LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 24

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 7

Như trên đã nói về Bồ-tát trụ định, là từ nơi phần vị nào được tên trụ định? Vị kia lại ở nơi đâu gọi là định?

Tụng nêu:

Từ tu nghiệp diệu tướng

Bồ-tát được tên định

Sinh nhà quý, nẻo thiện

Đủ nam, niệm kiên cố.

Luận nói: Từ tu nghiệp có thể chiêu cảm quả dị thục là ba mươi hai tướng đại sĩ phu vi diệu Bồ-tát mới được lập tên là trụ định. Do từ thời gian này cho đến thành Phật, Bồ-tát thường sinh nơi nẻo thiện và nhà tôn quý v.v…

Sinh nơi nẻo thiện v.v…: Nghĩa là sinh vào nẻo người, trời, vì trong nẻo này phần nhiều hành thiện. Vì diệu đáng nêu xưng, nên lập tên nẻo thiện. Ở trong nẻo thiện thường sinh vào nhà tôn quý. Nghĩa là Bà-la-môn, hoặc Sát-đế-lợi, nhà Trưởng giả giàu lớn, nhà đại Bàla-môn. Nơi các gia đình tôn quý, căn có đủ thiếu, nhưng Bồ-tát thì luôn đủ căn hơn hẳn, luôn thọ thân nam, hãy còn không làm thân nữ, huống chi là có thọ thân Phiến-quắc v.v…? Đời đời thường có thể nhớ nghĩ đến sự việc thiện đã tạo nơi thọ mạng đời trước, thường không thoái chuyển khuất phục. Nghĩa là đối với việc đem lại lợi lạc cho hết thảy hữu tình, trong tất cả thời, tất cả phương tiện, tâm không chán mệt, gọi là không thoái chuyển, khuất phục. Do đó nên nói là kiên cố.

Há không phải là ở nơi phần vị chưa tu nghiệp diệu tướng, vì tâm Bồ-đề không thoái chuyển, nên lập tên trụ định chăng? Vì sao chủ yếu ở phần vị tu nghiệp diệu tướng Bồ-tát mới thọ nhận danh xưng trụ định? Do vào bấy giờ, hàng trời người mới cùng nhận biết. Thời gian trước thì chỉ được chư thiên nhận biết. Hoặc ở nơi bấy giờ đã hướng đến định Đẳng giác. còn trước chỉ là Đẳng giác quyết định, không phải thứ khác.

Tướng nào nên nhận biết là tu nghiệp diệu tướng?

Tụng nêu:

Thiệm Bộ nam đối Phật

Phật tư, tư đã thành

Trăm kiếp khác mới tu

Đều trăm phước trang nghiêm.

Luận nói: Bồ-tát chủ yếu ở trong châu Thiệm Bộ mới có thể tạo tu dẫn nghiệp diệu tướng. Vì tuệ giác của châu này là rất sáng tỏ, nhanh nhẹn. Chỉ là thân người nam, không phải là thân nữ v.v… Bấy giờ là đã vượt qua phần vị nữ. Ở đây không nên nói, vì nghĩa luôn thọ thân nam ở trong Tụng trước đã hiển bày. Khi tạo nghiệp ấy chỉ hiện đối trước Phật. Nghĩa là từ thân cận thấy sắc thân không chung của Phật, tướng tốt đoan nghiêm với vô số thứ kỳ diệu đặc biệt, tức có mong muốn dẫn khởi, chiêu cảm loại tư này, nếu không đối trước Đức Như Lai thì không cùng phát khởi, nên nghiệp diệu tướng này chỉ duyên nơi tư duy của Phật. Vì Phật là cảnh thuận đức đáng ưa thích, nên chiêu cảm nghiệp diệu tướng, chỉ do tư tạo thành. Không phải do tu tạo thành, vì cảnh giới bất định đã chiêu cảm dị thục, vì dị thục này đã bị hệ thuộc. Không phải do văn tạo thành, vì văn kia thì yếu kém. Cũng không phải là sinh đắc, vì từ gia hạnh khởi. Nghĩa là Bồ-tát kia chỉ ở nơi ba vô số kiếp, tu hành các pháp Ba-la-mật-đa như thí v.v… viên mãn thì trong thân mới có thể đạt được, nên chỉ là gia hạnh thiện, không phải là sinh đắc thiện. Chỉ ngoài trăm kiếp tạo tu không phải là nhiều. Mỗi mỗi diệu tướng có trăm phước trang nghiêm. Trong dây trăm tư duy gọi là trăm phước. Nghĩa là khi sắp tạo mỗi mỗi nghiệp diệu tướng, trước là khởi năm mươi tư tịnh, đối trị thân khí, theo thứ lớp kia mới khởi dẫn nghiệp của một tướng. Về sau lại khởi năm mươi tư thiện, trang nghiêm dẫn nghiệp, khiến được viên mãn.

Năm mươi tư: Tức dựa vào mười nghiệp đạo, mỗi mỗi nghiệp đạo đều khởi năm tư. Lại dựa vào nghiệp đạo đầu tiên là lìa sát sinh có năm tư: (1) Tư lìa sát hại. (2) Tư khuyên bảo, dẫn dắt. (3) Tư khen ngợi đẹp đẽ. (4) Tư tùy hỷ. (5) Tư hồi hướng. Nghĩa là hồi những gì đã tu, hướng đến giải thoát.

Cho đến lìa tà kiến đều có năm tư cũng như thế.

Có Sư khác cho: Dựa nơi mười nghiệp đạo đều khởi tư thiện của năm phẩm như hạ v.v… Trước sau đều như vậy, như huân tập tĩnh lự.

Có Sư khác nói: Dựa vào mười nghiệp đạo đều khởi năm tư: (1) Gia hạnh tịnh. (2) Căn bản tịnh. (3) Hậu khởi tịnh. (4) Không phải tầm hại. (5) Niệm thâu nhận.

Lại có Sư nêu: Mỗi mỗi nghiệp tướng đều làm duyên nơi Phật, chưa từng tập tư, đủ một trăm hiện tiền dùng để trang nghiêm.

Về một trăm phước thì mỗi mỗi phước lượng ấy như thế nào?

