LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 25

Phẩm thứ 6: BIỆN VỀ TÙY MIÊN, phần 1

Đã biện về các nghiệp. Khế kinh nơi xứ xứ nói nghiệp chiêu cảm hữu. Tuy nhiên, nhận thấy nơi thế gian người đã lìa nhiễm, tuy tạo nghiệp thiện, nhưng không có công năng chiêu cảm quả của hữu sau. Nên đối với sự việc chiêu cảm hữu, nghiệp tức nên không phải là nhân. Nghiệp riêng làm nhân không phải điều tôi đã thừa nhận. Chủ yếu là do tùy miên hỗ trợ mới có thể chiêu cảm hữu. Nên giáo pháp duyên khởi, đầu tiên là nói về tùy miên.

Tùy miên này lại nhân nơi gì? Tùy miên có bao nhiêu thứ?

Tụng nêu:

Tùy miên gốc các hữu

Đây sai biệt có sáu

Gọi tham, sân cũng mạn

Vô minh, kiến và nghi.

Luận nói: Do các tùy miên là gốc của các hữu, nên chính là những tùy miên này đã phát khởi nghiệp mới có công năng chiêu cảm hữu. Trong đây tên hữu là nói về quả của ba hữu. Nên người lìa nhiễm, tuy tạo nghiệp thiện, mà không có sức mạnh để chiêu cảm quả của hữu sau.

Tùy miên như thế lược có sáu thứ. Nghĩa là tham, sân, mạn, vô minh, kiến, nghi.

Tụng nói chữ cũng là làm rõ về nghĩa của đồng loại. Nghĩa là sân như tham, tuy có nhiều loại, nhưng có thể nói chung là một tùy miên. Mạn v.v… cũng như vậy, nên lại nói cũng. Hoặc ở đây là hiển bày như tham so với sân, hành tướng là không đồng, nên kiến lập riêng. Hành tướng của mạn v.v… như thế, tuy đồng, nhưng vì nghĩa còn lại có khác nên cũng lập riêng. Nói và (Cập. Nơi câu tụng thứ tư) là làm rõ việc giải thích căn cứ ở chỗ trái nhau. Hoặc hiển bày là đã gồm thâu chung hết loại tùy miên.

Nếu số của các tùy miên chỉ có sáu, thì do đâu kinh nói có bảy tùy miên?

Tụng nêu:

Sáu do tham khác bảy

Hữu tham, hai cõi trên

Ở nơi môn trong chuyển

Vì ngăn tưởng giải thoát.

Luận nói: Tức trong sáu thứ tùy miên đã nói ở trước phân tham làm hai, nên kinh nói có bảy.

Vì tham của cõi dục có tướng tham sai biệt, nên ái nơi cõi sắc và vô sắc, Đức Phật nói là hữu tham, vì tham kia phần nhiều nhờ dựa nơi môn trong để chuyển. Lại, ở hai cõi trên có khởi tưởng giải thoát. Vì nhằm ngăn chận lối chấp kia, nên lập tên hữu. Do chữ hữu này là nói về nghĩa sinh thân. Đã nói hữu tham ở nơi hai cõi trên, về nghĩa căn cứ theo cõi dục. Tham gọi là dục tham, nên ở trong Tụng không hiển bày riêng. Phần nhiều duyên nơi môn ngoài của năm dục chuyển, nên như trước đã nói.

Sáu thứ tùy miên, lại căn cứ ở môn khác để kiến lập làm mười.

Tụng nêu:

Sáu do kiến khác mười

Khác tức hữu thân kiến

Biên chấp kiến, tà kiến

Kiến thủ, giới cấm thủ.

Luận nói: Trong sáu tùy miên kiến hành khác là năm. Số còn lại không phải kiến là năm, số tích tập gồm thành mười.

Tức sáu thứ trước, lại căn cứ theo môn khác để thành chín mươi tám. Tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Sáu hành, bộ cõi khác

Nên thành chín mươi tám

Dục do kiến khổ v.v… đoạn

Mười, bảy, bảy, tám, bốn.

Như thứ lớp lìa đủ

Ba, hai kiến, kiến nghi

Sắc, vô sắc, trừ sân

Còn lại như nói dục.

Luận nói: Sáu thứ tùy miên do hành bộ cõi môn có sai biệt, nên thành chín mươi tám. Nghĩa là ở trong sáu do kiến hành khác nên kiến lập làm mười như trước đã biện. Tức mười thứ tùy miên đã biện này, do bộ cõi không đồng, tức thành chín mươi tám. Bộ, nghĩa là năm bộ, do kiến bốn đế đoạn và do tu đạo đoạn. Cõi, nghĩa là ba cõi dục, sắc, vô sắc.

Lại, ở cõi dục năm bộ không đồng, nên nhân nơi mười tùy miên thành ba mươi sáu. Nghĩa là do kiến khổ đế đoạn, cho đến do tu đạo đoạn, như thứ lớp có mười, bảy, tám, bốn. Tức năm bộ trên đối với mười tùy miên là một, hai, một, một, như thứ lớp đó, lìa đủ ba kiến, hai kiến, kiến, nghi. Nghĩa là do kiến khổ đế đoạn trừ thì đủ mười tùy miên, vì tất cả đều trái với kiến khổ đế. Kiến tập, diệt đế đã đoạn đều có bảy tùy miên, tức lìa hữu thân kiến, biên kiến, giới thủ kiến. Do đạo đế đoạn trừ là tám tùy miên, tức ở bảy thứ trước thêm giới thủ. Tu đạo đoạn có bốn, tức lìa kiến (năm thứ) và nghi.

Như thế hợp thành ba mươi sáu thứ. Ba mươi hai thứ trước gọi là do kiến đạo đoạn, khi vừa kiến đế thì các tùy miên kia tức đoạn. Sau cùng có bốn gọi là do tu đạo đoạn. Kiến bốn đế xong, trong thời gian càng về sau, thường thường hành tập đạo, thì các tùy miên kia mới đoạn. Do đấy đã làm rõ: Trong mười tùy miên thì Tát-ca-da-kiến (Hữu thân kiến) chỉ ở một bộ, nghĩa là do kiến khổ đoạn. Biên chấp kiến cũng như vậy.

Giới cấm thủ ở chung hai bộ, tức là do kiến khổ, kiến đạo đoạn. Tà kiến thì chung cho bốn bộ, nghĩa là do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn. Kiến thủ, nghi cũng như vậy.

Bốn tùy miên còn lại như tham v.v… đều chung nơi năm bộ. Nghĩa là do kiến bốn đế đoạn và tu đạo đoạn.

Như thế, nói chung tức kiến phân làm mười hai, nghi phân bốn, bốn thứ còn lại mỗi thứ đều phân năm, nên trong cõi dục có ba mươi sáu. Trong đây, nếu kiến duyên nơi khổ làm cảnh, gọi là kiến khổ, tức là khổ pháp, khổ loại trí nhẫn. Hai thứ này đã đoạn nói chung gọi là do kiến khổ đoạn. Cho đến do kiến đạo đoạn cũng như vậy.

Thường hành tập gọi là tu. Nghĩa là người kiến tích vì được nghĩa trên, nên đối với các trí như khổ v.v…, luôn luôn huân tập, gọi là tu. Đối tượng đoạn trừ của đạo này, gọi là đối tượng đoạn của tu (Do tu đạo đoạn).

Nơi cõi sắc, vô sắc thì năm bộ đều trừ sân, phần còn lại là đồng với cõi dục, nên có ba mươi mốt thứ tùy miên.

Do đấy, tất cả Luận sư Chánh lý đều dùng sáu tùy miên, căn cứ theo hành bộ, cõi, môn có sai biệt, nên lập làm chín mươi tám thứ tùy miên.

Ở đây, trong chín mươi tám thứ tùy miên đã biện, thì tám mươi tám thứ là do kiến đạo đoạn, tức do nhẫn trừ diệt. Mười tùy miên do tu đạo đoạn, tức do trí diệt trừ. Đã căn cứ ở cõi, không phải ở địa, để kiến lập tùy miên. Do lìa tham của cõi, lập nhận biết khắp. Nghĩa là nơi bốn tĩnh lự, tánh của các pháp phiền não ít có giống nhau, nên tuy có bốn địa, nhưng hợp nói là một. Ở nơi bốn vô sắc, hợp nêu cũng như vậy. Kinh chỉ nói tham của cõi sắc, tham của cõi vô sắc v.v…

Vì sao ở cõi trên không có tùy miên sân?

