LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 36

Phẩm thứ 8: BIỆN VỀ TRÍ, phần 2

Ở trong phần vị nào tu tập tức khắc bao nhiêu trí. Lại nên xét chọn.

Thế nào gọi là tu?

Nghĩa là hành tập hữu vi thiện khiến viên mãn, tự tại, không phải là nhiễm ô, vô ký, vì không có quả ái hơn hẳn. Không phải là vô vi thiện, vì không ở trong phần cùng nối tiếp, lại vô vi thì không có quả.

Đã biện về nghĩa tu. Trước hỏi, nên đáp. Lại, ở trong mười lăm tâm của kiến đạo, Tụng nêu:

Kiến đạo, nhẫn trí khởi

Tức vị lai kia tu

Ba loại trí gồm tu

Hiện quán biên tục trí

Không sinh từ địa dưới

Khổ, tập sau bốn diệt

Tự cảnh hành tướng đế

Chỉ chỗ đạt gia hạnh.

Luận nói: Trong vị kiến đạo tùy thuận khởi nhẫn trí đều tức loại kia ở nơi vị lai tu. Nhưng tu đủ các niệm trụ, hành tướng của tự đế.

Do đâu kiến đạo chỉ tu đồng loại? Vì đối tượng tạo tác, đối tượng duyên đều cùng nhất định có dị biệt.

Có thuyết nói: Chủng tánh này, vì trước chưa từng được, nên chỉ vào lúc có ba loại trí khổ, tập, diệt, thì có thể gồm tu tục trí hiện quán biên, vị lai. Vì ở biên sau hiện quán của mỗi mỗi đế mới có thể gồm tu, nên lập danh hiệu này. Do đấy, vị khác chưa có thể gồm tu, vì công việc đã thực hiện của tự đế là chưa viên mãn.

Có thuyết cho: Nếu hành giả này ở nơi vị pháp trí tu tập thì nên gọi là tục trí trong hiện quán. Kinh không nên lập tên gọi hiện quán biên.

Ba vị đã tu, vị nào là hơn, vị nào thì kém?

Nếu căn cứ ở sự cùng nối tiếp, thì vị sau hơn trước, vì nhân nơi thân tăng trưởng, khởi đắc kia. Nếu căn cứ theo cõi để nói, thì cõi trên đều hơn cõi dưới. Vì vậy nên người trước đã tu, hệ thuộc cõi sắc, thì cõi hơn, thân kém. Vị sau đã tu hệ thuộc cõi dục, thì cõi kém, thân hơn. Sự việc này có bốn trường hợp, như lý nên suy xét.

Vào thời có đạo loại trí, vì sao không tu trí này?

Vì trí này chỉ là quyến thuộc của kiến đạo, vì trí kia là thuộc về tu đạo, nên không thể tu. Ý này nói: Vì tu bảy xứ thiện làm chủng tử, nên kiến đạo được sinh. Vào lúc kiến đạo sinh, nói trí kia là quyến thuộc. Hoặc thế tục trí từ vô thủy đến nay, ở trong ba đế, từng biết đoạn chứng, vì chưa từng tu đạo, nên nay không tu. Hoặc do thời nay, vì kiến chân đạo, ngụy đạo xấu hổ, lẫn tránh, nên không phải là đối tượng tu. Hoặc nơi hiện quán biên mới tu trí này, vì đạo là vô biên, nên vị này không tu. Nghĩa là trong ba đế dựa nơi sự để hiện quán, cùng một hành giả đều được biên kia, tất không có công năng tu khắp đạo. Vì đạo của căn tánh khác không thể tu, nên đối với căn tánh của mình, tuy cùng được tu, nhưng trong trăm ngàn phần không khởi một. Tuy ở nơi vị kiến đạo chưa đoạn khắp tập, chưa chứng khắp diệt, nhưng ở nơi đương vị đoạn tập, chứng diệt, sự việc ấy đã chu toàn. Thời gian có đạo loại trí thì mê lầm nơi đạo đế, các đạo đối trị cũng không tu khắp, do căn của chủng tánh có nhiều phẩm.

Do đấy đối với ba đế, Đức Thế Tôn nói tiếng biên. Như trong Khế kinh nói có thân biên, có thân tập biên, có thân diệt biên. Từng không có kinh nói có thân đạo biên, vì không thể tu đạo, đến biên vực tận cùng, nên thế tục trí này là pháp không sinh. Nơi tất cả thời đều không cùng khởi. Nên trí này khởi, dựa vào thân, nhất định không sinh. Nghĩa là thân của vị tùy tín hành, tùy pháp hành cùng có làm chỗ dựa, dẫn trí ấy khởi. Ở nơi vị kiến đạo, vì trí này không cùng sinh, nên đã dựa vào thân trụ nơi pháp không sinh, vì chỗ dựa không sinh, nên trí này tất không sinh.

Nếu như vậy thì dựa vào gì để nói là có nghĩa tu?

Vì dựa nơi tu đắc, nên gọi là tu. Nghĩa là vào thời bấy giờ khởi đắc tự tại, vì duyên khác bị chướng ngại, nên thể không hiện tiền. Tức do nhân này nên gọi là đắc. Do chứng đắc kia, khởi tự tại, vì có các pháp đắc tức hiện ở trước, như tận trí v.v… Hoặc có các pháp trước đắc, sau hiện tiền, như vô sinh trí v.v… Hoặc có các pháp, đắc vĩnh viễn không hiện tiền, như trí này v.v… Hoặc có các pháp không đắc mà hiện tiền, như sắc ngoại v.v… Không có pháp của số hữu tình không đắc mà hiện tiền, nên tuy không sinh, nhưng vẫn có nghĩa tu.

Tùy ở nơi địa nào kiến đạo hiện tiền?

Có thể tu vị lai nơi địa mình, địa dưới. Nghĩa là thế tục trí này dùng bảy địa làm chỗ dựa, tức vị chí, trung gian, bốn tĩnh lự và cõi dục. Nếu dựa vào vị chí thì kiến đạo hiện tiền, có thể tu kiến đạo của một địa ở vị lai, tục trí của hai địa đến dựa nơi kiến đạo thứ tư hiện tiền, có thể tu kiến đạo của sáu địa ở vị lai. Biên khổ tập, tục trí của bảy địa, tu thuộc về bốn niệm trụ. Người tu biên diệt, chỉ là pháp niệm trụ. Tùy ở nơi biên hiện quán của đế nào để tu, tức dùng hành tướng này duyên nơi đế này làm cảnh. Nghĩa là nếu tu biên hiện quán của khổ đế, tức do duyên nơi bốn thứ hành tướng của khổ. Nếu hệ thuộc cõi dục thì duyên nơi khổ của cõi dục. Nếu hệ thuộc cõi sắc thì duyên nơi khổ đế của cõi trên. Nếu ở nơi biên hiện quán của tập đế để tu, tức do duyên nơi bốn thứ hành tướng của tập. Nếu hệ thuộc cõi dục thì duyên nơi tập của cõi dục. Nếu hệ thuộc cõi sắc thì duyên nơi tập đế của cõi trên. Nếu ở nơi biên hiện quán của diệt đế để tu, tức do duyên nơi bốn thứ hành tướng của diệt. Nếu hệ thuộc cõi dục thì duyên nơi diệt của cõi dục. Nếu hệ thuộc cõi sắc thì duyên nơi diệt đế của cõi trên.

Thế tục trí này chỉ do gia hạnh đắc, tức do gia hạnh của kiến đạo nên được. Thuộc về cõi dục là do tư tạo thành. Thuộc về cõi sắc là do tu tạo thành. Không phải do văn tạo thành, vì văn kia yếu kém. Do trí tăng nên lập tên trí. Nếu cùng với tùy hành thì dùng bốn uẩn của cõi dục, năm uẩn của cõi sắc làm tự tánh. Tiếp theo, ở trong vị tu đạo lìa nhiễm.

