LUẬN ĐẠI THỪA A TỲ ĐẠT MA TẬP

SỐ 1605

Tác giả: Bồ tát Vô Trước.
Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

QUYỂN 3

PHẨM 1: BA PHÁP TRONG PHẦN BẢN SỰ (Phần 3)

Thế nào là duyên? Có bao nhiêu duyên? Vì sao lại quán duyên? Là do nhân, do đẳng vô gián, do sở duyên, do tăng thượng, đó là nghĩa duyên. Tất cả là duyên. Vì xả bỏ chấp trước ngã là nhân, pháp, nên quán sát duyên.

Thế nào là nhân duyên? Là thức A-lại-da và tập khí thiện. Lại nữa, tự tánh, sai khác, giúp đỡ, cùng hành, tăng ích, chướng ngại, nhiếp thọ, là nghĩa nhân duyên.

Tự tánh, là nhân năng tác.

Tự tánh sai khác, là nhân năng tác sai khác, lược có hai mươi thứ:

  1. Sinh năng tác, là thức hòa hợp đối với thức.
  2. Trụ năng tác, là thực (ăn) đối với đã sinh và cầu sinh hữu tình.
  3. Trì năng tác, là đại địa đối với hữu tình.
  4. Chiếu năng tác, là đăng (đèn) đối với các sắc.
  5. Biến hoại năng tác, là lửa đối với củi.
  6. Phân ly năng tác, là lưỡi liềm đối với cái bị cắt.
  7. Chuyển biến năng tác, là công xảo trí đối với các vật như vàng bạc v.v…
  8. Tín giải năng tác, là khói đối với lửa.
  9. Hiển rõ năng tác, là tông nhân dụ đối với sự thành nghĩa.
  10. Đẳng chí năng tác, là thánh đạo đối với Niết-bàn.
  11. Tùy thuyết năng tác, là danh, tưởng, kiến.
  12. Quán đãi năng tác, là quán chờ đây đối với kia cầu muốn sinh, như chờ đói khát mà tìm kiếm thức uống ăn.
  13. Khiên dẫn năng tác, là duyên cách xa, như vô minh đối với già chết.
  14. Sinh khởi năng tác, là duyên lân cận, như vô minh đối với hành.
  15. Nhiếp thọ năng tác, là các duyên khác, như do ruộng nước phân đối với hạt lúa sinh.
  16. Dẫn phát năng tác, là thuận theo duyên, như quan chánh sự của vua làm cho vua vui vẻ.
  17. Định biệt năng tác, là duyên sai khác, như duyên năm cõi đối với quả năm cõi.
  18. Đồng sự năng tác, là duyên hòa hợp, như căn không hoại cảnh giới hiện tiền, tác ý chánh khởi đối với thức đã sinh.
  19. Tương vi năng tác, là duyên chướng ngại, như mưa đá đối với giống lúa.
  20. Bất tương vi năng tác, là duyên không chướng ngại, như lúa giống không chướng ngại.

Giúp đỡ, là các pháp cùng có chung mà sinh thì không thiếu giảm, như bốn Đại chủng và sắc được tạo ra, tùy theo sự thích ứng của nó.

Cùng hành, là các pháp cùng có cùng hành sở duyên, không có khuyết giảm, như tâm, tâm sở.

Tăng ích, là đời trước tu pháp thiện, bất thiện và vô ký, có thể khiến cho đời sau các pháp thiện… Lần lượt tăng thắng, sinh khởi mãi về sau.

Chướng ngại, là tùy chỗ tập quen các phiền não, tùy chỗ có hoặc đều được tăng trưởng nối nhau vững chắc, khiến cho sự nối tiếp xa lánh Niết-bàn.

Nhiếp thọ, là pháp bất thiện và thiện hữu lậu có thể nhiếp thọ tự thể.

Thế nào là duyên đẳng vô gián? Là khoảng giữa không có ngăn cách, vì đều không gián đoạn. Đồng phần, dị phần, tâm, tâm sở sinh, vì đều không gián đoạn.

Thế nào là duyên sở duyên? Là có cảnh sai khác ở sở duyên, không có cảnh sai khác ở sở duyên, không có cảnh của hành tướng khác ở sở duyên, có cảnh của hành tướng khác ở sở duyên, có cảnh của sự ở sở duyên, không cảnh của sự ở sở duyên, sự ở sở duyên, phân biệt ở sở duyên, có điên đảo ở sở duyên, không điên đảo nơi sở duyên, có ngại ở sở duyên, vô ngại ở sở duyên, đó là nghĩa duyên sở duyên.

Thế nào là duyên tăng thượng? Là nhậm trì tăng thượng, dẫn phát tăng thượng, câu hữu tăng thượng, cảnh giới tăng thượng, sản sinh tăng thượng, trụ trì tăng thượng, thọ dụng quả tăng thượng, thế gian thanh tịnh ly dục tăng thượng, xuất thế thanh tịnh ly dục tăng thượng. Đó là nghĩa duyên tăng thượng .

Thế nào là đồng phần bỉ đồng phần? Có bao nhiêu đồng phần bỉ đồng phần ? Vì sao lại quán đồng phần bỉ đồng phần? Là không lìa thức mà tướng kia tự như căn đối với cảnh nối tiếp sinh, lìa tựa tướng thức, tự nối nhau sinh. Đó là nghĩa đồng phần bỉ đồng phần. Một phần của sắc uẩn, một phần của năm hữu cõi Sắc xứ như nhãn… là đồng phần bỉ đồng phần. Để xả chấp trước tương ưng với thức và bất tương ưng là ngã, nên quán sát đồng phần bỉ đồng phần.

