LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 38

Phẩm thứ 9: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 1

Như thế là đã biện về các trí có sai biệt. Tiếp theo sẽ phân biệt về định là đối tượng nương dựa của trí. Do các tĩnh lự mới có đủ khả năng làm chỗ dựa, nên ở đây trước là biện về tĩnh lự. Hoặc ở trước đã biện trong phần công đức chung xong, thì biện về trí đã tạo thành công đức như vô tránh v.v… Các công đức được tạo thành còn lại, nay tiếp theo sẽ biện ở đây, trước là biện về đối tượng nương dựa là định. Lại tĩnh lự trong các định thì tĩnh lự là thế nào? Tụng nêu:

Tĩnh lự bốn đều hai

Trong ấy sinh đã nói

Định tức thiện một cảnh

Và bạn, tánh năm uẩn

Đầu đủ tứ hỷ, lạc

Sau lìa dần chi trước.

Luận nói: Tất cả công đức phần nhiều dựa nơi tĩnh lự, nên trước là biện về tĩnh lự có sai biệt. Tĩnh lự này gồm có bốn thứ. Nghĩa là một, hai, ba, bốn.

Há các tĩnh lự không như từ v.v… danh, tưởng không chung? Nhưng nay chỉ căn cứ theo bốn số như một, hai v.v… để kiến lập tên riêng. Trong đây, không phải là không có danh tưởng không chung, nhưng không chỉ gồm thâu khắp danh của một địa, vì các tĩnh lự đều có hai thứ. Nghĩa là định và sinh có khác nhau. Các tĩnh lự sinh như trước đã nói. Tức là thứ tư có tám. Đầu hai. Số còn lại ba. Không có tên riêng để giảng giải chung về một địa. Các tĩnh lự định chỉ có tướng chung không có riêng. Nghĩa là thể của bốn thứ này, nói tóm lại đều là tánh thiên gồm thâu tánh một cảnh của tâm, dùng đẳng trì thiện làm tự tánh. Nếu cùng với trợ bạn thì năm uẩn làm tánh. Hai thứ này đã đồng, khó nhận biết sai biệt. Tướng tuy không riêng, nhưng địa có khác. Vì làm rõ địa có khác, nên căn cứ theo số để nêu rõ danh, tức nói là thứ nhất, cho đến thứ tư. Trong đây, Kinh chủ tự khởi vấn đáp.

Vì sao gọi là tánh của một cảnh?

Nghĩa là chuyên nơi một đối tượng duyên.

Lời đáp kia là phi lý. Vì hai thức nhãn, ý nếu đồng một đối tượng duyên tức nên gọi là tánh của một cảnh. Tức ở nơi xứ này nên cầu tìm lý riêng. Nghĩa là nếu nương dựa nơi một đối tượng nương dựa là căn, chuyên nơi một đối tượng duyên thì gọi là tánh của một cảnh.

Há không phải là một niệm không đổi đối tượng duyên, nên tất cả trong tâm đều có tánh của một cảnh. Lý thật thì đều có mỗi mỗi sát-na, tâm tâm sở pháp nơi một cảnh chuyển. Nhưng không phải tất cả đều được tên định. Do ở trong đây nói tánh của một cảnh chỉ vì hiển bày chỉ rõ do đẳng trì thù thắng, nên khiến tâm tâm sở thiện cùng nối tiếp mà chuyển.

Nếu như vậy tức tâm dựa nơi một căn chuyển dẫn, duyên nơi tự cảnh, rồi tâm khác nối tiếp sinh. Đây tức gọi là tánh một cảnh của tâm. Nên lìa ngoài tâm thì không có đẳng trì riêng?

Vấn nạn này là không đúng, vì như trước đã nói. Nghĩa là trước đã biện rộng trong tâm sở pháp, đã biện về đẳng trì lìa tâm thì có riêng. Nghĩa là nếu thể của tâm tức là Tam-ma-địa, khiến tâm tạo ra như nhau, thì cũng nên không có riêng, vì nhân duyên sai biệt không thể đạt được.

Các vấn nạn như thế v.v… đã hiển bày đủ như trước, nên không phải tức tâm gọi là Tam-ma-địa.

Dựa nơi nghĩa nào nên lập danh xưng tĩnh lự?

Do dựa nơi sự tịch tĩnh này mới có thể thẩm lự. Thẩm lự tức là nghĩa thật sự nhận biết rõ. Như nói tâm ở nơi định thì có thể nhận biết rõ như thật. Trong nghĩa của thẩm lự đã đặt để nơi địa, cõi. Tông chỉ của Luận này nên thẩm lự là định, dùng tuệ làm thể.

Dựa nơi lý huấn thích, đây là xứ của cảnh suy tính tịch định, nên được mang tên tĩnh lự. Vì định khiến tuệ sinh, không có vẩn đục, tán loạn.

Có thuyết nói: Định này giữ gìn duyên thù thắng hiện hữu khắp, vì tư duy như lý, nên gọi là tĩnh lự. Nói thù thắng là phân biệt với duyên khắp của cõi dục. Phân biệt với tư duy như lý của cõi vô sắc. Phân biệt khác với có thể giữ gìn của điên đảo. Định này là đẳng trì vi diệu. Đẳng trì vi diệu ấy gọi là tĩnh lự. Chữ này là làm rõ về chỉ quán cùng hành, không có đẳng trì điên đảo mới gọi là tĩnh lự.

Nếu như vậy thì nhiễm ô đâu thể được danh xưng này?

Do đẳng trì kia cũng có thể thẩm lự sai lạc, nên ở nơi xứ tương tợ cũng lập tên gọi này. Như thế gian nói hạt giống hư mục v.v…, nên không có lỗi tất cả gọi là tĩnh lự.

Nếu tánh thiện gồm thâu tánh một cảnh của tâm và trợ bạn, lập làm bốn tĩnh lự, thì dựa nơi tướng nào để lập một hai ba bốn?

Nếu gồm đủ tứ hỷ lạc thì kiến lập làm thứ nhất. Nghĩa là nếu tánh của một cảnh thiện trong phần vị đủ cùng với tầm tứ hỷ lạc tương ưng thì đẳng trì như thế gọi là tĩnh lự thứ nhất. Trong tụng chỉ nói cùng với tứ tương ưng, là đã làm rõ nghĩa cùng với tầm cũng tương ưng. Vì nếu có tứ cùng với hỷ lạc đều cùng có, tất không có cùng với tầm không tương ưng. Vì hiển bày tĩnh lự thứ hai, được kiến lập trừ tầm, nên tụng chỉ nói đủ tứ không phải tầm. Khác với đây nên nói là đủ tầm hỷ lạc, vì nêu dẫn tầm là có tứ, không nói cũng tự thành. Lìa dần chi trước, lập tĩnh lự thứ hai, ba, tư. Lìa tức có hai, lìa hai có lạc, lìa đủ ba thứ như thứ lớp ấy. Nên tánh của một cảnh được phân làm bốn thứ.

