LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 23

 Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 6

Nghiệp đạo thiện, ác được quả như thế nào? Tụng nêu:

Đều chiêu cảm dị thục

Quả đẳng lưu, tăng thượng

Đây khiến khác thọ khổ

Đoạn mạng, hoại uy lực.

Luận nói: Lại, trước là phân biệt về mười nghiệp đạo ác đều chiêu cảm ba quả. Ba quả đó là gì? Là quả dị thục, đẳng lưu, tăng thượng có dị biệt. Nghĩa là đối với mười thứ, hoặc hành tập, hoặc tạo tác, hoặc tạo tác nhiều. Do sức ấy nên sinh nơi Nại-lạc-ca, là quả dị thục.

Từ địa ngục kia ra khỏi xong, đến sinh ở chốn này thọ nhận quả đẳng lưu trong đồng phần của con người. Nghĩa là kẻ sát sinh thì thọ lượng ngắn ngủi. Kẻ không cho mà lấy thì tiền của thiếu thốn. Người dục tà hạnh thì vợ không trinh thuận. Kẻ nói lời hư dối tức gặp phải nhiều người hủy báng. Người nói lời ly gián thì bạn thân chống trái không hợp. Kẻ nói lời thô ác tức luôn nghe tiếng xấu ác. Người nói lời uế tạp thì lời nói không oai nghiêm. Kẻ tham thì tham tăng thịnh. Kẻ sân thì giận dữ luôn tăng. Người tà kiến tức si tăng thượng.

Quả tăng thượng gần cũng gọi là đẳng lưu.

Mười thứ nghiệp đạo ác ấy đã chiêu cảm quả tăng thượng: Nghĩa là các vật dụng hỗ trợ cho đời sống hiện có bên ngoài, vì sát sinh, nên ánh sáng tươi nhuận rất ít. Vì không cho mà lấy, nên gặp phải nhiều sương mù, mưa đá, lúa mạ xấu kém, quả chắc ít ỏi. Vì dục tà hạnh, nên có nhiều bụi bặm. Vì nói lời hư dối, nên phần nhiều xú uế. Vì nói lời ly gián, nên chỗ ở thì khúc khuỷu, hiểm trở. Vì nói lời thô ác, nên có nhiều tiếp xúc xấu ác, ruộng đất thì đầy dẫy gai gốc, sỏi đá, đất phèn mặn. Vì nói lời uế tạp, nên thời tiết luôn biến đổi. Vì tham nên quả ít. Vì sân nên quả đắng, cay. Do tà kiến nên quả ít, hoặc không có. Đây gọi là quả tăng thượng của nghiệp đạo có dị biệt.

Tạo một nghiệp sát sinh, chiêu cảm nơi địa ngục rồi, lại chiêu cảm thọ mạng ngắn cùng quả xấu ác bên ngoài chăng?

Có Sư khác nói: Tức một nghiệp sát sinh, trước thọ quả dị thục, tiếp theo là quả tăng thượng gần, sau là quả tăng thượng xa, nên có ba quả.

Về lý thật thì khi sát sinh, có thể khiến cho kẻ bị giết thọ nhận khổ, mạng bị đoạn hoại, mất hết uy quang. Vì khiến người khác khổ, nên sinh nơi địa ngục. Vì đoạn mạng người khác, nên thọ mạng trong con người là ngắn ngủi. Trước là quả của gia hạnh, sau là quả của căn bản. Phần gần của căn bản đều cùng gọi là sát sinh.

Do hủy hoại uy quang của kẻ khác nên chiêu cảm các vật dụng bên ngoài đều xấu ác. Thế nên nghiệp sát đắc ba thứ quả. Nghiệp đạo ác còn lại, như lý nên tư duy. Do đấy, nên so sánh để nhận biết ba quả của nghiệp đạo thiện. Tức đối với lìa sát sinh, hoặc hành tập, hoặc tạo tác, hoặc tạo tác nhiều, do sức này nên sinh ở trong các trời, thọ quả dị thục. Từ nơi trời kia chết xong, đến sinh trong nẻo người, thọ mạng lâu dài là thọ nhận quả tăng thượng gần. Tức lại do quả này, chiêu cảm các thứ vật dụng bên ngoài, có uy quang lớn là quả tăng thượng xa. Ba quả của các nghiệp đạo thiện còn lại là trái với ác, nên nói. Lại Khế kinh nói: Trong tám chi tà thì phân nghiệp sắc làm ba. Nghĩa là tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng. Lìa tà ngữ, tà nghiệp thì tà mạng là gì?

Tuy lìa hai tà kia thì không có tà mạng nhưng vẫn nói riêng. Tụng nêu:

Tham sinh nghiệp thân, ngữ

Tà mạng vì khó trừ

Chấp mạng giúp tham sinh

Trái kinh nên phi lý.

Luận nói: Sân, si đã sinh hai nghiệp thân ngữ, như thứ lớp chỉ gọi là tà ngữ, tà nghiệp.

Từ tham sinh ra hai nghiệp thân, ngữ, gọi là tà ngữ, tà nghiệp, cũng gọi là tà mạng. Do khó trừ, vì khác với hai thứ kia, nên lập riêng. Tham thì vi tế, có thể xâm đoạt tâm của các hữu tình. Vì người rất thông tuệ, cũng khó cấm giữ. Nên tham này đối với hai nghiệp là rất khó trừ. Các người tại gia thì khó đoạn tà kiến, vì có nhiều vọng chấp về an lành v.v… Các người xuất gia thì khó trừ tà mạng, vì mạng duyên hiện có đều thuộc nơi người khác. Vì đối với chánh mạng, khiến ân trọng tu tập, nên Đức Phật đã lìa các thứ trước riêng nói làm một.

Có Sư khác chấp: Tham dục duyên nơi các vật dụng hỗ trợ thân mạng sinh ra hai nghiệp thân, ngữ mới gọi tà mạng, không phải tham khác sinh. Vì sao? Vì tự vui đùa, tạo tác, ca múa v.v…, không phải là hỗ trợ thân mạng. Điều này trái với kinh, nên về lý nhất định là không đúng.