Thế nào là chấp thọ? Có bao nhiêu chấp thọ? Vì sao lại quán chấp thọ? Thọ sinh chỗ nương là sắc, là nghĩa chấp thọ. Một phần của sắc uẩn, toàn phần của năm hữu sắc, giới, xứ và một phần của bốn xứ là chấp thọ. Để xả chấp trước thân tự tại chuyển là ngã, nên quán sát chấp thọ.

Thế nào là căn? Có bao nhiêu căn? Vì sao lại quán căn? Là giữ lấy cảnh tăng thượng, chủng tộc bất đoạn tăng thượng, chúng đồng phần trụ tăng thượng, thọ dụng nghiệp tịnh bất tịnh quả tăng thượng, thế gian lìa dục tăng thượng, xuất thế lìa dục tăng thượng, đó là nghĩa căn. Toàn phần của thọ uẩn và thức uẩn, một phần sắc uẩn và hành uẩn, toàn phần mười hai giới, sáu xứ và một phần của pháp giới pháp xứ là căn. Để xả chấp trước tăng thượng là ngã, nên quán sát căn.

Thế nào là tánh khổ khổ? Có bao nhiêu tánh khổ khổ? Vì sao lại quán tánh khổ khổ? Là tự tướng khổ thọ, tự tướng thuận theo khổ thọ pháp, là nghĩa của tánh khổ khổ. Một phần của tất cả là tự tánh của khổ khổ. Để xả bỏ chấp trước hữu khổ là ngã, nên quán sát tánh khổ khổ .

Thế nào là tánh khổ hoại? Có bao nhiêu tánh khổ hoại? Vì sao lại quán tánh khổ hoại? Là tự tướng lạc thọ biến hoại, thuận theo lạc thọ tự tướng của pháp biến hoại, đối với tâm bị ái biến hoại, là nghĩa của tánh khổ hoại. Một phần của tất cả là tánh khổ hoại. Để xả bỏ chấp trước hữu lạc là ngã, nên quán sát tánh khổ hoại.

Thế nào là tánh khổ hành? Có bao nhiêu tánh khổ hành? Vì sao lại quán tánh khổ hành? Là tự tướng bất khổ bất lạc tho, tự tướng thuận theo bất khổ bất lạc thọ, đối với sự nhiếp thọ của hai thứ thô nặng, không lìa chỗ tùy thuộc không an ổn của hai vô thường, là nghĩa của tánh khổ hành. Trừ một phần trong ba giới, hai xứ và các uẩn, tất cả là tánh khổ hành. Để xả chấp trước hữu bất khổ bất lạc là ngã, nên quán sát tánh khổ hành.

Thế nào là hữu dị thục? Có bao nhiêu hữu dị thục ? Vì sao lại quán hữu dị thục? Là hữu lậu bất thiện và thiện là hữu dị thục. Một phần của mười giới, bốn xứ và các uẩn là hữu dị thục. Để xả bỏ chấp trước khả năng xả bỏ, nối tiếp các uẩn là ngã, nên quán sát hữu dị thục. Lại nữa, dị thục, là chỉ có thức A-lại-da và pháp tương ưng, ngoài ra chỉ có dị thục sinh phi dị thục.

Thế nào là thực (ăn)? Có bao nhiêu thực? Vì sao lại quán thực? Là biến hoại, có biến hoại là cảnh giới, có cảnh giới là hy vọng, có hy vọng là thủ, có thủ nghĩa là thực. Một phần của ba uẩn, mười một giới, năm xứ là thực. Để xả chấp trước do thực trụ ngã, nên quán sát thực. Lại nữa, kiến lập thực sai khác lược có bốn thứ:

  1. Bất tịnh dựa vào chỉ trụ thực.
  2. Tịnh bất tịnh dựa vào chỉ trụ thực.
  3. Thanh tịnh dựa vào trụ thực.
  4. Thị hiện trụ thực (trụ thật dựa vào bất tịnh. Trụ thật dựa vào tịnh, bất tịnh.trụ thật dựa vào thanh tịnh và trụ thật thị hiện)

Thế nào là hữu thượng? Có bao nhiêu hữu thượng? Vì sao lại quán hữu thượng? Là tất cả hữu vi, một phần của vô vi, là nghĩa có thượng. Trừ một phần pháp giới pháp xứ ra, tất cả là vô thượng. Để xả chấp trước sự thấp kém là ngã, nên quán sát hữu thượng.

Thế nào là vô thượng? Có bao nhiêu vô thượng? Vì sao lại quán vô thượng? Một phần vô vi là nghĩa của vô thượng, một phần pháp giới pháp xứ là hữu thượng. Để xả bỏ chấp trước sự tối thắng là ngã, nên quán sát vô thượng.

Do điều nói về lý sai khác nầy, môn vô lượng khác có thể quán sát tương tự. Lại nữa, uẩn giới xứ sai khác lược có ba thứ:

  1. Tướng sai khác của biến kế sở chấp.
  2. Tướng sai khác của sự phân biệt.
  3. Tướng sai khác của pháp tánh.

Thế nào là tướng sai khác của biến kế sở chấp? Là biến kế sở chấp ngã trong uẩn giới xứ, là mạng, hữu tình, là sinh, là dưỡng, là sác thủ, là ý sinh, là Ma-nạp-bà (thiếu niên)…

Thế nào là tướng sai khác của sự phân biệt? Tức là pháp uẩn giới xứ.

Thế nào là tướng sai khác của pháp tánh? Tức là vô tánh của ngã và hữu tánh của vô ngã trong uẩn giới xứ.

Lại có bốn thứ sai khác:

  1. Tướng sai khác.
  2. Phân biệt sai khác.
  3. Y chỉ sai khác.
  4. Nối nhau sai khác.

Thế nào là tướng sai khác? Là uẩn giới xứ mỗi mỗi tự tướng sai khác.

