LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 37

Phẩm thứ 8: BIỆN VỀ TRÍ, phần 3

Đã nói về công đức không chung của Đức Như Lai. Công đức chung nay sẽ biện. Tụng nêu:

Lại có pháp Phật khác

Cùng Thánh khác, phàm phu

Gọi vô tránh, nguyện trí

Đức như vô ngại giải.

Luận nói: Đức Thế Tôn lại có vô lượng công đức là chung với Thánh giả khác và phàm phu. Nghĩa là vô tránh, nguyện trí, vô ngại giải, thông, tĩnh lự, vô sắc, đẳng chí, đẳng trì, vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ v.v… Tùy nơi đối tượng ứng hợp của chúng. Nghĩa là ba môn trước chỉ chung với Thánh khác. Thông, tĩnh lự v.v… cũng chung với phàm phu. Tuy trong thân Phật tất cả hành tướng công đức thanh tịnh, thù thắng, tự tại, so với công đức của Thanh văn v.v… là có khác. Tuy nhiên, dựa nơi loại đồng nên gọi là chung. Lại, trong ba công đức chung với Thánh khác, vô tránh là thế nào? Tụng nêu:

Vô tránh thế tục trí

Sau tĩnh lự, bất động

Ba châu duyên chưa sinh

Cõi dục Hoặc hữu sự.

Luận nói: Có A-la-hán nhớ nghĩ về nhiều đời từ xưa đã thọ nhận thân tạp loại, phát khởi Hoặc của mình và người khác. Do sự cùng nối tiếp này, nên thọ quả phi ái, liền khởi suy nghĩ: Có thân phiền não, duyên nơi thân ấy khởi Hoặc, hãy còn chiêu cảm quả khổ, huống chi là lìa thân phiền não, có đủ thân thắng đức. Suy niệm xong, phát sinh tướng trí như thế. Do phương tiện này, khiến hữu tình khác không duyên nơi thân mình để sinh tham, sân v.v… Trí ấy chỉ dùng tục trí làm tánh, duyên nơi người khác, ở nơi vị lai tu đoạn Hoặc. Không phải là trí vô lậu chuyển theo hành tướng này.

Nếu thể của vô tránh là thuộc về trí, thì vì sao nói hành tập đẳng trì vô tránh?

Điều này không trái nhau. Vì một phẩm tương ưng có nhiều công đức, theo đấy nói một. Như trong một ngọn núi có vô số vật, tùy thuận nêu lên một thứ để làm rõ tên núi. Về lý tức nên vô tránh là thuộc về trí. Hộ trì phần nối tiếp của người khác, Hoặc của vị lai sinh, tạo phương tiện thiện xảo làm trước thì sự mới thành. Nhưng tất cả tránh, gồm có ba thứ: Uẩn ngôn ngữ phiền não có sai biệt. Uẩn tránh nghĩa là chết. Ngôn ngữ tránh nghĩa là tranh chấp. Phiền não tránh tức là một trăm lẻ tám phiền não. Do sức của tục trí này có khả năng ngừng dứt phiền não tránh, nên được mang tên vô tránh. Trí này chỉ dựa nơi tĩnh lự thứ tư. Vì trái với nhân của khổ. Vì trong lạc thông hành thì tĩnh lự thứ tư là tối thắng. Nên ứng quả bất động là có thể khởi, không phải là thứ khác. Quả khác hãy còn không thể tự ngăn giữ khởi Hoặc, huống chi là có thể ngừng dứt phiền não nơi thân người khác. Trí này chỉ nương dựa nơi thân người của ba châu, không phải là châu bắc và thân khác. Vì tánh dũng mãnh, nhanh nhẹn. Duyên nơi cõi dục, chưa khởi Hoặc hữu sự sinh. Chớ khiến Hoặc của người khác duyên nơi ta sinh. Các Hoặc vô sự thì không thể ngăn chận. Bên trong khởi tùy theo chỗ ứng hợp duyên chung nơi cảnh.

Đã biện về vô tránh, nguyện trí thì thế nào?

Tụng nêu:

Nguyện trí hay duyên khắp

Còn như nói vô tránh.

Luận nói: Dùng nguyện làm ưu tiên, dẫn diệu trí khởi. Như nguyện mà thấu tỏ, nên gọi là nguyện trí. Trí này về tự tánh, địa, chủng tánh, thân, so với vô tránh là đồng. Chỉ có đối tượng duyên là riêng khác, vì dùng tất cả pháp làm đối tượng duyên.

Vì sao nguyện trí có thể nhận biết về vị lai?

Quán xét kỹ về quá khứ, hiện tại, so sánh để nhận biết. Như quan sát về lúa thóc thu gặt được có nhiều, có ít, so sánh để nhận biết ruộng kia có tốt, có xấu.

Nếu như vậy thì vì sao lập tên nguyện trí? Vì phàm phu hữu học cũng có thể nhận biết.

Không phải thế, vì đối tượng nhận biết có nhất định, không nhất định. Nhưng nghe truyền nói về các Đại Thanh văn ghi nhận sự việc của vị lai có khi không nhất định. Không phải khởi nguyện trí mà có nhận biết sai lầm này. Vì tục trí khác, quán về điều đã ghi nhận có dị biệt. Hoặc điều đã ghi nhận kia không có lỗi bất định, vì chỉ quán nơi phần đầu, không quán phần chung cuộc. Như trước khi mưa xuống chưa tới đất, thời gian đó vì bị A-tu-la La-hỗ-la vâng mệnh dứt bỏ. Trước thì thai đã mang kỳ thật là con trai, người kia ở nơi thời gian sau chuyển hình thành gái. Quỷ ở thành Vương xá, lúc đầu chiến đấu được thắng, về sau bị các quỷ ở thành Quảng nghiêm chế phục. Con người muốn cùng trị phạt quỷ trước tiên nên chiến đấu. Hoặc nguyện trí thật mới thấy biết về vị lai, nhưng khi gia hạnh thì trước khởi tỉ trí, quán đời quá khứ, hiện tại, căn cứ theo đấy để lường xét về vị lai, dẫn nguyện trí sinh mới có thể thấy biết chân thật. Tức do thấy biết này, nên có thể nhận biết về vô sắc. Nghĩa là trước hết quán hành đẳng lưu của nhân kia có tỉ trí sinh, dẫn nguyện trí chân thật. Hoặc khi quán tử sinh ở cõi dục, cõi sắc, tâm so sánh mà nhận biết đã sinh từ xứ ấy, dẫn sinh nguyện trí mới có thể nhận biết thật. Hoặc tỉ trí nhận biết cũng không có lỗi để chứng minh đối tượng duyên của tỉ trí tất đồng.

Nếu so sánh không nhận biết vì sao có thể chứng minh?

Thế thì nguyện trí tức nên không thể nói lực có thể duyên khắp ba cõi, ba đời. Các A-la-hán bất thời giải thoát muốn ở nơi cảnh kia, khi đang biết rõ, trước hết nên nêu bày chỗ trông mong cần thiết: Nguyện tôi nhận biết về cảnh kia, về sau nhập vào biên vực nơi tĩnh lự thứ tư dùng làm gia hạnh. Từ đấy vô gián như nguyện lực trước dẫn chánh trí khởi, đối với cảnh đã trông mong đều nhận biết như thật. Nói biên vực nhất định như phần sau sẽ giải thích.

Sức của nguyện trí này có thể nhận biết quá khứ, so với túc trụ trí có sai biệt như thế nào?