Đã biện về tĩnh lự. Vô sắc thì thế nào?

Tụng nêu:

Vô sắc cũng như thế

Bốn uẩn lìa địa dưới

Và ba cận phần trên

Gọi chung trừ tưởng sắc.

Không sắc gọi vô sắc

Sắc sau khởi từ tâm

Ba như không vô biên

Tên từ gia hạnh lập.

Phi tưởng phi phi tưởng

Mờ kém nên lập tên.

Luận nói: Vô sắc này cùng với tĩnh lự, về số lượng, tự tánh là đồng. Nghĩa là có bốn thứ đều hai (sinh, định). Sinh như trước đã nói. Tức phẩm thế gian nói: Do sinh có bốn. Về thể của định vô sắc nói chung cũng là tánh thiện gồm thâu tánh một cảnh của tâm. Dựa nơi đấy nên nói câu: Cũng như thế. Nhưng trong trợ bạn, định vô sắc này thì trừ sắc uẩn, vì vô sắc không có sắc tùy chuyển. Tuy tánh của một cảnh cùng với trợ bạn không có khác biệt, nhưng vì lìa sinh của địa dưới nên phân làm bốn thứ. Nghĩa là nếu đã lìa sinh của tĩnh lự thứ tư thì lập không vô biên xứ. Cho đến đã lìa sinh của vô sở hữu xứ, nên lập phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lìa gọi là nghĩa gì?

Nghĩa là do đạo này đã giải thoát các Hoặc của địa dưới, là nghĩa lìa nhiễm của địa dưới. Tức bốn căn bản này và ba cận phần trên, nói chung gọi là trừ bỏ tưởng sắc. Cận phần của không xứ chưa được tên gọi này, vì duyên nơi sắc của địa dưới, khởi tưởng sắc. Không duyên nơi tưởng sắc của địa dưới mới có thể lập tên trừ bỏ sắc.

Nếu như vậy thì do đâu đại chủng uẩn nói trừ bỏ tưởng sắc là định thứ tư?

Hành giả kia duyên nơi cõi dục, trụ trong tự thân, các sắc hiện có thì trừ bỏ dần, không phải ở nơi cõi vô sắc có thể có tưởng này, là trừ tưởng sắc nơi trước gia hạnh, nên lập tên căn bản cũng không có lỗi. Dựa vào nghĩa gì để lập tên vô sắc? Dựa nơi nghĩa vô sắc kia đều không có tất cả sắc. Về sau chết sinh nơi cõi dưới thì sắc từ tâm sinh. Hiện thấy pháp sắc, phi sắc của thế gian, cũng có lần lượt dựa vào nhau để khởi. Nghĩa là vì tâm khác, nên sắc có sai biệt sinh. Vì sắc, căn có riêng, nên thức sinh liền khác. Tức khi từ vô sắc sắp sinh nơi cõi dưới, tâm thuận với sắc sinh cùng nối tiếp mà trụ. Do uy lực của tâm trụ nơi sắc kia dẫn sinh sắc cõi dưới. Nhưng không thể nói chỉ từ nơi tâm kia khởi. Cũng do sắc của đời trước đều cùng có tâm hành nối tiếp nhau làm duyên nơi sắc từ lâu đã diệt, làm hạt giống của chính mình thì sắc hiện nay mới khởi. Thừa nhận nhân đồng loại vì chung cho quá khứ, hiện tại, nên các A-la-hán bát Niết-bàn rồi, các uẩn cùng nối tiếp đều đoạn dứt rốt ráo. Hiện không có phần ít duyên sinh các uẩn, tức không thể so sánh đồng với từ cõi vô sắc mất.

Như thế là đã giải thích tên gọi chung của vô sắc.

Vì sao gọi riêng là không vô biên xứ v.v…? Lại, danh xưng của ba vô sắc trước là từ gia hạnh. Tu vị gia hạnh, tư duy về vô biên không và vô biên thức, vô sở hữu. Nếu do thắng giải tư duy về vô biên không do gia hạnh tạo thành, gọi là Không vô biên xứ. Nghĩa là nếu có pháp tuy đều cùng có với sắc, nhưng tự thể của pháp đó không dựa thuộc về sắc. Các hữu tình ở cõi sắc cầu xuất ly, tất nên đầu tiên tư duy về pháp kia. Nghĩa là thể của hư không, tuy cùng với sắc đều cùng có, nhưng phải đợi sắc không có mới được hiển bày. Vì thuộc về pháp ngoài, nên tướng ấy là vô biên. Vì khi tư duy về hư không kia thì dễ có thể lìa sắc, nên ở nơi vị gia hạnh tư duy về hư không, thời gian thành tùy chỗ ứng hợp cũng duyên nơi pháp khác, nhưng chỉ từ gia hạnh kiến lập danh xưng này. Nếu do thắng giải tư duy về vô biên thức do gia hạnh tạo thành, gọi là Thức vô biên xứ. Nghĩa là ở trong sáu thứ thức thân thuần tịnh có thể phân biệt nhận biết, đã khéo nhận lấy tướng xong, an trụ nơi thắng giải. Do nhờ nơi sức của tưởng, tư duy quán xét về tướng vô biên thức. Do gia hạnh này làm ưu tiên đã tạo thành, tùy nơi đối tượng ứng hợp cũng duyên với pháp khác. Nhưng chỉ từ gia hạnh kiến lập danh xưng này. Nếu do thắng giải xả bỏ tất cả gia hạnh hiện có đã tạo thành, gọi là Vô sở hữu xứ. Nghĩa là thấy vô biên hành tương thô động, vì muốn chán bỏ nên khởi gia hạnh này. Thế nên xứ này gọi xả tối thắng. Vì ở trong ấy, không còn ưa thích tạo ra vô biên hành tướng, vì tâm ở nơi đối tượng duyên xả bỏ các thứ hiện có, tĩnh lặng mà trụ. Do tưởng mờ tối yếu kém, lập danh xưng thứ tư. Nghĩa là tưởng trong địa này không sáng rõ hơn, như vô tưởng, nên được mang tên phi tưởng. Nhưng tưởng không phải là hoàn toàn không có, nên gọi là phi phi tưởng. Vì địa này cũng có tưởng mờ tối, yếu kém. Chữ này là làm rõ tưởng của địa Hữu đảnh, không phải như bảy địa dưới, nên được danh xưng phi tưởng. Vì không phải như ba xứ vô tâm, nên gọi là phi phi tưởng.