Thế nào là phân biệt sai khác? Tức là thật có và giả có trong uẩn giới xứ. Thế tục có, thắng nghĩa có, hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến. Vô lượng sai khác, như vậy có phân biệt nói như trước.

Thế nào là y chỉ sai khác? Là cho đến chỗ nương sai khác của hữu tình có như vậy, phải biết uẩn giới xứ cũng thế.

Thế nào là nối nhau sai khác? Là mỗi sát-na uẩn giới xứ chuyển biến.

Đối với tướng sai khác thiện xảo thì rõ biết pháp nào? Là nhận biết rõ tội lỗi của ngã chấp. Đối với phân biệt sai khác thiện xảo thì nhận biết rõ pháp nào? Là nhận biết rõ lỗi lầm nhóm tưởng. Đối với y chỉ sai khác thiện xảo thì nhận biết rõ pháp nào? Là biết rõ không tạo mà được, tuy làm nhưng mất lỗi của tưởng. Đối với nối nhau sai khác thiện xảo thì biết rõ pháp nào? Là biết rõ lỗi an trụ trong tưởng.

Lại nữa, uẩn giới xứ có sáu thứ sai khác:

  1. Ngoại môn sai khác.
  2. Nội môn sai khác.
  3. Trường thời sai khác.
  4. Phần hạn sai khác.
  5. Tạm thời sai khác.
  6. Hiển thị sai khác.

Thế nào là ngoại môn sai khác? Là đa phần cõi Dục sai khác.

Thế nào là nội môn sai khác? Là tất cả định địa.

Thế nào là trường thời sai khác? Là các dị sinh.

Thế nào là phần hạn sai khác? Là các bậc Hữu học, trừ sát-na sau cuối nơi uẩn giới xứ thuộc bậc Vô học khác.

Thế nào là tạm thời sai khác? Là sát-na sau cùng nơi uẩn giới xứ thuộc các bậc Vô học.

Thế nào là hiển thị sai khác? Là sự thị hiện uẩn giới xứ của các Đức Phật và các Đức Bồ-tát đã đạt rốt ráo.

 

 

PHẨM 2: NHIẾP TRONG PHẦN BẢN SỰ

Thế nào là thâu nhiếp? Lược nói nhiếp có mười một thứ:

  1. Tướng nhiếp.
  2. Giới nhiếp.
  3. Chủng loại nhiếp.
  4. Phần vị nhiếp.
  5. Bạn nhiếp.
  6. Phương nhiếp.
  7. Thời nhiếp.
  8. Nhất phần nhiếp.
  9. Cụ phần nhiếp.
  10. Cánh hỗ nhiếp.
  11. Thắng nghĩa nhiếp.

Thế nào là tướng nhiếp? Là mỗi tự tướng của uẩn giới xứ, tức là thể tự nhiếp.

Thế nào là giới nhiếp? Là tất cả hạt giống của thức A-lại-da thuộc uẩn giới xứ có thể nhiếp giới kia.

Thế nào là chủng loại thâu nhiếp? Là tướng của uẩn giới xứ tuy sai khác, nhưng nghĩa uẩn nghĩa giới nghĩa xứ lần lượt thâu nhiếp nhau.

Thế nào là phần vị thâu nhiếp? Là uẩn giới xứ của lạc vị tức là tự tướng thâu nhiếp. Khổ vị, bất khổ bất lạc vị cũng vậy, vì phần vị bình đẳng.

Thế nào là bạn thâu nhiếp? Là sắc uẩn cùng với các uẩn còn lại làm bạn lẫn nhau, tức là thâu nhiếp giúp đỡ. Uẩn giới xứ khác cũng vậy.

Thế nào là phương thâu nhiếp? Là dựa theo phương Đông, các uẩn giới xứ trở lại thâu nhiếp tự tướng uẩn giới xứ của các phương khác, cũng vậy.

Thế nào là thời thâu nhiếp? Là các uẩn giới xứ đời quá khứ trở lại thâu nhiếp tự tướng. Các uẩn giới xứ vị lai và hiện tại cũng vậy.

Thế nào là nhất phần thâu nhiếp? Là tất cả pháp, chỗ thâu nhiếp của uẩn giới xứ chỉ thâu nhiếp nhất phần, chẳng phải phần nào khác, phải biết là nhất phần nhiếp.

Thế nào là cụ phần thâu nhiếp? Là tất cả pháp, đã thâu nhiếp uẩn giới xứ có thể thâu nhiếp toàn phần, phải biết đó là cụ phần nhiếp.

Thế nào là cánh hỗ thâu nhiếp? Là sắc uẩn thâu nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ, là toàn phần của mười giới, phần ít của một xứ.

Thọ uẩn thâu nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Phần ít của một giới một xứ.

Như thọ uẩn, tưởng và hành uẩn cũng vậy.

Thức uẩn thâu nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Thâu nhiếp bảy giới, một xứ.

Nhãn giới thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Phần ít của sắc uẩn, toàn phần một xứ.

Như nhãn giới, nhĩ tỷ thiệt thân sắc thanh hương vị và xúc giới cũng vậy.

Ý giới thâu nhiếp bao nhiêu uẩn, bao nhiêu xứ? Thâu nhiếp một uẩn, một xứ.

Pháp giới thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Thâu nhiếp toàn phần ba uẩn, phần ít của sắc uẩn, toàn phần một xứ.

Nhãn thức giới thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Thâu nhiếp phần ít của thức uẩn và ý xứ.

Như nhãn thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân và ý thức giới cũng vậy.

Nhãn xứ thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Thâu nhiếp ít phần của sắc uẩn, toàn phần một giới.

Như nhãn xứ, nhĩ tỷ thiệt, thân sắc thanh hương vị và xúc xứ cũng vậy.