Tụng nêu:

Tu đạo sát-na đầu

Tu sáu hoặc bảy trí

Đoạn tám địa vô gián

Và đạo khác có dục.

Hữu đảnh, tám giải thoát

Đều tu nơi bảy trí

Đạo khác, vô gián trên

Thứ lớp tu sáu, tám.

Luận nói: Niệm đầu tiên của tu đạo nghĩa là đạo loại trí thứ mười sáu, khi ấy hiện tu hai trí. Nghĩa là đạo và loại tên gọi khác không phải là thể. Người chưa lìa dục, ở vị lai tu sáu, nghĩa là pháp và loại, khổ tập diệt đạo. Lìa dục tu bảy, tức thêm tha tâm trí. Đối trị nhiễm của xứ Hữu đảnh, không tu thế tục trí.

Người trước đã lìa dục nhập Thánh đạo, do đâu trong kiến đạo không tu tha tâm trí?

Do tha tâm trí thuộc về du quán đức, dựa nơi cùng tham dự đạo mới có nghĩa tu. Trong vị kiến đạo, vì quán lý của đế, gia hạnh rất nhanh chóng, nên không thể tu. Trong đạo vô gián, nghĩa cũng đồng với đây.

Nay, khi có đạo loại trí thứ mười sáu, vì cùng tham dự đạo gồm thâu, nên tu trí này. Đoạn dục do tu đạo đoạn gồm chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, bốn pháp trí thế tục, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu. Đoạn bảy địa trên, các đạo vô gián, bốn loại thế tục, diệt đạo pháp trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Gia hạnh đoạn dục, có dục thắng tấn, bốn pháp loại tục, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Trên đây, nơi vị lai đều tu bảy trí. Nghĩa là tục, pháp, loại, khổ, tập, diệt, đạo. Đoạn địa của xứ Hữu đảnh, tám giải thoát trước, bốn loại hai pháp, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Phần này ở nơi vị lai cũng chỉ tu bảy, nhưng trừ thế tục trí thêm tha tâm trí. Đoạn địa của xứ Hữu đảnh, chín đạo vô gián, bốn loại hai pháp, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu pháp loại khổ, tập, diệt, đạo, tức sáu. Đoạn dục do tu đạo đoạn, giải thoát thứ chín, bốn pháp trí thế tục, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Đoạn bảy địa trên, các đạo giải thoát, bốn loại thế tục, diệt đạo pháp trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Đoạn dục do tu đạo đoạn, đạo thắng tấn thứ chín, đoạn tám địa trên, các đạo gia hạnh, bốn pháp loại thế tục, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Đoạn bảy địa trên, tám phẩm của xứ Hữu đảnh, các đạo thắng tấn, bốn pháp loại thế tục và tha tâm trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vì trước đã tu nên cùng hiện chung ở trước.

Trên đây, ở nơi vị lai đều tu tám trí. Nghĩa là tục, pháp, loại, bốn đế, tha tâm. Bốn loại không thể đoạn nhiễm của cõi dục, hai pháp khổ, tập không phải là có thể đối trị cõi trên.

Do đâu khởi đối trị kia thì trí này ở nơi vị lai tu? Nếu thừa nhận gồm tu, không phải đối trị, thì lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh cũng nên gồm tu thế tục?

Vấn nạn này là phi lý, vì chỉ đồng đối trị, ở nơi vị lai cũng tu, không phải đã thừa nhận. Nghĩa là cũng thừa nhận có hệ thuộc với nhau nên tu. Như tu thế tục trí trong kiến đạo. Hoặc do sức của nhân đã hỗ trợ nên tu. Như khi đoạn dục, gồm tu bốn loại. Nơi phần vị đoạn nhiễm trên thì tu khổ, tập pháp. Nếu đoạn dục nhiễm thì không tu loại trí. Đoạn trên tức không tu hai pháp khổ, tập, thì dần dần được quả Bất hoàn, nên không cùng khởi loại trí hiện tiền. A-la-hán tức nên không khởi khổ, tập pháp trí trước đã được, vì đều đã bỏ. Người trước chưa được, vì không phải là đối tượng tu. Do căn cứ theo chủng loại, nếu trước đã được là sức của nhân đồng loại, dẫn trí đẳng lưu sinh. Trí này do trí kia trước đã dẫn nên ở nơi loại của trí kia lại có thể làm nhân, nên trí này sinh, vì sức của nhân đã hỗ trợ trí kia, tuy không phải là đồng đối trị, nhưng cũng tu vị lai.

Tiếp theo là biện về vị vô học do lìa nhiễm đắc.

Tụng nêu:

Vô học, sát-na đầu

Tuy chín hoặc tu mười

Vì căn độn, lợi khác

Đạo thắng tấn cũng vậy.

Luận nói: Niệm đầu tiên của vị vô học, nghĩa là đạo giải thoát thứ chín đoạn trừ Hoặc của xứ Hữu đảnh, khổ, tập, loại tận, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vì duyên nơi xứ Hữu đảnh, nên đạo thắng tấn nơi chín, mười trí tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Ở nơi vị lai, tùy chỗ ứng hợp tu chín tu mười. Nghĩa là người độn căn chỉ trừ vô sinh. Người lợi căn cũng tu trí vô sinh.

Tiếp theo biện về các vị khác tu trí nhiều, ít.

Tụng nêu:

Luyện căn đạo vô gián

Học sáu, vô học bảy

Học khác, sáu, bảy, tám

Nên tám, chín tất cả.

Tu xen chung vô gián

Học bảy ứng tám, chín

Đạo khác học tu tám

Ứng chín hoặc tất cả.

Thánh khởi công đức khác

Và các vị phàm phu

Đã tu trí nhiều ít

Đều như lý nên xét.

Luận nói: Vị hữu học luyện căn do các đạo vô gián, bốn pháp loại trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Ở nơi vị lai tu sáu. Pháp, loại, bốn đế vì giống với kiến đạo nên không tu. Vì thế tục trí có thể đoạn trừ chướng, nên không tu. Tha tâm trí, các đạo giải thoát, bốn pháp loại trí, tùy theo chỗ ứng hợp hiện tu.

Người chưa lìa dục, vị lai tu sáu là pháp, loại, bốn đế. Người đã lìa dục, vị lai tu bảy, nghĩa là thêm tha tâm trí.

Cơ Sư khác nói: Phần vị đạo giải thoát cũng tu các đạo gia hạnh thế tục. Bốn pháp loại thế tục tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Người chưa lìa dục, vị lai tu bảy. Đã lìa dục tu tám, nghĩa là thêm tha tâm trí. Các đạo thắng tấn, nếu chưa lìa dục, bốn pháp loại thế tục, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai cũng tu bảy. Nếu đã lìa dục, bốn pháp loại thế tục và tha tâm trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai cũng tu tám. Vị vô học luyện căn, do các đạo vô gián, bốn loại hai pháp, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu bảy là pháp, loại, bốn đế và tận, không tu thế tục, như đối trị nhiễm của xứ Hữu đảnh, nên năm nơi tám giải thoát trước, bốn loại, hai pháp, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu tám là pháp, loại, bốn đế, tha tâm và tận. Khổ tập loại tận của giải thoát thứ chín, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu chín. Khổ, tập, loại tận của đạo giải thoát sau cùng, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu mười.

Các đạo gia hạnh, hiện tu như nơi vị học, vị lai tu chín. Các đạo thắng tấn, người độn căn thì nơi chín trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai cũng chín. Người lợi căn nơi mười trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai cũng mười.