Nguyện trí nhận biết chung về tự tướng, cộng tướng. Các túc trụ trí thì nhận biết về cộng tướng, không phải là thứ khác. Nhận biết trong cộng tướng cũng có sai biệt, nguyện trí tức sáng rõ, túc trụ thì không như vậy. Hiện ở nơi đối tượng duyên, đối với tha tâm trí, biện về tướng sai biệt, như lý nên tư duy.

Đã biện về nguyện trí. Vô ngại giải thì thế nào? Tụng nêu:

Vô ngại giải có bốn

Tức pháp, nghĩa, từ, biện

Danh, nghĩa và thuyết đạo

Trí không thoái làm tánh.

Pháp, từ chỉ tục trí

Năm, hai địa làm dựa

Nghĩa mười sáu, biện chín

Đều nương tất cả địa

Chỉ đắc tất đủ bốn

Khác như nói vô tránh.

Luận nói: Các vô ngại giải gồm chung nêu có bốn: (1) Pháp vô ngại giải. (2) Nghĩa vô ngại giải. (3) Từ vô ngại giải. (4) Biện vô ngại giải.

Bốn thứ này nói chung như thứ lớp ấy, do duyên nơi danh, nghĩa ngôn và thuyết đạo, dùng trí không thể thoái chuyển làm tự tánh. Nghĩa là trí không thoái chuyển duyên nơi pháp của chủ thể giảng giải là danh, cú, văn thân, lập làm vô ngại giải thứ nhất (Pháp vô ngại giải). Hướng đến nghĩa của đối tượng giảng giải nói đấy là danh, tức là nghĩa biểu hiện mời gọi về tự tánh của pháp. Biện biệt về nghĩa của đối tượng giảng giải, nói đấy là cú, tức là nghĩa biện giải hiểu rõ về pháp có sai biệt. Không đợi tiếng nghĩa, riêng có thể tạo hiểu biết sinh khởi chỗ nương dựa nói đấy là văn, tức là ca già trá, đa ba v.v… Về lý tức nên có hiểu biết không đợi tiếng nghĩa. Hiểu biết này không nên không có cảnh của đối tượng duyên. Cảnh của đối tượng duyên này nói đấy là văn. Văn nghĩa là không thể nói về gần đối với nghĩa, chỉ cùng với danh, cú làm chỗ dựa để giảng giải nghĩa. Ba thứ này có thể giữ gìn các nghĩa của đối tượng giảng giải cùng phép tắc sinh hiểu biết, nên gọi là pháp. Tức ba tự tánh, nói đấy là thân. Vì thể của tự tánh, thân, danh có sai biệt, nên ba thứ cùng với tiếng, nghĩa rất cùng gần gũi xen tạp, làm cảnh sinh hiểu biết có tướng riêng khó nhận biết, nên nói chữ thân là làm rõ có Thể riêng.

Nếu trí không thoái chuyển duyên nơi thắng nghĩa hiện có của tất cả pháp, thì lập làm vô ngại giải thứ hai (Nghĩa vô ngại giải). Tức tự tướng, cộng tướng của các pháp. Tuy danh, thân v.v… cũng là thuộc về nghĩa, nhưng không phải là thắng nghĩa, vì có nhiều tưởng. Nghĩa là có nghĩa như, có nghĩa không như. Có nghĩa có, có nghĩa không có. Có dựa vào giả chuyển, có dựa vào thật chuyển. Hiểu rõ những nghĩa này là vô gián, hoặc ở nơi các đối tượng lường tính của thời gian sau gọi là thắng nghĩa.

Vì muốn hiển thị Nghĩa vô ngại giải, tức cảnh nơi đối tượng duyên, không phải là ngữ và danh, nên đối tượng duyên này nói là thắng nghĩa. Nghĩa là thắng nghĩa này chỉ nhận lấy dựa nơi ngữ khởi danh, danh đã hiển bày nghĩa, không phải là nhận lấy tràn lan. Đối tượng hành của tâm gọi là nghĩa. Nếu trí không thoái chuyển duyên nơi ngôn từ Thánh, tục của các phương cõi thì lập làm vô ngại giải thứ ba. Tức khả năng nhận biết rõ thế ngữ, điển ngữ, đối với vô số thứ sai biệt của các phương, cõi.

Nếu trí không thoái chuyển duyên hợp với chánh lý, thuyết nêu không có vướng mắc trở ngại và duyên nơi hai đạo định, tuệ tự tại, thì lập làm vô ngại giải thứ tư. Tức ở văn nghĩa có khả năng tuyên dương đúng đắn ngôn từ không ngưng trệ gọi là biện. Và các công đức đã đạt được hiện có, không do gia hạnh mà tự nhiên hiện tiền theo công năng tự tại cũng gọi là biện. Công năng này có thể dấy khởi biện luận, được lập tên biện. Biện biệt rõ và nhân nơi trí, gọi là Biện vô ngại giải. Tức trước đã nói là có thể tuyên dương đúng đắn, khéo ứng hợp vật cơ, không trái với thắng nghĩa. Ngôn thuyết hiện có gọi là hợp với chánh lý, tức trước đã nói ngôn từ không có ngưng trệ. Không chờ đợi xứ, thời và hữu tình v.v… Biện giải, phân tích tự tại, gọi là không có vướng ngại. Tức trên đã nói: Công đức đã đạt được, không do gia hạnh, tự nhiên hiện tiền, gọi là tự tại.

Hai đạo định, tuệ lại là chủ thể giảng giải, đối tượng giảng giải cùng phù hợp với trí, gọi là hai vô ngại giải đầu. Nghĩa là thấu đạt danh này thuộc về nghĩa như thế cùng thấu đạt nghĩa này, có danh như thế, gọi là chủ thể giảng giải, đối tượng giảng giải cùng phù hợp với trí, khi thấu đạt cùng gia hạnh tạo ra ngôn từ, gọi là vô ngại giải thứ ba. Đạt được ngôn thuyết đã ưa thích và nhân của đạo tự tại, gọi là vô ngại giải thứ tư.

Lại, sáu đối tượng nhận biết như sắc v.v…, gọi là nghĩa. Tức sắc hữu vi, vô vi thiện v.v… này và không phải sắc v.v… có sai biệt gọi là pháp. Tức giảng giải hai thứ ngôn thuyết này gọi là từ. Ba trí tức là ba vô ngại giải trước. Tức duyên nơi ba thứ trí không có ngăn ngại, gọi là vô ngại giải thứ tư.

Lại, đạt được hai đế thắng nghĩa và thế tục, gọi là hai vô ngại giải đầu. Đây tức là đức viên mãn thuộc tự lợi của hành giả: Có thể khéo tuyên thuyết hai đế như thế, gọi là vô ngại giải thứ ba. Ở đây khéo léo hỏi đáp thông suốt vấn nạn gọi là vô ngại giải thứ tư. Đấy tức là đức viên mãn thuộc lợi tha của hành giả.

Có thuyết nói: Ngu si, do dự, tán loạn, là nhân khiến ở nơi tuyên thuyết biện giải có vướng mắc trở ngại. Do giải thoát ba thứ này được hiện pháp lạc trụ. Và do lạc trụ này, nên hành lợi tha thành tựu, trí này gọi là biện vô ngại giải.

