LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 39

Phẩm thứ 9: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 2

Như thế là đã giải thích riêng về sự của tĩnh lự xong. Các đẳng chí đạt được thì như thế nào? Tụng nêu:

Toàn không thành mà được

Tịnh do lìa nhiễm sinh

Vô lậu do lìa nhiễm

Nhiễm do sinh và thoái.

Luận nói: Tám đẳng chí căn bản tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng, nếu hoàn toàn không thành mà đạt được, thì các đẳng chí tịnh do hai nhân duyên: (1) Do lìa nhiễm. Nghĩa là khi ở nơi địa dưới thì lìa nhiễm của địa dưới. (2) Do thọ sinh. Nghĩa là lúc từ địa trên sinh nơi tự địa. Bảy đẳng chí dưới đều như thế. Hữu đảnh thì không như vậy, chỉ do lìa nhiễm, vì không có địa trên, không có từ địa trên, ở nơi địa đó thọ sinh.

Trong đây chỉ nói đẳng chí căn bản, vì khi các cận phần chưa lìa nhiễm, có hoàn toàn không thành, do gia hạnh đắc.

Ngăn chặn về gì nên nói câu hoàn toàn không thành? Vì ngăn chận đã thành, lại được phần ít. Như do gia hạnh đắc đẳng chí căn bản tịnh và do thoái chuyển, nên được thuận phần thoái kia. Tức dựa nơi nghĩa này để nêu ra câu hỏi: Từng có định tịnh, do lìa nhiễm đắc, do lìa nhiễm xả, do thoái chuyển đắc, do thoái chuyển xả, do sinh đắc, do sinh xả chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là thuận phần thoái. Lại, tĩnh lự đầu thuộc về thuận phần thoái, khi lìa dục nhiễm đắc, khi lìa tự nhiễm xả. Thoái lìa tự nhiễm đắc. Thoái lìa dục nhiễm xả. Từ địa trên sinh nơi tự đắc. Từ tự sinh nơi địa dưới xả. Thuộc về địa khác, nên như lý tư duy. Vô lậu chỉ do lìa nhiễm nên đắc. Nghĩa là Thánh lìa nhiễm của địa dưới, đắc vô lậu của địa trên. Ở đây cũng chỉ căn cứ theo hoàn toàn không thành. Nếu trước đã thành thì nơi thời gian khác cũng được. Nghĩa là nơi vị tận trí đắc đạo vô học. Khi luyện căn thì đạt học, vô học. Gia hạnh khác và thoái chuyển đều như lý nên tư duy. Tuy có do nhập chánh tánh ly sinh, đạt được đẳng chí vô lậu căn bản, nhưng không phải quyết định. Do thứ lớp, nghĩa là bấy giờ chưa được định căn bản. Trong đây chỉ luận về phần quyết định chứng đắc, Thánh giả lìa nhiễm của địa dưới, tất định đạt được định vô lậu căn bản của địa trên. Nhiễm do thọ sinh và thoái chuyển nên được. Nghĩa là khi ở địa trên chết, sinh xuống địa dưới, được nhiễm của địa dưới và khi ở nơi địa này lìa nhiễm, thoái chuyển, thì được nhiễm của địa này. Không có do lìa nhiễm và gia hạnh đắc.

Hai thời gian như thế là có thể xả bỏ nhiễm.

Đẳng chí vô gián nào có bao nhiêu đẳng chí sinh? Tụng nêu:

Vô lậu tiếp sinh hỷ

Trên dưới đến thứ ba

Tịnh sinh tiếp cũng vậy

Gồm sinh nhiễm tự địa.

Nhiễm sinh tự tịnh nhiễm

Và một địa tịnh dưới

Chết tịnh sinh tất cả

Nhiễm sinh từ nhiễm dưới.