Vị học tu xen tạp, các đạo vô gián, bốn pháp loại thế tục, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu bảy. Các đạo giải thoát, chỉ bốn pháp loại, gia hạnh thêm thế tục trí. Các đạo thắng tấn lại thêm tha tâm trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai đều tám. Vô học tu xen tạp các đạo vô gián, hiện tu như học. Nơi vị lai tu căn độn tám, lợi căn chín. Các đạo giải thoát, chỉ bốn pháp loại, gia hạnh thêm thế tục trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tu: độn căn chín, lợi căn mười. Các đạo thắng tấn cùng với luyện căn là đồng. Vị học tu chung năm đạo vô gián, hiện tu tục trí, vị lai tu bảy. Túc trụ thần cảnh, hai đạo giải thoát, năm đạo gia hạnh, hiện tu tục trí, tha tâm giải thoát. Pháp loại đạo tục và tha tâm trí, tất cả thắng tấn và khổ, tập, diệt, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Trên đây thì nơi vị lai đều tu tám trí.

Vô học tu chung năm đạo vô gián, hiện tu như học. Vị lai tu: độn căn tám, lợi căn chín, giải thoát gia hạnh hiện tu như học. Vị lai tu độn căn chín, lợi căn mười. Các đạo thắng tấn cùng với luyện căn là đồng. Hai đạo giải thoát của thiên nhãn, thiên nhĩ, vì tánh vô ký, nên không gọi là tu. Thánh khởi bốn vô lượng còn lại v.v…, thuộc về do tu tạo thành. Thời gian của đức hữu lậu, hiện tại đều tu một thế tục trí. Hữu học nơi vị lai tu, chưa lìa dục tu bảy, đã lìa dục tu tám. Vô học nơi vị lai tu, độn căn chín, lợi căn mười. Trừ tâm vi vi, tâm này ở vị lai, chỉ tu thế tục. Nếu khởi công đức vô lậu khác thuộc về tĩnh lự, thì bốn pháp loại trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Thuộc về vô sắc, chỉ bốn loại trí, tùy chỗ ứng hợp hiện tu, vị lai tu đồng với hữu lậu ở trước. Phàm phu lìa nhiễm, hiện tu tục trí. Đoạn dục ba định, giải thoát thứ chín và dựa nơi định của bốn tĩnh lự căn bản, khởi đạo thắng tấn, gia hạnh lìa nhiễm, vị lai tu hai, nghĩa là thêm tha tâm. Số còn lại nơi vị lai chỉ tu thế tục. Khi tu năm thông, các đạo gia hạnh, hai đạo giải thoát, hiện tu tục trí, một đạo giải thoát hiện tu tha tâm, thế tục. Các đạo thắng tấn, cả hai tùy chỗ ứng hợp hiện tu. Vị lai tất cả đều tu hai thứ. Năm đạo vô gián, hiện tại, vị lai chỉ có tục. Dựa vào tĩnh lự căn bản, tu công đức khác, đều hiện tu tục, vị lai tu hai, chỉ thuận phần quyết trạch, tất không tu tha tâm. Do là quyến thuộc gần của kiến đạo. Dựa nơi địa khác, quyết định tu công đức khác, đều chỉ là thế tục, hiện tu, vị lai tu.

Các hành giả nơi vị lai tu là tu bao nhiêu địa? Các đắc đã khởi đều là tu chăng? Tụng nêu:

Các đạo dựa đấy đạt

Tu hữu lậu địa ấy

Vì lìa đắc, khởi này

Tu vô lậu tiếp dưới.

Chỉ đầu tận tu khắp

Đức hữu lậu chín địa

Sinh trên, không tu dưới

Từng đã đắc, không tu.

Luận nói: Các đạo dựa nơi địa này và khi đắc địa này, có thể ở nơi vị lai tu hữu lậu của địa này. Nghĩa là dựa vào địa này, khi thế tục Thánh đạo hiện ở trước, vị lai chỉ tu hữu lậu của địa này. Do pháp hữu lậu đã trói buộc địa rất chắc, khó tu pháp khác. Nên tùy dựa vào địa nào để lìa nhiễm của địa dưới. Khi giải thoát thứ chín hiện ở trước, vị lai cũng tu các công đức hữu lậu đã đạt được của cận phần, căn bản thuộc địa trên. Lìa trói buộc của địa dưới, tất được địa trên. Thánh vì lìa địa này và khi đắc địa này tức gồm các đạo trong địa này hiện khởi, đều có thể tu đạo này và vô lậu của địa dưới. Nghĩa là tùy thuận hữu lậu, vô lậu của địa nào, các đạo như gia hạnh v.v… đang hiện ở trước, vì muốn đoạn trừ phiền não của địa này, nên vị lai tu địa này và vô lậu của địa dưới. Cho đến đối với nhiễm của địa trên, đồng có thể trị. Tuy Thánh đạo của địa dưới khi đoạn trừ phiền não, các biên của địa trên có công năng đồng đối trị. Nhưng do hữu lậu đã trói buộc địa rất chắc, nên khi chưa lìa địa dưới, thì chưa thể tu địa kia.

Có thuyết nói: Cũng tu địa kia, khởi địa kia đoạn trừ mà đắc. Nên tùy dựa vào địa nào để lìa nhiễm của địa dưới. Khi đạo giải thoát thứ chín hiện ở trước, thì nơi vị lai cũng tu các công đức vô lậu đã đạt được của địa trên và địa dưới. Khi thế tục Thánh đạo tùy khởi địa này hiện ở trước, thì ở vị lai đều tu công đức vô lâụ của địa này và địa dưới. Chỉ khi tận trí đầu hiện ở trước, thì sức có thể tu khắp vô lượng công đức thù thắng như quán bất tịnh v.v… do văn tư tu tạo thành thuộc về ý địa của chín địa hữu lậu. Nghĩa là tùy theo địa nào khi tận trí hiện tiền thì ở nơi vị lai tu chung địa trên dưới của tự địa.

Do đâu chỉ khi tận trí đầu này thì sức có thể tu khắp các đức hữu lậu?

Do mới có thể dứt diệt, từ thời vô thủy đến nay, tất cả phiền não oán đối của căn thiện như có thể hàng phục các đối tượng cùng oán đối của đất nước, khiến tất cả đều cùng đến chúc lành, xưng tốt. Lại, phiền não trói buộc đã đoạn dứt hoàn toàn. Như chủ thể trói buộc đoạn trừ đối tượng bị trói buộc khiến khí thông. Lại, tâm vương kia lên vị tự tại, tất cả pháp thiện khởi đắc đều đến chầu. Ví như Đại vương thọ pháp quán đảnh lên ngôi vua thì tất cả các tiểu vương đều đến triều cống. Nhưng ở đây sinh lên địa trên, tất không tu địa dưới. Nghĩa là thân ở cõi dục đắc A-la-hán, thì tu chung căn thiện của chín địa nơi ba cõi. Đến sinh nơi xứ Hữu đảnh thì chỉ tu một địa. Nói tận trí đầu tiên là để làm rõ đạo giải thoát thứ chín đã lìa xứ Hữu đảnh và năm vị luyện căn, đều bỏ đạo trước mới được quả. Đối với biên của ba loại trí thuộc vị kiến đạo, tuy cũng có thể tu thế tục trí của tự địa và địa dưới, như trước đã nói, nên ở đây không luận nữa.