Trong Kinh Giới Uẩn nói về việc xem voi đấu nhau v.v…, Đức Thế Tôn cũng lập ở trong tà mạng, vì thọ nhận cảnh tà vạy bên ngoài, hư vọng kéo dài mạng sống. Do đấy, không phải riêng tư lương của thân mạng là tham đã phát khởi thân ngữ mới gọi là tà mạng. Chánh ngữ, nghiệp, mạng thì trái với đây, nên biết. Trong các nghiệp đạo, tùy theo thô tế nên nói thân trước, ngữ sau. Trong tám đạo chi, vì căn cứ thuận theo tương sinh nên nói ngữ trước, thân sau. Tức trong Khế kinh nói: Tầm, tứ đã phát khởi ngôn ngữ.

Như trước đã nói quả có năm thứ. Những nghiệp nào có bao nhiêu quả?

Tụng nêu:

Đoạn đạo nghiệp hữu lậu

Đầy đủ có năm quả

Nghiệp vô lậu có bốn

Tức chỉ trừ dị thục.

Hữu lậu khác thiện, ác

Cũng bốn, trừ ly hệ

Vô lậu khác vô ký

Ba, trừ thứ trước trừ.

Luận nói: Đạo có thể chứng đoạn cùng có thể đoạn trừ Hoặc, nên được mang tên đạo đoạn, tức đạo vô gián.

Đạo này có hai thứ là hữu lậu, vô lậu. Nghiệp của đạo hữu lậu có đủ năm quả:

1. Quả đẳng lưu: Nghĩa là phần sau v.v… trong tự địa, hoặc tăng thêm các pháp tương tợ.

2. Quả dị thục: Nghĩa là đạo đoạn trong tự địa đã chiêu cảm dị thục đáng yêu thích.

3. Quả ly hệ: Nghĩa là sức của đạo này đoạn trừ Hoặc đã chứng đắc trạch diệt vô vi.

4. Quả sĩ dụng: Nghĩa là đạo đã dẫn dắt câu hữu, giải thoát nơi đối tượng tu tập và đoạn trừ. Nói câu hữu: Nghĩa là pháp đều cùng sinh. Nói giải thoát: Nghĩa là vô gián sinh, tức là đạo giải thoát. Nói đối tượng tu tập: Nghĩa là tu vị lai. Đoạn, nghĩa là trạch diệt. Do sức của đạo nên đắc kia mới khởi.

5. Quả tăng thượng: Có thuyết nói thế này: Nghĩa là lìa tự tánh, tức các pháp hữu vi còn lại chỉ trừ sinh trước.

Có thuyết cho: Đoạn tức cũng nên là quả tăng thượng của đạo, vì sức tăng thượng của đạo có thể chứng đắc quả kia, tức là trong đạo đoạn.

Nghiệp của đạo vô lậu chỉ có bốn quả, nghĩa là trừ quả dị thục. Thiện hữu lậu khác cùng nghiệp bất thiện cũng có bốn quả, nghĩa là trừ quả ly hệ. Vì khác với đạo đoạn trước, nên nói là khác.

Tiếp theo sau nói khác là so sánh với đây, nên giải thích. Nghĩa là nghiệp của đạo vô lậu khác và nghiệp vô ký chỉ có ba quả, trừ hai quả đã trừ ở trước. Nghĩa là trừ quả dị thục và quả ly hệ.

Đã phân biệt chung về các nghiệp có quả. Tiếp theo là biện về tướng của nghiệp có quả thuộc môn khác. Trong đó, trước là biện về ba nghiệp như thiện v.v… Tụng nêu:

Thiện cùng đối nơi thiện

Đầu có bốn hai ba

Giữa có hai ba bốn

Sau: Hai ba ba quả.

Luận nói: Phần sau cùng đã nêu, đều như thứ lớp nói, nhằm làm rõ tùy theo đối tượng ứng hợp hiện bày khắp nghĩa của môn trước. Lại, ba nghiệp thiện, bất thiện, vô ký, mỗi mỗi làm nhân, như thứ lớp đó, đối với ba pháp thiện, bất thiện, vô ký, biện về số có quả, so sánh với sau nên biết. Nghĩa là đầu tức nghiệp thiện, dùng pháp thiện làm bốn quả, tức trừ quả dị thục. Dùng bất thiện làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng Dùng vô ký làm ba quả, tức trừ quả đẳng lưu và quả ly hệ. Giữa là nghiệp bất thiện, dùng pháp thiện làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng bất thiện làm ba quả, là trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng vô ký làm bốn quả, tức trừ quả ly hệ. Quả đẳng lưu: Nghĩa là do kiến khổ đoạn dứt tất cả nghiệp bất thiện và do kiến tập đoạn trừ nghiệp bất thiện biến hành. Vì trong cõi dục, phẩm thân biên kiến đã dùng các pháp vô ký làm đẳng lưu. Sau là nghiệp vô ký, dùng pháp thiện làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng bất thiện làm ba quả, tức trừ quả dị thục và quả ly hệ. Quả đẳng lưu: Nghĩa là các nghiệp vô ký của phẩm thân, biên kiến, dùng năm bộ bất thiện làm đẳng lưu. Dùng vô ký làm ba quả, tức như bất thiện.

Đã biện về ba tánh, sẽ biện về ba đời.

Tụng nêu:

Quá nơi ba đều bốn

Hiện nơi vị cũng vậy

Hiện đối hiện, hai quả

Vị nơi vị quả ba.

Luận nói: Ba nghiệp của quá khứ, hiện tại, vị lai, mỗi mỗi nghiệp làm nhân, như chỗ ứng hợp, dùng quá khứ v.v… làm quả riêng: Nghĩa là nghiệp quá khứ dùng pháp của ba đời đều làm bốn quả, trừ quả ly hệ. Nghiệp của đời hiện tại dùng vị lai làm bốn quả, như trước đã nói, dùng hiện tại làm hai quả, nghĩa là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Nghiệp của đời vị lai dùng vị lai làm ba quả, trừ quả đẳng lưu và quả ly hệ.

Không nói nghiệp sau có quả trước. Tức pháp trước nhất định không phải là quả của nghiệp sau.

Đã biện về ba đời. Sẽ biện về các địa. Tụng nêu:

Địa đồng có bốn quả

Địa khác, hai hoặc ba.

Luận nói: Ở trong các địa, tùy theo nghiệp của địa nào, dùng pháp của địa đồng làm bốn quả, tức trừ quả ly hệ. Nếu là hữu lậu thì dùng pháp của địa khác làm hai quả, nghĩa là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Nếu là vô lậu dùng pháp của địa khác làm ba quả, tức trừ quả dị thục và quả ly hệ. Không rơi vào cõi nên không ngăn chận đẳng lưu.