Luận nói: Vô lậu thứ lớp sinh từ thiện của trên dưới. Nói thiện là gồm thâu đủ tịnh và vô lậu. Do rất trái nhau nên tất không sinh nhiễm. Nhưng ở nơi trên dưới đều đến tĩnh lự thứ ba vì xa, nên không thể vượt sinh nơi thứ tư. Ở trong bảy đẳng chí vô lậu từ tĩnh lự đầu vô gián sinh sáu. Nghĩa là tự hai, ba đều tịnh, vô lậu. Vô sở hữu xứ vô gián sinh bảy. Nghĩa là tự địa dưới sáu địa trên chỉ có tịnh. Tĩnh lự thứ hai vô gián sinh tám. Nghĩa là tự địa trên sáu và địa dưới hai. Thức vô biên xứ vô gián sinh chín. Nghĩa là tự địa dưới sáu và địa trên ba. Tĩnh lự thứ ba, thứ tư và không vô biên xứ vô gián sinh mười. Nghĩa là địa trên, địa dưới tám và tự địa hai. Loại trí vô gián có thể sinh vô sắc. Pháp trí thì không như vậy, vì dựa vào duyên riêng. Từ đẳng chí tịnh sinh cũng như vậy, nhưng đều gồm sinh nhiễm ô của tự địa. Nên Hữu đảnh tịnh vô gián sinh sáu. Nghĩa là vô lậu tịnh của địa dưới và nhiễm tịnh của tự địa. Từ tĩnh lự thứ nhất vô gián sinh bảy. Vô sở hữu tám. Định thứ hai có chín. Thức xứ sinh mười. Xứ còn lại sinh mười một. Từ đẳng chí nhiễm, sinh tịnh nhiễm của tự địa và sinh tiếp theo định tịnh của một địa dưới. Nghĩa là vì tự địa bị phiền não bức bách, nên đối với định tịnh của địa dưới cũng sinh tôn trọng, nên có từ nhiễm sinh tiếp theo tịnh của địa dưới. Vì rất trái nhau, nên không sinh vô lậu. Nếu đối với nhiễm, tịnh có thể nhận biết rõ đúng đắn, thì có thể từ nhiễm chuyển sinh tịnh của địa dưới, tức là tịnh này trở lại từ tịnh sinh. Do nhận biết rõ đúng đắn là thuộc về tịnh. Không phải các thứ nhiễm ô có thể nhận biết rõ đúng đắn.

Vì sao đẳng chí kia có thể từ nhiễm sinh tịnh?

Vì nguyện lực từ trước. Nghĩa là trước nguyện nói: Thà được tịnh dưới, không cần nhiễm trên. Do uy lực của nguyện trước nên tùy nơi sự cùng nối tiếp chuyển, tức về sau từ nhiễm sinh định tịnh của địa dưới. Như trước lập nguyện mới hướng đến thùy miên, đến khi đúng kỳ hạn liền có thể tỉnh giấc.

Như thế là đã nói về nhiễm sinh, nhiễm tịnh. Chỉ căn cứ ở nơi định tịnh và nhiễm để nói. Nếu nhiễm sinh tịnh thì nhiễm sinh nhiễm không như vậy. Nghĩa là khi mạng chung, từ tịnh sinh đắc, mỗi mỗi vô gián sinh tất cả nhiễm. Nếu từ nhiễm sinh thì mỗi mỗi vô gián có thể sinh tất cả nhiễm của địa dưới và tự địa, không sinh địa trên, vì chưa lìa địa dưới.

Đã nói từ tịnh sinh vô lậu: Là tất cả chủng đều có thể sinh chăng? Không phải vậy. Vì sao? Tụng nêu:

Định tịnh có bốn thứ

Tức là thuận phần thoái

Thuận trụ, thuận thắng tấn

Thuận thuộc phần quyết trạch.

Như tiếp thuận phiền não

Tự vô lậu địa trên

Cùng đối chiếu thứ lớp

Sinh hai, ba, ba, một.

Luận nói: Các đẳng chí tịnh gồm có bốn thứ: (1) Thuận thuộc về phần thoái. (2) Thuận thuộc về phần trụ. (3) Thuận thuộc về phần thắng tấn. (4) Thuận thuộc về phần quyết trạch.

Địa đều có bốn, xứ Hữu đảnh chỉ ba, do Hữu đảnh kia lại không có địa trên để có thể hướng đến. Địa ấy không có thuận thuộc về phần thắng tấn.

Trong bốn thứ này, chỉ phần thứ tư là có thể sinh vô lậu. Vì sao? Do bốn thứ này có tướng như thế. Thuận phần thoái có thể thuận nơi phiền não. Thuận phần trụ có thể thuận với tự địa. Thuận phần thắng tấn có thể thuận với địa trên. Thuận phần quyết trạch thì có thể thuận với vô lậu. Nên các vô lậu chỉ từ phần này sinh.

Có Sư khác nói: Thuận phần thoái là trụ nơi địa kia có thể thoái chuyển. Thuận phần trụ là trụ ở địa kia không thoái mất, cũng không thắng tấn. Thuận phần thắng tấn là trụ nơi địa kia, có thể thắng tấn. Thuận phần quyết trạch là trụ nơi địa kia khởi Thánh đạo.