Nếu được như thế thì nhất định có thể tuyên thuyết, phù hợp với chánh lý, ngôn từ không có ngưng trệ và được công đức tự tại hiện tiền. Lại, ở nơi danh cùng ngôn từ của thắng nghĩa đã nêu bày không vướng mắc, trong ấy đều được thiện xảo, như thứ lớp kiến lập bốn vô ngại giải. Ba vô ngại giải trước, phần thiện xảo gọi là nhân, do cảnh không đồng, nên có sai biệt. Vô ngại giải thứ tư gọi là quả, có thể thuyết giảng không ngưng trệ. Lại do bốn phần sự lợi tha thành tựu. Nghĩa là khéo léo về văn, thấu đạt về nghĩa, thanh vận diệu tĩnh định, tuệ tự tại, nên vô ngại giải kiến lập có bốn. Đây tức nói chung về thể của vô ngại giải, gồm hiển bày về bốn thứ đối tượng duyên có sai biệt.

Khế kinh lược nêu dẫn số này và danh. Trong các Đối pháp thì hiển thị rộng về tướng. Lại, kinh nêu danh số này, trước là nghĩa, sau là pháp. Trong các Đối pháp thì trước là pháp, sau là nghĩa. Đây là làm rõ khi hai trí sinh thì hoặc nghĩa nhân nơi danh, hoặc danh nhân nơi nghĩa. Nên kinh cùng với luận nêu dẫn có khác nhau. Nghĩa là người nghe pháp, trước hết là phân biệt danh. Đã chánh tri danh thì tiếp theo tìm cầu về nghĩa kia. Chánh tri về nghĩa xong, muốn vì người khác giảng nói, thứ đến tất nên cầu đạt trí thuyết giảng không có vướng mắc trở ngại. Dựa theo thứ lớp này, nên danh ở trước. Nhưng trong bốn pháp ấy thì trí của nghĩa là hơn hết, ngoài ra đều là trợ bạn, nên nghĩa ở trước. Nghĩa là ở trong nghĩa, nếu thấu đạt đúng đắn, thì tiếp theo nên dùng phương tiện để tìm tòi xét cứu về danh của nghĩa đó. Đã nhận biết danh, muốn vì người khác giảng nói, tức thứ đến nên đối với thuyết, tìm cầu trí phương tiện thiện xảo. Vì thế bốn vô ngại giải này theo thứ tự như vậy. Biện vô ngại giải, nếu khi duyên nơi phần thuyết giảng thì đâu khác gì với từ vô ngại giải thứ ba? Thứ ba thì thấu đạt ngôn từ huấn thị, giải thích, như vì có biến đối, ngăn ngại, nên gọi là sắc v.v… Sự thấu đạt này là hợp lý, tức thuyết không có vướng mắc trở ngại.

Có thuyết nói: Từ vô ngại giải giảng giải về tự tánh của các pháp. Biện vô ngại giải thì có thể hiển thị về các pháp có sai biệt.

Có thuyết cho: Đối với pháp nêu bày trực tiếp, gọi là Từ. Lần lượt phân tích không có ngưng trệ, gọi là Biện. Duyên nơi hai thứ này nên ba, bốn có riêng khác. Pháp, Từ trong bốn, dùng tục trí làm tánh, không phải là trí vô lậu, vì duyên nơi danh thân v.v… và cảnh giới sự của ngôn từ thế gian. Pháp vô ngại giải dựa chung nơi năm địa. Nghĩa là dựa nơi cõi dục và bốn tĩnh lự căn bản, vì trong địa trên không có danh thân v.v…, nên địa trên không duyên riêng nơi danh v.v… của địa dưới. Từ vô ngại giải dựa nơi hai địa. Nghĩa là dựa nơi cõi dục và tĩnh lự căn bản thứ nhất, vì trong các địa trên không có tầm, tứ. Tức địa kia tất không có ngôn ngữ của mình.

Nêu nhân này là phi lý. Vì sao? Vì không phải phát khởi ngữ trí, gọi là vô ngại giải. Chớ cho vô ngại giải trong định không có. Do đấy không nên nói như thế này: Không có tầm, tứ, nên trong các địa trên không có ngôn ngữ. Không có lỗi ấy, vì nghĩa của nhân khác.

Thế nào gọi là nghĩa của nhân?

Nghĩa là ý này nói: Hai pháp tầm tứ có thể phát khởi ngôn ngữ. Tướng không tịch tĩnh, tự tánh thô động. Vì địa trên không có tầm, tứ này, nên tĩnh lặng vi tế.

Từ vô ngại giải duyên nơi ngôn từ bên ngoài, cũng không tịch tĩnh, thuộc về loại thô động. Thế nên giải này trong địa trên không có. Nơi tĩnh lự thứ nhất cũng có tầm, tứ, nên ở trong định cũng có giải này. Do đấy cực thành, chỉ dựa nơi hai địa. Nghĩa vô ngại giải dùng mười hoặc sáu trí làm tánh. Nghĩa là nếu các pháp đều gọi là nghĩa, thì mười trí là tánh. Nếu chỉ Niết-bàn gọi là nghĩa, thì sáu trí là tánh. Tức là tục, pháp, loại, diệt, tận, vô sinh. Biện vô ngại giải dùng chín trí làm tánh, tức chỉ trừ diệt, vì duyên nơi thuyết đạo. Hai vô ngại giải này dựa chung nơi tất cả địa mà khởi. Nghĩa là dựa nơi cõi dục cho đến xứ Hữu đảnh.

Biện vô ngại giải ở trong thuyết đạo, thừa nhận theo đấy duyên một đều được khởi, nên dựa chung nơi các địa cũng không có lỗi. Nhưng ở trong các địa đó, chỉ duyên nơi thuyết, tức chỉ dựa vào hai địa, cùng với vô ngại giải thứ ba là đồng.

Có thuyết nêu: Tận vô sinh không phải thuộc về vô ngại giải, do vô ngại giải là tánh của kiến. Thuyết kia nói vô ngại giải thứ hai hoặc bốn, hoặc tám trí. Vô ngại giải thứ tư chỉ bảy trí, căn cứ theo trên nên biết. Bốn vô ngại giải này, nên biết như bốn Thánh chủng, tùy thuộc được một thứ, tất đắc đủ bốn. Không phải không đủ bốn mà có thể gọi là đắc. Tùy muốn hiện khởi, hoặc đủ hoặc không đủ.

Có Sư khác cho: Có đắc không đủ, vì không có lý được một tất khiến được bốn.

Có thuyết nêu: Bốn vô ngại giải này sinh, như thứ lớp hành tập tính toán Phật ngữ, thanh minh, nhân minh làm gia hạnh trước. Nếu ở nơi bốn xứ chưa được thiện xảo, tất không thể sinh vô ngại giải.

Lý thật thì tất cả vô ngại giải sinh, chỉ học Phật ngữ là có thể làm gia hạnh. Chủ yếu là chờ đợi trước khi sinh rất lâu hành tập bốn thứ như danh v.v… được thiện xảo, nay mới có thể tu.

Về danh xưng vô ngại giải, giải thích có nhiều nghĩa. Nghĩa là đối với các thứ cảnh kia, lãnh ngộ vô ngại, gọi là vô ngại giải. Hoặc đối với các thứ cảnh kia, quyết đoán vô ngại, gọi là vô ngại giải. Hoặc ở nơi các thứ cảnh kia chánh thuyết vô ngại, gọi là vô ngại giải.

Có Sư khác nói: Đối với cảnh hiện tiền, trí không điên đảo, gọi là vô ngại giải.