Có thuyết nói: Do dựa vào ba vô số kiếp, công đức tăng trưởng đã tập hợp thành thân, phát khởi vô số vô đối như thế. Còn lượng phước đức thù thắng thì chỉ Đức Phật nhận biết.

Có thuyết cho: Nếu do sức tăng thượng của nghiệp đã chiêu cảm ngôi vị Luân vương, trị vì bốn châu lớn, tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có thuyết nêu: Nếu do sức tăng thượng của nghiệp được làm Đế Thích, trị vì hai trời dục, tự tại mà chuyển, là lượng của một phước.

Có thuyết nói: Chỉ trừ Bồ-tát gần Phật, tất cả hữu tình còn lại đã tu nghiệp quả giàu vui, là lượng của một phước.

Có Sư khác cho: Lượng này ít nhất, tức nên nói khi thế giới sắp thành, do sức tăng thượng nơi nghiệp của tất cả hữu tình đã chiêu cảm đại thiên quốc độ, là lượng của một phước.

Nay là Đức Bạc-già-phạm, xưa khi làm Bồ-tát, trong ba vô số kiếp, mỗi mỗi kiếp đều cúng dường bao nhiêu Phật?

Tụng nêu:

Ở ba vô số kiếp

Đều cúng dường bảy vạn

Lại, như thế cúng dường

Năm, sáu, bảy, ngàn Phật.

Luận nói: Trong vô số kiếp đầu tiên cúng dường bảy vạn năm ngàn vị Phật. Trong vô số kiếp tiếp theo cúng dường bảy vạn sáu ngàn vị Phật. Trong vô số kiếp sau thì cúng dường bảy vạn bảy ngàn vị Phật.

Ba vô số kiếp, mỗi mỗi khi viên mãn cùng phát tâm đầu tiên đều gặp vị Phật nào?

Tụng nêu:

Ba vô số kiếp đủ

Nghịch thứ gặp Thắng Quán

Phật Nhiên Đăng, Bảo Kế

Thích Ca Mâu Ni đầu.

Luận nói: Nói thứ lớp nghịch: Là từ sau hướng tới trước. Nghĩa là nơi vô số kiếp thứ ba gồm đủ đã phụng sự Phật hiệu là Thắng Quán. Kiếp thứ hai viên mãn đã phụng sự Phật hiệu là Nhiên Đăng. Kiếp thứ nhất viên mãn đã phụng sự Phật tên là Bảo Kế. Vô số kiếp thứ nhất, đầu tiên là gặp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Nghĩa là Đức Thế Tôn của chúng ta ở nơi phần vị mới phát tâm đã gặp một Đức Bạc-già-phạm, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Khi Đức Phật kia ra đời là đang ở nơi kiếp sau cùng, chánh pháp sau diệt chỉ trụ một ngàn năm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn của chúng ta là con của một người chuyên chế tạo đồ gốm, ở chỗ Đức Phật kia, khởi tâm ân cần thanh tịnh, dùng dầu hương để xoa, dùng nước hương để tắm, thiết lễ cúng dường Phật xong, phát thệ nguyện rộng lớn: Nguyện tôi sẽ làm vị Phật hoàn toàn như Đức Thế Tôn hiện nay.

Vì thế nay Đức Như Lai mỗi mỗi đều đồng với Đức Phật kia.

Bồ-tát Thích Ca của chúng ta đã ở trong phần vị nào, nơi những Ba-la-mật nào tu tập viên mãn?

Tụng nêu:

Chỉ do bi thí khắp

Bị xẻ thân, không giận

Tán thán Phật Để Sa

Tiếp Bồ-đề vô thượng.

Sáu Ba-la-mật-đa

Nơi bốn vị như thế

Một, hai, lại một, hai

Thứ lớp tu viên mãn.

Luận nói: Bồ-tát phát nguyện, đầu tiên lúc tu thí, chưa có thể đối khắp hết thảy hàm thức thí cho tất cả vật, chỉ vận dụng tâm bi. Bồ-tát kia ở nơi thời gian sau, vì sức mạnh của tập quán, nên tâm bi chuyển thịnh, có thể thí cho khắp tất cả hữu tình, không phải tất cả vật. Nếu khi Bồ-tát đối khắp với tất cả, có thể thí cho tất cả, chỉ do tâm bi, không phải tự mong cầu, vì sinh thù thắng có sai biệt. Ngang tới đây là tu tập viên mãn bố thí Ba-la-mật-đa.

Hoặc khi Bồ-tát bị cắt xẻ thân chi, tuy chưa lìa dục tham, nhưng tâm không có chút giận dữ. Ngang với đây là tu tập viên mãn giới, nhẫn Ba-la-mật-đa.

Hoặc khi Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh, dùng một Già tha, trải qua bảy ngày đêm, tán thán Phật Để Sa, liền vượt qua chín kiếp. Ngang tới đây là tu tập viên mãn tinh tấn Ba-la-mật-đa.

Hoặc khi Bồ-tát ở nơi tòa kim cang sắp chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, tiếp theo vô thượng giác trước trụ nơi định kim cang dụ. Ngang với đây là tu tập viên mãn định, tuệ Ba-la-mật-đa.

Về lý tức nên ở nơi phần vị này vô gián mới viên mãn, vì khi đắc tận trí thì quả vị ấy mới viên mãn. Do riêng có thể đạt đến bờ kia của viên đức, nên sáu pháp này gọi là Ba-la-mật-đa.

Khế kinh nói có ba sự nghiệp phước: (1) Sự nghiệp phước của loại thí. (2) Sự nghiệp phước của loại giới. (3) Sự nghiệp phước của loại tu.

Ở đây, vì sao lập tên sự, nghiệp, phước?

Tụng nêu:

Ba loại thí, giới, tu

Đều tùy chỗ ứng hợp

Thọ tên sự, nghiệp, phước

Sai biệt như nghiệp đạo.

Luận nói: Ba loại đều là phước, hoặc nghiệp, hoặc sự, tùy theo chỗ ứng hợp kia, như nói về nghiệp đạo. Nghĩa là như phân biệt trong mười nghiệp đạo, có nghiệp cũng là đạo, có đạo không phải là nghiệp.