Các thứ tu đã nêu, chỉ trước chưa được, nay khởi, nay được, là chủ thể, đối tượng tu. Nghĩa là nếu thời trước chưa được, nay được, do dụng công được mới là đối tượng tu. Nếu pháp khi trước từng được rồi từ bỏ, nay tuy được trở lại, nhưng không phải là đối tượng tu, vì không phải tạo ra sự khó nhọc mà chứng đắc. Nếu ở nơi lúc trước chưa được mà khởi, rất dụng công mới khởi, vì uy lực hơn hẳn, nên ở đây vị lai mới có thể tu công đức. Nếu trước đã được, nay khởi hiện tiền, thì hành giả kia không thể ở nơi vị lai tu công đức. Không phải nhiều công sức khởi mà uy lực yếu kém. Vì dụng của tu là ngừng dứt, nên không thể ở vị lai tu.

Nếu từng được hiện tiền, có thể tu vị lai, thì khi Đức Bạc-giàphạm đã được tận trí, tức nên chưa tu đủ tất cả công đức.

Vì đã chứng đắc đủ, nên lại tiến tu, tức đồng với công đức không viên mãn của hai thừa. Vì chỉ căn cứ theo đắc để nói, nên gọi là tu. Không phải như thế. Vì sao?

Tu có bốn thứ: (1) Tu đắc. (2) Tu tập. (3) Tu đối trị. (4) Tu trừ bỏ.

Bốn thứ tu như thế, dựa nơi pháp nào để lập? Tụng nêu:

Lập tu đắc, tu tập

Dựa pháp hữu vi thiện

Nương các pháp hữu lậu

Lập tu trừ, tu trị.

Luận nói: Các công đức chưa từng được hiện tiền và được công đức khác ở vị lai, vì tu xen tạp đạt được, nên đều gọi là tu đắc. Từng được công đức chưa từng được hiện khởi, vì hiện đang tu tập, nên đều gọi là tu tập. Hai thứ tu này chỉ căn cứ ở hữu vi thiện để lập. Vị lai chỉ tu đắc, hiện tại đủ hai tu. Đối với pháp như thân v.v…, vì đắc là chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị là thân v.v…, gọi là tu đối trị. Vì thế nên ở nơi thân v.v…, khi được đối trị, tức gọi là tu thân v.v… Pháp loại hữu lậu khác cũng nên như thế. Duyên nơi cảnh như thân v.v…, vì phiền não được đoạn dứt, nên nói các pháp như thân v.v… gọi là tu trừ bỏ. Nên khi duyên nơi thân cùng phiền não đã đoạn v.v… cũng gọi là tu thân v.v… Pháp hữu lậu còn lại, so sánh cũng nên như thế. Hai thứ tu này chỉ dựa nơi pháp hữu lậu để lập, nên thiện hữu lậu thì đầy đủ bốn tu.

Vô lậu, hữu vi, pháp hữu lậu khác, như thứ lớp đều đủ hai tu trước sau. Có người ở trong đây căn cứ theo nghĩa sẽ tu, phân biệt các pháp tu đủ nhiều ít.

Có pháp đủ bốn tu, gọi là nên tu. Có pháp đủ ba. Có pháp đủ hai. Có pháp đủ một. Có pháp hoàn toàn không có. Nghĩa là hữu lậu thiện, khi chưa vĩnh viễn đoạn. Có thể được, có thể sinh đầy đủ bốn thứ. Vì hữu lậu thiện này chưa vĩnh viễn đoạn, nên sẽ đủ tu đối trị, trừ bỏ. Do có thể được, nên sẽ đủ tu đắc. Vì là có thể sinh, nên sẽ đủ tu tập. Đã đắc có thể sinh thì đủ ba, trừ tu đắc. Có thể được không sinh thì đủ ba, trừ tu tập. Đã được, không sinh và không thể được rồi sinh thì đủ hai. Nghĩa là tu đối trị, trừ bỏ. Nhiễm và vô ký chưa đoạn cũng như vậy. Nếu khi thiện hữu lậu đã vĩnh viễn đoạn, có thể được, có thể sinh, thì đủ hai thứ tu đắc và tu tập. Có thể được không sinh, thì đủ một, nghĩa là tu đắc. Đã được có thể sinh thì đủ một là tu tập. Hữu vi vô lậu nên biết cũng như vậy.

Trừ các thứ trước đã nói thì đều là hoàn toàn không có. Nghĩa là trong pháp vô lậu đã được không sinh. Nếu pháp không sinh, không trụ, không thân, thì chỉ do đắc, nên gọi là tu, tức nên phải thừa nhận trạch diệt, cũng gọi là tu, vì không có sai biệt.

Vấn nạn này là phi lý, vì pháp đồng loại kia đã trụ trong thân. Nghĩa là pháp không sinh, tuy không trụ nơi thân, nhưng đồng loại trụ nơi thân gọi là tu, thì không có lỗi. Lại, không sinh kia do đắc làm quả trụ. Nghĩa là nơi đời vị lai, không sinh pháp thiện, do khiến được sinh, biểu hiện làm nghĩa của quả trụ. Nói ngã v.v… thiếu duyên không sinh, không phải cho thời nay, không nhờ chiêu cảm dẫn sinh. Trạch diệt khác với đây tức không thể dùng làm so sánh. Lại, đời vị lai không sinh pháp thiện, cũng có sức của nhân gồm thâu tạo lợi ích cho hiện thân. Trạch diệt thì không như vậy, nên không có nghĩa tu. Lại do trạch diệt, chỉ là quả. Nghĩa là tu vốn vì đạt được quả thù thắng. Vì diệt thì không có quả, tức không nên tu. Lại, do trạch diệt không có tăng giảm. Nghĩa là pháp có thể tu dựa vào dưới đến giữa, dựa vào giữa đến trên. Trạch diệt thì không như vậy, đối với tu là không có công dụng, nên không thể tu.

Như thế là đã biện về các trí có sai biệt. Trí đã tạo thành đức nay sẽ hiển bày chỉ rõ. Ở đây, trước là biện về đức không chung của Phật. Lại, khi mới thành Phật thì ở nơi vị tận trí là tu. Pháp không chung của Phật có mười tám thứ.

Những gì là mười tám?

Tụng nêu:

Mười tám pháp bất cộng

Tức mười lực v.v… nơi Phật.

Luận nói: Mười lực, bốn vô úy, ba niệm trụ và đại bi của Phật, như thế hợp gọi là mười tám pháp bất cộng, chỉ ở nơi chư Phật lúc được tận trí thì tu. Vì Thánh khác không có, nên gọi là không chung (bất cộng).

Lại, mười lực của Phật có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Lực xứ, phi xứ mười

Nghiệp tám, trừ diệt, đạo

Căn định, giải cõi chín

Khắp nẻo chín hoặc mười.

Túc trụ tử sinh tục

Tận sáu hoặc mười trí

Túc trụ tử sinh trí

Nương tĩnh lự thông khác.

Thân Phật Thiệm bộ nam

 Nơi cảnh không trở ngại.

Luận nói: Mười lực của Phật gồm:

1. Trí lực của xứ, phi xứ: Dùng đủ mười trí của Như Lai làm tánh. Công năng nhận biết về tự tánh của tất cả pháp, về lý nhất định là có, gọi là trí xứ. Công năng nhận biết tự tánh của tất cả pháp, về lý nhất định là không có, gọi là trí phi xứ. Trí này duyên chung nơi cảnh của tình, phi tình, so với nhất thiết trí đều không trái nhau, e đối với chỗ lược nói, ít công sức, khó tỏ ngộ, nên trong đây lại trách ra chín trí còn lại.

2. Trí lực của dị thục nơi nghiệp: Dùng tám trí làm tánh, trừ diệt trí, đạo trí. Nghĩa là khéo phân biệt loại nghiệp như thế đã chiêu cảm các quả dị thục của loại như vậy. Vì trí không bị ngăn ngaị, gọi là trí lực của dị thục nơi nghiệp. Hoặc gọi là trí lực của tự nghiệp. Nghĩa là khéo phân biệt loại quả như thế là nghiệp lực do tự mình gây tạo đã chiêu cảm không phải là vợ con v.v…, có thể trao cho hay đoạt lấy. Loại nghiệp như thế tất chiêu cảm tự quả không thể chuyển đổi. Vì trí không bị trở ngại, nên gọi là trí lực của tự nghiệp (3) Trí lực của đẳng trì, đẳng chí nơi tĩnh lự giải thoát.