Vì sự của tùy miên sân ở nơi cõi kia không có. Nghĩa là đối với khổ thọ thì có sân tùy tăng. Vì khổ thọ nơi hai cõi kia là không có, nên sân không có. Lại, nơi hai cõi kia thọ mạng cùng nối tiếp là do định làm thấm nhuần. Lại, ở hai cõi trên không có dị thục của sân.

Có thuyết cho: Ở nơi hai cõi trên không có sự việc não hại, nên là xứ sở cư trú của các căn thiện như từ v.v…, các thứ đối tượng thâu giữ đều xa lìa.

Nói tám mươi tám thứ tùy miên do kiến đạo v.v…, thì kiến đoạn, tu đoạn này là nhất định như vậy chăng? Không phải thế. Vì sao?

Tụng nêu:

Tùy miên do nhẫn trừ

Hữu đảnh chỉ kiến đoạn

Khác, chung kiến, tu đoạn

Do trí đoạn chỉ tu.

Luận nói: Trong các tùy miên do nhẫn đoạn trừ, thuộc về địa của xứ Hữu đảnh, chỉ do kiến đạo đoạn, vì chỉ loại trí nhẫn mới có thể đoạn. Thuộc về tám địa còn lại thì chung cho kiến đoạn, tu đoạn.

Nghĩa là Thánh giả đoạn thì chỉ do kiến đạo đoạn không phải do tu đạo đoạn, vì pháp loại trí nhẫn như chỗ ứng hợp đã đoạn. Nếu là phàm phu đoạn thì chỉ do tu đoạn không phải do kiến đoạn, do thường tập trí thế tục đoạn. Nên các tùy miên do trí đoạn trừ, là thuộc về tất cả địa, chỉ do tu đạo đoạn. Do các Thánh giả và các phàm phu, như đối tượng ứng hợp của họ, đều do thường tập trí thế tục vô lậu để đoạn.

Như trước đã biện trong sáu tùy miên, do hành có khác, nên kiến được chia làm năm, về danh như trước đã nêu ra, còn tự thể thì thế nào?

Tụng nêu:

Ngã, ngã sở, đoạn thường

Bác bỏ, kém cho hơn

Không nhân đạo, vọng cho

Là tự thể năm kiến.

Luận nói: Do nhân nơi sức của giáo, có các người ngu, trong năm thủ uẩn đã chấp ngã, ngã sở, kiến này gọi là Tát-ca-da-kiến (Hữu thân kiến), vì hữu gọi là tát. Chúng nghĩa là ca da, làm rõ về đối tượng duyên này là hữu mà không phải là một, tức đối với sự đã chấp ngã, ngã sở. Chấp đoạn, chấp thường, gọi là biên chấp kiến. Do vọng chấp thủ về hai biên đoạn, thường. Ở trong các đế như khổ v.v… thể là thật có, khởi kiến bác bỏ cho là không có, gọi là tà kiến. Năm thứ vọng kiến đều chuyển biến theo điên đảo, đều nên gọi là tà, nhưng chỉ bác bỏ cho là không có, mới gọi là tà kiến. Là do quá mức, quá đáng. Như nói: Tô hôi, dở, cho là ác v.v… Đây chỉ là tổn giảm. Số còn lại thì tăng ích. Đối với thua kém cho là hơn, gọi là kiến thủ. Hữu lậu gọi là thua kém, vì Thánh đã đoạn trừ. Chấp thua kém cho là hơn, gọi chung là kiến thủ. Về lý thật nên lập danh xưng kiến đẳng thủ. Lược bỏ chữ đẳng chỉ gọi là kiến thủ. Hoặc vì kiến là hơn, nên chỉ nêu tên kiến, dùng kiến làm đầu để thủ lấy pháp khác. Đối với không phải nhân nơi đạo khởi kiến chấp cho là nhân nơi đạo. Tất cả nói chung, gọi là giới cấm thủ. Nghĩa là Đại Tự tại, thời, tánh. Hoặc pháp khác thật sự không phải là nhân của khổ, vọng khởi chấp cho là nhân. Đạo có hai thứ: (1) Đạo tăng thượng sinh. (2) Đạo quyết định hơn.

Vô số thứ tà hạnh như nhảy vào lửa, nước v.v…, không phải là nhân sinh lên trời, vọng chấp cho là nhân, gọi là đạo thứ nhất. Chỉ thọ trì giới cấm theo tánh trí sĩ phu v.v…, không phải là nhân giải thoát, vọng chấp cho là nhân, gọi là đạo thứ hai. Như trước đã bỏ chữ đẳng. Hoặc giới cấm là hơn, thế nên chỉ lập tên giới cấm thủ. Nên biết tự thể của năm kiến như thế, hoặc đối với Tự Tại v.v… không phải là nhân chấp cho là nhân.

Như vậy, giới cấm thủ là mê lầm nơi nghĩa của nhân.

Vì sao kiến này không phải do kiến tập đoạn?

Tụng nêu:

Đối với Đại Tự Tại

Không nhân, vọng chấp nhân

Từ thường ngã đảo sinh

Nên chỉ kiến khổ đoạn.

Luận nói: Đối với Tự Tại v.v…, không phải là nhân chấp cho là nhân, người kia tất không thể quan sát lý sâu xa. Chỉ đối với nghĩa của quả nơi các uẩn thô như Tự Tại v.v… vọng cho là thường, nhất ngã, tác giả, đây là đứng đầu mới chấp làm nhân. Thế nên chấp này là do kiến khổ đoạn. Nghĩa là chấp ngã, là hữu thân kiến, đối với nghĩa của quả khổ vọng chấp là ngã, nên khi hiện quán khổ thì ngã chấp tức trừ, trí phi ngã sinh, không phải ở phần vị sau. Nếu có ngã kiến, do kiến tập v.v… đoạn trừ. Vì ở trong thọ mạng cùng nối tiếp ngã kiến đã tùy thuận, tức nên trí phi ngã không được sinh, do khi kiến chỉ là pháp thì ngã kiến liền diệt, nên trí phi ngã khởi.

Ngã kiến đã loại trừ. Nhưng có ngã kiến, ở trong pháp cùng nối tiếp như Tự Tại v.v… đã chấp về một ngã xong. Tiếp theo tức ở trên pháp cùng nối tiếp kia, khởi biên chấp kiến, chấp cho là thường. Do đấy nên biết hai chấp thường, ngã đối với pháp như Tự Tại v.v…, chỉ do kiến khổ đoạn. Do các hành vô lậu như không phải thường v.v…, khi kiến khổ đế thì hai kiến đã diệt. Đối với Tự Tại v.v… không phải nhân, chấp cho là nhân, tùy theo hai kiến sinh cũng đều cùng thời diệt. Nên nói chấp cho là nhân, chỉ do kiến khổ đoạn. Nhưng đối với không phải đạo chấp cho đúng là đạo, nếu trái với kiến đạo mạnh mẽ tức do là kiến đạo đoạn.

Há không phải như chấp Tự Tại v.v… là nhân, chấp khổ là nhân, chỉ thừa nhận do kiến khổ đoạn, không phải do kiến tập đoạn. Như thế cũng nên đối với không phải đạo chấp là đạo, chấp khổ là đạo, tức chỉ thừa nhận do kiến khổ đoạn, không phải do kiến đạo đoạn?

Vấn nạn này là không đúng. Vì đối với khổ đế, kiến là không phải thường v.v…, thì không phải do kiến đạo đối trị. Nghĩa là nếu có chấp về Tự Tại v.v… là nhân, thì trước hết phải chấp là vô thủy, vô chung, nên chấp của nhân này chỉ do kiến khổ đoạn. Do tưởng không phải thường (vô thường) v.v…, đối trị tưởng thường v.v… Nên không phải khi kiến khổ đế thì không phải thường v.v… có thể đối trị không phải đạo chấp cho là đạo. Vì vậy chấp của đạo kia không phải do kiến khổ đoạn. Do đấy cũng ngăn chận ý cho là do kiến tập đoạn. Do nhân của kiến v.v…, không phải do kiến tập đối trị. Nghĩa là không phải khi ở nơi tập thấy nhân thì có thể đối trị chấp không phải đạo cho là đạo. Chủ yếu là khi ở nơi đạo đế kiến đạo v.v… mới có thể đối trị chấp không phải đạo cho là đạo kia. Tức chấp cho là đạo ấy nên do kiến đạo đoạn.