Đã biện về các địa. Sẽ biện về học v.v… Tụng nêu:

Học đối ba đều ba

Vô học một, ba, hai

Phi học phi vô học

Có hai, hai, năm quả.

Luận nói: Ba nghiệp như học v.v…, mỗi mỗi nghiệp làm nhân, như thứ lớp ấy đều dùng ba pháp làm quả riêng. Nghĩa là nghiệp học dùng pháp học làm ba quả, tức trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng pháp vô học làm ba quả, cũng như vậy. Dùng pháp phi học phi vô học làm ba quả, tức trừ quả dị thục và quả đẳng lưu.

Nghiệp vô học dùng pháp học làm một quả, tức là quả tăng thượng. Dùng pháp vô học làm ba quả, tức trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng pháp không phải hai làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng.

Nghiệp phi hai dùng pháp học làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp vô học làm hai quả cũng như vậy. Dùng pháp không phải hai làm năm quả.

Đã biện về học v.v… Sẽ biện về đối tượng đoạn của kiến v.v… Tụng nêu:

Nghiệp do kiến đạo đoạn

Mỗi mỗi đều nơi ba

Đầu có ba, bốn, một

Giữa hai, bốn, ba quả

Sau có một, hai, bốn

Như thứ lớp nên biết.

Luận nói: Ba nghiệp do kiến đạo đoạn v.v… như thứ lớp, mỗi mỗi nghiệp làm nhân, đều dùng ba pháp làm quả riêng.

Đầu là nghiệp do kiến đạo đoạn: Dùng pháp do kiến đạo đoạn làm ba quả, là trừ quả dị thục và quả ly hệ. Dùng pháp do tu đạo đoạn làm bốn quả, tức trừ quả ly hệ. Dùng pháp không phải đoạn làm một quả, nghĩa là quả tăng thượng. Giữa là nghiệp do tu đạo đoạn: Dùng pháp do kiến đạo đoạn làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp do tu đạo đoạn làm bốn quả, trừ quả ly hệ. Dùng pháp không phải đoạn làm ba quả, tức trừ quả dị thục và quả đẳng lưu. Sau là nghiệp không phải đoạn: Dùng pháp do kiến đạo đoạn làm một quả, là quả tăng thượng. Dùng pháp do tu đạo đoạn làm hai quả, là quả sĩ dụng và quả tăng thượng. Dùng pháp không phải đoạn làm bốn quả, tức trừ quả dị thục.

Đều như thứ lớp: Tức là tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng hiện bày khắp các môn trên, vì tóm lược pháp nên như thế.

Nhân biện về các nghiệp, nên lại hỏi: Như trong Bản luận đã nói về ba nghiệp, nghĩa là nghiệp nên tạo, nghiệp không nên tạo và nghiệp không phải nên tạo, không phải không nên tạo. Tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Nghiệp nhiễm, không nên tạo

Có thuyết: Hoại phép tắc

Nghiệp nên tạo trái đây

Câu phi: Trái thứ ba.

Luận nói: Có thuyết cho: Nghiệp thân ngữ ý nhiễm ô, gọi là nghiệp không nên tạo, vì từ tác ý phi lý sinh.

Có Sư khác nêu: Đối với các nghiệp thân, ngữ, ý hủy hoại phép tắc, nếu như là không nhiễm thì cũng không nên tạo, vì chúng không hợp với phép tắc của thế gian. Nghĩa là các thân nghiệp vô phú vô ký, hoặc đứng, hoặc đi, hoặc ăn uống v.v…, có các thứ không hợp với lễ nghi thế tục, đều gọi là thân nghiệp hủy hoại phép tắc.

Ngữ nghiệp vô phú vô ký của các hữu tình khi hủy hoại hiện ra lời nói và tạo tác v.v…, chỉ có không hợp với lễ nghi của thế tục, đều gọi là ngữ nghiệp hủy hoại phép tắc. Tư cùng khởi với hai nghiệp trước, gọi là ý nghiệp hủy hoại phép tắc. Ý nghiệp này và nghiệp nhiễm, gọi là nghiệp không nên tạo. Nghiệp nên tạo so với đây là trái nhau, đều cùng trái với hai nghiệp trước, là nghiệp thứ ba. Nếu dựa vào thế tục, thì thuyết sau cũng có thể như vậy Nếu căn cứ theo thắng nghĩa, thì thuyết trước là tốt. Nghĩa là chỉ các nghiệp thiện, gọi là nghiệp nên tạo. Chỉ các nghiệp nhiễm, gọi là nghiệp không nên tạo. Nghiệp thân, ngữ, ý vô phú vô ký, gọi là nghiệp không phải nên tạo tác, không phải không nên tạo tác. Nhưng không phải tất cả nghiệp không nên tạo đều thuộc về hành ác. Chỉ có bất thiện, vì là tánh ác, nên được mang tên hành ác. Do chiêu cảm quả ái gọi là hành diệu, chiêu cảm quả không ái gọi là hành ác. Hữu phú vô ký tuy là không nên tạo, nhưng không phải thuộc về hành ác.

Do đối tượng hành này quyết định không thể chiêu cảm quả ái, quả phi ái. Nay ở trong đây lại nên xét chọn.

Là do một nghiệp chỉ dẫn dắt một đời hay là dẫn nhiều đời? Lại vì một đời, chỉ do một nghiệp dẫn hay là do nhiều nghiệp dẫn?

Tụng nêu:

Một nghiệp dẫn một đời

Nhiều nghiệp hay viên mãn.

Luận nói: Nếu dựa nơi Chánh lý, nên quyết định nói: Chỉ do một nghiệp chỉ dẫn một đời. Nói một đời này là làm rõ về chúng đồng phần, do được đồng phần mới gọi là sinh. Nếu nói một đời do nhiều nghiệp dẫn, hoặc nói một nghiệp có thể dẫn nhiều đời. Như thế, hai câu nói, về lý có lỗi gì? Như nơi câu đầu có lỗi. Nghĩa là trong một đời quả của nghiệp trước hết thì quả của nghiệp sau khởi, vì quả của nghiệp riêng khác, nên có tử sinh. Hoặc tức nên nhiều đời, không có lý tử, sinh, quả của nghiệp trọn khởi. Như một đời, nên cả hai đều cùng có lỗi. Trong một bản hữu, nên có rất nhiều tử, sinh hữu. Hoặc tức nên cho đến Niết-bàn vô dư, trung gian vĩnh viễn không có tử cùng sinh. Do đâu hạn định trong một xứ, nẻo có quả của nghiệp khác sinh liền có sinh tử, có quả của nghiệp khác khởi nhưng không có tử sinh. Quả của một nghiệp hết thì quả của nghiệp khác khởi, lý nhất định nên lập có tử, có sinh.