Ý xứ thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Thâu nhiếp một uẩn, bảy giới.

Pháp xứ thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Thâu nhiếp toàn phần ba uẩn, phần ít một giới. Như vậy các pháp khác thì lấy tên của uẩn giới xứ mà nói, và tên của phi uẩn giới xứ mà nói. Như thật có, giả có, thế tục có và thắng nghĩa có, sở tri, sở thức, sở đạt, hữu sắc, vô sắc, hữu kiến, vô kiến, các pháp như vậy theo chỗ hiển bày ở trước, phải biết tùy theo sự thích ứng của nó cùng với uẩn giới xứ mà lại cùng thâu nhiếp (cánh hổ nhiếp) tất cả.

Thế nào là thắng nghĩa thâu nhiếp? Là uẩn giới xứ thuộc về chân như. Đối với nhiếp thiện xảo thì được thắng lợi gì? Được ở sở duyên duyên, lược tập hợp thắng lợi, tùy theo các cảnh đó lược nhóm họp tâm. Gốc lành như vậy như vậy mà tăng thắng.

 

PHẨM 3: TƯƠNG ƯNG

– Thế nào là tương ưng? Nói lược tương ưng có sáu thứ:

  1. Tương ưng không lìa nhau.
  2. Hòa hợp tương ưng.
  3. Nhóm họp tương ưng.
  4. Câu hữu tương ưng.
  5. Tác sự tương ưng.
  6. Đồng hành tương ưng.

Thế nào là tương ưng không lìa nhau? Là tất cả có phương phần sắc và xứ cực vi không lìa nhau.

Thế nào là hòa hợp tương ưng? Là cực vi trở lên, tất cả có phương phần sắc hòa hợp lẫn nhau.

Thế nào là nhóm họp tương ưng? Là phương, phần, nhóm, sắc lần lượt tập hợp.

Thế nào là cùng hữu tương ưng? Là trong một thân, các uẩn giới xứ đồng thời trôi lăn, đồng sinh trụ diệt.

Thế nào là tác sự tương ưng? Là đối với một việc làm lần lượt thâu thóm nhau, như hai Bí-sô tùy cùng một việc làm mà tương ưng nhau.

Thế nào là đồng hành tương ưng? Là tâm, tâm sở cùng một đối tượng duyên lần lượt đồng hành. Đồng hành tương ưng nầy lại có nhiều nghĩa: tha tánh tương ưng, không phải tánh của chính mình, bất tương vi tương ưng, không phải tương vi, đồng thời tương ưng, không phải dị thời, giới địa đồng phần tương ưng, chẳng phải giới địa khác phần.

Lại có nhất thiết biến hành đồng hành tương ưng, là thọ, tưởng, tư, xứ, tác ý và thức.

Lại có nhiễm ô biến hành đồng hành tương ưng, là đối với bốn thứ phiền não của ý nhiễm ô.

Lại có phi nhất thiết thời đồng hành tương ưng, là nương theo tâm, hoặc có khi khởi các pháp thiện như tín…, hoặc có khi khởi các pháp phiền não và tùy phiền não như tham…

Lại có phần vị đồng hành tương ưng, là cùng với lạc thọ lãnh thọ các pháp tương ưng, cùng với khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ lãnh thọ các pháp tương ưng.

Lại có vô gián đồng hành tương ưng, là ở hữu tâm vị.

Lại có hữu gián đồng hành tương ưng, là sự gián đoạn định vô tâm.

Lại có ngoại môn đồng hành tương ưng, là phần nhiều ở cõi Dục

trói buộc tâm, tâm sở.

Lại có nội môn đồng hành tương ưng, là tất cả tâm, tâm sở của các định địa.

Lại có tằng tập đồng hành tương ưng, là tất cả các tâm, tâm sở của các dị sinh và một phần tâm, tâm sở của bậc Hữu học.

Lại có vị tằng tập đồng hành tương ưng, là các tâm, tâm sở xuất thế gian, trước và sau khi xuất thế, là điều mà các tâm, tâm sở đó đạt được.

Đối với tương ưng thiện xảo được thắng lợi gì? Có thể khéo tỏ ngộ chỉ nương vào tâm, có nghĩa tương ưng, bất tương ưng đối với các pháp nhiễm, tịnh của thọ tưởng… Do sự tỏ ngộ nầy có thể lìa bỏ chấp ngã là năng thọ, năng tưởng, năng tư, năng niệm, là chấp trước nhiễm tịnh, lại cũng có thể khéo nhanh chóng nhập vô ngã.

 

 

PHẨM 4: THÀNH TỰU TRONG PHẦN BẢN SỰ

Thế nào là thành tựu? Là thành tựu tướng như đã nói ở trước. Thành tựu nay có ba thứ sai khác: 1. Hạt giống thành tựu. 2. Tự tại thành tựu. 3. Hiện hành thành tựu.

Thế nào là hạt giống thành tựu? Nếu sinh nơi cõi Dục thì cõi Sắc và Vô sắc bị trói buộc do phiền não và tùy phiền não, vì hạt giống thành tựu nên thành tựu và thiện sinh đắc. Nếu sinh ở cõi Sắc thì ở cõi Dục bị trói buộc do phiền não và tùy phiền não, vì hạt giống thành tựu nên thành tựu, cũng gọi là không thành tựu. Cõi Sắc và Vô sắc bị trói buộc do phiền não và tùy phiền não, vì hạt giống thành tựu nên thành tựu và thiện sinh đắc. Nếu sinh cõi Vô sắc thì cõi Dục và Sắc bị trói buộc do phiền não và tùy phiền não, vì hạt giống thành tựu nên thành tựu, cũng gọi là bất thành tựu. Cõi Vô sắc bị trói buộc do phiền não và tùy phiền não, vì hạt giống thành tựu nên thành tựu và thiện sinh đắc. Nếu đã đắc đạo đối trị của ba giới, thì tùy phẩm loại như vậy như vậy mà đối trị đã sinh, phẩm loại như vậy, như vậy, do hạt giống thành tựu mà được không thành tựu. Tùy phẩm loại như vậy như vậy mà đối trị chưa sinh, phẩm loại như vậy do hạt giống thành tựu nên thành tựu.