Trong đây, có phước cũng là nghiệp, cũng là sự. Có phước, nghiệp, không phải là sự. Có phước, sự, không phải là nghiệp. Có chỉ là phước, không phải là nghiệp, không phải là sự. Lại, trong loại thí thì hai nghiệp thân, ngữ gồm đủ danh nghĩa của ba thứ phước nghiệp sự. Vì là thiện nên là phước. Vì tạo tác nên cũng gọi là nghiệp. Là khả năng cùng khởi tư của nghiệp, thân ngữ chuyển nơi môn đối tượng nương dựa, nên cũng gọi là sự. Tư của cùng khởi kia chỉ gọi là phước nghiệp. Tư nơi pháp câu hữu chỉ thọ nhận tên phước. Loại giới đã chỉ có tánh của nghiệp thân ngữ, nên đều thọ nhận đủ tên phước nghiệp sự. Từ (bi) trong loại tu, chỉ gọi là phước, sự, vì là sự của nghiệp. Từ tương ưng với tư, dùng từ làm môn mà tạo tác, nên từ đều cùng với tư giới chỉ gọi là phước, nghiệp. Ngoài ra pháp câu hữu chỉ thọ nhận tên phước. Bi v.v… căn cứ theo từ này nên xét chọn.

Có thuyết nói: Phước nghiệp là hiển bày về nghĩa tạo phước, tức là gia hạnh của phước. Sự thì hiển bày về đối tượng nương dựa, nghĩa là thí giới tu, là sự của phước nghiệp, vì thành ba thứ kia, nên khởi gia hạnh của phước.

Có thuyết cho: Chỉ tư là phước nghiệp chân thật. Sự của phước nghiệp, nghĩa là thí giới tu, dùng ba thứ làm môn để phước nghiệp chuyển.

Pháp nào gọi là thí? Thí chiêu cảm quả gì?

Tụng nêu:

Do xả này gọi thí

Là cung cấp, là ích

Thân, ngữ, công năng phát

Chiêu cảm quả giàu lớn.

Luận nói: Tuy vật của đối tượng xả và chủ thể xả bỏ vật dụng đều có thể gọi là thí, nhưng ở trong đây đã lập tên thí, chỉ dựa vào việc xả bỏ vật dụng. Nghĩa là do vật dụng này nên sự xả được thành.

Vì thế xả đối tượng tư là thể của thí chân thật. Như cảnh của đối tượng vượt qua không được mang tên lượng. Lập danh xưng lượng là dựa vào vật dụng của chủ thể vượt qua. Hoặc vì so sánh là hơn nên chứa giữ, xưng khen. Truyền tập theo người khác thành thân ái, thân cậy.

Do các thứ như thế v.v… nên sự xả cũng thành. Nhưng không phải là ý chánh trong đây đã nói. Vì phân biệt với xả kia, nên nói câu là cung cấp, hay là tạo lợi ích. Đối với Niết-bàn của mình thì chỉ là cúng dường. Đối với người khác cũng là tạo lợi ích cho các căn của đại chủng kia. Có người khi hành thí, chỉ vì tạo lợi ích cho người kia.

Vật dụng gọi là gì?

Nghĩa là nghiệp thân, ngữ và chủ thể phát khởi nghiệp ấy.

Chủ thể pháp khởi gọi là gì?

Nghĩa là không tham đều cùng có thể khởi tụ ấy, tức nghiệp thân, ngữ và tâm của chủ thể khởi và không tham ấy đều cùng hành, gọi chung là thể của thí.

Như có Tụng nói:

Nếu người dùng tâm tịnh

Dứt xong mà hành thí

Uẩn thiện sát-na này

Lập chung dùng tên thí.

Nên biết phước nghiệp sự của loại thí như thế hồi hướng về giải thoát cũng được quả ly hệ. Nhưng lại căn cứ theo quyết định gần để nêu bày, tức chỉ nói là có thể chiêu cảm quả giàu có lớn, nhiều của cải.

Dựa vào đâu để lập tên giàu có lớn, nhiều của cải này?

Do của cải tốt đẹp, rộng lớn không thể bị cướp đoạt.

Vì đạt được lợi ích gì mà hành thí?

Tụng nêu:

Vì ích cả mình, người

Không vì hai hành thí.

Luận nói: Thí chủ khi thí cho, quán nơi hai lợi ích: (1) Vì lợi ích của mình là chiêu cảm quả nơi căn thiện. (2) Vì lợi ích cho người khác là đại chủng của các căn.

Thí chủ có hai: (1) Có phiền não. (2) Không có phiền não.

Có phiền não lại có hai thứ: (a) Chưa lìa dục tham. (b) Đã lìa dục tham.

Trong hai thứ này, đều có hai thứ: (1) Các Thánh giả. (2) Các phàm phu.

Ở đây, Thánh giả chưa lìa dục tham và phàm phu đã lìa chưa lìa dục tham, phụng thí tháp miếu chỉ vì lợi ích của mình. Nghĩa là tự tăng trưởng hai thứ căn thiện: (1) Có thể chiêu cảm sự giàu có lớn làm quả. (2) Vì được tư lương của nghĩa trên.

Có các Thánh giả đã lìa dục tham, phụng thí tháp miếu, trừ thuận với hiện thọ, thì không chiêu cảm giàu lớn. Do chư vị kia đã có thể hoàn toàn vượt qua địa của dị thục ấy mà cùng đạt được tư lương của nghĩa trên. Thế nên cũng gọi chỉ là tạo lợi ích cho mình, không phải người này có thể tạo lợi ích cho đại chủng nơi căn của người khác, nên không tạo lợi ích nơi tha.

Người không có phiền não, thí cho hữu tình khác chỉ vì tạo lợi ích cho người khác. Nghĩa là có thể tạo lợi ích cho đại chủng nơi các căn của người khác. Không phải là tự tăng trưởng hai thứ căn thiện trừ thuận với hiện thọ. Người có phiền não, thí cho hữu tình khác, là cả hai đều cùng có lợi ích. Người không có phiền não, phụng thí tháp miếu, trừ thuận với hiện thọ, không vì hai thứ lợi ích.

Trước đã nêu rõ chung về thí cho đã chiêu cảm giàu có lớn. Nay tiếp theo sẽ biện về nhân riêng của quả thí. Tụng nêu:

Do chủ của ruộng khác

Nên quả thí sai biệt.

Luận nói: Thí có sai biệt do ba thứ nhân. Nghĩa là vì chủ của cải, ruộng có sai biệt, tức thí có sai biệt, nên quả có sai biệt.