Nếu như thế không phải đạo chấp cho là đạo, về lý tất nên chung do kiến tập, diệt đoạn. Nghĩa là như tà kiến đã bác bỏ cho là không có chân đạo. Về sau tức chấp đạo này có thể đạt được thanh tịnh.

Giới cấm thủ ấy đã thừa nhận do kiến đạo đoạn. Tà kiến như thế đã bác bỏ cho là không có tập, diệt. Về sau cũng chấp cho là có thể đạt được thanh tịnh.

Hai giới cấm thủ kia tức nên do kiến tập, diệt đoạn?

Vấn nạn này không hợp lý, vì Thể không thành. Nghĩa là giới cấm thủ, Thể của nó có hai: (1) Không phải nhân chấp cho là nhân. (2) Không phải đạo chấp cho là đạo.

Nếu có tà kiến chấp về nhân kia, hủy báng tập cho là có thể đạt được thanh tịnh.

Há không phải là kiến này không có đoạn nhân của tập thì không nên sinh, vì đều không có tâm, tin là có nhân. Lại, vì khổ cùng với tập là không có vật riêng, nên các uẩn như Tự Tại v.v… tức cũng nên bị bác bỏ? Nếu có tà kiến chấp về nhân kia hủy báng diệt cho là có thể đạt được thanh tịnh. Há không phải là kiến này không có dụng chứng đắc diệt thì không nên sinh?

Vì sao đã bác bỏ cho là không có kiến diệt đế, về sau lại chấp phương tiện diệt, chẳng phải là không vô ích? Như vậy là không thành Thể của giới cấm thủ mà nói phải có, nên những nêu bày kia không phải là vấn nạn.

Vì sao không phải là vấn nạn?

Vì được kiến đạo đoạn tức Thể của giới cấm thủ cũng nên không thành. Vì sau khi bác bỏ cho là không có kiến đạo đế, tức chấp cho là có đạo, nên không thành. Nghĩa là tà kiến duyên nơi đạo đế, hoặc nghi. Hoặc bác bỏ hoặc nghi cho là không có đạo giải thoát.

Vì sao tức chấp đạo ấy có thể đạt được thanh tịnh vĩnh viễn?

Thể của giới cấm thủ ấy không phải là không thành, vì thừa nhận có đối với tà kiến hủy báng đạo, chấp cho là có thể chứng đắc đạo thanh tịnh vĩnh viễn. Do chấp kia cho là đã hành giả như lý.

Nghĩa là tà kiến kia, trước dùng đạo giải thoát khác, chứa nhóm ở trong tâm. Tà kiến chấp sau không phải là hủy báng chân đạo, vì đã nhận biết như lý. Nói như lý: Nghĩa là người tà kiến kia đã cho bác bỏ nghi về đạo chân giải thoát là không điên đảo, vì như lý nên chấp làm nhân tịnh. Do đấy thể của giới cấm thủ được thành. Tâm kia đã chứa nhóm đạo giải thoát khác, không phải do kiến đạo đoạn. Đối tượng duyên của giới cấm thủ, vì chấp kia chỉ duyên nơi pháp của tự bộ. Vì đạo có nhiều loại, về lý là không có lỗi.

Nếu như vậy thì do kiến diệt đoạn, Thể của giới thủ tức cũng nên thành, vì cùng với đạo là đồng. Nghĩa là có kẻ trước dùng xứ giải thoát khác tích tụ ở trong tâm, sau khởi tà kiến chấp hủy báng chân giải thoát cho là nhận biết như lý. Do như lý nên chấp cho là nhân tịnh.

Như trước tức nên thành thể của giới cấm thủ. Không có lý như thế, vì đã thừa nhận chung, giải thoát là thường, là tịch. Tâm kia đã chấp hủy báng v.v… cho là nhân thanh tịnh, về lý là không thành. Như thừa nhận Thể của Niết-bàn là thật, không phải thật. Nghĩa là nếu dùng phương tiện để mong cầu giải thoát, thì người kia tức nên tất định thừa nhận là có giải thoát. Những người đã thừa nhận giải thoát quyết định là có, tất nên thừa nhận Thể của giải thoát kia là thường, là tịch. Nếu không thừa nhận như thế thì không nên mong cầu. Như trong chánh pháp, đối với Thể của Niết-bàn tuy có, người cho là thật, cho là không phải thật, khác nhau, nhưng đồng thừa nhận Niết-bàn kia là thường, là tịch. Nên đối với kiến chấp đã phỉ bác cả hai là lỗi.

Như thế, nếu có người dùng giải thoát khác chứa nhóm ở trong tâm, thì người ấy tất thừa nhận chung Niết-bàn là thường, là tịch. Do đấy kiến giải không chấp hủy báng giải thoát, là hành giải như lý. Nên do kiến diệt đoạn giới cấm thủ nhất định không có. Lại, như Thiên Thọ (Đề-bà-đạt-đa) tuy thừa nhận chung là có Niết-bàn thường, tịch, nhưng lìa tám chi, chấp riêng năm pháp là đạo giải thoát. Đối tượng chấp của ngoại đạo, về lý cũng nên như thế. Vì vậy có tà kiến ở nơi tám chi Thánh đạo đã có thể hủy báng, cho mình là nhận biết như lý. Không có ở nơi diệt đã hủy báng cho mình là hành giải như lý. Do tự thể hành tướng của giới cấm thủ v.v… so với Thánh đạo là khác. Không có cho là thể tướng thường, tịch của Niết-bàn là có sai biệt. Thế nên không có diệt cùng với đạo là đồng nghĩa. Nay nên xét chọn.

Không phải đạo chấp cho là đạo, tức chấp giới cấm là nhân của giải thoát. Hoặc chấp ngã kiến có thể chứng đắc giải thoát.

Chấp này là do kiến khổ đoạn hay là do kiến đạo đoạn?

Nếu chấp cả hai đều cùng do kiến khổ đoạn, thì kiến đạo đoạn tức nên hoàn toàn không có. Hoặc nên nói về nhân riêng đều không phải là đạo chấp cho là đạo.

Do đâu hai chấp này là do kiến khổ đoạn. Số còn lại mới là do kiến đạo đoạn chăng?

Nếu chấp cả hai đều cùng do kiến đạo đoạn, tức nên nói là vì sao do kiến đạo đoạn?

Không phải khi kiến đạo là có thể hiểu rõ cảnh của đạo kia. Hoặc hiểu rõ tự thể của đạo kia. Hoặc đoạn đối tượng duyên của đạo kia. Hoặc nên nhận biết khắp để kiến lập lý đã hoại. Nghĩa là nếu kiến đạo đã đoạn tùy miên, thì có thể duyên nơi đối tượng đoạn của kiến khổ làm cảnh. Vậy ai ngăn chận sự việc nhận biết khắp để kiến lập điều đã hư hoại mất mát? Như nơi phần vị hiện quán, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn, cũng là kiến tập đoạn duyên trói buộc, tuy do đoạn vĩnh viễn, nhưng chưa lập nhận biết khắp.

Như thế cho đến diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn cũng là kiến đạo đoạn duyên trói buộc, cũng tức nên tuy đoạn, nhưng chưa lập nhận biết khắp. Tuy nhiên, đây không phải là điều đã thừa nhận. Nên biện về nghĩa lý sâu xa, tông của tôi nói cả hai đều cùng do kiến khổ đoạn, chỉ do kiến khổ đoạn các duyên nơi giới của bò v.v…, tức chỉ chấp quả thô là nhân của giải thoát kia. Không phải thừa nhận cả hai đều cùng do kiến khổ đoạn. Do kiến đạo đoạn tức hoàn toàn là không có.

Không phải đạo chấp cho là đạo có hai loại: (1) Duyên nơi giới cấm thủ v.v… (2) Duyên nơi đạo mê lầm gần.

Duyên nơi giới cấm thủ v.v… là trái với sức tin ngộ đạo, không như duyên nơi đạo mê lầm gần. Duyên nơi giới cấm thủ v.v… thì hành tướng rất thô, vì theo đuổi không xa, vì ý lạc không bền chắc, ít tạo nên khổ nhọc, tức liền đoạn dứt. Duyên nơi đạo mê lầm gần so với đây thì trái nhau. Do đấy nên biết tức không phải đạo chấp cho là đạo. Các giới cấm thủ có hai loại riêng: (1) Do kiến khổ đoạn. (2) Do kiến đạo đoạn.