Há không phải là trong vị gia hạnh của xứ Hữu đảnh, các Sư Du Già cũng có suy nghĩ này: Các tưởng như bệnh, như mũi tên, như ung nhọt? Trong trời Vô tưởng thì như si, như ám. Chỉ có trời Phi tưởng phi phi tưởng cùng với trên là trái nhau, vì tịch tĩnh mỹ diệu.

Đâu thể ở đây không căn cứ theo gia hạnh để lập danh?

Lý thật nên như vậy. Vì hành giả tu quán, tất trước là chán lìa tưởng và vô tưởng. Nhưng hoặc có người hỏi: Hành giả do đâu khi tu gia hạnh thì khởi suy niệm như thế?

Tất nên nêu lên suy nghĩ này để làm nhân đáp lại câu hỏi.

Nên nói lập danh do tưởng mờ tối, yếu kém. Bốn vô sắc này đều nói là xứ. Do là xứ sinh trưởng của các hữu. Nghĩa là bốn xứ này là có hay không có sinh trưởng vô số thứ nghiệp phiền não? Vì phá trừ vọng chấp cho xứ kia là Niết-bàn, nên Đức Phật nói đó là xứ sinh trưởng hữu.

Đã biện về vô sắc. Đẳng chí thì thế nào? Tụng nêu:

Đẳng chí gốc này tám

Bảy trước đều có ba

Là vị, tịnh, vô lậu

Sau vị, tịnh hai thứ.

Vị tức tương ưng ái

Tịnh là thiện thế gian

Đây tức đã vướng vị

Vô lậu là xuất thế.

Luận nói: Trên đây đã biện về đẳng chí căn bản của tĩnh lự vô sắc gồm chung có tám thứ. Trong đó, bảy thứ trước đều có đủ ba. Đẳng chí của Hữu đảnh chỉ có hai thứ. Vì địa này mờ tối, yếu kém, tạo nên gốc của sinh tử. Tại biên của các địa không có vô lậu. Vị đẳng chí đầu tiên nghĩa là ái tương ưng. Vì ái có thể làm vị vướng mắc, nên gọi là vị. Vì ái tương ưng kia, nên ở đây được tên vị. Nói ái tương ưng là dựa nơi tự tánh để nói. Vị này dùng đẳng trì làm tự tánh. Nếu cùng với trợ bạn thì nên nói thế này: Ái đều cùng có phẩm pháp, gọi là vị đẳng chí. Đẳng chí này chỉ nhận lấy pháp của phẩm một quả ái. Danh xưng tịnh đẳng chí là nói về định thiện của thế gian.

Vì lìa cấu của Hoặc nên cùng với các pháp bạch tịnh như không tham v.v… cùng tương ưng. Vì tịnh này là thiện, nên so với vị là có khác. Vì là hữu lậu, nên so với vô lậu thì có khác. Đây tức là cảnh của vị đã vướng mắc ở trước. Tịnh này vô gián diệt thì vị định kia sinh. Duyên nơi tịnh quá khứ thì sinh vị vướng mắc sâu xa. Bấy giờ, tuy gọi là xuất định của đối tượng vị, nhưng ở nơi định của chủ thể vị thì được gọi là nhập. Các thứ từ định xuất gồm có năm thứ: (1) Xuất địa. (2) Xuất sát-na. (3) Xuất hành tướng. (4) Xuất đối tượng duyên. (5) Xuất chủng loại.

Từ tĩnh lự thứ nhất nhập thứ hai v.v… gọi là xuất địa. Đối với vị đồng hành tướng, đối tượng duyên của một địa cùng nối tiếp chuyển, niệm trước vô gián, nhập nơi niệm sau, gọi là xuất sát-na. Từ hành tướng vô thường nhập nơi hành tướng khổ v.v…, gọi xuất hành tướng. Từ duyên nơi sắc uẩn nhập duyên nơi thọ v.v…, gọi là xuất đối tượng duyên. Từ hữu lậu nhập nơi vô lậu, từ không nhiễm ô nhập nhiễm ô v.v…, gọi là xuất chủng loại.

Dựa nơi xuất chủng loại, trong đây nói câu: Từ nơi định của đối tượng vị xuất, nhập nơi định của chủ thể vị, há không phải là hai câu nói lại cùng trái ngược nhau. Chủ thể vị là ái, không phải là định của đối tượng nhập. Đối tượng nhập là định, không gọi là chủ thể vị. Vì sao có thể nói nhập nơi định của chủ thể vị?

Không có lỗi trái nhau. Vì hiện thấy pháp tương ưng, tùy nêu lên một danh, là nói đều cùng có phẩm. Như khuyên trưởng giả tác ý ghi nhận riêng. Vì hỗ tương xen tạp, nên đều cùng được hai danh. Do ái tương ưng với đẳng trì, gọi là vị. Vì sức của đẳng trì, nên ái được mang tên định. Thế nên không có lỗi hai câu nói lại cùng trái nhau.

Có thuyết cho: Định, ái cùng nối tiếp hiện tiền. Các sát-na sau duyên nơi trước làm cảnh. Đối tượng vị tức là sát-na trước diệt, sát-na sau sinh, gọi là chủ thể vị. Chủ thể vị này khi ái hiện ở trước, duyên nơi cảnh của quá khứ, không duyên nơi hiện taị. Tự tánh tương ưng cùng với pháp câu hữu do không quán tự tánh v.v… Không duyên nơi vị lai, vì chưa từng lãnh nhận, nên ở nơi cảnh của đối tượng duyên, chuyên chú không dời, mới gọi là định. Ái tương ưng với định, cũng chuyên chú nơi một cảnh, nên được tên định. Hoặc khác tương ưng thì không như thế. Nghĩa là phiền não khác, ở nơi đối tượng duyên của mình, không thể khiến tâm chuyên chú như ái, nên Tam-ma-địa nếu cùng với ái đều cùng chuyên chú nơi một duyên thì cùng với thiện tương tợ với vô lậu định, gọi là định xuất thế, vì ái không duyên nên không phải là đối tượng vị vướng mắc.