Nói chủ của cải, ruộng có sai biệt: Nghĩa là chủ của cải, ruộng của loại thí như thế là hơn, kém so với chủ của cải, ruộng khác. Lại do thí chủ có sai biệt. Tụng nêu:

Chủ khác do nơi tín

Hành thí đều kính trọng

Được tôn trọng, ái rộng

Hợp thời, quả khó đoạt.

Luận nói: Hoặc có thí chủ ở trong nhân quả được tín quyết định. Hoặc có thí chủ ở trong nhân quả tâm mong giữ do dự. Hoặc có thí chủ đột nhiên tùy theo dục. Hoặc có thí chủ gồm đủ thi la tịnh. Hoặc ít, thiếu trái, hoặc hoàn toàn không có giới. Hoặc có thí chủ ở nơi giáo pháp của Phật đầy đủ đa văn. Hoặc có thí chủ ít hiểu biết, hoặc không có hiểu biết v.v… mà hành tuệ thí.

Do thí chủ có đủ tín, giới, văn v.v…, vì công đức có sai biệt, nên gọi là chủ khác. Vì chủ khác nên thí thành sai biệt. Vì thí có sai biệt nên được quả có khác.

Có các thí chủ gồm đủ đức như thế, có thể như pháp hành bốn thứ thí như kính trọng v.v… Như thứ lớp liền được bốn thứ quả như tôn trọng v.v… Nghĩa là nếu thí chủ hành thí kính trọng, tức chiêu cảm thường xuyên được người khác kính trọng. Nếu tự tay thí cho, tức có thể chiêu cảm được ở nơi tài sản rộng lớn yêu thích thọ dụng.

Nếu thí cho hợp thời, thì chiêu cảm của cải hợp thời, các thứ cần dùng đúng thời, không phải thời khác. Nếu không gây tổn hại cho người khác, thì thí cho liền chiêu cảm nhiều tiền của, không bị vua quan, hỏa hoạn v.v… xâm hoại.

Do của cải được thí cho có sai biệt. Tụng nêu:

Của khác, do nơi sắc

Được sắc đẹp, danh tốt

Chúng ái, thân mềm mại

Có tùy thời lạc xúc.

Luận nói: Do của cải đã thí cho hoặc thiếu, hoặc đủ sắc hương vị xúc. Như thứ lớp ấy tức đạt được hoặc thiếu hoặc đủ các quả như sắc tốt đẹp v.v… Nghĩa là của cải vật dụng đã thí cho về màu sắc đầy đủ, nên chiêu cảm sắc diệu. Hương đầy đủ tức chiêu cảm danh tốt, như hương thơm phức tỏa khắp các phương. Vị đầy đủ tức chiêu cảm nhiều thứ yêu thích, như vị ngon ngọt được nhiều người ham chuộng. Xúc đầy đủ nên chiêu cảm thân mềm mại, cùng có tùy thời sinh xúc lạc thọ. Nếu của thí cho có thiếu, thì tùy theo chỗ ứng hợp, quả tức giảm thiểu.

Như thế, cũng do gồm đủ sắc, hương v.v…, nên gọi là của cải khác. Do của cải khác, nên Thể của thí và quả đều có sai biệt.

Do ruộng được thí có sai biệt. Tụng nêu:

Ruộng khác do nẻo khổ

 Ân đức có sai biệt.

Luận nói: Do ruộng đã thí là nẻo khổ cùng ân đức đều có sai biệt, nên gọi là ruộng khác. Do ruộng khác nên quả của thí có đặc thù.

Do nẻo riêng khác: Như Đức Thế Tôn nói: Nếu thí cho bàng sinh thì thọ nhận quả gấp trăm lần. Thí cho người phạm giới thì thọ nhận quả gấp ngàn lần.

Do khổ riêng khác: Như bảy hữu dựa vào phước nghiệp sự. Trong ấy trước nói nên thí cho khách đi đường, kẻ chăm sóc bệnh nhân, vườn rừng, thức ăn hằng ngày và y phục, thức ăn thuốc uống tùy từng thời tiết như vào mùa gió rét v.v… Lại nói: Nếu có người nam, người nữ đầy đủ tín tịnh, thì thành những điều đã nói ở đây.

Bảy thứ hữu dựa vào phước nghiệp sự: Nghĩa là phước đức đã đạt được không thể giữ lấy để đo lường. Nay ở trong đây, do duyên sai biệt nên khổ có khác. Do trừ người thọ nhận, vì khổ sai biệt, nên quả có sai biệt.

Do ân riêng khác: Như cha, mẹ, thầy cùng các loài có ân khác, như gấu, nai v.v…

Kinh Bản Sinh nói: Các loài có ân, nếu đối với chỗ có ân kia khởi các nghiệp ác, thì quả hiện có thể nhận biết. Do so sánh này để nhận biết. Hành thiện để báo ân, quả ấy là tất định.

Do đức riêng khác: Như Khế kinh nói: Thí cho người giữ giới thì được quả gấp trăm, ngàn lần. Cho đến thí cho Phật thì quả là vô lượng bậc nhất. Tuy đều là vô lượng, nhưng cũng có nhiều, ít, như giọt nước của biển cả, của sông Căng-già. Như đối chiếu với tài thí thì pháp thí là tôn quý.

Căn cứ trong tài thí thì những gì là hơn hết?

Tụng nêu:

Thoát nơi thoát, Bồ-tát

Thí thứ tám hơn hết.

Luận nói: Nếu người đã giải thoát, thí cho người đã giải thoát, thì ruộng ở trong tài thí, tức ruộng này là hơn hết. Nếu các Bồ-tát do ý lạc thù thắng, bình đẳng, muốn đem lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, vì đại Bồ-đề mà hành tuệ thí. Tuy không phải là giải thoát thí cho ruộng giải thoát, nhưng trong phước thí thì thí này là tối thắng. Ngoại trừ thí này, còn có tám thứ thí, trong ấy phước của thí thứ tám cũng là tối thắng. Tám thứ thí đó là những gì?

(1) Thí tùy thuận người đến. (2) Thí không sợ hãi. (3) Thí để báo ân. (4) Thí mong cầu báo đáp. (5) Thí hành tập theo trước. (6) Thí mong sinh lên nẻo trời. (7) Thí chủ yếu vì danh. (8) Thí vì để trang nghiêm.