Lại, thừa nhận một đời quyết định làm nhiều thứ vì nghiệp tạo tác tăng trởng đã dẫn, tức nên quyết định không có kẻ trung yểu, hoặc nên không thọ quả mà vĩnh viễn dứt bỏ nghiệp kia. Nhưng như trước đã nói.

Trước đã nói như thế nào? Nghĩa là về lý tất không có thời phần nhất định, nghiệp đã chiêu cảm dị thục lại chuyển thọ nhận vào thời phần khác. Lại, về lý tất không có thời phần nhất định, nghiệp không tạo tác tăng trưởng, tất thọ dị thục. Nếu cho có sinh, do nhiều thứ nghiệp định, bất định dẫn dắt. Hoặc lại có sinh, chỉ do nhiều thứ nghiệp định đã dẫn dắr, nên có trung yểu và có hết thọ mạng.

Điều này cũng không đúng. Vì thời phần quả nơi nghiệp định, bất định thọ nhận không có quyết định.

Nếu có một loại trung niên, lão niên, thời phần quả nơi nghiệp quyết định nên thọ nhận, còn loại trẻ con, đồng tử, thiếu niên thì quả nơi nghiệp không quyết định thọ nhận. Sự việc ấy lại như thế nào?

Về lý tất không chấp nhận lìa trước có sau, hoặc nên quả nghiệp của phần vị trước đã có, tất là quyết định thọ quả. Nhưng ở trong đây không có lý quyết định, khiến nghiệp của phần vị trước quyết định thọ quả, khiến nghiệp của phần vị sau thọ quả bất định, nên không có một đời do nhiều nghiệp dẫn sinh.

Câu sau cũng có lỗi. Một nghiệp dẫn dắt nhiều đời, thời phần nhất định, nghiệp nên thành tạp loạn. Nhưng ở đây không có tạp loạn, như trước đã biện, nên không có một nghiệp có thể dẫn sinh nhiều đời.

Nếu như vậy thì do đâu Tôn giả Vô Diệt tự nói: Ta nhớ lại về xưa kia, vào một thời, đối với phước điền thù thắng, một lần thí thức ăn đã chiêu cảm dị thục, từ đấy ta đã bảy lần sinh trở lại nơi trời Ba Mươi Ba, bảy lần sinh trong loài người, làm Chuyển luân Thánh đế. Đời sau cùng sinh nơi gia tộc Đại Thích Ca, đầy đủ châu báu, của cải, thọ hưởng nhiều hoan lạc.

Phái Tỳ-bà-sa đã giải thích sự việc này, nói: Một lần thí thức ăn là đã dựa vào đấy khởi nhiều tư duy thù thắng, nguyện có thể dẫn vị riêng có nhiều dị thục sinh, nên nói như vậy. Một lần thí thức ăn, dị thục không ứng hợp với dị thục có thể lại chiêu cảm sinh. Chỉ vì hiển bày dựa vào cảnh của một lần thí thức ăn, khởi nhiều tư duy, nguyện được chiêu cảm phần vị của dị thục có sai biệt. nên nói như thế. Hoặc làm sáng tỏ về phần gốc đầu tiên, nên nêu bày như vậy. Tôn giả kia do một nghiệp đã chiêu cảm trong một đời có đại phú quý, nhiều của cải và túc sinh trí. Nhân theo trí này lại tạo chiêu cảm phước của đời khác.

Như thế lần lượt đến thân sau cùng, sinh vào nhà giàu sang, được quả cứu cánh. Như có duyên một Ca-lật-sa-bát-noa, dùng phương tiện siêng năng cầu lợi tức thành ngàn lần, nói: Tôi vốn do một Ca-lật-sa-bát-noa, đến thời nay liền trở thành đại phú quý.

Thế nên một nghiệp chỉ dẫn một đời. Tuy nói một đời do một nghiệp dẫn, nhưng thừa nhận viên mãn, do nhiều nghiệp thành. Thí dụ như họa sư, trước dùng một màu để vẽ hình trạng của người kia, sau tô họa thêm nhiều màu sắc.

Nay ở trong đây, một màu sắc dụ là một loại nghiệp, là một sátna. Nếu dụ một loại thì trái với lý của tông này, do nói không phải một nghiệp dẫn một đời, có thể căn cứ theo một loại. Vì loại tất có nhiều, nhiều nghiệp dẫn một đời là không hợp lý.

Nếu nói một màu sắc dụ một sát-na, không phải một sát-na có thể vẽ hình trạng. Tức dụ đã lập, đối với chứng cứ là không có khả năng. Nay thấy trong đây dụ về một loại nghiệp.

Vì sao dẫn nghiệp căn cứ theo loại được thành? Vì nghiệp dẫn một nẻo thì có rất nhiều. Câu nói này, ý là làm rõ trong một loại nghiệp chỉ một sát-na dẫn chúng đồng phần, đồng loại dị loại. Nhiều nghiệp của sát-na có thể làm viên mãn, nên nói là nhiều. Vì thế như dùng một màu sắc, trước vẽ hình trạng, sau tô họa thêm nhiều màu sắc. Câu nói này là hợp lý. Do vậy, tuy có cùng bẩm phú thân người, nhưng ở trong ấy có người gồm đủ chi thể các căn, sắc lực, hình lượng trang nghiêm. Hoặc có kẻ so với trước thì có nhiều thiếu giảm. Vì chỉ do nghiệp có thể dẫn mãn sinh. Không như vậy thì một quả pháp của tất cả nghiệp, do uy lực mạnh, nên cũng dẫn sinh mãn sinh. So với đây là trái nhau, tức có thể là mãn, không phải là dẫn.

Hai loại như thế, thể của chúng là thế nào?

Tụng nêu:

Hai định không tâm đắc

Không thể dẫn chung khác.

Luận nói: Hai định không tâm tuy có dị thục, nhưng không có uy lực dẫn chúng đồng phần, vì so với các nghiệp không phải là cùng có, nên tất cả đắc của bất thiện, thiện hữu lậu, cũng không có uy lực dẫn chúng đồng phần, vì cùng với các nghiệp không phải là một quả.

