. Những gì là thủy giới? Là những gì có tính ướt và trôi chảy. Những gì là hỏa giới? Là những gì có tính ấm nóng. Những gì là phong giới? Là những gì nhẹ và có tính động.

Thế nào là sở tạo sắc? Là nhãn căn nhĩ căn tỹ căn thiệt căn thân căn, sắc thanh hương vị một phần của xúc, và pháp xứ sở nhiếp sắc. Những gì là nhãn căn? Là thanh tịnh sắc, sở y của nhãn thức, do tứ đại chủng tạo ra. Những gì là nhĩ căn? Là thanh tịnh sắc, sở y của nhĩ thức, do tứ đại chủng tạo ra. Những gì là tỹ căn? Là thanh tịnh sắc, sở y của tỹ thức, do tứ đại chủng tạo ra. Những gì là thiệt căn? Là thanh tịnh sắc, sở y của thiệt thức, do tứ đại chủng tạo ra. Những gì là thân căn? Là thanh tịnh sắc, sở y của thân thức, do tứ đại chủng tạo ra.

Những gì là sắc? Là nghĩa sở hành của nhãn căn do tứ đại chủng tạo ra. Như xanh vàng đỏ trắng dài ngắn vuông tròn thô tế cao hạ chính bất chính, ánh sáng bóng tối mây khói bụi mù, hánh sắc biểu sắc không nhất hiển sắc. Lại có 3 thứ: sắc đẹp, sắc không đẹp và sắc trái với cả hai.

Những gì là thanh? Là nghĩa sở thủ của nhĩ căn do tứ đại chủng tạo ra, hoặc vừa ý hoặc không vừa ý hoặc trái với cả hai, hoặc chấp thụ đại chủng làm nhân hoặc không chấp thụ đại chủng làm nhân hoặc cả hai làm nhân, hoặc thế gian đã cực thành hoặc thành dẫn đến hoặc do biến kế khởi ra, hoặc gồm có lời Thánh nhân nói hoặc không có trong Thánh nhân nói.

Những gì là hương? Là nghĩa sở thủ của tỹ căn do tứ đại chủng tạo ra, như mùi thơm mùi hôi mùi bình thường mùi cùng tạo ra mùi hỗn hợp mùi đổi khác.

Những gì là vị? Là nghĩa sở thủ của thiệt căn do tứ đại chủng tạo ra, như đắng chua ngọt cay mặn nhạt, hoặc vừa ý hoặc không vừa ý hoặc trái cả hai, hoặc hòa hợp hoặc mùi đổi khác.

Những gì là một phần của xúc? Là nghĩa sở thủ của thân căn do tứ đại chủng tạo ra, như tính trơn láng tính thô ráp, tính nặng tính nhẹ, tính nhuyễn, hoãn gấp lạnh đói khát no sức lực yếu ngột ngạt ngứa bám dính bệnh già chết mệt mỏi hơi thở mạnh mẽ.

Những gì là pháp xứ sở nhiếp sắc? Phải biết có 5 thứ: cực lược sắc, cực hánh sắc, thụ sở dẫn sắc, biến kế sở khởi sắc, định tự tại sở sinh sắc.

Thụ uẩn kiến lập thế nào? Là 6 thụ thân do nhãn xúc sinh thụ, nhĩ xúc sinh thụ, tỹ xúc sinh thụ, thiệt xúc sinh thụ, thân xúc sinh thụ, ý xúc sinh thụ. Như vậy 6 thụ của thân, hoặc vui hoặc khổ hoặc không khổ không vui. Lại có lạc thân thụ, khổ thân thụ, không khổ không lạc thân thụ, lạc tâm thụ, khổ tâm thụ, không khổ không lạc tâm thụ. Lại có lạc hữu vị thụ, khổ hữu vị thụ, bất khổ bất lạc hữu vị thụ, lạc vô vị thụ, khổ vô vị thụ, bất khổ bất lạc vô vị thụ. Lại có lạc dựa vào đam mê thụ, khổ dựa vào đam mê thụ, không khổ không lạc dựa vào đam mê thụ, lạc dựa vào xuất ly thụ, khổ dựa vào xuất ly thụ, không khổ không lạc dựa vào xuất ly thụ.