Tâm vì tư trợ, tâm vì hỗ trợ Du già.

Vì nhằm đạt được nghĩa trên mà hành tuệ thí. Như Đức Thế Tôn nói: Thí cho bậc Thánh quả là vô lượng.

Từng có thí không phải là bậc Thánh quả cũng vô lượng chăng?

Tụng nêu:

Cha, mẹ, bệnh, pháp sư

Bồ-tát đời sau cùng

Nếu như không chứng Thánh

Quả thí cũng vô lượng.

Luận nói: Năm thứ như thế nếu như người thí là phàm phu tức cũng có thể chiêu cảm quả vô lượng. Trụ nơi hữu sau cuối gọi là đời sau cùng. Pháp sư trong bốn ruộng là thuộc về ruộng ân. Tất cả có thể chiêu cảm nghiệp của quả vô lượng.

Loại phẩm thượng hạ đều là bình đẳng chăng? Không phải vậy. Vì sao?

Do sáu nhân nên khiến tất cả nghiệp đều thành phẩm nhẹ, nặng.

Sáu nhân ấy là những gì?

Tụng nêu:

Hậu khởi, ruộng, căn bản

Gia hạnh, tư, ý lạc

Do nơi trên, dưới này

Nghiệp thành phẩm thượng, hạ.

Luận nói: Hậu khởi: Nghĩa là tạo nghiệp này xong, hoặc tức khắc, hoặc thường thường, theo trước mà làm. Ruộng: Nghĩa là ở nơi ruộng kia, tạo thiện, tạo ác. Căn bản: Nghĩa là nghiệp đạo căn bản.

Gia hạnh: Nghĩa là dẫn phát thân, ngữ nghiệp kia. Tư: Nghĩa là do nghiệp đạo kia làm cứu cánh. Ý lạc: Nghĩa là ý hướng đến hiện có, ta phải nên tạo như thế, như thế.

Nếu có đủ sáu nhân đều là phẩm thượng, nghiệp này tức rất nặng. Trái với nghiệp nặng này là nghiệp rất nhẹ. Trừ hai thứ ấy thì trung gian là không phải rất nhẹ, rất nặng. Như Khế kinh nói: Tư duy xét kỹ để tác nghiệp, gọi là tạo tác, cũng gọi là tăng trưởng.

Nhân đâu nói nghiệp gọi là tăng trưởng?

Do năm thứ nhân.

Những gì là năm nhân?

Tụng nêu:

Do tư xét trọn đủ

Không ố tác đối trị

Do có bạn, dị thục

Nghiệp này gọi tăng trưởng.

Luận nói: Do tư duy xét kỹ: Nghĩa là thẩm tra, tư duy để tạo tác, không phải tư duy đột nhiên hành tác, cũng không phải hoàn toàn không tư duy.

Do trọn đủ: Nghĩa là ngang với nghiệp lượng này, tức nên đọa nơi nẻo ác. Nghiệp ấy trọn đủ gọi là tăng trưởng. Nghiệp khác chỉ là tạo tác.

Do không ố tác đối trị: Nghĩa là không có hối hận ăn năn đối với sự việc kia, tức không có nghiệp đối trị.

Do có bạn: Nghĩa là tạo nghiệp bất thiện thì bất thiện là trợ bạn.

Do dị thục: Nghĩa là thời phần nếu như không nhất định, thì quyết định so với dị thục thiện trên là trái nhau. Khác với đây nên biết chỉ gọi là tạo tác.

Như trên đã nêu: Người chưa lìa dục v.v…, phụng thí nơi tháp miếu là tự lợi ích. Đã không có người thọ dụng thì phước thí vì sao thành?

Tụng nêu:

Tháp miếu loại phước xả

Như Từ không có thọ.

Luận nói: Không phải là ta chỉ thừa nhận của cải vật dụng đã xả thí, người nhận có thọ dụng, thì phước thí mới thành.

Đã thừa nhận là thế nào?

Nghĩa là các phước thí, lược có hai loại: (1) Xả. (2) Thọ.

Phước của loại xả: Nghĩa là do tâm thiện, chỉ xả tiền của vật dụng thì phước thí liền khởi.

Phước của loại thọ: Nghĩa là ruộng đã thí cho phải có thọ dụng vật thí thì phước thí mới khởi. Đối với tháp miếu đã phụng thí các vật dụng cúng dường, tuy không có phước của loại thọ, nhưng có phước của loại xả. Phước của loại xả này đầu tiên xả thí tiền bạc, của cải, thì phước ấy tức thành. Vì đối trị tham, nên không tham đều có tư cùng khởi. Tức xả thí tiền của vật dụng xong, tùy theo ruộng đã thí, có thọ dụng, hoặc không thọ dụng vật, phước thí đều không mất.

Nếu không như vậy, thì có những trường hợp thí cho Tăng già, hoặc người riêng v.v…, các vật dụng hỗ trợ đời sống, hoặc người thọ thí kia chưa dùng, vật tức hoại mất, như thế vật dụng của thí chủ tức nên vô ích chăng? Vì phước thí không sinh, nên không có quả ứng hợp chăng?

Người kia đã chưa thọ dụng thì phước do đâu sinh? Phước của dụng tuy không có mà có phước của thọ.

Tháp miếu không có phước của thọ thì do đâu sinh? Lại nữa, nhân nơi gì để chứng biết?

Phước sinh chủ yếu là do thọ nhận. Không thọ nhận thì đối với người kia là không có gồm thâu lợi ích, nên phước sinh này không phải là chứng cớ nhất định. Vì sao? Vì như phước của tu từ v.v… cũng sinh khởi. Nghĩa là tu định từ, đối với các hữu tình bình đẳng phát khởi ý lạc ban cho vui. Tuy không có người thọ nhận, cũng không có gồm thâu lợi ích, nhưng vì sức của thắng giải nên có nhiều phước sinh. Tu các định như bi v.v… đạt được phước cũng như vậy. Loại phước của thí nơi tháp miếu cũng nên như thế. Ở nơi ruộng có đức, theo đấy sinh thắng giải, khởi tôn kính tột cùng, phụng thí tháp miếu, tuy không có người thọ nhận, cũng không có gồm thâu lợi ích, nhưng do sức của tự tâm nên có nhiều phước sinh, tức không phải là vô ích. Vì khởi nghiệp thí kính, chủ yếu là nhân khởi nghiệp mới khởi tư duy thù thắng, vì tư duy thù thắng mới có thể sinh phước thù thắng.