Như trước đã nói, thường, ngã là do điên đảo sinh. Là chỉ có hai thứ điên đảo này. Không phải vậy. Điên đảo gồm có bốn thứ: (1) Điên đảo đối với không phải thường chấp là thường. (2) Điên đảo đối với các khổ chấp là lạc. (3) Điên đảo đối với bất tịnh chấp là tịnh. (4) Điên đảo đối với không phải ngã chấp là ngã.

Bốn điên đảo như thế, Thể của chúng là gì?

Tụng nêu:

Tự thể bốn điên đảo

Là từ nơi ba kiến

Chỉ đảo suy tìm tăng

Tâm tưởng tùy sức kiến.

Luận nói: Từ nơi ba kiến lập Thể của bốn điên đảo. Nghĩa là trong biên kiến, chỉ nhận lấy thường kiến dùng làm điên đảo về thường. Trong các kiến thủ, nhận lấy chấp lạc tịnh dùng làm điên đảo về lạc tịnh. Trong hữu thân kiến, chỉ lấy ngã kiến dùng làm điên đảo về ngã.

Phần đã nói như thế là tông của một sư. Nhưng về nghĩa quyết định của Tỳ-bà-sa, tức căn cứ ở bộ để phân biệt trong mười hai kiến, chỉ hai kiến rưỡi là Thể của điên đảo. Nghĩa là hữu thân kiến, kiến thủ thì hoàn toàn. Trong biên chấp kiến thì chỉ lấy phần chấp thường, vì hành tướng của hai kiến đoạn, thường là cùng trái nhau, nên có thể nói hai Thể đều riêng khác.

Các phái chấp ngã luận, tức chấp ngã, đối với họ, có sức của Tự Tại v.v… là ngã sở kiến. Đây tức là ngã kiến, do nơi hai môn chuyển.

Há không phải là các phiền não đều chuyển theo điên đảo nên đều là điên đảo, không phải chỉ có bốn thứ? Không phải vậy, vì kiến lập tướng điên đảo là khác biệt.

Thế nào là tướng điên đảo? Nghĩa là gồm đủ ba nhân. Ba nhân đó là: (1) Hoàn toàn là điên đảo. (2) Tánh là suy lường. (3) Vọng tăng ích.

Tiếng tăng là cũng làm rõ về Thể là tăng hơn. Không phải là phiền não khác có đủ ba nhân này. Nghĩa là giới cấm thủ không phải là hoàn toàn điên đảo. Vì đối tượng chấp cùng có lìa dục nhiễm v.v…, nên phần ít tạm thời được thanh tịnh. Đoạn kiến tà kiến không phải là vọng tăng ích, vì đối với môn hoại sự, hai thứ này đã cùng chuyển, vì kiến thủ của bộ khác, không phải là tăng hơn. Vì phiền não còn lại không phải tánh là suy lường. Do đấy điên đảo chỉ có bốn, không phải là thứ khác.

Há không phải là trong kinh đã nói các thứ điên đảo gồm có mười hai. Như Khế kinh nói: Đối với không phải thường chấp là thường, có tưởng tâm, kiến điên đảo. Đối với khổ, bất tịnh, không phải ngã cũng như vậy. Không phải thế. Vì tưởng tâm, không phải là suy lường. Tùy nơi sức của kiến điên đảo cũng lập tên điên đảo, vì so với hành tướng tương ưng của kiến là đồng. Nhưng không phải là thọ v.v…, cũng như tưởng tâm có thể lập tên điên đảo. Vì có nhân riêng.

Nghĩa là đối với không phải thường v.v…, khi khởi các kiến chấp như thường v.v…, tất do trong cảnh đã nhận lấy tướng như thường v.v… Vì chủ thể nhận lấy tướng là tưởng, không phải thứ khác, nên lập tên điên đảo, không phải đối với thọ v.v… Lại, tuệ đối trị điên đảo cũng lập tên tưởng. Nghĩa là trong các hành như không phải là thường (vô thường) v.v… nói là các tưởng như không phải thường v.v… Do tuệ cùng với tưởng là hỗ trợ nhau gần, nên cùng theo để lập tên. Thọ v.v… thì không như vậy. Do sức của đối tượng nương dựa có điên đảo, suy tìm tăng thêm nhận lấy cảnh cùng thành, nên tâm gọi là điên đảo. Như Khế kinh nói: Tâm dẫn thế gian, đối với bộc lưu Hoặc, xứ xứ nổi chìm.

Tỳ-bà-sa nói: Chỉ tưởng cùng với tâm là có thể lập tên điên đảo, vì thế gian đã cực thành. Nghĩa là tâm tưởng điên đảo, thế gian là cực thành. Thọ v.v… thì không như vậy, nên kinh không nói. Do tâm tưởng này tùy ở sức của kiến điên đảo, lập tên điên đảo, không phải đối với thọ v.v…

Các thứ điên đảo như thế chỉ do kiến khổ đoạn, do điên đảo về thường v.v… chỉ ở nơi khổ chuyển. Còn nhận biết rõ về không phải thường v.v…, chỉ duyên nơi khổ sinh. Tức không nên về sau, khi kiến tập, diệt, đạo mới xả bỏ kiến chấp về thường, lạc, ngã, tịnh.

Đã biện về tướng của tùy miên kiến có sai biệt xong. Các tùy miên còn lại cũng có tướng sai biệt chăng? Cũng có. Vì sao? Tụng nêu:

Mạn bảy, chín, từ ba

Đều chung kiến tu đoạn

Thánh như các triền sát

Có tu đoạn không hành.

Luận nói: Có người ngu si, trước ở trong sự có, sự không phải có, so sánh tâm mình, tâm người khác, sinh đề cao, gọi là mạn. Do hành chuyển khác nên chia làm bảy thứ: (1) Mạn. (2) Quá mạn. (3) Mạn quá mạn. (4) Ngã mạn. (5) Tăng thượng mạn. (6) Ty mạn. (7) Tà mạn.

Trong tộc họ, bạn bè, mình thì thua kém hoặc bằng so với người khác, nhưng cho là mình hơn hoặc bằng, hiện bày cao ngạo, gọi là mạn.

Trong tộc họ, bạn bè, mình là bằng hoặc hơn so với người khác, nhưng cho là mình hơn hoặc bằng, gọi là quá mạn.

Trong tộc họ, bạn bè, đối với người khác là thù thắng, lại cho là mình hơn người kia, gọi là mạn quá mạn.

Đối với năm thủ uẩn, chấp ngã, ngã sở, tâm liền đề cao, gọi là ngã mạn.

Trong các đức thù thắng như địa đạo đoạn v.v…, mình chưa chứng đắc mà cho là mình đã chứng đắc, gọi là tăng thượng mạn.

Các hữu tình tại gia hoặc xuất gia ở trong các đức như thi la công xảo, so với người khác đa phần là hơn hẳn mình, nhưng cho là mình chỉ thua kém một ít, tâm sinh đề cao, gọi là ty mạn.

Ở trong không có đức, cho là mình có đức, gọi là tà mạn.

Nói không có đức: Nghĩa là các hành ác, vì trái với công đức, nên lập tên không có đức. Cũng như bất thiện. Nhưng Bản luận nói. Loại mạn có chín. Loại là nghĩa phẩm loại, tức sự sai biệt của mạn. Chín loại là: (1) Loại mạn cho là ta hơn. (2) Loại mạn cho là ta bằng. (3) Loại mạn cho là ta kém. (4) Loại mạn cho là có kẻ hơn ta. (5) Loại mạn cho là có kẻ bằng ta. (6) Loại mạn cho là có kẻ kém ta. (7) Loại mạn cho là không có kẻ hơn ta. (8) Loại mạn cho là không có kẻ bằng ta. (9) Loại mạn cho là không có kẻ kém ta. Chín loại này đều dựa vào hữu thân kiến khởi.

Ta hơn: Là loại quá mạn. Ta bằng: Là loại mạn. Ta kém: Là loại ty mạn. Có kẻ hơn ta: Là loại ty mạn. Có kẻ bằng ta: Là loại mạn. Có kẻ thua ta: Là loại quá mạn. Không có kẻ hơn ta: Là loại mạn. Không có kẻ bằng ta: Là loại quá mạn. Không có kẻ kém ta: Là loại ty mạn.

Vì thế chín loại này là từ ba mạn xuất sinh. Nghĩa là mạn, quá mạn và ty mạn. Ba hành tiếp theo có khác nên thành, ba loại mỗi loại có ba.

Loại mạn cho không có kẻ kém ta thì đề cao như thế nào để thành?