Bốn vô ngại giải này, dựa nơi địa, tự tánh, đối tượng duyên so với vô tránh có dị biệt.

Trước nay đã biện về chủng tánh dựa nơi thân, như nói về vô tránh. Nghĩa là chủng tánh bất động dựa nơi thân người của ba châu.

Như thế là đã nói về trí vô tránh v.v…

Tụng nêu:

Sáu dựa biên vực đạt

Định sau sáu biên vực

Thuận khắp đến cứu cánh

Phật gia hạnh khác đắc.

Luận nói: Vô tránh, nguyện trí, bốn vô ngại giải, sáu thứ đều dựa nơi định biên vực để đạt được. Vì sức của định biên vực đã dẫn phát, nên thể của tĩnh lự biên vực có sáu thứ, tức sáu thứ trước trừ từ, là phần ít của năm thứ còn lại và ngoại trừ năm thứ này, còn có gia hạnh khác đã đạt được.

Tĩnh lự phẩm thượng gọi là định biên vực, nên thành sáu thứ. Từ vô ngại giải, tuy dựa nơi tĩnh lự kia đạt được, nhưng thể không phải thuộc về tĩnh lự kia. Vì danh xưng biên vực chỉ dựa vào tĩnh lự thứ tư. Đối tượng tùy thuận của tất cả địa này là hiện có khắp và tăng đến cứu cánh, nên được mang tên biên vực. Do đấy cũng không nên nói là chung nơi địa khác.

Vì sao định biên vực này gọi là đã tùy thuận khắp?

Nghĩa là thời gian đang tu học tĩnh lự này, từ tĩnh lự thứ nhất, theo thứ lớp thuận nhập, cho đến xứ Hữu đảnh. Lại từ xứ Hữu đảnh theo thứ lớp nghịch nhập, cho đến tĩnh lự thứ nhất. Từ tĩnh lự thứ nhất, theo thứ lớp thuận nhập, lần lượt cho đến tĩnh lự thứ tư, gọi là tất cả địa đã tùy thuận khắp.

Vì sao định biên vực này gọi là tăng đến Cứu cánh?

Nghĩa là chuyên tu tập tĩnh lự thứ tư, từ hạ đến trung, từ trung đến thượng.

Ba phẩm như thế, mỗi phẩm lại đều phân làm ba. Sinh nơi phẩm thượng thượng, gọi là đến cứu cánh.

Như thế tĩnh lự được mang tên biên vực. Trong đây ba thừa không phải là không có sai biệt, nhưng đều đối với chính mình được mang tên cứu cánh. Ở đây danh xưng biên là làm rõ nghĩa không có vượt qua. Định khác không vượt qua đây, nên gọi là biên vực. Nói biên vực là hiển bày về nghĩa loại, nghĩa cùng cực. Như nói bốn tế và từ thật tế.

Hai câu nói như thế là nêu rõ tĩnh lự này là loại tối thắng, trong định là hơn hết. Công đức thù thắng phần nhiều từ nơi đây dẫn sinh. Trong lạc thông hành tĩnh lự này là tối thắng.

Như thế là đã nêu bày về trí vô tránh v.v… Trừ Đức Phật, các Thánh khác, chỉ do gia hạnh đắc, không phải do lìa nhiễm đắc, không phải đều đắc. Chỉ Đức Phật ở đây cũng do lìa nhiễm đắc. Công đức của chư Phật, lúc đắc tận trí đầu tiên, do lìa nhiễm nên tất cả đều đắc tức khắc, thời gian sau, tùy thuận ý muốn tức có thể dẫn hiện tiền, không do gia hạnh. Vì Đức Phật, Thế Tôn đối với tất cả pháp luôn hành chuyển tự tại.

Đã biện về ba đức trước, chỉ chung với Thánh khác. Đối với đức cũng chung với phàm phu, lại nên biện về thông. Tụng nêu:

Thông sáu tức thần cảnh

Thiên nhãn, nhĩ, tha tâm

Túc trụ, lậu tận thông

Đạo giải thoát, thuộc tuệ.

Bốn tục, tha tâm năm

Lậu tận thông như lực

Năm dựa bốn tĩnh lự

Tự địa dưới làm cảnh.

Thanh văn, Lân dụ Phật

Hai, ba ngàn vô số

Chưa từng do gia hạnh

Từng tu lìa nhiễm đắc.

Ba thân một, ba khác

Một pháp, pháp sau bốn

Thiên nhãn, nhĩ, vô ký

Bốn thông khác, chỉ thiện.

Luận nói: Thông có sáu thứ: (1) Thần cảnh trí chứng thông. (2) Thiên nhãn trí chứng thông. (3)Thiên nhĩ trí chứng thông. (4) Tha tâm trí chứng thông. (5) Túc trụ tùy niệm trí chứng thông. (6) Lậu tận trí chứng thông.

Tuy trong sáu thông thì loại thứ sáu chỉ là Thánh, nhưng năm loại trước thì phàm phu cũng đạt được. Tức dựa nơi tướng chung để nói là cũng chung với phàm phu.

Sáu thông như thế thuộc về đạo giải thoát, tuệ làm tự tánh, như quả Sa-môn. Nói đạo giải thoát là làm rõ về nghĩa xuất ly chướng, vì trong đạo thắng tấn cũng cùng có.

Như thế, thông tuệ không có trong đạo vô gián. Vị này nhất định ngăn chận tha tâm trí. Chớ cho A-la-hán xả bỏ đạo vô gián, tức gọi là cũng xả bỏ lậu tận thông. Trừ tha tâm, lậu tận, bốn thông còn lại là thuộc về tục trí. Tha tâm thông thuộc năm trí, tức là pháp, loại, đạo, thế tục, tha tâm. Lậu tận thông, như nói về lực, nghĩa là hoặc sáu hoặc mười trí.

Do đấy đã hiển bày về lậu tận trí thông, dựa nơi tất cả địa, duyên nơi tất cả cảnh. Năm thông trước dựa nơi bốn tĩnh lự, không dựa vào trung gian, cận phần, vô sắc. Ở nơi các địa kia không có định làm chỗ dựa của năm thông. Chủ yếu gồm thâu chi định là chỗ dựa của năm thông. Không phải lậu tận thông cũng không dựa nơi các địa kia. Các địa đều có thể duyên nơi lậu tận, nên không đợi quán sắc làm gia hạnh. Cảnh của ba thông trước không thể duyên nơi vô sắc. Do ba thông này, chỉ duyên riêng nơi sắc nên tu tha tâm thông, dùng sắc làm môn. Tu túc trụ trí thông thì dần dần nhớ nghĩ về phần vị sai biệt mới được thành mãn. Vì ở trong gia hạnh tất quán sắc, nên dựa nơi địa vô sắc thì không có năng lực như thế.

Nếu như vậy thì trung gian và năm cận phần cũng cùng duyên nơi sắc, tức nên có năm thông. Không phải thế, vì trước đã nói về nhân. Nghĩa là gồm thâu chi định là chỗ dựa của năm thông. Nếu không gồm thâu chi thì đẳng trì yếu kém. Lại, chỉ quán kia tùy nơi một tức giảm.

Nếu như vậy thì do đâu có lậu tận thông?