Có người nêu vấn nạn: Ở nơi ruộng tốt đã gieo trồng hạt giống của nghiệp thí, đã có quả ái sinh. Lại gieo trồng ở ruộng xấu thì quả nên là phi ái chăng?

Vấn nạn này là phi lý. Vì sao? Tụng nêu:

Ruộng xấu có quả ái

Quả gieo không điên đảo.

Luận nói: Hiện thấy trong ruộng đã gieo trồng quả không có điên đảo, từ hạt giống vị độ ca, thì quả đắng hoàn toàn không sinh. Trong giống nhẫm bà thì không sinh quả ngọt, không phải do sức của ruộng đã gieo trồng quả có điên đảo. Nhưng do lỗi ở ruộng, khiến hạt giống đã gieo trồng, hoặc sinh quả ít, hoặc quả hoàn toàn không có.

Như thế, tuy ở nơi ruộng xấu gieo trồng bố thí, nhưng do thí chủ với tâm nhằm đem lại lợi ích an vui cho người khác, thì chỉ có quả ái sinh, không chiêu cảm quả phi ái.

Đã biện về loại thí. Loại giới sẽ biện.

Tụng nêu:

Lìa phạm giới và già

Gọi giới đều có hai

Không nhân phạm giới hoại

Dựa trị, diệt nên tịnh v.v…

Luận nói: Nói phạm giới: Nghĩa là các sắc bất thiện, tức từ sát sinh cho đến nói lời uế tạp. Trong đây tánh tội lập danh xưng phạm giới.

Già: Nghĩa là những điều Đức Phật đã ngăn chận, tức như ăn phi thời v.v…, tuy không phải là tánh tội, nhưng Đức Phật vì nhằm khiến hữu tình hộ trì chánh pháp, nên có ý riêng để ngăn chận dứt bỏ. Người thọ giới phạm cũng gọi là phạm giới. Vì phân biệt tánh tội, nên chỉ lập tên già. Lìa tánh và già đều cùng gọi là giới. Ở đây đều có hai, là biểu và vô biểu, vì dùng nghiệp thân ngữ làm tự tánh, nên giới hội đủ bốn đức được mang tên thanh tịnh, theo đấy có đức nào giảm thì không gọi là thanh tịnh.

Nói bốn đức: (1) Không bị phạm giới hủy hoại. Nói phạm giới: Nghĩa là tư duy xét kỹ về phạm giới. (2) Không bị nhân của phạm giới kia hủy hoại. Nhân của phạm giới kia, nghĩa là các phiền não, tùy phiền não như tham v.v… (3) Dựa vào đối trị. Nghĩa 1à dựa vào niệm trụ v.v… Niệm trụ này có thể đối trị phạm giới và nhân của phạm giới. (4) Dựa nơi diệt. Nghĩa là dựa nơi Niết-bàn, hồi hướng về Niết-bàn, không phải là có của. Nói vân vân (Nơi cuối câu tụng thứ tư) là làm rõ lại có thuyết khác.

Có thuyết cho: Giới tịnh do năm thứ nhân: (1) Căn bản tịnh. (2) Quyến thuộc tịnh. (3) Không phải tầm hại. (4) Niệm thâu nhận. (5) Hồi hướng về tịch diệt.

Đã biện về loại giới. Loại tu sẽ biện. Tụng nêu:

Đẳng dẫn thiện gọi tu

Rất có thể huân tâm.

Luận nói: Đẳng dẫn thiện: Nghĩa là ở trong định tự tánh của đẳng trì và định kia đều cùng có, tức đây gọi là tu, vì hoàn toàn huân tập tâm. Tu là nghĩa huân tập. Như hoa xông ướp nơi vải sợi. Nghĩa là các định thiện cùng nối tiếp ở nơi tâm hoàn toàn có thể huân tập, khiến thành loại đức, không phải là định bất thiện, nên gọi riêng là tu.

Trước đã biện về phước của thí, có thể chiêu cảm quả là sự giàu có lớn. Hai loại giới tu đã chiêu cảm như thế nào?

Tụng nêu:

Giới tu hơn, thứ lớp

Cảm sinh trời, giải thoát.

Luận nói: Giới chiêu cảm sinh lên nẻo trời. Tu chiêu cảm giải thoát. Nói hơn: Là hiển bày về chỗ đã căn cứ theo phần hơn để nói. Nghĩa là thí cũng có thể chiêu cảm quả sinh lên nẻo trời. Đây là căn cứ theo phần hơn để nói về giới. Giữ giới cũng có thể chiêu cảm quả ly hệ. Đây là căn cứ theo phần hơn để nói về tu. Như thế, giữ giới cũng chiêu cảm quả là sự giàu có lớn. Đây là căn cứ theo phần hơn để nói về thí. Theo đấy so sánh nên biết.

Kinh nói: Bốn người có thể sinh phạm phước: (1) Vì cúng dường Đà-đô (Xá-lợi của Phật) Như Lai, kiến tạo tháp ở nơi xứ chưa từng có. (2) Vì cúng dường Tăng già bốn phương, kiến tạo chùa, thí cho vườn cây, cung cấp bốn sự. (3) Đệ tử Phật bị phá xong, có thể tạo hòa hợp. (4) Đối với hữu tình tu rộng khắp hạnh từ.

Phạm phước như thế, lượng ấy là thế nào?

Tụng nêu:

Cảm kiếp sinh nẻo trời

Là lượng một phạm phước.

Luận nói: Có Sư khác nói: Tùy theo phước có thể chiêu cảm một kiếp sinh lên nẻo trời, thọ hưởng các diệu lạc. Ngang với đây gọi là lượng của một phạm phước. Do phước kia đã chiêu cảm thời gian thọ hưởng diệu lạc, đồng với thọ mạng một kiếp của trời Phạm Phụ. Vì ở Bộ khác có Già tha nói:

Người có tin, chánh kiến

Tu mười hạnh thù thắng

Tức là sinh phạm phước

Chiêu cảm lạc kiếp trời.