Những gì là thân thụ? Là 5 thức tương ưng thụ. Những gì là tâm thụ? Là ý thức tương ưng thụ. Những gì là hữu vị thụ? Là tự thể ái tương ưng thụ. Những gì là vô vị thụ? Là ái này không tương ưng thụ. Những gì là dựa vào đam mê thụ? Là diệu ngũ dục ái tương ưng thụ. Những gì là dựa vào xuất ly thụ? Là ái này không tương ưng thụ.

Tưởng uẩn kiến lập thế nào? Là 6 tưởng thân, như nhãn xúc sinh tưởng, nhĩ xúc sinh tưởng, tỹ xúc sinh tưởng, thiệt xúc sinh tưởng, thân xúc sinh tưởng, ý xúc sinh tưởng. Do tưởng này hoặc biết là có tướng hoặc biết là không có tướng, hoặc biết nhỏ hoặc biết lớn, hoặc biết vô lượng hoặc biết không có chút nào, không có chỗ nào.

Những gì là tưởng có tướng? Là trừ những ngôn thuyết bất thiện, đó là định của vô tưởng giới, định của Hữu đỉnh và các tưởng khác.

Những gì là tưởng không có tướng? Là các tưởng khác. Những gì là tiểu tưởng? Là những tưởng chỉ biết Dục giới. Những gì là đại tưởng? Là những tưởng có thể biết Sắc giới. Những gì là vô lượng tưởng? Là những tưởng có thể biết Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ. Những gì là tưởng không có chút gì, không có chỗ nào? Là những tưởng có thể biết đến Vô sở hữu xứ.

Hành uẩn kiến lập thế nào? Là 6 tư thân, như nhãn xúc sinh tư, nhĩ xúc sinh tư, tỹ xúc sinh tư, thiệt xúc sinh tư, thân xúc sinh tư, ý xúc sinh tư. Do các tư duy này mà tư duy làm các thiện, tư duy làm các tạp nhiễm, tư duy làm các phần vị sai biệt. Lại nữa, nơi các tư duy này trừ thụ và tưởng với các tâm tâm sở pháp, tâm bất tương ưng hành, đều gọi chung là hành uẩn.

Những gì gọi là các tâm sở pháp? Đó là tác ý, xúc, dục, thắng giải, niệm, Tam-ma-địa, tuệ, tín, tàm quý, không tham, không sân, không si, cần, an, không phóng dật, xả, không hại, tham, sân, mạn, vô minh, nghi, Tát-ca-da kiến, biên chấp kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến, phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, kiêu, hại, không tàm, không quý, hôn trầm, trạo cử, không tin, lười biếng, phóng dật, mất niệm, không chính tri, tán loạn, me ngủ, làm điều xấu, tầm, tứ.

Những gì là tư? Là nơi tâm tạo tác ý nghiệp làm thể, trong thiện bất thiện vô ký nó điều khiển cái tâm làm nghiệp.

Những gì là tác ý? Là phát động cái tâm làm thể, trong cảnh sở duyên, giữ tâm làm nghiệp.

Nhứng gì là xúc? Là dựa vào 3 thứ hòa hợp các căn biến đổi phân biệt làm thể, thụ sở y làm nghiệp.

Những gì là dục? Là đối với việc vui dẫn phát hy vọng làm thể, chính cần sở y làm nghiệp.

Những gì là thắng giải? Là đối với những việc quyết định, tùy chỗ quyết định ấn trị làm thể, không thể dẫn chuyển làm nghiệp.

Những gì là niệm? Là trong những việc tập quen khiến tâm ghi nhớ rõ ràng không quên làm thể, không tán loạn làm nghiệp.

Những gì là Tam-ma-địa? Là những việc sở quán khiến tâm trụ vào một cảnh làm thể, trí sở y chỉ làm nghiệp.

Những gì là tuệ? Là trong việc sở quán, trạch pháp làm thể, đoạn nghi làm nghiệp.

Những gì là tin? Là nơi hữu thể có đức, có công năng, nhẫn khả, thanh tịnh, hy vọng làm thể, lạc dục sở y làm nghiệp.

Những gì là tàm? Là đối với tội lỗi, tự hổ thẹn là thể, sở y chấm dứt ác hành làm nghiệp.