Thế nào là tự tại thành tựu ? Là các gia hạnh pháp thiện, hoặc tĩnh lự giải thoát của thế gian và xuất thế gian, Tam-ma-địa, tam-ma-bát-để với các công đức và một phần pháp vô ký do tự tại thành tựu nên thành tựu.

Thế nào là hiện hành thành tựu? Là các pháp uẩn giới xứ tùy chỗ hiện tiền, hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc vô ký, các pháp đó do hiện hành thành tựu nên thành tựu. Nếu người đã dứt thiện thì tất cả pháp thiện do hạt giống thành tựu nên thành tựu, cũng gọi là không thành tựu.

Nếu không phải là pháp Niết-bàn, là Nhất-xiển-để-ca rốt ráo thành tựu các pháp tạp nhiễm, do thiếu nhân giải thoát cũng gọi là Ađiên-để-ca vì giải thoát kia được nhân thì không bao giờ thành tựu.

Đối với thành tựu thiện xảo thì được thắng lợi gì? Là có thể khéo biết rõ các pháp tăng giảm, vì biết tăng giảm nên đối với sự hưng suy của thế gian lìa tưởng quyết định, cho đến có thể dứt hoặc ái hoặc giận dữ.

 

Phẩm 5: PHẨM ĐẾ TRONG PHẦN QUYẾT TRẠCH (Phần 1)

Thế nào là quyết trạch? Nói lược quyết trạch có bốn thứ:

  1. Đế quyết trạch.
  2. Pháp quyết trạch.
  3. Đắc quyết trạch.
  4. Luận nghi quyết trạch.

Thế nào là đế quyết trạch: Là bốn Thánh đế, Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.

Thế nào là Khổ đế? Là nơi sinh và chỗ nương của hữu tình.

Thế nào là nơi sinh và chỗ nương của các hữu tình? Tức là các hữu tình đọa vào các đường Na-lạc-ca, bàng sinh, ngạ quỷ, người, trời.

Người là các châu Đông Tỳ-đề-ha, Tây Cù-đà-ni, Nam thiệm bộ, Bắc câu-lô.

Trời là bốn Đại vương chúng, trời ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Vô vân, trời Phước sinh, trời Quảng quả, trời Vô tưởng hữu tình, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc rốt ráo, trời Vô biên không xứ, trời Vô biên thức xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Thế nào là chỗ nương để sinh của hữu tình? Tức là khi thế gian, tức là lớp nước nương Phong luân, lớp đất nương Thủy luân. Nương vào địa Luân nầy có núi Tô-mê-lô, núi bảy lớp núi vàng, bốn Đại châu, tám tiểu châu, nội hải, ngoại hải. Bốn lớp bên ngoài núi Tô-mê-lô là chỗ ở của bốn Đại trời vương chúng, là trụ xứ của trời Tam thập tam. Ngoài luân vi sơn là cung điện trên hư không, hoặc là chỗ ở riêng của trời Dạma, trời Đỗ-sử-đa, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại và các tầng trời cõi Sắc. Chỗ ở riêng của các A-tố-lạc và chỗ ở riêng của các Na-lạc-ca (địa ngục), là Na-lạc-ca nhiệt, Na-lạc-ca lạnh, Na-lạc-ca cô độc và chỗ ở riêng của một phần bàng sinh, ngạ quỷ. Cho đến một mặt trời một mặt trăng vòng quanh soi sáng, chỗ được chiếu sáng gọi là một thế giới, như vậy trong một ngàn thế giới có một ngàn mặt trời, một ngàn mặt trăng, một ngàn núi chúa Tô-mê-lô, một ngàn bốn Đại châu, một ngàn bốn vị trời Đại vương chúng, một ngàn cõi trời ba mươi ba, một ngàn trời Dạma, một ngàn trời Đỗ-sử-đa, một trời ngàn lạc biến hóa, một ngàn trời tha hóa tự tại, một ngàn trời phạm thế, như vậy gọi chung là một tiểu thiên thế giới. Một ngàn tiểu thiên thế giới gọi là Trung thiên thế giới. Một ngàn trung thiên thế giới gọi là Đại thiên thế giới thứ ba. Như vậy tam thiên đại thiên thế giới gồm có núi đại luân vi bao xung quanh. Lại nữa, tam thiên đại thiên thế giới nầy đồng hoại đồng thành. Ví như trời mưa giọt nước mưa như trục xe không gián không đoạn từ trên không rót xuống, như vậy ở phương Đông vô gián vô đoạn vô lượng thế giới, hoặc có thế giới sắp hoại, hoặc có thế giới sắp thành, hoặc có đang hoại, hoặc hoại rồi trụ, hoặc có đang thành, hoặc thành rồi trụ. Như đối với phương Đông, cho đến tất cả mười phương cũng vậy. Hoặc hữu tình thế gian, hoặc khí thế gian, đã sinh do năng lực của nghiệp phiền não, chỗ khởi tăng thượng của nghiệp phiền não, gọi chung là khổ đế.

Lại có thế giới thanh tịnh không phải khổ đế đã khởi tăng thượng của nghiệp phiền não, nhưng do đã dẫn tăng thượng của đại nguyện từ gốc lành thanh tịnh nên sinh xứ nầy không thể nghĩ bàn, chỉ có sự giác ngộ của Phật, còn lại chẳng phải cảnh giới tĩnh lự của người đắc tĩnh lự, huống chi là người tầm tư.