3. Trí lực của căn thượng hạ.

4. Trí lực của vô số thắng giải.

5. Trí lực của vô số giới.

Bốn lực như thế đều là tánh của chín trí, chỉ trừ diệt trí. Nghĩa là nhận biết như thật về tự tánh của các tĩnh lự v.v…, gọi là đắc phương tiện, thâu giữ vị tịnh, vô lậu, thuận với phần quyết trạch thoái trụ tiến v.v…, vì trí không bị ngăn ngạị, nên gọi là trí lực của tĩnh lự v.v… Về tướng của tĩnh lự nơi phẩm Định sẽ biện.

Nếu nhận biết như thật về các loại hữu tình, có thể đạt đến phẩm căn có sai biệt của đức thù thắng, vì trí không bị trở ngại, nên gọi là trí lực của căn thượng hạ. Tuy có trung căn, nhưng đối với hơn kém là thuộc về phần kém hơn, nên không hiển bày riêng. Trung căn này gọi là nói về pháp gì? Nghĩa là nói về kẻ đoạn căn thiện như tín v.v…, trong sự cùng nối tiếp chung, cũng có pháp thiện như tín v.v… của quá khứ, vị lai. Hoặc nói về ý v.v… Nếu nhận biết như thật về hỷ lạc có sai biệt của các loại hữu tình, vì trí không bị ngăn ngại, nên gọi là trí lực của vô số thắng giải, vì thắng giải của hỷ lạc gọi là sai biệt.

Nếu nhận biết như thật về đời trước của các loại hữu tình, từ vô thủy đã thường hành tập tạo thành chí tánh tùy miên và các pháp tánh có vô số sai biệt, vì trí không bị ngăn ngại, nên gọi là trí lực của vô số giới. Nên biết trong đây giới cùng với chí tánh tùy miên pháp tánh gọi là sai biệt.

Bốn lực như thế, vì đều duyên nơi hữu vi, nên trong mười trí chỉ gồm thâu chín trí.

1. Trí lực của hành đi đến khắp. Tiếng hoặc làm rõ về nghĩa này, có hai lối: Nếu cho chỉ duyên nơi chín trí trừ diệt của các đạo có thể đi đến. Hoặc cho là gồm duyên nơi mười trí làm tánh của đạo đã hướng đến quả. Nghĩa là nhận biết như thật về nhân quả của sinh tử và nhận biết tận đạo, vì trí không bị ngăn ngại, nên gọi là trí lực của hành đi đến khắp.

2. Trí lực của túc trụ tùy niệm.

3. Trí lực của sinh tử.

Hai lực như thế đều là tánh của tục trí. Về tướng của hai lực này có sai biệt. Nghĩa là nhận biết như thật về túc trụ có sai biệt nơi quá khứ của mình và của người khác, vì trí không bị ngăn ngại, nên gọi là trí lực thứ tám.

Nếu nhận biết như thật về các loại hữu tình, ở nơi đời vị lai các hữu nối tiếp sinh, vì trí không bị ngăn ngại, nên gọi là trí lực thứ chín.

Biện rộng về hai lực này như trong sáu thông.

4. Trí lực của lậu tận. Tiếng hoặc cũng làm rõ nghĩa có hai đường: Nếu cho, chỉ duyên nơi lậu tận làm cảnh, là sáu trí trừ đạo, khổ, tập, tha tâm. Nếu cho, gồm duyên nơi phương tiện lậu tận, thì dùng mười trí làm tánh.

Lý tức nên như thế, vì trong phần biện về tướng, nói đối với tận và vì tận, trí không hề bị ngăn ngại, nên hai thứ đều cùng gọi là trí lực của lậu tận.

Ba lực sau này tức là ba thông, do trong sáu thông thì ba thông này là thù thắng. Ở nơi vị vô học được lập làm ba minh. Tại nơi thân Như Lai cũng gọi là lực. Thần cảnh, thiên nhĩ, nếu như ở nơi thân Phật cũng không có dụng lớn, nên không gọi là lực. Lại như thiên nhãn có thể nhận thấy dị thục trong nẻo thiện, ác của các hữu tình có sai biệt. Do đấy có thể dẫn trí thù thắng sinh. Cũng nhận biết rõ đúng là có thể chiêu cảm nghiệp kia. Vì vậy kiến lập tên gọi trí tử sinh. Thần cảnh, thiên nhĩ không có dụng lớn này, thế nên hai thứ kia không lập làm lực. Tuy nhiên, không nêu bày riêng về tha tâm lực. Vì nghĩa đã gồm thâu ở trong các lực như căn v.v… Vì trong căn v.v… của người khác có tâm tâm sở. Lại, Đức Bạc-già-phạm gồm đủ nhất thiết trí. Đối với các luận v.v… về công xảo cũng được tự tại, nhưng đối với Phật sự thì ngang đây là đã thành. Trí khác ở trong ấy không có dụng hơn hẳn riêng. Thế nên tuy có cũng không nêu riêng. Chỉ dựa nơi đối tượng nhận biết của mười thứ nhận biết khắp, Đức Phật đối với những việc nên làm đều viên mãn.

Những gì gọi là mười thứ đối tượng nhận biết?

Nghĩa là trong các pháp nghĩa nhân, phi nhân, phần nhiều là nghiệp quả có sai biệt của địa tán, phẩm loại công đức của địa định thì không đồng. Vì căn giải giới của các hữu tình được hóa độ có khác nhau. Chủ thể đối trị, đối tượng đối trị nơi nhân quả sai biệt, đời trước, đời sau trải qua là không đồng. Phương tiện lìa nhiễm không nối tiếp có khác. Chỉ do nhận biết Phật sự này đã thành. Số còn lại nếu như có không, cũng không khiến có tổn ích, nên chỉ mười thứ được gọi là Lực.

Lại, Đức Phật quán sát hữu tình của đối tượng hóa độ, thiết lập giáo ứng hợp căn cơ chỉ cần mười trí. Nghĩa là do trí đầu tiên quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, ở trong các thừa có thể không thể nhận lãnh khác nhau. Do trí thứ hai quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, ở trong sự cùng nối tiếp nghiệp chướng có sai biệt. Do trí thứ ba quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, ở nơi tĩnh lự v.v… có vị, không có vị, phiền não làm chướng ngại, nhẹ nặng có sai biệt. Do nhận biết hai nhân này, cũng nhận biết về dị thục chướng. Do trí thứ tư quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, công năng hướng đến phẩm thanh tịnh có sai biệt. Do trí thứ năm quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, gia hạnh đối với phẩm chứng tịnh có sai biệt. Do trí thứ sáu quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, đối với phẩm chứng tịnh chí tánh bẩm thọ có riêng khác. Do trí thứ bảy quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, các pháp đã thi hành là có ích, vô ích, theo vô số thứ sai biệt để chánh quán tu chỉ. Do trí thứ tám quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, trong đời quá khứ đã tập hợp có sai biệt. Do trí thứ chín quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, trong đời vị lai kiết sinh có riêng khác. Do trí thứ mười quán xét hữu tình nơi đối tượng hóa độ, đã chứng đắc giải thoát theo phương tiện có khác.

Đối với mười trí này, nếu tùy theo đấy thiếu một, tức không gồm đủ sự việc hóa độ hữu tình, phần nhiều lại không có công dụng, nên không tăng giảm.