Những gì là quý? Là đối với tội lỗi, xấu hổ với người làm thể, nghiệp của nó giống như đã nói ở tàm.

Những gì là không tham? Là không đắm trước những gì mình có làm thể, ác hành không chuyển sở y làm nghiệp.

Những gì là không sân? Là đối với các khổ của hữu tình không giận làm thể, ác hành không chuyển sở y làm nghiệp.

Những gì là không si? Là do báo giáo chứng trí quyết trạch làm thể, ác hành không chuyển sở y làm nghiệp.

Những gì là cần? Là tâm dũng cảm làm thể, hoặc mặc áo giáp, hoặc gia hành, hoặc không hạ thấp, hoặc không thoái lui, hoặc không đủ, sai biệt thành mãn thiện phẩm làm nghiệp.

Những gì là an? Là thân tâm chấm dứt thô trọng, điều hòa thư thái làm thể, trừ bỏ tất cả chướng ngại làm nghiệp.

Những gì là không phóng dật? Là y chỉ chính cần, không tham không sân không si tu các thiện pháp, trong tâm phòng hộ các pháp hữu lậu làm thể, thành mãn tất cả phúc thế gian xuất thế gian làm nghiệp.

Những gì là xả? Là y chỉ chính cần, không tham không sân không si, trái với tạp nhiễm trụ, tâm bình đẳng tính, tâm chính trực tính, tâm vô công dụng trụ tính làm thể, không dung tạp nhiễm sở y làm nghiệp.

Những gì là không hại? Là không sân, một phần thiện căn tâm bi mẫn làm thể, không tổn hại làm nghiệp.

Những gì là tham? Là 3 cõi ái làm thể, sinh các khổ làm nghiệp.

Những gì là sân? Là trong cái khổ và tâm làm nhân duyên sinh khởi khổ của hữu tình, giận dữ làm thể, không an ổn, trụ ác hành sở y làm nghiệp.

Những gì là mạn? Là y chỉ Tát-ca-da kiến, tâm cao cử làm thể, bất kính khổ sinh sở y làm nghiệp.

Những gì là vô minh? Là 3 cõi vô tri làm thể, trong các pháp tà quyết định nghi tạp sinh khởi sở y làm nghiệp.

Những gì là nghi? Là đối với đế lý do dự làm thể, thiện phẩm không sinh sở y làm nghiệp.

Những gì là Tát-ca-da kiến? Là trong 5 thủ uẩn, tùy quán chấp ngã và ngã sở, các nhẫn dục giác quán kiến làm thể, tất cả kiến thú sở y làm nghiệp.

Những gì là biên chấp kiến? Là trong 5 thủ uẩn, tùy quán chấp đoạn hoặc chấp thường, các nhẫn dục giác quán kiến làm thể, trong chướng xứ hành xuất ly làm nghiệp.

Những gì là kiến thủ? Là trong các kiến và kiến sở y 5 thủ uẩn v.v…, tùy quán chấp là rất, là hơn, là trên, là tốt, các nhẫn dục giác quán kiến làm thể, chấp bất chính kiến sở y làm nghiệp.

Những gì là giới cấm thủ? Là đối với các giới cấm và giới cấm sở y 5 thủ uẩn v.v…, tùy quán chấp cho là thanh tịnh, là giải thoát, là xuất ly, các nhẫn dục giác quán kiến làm thể, nhọc mà không kết quả làm nghiệp.

Những gì là tà kiến? Là hủy báng nhân hủy báng quả, hoặc hủy báng tác dụng, hoặc phá hoại sự thật, hoặc tà phân biệt, các nhẫn dục giác quán kiến làm thể, đoạn thiện căn làm nghiệp và bất thiện căn kiên cố sở y làm nghiệp, bất thiện sinh khởi làm nghiệp, thiện không sinh khởi làm nghiệp.