Lại nữa, tướng khổ có tám thứ sai khác:

  1. Sinh khổ.
  2. Già khổ.
  3. Bệnh khổ.
  4. Chết khổ.
  5. Oán ghét mà phải gặp.
  6. khổ thương yêu mà chia lìa.
  7. Cầu bất đắc khổ.
  8. Lược nhiếp nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ.

Sinh khổ do nhân gì? Là bị bức bách của nhiều thứ khổ, là chỗ nương của các khổ khác.

Già khổ do nhân gì? Là thời phần biến hoại khổ.

Bệnh khổ do nhân gì? Là khi do Đại chủng đổi khác.

Chết khổ do nhân gì? Là khổ mạng sống biến hoại.

Oán tắng hội khổ do nhân gì? Là oán ghét hội hợp gặp nhau sinh khổ.

Ái biệt ly khổ do nhân gì? Là do yêu thương chia lìa sinh khổ.

Cầu bất đắc khổ do nhân gì? Là sự mong cầu không có kiết quả sinh khổ.

Lược nhiếp nhiếp tất cả năm thủ uẩn nhân gì là khổ? Là thô nặng sinh khổ.

Tám thứ như vậy lược nhiếp nhiếp làm sáu thứ:

  1. Bức bách khổ.
  2. Chuyển biến khổ.
  3. Hợp hội khổ.
  4. Biệt ly khổ.
  5. Sự mong cầu không đạt quả khổ.
  6. Thô nặng khổ.

Sáu thứ như vậy nếu chia rộng thì làm tám thứ, hoặc sáu hoặc tám đều bình đẳng. Như nói ba khổ, thì tám khổ ở đây là ba thâu nhiếp tám hay là tám thâu nhiếp ba? Lần lượt thâu nhiếp nhau, điều gọi là sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, tử khổ, oán tắng hội khổ, năm thứ nầy có thể hiển bày về khổ khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, hai thứ nầy có thể hiển bày về khổ hoại, lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ, một thứ nầy có thể hiển bày về khổ hành. Như nói hai khổ là thế tục đế khổ và thắng nghĩa đế khổ. Thế nào là thế tục đế khổ? Thế nào là thắng nghĩa đế khổ? Là sinh khổ cho đến cầu bất đắc khổ, đó là thế tục đế khổ. Lược nhiếp tất cả cả năm thủ uẩn khổ là thắng nghĩa đế khổ.

Thế nào là cộng tướng của Khổ đế? Là tướng vô thường, tướng khổ, tướng không và tướng vô ngã.

Thế nào là tướng Vô thường? Lược có mười hai tướng tướng:

  1. Tướng phi hữu.
  2. Tướng hoại diệt.
  3. Tướng thay đổi.
  4. Tướng biệt ly.
  5. Tướng hiện tiền.
  6. Tướng pháp nhĩ.
  7. Tướng sát-na.
  8. Tướng nối nhau.
  9. Tướng bệnh đẳng.
  10. Tướng chủng chủng tâm hành chuyển.
  11. Tướng tư sản hưng suy.
  12. Tướng khi thế gian thành hoại.

Thế nào là tướng phi hữu? Là uẩn giới xứ đối với tất cả thời, tánh của ngã và ngã sở thường phi hữu.

Thế nào là tướng hoại diệt? Là các hành đã sinh rồi liền diệt, tạm có rồi không.

Thế nào là tướng thay đổi? Là các hành dị sinh do không tương tự, nối nhau chuyển.

Thế nào là tướng chia lìa? Là đối với các hành bị mất lực tăng thượng, hoặc sự thâu nhiếp của tha mà chấp cho là tự mình có.

Thế nào là tướng hiện tiền? Là đang ở tại vô thường, do nhân đeo đuổi theo mà hiện tại thọ vô thường.

Thế nào là tướng pháp nhĩ? Là vị lai vô thường do nhân đeo đuổi mà quyết định sẽ chịuvô thường.

Thế nào là tướng sát-na? Là sát-na của các hành sau đó thì không trụ.

Thế nào là tướng nối tiếp? Là vô thỉ đến nay các hành sinh diệt nối nhau không dứt.

Thế nào là tướng bệnh đẳng? Là thời phần, thọ mạng và thay đổi của bốn Đại.

Thế nào là tướng chủng chủng tâm hành chuyển? Là đối với một lúc khởi tâm có tham, hoặc trong nhất thời khởi tâm lìa tham, như vậy có sân lìa sân, có si lìa si, hoặc hợp hoặc tan, hoặc xuống hoặc lên, hoặc dao động hoặc lìa dao động, hoặc không vắng lặng hoặc vắng lặng, hoặc định hoặc bất định, các tâm vận hành trôi lăn như vậy.

Thế nào là tướng tư sản hưng suy? Là các thiện hưng thịnh cuối cùng cũng suy biến.

Thế nào là tướng khi thế gian thành hoại? Là ba thứ lửa, nước, gió thành hoại mà có ba tai họa. Đảnh có nghĩa là tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Ngoài tĩnh lự thứ tư là các cung điện, tuy không ngoài ba tai họa thành hoại, nhưng các vị trời và các cung điện đó cùng sinh cùng diệt mà nói có thành hoại.