Đã biện về tự tánh. Về dựa nơi địa riêng: Nghĩa là trí thứ tám, thứ chín dựa nơi bốn tĩnh lự. Tám trí còn lại thì dựa chung nơi mười một địa khởi. Tức cõi dục, bốn tĩnh lự, vị chí, trung gian và bốn vô sắc, gọi là mười một địa. Các địa của đức hơn hẳn gồm chung có từng ấy.

Đã biện về phần dựa nơi địa. Dựa nơi thân riêng khác: Đều dựa nơi thân Phật của người nam thuộc châu Thiệm bộ. Vì chỉ thân này mới có thể làm đối tượng nương dựa của lực.

Mười trí như thế hàng Nhị thừa cũng có, vì sao ở nơi Đức Phật mới thọ nhận tên lực?

Phần thọ nhận tên lực, nghĩa là chuyển vận vô ngại. Trí Phật đối với cảnh thì chuyển vận vô ngại, nên được gọi là Lực. Người khác thì không như vậy. Vì các hàng nhị thừa hãy còn không thể nhận thấy các hữu tình cùng nối tiếp thuận với phần giải thoát thiện, huống chi lại có thể nhận biết các pháp vi tế sâu xa khác. Như Tôn giả Xá-lợi-tử đã bỏ người cầu hóa độ, không thể quán biết chim bồ câu bị chim ưng đuổi bắt. Hai đời trước sau sinh nhiều, ít v.v… Tôn giả Đại Mục-kiền-liên không thể quán thấy gió nghiệp đã dẫn sinh các quỷ có riêng khác. Thế nên thiên nhãn thông v.v… của hàng nhị thừa quán cõi xa gần, so với Phật là có khác. Vì không phải là vô ngại, nên không gọi là Lực.

Hàng nhị thừa cùng với Phật, lậu tận đã đồng. Trí kia do đâu chỉ nơi Đức Phật được gọi là lực?

Chỉ Đức Thế Tôn có trí thấu đạt khắp về tướng riêng khác nơi tất cả lậu tận của hữu tình. Nghĩa là Đức Bạc-già-phạm đối với tất cả phẩm loại lậu tận có sai biệt của các hữu tình. Trí nhận biết không có ngăn ngại, hàng nhị thừa thì không như vậy. Thế nên danh xưng lực chỉ thuộc về Phật.

Lại, chỉ trí của chư Phật thì dũng mãnh, nhanh nhẹn.

Thế nào là dũng mãnh, nhanh nhẹn?

Do trí lực của Phật có thể đoạn trừ nhanh chóng phiền não và tập khí. Như theo sức lực mạnh yếu, Bổ-đặc-già-la cầm dao bén, lụt chặt đứt các thứ cây cỏ v.v…

Tướng uẩn của các loại hữu tình là không riêng khác. Đức Phật vì sao quán có vô số thứ giới?

Tướng uẩn của các loại hữu tình tuy đồng nhưng ở trong đó không phải là không có sai biệt. Nghĩa là thể của các uẩn kia tuy không khác, nhưng có vô lượng phẩm loại chẳng đồng. Đức Phật nhận biết như lượng đều không có ngăn ngại, nên Đức Thế Tôn có được trí lực của vô số giới. Hoặc các Như Lai có danh xưng cao xa, hy hữu, diệu dụng của trí tuệ là vô biên, chỉ Phật mới có thể nhận biết, không phải là đối tượng lường xét của người khác. Ở trong chỗ còn lại đã rõ là không có tướng riêng, thì sao còn lạ khi Đức Như Lai có thể nhận biết tướng riêng?

Đã biện về lãnh vực tâm lực của chư Phật. Sẽ biện về thời còn là Bồ-tát, cũng đã thành tựu thân lực. Tụng nêu:

Sức thân Na-la-diên

Hoặc tiết tiết đều thế

Bảy mười tăng như voi

Xúc xứ ấy làm tánh.

Luận nói: Lực sinh thân của Phật ngang bằng với Na-la-diên.

Có Sư khác nói: Mỗi mỗi chi tiết của thân Phật đều gồm đủ lực Na-la-diên. Lý thật thì thân lực của chư Phật là vô biên, cũng như tâm lực, có thể giữ gìn công đức lớn của Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng. Nơi bậc Đại giác, Độc giác và Chuyển luân vương, các chi tiết cùng liên kết nhau, như thứ lớp ấy, giống như rồng cuộn ngược liên kết thành vòng xích gắn liền nhau. Nên ba lực cùng đối chiếu có hơn, kém.

Lực Na-la-diên về lượng thì thế nào?

Mười mười tăng gấp bảy sức như voi v.v… Nghĩa là voi thường, Hương tượng, Ma-ha-nặc-kiện-na, Bát-la-tắc-kiến-đề, Phạt-lãng-già, Già-nộ-la, Na-la-diên. Lực sau sau thì tăng gấp mười lần trước trước.

Có thuyết cho: Tăng gấp sáu, mười lần ở trước nửa thân lực của Na-la-diên. Lực này tăng gấp một ngàn lần thành Na-la-diên.

Có Sư khác nêu: Lượng này bằng một ngàn sức Thiên tượng vương Ái-la-phạt-noa. Sức của tượng vương này lượng ấy là thế nào?

Trời Ba mươi ba sắp đi dạo nơi thượng uyển. Tượng vương nhận biết xong bèn hóa làm các đầu có vô số thứ trang nghiêm đi đến cung trời. Quyến thuộc của chư thiên, số lượng có nhiều ngàn, cưỡi lên thân đầu voi xong, tức thì bay lên không, như mang theo lá cây hoa, nhanh chóng đến vườn vui chơi, tùy ý hoan lạc. Lực của thiên đại tượng vương là như thế. Lực này tăng gấp một ngàn lần là bằng Na-la-diên. Ở trong các thuyết chỉ phần nhiều là hợp lý.

Thân lực như thế dùng xúc xứ làm tánh. Lực này nói chung tức nên là các xúc có sai biệt.

Có thuyết nói: Chỉ là đại chủng có sai biệt.

Có thuyết cho: Là xúc tạo, lìa ngoài bảy tức có.

Có thuyết nêu: Lực là nặng, kẻ yếu là nhẹ.

Như thế gọi là lực sinh thân của Phật.

Tướng bốn vô úy của Phật phân biệt như thế nào?

Tụng nêu:

Bốn vô úy thứ lớp

Đầu mười hai, bảy lực.

Luận nói: Bốn vô úy của Phật, như kinh đã nói rộng:

1. Vô úy chánh đẳng giác dùng mười trí làm tánh, cũng như lực thứ nhất.

2. Vô úy lậu vĩnh viễn dứt hết, tánh là sáu trí, mười trí, như lực thứ mười.

3. Vô úy nói về pháp chướng, dùng tám trí làm tánh, như lực thứ hai.

4. Vô úy nói về đạo xuất ly, tánh là chín trí, mười trí, như lực thứ bảy.

Do đâu vô úy của chư Phật chỉ có bốn?

Chỉ do lượng vô úy này đã hiển bày về đức viên mãn nơi tự tha của Phật, Thế Tôn, đều cùng cứu cánh. Nghĩa là vô úy thứ nhất hiển bày về đức viên mãn nơi tự trí của Phật Thế Tôn.

Vô úy tứ hai hiển bày về đức viên mãn nơi tự đoạn của Phật, Thế Tôn. Hai vô úy này nêu rõ về đức viên mãn thuộc tự lợi. Vì nhằm làm rõ đức viên mãn thuộc lợi tha của Thế Tôn, nên lại nói hai vô úy sau.

Vô úy thứ ba là ngăn chặn hành tà đạo.