Người đã lìa dục, tu bốn vô lượng, sinh lên trời thuộc cõi trên, thọ hưởng diệu lạc của thọ mạng một kiếp. Nếu chưa lìa dục, kiến tạo tháp, xây dựng chùa, khiến Tăng hòa hợp, có thể siêng năng tu tập gia hạnh như từ v.v…, thì người kia cũng như tu căn bản vô lượng, chiêu cảm kiếp an vui của trời.

Có Sư khác cho: Về lượng của phạm phước này, như đã biện trong phần nói về Nghiệp diệu tướng.

Đã nói về lượng phước. Khế kinh nói: Thí, lược có hai thứ: (1) Tài thí. (2) Pháp thí.

Đã biện về tài thí. Thế nào là pháp thí?

Tụng nêu:

Pháp thí tức như thật

Không nhiễm, biện giải kinh.

Luận nói: Nếu có thể như thật vì các hữu tình, dùng tâm không nhiễm để biện giảng về Khế kinh v.v…, khiến sinh hiểu biết đúng thực, gọi là pháp thí.

Câu: Nói như thật: Là làm rõ về chủ pháp thí đối với Khế kinh v.v… đã giải thích không điên đảo. Câu: Nói không nhiễm: Là hiển bày về chủ pháp thí không mong cầu lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng. Không như vậy tất cả mình và người khác đều tổn hại.

Khế kinh vân vân: Tức vân vân là chỉ cho mười một thứ còn lại. Tức làm rõ từ Khế kinh cho đến Luận nghị.

Nói Khế kinh: Nghĩa là có thể gồm thâu, dung nạp chung, tùy thuận thế tục, thắng nghĩa, tất cả ngôn thuyết lý luận chắc chật.

Như thế, Khế kinh là do Đức Phật giảng nói, hoặc đệ tử của Phật, được Phật chấp thuận, nên giảng nói.

Nói Ứng tụng: Nghĩa là dùng ngôn từ thắng diệu để biên tập thành câu, theo đấy thuật lại, tán thán phần Khế kinh đã nói ở trước.

Có thuyết nêu: Cũng là kinh không liễu nghĩa.

Nói Ký biệt: Nghĩa là tùy thuận những câu hỏi, đáp khác để phân tích biện biệt, như trong Ba-la-diễn-noa v.v… đã biện. Hoặc các ngôn thuyết của nghĩa chân thật hiện có đã biện, hiện biện, sẽ biện, đều gọi là ký biệt.

Có thuyết nói: Là kinh liễu nghĩa của chư Phật.

Nói Phúng tụng: Nghĩa là dùng ngôn từ thắng diệu để biên tập thành câu, không phải là tùy thuận nơi phần kinh ở trước mà là tán thán, ca vịnh. Hoặc có số câu là hai, ba, bốn, năm, sáu v.v…

Nói Tự thuyết: Nghĩa là không nhân nơi thỉnh cầu, mà là Đức Thế Tôn vì muốn khiến cho chánh pháp trụ lâu nơi thế gian, xem thấy những sự việc ít có, kỳ lạ, vừa ý, nên tự giảng nói, biện diệu cùng truyền. Như nói: Na-già này do Na-già kia v.v…

Nói Duyên khởi: Nghĩa là nói về nguyên do của tất cả thứ khởi thuyết, phần nhiều là điều phục, tương ưng, luận đạo, do duyên khởi kia đã hiển bày.

Nói Thí dụ: Là khiến tỏ ngộ về tông chỉ của nghĩa đã thuyết giảng, dẫn rộng nhiều môn, nhằm đối chiếu khai thị. Như Khế kinh Trường Dụ v.v… đã nói.

Có thuyết cho: Đây là trừ các Bồ-tát, nói về bản hạnh khác, có thể có đối tượng chứng đắc, chỉ rõ về ngôn thuyết của đối tượng hóa độ.

Nói Bản sự: Nghĩa là nói từ xưa lần lượt truyền đến nay, không nêu bày rõ người đàm luận mà nói về sự.

Nói Bản sinh: Nghĩa là thuyết giảng về bản hạnh đã hành trì của Bồ-tát. Hoặc dựa vào sự việc của quá khứ để khởi các ngôn luận, tức dùng ngôn luận của sự việc quá khứ làm cứu cánh. Đó gọi là Bản sự. Như kinh Mạn Đà Đa.

Nếu dựa nơi sự việc hiện tại để khởi các ngôn luận, chủ yếu dùng ngôn luận của sự việc quá khứ làm cứu cánh, đó gọi là Bản sinh. Như kinh La Sát Tư.

Nói Phương quảng: Nghĩa là dùng chánh lý để biện rộng về các pháp. Do tánh, tướng của tất cả pháp là rất nhiều, không phải ngôn từ rộng lớn thì không thể biện biệt. Cũng gọi là Quảng phá, do ngôn từ rộng này có khả năng phá tan bóng tối vô trí hết sức kiên cố. Hoặc gọi là Vô tỷ, do nghĩa lý của ngôn từ rộng lớn này là u huyền, vô tận. Các thứ khác không thể so sánh.

Có thuyết nêu: Đây là biện rộng về tư lương của đại Bồ-đề.

Nói Hy pháp: Nghĩa là ở trong ấy chỉ thuyết giảng về pháp xuất thế gian ít có, kỳ diệu. Do đấy, có thể hiển bày đúng về sự hy hữu của ba thừa.

Có Sư khác cho: Biện về Tam bảo, nói về những điều thế gian ít nghe biết, nên gọi là Hy pháp.

Nói Luận nghị: Nghĩa là ở trong các phần nghĩa đã nói ở trên, đã hiển bày, chỉ rõ, giải thích không điên đảo về những vấn nạn để quyết trạch.

Có thuyết nói: Nơi nghĩa thâm diệu của kinh đã nói, người đã thấy chân thật, hoặc là người trí khác, tùy theo lý để biện minh, giải thích, cũng gọi là luận nghị. Tức nơi nghĩa này gọi là Ma-đát-lý-ca. Khi giải thích về nghĩa của kinh khác, thì đây là Bản mẫu. Đây lại gọi là A-tỳ-đạt-ma, do có thể hiện đối các pháp tướng. Tức hiển thị về các pháp tướng luôn thuận hợp.