Như thế là đã nói về tám đẳng chí, trong ấy tĩnh lự đã gồm thâu các chi, không phải là các vô sắc, do các vô sắc rất tĩnh lặng. Nghĩa là Sư Du Già ưa thích tu phẩm thiện. Nếu ở trong tụ công đức rộng lớn, khiến lập riêng chi để tinh tấn, siêng năng tu tập. Nếu các vô sắc vì tĩnh lặng tăng, nên tâm tâm sở pháp đều theo chỗ yếu kém, mờ tối mà chuyển. Thế nên ở nơi tụ công đức lớn kia không kiến lập chi. Hoặc đẳng trì trong địa của tĩnh lự kia riêng thù thắng, nhưng không phải một thứ riêng thù thắng mà có thể lập tên chi. Chủ yếu là có nhiều pháp tăng mới gọi là chi. Do tĩnh lự này riêng được lập tên chi, vì định, tuệ đều hành, có nhiều pháp tăng. Do cận phần này cũng không lập chi, vì trong cận phần của sắc chỉ tuệ tăng.

Có Sư khác nói: Nếu trong các địa có tâm sở riêng, thì đoạn dứt hoàn toàn mới ở nơi địa này lập chi, không phải địa khác. Trong tĩnh lự thứ nhất, ưu khổ đoạn dứt. Trong tĩnh lự thứ hai thì tầm tứ không còn. Thứ ba thì diệt hỷ. Thứ tư thì đoạn lạc. Trong địa vô sắc, tuy giảm dần chung nhưng không có tùy thuận địa đoạn dứt hoàn toàn.

Giải thích này chưa thể loại trừ nghi vấn của người khác.

Do đâu chỉ ở nơi địa này mới kiến lập chi? Vì thế nên như giải thích trước là tốt.

Ở nơi bốn tĩnh lự có bao nhiêu chi? Tụng nêu:

Tĩnh lự đầu năm chi

Tầm, tứ, hỷ, lạc, định

Thứ hai có bốn chi

Nội tịnh, hỷ, lạc, định.

Thứ ba đủ năm chi

Xả, niệm, tuệ, lạc, định

Thứ tư có bốn chi

Xả, niệm trong thọ, định.

Luận nói: Trong bốn tĩnh lự chỉ có tịnh, vô lậu, thì tĩnh lự đầu gồm đủ năm chi: (1) Tầm. (2) Tứ. (3) Hỷ. (4) Lạc. (5) Tâm nơi tánh của một cảnh.

Tâm nơi tánh của một cảnh là tên khác của định. Định cùng với đẳng trì, thể đồng, tên khác. Nên nói định tức là đẳng trì thù thắng. Trong đây nói là tâm nơi tánh của một cảnh.

Tĩnh lự thứ hai chỉ có bốn chi: (1) Nội đẳng tịnh. (2) Hỷ. (3) Lạc. (4) Tâm nơi tánh của một cảnh.

Tĩnh lự thứ ba có đủ năm chi: (1) Hành xả. (2) Chánh niệm. (3) Chánh tuệ. (4) Thọ lạc. (5) Tâm nơi tánh của một cảnh.

Tĩnh lự thứ tư chỉ có bốn chi: (1) Hành xả thanh tịnh. (2) Niệm thanh tịnh. (3) Phi khổ lạc thọ. (4) Tâm nơi tánh của một cảnh.

Vì sao tĩnh lự đầu và ba đều đủ năm chi. Tĩnh lự thứ hai, thứ tư chỉ đều có bốn chi? Vì đều chỉ có từng ấy để có thể lập chi. Hoặc do ở nơi cõi dục có nhiều các pháp ác và năm dục diệu khó đoạn, khó bỏ. Tĩnh lự thứ hai có hỷ của địa động. Tướng của địa kia động xuất sinh hỷ là cực tăng, dẫn sinh ái của năm bộ khó bỏ, khó đoạn. Vì đối trị ái kia, nên tĩnh lự đầu và thứ ba đều năm chi. Vì tĩnh lự đầu và thứ ba là như vậy, nên hai tĩnh lự còn lại đều bốn chi. Hoặc vì tùy thuận pháp vượt đẳng chí. Nghĩa là đầu tiên khi khởi vượt đẳng chí, nhập khác loại thì khó, nhập đồng loại thì dễ. Nhưng vượt đẳng chí trong vị khởi đầu tiên, hoặc từ một nhập ba, hoặc từ hai nhập bốn, nên thứ hai thứ tư đều chỉ bốn chi, thứ nhất và thứ ba đều có đủ năm chi. Vì về sau khởi thì dễ nên tĩnh lự trên không có chi.

Danh của chi tĩnh lự đã có mười tám, trong đó thật sự gồm có bao nhiêu thứ? Tụng nêu:

Thật sự này mười một

Đầu hai, lạc khinh an

Nội tịnh tức tín căn

Hỷ tức là hỷ thọ.

Luận nói: Chi này thật sự chỉ có mười một. Nghĩa là năm chi của tĩnh lự đầu, tức năm thật sự. Ba chi của tĩnh lự thứ hai giống như trước, thêm chi nội tịnh, cộng với trước là sáu. Đẳng trì của tĩnh lự thứ ba như trước (Đẳng trì: Tâm nơi tánh của một cảnh, là định) thêm bốn chi khác, cộng với trước là mười. Ba chi của tĩnh lự thứ tư giống như trước, thêm chi phi khổ lạc thọ, cộng với trước là mười một.

Do đâu tâm v.v… không phải là chi tĩnh lự?

Vấn đề này nên căn cứ theo các pháp Bồ-đề phần ở trước đã biện. Có khác với pháp kia, nay lược phân biệt. Trong thọ lập ba, vì không phải ưu khổ, ưu khổ chỉ là thuộc về cõi dục. Ba thọ tùy thuận địa, làm lợi ích cho chi. Vì thuận với dụng mạnh của định, nên đều thuộc về chi.

Vì sao tinh tấn không phải là chi tĩnh lự?

Các chi tĩnh lự thuận với chỗ hơn hẳn của tự địa. Vì tinh tấn thuận với địa trên, nên không lập làm chi. Hoặc chi tĩnh lự thích hợp với phần an lạc. Tinh tấn thì cầu thắng tấn, thúc đẩy khuyên gắng khiến khổ nhọc. Hai thứ tầm, tứ có khả năng hỗ trợ đẳng trì, chế ngự, thúc đẩy nơi tâm khiến lìa thô tế. Vì đối trị ác dục, nên đều lập chi.

Do đâu vô biểu không phải là chi tĩnh lự?