Vì nơi địa lạc, khổ, chậm, nhanh đều có thể dứt hết lậu. Năm thông trước là tu riêng công đức thù thắng, chủ yếu ở nơi địa thù thắng mới có thể phát khởi. Lúc tu ba thông trước như thần cảnh v.v…, tư duy về âm thanh ánh sáng nhẹ dùng làm gia hạnh. Thành tựu rồi thì tự tại tùy theo nơi chốn muốn hiện bày. Có các người muốn tu tha tâm thông, trước hết là quán xét kỹ về tướng thân tâm mình, trước sau biến đổi khác, lần lượt thuận theo nhau. Về sau lại quán xét kỹ về tướng thân tâm của người khác. Do gia hạnh này, dần dần được thành. Thành xong không quán các sắc của tự tâm, đối với tâm v.v… của người khác, có khả năng nhận biết như thật. Các hữu tình muốn tu túc trụ thông, trước hết phải tự thẩm xét, tiếp theo tâm diệt trước, dần dần lại quán nghịch về phần vị sự sinh này, trước trước sai biệt, đến tâm kết sinh, cho đến có thể nhớ biết một niệm trước của trung hữu, gọi là gia hạnh đã thành của tự túc trụ. Vì gia hạnh nhớ nghĩ về người khác cũng như vậy.

Thông này đầu tiên khởi, chỉ theo thứ lớp nhận biết. Khi thành tập quán, cũng có thể nhớ nghĩ vượt các sự việc đã ghi nhớ. Chủ yếu là đã từng lãnh nhận. Nhớ nghĩ về Tịnh cư như xưa đã từng nghe. Từ cõi vô sắc chết, sinh đến cõi này, dựa nơi phần cùng nối tiếp của người khác, đầu tiên khởi thông ấy. Số còn lại cũng dựa nơi phần cùng nối tiếp của mình để khởi.

Cảnh của năm thông như thế, chỉ ở nơi tự địa và địa dưới. Lại như thần cảnh tùy dựa nơi địa nào? Ở nơi tự địa và địa dưới, hành hóa tự tại, còn ở địa trên thì không như vậy, vì uy lực yếu kém. Bốn thông còn lại cũng như vậy, tùy đối tượng ứng hợp của chúng.

Thế nên không thể nhận lấy cõi vô sắc để làm cảnh của hai thông tha tâm và túc trụ. Tức năm thông này đối với cảnh của thế giới, tác dụng của các Thánh rộng hẹp không đồng. Nghĩa là Đại Thanh văn, Lân dụ, Đại giác, tác ý không tột cùng, như thứ lớp có thể ở nơi cảnh của một, hai, ba ngàn các thế giới khởi hành hóa cùng tác dụng tự tại. Nếu tác ý tột cùng thì như thứ lớp, có thể ở nơi hai ngàn, ba ngàn, vô số thế giới.

Năm thông như thế, nếu có thế dụng thù thắng, dũng mãnh, nhanh nhẹn, từ vô thủy đến nay, nếu người chưa từng được, thì do gia hạnh đạt được. Nếu đã từng tập quen nhưng không có thế dụng hơn hẳn cùng chủng loại kia, thì do lìa nhiễm đạt được. Nếu khởi hiện tiền thì đều do gia hạnh. Đức Phật đối với tất cả đều do lìa nhiễm đắc, tùy ý muốn hiện tiền, không do gia hạnh. Sau Thánh giả của ba thừa thì có phàm phu đắc chung là từng được và chưa từng được. Phàm phu còn lại chỉ được là từng được.

Căn cứ theo bốn niệm trụ để biện về sáu thông thì căn cứ nơi cảnh, căn cứ nơi Thể, hai nghĩa có khác.

Có thuyết nói: Hai thông tức thiên nhãn, thiên nhĩ. Bốn thứ còn lại dùng tuệ làm tánh. Thuyết kia nói nhãn, nhĩ thông là cảnh của thân niệm trụ. Bốn thông còn lại đều là cảnh của pháp niệm trụ. Nhưng thật sự thì sáu thứ đều dùng tuệ làm tánh. Kinh nói là đều có công năng thấu đạt cảnh, do đấy đều là cảnh của pháp niệm trụ. Nếu căn cứ theo thể để biện, thì trong sáu thông ba thông trước chỉ là thân, vì chỉ duyên nơi sắc. Nghĩa là thần cảnh thông duyên nơi bốn xứ ngoài. Thiên nhãn duyên nơi sắc. Thiên nhĩ duyên nơi thanh.

Nếu như vậy thì do đâu nói tử sinh trí nhận biết loại hữu tình do trong hiện thân, thành các hành ác v.v… của thân, ngữ ý, không phải là thiên nhãn thông? Có thể nhận biết sự việc này là có trí thù thắng riêng, là quyến thuộc của thông, dựa nơi thân Thánh khởi. Khả năng nhận biết như thế là do sức của thiên nhãn thông đã dẫn. Nên cùng với thông hợp lập danh xưng tử sinh trí. Tha tâm trí thông thì thuộc về ba niệm trụ. Nghĩa là thọ, tâm, pháp duyên nơi tâm v.v… Túc trụ trí thông thì thuộc về pháp niệm trụ. Tuy Khế kinh nói niệm từng thọ lãnh sự việc khổ, vui v.v…, là nhớ nghĩ về các thứ khổ, vui v.v… của đời trước đã thọ nhận. Đối tượng nhận lãnh nhiều vật dụng, tức là duyên xen tạp. Lậu tận thuộc về pháp niệm trụ, như lực, hoặc pháp, hoặc bốn niệm trụ. Nếu căn cứ theo thiện v.v… để phân biệt sáu thông: Có Sư khác cho: Sáu thông đều là thiện. Nhưng thật ra thì nhãn, nhĩ chỉ là tánh vô ký. Bốn thông còn lại hoàn toàn là thiện.

Kinh chủ ở đây đã nêu ra giải thích này: Thiên nhãn, thiên nhĩ thông thuộc về tánh vô ký, là vì nhãn, nhĩ thức tương ưng với tuệ.

Giải thích này không hợp lý, vì sáu thông đều thuộc về đạo giải thoát. Còn hai thức nhãn, nhĩ là đạo giải thoát, về lý là không thành. Nên nói như thế này: Trong bốn tĩnh lự, có định tương ưng với tuệ vô ký hơn hẳn, có công năng dẫn sinh quả của đại chủng thù thắng thuộc tự địa. Tuệ này hiện tiền liền dẫn sinh thiên nhãn, thiên nhĩ của tự địa, khiến hiện ở trước. Vì đã nương dựa nơi căn phát khởi nhãn, nhĩ thức, nên hai thức nhãn, nhĩ tương ưng với tuệ, không phải là thông. Tức chỉ có thể nói là do thông đã dẫn. Như Khế kinh nói về ba minh của vô học. Minh kia ở nơi sáu thông lấy gì làm tánh? Tụng nêu:

Thứ năm, hai, sáu minh

Vì trị ngu ba đời

Sau chân, hai giả nêu

Học có tối, không sáng.

Luận nói: Nói ba minh là: (1) Túc trụ trí chứng minh. (2) Tử sinh trí chứng minh. (3) Lận tận trí chứng minh.

Như thứ lớp của ba minh ấy do vị vô học gồm thâu, dùng ba thông thứ năm, hai, sáu làm tự tánh. Trong sáu thông thì ba thứ năm, hai, sáu kia được gọi riêng là minh, như thứ lớp đó là nhằm đối trị ngu của ba đời. Nghĩa là túc trụ thông đối trị ngu của đời trước. Tử sinh trí thông đối trị ngu của đời sau. Lậu tận trí thông đối trị ngu của đời giữa. Thế nên, ba thông này được nêu riêng danh hiệu minh.