Năm kiến chấp như vậy, bao nhiêu là tăng ích kiến, bao nhiêu là tổn giảm kiến? Bốn là tăng ích kiến. Nghĩa là vì trong cảnh sở tri tăng ích tự tính và sai biệt. Ở trong các kiến tăng ích thứ nhất và thanh tịnh. Một là đa phần là tổn giảm kiến. Chấp các kiến của đời trước đời sau. Chúng ở trong mấy kiến của 5 kiến này? Hoặc 2 hoặc tất cả. Đối với những việc không thể ghi nhận trong các kiến thì chúng có bao nhiêu trong 5 kiến này? Hoặc 2 hoặc tất cả. Bạc-già-phạm quán lỗi gì mà trong uẩn giới xứ dùng 5 thứ tướng phá hủy chấp ngã? Do quán thấy chúng nhiếp thụ Tát-ca-da kiến có 5 lỗi. Đó là lỗi về khác tướng, lỗi về vô thường, lỗi về không tự tại, lỗi về không thân, lỗi về không do công dụng giải thoát. Trong 5 thủ uẩn có 20 câu về Tátca-da kiến. Đó là chấp sắc là ngã, ngã có các sắc, ngã thuộc ta, ta ở trong sắc.

Trong các kiến đây bao nhiêu là ngã kiến, bao nhiêu là ngã sở kiến? Năm là ngã kiến. Mười lăm là ngã sở kiến. Vì lẽ gì 15 là ngã sở kiến? Vì nó tương ưng với ngã sở, tùy chuyển theo ngã sở, không tách rời ngã sở. Tát-ca-da kiến đối với sự việc có rõ ràng hay không rõ ràng? Phải nói là đối với sự việc nó không rõ ràng, như thấy cái dây mà cho là con rắn.

Những gì là phẫn? Là hiện tiền có tướng không lợi ích thì một phần giận, tâm nộ làm thể, cầm cây vung lên sở y làm nghiệp.

Những gì là hận? Là từ đây trở đi nơi một phần của giận ôm oán hờn không bỏ làm thể, không nhẫn sở y làm nghiệp.

Những gì là phú? Là khi mình làm lỗi, người khác nêu ra cho thấy, một phần của si che giấu làm thể, hối hận không an trụ sở y làm nghiệp.

Những gì là não? Trước tiên là phẫn hận, một phần của giận ở lại trong tâm làm thể, cử chỉ lời nói thô bạo sở y làm nghiệp, sinh khởi phi phúc làm nghiệp, chất chứa bất an làm nghiệp.

Những gì là tật? Là đắm trước lợi dưỡng không chịu được người khác phồn vinh, một phần của giận tâm đố kỵ làm thể, khiến tâm rầu buồn chất chứa bất an làm nghiệp.

Những gì là xan? Là đắm trước lợi dưỡng, đối với phương tiện cho đời sống có một phần của tham, tâm keo kiệt làm thể, sở y của không xả bỏ làm nghiệp.

Những gì là cuống? Là tham đắm lợi dưỡng, một phần của tham và si, dối trá hiện công đức không thật làm thể, sở y của tà mạng làm nghiệp.

Nhiững gì là siểm? Là tham đắm lợi dưỡng, một phần của tham và si, giả lập phương tiện che giấu sự thật tội lỗi làm thể, trở ngại việc giáo thụ chân chính làm nghiệp.

Những gì là kiêu? Là hoặc dựa vào tướng trẻ tuổi không bệnh tật sống lâu, hoặc được một trong những vinh lợi hữu lậu, một phần của tham khiến tâm vui mừng hãnh diện làm thể, tất cả phiền não và tùy phiền não sở y làm nghiệp.

Những gì là hại? Là một phần của giận, không thương, không xót làm thể, tổn hại hữu tình làm nghiệp.

Những gì là vô tàm? Là thuộc về tham sân si, đối với tội lỗi không tự hổ thẹn làm thể, tất cả phiền não và tùy phiền não trợ bạn làm nghiệp.

Những gì là quý? Là thuộc tham sân si, đối với tội lỗi không xấu hổ với người làm thể, tất cả phiền não và tùy phiền não trợ bạn làm nghiệp.

Những gì là hôn trầm? Là thuộc về ngu si, tâm không kham làm một việc gì làm thể, chướng Tì-bát-xá-na làm nghiệp.

Những gì là trạo cử? Là thuộc tham dục, tùy tướng niệm tịnh, tâm không vắng lặng làm thể, chướng Xa-ma-tha làm nghiệp.