Vô úy thư tư là khiến hướng đến chánh đạo. Nghĩa là ở nơi xứ xứ, Đức Phật vì các đệ tử giảng nói về pháp chướng ngại, khiến nên đoạn trừ, tức là khiến tu phương tiện của đoạn đức. Lại, ở nơi xứ xứ Đức Phật vì các đệ tử thuyết giảng về đạo xuất ly khiến chánh hành, tức là khiến tu phương tiện của trí đức.

Hai vô úy này là hiển bày về đức viên mãn thuộc lợi tha của Phật. Chỉ do bốn vô úy này, tùy đối tượng ứng hợp của chúng, đã làm rõ đức viên mãn của trí đoạn thuộc tự tha của Phật, đều đạt đến cứu cánh, nên chỉ lập bốn thứ.

Vì sao có thể nói vô úy tức là trí?

Nên nói vô úy là do trí tạo thành. Lý thật tức nên như vậy. Song vì nhằm hiển thị về vô úy, dùng trí làm nhân gần gũi, thế nên căn cứ theo trí để phát ra thể của vô úy.

Phàm là vô úy, nghĩa là không khiếp sợ. Do có trí nên không khiếp sợ người khác. Vì thế nên trí được làm tánh nhân của vô úy. Chỉ bốn diệu trí của Phật là nhân của bốn vô úy. Nghĩa là diệu trí của các Như Lai đối với tất cả tướng của tất cả pháp là nhân của vô úy thứ nhất.

Nếu diệu trí của các Như Lai đã đoạn trừ hết thảy phiền não và tập khí, là nhân của vô úy thứ hai.

Nếu diệu trí của các Như Lai nhận biết chúng đệ tử có tổn giảm, có tăng ích, là nhân của hai vô úy sau. Hoặc thể của vô úy tức bốn diệu trí. Khiếp sợ, gọi là úy (sợ hãi). Sợ này tức đối với pháp, không có thấu đạt, là nghĩa mang tâm lo sợ. Đối với sợ hãi này, trí có khả năng đối trị gần. Cùng với úy trái nhau, nên gọi là vô úy.

Há không phải là không phải vô trí tức là thể của úy? Vì sao nói thể của trí tức là vô úy?

Vấn nạn này là không đúng. Vì trí làm đối trị gần cho nhiều pháp, tức như không nghi. Nghĩa là trí như có thể đối trị gần vô trí. Cũng đối với sợ hãi có khả năng đối trị gần, nên được danh xưng trí cũng gọi là vô úy. Như đối trị vô trí, cũng có thể đối trị nghi, nên được danh xưng trí, cũng gọi là quyết định. Đã đối trị vô trí tuy không phải tức nghi, nhưng trí không có nghi, tên gọi hai mà thể là một.

Như thế, vô trí tuy cùng với sợ là khác, nhưng tên gọi vô úy tức là nói về thể của trí, vì một thiện có thể đoạn trừ nhiều pháp ác.

Có thuyết cho: Vì vô trí cũng gồm thâu thể của sợ, nên ở trong đây, không nên nêu vấn nạn.

Lực cùng với vô úy có sai biệt gì?

Ở đây không có Thể sai biệt, vì đều cùng có trí. Nhưng đối với thể của trí, có nghĩa riêng, gọi là lực. Lại dựa nơi nghĩa riêng để lập tên vô úy. Nghĩa là nhân không khuất phục, gọi là lực. Nhân không khiếp sợ, gọi là vô úy. Hoặc an lập đầu tiên, gọi là lực. Lập xong không động, gọi là vô úy. Hoặc không bị người khác khuất phục, gọi là lực. Có thể hàng phục người khác, gọi là vô úy.

Có Sư khác nêu: Ví như lương y nhận biết khắp các phương thuốc, gọi là lực. Khéo chữa trị lành các chứng bệnh, gọi là vô úy.

Có thuyết nói: Mạnh mẽ, nhanh nhẹn, gọi là lực. Dũng mãnh, không khiếp sợ, gọi là vô úy.

Hai thứ nghĩa như thế cũng có riêng khác. Nghĩa là nghĩa hoàn thành sự việc là nghĩa của lực. Nghĩa không khiếp sợ là nghĩa vô úy.

Ba niệm trụ của Phật về tướng có dị biệt như thế nào?

Tụng nêu:

Ba niệm trụ, niệm tuệ

Duyên thuận trái cùng cảnh.

Luận nói: Ba niệm trụ của Phật, như kinh đã nói rộng. Các chúng đệ tử hoàn toàn cung kính, có thể thọ hành đúng đắn. Như Lai duyên nơi đấy, không sinh hoan hỷ, xả mà an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đó gọi là niệm trụ thứ nhất của Như Lai.

Các chúng đệ tử chỉ không cung kính, không thọ hành đúng đắn. Như Lai duyên nơi đấy, không sinh lo buồn, xả mà an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đó gọi là niệm trụ thứ hai của Như Lai.

Các chúng đệ tử, một loại thì cung kính, có thể thọ hành đúng đắn. Một loại không cung kính, không thọ hành đúng đắn. Đức Như Lai duyên nơi đấy không sinh hoan hỷ, lo buồn, xả mà an trụ nơi chánh niệm, chánh tri. Đó gọi là niệm trụ thứ ba của Như Lai. Tuy có đối tượng được hóa độ không cung kính thọ hành, nhưng Đức Phật Thế Tôn cũng tuôn mưa pháp vũ. Do phương tiện này, khiến đệ tử kia ở vào thời gian khác, hoặc hữu tình khác, được nhập nơi chánh pháp. Không phải trước nói bốn, nay lại nói ba. Có thể gồm chung để nói niệm trụ có bảy, nay nói ba là vì gồm thâu ở trong bốn trước. Nghĩa là ở bên ngoài duyên là thuộc về pháp niệm trụ. Nhưng thể của ba thứ này là chung nơi niệm tuệ. Tức do an trụ nơi chánh niệm, chánh tri, ở trong ba cảnh, không sinh vui buồn. Không thể thấy có các Đại Thanh văn ở trong ba cảnh không sinh vui buồn, liền cho ba thứ này không phải là pháp bất cộng của Phật. Chỉ Phật ở nơi pháp ấy và vì tập đoạn, nên khéo thông tỏ chủng tánh của hữu tình có dị biệt. Hoặc chúng đệ tử tùy thuộc Đức Như Lai, có thuận trái, đều cùng nên gắng nhận vui buồn. Đức Phật có thể không khởi, nên có thể cho là hy hữu, kỳ lạ, không phải thuộc về các Thanh văn, không khởi, không phải là đặc biệt kỳ lạ. Nên chỉ ở nơi Phật được mang tên bất cộng.

Đại bi của chư Phật, về tướng có riêng khác như thế nào? Tụng nêu:

Đại bi chỉ tục trí

Cảnh tư lương hành tướng

Vì phẩm thượng bình đẳng

Khác bi do tám nhân.

Luận nói: Đại bi của Như Lai dùng tục trí làm tánh, duyên khắp hết thảy hữu tình làm cảnh. Vì tạo ra ba hành tướng như khổ khổ v.v…, nên không phải là trí vô lậu.

Có lý như thế thì danh xưng đại bi này dựa nơi nghĩa nào để lập?