Các chi tĩnh lự hỗ trợ định, trụ nơi cảnh. Vô biểu kia không duyên nơi cảnh, nên không lập làm chi. Vì thế chi tĩnh lự tùy nơi địa sai biệt, tuy có mười tám, nhưng ở trong chủng loại của thật sự cầu đạt, nên chỉ có chín thứ. Tuy nhiên, vì tướng của thọ khác nhau, nên phân thành mười một. Do đấy, nên nói có không có chi đầu tiên, không phải chi thứ hai, nên tạo ra bốn trường hợp: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là tầm, tứ. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là nội tịnh. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là hỷ, lạc, đẳng trì. Trường hợp thứ tư: Tức trừ các thứ trước. Pháp còn lại, chi còn lại cùng đối.

Như lý nên tư duy.

Trong đây danh xưng chi là nói về nghĩa gì? Là nói về nghĩa hiển thành.

Là hiển thành về gì?

Tức hiển thành đây là tĩnh lự thứ nhất, cho đến đây là tĩnh lự thứ tư. Như cây củ duyên v.v… gọi là chi khác (?). Hoặc danh xưng của chi này là nói về nghĩa tùy thuận. Nghĩa là mười tám chi đều thuận với tự địa. Hoặc nghĩa vật dụng, tiền của nuôi sống thân gọi là chi. Như chi cúng tế, tức là bò, ngựa v.v… Nghĩa là tầm, tứ v.v… lần lượt hỗ trợ nhau.

Sư Tỳ-bà-sa đã nêu rõ đẳng trì nơi địa của tĩnh lự là hơn hết, nên tạo ra thuyết này: Tam-ma-địa là tĩnh lự cũng là chi tĩnh lự. Tầm, tứ v.v… là chi tĩnh lự không phải là tĩnh lự.

Đâu thể nhận biết đẳng trì nơi địa của tĩnh lự là hơn hết?

Vì trong Khế kinh đã nói như thế này: Đối với bốn tĩnh lự, nên biết như định căn. Nhưng ở nơi chỗ cùng thành và cùng phòng hộ, vì nghĩa tương tợ, nên nói như thế. Như nói quân của bốn chi cũng không có lỗi. Như vua với dân chúng, tuy cùng hỗ trợ nhau, nhưng ở trong đó, vua là tối thắng.

Há không phải là lạc của ba định thể là đồng, thế thì chi tĩnh lự tức nên không có mười một? Lạc của định thứ ba dùng thọ làm thể. Lạc của hai tĩnh lự đầu tức là khinh an, nên chi tĩnh lự thật có mười một.

Khinh an, hành xả có khắp nơi bốn tĩnh lự, do đâu nơi hai tĩnh lự đầu chỉ lập khinh an?

Trong hai địa sau chỉ lập hành xả, vì hành xả này đối với địa của tĩnh lự kia đã tùy thuận riêng. Nghĩa là trong cõi dục có các pháp ác, địa của tĩnh lự thứ nhất có tưởng tầm, tứ. Các phác ác có thể bức não tâm cũng như mũi tên độc. Hai tầm tứ của tĩnh lự thứ nhất đã lìa dứt các thứ ác kia, nên khinh an tăng. Hỷ của tĩnh lự thứ hai rất động tán. Tĩnh lự thứ ba thì lạc thọ rất tăng. Cả hai đều cùng có thể làm xứ sinh hơn hết của ái. Vì tĩnh lự ba, bốn đã dứt bỏ ái kia, nên hành xả tăng, Hoặc nơi cõi dục và tĩnh lự thứ nhất có sắc căn thức đã dẫn thô trọng quá hơn địa khác, vì thứ nhất, thứ hai đã lìa thô trọng kia, nên khinh an tăng. Trong địa của tĩnh lự ba, bốn, xa lìa phần thô trọng, tịch tĩnh chuyển hơn, nên hành xả tăng. Nghĩa là lạc của khinh an như lần đầu xả bỏ gánh nặng. Nếu lại đổi địa thì phần khí yếu kém, nên chỉ nơi tĩnh lự thứ nhất, thứ hai thì kiến lập khinh an. Trong địa của tĩnh lự ba, bốn tự nhiên mà chuyển, vì tịch tĩnh chuyển hơn, nên lập hành xả. Hoặc nơi định thứ nhất, thứ hai có duyên của khinh an, vì hỷ cùng với khinh an làm duyên thù thắng. Như Khế kinh nói: Vì hỷ nên khinh an. Vì trong định ba, bốn không có duyên của hỷ, vì khinh an rất yếu kém, nên không lập làm chi. Hành xả, khinh an đã cùng che lấp nhau. Nếu xứ có một thì xứ thứ hai liền không có. Khinh an đối trị hôn trầm, vì tướng của nó là nhẹ nhàng.

Hành xả đối trị trạo cử, vì tướng của nó là lặng dừng, nên an cùng với xả thì cùng che lấp nhau.

Lý gì để chứng biết ba chi lạc, hai là khinh an, thứ ba là thọ?

Đã nói vì tùy thuận riêng ở nơi địa kia. Nghĩa là lạc của định thứ ba không phải là khinh an. Khinh an không phải là chi lạc kia. Tiếp theo như trước đã nói lạc của định thứ nhất, thứ hai, tất không phải là lạc thọ, là thân tâm thọ, đều cùng phi lý. Nghĩa là lạc của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai tất không phải là thân thọ, vì đang ở trong định thì không có năm thức. Cũng không phải là tâm thọ, nên tức là hỷ. Chủ yếu là lìa hỷ thọ, tâm của địa khác vui, mới có thể khác với trước để lập làm lạc thọ.

Hỷ tức hỷ thọ, ở trong một tâm hai thọ đều cùng hành là không hợp lý. Nếu cho hỷ, lạc lại cùng hiện khởi, thì không có lỗi này, nhưng lý cũng không hợp để nói đủ năm chi và bốn chi.

Nếu cho năm, bốn là căn cứ theo chỗ cùng có để nói, bất tất đều cùng hiện hành, cũng không hợp lý. Tức nên có định có tầm, không có tứ. Tuy nhiên kinh chỉ nói có ba đẳng trì có tầm, có tứ, cho đến nói rộng.

Nếu chi tĩnh lự không phải tất đều cùng khởi, thì vì sao không nói có định có tầm, không có tứ? Lại, ở trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất cũng nên có đủ ba Tam-ma-địa?

Đây là trái hại với điều nơi Khế kinh đã nói. Nay nên xét chọn. Vui thích thọ nhận nơi ý địa trong định thứ ba đã được hỷ căn, nên gọi là hỷ. Vì sao gọi là lạc?