Những gì là bất tín? Là thuộc ngu si, đối với các thiện pháp tâm không chấp nhận, tâm không thanh tịnh không hy vọng làm thể, sở y của lười biếng làm nghiệp.

Những gì là lười biếng? Là thuộc ngu si, thích nằm dật nằm dựa ngủ nghê, không cố gắng làm thể, chướng tu phương tiện thiện phẩm làm nghiệp.

Những gì là phóng dật? Là dựa vào lười biếng và tham sân si không tu thiện pháp, đối với pháp hữu lậu tâm không ngăn ngừa làm thể, sở y của tăng ác tổn thiện làm nghiệp.

Những gì là quên mất niệm? Là các niệm tương ưng phiền não làm thể, sở y của tán loạn làm nghiệp.

Những gì là bất chính tri? Là tuệ tương ưng các phiền não làm thể, do tuệ này nên khởi bất chính tri, thân ngữ tâm hành hủy sở y làm nghiệp.

Những gì là tán loạn? Là thuộc tham sân si, tâm lưu tán làm thể. Đây lại có 6 thứ là: tự tính tán loạn, ngoại tán loạn, nội tán loạn, tướng tán loạn, thô trọng tán loạn, và tác ý tán loạn.

Thế nào là tự tính tán loạn? Là 5 thức thân. Thế nào là ngoại tán loạn? Là khi chính tu thiện, đối với 5 diệu dục tâm giong ruổi tán loạn. Thế nào là nội tán loạn? Là khi chính tu thiện, đắm trước đạo vị. Thế nào là tướng tán loạn? Là vì người quy tín, tỏ ra kiêu kỳ tu thiện. Thế nào là thô trọng tán loạn? Là dựa vào chấp ngã ngã sở và sức ngã mạn phẩm thô trọng, nên khi tu thiện pháp đối với các thụ đã sinh khởi, khởi ngã ngã sở và cùng với ngã mạn chấp thụ thủ tướng xen tạp. Thế nào là tác ý tán loạn? Là dựa vào các thừa các định, hoặc y hoặc nhập, có những lưu tán có thể chướng ly dục làm nghiệp.

Những gì là thùy miên? Là dựa vào thùy miên nội duyên, thuộc ngu si tâm rất sơ suất làm thể, hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký, hoặc thời hoặc phi thời, hoặc hợp hoặc không hợp, vượt mất khả năng tác sự sở y làm nghiệp.

Những gì là ố tác? Là dựa vào thích làm không thích làm, nên làm không nên làm, thuộc ngu si phần, tâm truy hối làm thể, hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký, hoặc phải thời hoặc không phải thời, hoặc vậy hoặc không vậy, có thể cưỡng tâm trụ làm nghiệp.

Những gì là tầm? Là hoặc dựa vào tư, hoặc dựa vào tuệ, tìm cầu ý ngôn, khiến tâm thô chuyển làm thể.

Những gì là tứ? Là hoặc dựa vào tư hoặc dựa vào tuệ dò xét ý ngôn, khiến tâm tế chuyển làm thể. Như vậy 2 thứ này an trụ bất an trụ sở y làm nghiệp.

Lại nữa, các thiện tâm sở đoạn tự sở trị làm nghiệp, phiền não tùy phiền não chướng tự năng trị làm nghiệp.

Những gì là tâm bất tương ưng hành? Là đắc, vô tưởng định, diệt tận định, vô tưởng dị thục, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, lão, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính, lưu chuyển, định dị, tương ưng, thế tốc, thứ đệ, thời, phương, số, hòa hợp v.v…

Những gì là đắc? Là trong pháp thiện bất thiện vô ký hoặc tăng hoặc giảm giả lập đạt được thành tựu.

Những gì là vô tưởng định? Là tưởng xuất ly đã lìa dục của Biến tịnh, chưa lìa dục cõi trên. Những gì là đắc? Là vì tác ý làm trước, nên diệt tâm tâm sở không hằng hành, giả lập định vô tưởng.

Những gì là diệt tận định? Là đã lìa dục của Vô sở hữu xứ, vượt quá Hữu đỉnh tạm dứt tưởng. Vì tác ý làm trước, nên diệt tâm tâm sở không hằng hành và một phần tâm tâm sở không hằng hành, giả lập định diệt tận.