Vì dựa nơi năm nghĩa, nên ở đây lập tên đại:

1. Do tư lương nên đại. Nghĩa là đại phước đức, trí tuệ, do tư lương đã được hoàn thành.

2. Do hành tướng nên đại. Nghĩa là lực này có thể đối với cảnh của ba khổ tạo ra hành tướng.

3. Do đối tượng duyên nên đại. Nghĩa là đại bi này đã dùng chung hữu tình của ba cõi làm đối tượng duyên.

4. Do bình đẳng nên đại. Nghĩa là đại bi này bình đẳng đối với tất cả hữu tình tạo lợi ích hạn lạc.

5. Do phẩm thượng nên đại. Nghĩa là phẩm tối thượng, lại không có bi nào khác có thể ngang bằng với đây.

Có Sư khác cho: Do gia hạnh đại đã chứng đắc, vì chỉ nơi thân bậc Đại sĩ đã thành tựu. Vì nhập nơi số đại công đức châu báu, vì có thể cứu vớt khổ não lớn của hữu tình, nên lập danh xưng đại bi.

Bi cùng với đại bi có khác biệt gì? Hai thứ này có sai biệt do tám thứ nhân:

1. Do tự tánh. Vì tự tánh của không sân, không si có khác nhau.

2. Do dựa nơi thân. Chung cho thân khác. Chỉ Đức Phật dựa nơi thân có khács.

3. Do hành tướng. Vì hành tướng của một khổ, ba khổ có khác nhau.

4. Do đối tượng duyên. Đối tượng duyên của một cõi, ba cõi thì khác nhau.

5. Do dựa nơi địa. Vì chung cho địa khác và tĩnh lự thứ tư có khác nhau.

6. Do chứng đắc. Lìa cõi dục, lìa Hữu đảnh, về chứng đắc là có khác. Lại, bi là trước, khi lìa nhiễm đắc và chỉ lìa nhiễm đắc có sai biệt.

7. Do cứu giúp. Hy vọng sự việc thành và cứu giúp có khác nhau.

8. Do xót thương. Xót thương bình đẳng, không bình đẳng có khác nhau.

Có Sư khác nói: Đại bi của chư Phật thì xa xôi, vi tế đều tùy thuận khắp. Có thể tạo lợi ích rộng khắp. Các loại như Thanh văn v.v… đã khởi tâm bi thì không thể thương xót nơi cõi sắc, vô sắc. Đức Phật đối với hai cõi trên khởi thương xót tột cùng, tâm vượt quá hàng nhị thừa, xót thương đến ngục vô gián.

Đã biện về đức của Phật khác với hữu tình khác. Pháp của chư Phật cùng đối chiếu đều bình đẳng chăng? Tụng nêu:

Do tư lương, pháp thân

Lợi tha, Phật tương tợ

Thọ, chủng tánh cùng lượng v.v…

Chư Phật có sai biệt.

Luận nói: Do ba sự nên chư Phật đều bình đẳng: (1) Do tư lương bình đẳng viên mãn. (2) Do pháp thân bình đẳng thành tựu đầy đủ. (3) Do lợi tha bình đẳng rốt ráo.

Do thọ mạng, chủng tánh, thân lượng đều khác. Chư Phật đối nhau cùng có sai biệt:

Thọ mạng khác. Nghĩa là thọ mạng của Phật có ngắn, dài.

Chủng tộc khác. Nghĩa là Phật sinh nơi chủng tộc Sát-đế-lợi, Bà-la-môn.

Họ khác. Nghĩa là họ của Phật là Kiều-đáp-ma, Ca-diếp-ba v.v…

Lượng khác. Nghĩa là thân Phật có lớn, nhỏ. Nói vân vân (Nơi cuối câu tụng thứ ba) là hiển bày pháp của chư Phật, trụ lâu, gần v.v… như thế là có khác. Do vào thời gian xuất thế, các hữu tình được hóa độ, vì cơ nghi dị biệt. Các người có trí, tư duy về ba thứ đức viên mãn của Như Lai, sinh tâm ái kính sâu xa. Ba thứ đó là: (1) Nhân đức viên mãn. (2) Quả đức viên mãn. (3) Ân đức viên mãn.

Đầu tiên, nhân đức viên mãn lại có bốn thứ: (a) Tu rốt ráo. Hai thứ tư lương là phước đức, trí tuệ đã tu tập đầy đủ. (b) Tu thời gian dài. Tức trải qua ba đại kiếp A-tăng-xí-da, tu không mỏi mệt. (c) Tu vô gián. Tức tinh tấn, siêng năng, dũng mãnh nơi sát-na, sát-na, tu không bỏ phế. (d) Tu tôn trọng. Cung kính điều đã học, không có luyến tiếc, vì không kiêu mạn.

Tiếp theo, quả đức viên mãn cũng có bốn thứ: (a) Trí đức viên mãn. (b) Đoạn đức viên mãn. (c) Oai thế đức viên mãn. (d) Sắc thân đức viên mãn.

Trí đức viên có bốn thứ: Một là: Trí vô sư. Hai là: Trí nhất thiết. Ba là: Trí nhất thiết chủng. Bốn là: Trí không có dụng công.

Đoạn đức viên mãn có bốn thứ: Một là: Tất cả phiền não đoạn. Hai là: Tất cả chướng của định đoạn. Ba là: Đoạn trừ rốt ráo. Bốn là: Cùng tập đoạn.

Oai thế đức viên mãn có bốn thứ: Một là: Oai thế đối với ngoại cảnh, biến hóa, trụ trì tự tại. Hai là: Oai thế đối với thọ lượng, hoặc ngắn, hoặc dài, đều tự tại. Ba là: Oai thế đối với chướng ngại của hư không là rất xa, vận hành nhanh chóng, nhỏ lớn cùng hội nhập tự tại. Bốn là: Oai thế khiến cho vô số bản tánh của thế gian theo pháp như thế chuyển biến thù thắng kỳ lạc ít có.

Oai thế đức viên mãn lại có bốn thứ: Một là: Khó hóa độ, tất có thể hóa độ. Hai là: Đáp lại vấn nạn, tất đều quyết nghi. Ba là: Lập giáo tất xuất ly. Bốn là: Bè nhóm xấu ác tất có thể hàng phục.

Sắc thân đức viên mãn có bốn thứ: Một là: Đủ các tướng. Hai là: Đủ các tùy hảo. Ba là: Đủ đại lực. Bốn là: Xương trong thân cứng chắc, vượt hơn kim cương. Bên ngoài phát khởi hào quang thần diệu vượt qua trăm ngàn mặt trời.

Sau cùng Ân đức viên mãn cũng có bốn thứ. Nghĩa là khiến vĩnh viễn giải thoát sinh tử của ba nẻo ác. Hoặc có thể đặt yên nơi ba thừa của nẻo thiện.

Nói chung, đức viên mãn của Như Lai là như thế. Nếu phân tích riêng thì có vô biên. Chỉ Đức Phật, Thế Tôn mới có thể nhận biết, có thể giảng nói. Chủ yếu là lưu lại mạng hành, trải qua nhiều đại kiếp A-tăng-xí-da nói mới có thể hết.

Như thế tức hiển bày thân của Đức Phật, Thế Tôn có đủ vô biên ân đức của nhân quả thù thắng đặc biệt kỳ diệu, như núi báu lớn. Có các người ngu tự thiếu các đức, tuy nghe nói núi công đức của Phật như thế và pháp của Phật đã giảng nói, nhưng không thể tin trọng. Các người có trí nghe nói như thế, sinh tâm tin trọng vô cùng sâu đậm. Những người trí kia do một niệm nơi tâm rất tin trọng đã chuyển diệt vô biên nghiệp ác bất định, thâu nhận Niết-bàn của người, trời thù thắng. Nên nói: Như Lai xuất hiện ở đời, làm phước điền vô thượng cho các người trí. Dựa nơi phước điền đó, dẫn sinh quả chân thật khả ái thù thắng, nhanh chóng đạt đến cứu cánh. Như Đức Bạc-già-phạm tự nói:

Nếu ở phước điền Phật

Gieo trồng phần ít thiện

Trước được nẻo thiện thắng

Sau tất đạt Niết-bàn.

HẾT – QUYỂN 36