Nghĩa là có kẻ như thế, đối với tự thân đã ưa thích về tụ hữu tình hơn hẳn. Tuy ở nơi bản thân nhận biết mình là rất thấp kém, nhưng vẫn tự tôn trọng. Như người trình thụy, hoặc Chiên-đồ-la. Người ấy tuy tự nhận biết về điều ác đã cùng có của thế gian, nhưng khi ở nơi trình thụy chấp hành công việc, thì tôn trọng tự thân, nên thành đề cao.

Bảy mạn như thế là do pháp nào đoạn?

Có Sư khác nói: Ngã mạn, tà mạn chỉ do kiến đạo đoạn. Các mạn còn lại thì chung do kiến đạo, tu đạo đoạn. Về lý thật tức nên nói bảy mạn đều chung nơi hai đạo đoạn. Nên có thể an ổn nói như thế này: Ta ở trong sắc v.v…, không tùy theo đấy chấp ngã. Nhưng đối với năm thủ uẩn như thế có tùy miên ái của ngã mạn chưa đoạn. Các thứ do tu đạo đoạn, khi Thánh chưa đoạn, nhất định có thể hiện hành. Điều này không quyết định. Nghĩa là có khi đã đoạn mà có thể hiện hành. Như đã lìa tùy miên dục tham, tin khổ. Có khi tuy chưa đoạn nhưng nhất định không hiện hành. Như Thánh giả chưa lìa dục tham nơi triền sát v.v… Nói triền sát: Nghĩa là do triền này nên phát khởi cố ý đoạn mạng chúng sinh. Nói vân vân: Là cùng nhận lấy các triền trộm, dâm, lừa dối. Hoàn toàn không có ái, chỉ có một phần ái.

Không có gọi là pháp gì?

Nghĩa là ba cõi không phải thường (vô thường). Ở đấy đã tham cầu gọi là không có ái. Do đấy đã phân biệt với vô thường vô lậu. Vì tham cầu kia nhất định không phải là xứ an ổn đầy đủ của tham. Có một phần ái, nghĩa là nguyện sẽ làm Đại Long vương Ái-la-phạt-noa v.v… Nói tuy là hiển bày về vua A-tố-lạc, châu Bắc câu lô, trời Vô tưởng v.v… Triền sát này v.v… tuy do tu đạo đoạn, nhưng các Thánh giả nhất định không hiện hành. Nhân không hành này như phần sau sẽ giải thích.

Có ngã mạn v.v… so sánh cũng nên như vậy. Trong không có ái cũng có do kiến đạo đoạn. Vì tùy theo kinh nói, nên nói chỉ do tu đạo đoạn. Như Khế kinh nói: Một loại hữu tình bị khổ bức bách đã khởi suy niệm: Nguyện sau khi tôi chết, không có đoạn hoại, chỉ có an vui không bệnh. Ái này chỉ duyên nơi chúng đồng phần khởi.

Do đâu Thánh giả có các loại mạn, các pháp như ngã mạn v.v…

nhưng không hiện khởi?

Tụng nêu:

Loại mạn cùng ngã mạn v.v…

Bất thiện trong ố tác

Thánh có mà không khởi

Do kiến, nghi đã tăng.

Luận nói: Nói vân vân (Nơi câu tụng thứ nhất) là nhằm làm rõ về các triền như sát v.v…, hoàn toàn không có ái, có một phần ái. Do các Thánh giả khéo tu pháp không, khéo nhận biết về lý hệ thuộc của quả nghiệp. Loại mạn này đồng với ngã mạn đã ăn năn hối tiếc, Thánh tuy chưa đoạn, nhưng nhất định không hiện hành. Lại, loại mạn này là chỗ tăng gần của kiến nghi. Do kiến, nghi đã đoạn, nên không còn hành. Nghĩa là loại mạn ngã mạn là hữu thân kiến đã tăng. Các triền như sát sinh v.v… là tà kiến đã tăng. Các thứ không có ái là đoạn kiến đã tăng. Có một phần ái là thường kiến đã tăng. Bất thiện, ố tác là nghi đã tăng. Nên trong thân Thánh, tuy có thứ chưa đoạn, nhưng do đã phân tích từ bỏ, nên đều nhất định không hành. Pháp còn lại vì không phải là kiến, nghi đã tăng gần, nên Thánh đã thành tựu cùng có thể hiện hành.

Trong chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thứ là biến hành? Bao nhiêu thứ không phải là biến hành? Tụng nêu:

Do kiến khổ, tập đoạn

Tương ưng các kiến, nghi

Và vô minh không chung

Biến hành tự cõi địa

Trong đó trừ hai kiến

Chín khác hay duyên trên

Trừ được tùy hành khác

Cũng là thuộc biến hành.

Luận nói: Chỉ do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ, sức của tùy miên có thể biến hành, nhưng không phải là tất cả. Nghĩa là chỉ các kiến, nghi tương ưng với tùy miên kia. Vô minh không chung không phải là tham v.v… khác.

Kiến có bảy kiến. Nghi có hai nghi. Tương ưng với vô minh tức gồm thuộc về vô minh kia, vì không chung có hai, nên thành mười một.

Như thế, mười một thứ ở trong các cõi địa đều có thể biến hành nơi năm bộ của tự cõi địa. Nghĩa là trong pháp năm bộ của tự cõi địa, duyên khắp nơi tùy miên làm nhân sinh nhiễm. Thế nên chỉ những tùy miên này lập danh xưng biến hành. Lại, căn cứ ở cõi để nói ba mươi ba là chỗ nương dựa của biến hành.

Vì nghĩa gì lập danh xưng vô minh không chung?

Nên nói như thế, nghĩa là cùng xen tạp, gọi là chung, vì vô minh này không phải chung, nên lập danh xưng không chung. Tức là đối chiếu với pháp khác đều lấy chỗ riêng khác làm nghĩa. Như Khế kinh nói: Phật, Tăng không chung. Điều này chứng tỏ hai ngôi báu Phật, Tăng đều dị biệt. Do hành không chung, nên gọi là không chung. Vô minh không phải là hành cùng xen tạp với tùy miên khác.

Hoặc rộng khắp gọi là chung, tức là nghĩa hiện có khắp. Vì vô minh này không phải là chung, nên lập danh xưng không chung. Vì không tương ưng với các tùy miên.

Vì sao chỉ ở trong các tùy miên do kiến khổ, kiến tập đoạn thì có biến hành?

Vì chỉ tùy miên này duyên khắp nơi các pháp hữu lậu. Vì ý lạc không riêng, thế mạnh vững chắc, nên có thể làm nhân sinh khắp năm bộ. Tùy miên do kiến diệt, kiến đạo đoạn, chỉ có thể duyên nơi một phần hữu lậu, đối tượng duyên có riêng nhưng thế mạnh không vững chắc, nên không thể làm nhân sinh khắp năm bộ. Tức chỉ hai bộ trước có tùy miên biến hành. Tùy miên biến hành này gồm đủ ba nghĩa biến (khắp). Nghĩa là ở nơi năm bộ duyên khắp tùy miên và có thể làm nhân sinh khắp pháp nhiễm.

Pháp tương ưng này có hai nghĩa biến. Nghĩa là ở nơi ba nghĩa, chỉ thiếu tùy miên. Pháp câu hữu này có một nghĩa biến. Nghĩa là chỉ làm nhân sinh khắp pháp nhiễm.

Nếu Hoặc biến hành có thể duyên nơi năm bộ. Tát-ca-da-kiến duyên nơi pháp thuộc đối tượng đoạn của kiến diệt, kiến đạo sinh là do kiến nào đoạn?

Nếu tham v.v… do kiến khổ đoạn, cũng nên duyên nơi năm bộ, nên chỉ do kiến khổ đoạn.

Lại như kiến thủ duyên nơi kiến diệt, kiến đạo đoạn, có thể duyên nơi cảnh vô lậu, do mê lầm gần kia, là mê lầm nơi diệt đạo, nên cũng là do kiến diệt, kiến đạo đoạn.

Như thế, thân kiến cũng là mê lầm gần, vì mê lầm nơi diệt, đạo, nên do kiến kia đoạn. Hoặc nên biện về nhân duyên có sai biệt này.

Lại như kiến thủ do kiến diệt, kiến đạo đoạn, chủ yếu do cảnh được nhận biết khắp nơi đối tượng duyên nên đoạn.

Như vậy, thân kiến so sánh cũng nên như thế. Hoặc lại như thân kiến do nhận biết khắp về đối tượng duyên nên đoạn. Như thế, kiến thủ so sánh cũng nên như vậy.