Lại, túc trụ thông nhớ nghĩ về sự việc khổ của tự tha nơi đời trước. Tử sinh trí thông quán xét về sự khổ nơi thân người khác của đời sau. Do đấy, chán bỏ các khổ của sinh tử, khởi lậu tận thông, quán về lạc của Niết-bàn, nên chỉ ba thứ này lập riêng làm minh. Lại, ba thông ấy như thứ lớp có thể xả bỏ kiến chấp có thường, đoạn, nên lập làm minh. Lại, ba thông này vì có thể trừ bỏ ba thứ ngu về hữu, hữu tình, pháp, nên lập riêng làm minh.

Có Sư khác nói: Túc trụ có khả năng nhận thấy các uẩn của quá khứ lần lượt cùng làm nhân, thứ lớp truyền đến đều là không có tác giả. Do đấy có thể dẫn môn giải thoát không. Tử sinh có thể quán về sinh tử của hữu tình, dưới trên xoay chuyển cũng như bánh xe quay nước, nên không mong cầu quả báo của ba hữu. Do đấy có thể dẫn môn giải thoát vô nguyện. Vì lấy chán lìa làm môn theo pháp vô tướng của đế, nên khởi môn giải thoát vô tướng lậu tận. Thế nên ba thông được nêu riêng danh hiệu minh. Ba minh này đều gọi là vô học minh, vì đều cùng ở trong thân vô học khởi, trong đó sau cùng cùng có là thông vô lậu chân thật. Hai minh còn lại là giả nói phi học phi vô học. Do đấy sau cùng được mang tên vô học. Vì tự tánh tương tục đều là vô học, nên hai thứ trước được mang tên vô học, chỉ do tương tục, không do tự tánh. Như Luận Thi Thiết nói: Có đẳng trì tương ưng với tuệ vô phú vô ký, không do thiện và vì vô lậu, nên lập được tên Thánh. Do trong thân Thánh, đẳng trì này có thể đạt được, nên gọi là Thánh. Ở đây cũng như vậy, nên gọi là vô học. Trong thân hữu học vì có ngu tối, nên tuy có hai thông trước, cũng không lập làm minh. Tuy có tạm thời điều phục giảm thiếu ngu tối, nhưng về sau lại bị che lấp, nên không thể lập làm minh. Chủ yếu là tối tăm vĩnh viễn không có mới gọi là minh.

Trong Khế kinh nói: Thị đạo có ba loại. Ba thứ ấy ở nơi sáu thông lấy gì làm tánh?

Tụng nêu:

Thứ nhất, bốn, sáu đạo

Giáo giới đạo làm tôn

Định do thông tạo thành

 Vì dẫn quả lợi lạc.

Luận nói: Ba thị đạo là: (1) Thị đạo thần biến. (2) Thị đạo ký tâm. (3) Thị đạo giáo giới.

Như thứ lớp đó dùng ba thông thứ nhất, thứ tư, thứ sáu trong sáu thông làm tự tánh. Chỉ ba thứ này dẫn dắt chúng sinh được hóa độ, khiến người mới phát tâm là tối thắng. Có thể chỉ rõ (thị), có thể dẫn dắt (đạo), nên lập danh xưng thị đạo.

Trong ba thị đạo thì giáo giới là hơn hết, vì quyết định do thông được thành, vì quyết định dẫn sinh quả lợi lạc. Nghĩa là hai thị đạo trước thì chú thuật cũng có thể tạo được. Vì không chỉ do thông, nên không phải là quyết định. Như có chú thuật gọi là Kiền-đà-lê, trì chú thuật này liền có thể bay lên không tự tại. Hoặc có cỏ thuốc gồm đủ công năng hơn hẳn, nếu uống, hoặc nắm giữ thì có thể bay đi tự tại.

Lại có chú thuật gọi là Y-sát-ni, người trì chú thuật này tức có thể biết được tâm niệm của người khác. Hoặc do quán tướng, nghe tiếng nói của người kia, cũng có thể nhận biết rõ tâm niệm của người khác. Thị đạo giáo giới ngoại trừ lậu tận thông, ngoài ra đều không thể làm được, nên là quyết định. Hoặc hai thị đạo trước, ngoại đạo cũng có thể hành tác. Thị đạo thứ ba thì không như vậy, nên gọi là quyết định. Lại, hai thị đạo trước có khi chỉ khiến người khác tạm thời hồi tâm, không thể dẫn sinh được lợi ích cuối cùng và quả an lạc. Thị đạo giáo giới cũng quyết định khiến người khác dẫn sinh lợi ích đương lai và quả an lạc. Do có thể giảng nói về phương tiện như thật.

Do đấy, thị đạo giáo giới là tối thắng không phải thứ khác.

Hai chữ thần cảnh là nói về nghĩa gì? Tụng nêu:

Thể thần, gọi đẳng trì

Cảnh hai là hành hóa

Hành ba, ý lực Phật

Thân chuyển thắng giải thông.

Hóa hai là dục, sắc

Bốn hai, tánh xứ ngoài

Đây đều có hai thứ

Tức giống thân mình, người.

Luận nói: Danh xưng thần là nói về: Chỉ là đẳng trì thù thắng. Do đẳng trì này có thể làm các sự việc thần biến. Nhưng Khế kinh nói: Quả của thần gọi là thần. Ý là nêu lên phần thô để làm rõ phần tế. Lại hiển bày về đẳng trì thù thắng, là nhân gần của quả thần kia. Nhưng thể của sự thần biến, thật ra không phải là thần. Các sự thần biến gọi là cảnh. Cảnh này có hai thứ là hành và hóa. Hành lại có ba thứ:

1. Vận thân. Nghĩa là nương nơi hư không mà đi, cũng như chim bay.

2. Thắng giải. Nghĩa là phương rất xa, tạo ra tư duy gần, liền có thể đến nhanh chóng. Như đối với trời Sắc cứu cánh là rất xa, tạo ra tư duy gần, tức liền có thể đến.

Vốn không có đến đi vì sao gọi là đi nhanh?

Đi này thật sự cũng là vận hành, chỉ do giải gần về hành rất nhanh chóng, nên được danh xưng thắng giải. Hoặc như Đức Thế Tôn nói: Cảnh giới của tĩnh lự là không thể nghĩ bàn. Chỉ Phật là có thể hiểu rõ.

3. Ý thế. Nghĩa là phương rất xa, khi khởi tâm duyên, thân liền có thể đến. Thế này như ý, nên được mang tên Ý thế. Như tâm nhận lấy cảnh tức thì đến Sắc cứu cánh. Nên ở trong ba thứ ấy thì ý thế chỉ là Phật. Vận thân, Thắng giải cũng chung cho các thừa khác. Nghĩa là Đức Thế Tôn thần thông nhanh chóng, tùy theo phương xa gần, khởi tâm tức đến. Do đấy, Đức Thế Tôn nói như thế này: Cảnh giới của chư Phật là không thể nghĩ bàn. Như mặt trời tỏa ra ánh sáng, uẩn lưu chuyển cũng như vậy. Vì có thể tức khắc đến nơi xa, nên nói là hành.