Ở đây gọi là lạc cũng có nguyên nhân. Do các hỷ căn thì không tĩnh lặng. Nghĩa là hỷ động tán, gây nhiễu loạn tâm định. Như nước, sóng cả tung vọt vỗ đập bềnh bồng. Ý địa của tĩnh lự thứ nhất, thứ hai vui thích thọ nhận có tướng như thế, nên được tên hỷ. Tâm vui vẻ thọ nhận này trong định thứ ba, tướng của nó thì trầm tĩnh, chuyển được tên lạc, nên trong định này dụng của xả tăng thượng. Vì dứt bỏ hỷ, nên lập chi hành xả. Trong định thứ tư lại dứt bỏ lạc, nên hành xả kia được gọi là thanh tịnh.

Vì sao niệm, tuệ nơi các địa đều có mà niệm chỉ ở nơi hai tĩnh lự trên, tuệ thì ở nơi định thứ ba mới được lập làm chi?

Vì tùy theo đối tượng ứng hợp niệm tuệ đã tùy thuận riêng. Nghĩa là hỷ cùng với lạc ở trong ba hữu là vị rất đam mê của các hữu tình. Trong đối tượng vị của tĩnh lự thứ ba có lạc tột cùng, trong sinh tử có lạc tối thắng. Về lý nên lập tuệ quán xét chán lìa. Nếu không có tuệ thì nói về căn thiện của địa hãy còn không thể thành, huống chi là tiến đến cầu đạt hơn hẳn. Vì đối trị lỗi lầm của tự địa như thế, nên tĩnh lự thứ ba lập tuệ làm chi. Vì nơi địa khác không như vậy, nên không lập tuệ. Nơi tĩnh lự thứ hai có hỷ tối thắng, vội vàng, náo loạn như La-sát-tư. Trong định thứ ba có lạc hơn hết, như diệu dục của trời hết sức khó bỏ. Định thứ ba, thứ tư do chi hành xả, tùy nơi đối tượng ứng hợp của nó, tuy đã dứt bỏ, nhưng vì sợ thoái mất, nên khởi lập niệm ngăn ngừa. Vì nơi địa khác không như vậy, nên không lập niệm. Nhưng thế dụng của niệm ở định thứ ba thì mạnh mẽ, không phải chỉ hỗ trợ xả mà cũng có thể hỗ trợ tuệ, có thể phòng bị chung cho lỗi của địa mình và người khác. Định thứ tư thì không như vậy, vì không có lỗi của địa mình. Do đấy, định thứ tư không lập chi tuệ. Hoặc tầm hỷ của định thứ nhất, thứ hai thì tán động trôi nổi, tuy có niệm, tuệ ngăn soi nhưng dụng yếu kém. Trong định thứ tư thì hai thứ kia bị xả che lấp, vì thuận với vô minh, nên dụng của tuệ không tăng. Nên tuệ chỉ ở nơi tĩnh lự thứ ba còn niệm thì chung cho hai định trên. Hoặc vì lỗi của lạc ở nơi định thứ ba là rất vi tế, nên không lập chi tuệ, vì không thể soi chiếu quán xét. Nếu không chiếu xét thì không có nhàm chán, mong cầu đối với lỗi lầm tai hại của địa mình, công đức của địa trên. Nhưng lỗi nơi tầm hỷ của địa dưới và lỗi của sắc nơi địa trên là thô, tuy đã soi chiếu khiến nhàm chán, mong cầu, nhưng chưa lấy làm khác biệt, nên nơi ba địa còn lại, tuệ không lập làm chi. Do lỗi của lạc trong định thứ ba là khó nhận biết, nên Đức Phật nói Thánh giả nên nêu bày, nên nhận biết: Do trong định này thì dụng của tuệ là hơn hết, vì có thể nhận biết lỗi vi tế, nên lập làm chi. Tuy tuệ của biên thứ tư cũng có thể thấu rõ, nhưng chỉ là tướng chung chưa phải là đặc sắc. Nghĩa là tuệ trong định kia cùng với lạc hệ thuộc nơi địa là không đồng, là đạo lìa nhiễm, quán chung về lỗi của địa dưới, không phải như tuệ của tự địa đồng một hệ thuộc, có thể quán riêng về lỗi mới gọi là kỳ lạc ít có, nên tự lập chi. Tuệ của địa trên thì không như vậy. Lại các người đã được tĩnh lự thứ ba, đối với biên thứ tư không phải đều tự tại, nên khi sắp lìa nhiễm của lạc thọ, tuệ kia không cùng lập làm thể của chi, nên chỉ nơi định thứ ba lập tuệ làm chi. Tuy nhiên khi hiểu rõ đúng đắn và đầu tiên đã lìa, đều nên phòng giữ thì scần lập chi niệm.

Vì sao khinh an lập làm thể của chi?

Vì công dụng của khinh an nơi định thứ nhất, thứ hai thì tăng, vì xúc trước đã không có phần vị thù thắng. Do thế dụng của khinh an này, nên tinh tấn, siêng năng không bỏ, có thể khiến cùng nối tiếp có khả năng gắng nhận hỗ trợ đẳng trì, khiến dẫn sinh đức hơn hẳn. Vì có dụng thù thắng, nên lập làm chi.

Danh xưng nội đẳng tịnh là nói về pháp gì?

Nói về thể của tầm, tứ dứt, tức là tín căn. Nghĩa là nếu chứng đắc tĩnh lự thứ hai, thì ở nơi địa định cũng có thể lìa bỏ, trong ấy có tín sâu xa sinh, gọi là Nội đẳng tịnh. Thế nên tuy nơi các địa đều có tín căn, nhưng có thể lập chi, thì chỉ nơi định thứ hai. Do hiện nay mới tin các pháp của địa định cùng với pháp của địa tán, đều cùng có thể lìa. Lại, tầm, tứ của tĩnh lự thứ nhất nhận biết về thân, như bùn đọng bị nung nóng, nên tín không sáng sạch.

Công dụng của hành xả nơi hai tĩnh lự sau thì tăng, đã lấn át đoạt lấy tín căn, nên không có nội tịnh. Nghĩa là do cảnh giác thì tín lực mới tăng, vì xả đối với đây là trái nhau, nên có thể lấn át, đoạt lấy. Tín là tướng tịnh, nên lập tên tịnh, như ngọc thanh thủy. Vì khiến tâm tịnh, vì nội tâm bình đẳng làm duyên nên sinh, do đấy tín căn gọi là Nội đẳng tịnh. Hoặc công đức hiện có của định thứ hai bình đẳng làm duyên dẫn sinh tịnh này, do đấy kiến lập tên gọi Nội đẳng tịnh. Không phải chỉ tầm tứ lặng dứt làm thể, mà các pháp này đều là thuộc về tâm, như thọ, tưởng, tư riêng có thể thật.