Tông của hai đường lối như thế đều không thừa nhận. Thế nên ở nơi lý đã lập là không đúng. Lý tất phải như vậy, nhưng nghĩa thì có riêng khác. Lại, chỗ so sánh đầu tiên là tham v.v… cũng nên duyên nơi năm bộ, tức chỉ do kiến khổ đoạn.

Hoặc lại nêu lên kiến khổ này, trở lại so sánh với thân kiến, về lý cũng nên thuộc về chung nơi năm bộ.

So sánh này là phi lý, vì tham v.v… cũng tức nên một niệm duyên tức khắc nơi pháp của năm bộ. Nghĩa là hữu thân kiến trong một sát-na duyên nơi tức khắc năm bộ. Thọ cho đến thức làm ngã, ngã sở. Về lý không nên nói: Thể của thân kiến nơi một niệm phân ra năm bộ, vì tham v.v… đều là Hoặc của tự tướng, hãy còn không có một niệm duyên tức khắc nơi hai bộ, huống chi là có thể duyên năm. Nên so sánh là không thành.

Về so sánh sau nói: Như kiến thủ là do kiến diệt, kiến đạo đoạn thì thân kiến cũng như vậy. Vì đều cùng là mê lầm gần, vì mê lầm nơi diệt, đạo, nên cũng do kiến diệt, kiến đạo đoạn, thì cũng không hợp lý, vì Tát-ca-da-kiến thì không thể khen ngợi, hoặc hủy báng như kiến kia. Lại, vì đối tượng duyên rốt cùng là không có phần hạn, nên không phải hữu thân kiến, chủ yếu trước là khen ngợi rồi hủy báng kiến diệt, đạo, mới chấp là ngã. Cũng không phải đối với cảnh, tạo ra duyên phân chia giới hạn. Vì kiến thủ tất do khen ngợi, còn tà kiến có thể hủy báng diệt, đạo, mới chấp là thứ nhất. Ở nơi cảnh của đối tượng duyên, tạo ra duyên phân chia giới hạn. Do nghĩa đã có khác, nên không thể nêu làm so sánh. Nhưng hữu thân kiến khi kiến khổ đế là đã nhận biết khắp về đối tượng duyên tức hoàn toàn đoạn dứt vĩnh viễn. Không phải là kiến thủ, vì kiến này có nhân riêng, vì hành giải của đối tượng duyên là như nhau, không như nhau. Nghĩa là như nơi ba cõi, do kiến khổ đoạn các uẩn phi ngã. Cho đến do tu đạo đoạn dứt các uẩn phi ngã, tướng của chúng cũng như vậy. Nên khi kiến khổ thì kiến phi ngã khởi, duyên nơi đối tượng kiến khổ, tức ngã kiến đều trừ. Chấp cho là hơn thì không đúng. Có kẻ ở nơi một ít pháp quán một ít pháp khác, chấp cho là hơn. Do thân kiến này tùy hành nơi kiến thủ, tuy duyên nơi pháp do kiến diệt, kiến đạo đoạn sinh, nhưng vì thô, nên như thân kiến chỉ do kiến khổ đoạn. Như duyên nơi pháp do tu đạo đoạn sinh, hủy báng kiến diệt, đạo, tùy hành nơi kiến thủ, tuy cũng duyên nơi pháp thuộc đối tượng đoạn kia sinh, nhưng thân kiến kia đối chiếu với trước là rất vi tế, nên đã không thuộc về hành giải của lạc, tịnh. Chấp gần, không muốn diệt đạo bị vô minh dẫn dắt tà kiến cho là hơn hết. Tuy ở phần vị kiến khổ đã nhận biết khắp về đối tượng duyên, nhưng chủ yếu là đối tượng duyên vĩnh viễn đoạn thì mới đoạn. Thế nên kiến thủ không phải như thân kiến, chỉ khi kiến khổ, tức hoàn toàn đoạn vĩnh viễn. Nên phần đã nói về đoạn trừ có sai biệt, về lý là thành. Hoặc duyên nơi kiến thủ do kiến diệt, kiến đạo đoạn đều có ba. Nghĩa là do kiến khổ, kiến tập và kiến diệt, kiến đạo, tùy theo một đoạn. Nếu đối với pháp do kiến diệt, kiến đạo đoạn chấp phần quả là hơn là do kiến tập đoạn. Chấp phần nhân là hơn là do kiến tập đoạn. Nếu chỉ chấp kiến thủ kia là hiểu biết chân thật, không chấp riêng về phần nhân, phần quả, thì tùy duyên nơi sinh nào cùng với kiến thủ kia đều cùng đoạn. Nên kiến thủ đoạn, không phải như thân kiến. Nếu hữu thân kiến, giới cấm thủ, kiến thủ, duyên tức khắc nơi năm bộ, gọi là biến hành, tức là biến hành không phải chỉ từng ấy. Do ở nơi xứ này có ngã kiến hành, là xứ tất nên khởi ngã ái, mạn.

Nếu ở xứ này, kiến hành tịnh thắng, thì xứ ấy tất nên mong cầu đề cao, tức là ái mạn cũng nên là biến hành.

Vấn nạn này là không hợp. Tuy có sức của kiến khởi, nhưng hai thứ ấy là duyên phân chia giới hạn, nên nói biến hành này chỉ có mười một.

Trước đã nói mười một thứ, ở trong các cõi địa đều có thể biến hành nơi năm bộ của tự cõi địa, là có biến hành của cõi khác, địa khác. Để phân biệt cõi, địa khác, nên nói tự cõi, tự địa, cũng có biến hành của cõi địa khác. Nghĩa là trong mười một, trừ thân kiến, biên kiến, chín thứ còn lại cũng có thể duyên nơi trên. Nói trên, chính là nêu rõ về cõi trên, địa trên, gồm hiển bày không có duyên nơi tùy miên của cõi dưới. Vì duyên nơi cõi dưới, tức nên nhận biết khắp về cõi là hủy hoại. Vì cảnh của cõi trên là hơn, nên duyên không có lỗi ấy. Lại, tà kiến của cõi dục do kiến khổ đoạn đã hủy báng quả khổ của cõi sắc, vô sắc cho là không có. Kiến thủ ở trong đó chấp cho là hơn hết.

Giới cấm thủ đối với các pháp kia không phải là nhân chấp cho là nhân. Nghi mang giữ, do dự, vô minh thì không hiểu biết rõ là do kiến tập đoạn, như chỗ ứng hợp sẽ nói. Duyên nơi cõi sắc, vô sắc, so sánh với cõi này, nên biết. Căn cứ theo cõi nên tư duy. Căn cứ theo địa để phân biệt. Nhưng các cõi địa quyết định là khác biệt. Nghĩa là cõi dục cho đến tĩnh lự thứ tư, có biến hành duyên nơi cõi trên, địa trên. Trong ba vô sắc, thiếu duyên nơi cõi trên. Một địa Hữu đảnh, hai thứ đều cùng không có. Tuy có tùy miên duyên chung nơi tự địa, địa trên, nhưng về lý không có duyên tức khắc nơi tự địa và địa trên. Do các sự của cảnh giới trong tự địa là cảnh nơi đối tượng duyên, cũng là đối tượng tùy miên.

Nếu các sự của cảnh giới trong địa trên là cảnh của đối tượng duyên, thì không phải đối tượng tùy miên, không thể trong một niệm, phiền não duyên nơi cảnh, có xứ của tùy miên, có xứ không là tùy miên. Chớ nên cho là ở nơi tương ưng cũng có như thế. Tức ở nơi cõi địa trên tất duyên tức khắc chăng?

Không phải tất duyên tức khắc, hoặc riêng, hoặc chung.

Thân kiến, biên kiến do đâu không duyên nơi cõi địa trên?

Duyên nơi cõi địa khác, chấp ngã, ngã sở và chấp đoạn, thường, về lý là không thành. Nghĩa là không phải ở trong cõi này, địa này sinh, trong uẩn của cõi địa khác có chấp làm ngã, chấp có hai ngã, về lý là không thành. Chấp ngã không thành nên chấp ngã sở không thành, vì đối tượng chấp tất dựa nơi ngã chấp khởi. Biên kiến tùy theo hữu thân kiến sinh, nên cũng không cùng duyên nơi cõi, địa khác. Do đấy chỉ chín thứ duyên nơi cõi trên, về lý là thành.

Có Sư khác cho: Hai kiến thân, biên, vì sức của ái khởi, nên thủ có chấp thọ, làm thứ chính mình có, dùng pháp hiện thấy làm cảnh giới, tất không duyên nơi cõi địa trên.