Những gì là vô tưởng dị thục? Là đã sinh trong hữu tình trời Vô tưởng, trong tâm tâm sở không hằng hành diệt, giả lập vô tưởng dị thục.

Những gì là mạng căn? Là ở trong chúng đồng phần được nghiệp trước dắt dẫn, trụ thời quyết định giả lập mạng căn.

Những gì là chúng đồng phần? Là những loài hữu tình như vậy như vậy trong nhiều chủng loại tự thể tương tự giả lập chúng đồng phần.

Những gì là sinh? Là trong chúng đồng phần, các hành vốn không nay có, giả lập là sinh.

Những gì là lão? Là trong chúng đồng phần, các hành liên tục đổi khác, giả lập là lão.

Những gì là trụ? Là trong chúng đồng phần, các hành liên tục biến hoại, giả lập là trụ.

Những gì là vô thường? Là trong chúng đồng phần, các hành liên tục biến hoại, giả lập là vô thường.

Những gì là danh thân? Là trong các pháp tự tính tăng lời nói, giả lập ra tên gọi.

Những gì là cú thân? Là trong các pháp sai biệt tăng lời nói, giả lập ra câu nói.

Những gì là văn thân? Là trong 2 kia dựa nơi chữ, giả lập ra câu văn. Đây nói văn là có thể làm rõ 2 kia. Đây cũng gọi là hiển, vì có thể hiển thị nghĩa của chúng. Đây cũng gọi là chữ vì chuyển đổi không khác.

Những gì là dị sinh tính? Là trong Thánh pháp không được, giả lập dị sinh tính.

Những gì là lưu chuyển? Là nhân quả liên tục không dứt, giả lập lưu chuyển.

Những gì là định dị? Là nhân quả mỗi thứ mỗi thứ khác nhau, giả lập định dị.

Những gì là tương ưng? Là ở nơi nhân quả tương xứng, giả lập tương ưng.

Những gì là thế tốc? Là nơi nhân quả lưu chuyển nhanh chóng, giả lập thế tốc.

Những gì là thứ đệ? Là trong nhân quả mỗi mỗi lưu chuyển, giả lập thứ đệ.

Những gì là thời? Là trong nhân quả lưu chuyển liên tục, giả lập là thời.

Những gì là phương? Là trong Đông Tây Nam Bắc, 4 phương bàng và trên dưới, nhân quả sai biệt, giả lập là phương.

Những gì là số? Là trong các hành mỗi mỗi sai biệt, giả lập là số.

Những gì là hòa hợp? Là trong nhân quả các duyên hội lại, giả lập hòa hợp.

Thức uẩn kiến lập thế nào? Là tâm ý thức khác nhau.

Những gì là tâm? Là cái mà uẩn, giới, xứ huân tập vào, là A-lạida nhất thiết chủng tử thức, cũng gọi dị thục thức. Cũng gọi A-đà-na thức, vì nó có công năng chứa nhóm các tập khí.

Những gì là ý? Là tất cả mọi lúc nó duyên thức A-lại-da suy tư lường đạc làm tính, hằng tương ưng với 4 phiền não là ngã kiến, ngã ái, ngã mạn và vô minh. Ý này phổ biến khắp tất cả vị thiện bất thiện và vô ký, chỉ trừ Thánh đạo hiện tiền, nếu ở trong định diệt tận và trong vô học địa, lại nữa 6 thức lấy vô gián diệt thức làm ý.

Những gì là thức? Là 6 thức thân: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.

Những gì là nhãn thức? Là dựa vào nhãn duyên sắc liễu biệt làm tính.

Những gì là nhĩ thức? Là dựa vào nhĩ duyên thanh liễu biệt làm tính.

Những gì là tỹ thức? Là dựa vào tỹ duyên hương liễu biệt làm tính.

Những gì là thiệt thức? Là dựa vào thiệt duyên vị liễu biệt làm tính.

Những gì là thân thức? Là dựa vào thân duyên xúc liễu biệt làm tính.

Những gì là ý thức? Là dựa vào ý duyên pháp liễu biệt làm tính.