Có Bộ khác nói: Hỷ không phải là hỷ thọ mà hỷ là hành uẩn. Tâm sở pháp gồm thâu lạc trong ba định đều là hỷ thọ, nên hỷ, hỷ thọ, thể của chúng đều khác. Không phải lạc của ba định có thể gọi là hỷ thọ, vì nơi hai A-cấp-ma đã chứng minh, như nơi phần biện về điên đảo. Trong Khế kinh nói: Dần dần năm căn như ưu v.v… đều diệt hoàn toàn. Trong định thứ ba đã diệt hỷ hoàn toàn. Nơi định thứ tư thì diệt lạc cũng thế.

Lại, kinh khác nói: Nơi tĩnh lự thứ tư thì đoạn lạc, đoạn khổ, vì trước đó hỷ, ưu đã hết. Nên ở định thứ ba tất không có hỷ căn. Do hỷ thọ này là hỷ không phải tốt tươi.

Như trước đã nói: Trong tám đẳng chí thì bảy thứ trước đều đủ ba (Vị, tịnh, vô lậu). Đẳng chí thứ tám chỉ có hai, nghĩa là định nhiễm ô.

Vì sao nhận biết có?

Điều này do Khế kinh và Luận nói. Nghĩa là Khế kinh nói: Định tịnh vô lậu. Cũng đã nói Đức Thế Tôn chưa nói về tất cả định, nên biết có định nhiễm khác chưa nói. Bản luận cũng nói: Đối với tự địa của các tĩnh lự, tất cả cả tùy miên đã tùy tăng. Do các văn v.v… này, tức biết có định nhiễm, nên nói tĩnh lự gồm chung có hai thứ, do định và sinh có sai biệt. Định lại có hai là nhiễm và không nhiễm. Không nhiễm lại có hai là tịnh và vô lậu. Vô lậu lại có hai là học và vô học.

Sai biệt như thế, lý có rất nhiều. Trong tĩnh lự nhiễm là có chi không?

Có, nhưng không phải tất cả định nào không có, vì sao? Tụng nêu:

Nhiễm như tiếp từ đầu

Không hỷ lạc, nội tịnh

Chánh niệm, tuệ, xả niệm

Khác nói không an, xả.

Luận nói: Lại có một loại tùy theo tướng nói: Trong nhiễm của tĩnh lự đầu không có ly sinh hỷ lạc, không phải lìa phiền não mà được sinh. Tuy định nhiễm ô cũng tương ưng với hỷ, vì không phải nhân nơi ly sinh, nên không phải thuộc về chi. Định nhiễm ô này không chỉ nói lìa dục sinh hỷ, cũng nói là nhân nơi lìa nhiễm của tự địa sinh. Do trong Khế kinh trước đã nói thế này: Lìa các pháp dục ác bất thiện, rồi lại nói: Ly sinh hỷ lạc. Trong đây đã nói lần nữa về từ ly sinh là nhằm hiển bày cũng có hỷ lìa Hoặc của tự địa sinh. Vì làm rõ chi hỷ chỉ là tánh thiện, nên Đức Bạc-già-phạm đã cùng hợp với lạc để nói. Tương ưng với khinh an tất là thiện. Do đấy định nhiễm tất không có chi hỷ. Nên nhiễm của tĩnh lự đầu về chi chỉ có ba thứ. Trong nhiễm của tĩnh lự thứ hai không có nội đẳng tịnh. Vì chi ấy đã bị phiền não nhiễu loạn làm đục. Tuy các thế gian nói có tín nhiễm, nhưng vì thuộc về bất tín, nên không lập chi. Lạc là khinh an chỉ thuộc về tánh thiện. So sánh đồng với định đầu, nên không ngăn chận lần nữa. Vì thế tĩnh lự nhiễm này về chi chỉ có hai thứ. Định nhiễm thứ hai thừa nhận có chi hỷ, trong nhiễm của định đầu không có.

Lấy gì làm chứng?

Vì hỷ của định đầu nói là từ ly sinh. Vì trong định thứ hai không nói ly sinh. Nơi định nhiễm thứ ba không có chánh niệm, chánh tuệ. Vì hai thứ kia đã bị lạc nhiễm mê loạn. Trong định nhiễm ô, tuy có niệm, tuệ, nhưng được mang tên là thất niệm, bất chánh tri. Nên hai chi này trong định nhiễm không có. Hành xả chỉ là thuộc về pháp đại thiện, so sánh đồng với định thứ tư, nên ở đây không ngăn chận. Tức định nhiễm này về chi chỉ có hai thứ. Trong định nhiễm thứ tư không có xả niệm tịnh. Vì các thứ kia đã bị phiền não làm nhiễm ô. Do đấy định nhiễm thứ tư chỉ có hai chi.

Có Sư khác cho: Định nhiễm thứ nhất, thứ hai chỉ không có khinh an. Trong hai định nhiễm sau chỉ không có hành xả, vì thuộc về đại thiện. Thuyết kia nói trong nhiễm thì hỷ, tín, niệm, tuệ đều là thuộc về chi, vì đều là nhiễm chung.

Trong Khế kinh nói: Ba định có động, thứ tư thì không động.

Dựa nơi nghĩa nào để nói như thế? Tụng nêu:

Thứ tư gọi không động

Vì lìa tám tai họa

Tám thứ là tầm, tứ

Bốn thọ thở ra vào.

Luận nói: Ba tĩnh lự dưới gọi là có động, vì có tai họa. Tĩnh lự thứ tư gọi là không động, vì không có tai họa. Tai họa có tám. Tám tai họa đó là gì?

Là tầm, tứ, bốn thọ, hơi thở ra, hơi thở vào. Tám tai họa này nơi tĩnh lự thứ tư đều không có, nên Đức Phật, Thế Tôn nói là không động. Nhưng kinh chỉ nói tĩnh lự thứ tư, không bị tầm, tứ, hỷ, lạc làm động. Kinh theo mật ý để nói. Luận dựa nơi pháp tướng. Vì Đức Bạcgià-phạm có xứ nói: Đoạn lạc, đoạn khổ, vì trước đấy hỷ, ưu đã dứt, an trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ tư. Lại nói thân hành của định kia đều cùng diệt. Hơi thở vào ra gọi là thân hành. Nên biết định này không phải chỉ riêng tránh khỏi bốn tai họa động của tầm, tứ, hỷ, lạc.