Lại có ba thứ trung kiếp, đó là đói khát, dịch bệnh, đao binh. Tiểu tam tai kiếp nầy, tại vị rốt ráo mới xuất hiện, là thế giới đã thành. Một Trung kiếp đầu tiên chỉ có giảm, một Trung kiếp sau chỉ có tăng, mười tám Trung kiếp còn lại thì vừa tăng vừa giảm, hai mươi trung kiếp thì thế giới đang hoại. hai mươi trung kiếp thì thế giới đã hoại rồi trụ, hai mươi trung kiếp thì thế giới đang thành. hai mươi trung kiếp thì thế giới đã thành rồi trụ, cộng chung tám mươi Trung kiếp nầy là một Đại kiếp. Do kiếp số nầy nói lên tuổi thọ của các vị trời ở cõi Sắc và cõi Vô sắc, như nói vì thọ mạng hết do đó phước hết, do đó nghiệp hết. Các hữu tình theo các xứ kia mà chìm đắm.

Thế nào là tuổi thọ hết? Là khi chết.

Thế nào là phước hết? Là chết phi thời, tức là phi phước mà chết, vì hữu tình kia tham chấp định vị nên phước lực giảm hết, do đó chết đi.

Thế nào là Nghiệp hết? Là thuận sinh thọ nghiệp và thuận hậu thọ nghiệp đồng thời hết nên chết.

Thế nào là tướng khổ? Hoặc ba khổ, hoặc tám khổ, hoặc sáu khổ, nói rộng như trước. Tại sao trong kinh nói nếu vô thường là khổ? Là do hai phần vô thường làm duyên cho tướng khổ có thể biết, là sinh phần vô thường làm duyên, tánh khổ khổ có thể biết rõ, diệt phần vô thường làm duyên, tánh khổ hoại có thể biết rõ, cùng phần vô thường làm duyên, tánh khổ hành có thể biết rõ. Tức là nương vào nghĩa nầy mà đức Bạc-già-phạm nói: “Các hành vô thường, các hành biến hoại”. Lại nữa, nương vào nghĩa nầy nên nói: “Những tất cả thọ, ta nói đều là khổ”. Lại nữa, đối với hai pháp sinh và diệt sự tùy theo các hành mà có tám khổ như sinh, già…, vì tánh có thể biết rõ. Phật nói: “Nếu vô thường tức là khổ”. Lại nữa, đối với vô thường trong các hành, có các khổ như sinh, già… có thể biết rõ. Như lai nương vào mật ý nầy nói: “Do vô thường nên khổ, ch phải tất cả hành”.

Thế nào là tướng không? Hoặc đối với xứ nầy, ở đây là phi hữu, do lý nầy nên chánh quán không. Hoặc ở xứ nầy ngoài tướng không ra là hữu. Do lý nầy mà biết như thật là có, đó gọi là khéo nhập không tánh. Như thật biết, là nghĩa không điên đảo. Đối với xứ nào, cái gì phi hữu ? Đối với uẩn giới xứ thường hằng ngưng trụ, pháp không biến hoại, ngã và ngã sở là phi hữu. Do lý nầy mà các pháp kia đều là không. Ở tại xứ nào, cái gì là hữu khác? Là tánh vô ngã tại xứ nầy, ngã nầy là vô tánh, vô ngã hữu tánh, đó là tánh không, nên đức Bạc-già-phạm mật ý nói: “Hữu thì biết như thật là hữu, vô thì biết như thật là vô”.

Lại có ba thứ tánh không:

  1. Tự tánh không tánh.
  2. Như tánh không tánh.
  3. Chân tánh không tánh.

Tánh thứ nhất nương vào tự tánh Biến kế sở chấp mà quán, tánh thứ hai nương vào tự tánh Y tha khởi mà quán, tánh thứ ba nương vào tự tánh Viên thành thật mà quán.

Thế nào là tướng Vô ngã? Như luận, của tôi đây đã lập tướng ngã là uẩn giới xứ thì chẳng phải tướng nầy, vì tướng ngã của uẩn giới xứ không có, gọi là tướng vô ngã. Cho nên Đức Bạc-già-phạm mật ý nói: “Tất cả pháp đều là vô ngã”. Như Thế tôn nói thì uẩn giới xứ nầy là phi ngã sở, đây là phi ngã xứ, đây là phi ngã ngã. Đối với nghĩa đó phải dùng chánh tuệ đúng như thật mà quán sát. Điều nầy nói nghĩa gì? Là đối với nội sự mật ý nói “Tất cả pháp nầy là phi ngã sở”, đối với ngoại sự thì mật ý nói “đây là phi ngã xứ, đây là phi ngã ngã”. Vì sao? Vì đối với ngoại sự chỉ chấp tướng của ngã sở, do đó chỉ dứt trừ ngã sở. Đối với nội sự thì chấp chung tướng của ngã và ngã sở, nên dứt trừ cả hai ngã và ngã sở.

Trước đã nói vô thường đều là tướng sát-na, điều đó làm sao biết? Như tâm, tâm sở là tướng sát-na, thì phải biết sắc… cũng là tướng sát-na. Do tâm chấp thọ, cùng tâm an nguy, tùy tâm chuyển biến, là chỗ nương tựa của tâm, tâm tăng thượng sinh, tâm tự tại chuyển. Lại nữa, đối với vị sau cùng thì biến hoại có thể đạt, sinh đã không chờ duyên, vì tự nhiên diệt hoại nên phải quán sắc… cũng là niệm niệm diệt.

Như Thế tôn nói: “Tất cả sắc, tất cả sắc kia là bốn đại chủng hoặc do bốn Đại chủng tạo ra”. Đó là nương vào mật ý gì để nói? Nương vào ý cho là có, nói đồng tại một xứ, nương vào xứ nầy mà có nghĩa tạo, hoặc đối với nhóm ấy mà Đại chủng nầy có thể đạt được, thì phải biết nhóm nầy, chỉ có nhóm nầy chứ không phải nhóm nào khác, hoặc có nhóm chỉ có một Đại chủng, hoặc có hai Đại chủng, hoặc có cho đến tất cả Đại chủng, đã tạo sắc thì cũng như thế, hoặc đối với nhóm nầy mà sắc ấy đạt được, phải biết tụ ấy chỉ có sắc nầy, không phải sắc nào khác. Hoặc có nhóm chỉ có một sắc được tạo, hoặc hai sắc được tạo, hoặc có cho đến nhiều sắc được tạo, tùy theo sự thích ứng của nó.