Nếu cho là không như thế, thì lặn ở đây, hiện ở kia, trung gian liền đoạn và nghĩa hành tức nên không có. Hoặc oai thần của Phật là không thể nghĩ bàn, khởi tâm tức thì đến, không thể lường xét. Nên ý thế hành chỉ Đức Thế Tôn có. Thắng giải thì gồm luôn Thánh khác. Vận thân thì cùng phàm phu. Hóa lại có hai thứ, nghĩa là cõi dục và cõi sắc. Nếu ở cõi dục thì hóa bốn xứ ngoài, trừ thanh. Nếu ở nơi cõi sắc thì hóa chỉ có hai, nghĩa là sắc, xúc, vì trong cõi sắc không có hương vị. Hóa của hai cõi này đều có hai thứ. Nghĩa là thuộc về tự thân, tha thân có riêng khác. Thân ở cõi dục hóa có bốn thứ. Ở cõi sắc cũng như vậy, nên gồm chung thành tám. Tuy sinh ở cõi sắc, hành tác hóa ở cõi dục, nhưng không có lỗi cõi sắc thành hương vị. Hóa tác tự thân chỉ nơi hai xứ.

Có thuyết nói: Cũng hóa bốn. Như y phục v.v… không thành. Không phải thần cảnh thông có thể khởi sự hóa. Chủ yếu là các tâm có thể hóa của quả thông này.

Tâm có thể hóa này có bao nhiêu thứ, tướng gì? Tụng nêu:

Tâm chủ hóa mười bốn

Quả định hai đến năm

Như chỗ dựa định đạt

Từ tịnh, tự sinh hai.

Sự hóa do tự địa

Ngữ thông do tự dưới

Hóa thân cùng hóa chủ

Ngữ tất không phải Phật.

Trước lập nguyện lưu thân

Sau khởi ngữ tâm khác

Có chết lưu thể chắc

Khác nói không nghĩa lưu.

Đầu nhiều tâm, một hóa

Thành mãn trái với đây

Tu đắc thuộc vô ký

Đắc khác, chung ba tánh.

Luận nói: Tâm có thể biến hóa gồm có mười bốn. Nghĩa là dựa nơi bốn tĩnh lự căn bản sinh. Tĩnh lự thứ nhất sinh chỉ có hai thứ: (1) Thuộc cõi dục. (2) Tĩnh lự thứ nhất.

Tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, như thứ lớp ấy thì có ba, bốn, năm. Không có địa trên dựa nơi địa dưới, vì địa dưới thì kém. Quả của một tĩnh lự hệ thuộc địa trên, dưới, đối tượng nương dựa, hành như nhau, nhưng địa có hơn kém. Quả của tĩnh lự trên dưới hệ thuộc một địa, địa tuy như nhau, nhưng đối tượng nương dựa và hành có hơn kém. Quả của địa trên hệ thuộc địa dưới, quả của địa dưới hệ thuộc địa trên, như thứ lớp thì địa có kém hơn, đối tượng nương dựa và hành thì có hơn kém. Như đạt được tĩnh lự, tâm biến hóa cũng như vậy. Vì quả cùng với đối tượng nương dựa đều cùng thời đạt được. Nhưng đạt được tĩnh lự gồm có ba thời: Lìa nhiễm, thọ sinh, gia hạnh có khác nhau. Nghĩa là khi lìa nhiễm của địa dưới, được tĩnh lự của địa trên. Cũng được định của địa này đã dẫn sinh quả của tâm biến hóa. Khi từ địa trên mất, sinh nơi cõi sắc và do gia hạnh khởi công đức thù thắng, thì chỉ có mới được tĩnh lự của đối tượng nương dựa, cũng được luôn địa kia đã dẫn tâm biến hóa. Dựa nơi thân cõi dục được quả A-la-hán và khi ở nơi vị luyện căn được ứng quả, thì mười bốn tâm biến hóa một thời cùng đạt được. Cho đến thân ở nơi tĩnh lự thứ tư, chứng đắc A-la-hán, thì đạt được năm tâm biến hóa. Không có nghĩa từ tâm biến hóa trực tiếp xuất quán. Tâm biến hóa này từ định tịnh và tự loại sinh, có thể vô gián sinh tự loại định tịnh, nên chỉ từ hai sinh hai, không phải thứ khác. Chỉ tâm biến hóa của tự địa khởi sự biến hóa của tự địa. Biến hóa phát khởi ngữ do tâm của tự địa và địa dưới. Nghĩa là biến hóa của cõi dục và định thứ nhất chỉ có tâm ngữ của tự địa. Biến hóa ở địa trên khởi ngữ từ tâm của định thứ nhất, địa kia tự không có khởi tâm biểu.

Nếu sinh nơi cõi dục và định thứ hai v.v…, khi sự biến hóa chuyển thì vì sao khởi biểu?

Không phải đường oai nghi, xứ công xảo, tâm nương dựa vào thân của cõi khác mà có thể hiện khởi. Vì tâm kia tất dựa nơi thân của cõi mình. Sự việc này không có lỗi, dẫn đại chủng thuộc về cõi kia hiện tiền, làm đối tượng nương dựa. Nghĩa là dẫn đại chủng của cõi sắc hiện tiền, cùng với thân của cõi dục ngầm hợp mà trụ. Dựa nơi đấy khởi biểu kia, có thể phát khởi biểu tâm không có lỗi, biểu tâm của địa định, dựa vào thân của địa tán. Hoặc khởi dựa nơi định có thể phát biểu tâm, như dựa nơi định sinh thiên nhãn, nhĩ thức. Nếu một hóa chủ khởi nhiều hóa thân, chủ yếu khi hóa chủ nói, thì các hóa thân mới nói ngôn âm nêu bày khẳng định, tất cả đều đồng. Nên có Già tha nói như thế này:

Khi một hóa chủ nói

Các kẻ hóa đều nói

Một hóa chủ nếu im

Các kẻ hóa cũng vậy.

Luận nói: Ở đây chỉ nói phần khác, Đức Phật thì không như vậy, vì định lực của chư Phật là hết sức tự tại, so với ngữ được biến hóa cùng không đều cùng thời. Tiếng nói, đối tượng giảng giải, cũng cùng có riêng khác. Nếu khi ba địa trên đã biến hóa ngôn ngữ, thì người biểu tâm của định thứ nhất hiện tiền phát ra, ở phần vị khởi của tâm này đã xuất sinh tâm biến hóa, tức nên không có hóa thân thì làm sao biến hóa ngữ? Do nguyện lực từ trước đã lưu lại hóa thân, về sau khởi tâm khác, phát nghiệp ngữ biểu, nên không có lỗi biến hóa ngữ thiếu đối tượng nương dựa.