Như vậy là đã biện nói về mười hai phần giáo, lược nói, nên biết là thuộc về ba Tạng. Nói ba Tạng là: (1) Tạng Tố-đát-lãm. (2) Tạng Tỳ-nại-da. (3) Tạng A-tỳ-đạt-ma.

Ba Tạng như vậy có sai biệt như thế nào?

Chưa gieo trồng căn thiện, chưa vui thích về thắng nghĩa, vì khiến gieo trồng, vui thích, là nói về Khế kinh.

Đã gieo trồng, đã vui thích, khiến thành thục cùng nối tiếp, hành tác những việc được làm, là nói về Điều phục (Luật).

Đã thành thục, đã tạo tác, khiến giác ngộ, giải thoát, theo chánh phương tiện, là nói về Đối pháp (Luận).

Hoặc dùng văn từ thanh diệu lược, rộng, nối kết pháp tạp nhiễm và pháp thanh tịnh, khiến dễ hiểu rõ, gọi là Khế kinh. Tuyên nói về phương tiện tu hành, các phép tắc của thi la tịnh mạng, gọi là Điều phục. Khéo có thể hiển bày chỉ rõ về ngôn thuyết của nghĩa lý thâm diệu trong các Khế kinh, gọi là Đối pháp.

Hoặc dựa vào tâm giới, tuệ học tăng thượng đã hưng khởi luận đạo, như thứ lớp ấy gọi là Khế kinh, Điều phục, Đối pháp.

Hoặc Tạng Tố-đát-lãm là đẳng lưu của lực. Do trong các kinh đã nói về nghĩa lý cứu cánh, không gì có thể khuất phục.

Tạng Tỳ-nại-da là đẳng lưu của đại bi, vì đã biện nói về thi la cứu độ nẻo ác.

Tạng A-tỳ-đạt-ma là đẳng lưu của vô úy, vì trong pháp tướng chân thật đã có thể khéo an lập hỏi, đáp, quyết trạch về vô sở úy.

Ba Tạng của các loại như thế v.v… là không đồng, trong Tỳ-bàsa đã phân biệt rộng.

Trước đã giải thích riêng về ba thứ phước, nghiệp, sự. Nay sẽ giải thích về nghĩa thuận với thiện của ba phần ở trong kinh. Tụng nêu:

Thuận phước, thuận giải thoát

Thuận phần quyết trạch ba

Cảm quả ái, Niết-bàn

Thiện Thánh đạo như thế.

Luận nói: Thuận với thiện của phần phước: Nghĩa là chiêu cảm chủng tử của quả ái trong hàng người, trời v.v… nơi thế gian. Do sức của phần phước này, nên có thể chiêu cảm tộc họ cao quý trong thế gian. Sắc đẹp, giàu có lớn, Luân vương, Đế thích, Ma vương, Phạm vương. Các loại như thế v.v… đều là những quả đáng yêu thích.

Thuận với thiện của phần giải thoát: Nghĩa là an lập ý lạc thiện giải thoát, khiến không nghiêng động. Do đấy quyết định sẽ bát Niếtbàn. Biện về địa tự tánh của căn thiện này, nên biết như biện về xứ Hiền Thánh đã nói.

Thuận với thiện của phần quyết trạch: Nghĩa là bốn pháp như noãn v.v…, ở đây cũng như phần sau, biện về xứ Hiền Thánh đã nêu rõ.

Như thế gian đã nói về sách vở, in ấn, toán, văn, số. Tự thể của năm loại này thì thế nào? Nên biết, Tụng nêu:

Các như lý đã khởi

Ba nghiệp có thể phát

Thứ lớp là sách, in

Toán, văn, số tự thể.

Luận nói: Như lý khởi: Là chánh phương tiện sinh ba nghiệp, nên biết tức là thân, ngữ, ý. Có thể phát, tức là có thể khởi ba nghiệp này.

Như đối tượng ứng hợp của chúng, là các pháp như thọ, tưởng v.v…

Trong đây, sách vở, in ấn, là dùng thân nghiệp trước và thân nghiệp kia có thể phát sinh năm uẩn làm thể. Không phải các chữ, hình tượng, gọi là sách. Chạm trổ, in hoa văn, tức gọi là in. Nhưng do nghiệp tạo ra chữ, hình tượng, in ấn văn. Nên biết trong đây gọi là sách vở, in ấn.

Tiếp theo là toán và văn là dùng ngữ nghiệp trước và ngữ nghiệp kia có thể phát sinh năm uẩn làm thể. Sau là số, nên biết dùng ý nghiệp trước và ý nghiệp kia có thể phát sinh bốn uẩn làm thể. Chỉ do ý tư là pháp có thể tính đếm, nên biện về Thánh giáo.

Trong các pháp tướng có phần ít tên khác, khiến không mê lầm. Tụng nêu:

Thiện vô lậu gọi diệu

Nhiễm có tội, che, kém

Thiện hữu vi nên tập

Giải thoát gọi vô thượng.

Luận nói: Pháp vô lậu thiện cũng gọi là diệu, vì hơn hẳn pháp hữu lậu nhiễm, vô ký. Các pháp nhiễm ô cũng gọi là có tội, vì bị các bậc trí chê trách, nhàm chán. Cũng gọi là hữu phú, vì có thể ngăn che đạo giải thoát. Cũng gọi là thấp kém, vì rất thô bỉ, cấu uế, vì nên từ bỏ. Căn cứ ở chỗ diệu, kém này, tức phần ở giữa còn lại là đã thành, nên tụng không biện. Tức thiện hữu lậu, vô phú vô ký, gọi chung là ở giữa. Các thiện hữu vi cũng gọi là nên tập. Pháp khác không phải nên tập, về nghĩa căn cứ theo đấy là đã thành. Giải thoát, Niết-bàn, cũng gọi là vô thượng, do không một pháp nào có thể vượt hơn.

Niết-bàn là thiện, là thường, vì siêu việt mọi pháp. Niết-bàn là thiện, vì rất an ổn. Pháp hữu thượng còn lại, về nghĩa so sánh theo đấy là đã thành. Tức tất cả hữu vi, hư không phi trạch diệt, vì không đủ tướng thiện, thường như trước nói.

HẾT – QUYỂN 24