Nên các pháp hữu lậu thiện, bất thiện khác đều cùng có cả hai, nghĩa là dẫn và mãn.

Trong Khế kinh nói: Chướng nặng có ba, nghĩa là nghiệp chướng, phiền não chướng, dị thục chướng.

Ba chướng như thế thể chúng là gì?

Tụng nêu:

Ba chướng, nghiệp vô gián

Cùng luôn hành phiền não

Và tất cả nẻo ác

Châu Bắc, trời Vô tưởng.

Luận nói: Thể của nghiệp chướng, nghĩa là năm vô gián: (1) Hại mẹ. (2) Hại cha. (3) Hại A-la-hán. (4) Phá hòa hợp Tăng. (5) Tâm ác làm thân Phật chảy máu.

Thể của phiền não chướng nghĩa là thường hành phiền não. Phiền não phẩm hạ, nếu có kẻ thường hành, tuy muốn chế phục, loại trừ, nhưng khó thực hiện được.

Do kẻ kia lần lượt khiến phiền não của phẩm thượng sinh, khó có thể chế phục, loại trừ, nên cũng gọi là chướng. Phiền não của phẩm thượng nếu không thường hành, thì khi đạo đối trị sinh tức dễ thực hiện được việc trừ bỏ. Tuy phiền não này rất mãnh liệt, nhưng không phải thuộc về chướng. Tuy ở nơi cõi dục, các hữu tình có đủ trói buộc đã bình đẳng cùng thành tất cả phiền não, nhưng vì hiện hành riêng khác, tức làm chướng ngại không đồng, cho nên trong phiền não tùy theo phẩm thượng hạ, chỉ do thường hành, gọi là phiền não chướng.

Thể của dị thục chướng, nghĩa là ba nẻo ác hoàn toàn và một phần nẻo thiện, tức là châu Bắc và trời Vô tưởng.

Vì sao gọi là chướng?

Vì có thể chướng ngại Thánh đạo cùng tư lương của đạo và sự việc lìa nhiễm. Tuy có nghiệp khác có thể chướng ngại kiến đạo, nhưng vì có thể chuyển, nên không phải như năm tội nghịch. Tỳ-bà-sa nêu rõ: Nhân duyên của năm thứ này dễ thấy, dễ biết, nói là nghiệp chướng. Nghĩa là quả và Bổ dặc già la của xứ nẻo sinh. Chướng còn lại bỏ, lập, như lý nên tư duy. Trong ba chướng này thì phiền não chướng là rất nặng, do có thể phát sinh nghiệp, nghiệp chiêu cảm quả.

Có Sư khác nói: Hai chướng phiền não cùng với nghiệp đều rất nặng, do có hai chướng này, nên trong đời thứ hai cũng không thể đối trị.

Vô gián là nghĩa gì?

Nghiệp vô gián này, vì sinh ở nơi vô gián, tất thọ quả, vì không có nghiệp quả của đời khác có thể chướng ngại.

Có thuyết cho: Bổ-đặc-già-la tạo tội nghịch, từ đây mạng chung, quyết định đọa trong địa ngục, vì không có gián cách, nên gọi là vô gián.

Ba chướng nên biết là có trong nẻo nào?

Tụng nêu:

Ba châu có vô gián

Không phải Phiến-quắc khác v.v…

Ít ân, ít xấu hổ

Chướng khác chung năm nẻo.

Luận nói: Không phải tất cả chướng nơi các nẻo đều có. Lại, nghiệp vô gián chỉ nơi ba châu của nẻo người, không phải nơi châu Bắc câu lô và nơi nẻo, cõi khác. Ở trong ba châu, chỉ là người nữ và nam, không phải là hạng Phiến-quắc v.v…, như không có giới ác.

Có thuyết nêu: Vì cha mẹ đối với họ ít ân nghĩa, họ đối với cha mẹ ít xấu hổ. Nghĩa là cha mẹ của những kẻ kia sinh thân không đủ, vì ái niệm lại ít kém, nên nói là ít ân. Người kia đối với cha mẹ, sự hổ thẹn cũng ít kém. Chủ yếu là phải mang giữ hổ thẹn nặng mới trừ bỏ tội vô gián.

Nếu có người hại cha mẹ của hàng phi nhân, cũng không thành tội nghịch, vì ít ân, xấu hổ. Nghĩa là cha mẹ của hàng phi nhân kia đối với con không có ân như người. Con đối với cha mẹ kia không có hổ thẹn như người.

Đã biện về nghiệp chướng chỉ có nơi ba châu người. Chướng còn lại nên biết là nơi năm nẻo đều có. Nhưng phiền não chướng thì hiện có khắp tất cả xứ. Hoặc dị thục chướng thì hoàn toàn ở nơi ba nẻo ác, con người thì chỉ ở nơi châu Bắc, các trời thì chỉ ở nơi trời Vô tưởng.

Trong ba chướng nặng đã biện ở trước, nói năm vô gián là Thể của nghiệp chướng.

Vậy năm nghiệp vô gián, Thể của chúng là gì?

Tụng nêu:

Trong năm vô gián này

Bốn thân, một ngữ nghiệp

Ba sát, một nói dối

Một gia hạnh sát sinh.

Luận nói: Trong năm vô gián, bốn là thân nghiệp, một là ngữ nghiệp. Ba là sát sinh, một là ngữ hư dối, là nghiệp đạo căn bản. Một là gia hạnh của nghiệp đạo sát sinh, do thân của Như Lai không thể hại. Vô gián phá Tăng là nói lời hư dối.

Đã là nói lời hư dối do đâu gọi là phá Tăng?

Tức nhân thọ tên của quả, hoặc vì thể phá.

Nếu như vậy thì Tăng phá, Thể ấy là gì?

Là người của chủ thể, đối tượng bị phá, ai đã tạo thành?

Tụng nêu:

Tăng phá, không hòa hợp

Tâm bất tương ưng hành

Tánh vô phú vô ký

Tăng bị phá đã thành.

Luận nói: Thể của Tăng phá là tánh không hòa hợp, tâm vô phú vô ký thuộc về uẩn của hành không tương ưng.

Há thành vô gián chăng?