Không phải chỉ khi mạng của hóa chủ ở hiện tại mới có thể để lại hóa thân, khiến trụ trong thời gian lâu. Mà cũng có khiến trụ đến sau mạng chung. Tức như Tôn giả Đại Ca-diếp-ba đã lưu lại thân khung xương đến đời Từ Tôn. Chỉ Thể chắc thật mới có thể được lưu lại lâu. Khác với trường hợp Ẩm Quang này, tức nên để lại nhục thân v.v…

Có Sư khác nói: Chỉ nguyện lực lưu lại thân, tất không có khả năng khiến lưu đến sau khi chết. Thánh Đại Ca-diếp lưu lại thân là khung xương do các thiên thần giữ gìn, khiến trụ lâu. Người mới tập nghiệp do nhiều tâm biến hóa, chủ yếu nhờ vào đối tượng nương dựa khởi một sự biến hóa. Người hành tập thành mãn, do một tâm biến hóa có thể không nhờ nơi đối tượng nương dựa, khởi rất nhiều sự biến hóa. Gồm chung có hai loại tâm có thể biến hóa: (1) Tu tạo thành. (2) Sinh đắc v.v…

Chỗ khởi quả biến hóa cũng như nói về sự kia. Tâm có thể biến hóa do tu tạo thành, gồm thâu xứ, như trước đã nói. Không thể hóa làm thân hữu tình. Sinh đã đắc v.v…, ở trong cõi dục hóa làm chín xứ, nơi cõi sắc hóa bảy. Dựa nơi căn không lìa để nói là hóa chín v.v… Lý thật không có khả năng hóa làm căn tu quả không có tâm. Hóa khác thì cùng có tu quả khởi biểu. Do tâm của hóa chủ, số còn lại cùng tự tâm khởi thân ngữ biểu, tu quả ăn uống. Nếu vì để nuôi sống thân, tất tiêu hóa ở trong thân hóa chủ. Nếu vì sự khác như nuốt vàng, đá v.v…, hoặc tức ở trong thân của sự biến hóa kia. Hoặc tùy theo đối tượng thích nghi, đặt để nơi xứ riêng. Ngoài ra, biến hóa thức ăn uống, tùy trụ nơi đối tượng nương dựa, tâm biến hóa quả tu, chỉ là tánh vô ký. Số còn lại thì chung cả ba tánh, nghĩa là thiện, ác v.v… Như tâm có thể biến hóa của hàng trời, rồng v.v… Các loại kia cũng có thể vì thân tự tha mà biến hóa. Nói thiên nhãn, thiên nhĩ là nêu bày về nghĩa gì? Là nói về thể của tuệ hay là nói về sắc căn. Nếu là tuệ thì không nên gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ. Nếu là sắc căn thì không nên gọi là thông. Điều này như trước đã nói.

Trước đã nói về những gì?

Nghĩa là trước đã nói trong bốn tĩnh lự căn bản có định tương ưng với tuệ vô ký thù thắng, gọi là thiên nhãn và thiên nhĩ thông. Ở nơi tuệ này đã dẫn sinh quả của đại chủng thù thắng. Gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ, Thể của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Thiên nhãn, nhĩ là căn

Tức sắc tịnh địa định

Luôn đồng phần không thiếu

Nhận lấy chướng tế, xa.

Thể này tức là căn của thiên nhãn, thiên nhĩ. Nghĩa là duyên nơi âm thanh, ánh sáng làm gia hạnh. Dựa vào bốn tĩnh lự, ở nơi biên của nhãn, nhĩ dẫn khởi hai căn nhãn nhĩ của tịnh sắc do đại chủng vi diệu của địa kia tạo ra. Thấy sắc, nghe tiếng, gọi là thiên nhãn, thiên nhĩ.

Nhãn, nhĩ như thế, vì sao gọi là thiên?

Thể tức là thiên, vì thuộc về địa định, vì rất thanh tịnh, nên lập dùng tên thiên. Do đấy kinh nói: Thiên nhãn, thiên nhĩ là không có da, thịt, gân, xương, ràng buộc với đường máu. Chỉ là tịnh sắc được tạo do đại chủng vi diệu. Nhưng chủng loại của thiên nhãn, thiên nhĩ có ba: (1) Thiên tu đắc. Tức như trước đã nói. (2) Thiên sinh đắc. Nghĩa là sinh trong các trời. (3) Giống với thiên. Nghĩa là sinh nơi nẻo khác, do nghiệp hơn hẳn đã dẫn sinh khả năng thấy nghe xa, giống với thiên nhãn, thiên nhĩ. Như quan giữ kho báu (của Chuyển luân vương), Bồtát, Luân vương, các rồng, quỷ thần và trung hữu, đều tu được nhãn, nhĩ. Quá, hiện, vi lai sinh, luôn là đồng phần. Do đến hiện tại, tất cùng với thức đều cùng có thể thấy, nghe. Xứ sở tất gồm đủ, không bị che lấp, không thiếu. Như sinh nơi cõi sắc, tất cả hữu tình có thể tùy theo đối tượng ứng hợp, nhận lấy, bị ngăn cách với các phương, sắc, âm thanh rất vi tế, rất xa v.v… Nên ở trong đây có tụng:

Nhục nhãn ở các phương

Bị ngăn sắc nhỏ, xa

Không dụng có thể thấy

Thiên nhãn thấy không sót.

Trước nói tâm biến hóa tu các thứ khác đắc, năm thứ như thần cảnh khác v.v… là đều có khác chăng? Tụng nêu:

Thần cảnh năm tu sinh

Do chú, thuốc nghiệp thành

Tha tâm tu sinh chú

Lại, thêm đoán tướng thành

Ba tu sinh nghiệp thành

Trừ tu đều ba tánh

Người chỉ vô sinh đắc

Địa ngục, đầu hay biết.

Luận nói: Loại thần cảnh trí gồm có năm thứ: (1) Tu đắc. (2) Sinh đắc. (3) Chú thành. (4) Thuốc thành. (5) Nghiệp thành.

Các thần cảnh trí như Mạn Đà Đa Vương và trung hữu v.v… là thuộc về nghiệp thành.

Có Sư khác nói: Thần cảnh có bốn, tức là ba biến hóa như trước đã nêu là một. Nói biến hóa: Như Khế kinh nói: Phân một làm nhiều, cho đến nói rộng. Loại tha tâm trí gồm có bốn thứ. Ba thứ trước như trên, thêm đoán tướng thành. Ba thứ còn lại đều ba. Nghĩa là tu, sinh, nghiệp. Trừ tu đắc đều chung nơi thiện v.v…, vì không phải quả của định, nên không được mang tên thông. Trong nẻo người đều không có sinh đắc. Nẻo khác đều cùng có tùy theo đối tượng ứng hợp kia. Bản tánh sinh niệm thuộc về nghiệp thành. Người do nghiệp trước có thể nhớ nghĩ về quá khứ. Ở nơi nẻo địa ngục, lúc thọ sinh đầu tiên, chỉ do sinh đắc tha tâm, túc trụ nhận biết tha tâm v.v… và đời quá khứ, bị khổ thọ bức bách xong, lại không có nghĩa nhận biết.

Người kia nhớ lại quá khứ lấy gì để chứng biết?

Như Khế kinh nói: Người kia tự nhớ nghĩ: Chúng ta nơi quá khứ từng nghe người khác nói về lỗi lầm của các thứ dục mà không chán lìa. Nên nơi thời nay, phải thọ nhận các thứ khổ kịch liệt này. Người kia chỉ có thể nhớ lại một đời trước tiếp theo đấy. Nẻo khác tùy chỗ ứng hợp, luôn có nghĩa nhận biết. Bàng sinh nhận biết quá khứ, như tiếng ốc, chó v.v… Quỷ nhận biết quá khứ, như có tụng nói:

Ta xưa tích của cải

Do pháp, hoặc phi pháp

Khác nay thọ giàu, vui

Ta riêng chịu nghèo khổ.

Chư thiên biết quá khứ, như có tụng nói:

Ta thí rừng Thệ đa

Mong Đại Pháp vương trụ

Hiền, Thánh Tăng thọ dụng

Nên tâm ta hoan hỷ.

Lại Khế Kinh nói: Các người sinh lên trời mới sinh tất khởi ba thứ suy nghĩ: Ta từ nơi nào chết? Nay sinh vào xứ nào? Nương theo nghiệp nào nên sinh đến xứ này?

Nên biết chư thiên có thể nhớ nghĩ về quá khứ.

HẾT – QUYỂN 37