Có Sư khác nêu: Tĩnh lự thứ tư như ngọn đèn trong nhà kín chiếu sáng mà không động, nên gọi là bất động.

Vì dụ nơi kinh nói, tầm tứ có lỗi gì mà cầu lặng dứt?

Tầm, tứ này có thể khiến tâm ở nơi cảnh giới định, tuy luôn buộc giữ niệm mà không tịch tĩnh. Như cành nhánh cây, dựa nơi thân cây mà trụ, vì cùng hợp với gió, nên lay động không ngừng. Các sư Du Già tuy không mong muốn ở nơi hành tướng của cảnh tâm nhanh chóng dễ giải thoát, nhưng vì sức của tầm tứ đã khiến tâm họ dong ruổi trôi đi, nên ở trong định thì tầm tứ có lỗi. Hỷ lạc ở nơi định cũng có thể làm tán động. Tức chỉ bốn thứ này cùng với định tương ưng mà có thể tán động tâm, nên kinh nói riêng. Nhưng thật sự thì hai thứ hơi thở vào ra và hai thọ khổ ưu cũng có thể làm tán động tâm, nên luận nói có tám.

Hai pháp tầm, tứ đã có lỗi này, thì không nên nói ở trong chi tĩnh lự. Kinh chỉ nên nói: Tầm tứ tịch tĩnh, vì sao lại cũng nói có tầm, có tứ?

Vì hiển bày tầm, tứ tuy tương ưng với định, nhưng ở trong định có thể làm tai họa, vì không nói thì không hiểu rõ, nên quyết định phải nói. Hoặc tầm, tứ này ở nơi định đầu đã làm tư lương, tạo ra đối trị phần xa đối với tầm dục ác. Về sau ở nơi thắng định mới làm tai họa. Nên nói công sức của tầm tứ là không vô ích. Có xả bỏ là hành theo mẫu mực, là phương tiện nơi pháp như thế. Nếu như xả bỏ thì định đầu tất nên nương dựa vào gì? Như muốn qua sông trước phải nương dựa nơi thuyền bè, sau đến bờ kia, lý nên xả bỏ hết. Nên Khế kinh nói: Dựa vào cõi sắc xuất ly cõi dục. Dựa nơi cõi vô sắc xuất ly cõi sắc. Dựa nơi đạo xuất ly cõi vô sắc. Nếu được Niết-bàn thì cũng xuất ly Thánh đạo. Hai pháp này cùng có cùng với một tâm cùng hợp. Như gió mạnh, yếu cùng hợp với một cành cây.

Nếu hai nghiệp này (Tầm, tứ) gọi là có thể làm tán động, thì vì sao nói chúng tương ưng với định?

Tâm định thô cạn, tầm tứ đã thúc đẩy mới có thể xuất ly các thứ nhiễm thô của cõi dục, nên tầm tứ này được cùng với định thứ nhất tương ưng. Do tương ưng này chưa là thanh tịnh, như ngọn đèn dầu cùng với mặt trời đều cùng duyên thấy sắc. Ngọn đèn nơi bóng tối nhỏ, ít đều cùng soi chiếu không sáng rõ. Ánh sáng của mặt trời có tác dụng lìa bóng tối, soi chiếu rõ ràng.

Như thế nên biết định của tĩnh lự thứ nhất tuy tạo ra sự việc của chính mình mà tầm tứ đều cùng chưa soi chiếu, nhưng không động như tĩnh lự thứ tư.

Nếu tầm ở nơi định có thể làm động loạn tâm, tức nơi định vô lậu này cũng đều cùng bị tai họa, thì vì sao kiến lập làm một đạo chi?

Đã nói tầm tứ kia có khả năng thúc đẩy chánh kiến. Hành giả ở nơi định, khi chưa tập quen, nên không thể nhận biết rõ đó là tai họa, nên ở nơi địa này không muốn chán bỏ. Nếu đã tập quen liền có thể nhận biết rõ trong tĩnh lự thứ nhất có tai họa này. Như nước lặng sạch, tức thấy trong ao trùng giấu mình, bên dưới cá có thể làm đục loạn. Hành giả đã nhận thấy trong tĩnh lự đầu hai pháp tầm tứ đã có thể làm động loạn, liền ở nơi một địa sinh chung chán bỏ. Nghĩa là xứ thô cạn này, lý nên xả bỏ.

Tầm tứ ở nơi tĩnh lự thứ nhất đã như vậy, thì hỷ v.v… ở nơi địa trên cũng thế.

Như ở tĩnh lự định, các thọ có sai biệt, thì sinh cũng vậy chăng?

Không phải thế. Vì sao? Tụng nêu:

Tĩnh lự sinh từ đầu

Có hỷ, lạc, xả thọ

Cùng hỷ xả, lạc xả

Chỉ xả thọ như tiếp.

Luận nói: Trong tĩnh lự sinh đầu tiên có ba thọ: (1) Hỷ thọ, tương ưng với ý thức. (2) Lạc thọ, tương ưng ba thức. (3) Xả thọ, tương ưng bốn thức.

Tĩnh lự thứ hai có hai. Nghĩa là hỷ cùng với xả tương ưng với ý thức. Không có lạc thọ. Vì không có thức khác. Vì tâm vui thích về thô.

Thứ ba có hai. Nghĩa là lạc cùng với xả tương ưng với ý thức.

Thứ tư có một. Nghĩa là chỉ xả thọ tương ưng với ý thức. Đó gọi là định sinh, thọ có sai biệt.

Ba tĩnh lự trên không có ba thức thân và không có tầm, tứ. Vì sao sinh nơi địa của tĩnh lự kia có thể thấy, nghe, xúc chạm và khởi biểu nghiệp? Không phải sinh nơi địa của tĩnh lự kia thì không có nhãn thức v.v…, chỉ vì không hệ thuộc địa kia.

Vì sao? Tụng nêu:

Sinh ba tĩnh lự trên

Khởi ba thức biểu tâm

Đều thuộc tĩnh lự đầu

Chỉ vô phú không khởi.

Luận nói: Sinh nơi ba địa trên, khởi ba thức thân và phát sinh biểu tâm đều hệ thuộc định thứ nhất. Sinh nơi địa trên, khởi địa dưới, như khởi tâm hóa, nên có thể thấy, nghe, xúc chạm và phát khởi biểu.

Bốn thứ này chỉ là vô phú vô ký. Không khởi nhiễm của địa dưới, vì đã lìa nhiễm. Không khởi thiện của địa dưới, vì địa dưới yếu kém.

HẾT – QUYỂN 38