Lại nói, tụ thô sắc là cực vi tập hợp mà thành, phải biết cực vi trong đây không có thể, chỉ do giác tuệ phân tích phần tế dần dần giảm cho đến bờ mé có thể phân tích, tức là căn cứ theo bờ mé nầy kiến lập cực vi, để dứt trừ tưởng nhất hợp, lại cũng để ngộ nhập các sắc sở hữu là phi chân thật.

Lại nữa, pháp khổ lược có tám thứ sai khác:

  1. Có khổ rộng lớn không vắng lặng.
  2. Có khổ vắng lặng.
  3. Có khổ vắng lặng, không vắng lặng.
  4. Có khổ không vắng lặng vừa.
  5. Có khổ không vắng lặng mỏng ít.
  6. Có khổ vắng lặng mỏng ít.
  7. Có khổ vắng lặng hết sức mỏng.
  8. Có phi khổ tự khổ trụ đại vắng lặng.

Thế nào là có khổ rộng lớn không vắng lặng? Là người sinh nơi cõi Dục nhưng không hề chứa nhóm gốc lành.

Thế nào là khổ vắng lặng? Là người nầy đã sinh gốc lành thuận phần giải thoát.

Thế nào là khổ vắng lặng, không vắng lặng? Tức là người nầy vì đạo thế gian đã lìa dục rồi gieo trồng gốc lành.

Thế nào là khổ không vắng lặng vừa? Là người sinh ở cõi Sắc, xa lìa phần thuận giải thoát.

Thế nào là không bất vắng lặng mỏng ít? Là người sinh ở cõi Vô Sắc xa lìa phần thuận giải thoát.

Thế nào là khổ vắng lặng mỏng ít? Là các bậc Hữu học.

Thế nào là khổ vắng lặng hết sức mỏng? Là các bậc Vô học, mạng căn duyên nơi sáu xứ.

Thế nào là phi khổ tự khổ trụ đại vắng lặng ? Là người đã đắc đại Bồ-tát rốt ráo, vì nương nguyện lực đại bi mà sinh trong các cõi.

Lại nữa, trước đã nói chết khổ, chết có ba thứ:

  1. Chết với tâm thiện.
  2. Chết với tâm bất thiện.
  3. Chết với tâm vô ký.

– Chết với tâm thiện, là đối với tâm lanh lợi ở vị hiện hành, hoặc do sức chống vững gốc lành, của mình hoặc do sự dẫn dắt của người khác, phát khởi tâm thiện tiến đến vị qua đời.

– Chết với tâm bất thiện: cũng đối với tâm minh lợi nơi vị hiện hành, hoặc do sức chống đỡ của bất gốc lành nơi chính mình, hoặc do sự dẫn dắt của kẻ khác, mà phát khởi tâm bất thiện tiến đến vị qua đời.

– Chết với tâm Vô ký, cũng đối với tâm minh lợi nơi vị hiện hành, hoặc đối với tâm không lanh lợi nơi vị hiện hành, hoặc do thiếu hai duyên, hoặc do gia hạnh không có công năng mà phát khởi tâm vô ký tiến đến vị qua đời.

Người tu tịnh hạnh, khi đến vị qua đời, ở thân phần dưới khởi xúc lạnh trước hết. Người hạnh bất tịnh, khi sắp giai đoạn qua đời vị, thì ở thân phần trên khởi xúc lạnh trước hết. Khi thân trung hữu của người hạnh bất tịnh sinh, thì tướng đó hiển hiện như bóng sáng của con dê đen, hoặc như phần tối trong ban đêm. Khi thân trung hữu của người tịnh hạnh sinh, thì tướng đó hiển hiện như bóng sáng của tấm lụa trắng, như phần sáng ban đêm lúc trời đãng.

Lại nữa, ở đây có chánh thọ sinh ở cõi Dục, cũng từ sau vị qua đời của cõi Vô sắc, cũng gọi là ý sanh kiện-đạt-phược, trụ tối đa bảy ngày, hoặc bị yểu (chết non), hoặc có khi chuyển dời.

Trụ trong trung hữu, cũng có thể nhóm họp các nghiệp, được dẫn bởi sức mạnh của thói quen thiện trước kia nên tư lương hiện hành.

Lại nữa, có thể nhìn thấy hữu tình đồng loại.

Lại nữa, hình dạng trung hữu tương tự nơi sẽ sinh.

Lại nữa, chỗ đến của trung hữu nầy vô ngại, như đầy đủ thần thông, qua lại nhanh chóng, nhưng ở nơi sinh thì có chướng ngại.

Lại nữa, chỗ sinh của trung hữu ấy, như nguyên tắc của cái cân với hai đầu lên cao hoặc thấp, khi qua đời hoặc khi kiết sinh thì thời phần cũng vậy. Trụ trong trung hữu, đối với chỗ sinh phát khởi tham ái, cũng do các phiền não khác làm trợ duyên. Thân trung hữu nầy cùng diệt với tham, Thân Yết-la-lam cùng sanh với thức, thức nầy chỉ là dị thục. Từ đây về sau các giác quan dần dần lớn lên, như trong duyên khởi nói: “Trong bốn loại sinh, hoặc thọ noãn sinh, hoặc thọ thai sinh, hoặc thọ thấp sinh, hoặc thọ hóa sinh”.

Pages: 1 2 3 4 5 6 7