Như vậy, Tăng phá nhân nơi vọng ngữ sinh, nên nói phá Tăng là quả vô gián. Không phải chủ thể phá thành Tăng phá này, chỉ là Tăng chúng của đối tượng bị phá đã thành.

Người của chủ thể phá này do đâu thành tựu? Dị thục của phá Tăng ở nơi xứ nào? Thời gian là bao lâu? Tụng nêu:

Chủ thể phá chỉ thành

Tội ngữ hư dối này

Một kiếp vô gián đủ

Tùy tội tăng, khổ tăng.

Luận nói: Người của chủ thể phá Tăng, thành tội phá Tăng, thì tội phá Tăng này nói lời hư dối làm tánh, tức Tăng phá đều cùng sinh biểu nghiệp, vô biểu nghiệp của ngữ. Nghiệp này tất ở trong đại địa ngục vô gián, trải qua một trung kiếp, thọ khổ rất nặng. Tội nghịch khác bất tất sinh nơi vô gián. Nhưng tội này không trải qua một đại kiếp, vì ở cõi dục, không có thọ lượng này, nên thời lượng một trung kiếp cũng không đầy đủ.

Kinh nói: Khi thọ mạng của con người là bốn vạn năm thì Đềbà-đạt-đa đến sinh trong loài người, chứng đắc Bồ-đề Độc giác, nhưng không trái bỏ thọ mạng một kiếp. Nói trong phần ít của một kiếp lập tên một kiếp, nên hiện có một phần, cũng lập tên hoàn toàn. Như nói: Ở đây cho là ta có chướng v.v… Nếu tạo nhiều tội nghịch, một tội đầu đã chiêu cảm sinh ngục vô gián, tội còn lại tức nên không có quả?

Không có lỗi không có quả. Người tạo nhiều tội nghịch, chỉ một tội là có thể dẫn, tội khác là hỗ trợ mãn nghiệp. Tùy ở tội kia tăng, khổ trở lại tăng dữ dội. Nghĩa là do tạo nhiều tội nghịch đã chiêu cảm trong địa ngục có thân lớn, mềm mại, có nhiều vật dụng tạo khổ mạnh dữ, thọ gấp bội hai, ba, bốn, năm lần khổ nặng. Hoặc không có trung yểu thọ khổ nơi nhiều thời gian.

Vì sao có thể nói tội còn lại tức nên không có quả? Người nào ở nơi xứ nào có thể phá đối với người nào? Phá vào lúc nào? Trải qua bao nhiêu thời gian để phá?

Tụng nêu:

Bí-sô kiến hành tịnh

Người ngu phá xứ khác

Khi nhận Đạo sư khác

Gọi phá, không qua đêm.

Luận nói: Kẻ có thể phá Tăng, chủ yếu là Đại Bí-sô, tất không phải là người tại gia, Bí-sô-ni v.v…, do những người kia nương dựa không có uy đức. Chỉ là người kiến hành không phải là kẻ ái hành, do ý lạc ác là rất sâu bền, vì đối với phẩm nhiễm tịnh đều cùng có, vội vã tán động. Chủ yếu là trụ nơi hạnh tịnh mới có thể phá Tăng, vì người phạm giới không có uy đức. Tức do đấy chứng biết: Sau tạo tội nghịch khác là không thể phá Tăng, do tạo tội nghịch khác và thọ quả của tội kia, về xứ là không có nhất định. Ở đây đã nêu dẫn hạnh tịnh làm loại đầu, nhằm hiển bày về lời nói đoan nghiêm tròn đủ v.v… Vì người xấu xí, nói năng chậm chạp v.v…, là không có khả năng phá.

Chủ yếu ở nơi xứ khác phá, không phải đối diện nơi bậc Đại sư, vì các Như Lai là không thể bức bách, xem thường. Ngôn từ luôn đủ uy nghiêm, tức đối diện tất là không thể. Chỉ phá phàm phu, không phải là phá Thánh giả, vì người khác không thể dẫn đắc chứng tịnh.

Có thuyết cho: Người đắc nhẫn cũng không thể phá, vì nhẫn quyết định do Đức Phật đã giảng nói, vì hàm chứa hai nghĩa, nói là lời nói của người ngu, chủ yếu là đã phá Tăng, thừa nhận Sư khác với Phật, nên nhẫn khác với Phật giảng nói.

Có Thánh đạo khác, nên nói Tăng phá, ở nơi thời gian như thế. Đêm này tất hòa hợp, không trụ nơi qua đêm. Như vậy gọi là phá pháp luân Tăng, có thể làm chướng ngại pháp luân Phật, hủy hoại Tăng hòa hợp. Nghĩa là do khi Tăng bị hoại, tà đạo chuyển, thì Thánh đạo bị ngăn chận tạm thời không chuyển.

Nói tà đạo: Nghĩa là Đề-bà-đạt-đa vọng nêu năm sự là đạo xuất ly: (1) Không nên thọ dụng sữa v.v… (2) Đoạn thịt. (3) Đoạn muối. (4) Nên mặc y phục không cắt may. (5) Nên ở chùa bên cạnh thôn xóm.

Nếu khi chúng thừa nhận những điều người kia đã nói, tức gọi là phá pháp luân, cũng gọi là Tăng phá.

Bao nhiêu người của châu nào gọi là phá pháp luân Tăng? Bao nhiêu người thuộc châu nào gọi là phá yết-ma Tăng?

Tụng nêu:

Châu Thiệm Bộ là chín v.v…

Mới phá pháp luân Tăng

Chỉ phá yết-ma Tăng

Chung ba châu, là tám v.v…

Luận nói: Chỉ người của châu Thiệm Bộ, ít nhất là chín, hoặc lại quá số này là có thể phá pháp luân, không phải ở nơi châu khác, do không có Phật. Chủ yếu là ở xứ có Phật để có thể lập Sư khác. Chủ yếu là tám Bí-sô phân làm hai chúng, dùng làm đối tượng bị phá, chủ thể phá, là thứ chín nên chúng rất ít, cũng cần chín người.

Nói vân vân là nêu rõ vượt quá số này thì không có giới hạn.

Chỉ phá yết-ma thì chung cho nơi ba châu, ít nhất là tám người, nhiều cũng không có giới hạn.

Chung nơi ba châu: Là do có Thánh giáo và có chúng đệ tử xuất gia, chủ yếu là trong một giới, Tăng chia ra hai bộ, vì tác yết-ma riêng, nên cần tám người, vượt quá số này cũng không ngăn chận, nên cũng nói vân vân.