Có thuyết cho: Trụ nơi địa kia, thuận thông đạt đế. Do đấy vô gián có thể nhập ly sinh. Nên biết trong đây nghĩa quyết định tức là các Thánh đạo, tất từ vô gián này sinh, không phải vô gián này tất có thể sinh Thánh đạo. Nếu khác với đây tức là nên nói chỉ pháp thế đệ nhất gọi là thuận phần quyết trạch.

Có Sư khác nêu: Thuận với phần thoái là cùng với các phiền não nơi địa dưới, địa trên cùng xen tạp, nhiễm tịnh lần lượt hiện ở trước. Thuận với phần trụ là có thể dùng vô số thứ hành tướng như thô v.v…, từ bỏ các hành tướng như tĩnh v.v… của địa dưới thâu nhận tự địa. Thuận với phần thắng tấn là quán lỗi lầm của tự địa và công đức của địa trên. Thuận với phần quyết trạch như noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất.

Vô lậu, vô gián phần nào hiện tiền?

Có thuyết nói: Chung cho ba, trừ thuận phần thoái. Về lý thật chỉ có hai. Nghĩa là hai thứ sau. Các hữu tình tu tập đẳng chí siêu việt v.v…, chỉ thuận với quyết trạch, vì rất kiên cố, hơn hẳn.

Các Sư Du Già nói như thế này: Nếu hành giả tu quán, đối với định của tự địa, không khéo thông đạt, không luôn an trụ, thì ở nơi định của địa trên, không thể vui thích mong cầu. Thường thường hiện hành, thuận với tưởng của địa dưới, tức đẳng trì của hành giả kia gọi là thuận với phần thoái. Hoặc do ở nơi tự địa lìa nhiễm mà thoái chuyển được gọi là thuận với phần thoái. Bổ-đặc-già-la thực hành định này, gọi là người thoái chuyển. Như hành theo bò đi, gọi là bò. Hung dữ khó xoay chuyển, nói là bò đi. Ở nơi định của tự địa tham đắm không bỏ, đối với định của địa trên, không thể vui thích mong cầu. Đẳng trì của hành giả kia gọi là thuận với phần trụ. Ở nơi định của tự địa tuy có thể trụ nhiều nhưng không tham đắm. Đối với định của địa trên thì ưa thích, dẫn dắt, tức đẳng trì của hành giả này gọi là thuận với phần thắng tấn. Đối với định của tự địa và địa trên đều không tham đắm, phần nhiều trụ nơi tưởng nhàm chán. Vì muốn khiến dứt trừ, tức đẳng trì của hành giả này gọi là thuận với phần quyết trạch. Các hữu tình an trụ nơi thuận với phần thoái, đối với quả rộng lớn, tâm bị nhiều trói buộc. Các hữu tình an trụ nơi thuận với phần trụ, thường ở nơi tự định, không thể cầu đạt định của địa trên. Các hữu tình an trụ nơi thuận với thắng tấn, thì có thể lần lượt mong cầu đạt định thù thắng khác. Nhưng phần thắng tấn gồm có hai thứ: (1) Công đức thù thắng của tự địa. (2) Công đức thù thắng của địa trên.

Nếu có thể dẫn dắt thì hành giả kia gọi là thuận với phần thắng tấn. Ở đây có hai loại: Hoặc chán lìa, hoặc vui thích. Các hữu tình an trụ nơi thuận phần quyết trạch, ưa thích đoạn các hữu, vui thích tu vô lậu, thì đó gọi là an trụ. Bốn phần có riêng khác. Nếu thuận với phiền não, gọi là thuận với phần thoái, thì các A-la-hán đâu thể có lý thoái chuyển? Không phải các A-la-hán kia cũng có định thuận với phần thoái, có thể khiến hiện hành, lìa bỏ nhiễm?

Tuy có vấn nạn này, nhưng thật sự không có trái nhau. Nghĩa là trong thuận trụ có người thuận với phần thoái, cũng được kiến lập tên gọi thuận với phần thoái. Từ địa kia có thoái chuyển như trước đã nêu.

Bốn loại này đối chiếu nhau thì cùng sinh. Loại đầu có thể sinh hai, nghĩa là thuận với phần thoái, phần trụ. Loại thứ hai sinh ba, trừ thuận với phần quyết trạch. Loại thứ ba sinh ba, trừ thuận với phần thoái. Loại thứ tư sinh một, nghĩa là tự địa không phải địa khác.