Giới kiến lập thế nào? Là sắc uẩn, tức 10 giới: nhãn giới, sắc giới, nhĩ giới, thanh giới, tỹ giới, hương giới, thiệt giới, vị giới, thân giới, xúc giới và một phần ý giới. Thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, tức một phần của pháp giới. Thức uẩn tức 7 thức giới, nghĩa là nhãn v.v…6 thức giới và ý giới.

Những gì giới pháp uẩn không bao gồm? Là các pháp vô vi trong pháp giới. Pháp vô vi này lại có 8 thứ . Đó là thiện pháp chân như, bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như, hư không, phi trạch diệt, trạch diệt, bất động và tưởng thụ diệt.

Những gì là thiện pháp chân như? Là tính vô ngã. Cũng gọi là tính không, là pháp giới vô tướng thật tế thắng nghĩa. Vì sao chân như được gọi là chân như? Là vì tự tính của nó không biến đổi. Vì sao chân như gọi là tính vô ngã? Vì lìa 2 ngã. Vì sao chân như gọi là tính không? Vì tất cả tạp nhiễm không hiện hành. Vì sao chân như gọi là vô tướng? Vì tất cả tướng đều vắng lặng. Vì sao chân như gọi là thật tế? Vì tính không điên đảo sở duyên. Vì sao chân như gọi là thắng nghĩa? Vì là nơi sở hành của Thánh trí tối thắng. Vì sao chân như gọi là pháp giới? Vì là tướng sở y của diệu pháp của tất cả Thanh Văn, Độc Giác, chư Phật. Giống như thiện pháp chân như, phải biết bất thiện pháp chân như, vô ký pháp chân như cũng như vậy.

Những gì là hư không? Là tính vô sắc vì dung nhận tất cả sở tác nghiệp.

Những gì là phi trạch diệt? Là diệt không ly hệ.

Những gì là trạch diệt? Là diệt là ly hệ.

Những gì là bất động? Là đã lìa dục của Biến tịnh, chưa lìa dục khổ lạc diệt của cõi trên.

Những gì là tưởng thụ diệt? Là đã lìa dục của Vô sở hữu xứ, vượt quá tưởng tạm dứt của Hữu đỉnh, vì tác ý làm trước nên diệt các tâm tâm sở không hằng hành, và diệt một phần tâm tâm sở hằng hành. Lại nữa hoặc 5 thứ sắc, hoặc thụ tưởng hành uẩn và 8 pháp vô vi nói ở đây, như vậy gọi chung 16 tên là pháp giới.

Xứ kiến lập thế nào? Là 10 sắc giới, tức 10 sắc xứ. Bảy thức giới tức ý xứ. Pháp giới, tức pháp xứ.