Nơi thời phần nào chấp nhận có phá Tăng, phá yết-ma Tăng? Từ sau kiết giới đến nay cũng có, cho đến pháp chưa diệt. Phá pháp luân Tăng trừ sáu thời phần. Những gì là sáu?

Tụng nêu:

Đầu, sau, vỡ, hai trước

Phật diệt, chưa kiết giới

Đối sáu bậc như thế

Không phá pháp luân Tăng.

Luận nói: Đầu: Nghĩa là Đức Thế Tôn thành Phật chưa lâu, vì hữu tình có ý lạc thiện, ý lạc ác cũng chưa khởi. Sau: Nghĩa là bậc Thiện Thệ sắp bát Niết-bàn, Thánh giáo tăng rộng vì khéo an trụ, tất Tăng hòa hợp, vì Đức Phật mới Niết-bàn.

Có Sư khác nói: Vì chứng pháp tánh nhất định, vì chúng đều lo buồn. Không phải đầu, không phải sau, ở trong Thánh giáo hai sự đổ vỡ về giới, kiến nếu là phần vị chưa khởi, thì cũng không có phá Tăng. Chủ yếu là đổ vỡ về kiến sinh mới dám phá. Khi chưa lập đôi chỉ quán thứ nhất, pháp như thế, do chỉ quán kia nhanh chóng hợp trở lại. Sau Phật diệt độ, bấy giờ người khác không tín thọ, vì không có Phật thật làm đối địch. Khi chưa kiết giới, không có bên trong một giới, Tăng chia làm hai bộ có thể gọi là Tăng phá. Ở nơi sáu phần vị này, không có phá pháp luân.

Phá Tăng như thế nơi chư Phật đều có. Không như vậy, chủ yếu có lúc nghiệp phá người khác. Ở nơi Hiền này vào thời Phật Ca Diếp Ba, Đức Thích Ca Mâu Ni từng phá chúng người khác. Lại tức dừng phần luận thêm, nên biện về duyên nghịch.

Tụng nêu:

Bỏ, hoại ruộng ân đức

Chuyển hình cũng thành nghịch

Mẹ tức nhân máu kia

Lầm cùng không hoặc có

Đánh tim Phật chảy máu

Hại sau vô học không.

Luận nói: Do đâu hại mẹ v.v… thành tội vô gián, không phải là tội khác? Do dứt bỏ ruộng ân, hủy hoại ruộng đức. Nghĩa là hại cha mẹ là dứt bỏ ruộng ân.

Vì sao có ân?

Vì là gốc sinh ra thân. Vì sao từ bỏ gốc kia. Nghĩa là xả bỏ ruộng ân đức kia. Tức các bậc A-la-hán v.v… khác gồm đủ các đức thù thắng và khả năng sinh khởi chúng. Do hủy hoại đối tượng nương dựa của đức, nên thành tội nghịch.

Nếu có cha mẹ khi mới sinh con, vì muốn sát hại nên đem bỏ ngoài đường cho sói, báo ăn thịt v.v… Hoặc ở trong thai đã dùng phương tiện muốn giết hại. Do sức của định nghiệp, đứa con không chết.

Cha mẹ kia có ân gì mà dứt bỏ thì thành tội nghịch? Cha mẹ kia nhất định do có nỗi sợ hãi về việc không sống nổi. Đối với sự việc của con, vội khởi tâm muốn giết, nhưng khi dứt bỏ v.v… tất mang giữ những thương xót, thường thường duyên nơi sự luyến ái con, trói buộc tâm. Nếu từ bỏ ân này, là tiếp xúc với tội nghịch phẩm hạ. Vì nhằm làm rõ tội nghịch có hạ, trung, thượng, nên nói từ bỏ ân, đều thành tội nghịch. Hoặc do vật chứa của ruộng như mẹ v.v… là theo pháp như thế. Nếu như cho cha mẹ kia không có ân, chỉ hại mạng của cha mẹ, tất nên vô gián sinh trong địa ngục. Các người thông tuệ đều cho: Đức Thế Tôn đối với pháp đã thấu đạt tận cội nguồn. Nói như vầy: Chỉ nên tin sâu về hình tướng của cha mẹ thì chuyển sát hại thành tội nghịch chăng? Tội nghịch cũng thành, vì chỗ nương dựa là một. Nếu như có yết-lạt-lam nơi người nữ bị rơi rớt, người nữ khác lượm lấy đặt trong sản môn, vậy thì đứa con được sinh ra giết người nữ nào để thành tội nghịch hại mẹ?

Nhân nơi máu huyết của người nữ kia sinh, thức nhờ dựa mới tăng, nên người nữ thứ hai chỉ như mẹ nuôi. Tuy các đối tượng tạo tác đều nên hỏi han, quyết định, nhưng sát hại chỉ thành đồng loại vô gián, vì thế chỉ kiết sinh của nẻo người là hơn, duyên nơi sát hại thành tội nghịch hại mẹ, không phải chỉ giữ gìn, nuôi dưỡng. Nếu đối với cha mẹ khởi gia hạnh sát hại, nhưng giết lầm người khác, thì không có tội vô gián. Đối với người không phải là cha mẹ, khởi gia hạnh sát hại, nhưng lại giết lầm cha mẹ cũng không thành tội nghịch. Nếu một gia hạnh sát hại mẹ và người khác, cả hai vô biểu sinh, thì biểu chính là tội nghịch, vì uy lực của nghiệp vô gián là mạnh. Minh Tôn giả nói: Cũng có hai biểu. Biểu là do cực vi tích tập mà thành. Nay quán ý của Tôn giả kia, biểu có nhiều cực vi, có thứ tội nghịch gồm thâu, có thứ thuộc về tội khác. Có khi ở nơi A-la-hán không có tưởng A-la-hán, cũng không quyết định lãnh hội: Đây không phải A-la-hán, vì không có phân biệt, nên sát hại thành tội nghịch. Không phải đối với cha mẹ hoàn toàn đồng với tội này, vì dễ nhận thức hiểu biết mà không nhận biết. Tuy hành sát hại, nhưng tâm không có bỏ ân. Người A-la-hán không có nêu riêng về tướng. Đã khó nhận thức về phải, cũng khó nhận biết về sai, nên tâm không tự kìm chế sát hại, cũng thành vô gián.