Sinh trong cõi dục, nếu duyên nơi Đại Phạm khởi thường kiến của hữu tình là thuộc về kiến nào?

Về lý thật nên nói: Hai thứ này không phải là kiến mà là tà trí do thân kiến, biên kiến đã dẫn phát. Hiện thấy trong uẩn, chấp ngã là thường xong, đối với kiến không hiện bày đã so sánh cho là như đây. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, không tạo ra chấp này: Ta là Đại Phạm. Cũng không chấp nói: Phạm là ngã sở. Nên không phải thân kiến. Vì thân kiến không có, nên biên kiến cũng không có, vì biên kiến tất tùy theo thân kiến khởi. Tức không phải có kiến khác tạo ra hành tướng này, nên là thân kiến, biên kiến đã dẫn sinh tà trí, làm Thể biến hành.

Chỉ là tùy miên. Không phải vậy. Vì sao?

Vì cùng là pháp tùy hành. Nghĩa là như trên đã nói về tùy miên biến hành và thọ tùy hành kia cùng sinh v.v…, đều thuộc về biến hành, vì đồng một quả. Nhưng trong tùy hành, chỉ trừ các đắc, vì đắc cùng với đối tượng đắc không phải là một quả. Do nhân của biến hành này so với tùy miên cùng đối nhau, đủ thành bốn trường hợp có sai biệt.

Trong chín mươi tám tùy miên có bao nhiêu thứ duyên nơi hữu lậu? Bao nhiêu thứ duyên nơi vô lậu?

Tụng nêu:

Do kiến diệt, đạo đoạn

Tà kiến, nghi tương ưng

Và vô minh không chung

Sáu duyên nơi vô lậu.

Ở trong duyên diệt ấy

Chỉ duyên diệt tự địa

Duyên đạo sáu, chín địa

Do trị riêng cùng nhân.

Tham, sân, mạn, hai thủ

Đều không duyên vô lậu

Nên lìa cảnh không oán

Thanh tịnh vì tánh thắng.

Luận nói: Chỉ tà kiến, nghi do kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ và hai thứ kia tương ưng với vô minh không chung đều ba thành sáu, là có thể duyên nơi vô lậu. Nghĩa là kiến diệt, kiến đạo đoạn trừ hai tà kiến, hai nghi, tương ưng với vô minh, tức vô minh gồm thâu chúng. Vì không chung kia có hai nên hợp thành sáu. Sáu thứ như thế, trong các cõi, địa, có thể duyên nơi diệt, đạo, gọi duyên nơi vô lậu. Duyên nơi hữu lậu còn lại không nói tự thành. Duyên nơi vô lậu này ở nơi mỗi mỗi địa đều duyên bao nhiêu địa, dùng diệt, đạo làm cảnh. Các thứ duyên nơi diệt là duyên nơi diệt của tự địa. Nghĩa là tùy miên hệ thuộc cõi dục duyên nơi diệt, chỉ duyên nơi trạch diệt của các hành thuộc cõi dục. Cho đến tùy miên của xứ Hữu đảnh duyên nơi diệt, chỉ duyên nơi trạch diệt của các hành thuộc xứ Hữu đảnh.

Các thứ duyên nơi đạo là duyên nơi sáu, chín địa. Nghĩa là duyên tùy miên nơi đạo hệ thuộc cõi dục, chỉ duyên nơi đạo của pháp trí phẩm thuộc sáu địa. Hoặc đối trị cõi dục, hoặc có thể đối trị cõi khác, các pháp trí phẩm đều có thể duyên. Tùy miên hiện có nơi tám địa của cõi sắc, vô sắc duyên nơi đạo, mỗi mỗi chỉ có thể duyên chung nơi đạo của loại trí phẩm thuộc chín địa. Hoặc đối trị tự địa, hoặc có thể đối trị địa khác, các loại trí phẩm đều có thể duyên.

Do đâu tà kiến hủy báng khổ, hủy báng tập, hệ thuộc cõi dục, có thể duyên nơi chín địa? Thuộc tĩnh lự thứ nhất có thể duyên nơi tám địa, cho đến xứ Hữu đảnh. Tà kiến hủy báng diệt chỉ duyên nơi địa kia. Tức ở trong chín địa mỗi mỗi địa chỉ có thể duyên nơi diệt của tự địa. Điều này có lý do. Vì sao? Nghĩa là nếu có pháp được thấm nhuần do ái của địa này, thì thân kiến của địa ấy chấp làm ngã, ngã sở. Các pháp diệt kia trở lại làm đối tượng duyên của tà kiến thuộc địa này do kiến diệt đoạn. Ý của thuyết này nói: Nếu có các hành là đối tượng duyên của ngã kiến, ngã ái thuộc địa này, nên do tham đắm hành của địa này, nếu nghe nói có hành của địa này diệt, tức khởi tà kiến của địa ấy bác bỏ cho là không có. Không phải trong hành của địa trên có tham đắm địa dưới. Đâu thể tà kiến của địa dưới bác bỏ diệt kia cho là không có. Tuy cõi, địa đối chiếu nhau, nhân quả cách tuyệt, nhưng khổ, tập của chín địa lần lượt cùng dẫn dắt. Lại dựa vào sinh lập nhân, lại cùng làm nhân lẫn nhau, nên tà kiến của một địa cùng có duyên nhiều. Vì diệt không có lý cùng dẫn dắt nhau và cùng làm nhân, nên tà kiến hủy báng diệt chỉ duyên nơi diệt của tự địa. Nhưng các trí thiện tỏ ngộ về lý của cảnh, chấp nhận chung có duyên tức khắc nơi hành diệt của nhiều địa. Các tà kiến khởi mê lầm về cảnh, cố chấp về chỗ ngăn cách nên không thể duyên chung.

Do đâu tà kiến duyên nơi khổ, tập, diệt thì có chung, chỉ duyên riêng nơi đạo thì không như thế?

Do nhân hỗ tương của đối trị có khác. Nghĩa là đối tượng duyên nơi đạo tuy các địa riêng khác, nhưng lần lượt hệ thuộc nhau, vì đều cùng làm nhân quả. Nên do tà kiến này duyên chung nơi sáu địa, chín địa. Diệt thì không cùng làm nhân, chỉ duyên nơi tự địa.

Há không phải là đạo phẩm của hai trí pháp, loại cũng hỗ tương làm nhân đối với tà kiến của địa trên, địa dưới, nên tà kiến đều cùng có thể duyên nơi đạo phẩm của pháp loại, như duyên nơi khổ, tập, các địa không có ngăn chận chăng?

Vấn nạn này là không hợp, vì không phải là đối trị.

Nếu như vậy thì đạo phẩm của pháp trí nơi sáu địa tức nên không phải tà kiến cõi dục đã duyên chung. Trong năm địa trên, đạo phẩm của pháp trí đối với pháp của cõi dục không phải là đối trị. Địa vị chí cũng không phải hoàn toàn thuộc về địa trên, vì không phải đối trị cõi dục. Đối trị cõi dục cũng không phải hoàn toàn là tà kiến, vì phần đã đối trị nhẫn như thế. Tà kiến hủy báng đạo của cõi sắc, vô sắc, cũng nên có thể duyên nơi đạo phẩm của pháp trí, vì có đạo phẩm của pháp trí đã đối trị cõi sắc, vô sắc.

Nếu cho pháp trí không phải đối trị hoàn toàn khổ, tập của cõi kia, vì phẩm pháp trí không phải là đối trị cõi ấy, cũng không phải là hoàn toàn có thể đối trị cõi sắc, vô sắc, vì không thể đối trị các tùy miên do kiến đạo đoạn của cõi sắc, vô sắc kia.

Pháp trí của phẩm đầu không thể đối trị phiền não của phẩm đầu nơi cõi kia, vì đấy không phải là đối tượng đối trị, nên phẩm pháp trí không phải là đối tượng duyên của tùy miên kia. Tức là nên thừa nhận tà kiến của cõi sắc, vô sắc, không thể duyên chung nơi phẩm loại trí của chín địa. Không phải phẩm loại trí có thể đối trị chung các phiền não trong hai cõi trên. Nghĩa là không phải đạo phẩm loại trí của địa v.v… nơi tĩnh lự thứ hai cũng có thể hành đối trị phiền não của địa v.v… thuộc tĩnh lự thứ nhất. Tĩnh lự thứ nhất v.v… cũng không phải hoàn toàn là hai tiết, suy tìm nêu hỏi như trước đã nói. Lại tùy miên của ba cõi duyên nơi đạo đế, vì không phải là đối tượng đối trị của khổ tập diệt nhẫn, nên kiến chấp hủy báng đạo, về lý tức nên không thể duyên chung nơi đạo của sáu, chín địa trên dưới.