Do đạo lý này thâu nhiếp 3 pháp các uẩn giới xứ. Tức là sắc uẩn, pháp giới, ý xứ. Như nói nhãn và nhãn giới. Nếu có nhãn cũng là nhãn giới ư? Nếu có nhãn giới cũng là nhãn ư? Hoặc có nhãn chẳng phải nhãn giới, tức tối hậu nhãn của A-la-hán. Hoặc có nhãn giới chẳng phải nhãn, tức như khi ở trong trứng, trong Yết-la-lam, trong Át-bộ-đàm, trong Bế-thi, trong bụng mẹ, hoặc không có nhãn, có rồi mất, hoặc sinh vô sắc dị sinh có nhãn nhân. Hoặc có nhãn cũng là nhãn giới, tức như các vị khác. Hoặc có trường hợp không nhãn không nhãn giới, nghĩa là như đã nhập vô dư y Niết-bàn giới và các Thánh giả sinh cõi Vô sắc. Giống như nhãn và nhãn giới, nhĩ tỹ thiệt thân với nhĩ giới v.v… tùy chỗ thích ứng đều phải biết. Nếu có ý cũng là ý giới ư? Nếu có ý giới cũng là ý ư? Hoặc có ý chẳng phải ý giới, tức tối hậu ý của A-la-hán. Hoặc có ý giới chẳng phải ý, tức như người ở trong diệt định có ý nhân. Hoặc có ý cũng là ý giới, tức như các vị khác. Hoặc có trường hợp không ý không ý giới, nghĩa là đã nhập vô dư y Niết-bàn giới. Nếu sinh trưởng cõi kia tức dùng nhãn của địa kia lại thấy sắc của địa kia ư? Hoặc có dùng nhãn của địa kia lại thấy sắc của địa kia. Hoặc lại các địa khác, nghĩa là sinh trưởng cõi Dục dùng sắc triền nhãn thấy cái Dục triền sắc. Hoặc dùng sắc triền thượng địa nhãn thấy cái hạ địa sắc. Giống như lấy nhãn đối sắc, cũng vậy lấy nhĩ đối thanh. Giống như sinh trưởng cõi Dục, sinh trưởng cõi Sắc cũng vậy. Nếu sinh trưởng cõi Dục tức lấy Dục triền tỹ thiệt thân lại ngửi nếm biết các Dục triền hương vị xúc. Nếu sinh trưởng Sắc giới, tức Sắc triền thân lại cảm giác cái xúc của tự địa. Tự tính cõi kia chắc chắn không có hương vị, vì đã lìa cái tham của đoàn thực. Do đạo lý này cũng không có tỹ thiệt 2 thức. Nếu sinh trưởng cõi Dục tức dùng Dục triền ý biết pháp 3 cõi và pháp vô lậu. Giống như sinh trướng cõi Dục, sinh trưởng cõi Sắc cũng như vậy. Nếu sinh trưởng cõi Vô sắc dùng Vô sắc triền ý biết pháp Vô sắc triền tự địa và pháp vô lậu. Nếu dùng vô lậu ý biết pháp 3 cõi và pháp vô lậu thì vì sao các uẩn theo thứ tự như vậy? Do thức trụ nên gọi 4 thức trụ và thức. Lại nữa trước là y cứ của sau cho nên như có sắc tướng nên có lãnh thụ, có lãnh thụ nên có liễu tri, có liễu tri nên có tư tác, có tư tác thì tùy theo đó có minh liễu phân biệt.

Lại nữa do nhiễm ô thanh tịnh, nghĩa là nếu ở nơi này mà khởi nhiễm tịnh, nếu do lãnh thụ thủ tướng tạo tác nên nhiễm ô thanh tịnh thì hoặc nhiễm ô hoặc thanh tịnh. Do đạo lý này mà nói thứ tự của uẩn.

Vì sao các giới theo thứ tự như vậy? Là do thế sự sai biệt chuyển. Thế nào là thế sự sai biệt chuyển? Nghĩa là người đời lần đầu gặp nhau, gặp nhau rồi hỏi han, hỏi han rồi thụ nhận mộc dục đồ hương tràng hoa, rồi thụ các thức thượng diệu ẩm thực, rồi thụ các thứ ngọa cụ thị nữ. Nhiên hậu ý giới xứ xứ phân biệt, dùng nội giới tuần tự nên kiến lập ngoại giới, tùy theo tuần tự này kiến lập thức giới. Giống như giới tuần tự, xứ giới cũng như vậy.

Nghĩa của uẩn thế nào? Các sở hữu sắc hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại, hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc kém hoặc hơn, hoặc xa hoặc gần, kía tất cả lược nói là một sắc uẩn. Vì nghĩa chứa nhóm như chứa nhóm của cải, như vậy cho đến thức uẩn. Lại nữa khổ tướng rộng lớn nên gọi là uẩn, như đại tài uẩn như khế kinh nói: Như vậy thuần đại khổ uẩn nhóm họp. Lại nữa gánh vác tạp nhiễm gọi là uẩn, như vai gánh vác.

Nghĩa của giới thế nào? Là nghĩa chủng tử của tất cả pháp, lại có thể giữ nghĩa của tự tướng, lại có thể giữ nghĩa của tính nhân quả, lại gìn giữ nghĩa sai biệt của tất cả pháp.

Nghĩa của xứ thế nào? Nghĩa của thức sinh trưởng môn là nghĩa của xứ.

Như Phật đã nói sắc như bọt nước, thụ như bong bóng nước, tưởng như sóng nắng, hành như lá chuối, thức như ảo hóa. Dùng nghĩa gì mà nói sắc như bọt nước tụ cho đến thức như ảo hóa? Dùng nghĩa vô ngã, lìa tịnh.

HẾT QUYỂN 1

Pages: 1 2 3 4 5 6 7