Nếu có kẻ sát hại cha, cha là A-la-hán, thì đắc một tội nghịch, do chỗ nương dựa là một, nhưng làm rõ một tội nghịch do hai duyên thành. Hoặc dùng hai môn để chê trách tội nghịch kia. Nên bảo: Đầu tiên là thiếu giữ gìn, ông đã tạo hai tội nghịch, đó là hại cha, giết A-la-hán.

Nếu ở nơi chỗ Đức Phật khởi tâm ác làm thân Phật chảy máu, thì tất cả đều đắc tội vô gián chăng?

Chủ yếu là do tâm sát mới thành tội nghịch. Đánh nơi tim xuất huyết thì vô gián, tức không có, vì không có tâm quyết định hủy hoại ruộng phước. Nếu ở phần vị gia hạnh sát hại A-la-hán kia chưa thành vô học, đến khi sắp chết mới đắc quả A-la-hán. Vậy chủ thể sát hại người kia có thành tội nghịch không?

Không có. Vì đối với thân vô học không có gia hạnh sát hại.

Nếu tạo gia hạnh vô gián không thể chuyển là có lìa nhiễm và được Thánh quả chăng?

Tụng nêu:

Tạo nghịch, gia hạnh định

Không lìa nhiễm đắc quả.

Luận nói: Gia hạnh vô gián, nếu tất định thành, thì trung gian quyết định không có lìa nhiễm đắc quả, vì trung gian gia hạnh thuộc nghiệp đạo ác khác. Nếu Thánh đạo sinh, nghiệp đạo không khởi, thì chuyển được cùng nối tiếp, nhất định trái với nghiệp đạo kia. Không phải người đã kiến đế, thì tội của nghiệp đạo đã tiếp xúc. Nhưng gia hạnh vô gián của tông ta, nói chung có hai: (1) Gần. (2) Xa.

Gần thì không thể chuyển. Xa thì có nghĩa chuyển.

Ở trong các tội vô gián của hành ác, tội nào nặng nhất? Ở trong nghiệp thiện của các hành diệu thế gian thì hành nào được quả lớn nhất?

Tụng nêu:

Ngữ hư dối phá Tăng

Ở trong tội: Lớn nhất

Tự cảm hữu thứ nhất

Quả lớn trong thiện đời.

Luận nói: Vì phá Tăng nên phát khởi lời nói hư dối. Trong các hành ác, tội này là lớn nhất.

Vì sao tội này thuộc về nói lời hư dối?

Vì lời nói đã phát ra dựa vào tưởng khác biệt. Nghĩa là người kia đối với pháp có tưởng về pháp. Đối với phi pháp có tưởng về phi pháp. Đối với bậc Đại sư có tưởng về bậc Đại sư. Đối với bản thân mình có tưởng không phải là Nhất thiết trí. Nhưng do ý lạc ác sâu chắc đã che giấu tưởng này, tạo ra tưởng dị biệt để nói. Nếu như có không do tưởng khác phá Tăng, tức không thể sinh ra tội nặng của thọ mạng là kiếp.

Do đâu tội này là nặng nhất trong hành ác?

Do tội này đã hủy phạm pháp thân Phật, vì chướng ngại đạo giải thoát của thế gian sinh lên nẻo trời. Tư chiêu cảm quả dị thục của hữu thứ nhất, là quả lớn nhất trong các thứ thiện ở thế gian. Tức có thể chiêu cảm dị thục tịch tĩnh tột cùng.

Vì căn cứ theo quả dị thục, nên đã nói như thế. Như căn cứ chung nơi năm quả để nói, tức là nên nói tư cùng với định kim cương dụ tương ưng, tức có thể được quả lớn. Nghĩa là quả này có thể đạt được các hữu vi, vô vi nơi bốn quả A-la-hán ngoài quả dị thục. Tuy các tư của đạo vô gián vô lậu đều loại trừ dị thục, được bốn quả khác, nhưng quả đã được ở đây rất là thù thắng. Các kiết đã vĩnh viễn đoạn làm thành quả này. Vì để phân biệt với quả này, nên nói câu thiện của thế gian.

Vì chỉ tội vô gián, nhất định sinh nơi địa ngục, hay các đồng loại vô gián, cũng nhất định sinh nơi địa ngục kia. Không phải quyết định sinh nơi vô gián, vì không phải là nghiệp vô gián.

Đồng loại vô gián, tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Nhiễm mẹ, ni vô học

Giết Bồ-tát trụ định

Và Thánh giả hữu học

Đoạt duyên Tăng hòa hợp

Phá hoại các tháp miếu

Là đồng loại vô gián.

Luận nói: Nói đồng loại là nghĩa tương tợ. Nếu có người đối với mẹ, ni A-la-hán hành phi phạm hạnh, tạo điều rất ô nhục, đây gọi là tướng của nghiệp đồng loại hại mẹ. Nếu có kẻ giết hại Bồ-tát trụ nơi định, thì đó gọi là tướng của nghiệp đồng loại hại cha. Nếu có người giết hại Thánh giả hữu học, thì đó gọi là tướng của nghiệp đồng loại thứ ba. Nếu có kẻ tạo duyên xâm đoạt Tăng hòa hợp, đó gọi là tướng của nghiệp đồng loại phá Tăng. Nếu có kẻ phá hoại tháp thờ Phật, đó gọi là tướng của nghiệp đồng loại thứ năm.

Có nghiệp dị thục ở trong ba thời hoàn toàn có thể làm chướng ngại. Nói ba thời:

Tụng nêu:

Bất hoàn sắp được nhẫn

Nghiệp vô học là chướng.

Luận nói: Nếu khi từ vị đảnh, sắp được nhẫn, chiêu cảm nghiệp của nẻo ác thì đều toàn là chướng ngại, do nhẫn đã vượt qua địa của dị thục kia. Như người sắp lìa khỏi nước vốn đã cư ngụ trước đây, thì tất cả chủ nợ đều thành là chướng ngại. Nếu có người khi sắp được quả Bất hoàn, thì nghiệp hệ thuộc cõi dục đều thành là chướng ngại. Hoặc có người khi sắp được quả vô học, thì nghiệp của cõi sắc, vô sắc đều thành là chướng ngại. Hai phần vị sau này, tức dụ nói như trước. Nhưng ở trong đây, thì trừ thuận với hiện thọ và thuận với nghiệp bất định, thọ dị thục bất định và không phải thành thục ở xứ khác trong dị thục định.

HẾT – QUYỂN 23