Vượt quá lưới như thế, về lý thật sự đều không có. Pháp, loại đối chiếu nhau, vì chủng loại là riêng khác. Phẩm pháp loại trí vì loại đối trị là đồng, vì đều cùng là nhân, vì cùng làm duyên. Nghĩa là đạo phẩm pháp trí đồng là trong cõi dục duyên nơi đạo đế, hoặc chủng loại đối trị đồng với loại đạo này, do đều cùng là nhân, đều cùng là duyên. Nếu như không phải đối trị cũng duyên nơi đạo của cõi dục, là đối tượng duyên của phiền não. Đạo phẩm loại trí cùng với phẩm pháp trí tuy đều cùng là nhân, nhưng do chủng loại của môn đối trị là riêng khác, vì không cùng duyên, nên không phải duyên nơi đạo cõi dục, là đối tượng duyên của phiền não.

Căn cứ theo đây tức đã ngăn chận phiền não duyên nơi đạo của cõi sắc, vô sắc, cũng tức nên có thể duyên nơi đạo phẩm pháp trí đối trị cõi sắc, vô sắc. Nghĩa là ở trong đây, tuy có phần ít đạo phẩm pháp trí có thể đối trị phần ít phiền não của cõi trên, cũng đều cùng là nhân, nhưng do chủng loại của môn đối trị là riêng khác, nên cùng với phẩm loại trí là không duyên nhau, nên không phải là đối tượng duyên của phiền não duyên nơi đạo thuộc địa trên. Ở trong chín địa đạo phẩm loại trí do một chủng loại lần lượt cùng là nhân. Lại đều cùng là duyên, vì loại đối trị đồng. Tuy không phải là đối trị, nhưng có thể gồm chung làm cảnh chiêu cảm duyên nơi đạo trong tám địa trên.

Thế nên như Tụng đã nói, về lý là thành.

Vì sao tham, sân, mạn và hai thủ do kiến vô lậu đoạn nhưng không duyên nơi vô lậu?

Do các người vui thích, cầu đạt chân giải thoát, đối với phiền não tham quyết định nên lìa bỏ. Nếu duyên nơi vô lậu, như pháp thiện dục, mong cầu Niết-bàn cùng Thánh đạo, thì người cầu giải thoát không nên lìa tham. Lại, diệt đế, đạo đế nên là đối tượng đoạn. Đức Phật nói: Lìa cảnh của tham gọi là đoạn. Như Khế kinh nói: Ông ở trong sắc, nếu có thể đoạn dứt tham, thì sắc cũng gọi là đoạn. Lại, đối với cảnh của tham, vì nhận thấy lỗi lầm, nên mới được lìa tham.

Nếu thừa nhận có tham duyên nơi vô lậu, nên đối với diệt, đạo, khi nhận thấy lỗi lầm, thì tham mới được lìa. Kiến này không phải là tịnh, há có thể dứt hết Hoặc. Lại, ở nơi cảnh của tham, vì thấy rõ công năng, nên tham mới được sinh. Nếu thừa nhận có tham duyên nơi vô lậu, thì các hành như diệt tịnh v.v… khi quán vô lậu thì tham tức nên tăng trưởng.

Vì sao nhân nơi tham này có thể dứt hết các Hoặc?

Đã đều cùng không diệt hết Hoặc, thì sinh tử tức nên vô cùng.

Vì thế nhận biết tham không duyên nơi vô lậu.

Duyên nơi sự oán hại mới được sinh sân, vì trong sự vô lậu lìa tướng oán hại, nên duyên nơi vô lậu, sân tất không sinh. Lại, tùy miên sân, tướng của nói là thô, ác, còn các pháp vô lậu thì rất vi diệu, nên sân đối với các pháp vô lậu kia, không cùng được hành.

Các tùy miên mạn có tướng đề cao, nên tánh không tĩnh lặng. Các pháp vô lậu vì rất tĩnh lặng, nên không sinh đề cao. Lại, người sinh mạn khởi suy nghĩ thế này: Ta được pháp này, không phải là sức của pháp vô lậu có thể làm duyên để khởi mạn như thế, do pháp vô lậu có thể đối trị mạn.

Hai thủ nếu có thể duyên nơi vô lậu, tức nên là tương đồng với chánh kiến, vì vô lậu là tánh chân tịnh hơn hết. Hai thủ đã không có điên đảo, nên không phải do kiến đạo đoạn. Vì thế hai thủ không phải là duyên của vô lậu.

Nếu như vậy thì có người ở nơi Niết-bàn đã hủy báng, tức trên tà kiến v.v… đã khởi tùy miên sân, đã gọi là đối tượng duyên, nên không có lỗi. Đối với pháp có lỗi, khởi tâm ghét bỏ, chính là hợp với mẫu mực ấy, nên xa lìa thì giận dữ không phải do kiến diệt đoạn, tức không có lỗi như thế.

Tướng ngu diệt đối với kẻ có thể hủy báng là mới khởi sân. Nghĩa là ở nơi xứ khác, chấp giải thoát xong, đối với sự việc hủy báng chân giải thoát mới khởi tâm bất nhẫn. Thế nên chủ yếu là người ngu nơi tướng chân diệt mới ở trên tà kiến v.v… hủy báng diệt, khởi ghét bỏ tột cùng, tức do kiến diệt đoạn trừ sân. Các hữu tình không ngu nơi tướng chân diệt, ở trên tà kiến v.v… đã hủy báng diệt, nếu sinh chán bỏ, không phải là tùy miên sân, thì chính là thuộc về căn thiện không tham. Lại, như người trong bụng tích chứa nhiều bệnh, vì mạng sống, nên tuy ăn thức ăn ngon, nhưng vì bệnh đã xen tạp nên đều thành suy tổn. Người bụng không có bệnh, phàm có ăn uống thì tất cả đối với thân đều có tăng ích không có tổn hại.

Như thế, nếu có người ở trong không phải diệt vọng cho là diệt, sinh khởi tham ái, do cấu uế cùng nối tiếp, nên ở nơi tà kiến v.v… đã khởi ngờ vực, ghét bỏ, đều nói là duyên nơi kiến diệt đoạn. Các pháp như tà kiến v.v… đã khởi giận dữ.

Nếu có người ở trong chân diệt như lý nhận biết là chân diệt, không có tham ái, vì cùng nối tiếp là tịnh, nên ở trong tà kiến v.v… có thể hủy báng diệt, đã sinh khởi chán bỏ, nên đều không có lỗi.

Nếu đối với chánh kiến nhận biết có Niết-bàn, đã khởi giận dữ, thì do kiến nào đoạn dứt?

Điều này không nên nêu vấn nạn. Vì kiến đạo đoạn trừ sân, về lý tất không cùng có, vì duyên nơi pháp thiện, vì duyên này là chánh kiến, nên nhất định do tu đạo đoạn. Nhưng người đã kiến đế, ở đây không còn hành duyên hủy báng kiến diệt, vì tham đã đoạn trừ vĩnh viễn. Đâu thể không tin có sân duyên nơi vô lậu. Há không phải là sân này, thế gian hiện nhận biết là có? Nghĩa là có ngoại đạo nói: Trong Niết-bàn đã vĩnh viễn diệt hết các căn là suy tổn lớn, nên ta đối với Niết-bàn này, nhất định không ưa thích mong cầu. Điều này vốn không phải là sân mà là tà kiến. Nên Bản luận đã nói: Đối với lạc chấp khổ là thuộc về tà kiến do kiến diệt đoạn, lý tất nên như vậy, vì tất cả khổ cuối cùng đến xứ cực lạc mới được diệt trừ vĩnh viễn. Xứ cực lạc ấy chính là chân Niết-bàn. Ở đây nói cực lạc là nhằm hiển bày về an lạc của thắng nghĩa. Nhưng ngoại đạo kia đã không thể hiểu về tướng của lạc này. Lại, không thể nhận biết về lỗi lầm của sinh tử, nên luôn tham đắm nơi các hữu, không ưa thích xuất ly, đã dấy khởi tà kiến phỉ bác về Niết-bàn. Đâu thể chấp đây là giận dữ duyên nơi diệt.

HẾT – QUYỂN 25