Có thuyết cho: Cũng sinh thuận với phần thắng tấn.

Như trên đã nêu: Tịnh và vô lậu đều có thể ở nơi địa trên, địa dưới siêu vượt đến tĩnh lự thứ ba. Hành giả vì sao tu đẳng chí siêu vượt. Gia hạnh thành mãn có sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Hai loại định thuận, nghịch

Quân, gián, thứ và vượt

Đến gián vượt là thành

Ba châu, lợi, vô học.

Luận nói: Đẳng chí căn bản thiện phân làm hai loại: (1) Hữu lậu. (2) Vô lậu.

Đi đến địa trên gọi là thuận. Trở lại địa dưới gọi là nghịch. Đồng loại gọi là quân. Khác loại gọi là gián. Gần nhau gọi là thứ. Vượt cách một gọi siêu vượt. Nghĩa là hành giả tu quán khi tu định siêu vượt, trước hết đối với đẳng chí của tám địa hữu lậu, thuận, nghịch, quân, thứ, thường tập hiện tiền. Tiếp theo đối với đẳng chí của bảy địa vô lậu, thuận, nghịch, quân, thứ, thường tập hiện tiền. Thứ đến, đối với đẳng chí hữu lậu, vô lậu, thuận, nghịch, gián, thứ, thường tập hiện tiền. Thứ nữa, đối với hữu lậu, thuận, nghịch, quân, siêu vượt, thường tập hiện tiền. Tiếp nữa, đối với vô lậu thuận, nghịch, quân, siêu vượt, thường tập hiện tiền. Đó gọi là tu tập gia hạnh siêu vượt thành mãn. Về sau đối với đẳng chí hữu lậu, vô lậu, thuận, nghịch, gián, siêu vượt, gọi là định thành siêu vượt.

Trong đây siêu vượt nghĩa là tức khắc siêu vượt hai: (1) Siêu vượt địa. (2) Siêu vượt pháp.

Chỉ có thể siêu vượt một đến tĩnh lự thứ ba, vì xa nên không thể vượt nhập nơi tĩnh lự thứ tư. Tu đẳng chí siêu vượt, chỉ người nơi ba châu thuộc cõi dục, trừ châu Bắc-câu-lô, nhưng chung cho nam, nữ. Các A-la-hán bất thời giải thoát, chủ yếu đắc vô tránh, diệu nguyện trí v.v… Định biên vực có thể siêu vượt, không phải xứ khác, vì định tự tại, vì không có phiền não. Các vị thời giải thoát, tuy không có phiền não, nhưng định không tự tại. Các vị kiến chí tuy định tự tại, nhưng vì phiền não chưa đoạn trừ rốt ráo, nên đều không thể tu đẳng chí siêu vượt. Tác ý thắng giải không thể vô gián tu đẳng chí siêu vượt, vì uy lực yếu kém. Các đẳng chí này dựa vào thân nào khởi? Tụng nêu:

Các định dựa tự dưới

Không trên vì không dụng

Chỉ sinh Thánh Hữu đảnh

Khởi dưới dứt hết Hoặc.

Luận nói: Các đẳng chí khởi dựa vào thân của tự địa và địa dưới. Dựa vào thân địa trên thì không cùng khởi địa dưới, vì ở địa trên khởi địa dưới là không tác dụng. Vì tự địa có định hơn hẳn, vì địa dưới uy lực kém, vì đã từ bỏ, vì đã có thể chán ghét. Tướng chung tuy như vậy, nhưng nếu tùy theo phần vi tế, thì Thánh sinh nơi xứ Hữu đảnh, tất siêu vượt vô lậu. Vô sở hữu xứ là tận cùng của tự địa. Phiền não còn lại tự không có Thánh đạo. Vì vui thích khởi, nên chỉ ở nơi vô sở hữu. Vì rất gần gũi, nên khởi đẳng chí vô lậu hiện tiền, dứt hết phiền não còn lại. Vì lìa đạo vô lậu, tất không có khả năng. Đoạn trừ Hoặc còn lại của địa kia thành A-la-hán.

Thế nên Hữu đảnh, vô sở hữu xứ vô lậu dựa nơi thân của chín địa. Vô sở hữu xứ hữu lậu dựa nơi thân của tám địa. Thức vô biên xứ hữu lậu, vô lậu dựa nơi thân của bảy địa. Không vô biên xứ dựa nơi thân của sáu địa. Cho đến định thứ nhất dựa nơi thân của hai địa. Nghĩa là tự thân và cõi dục. Nếu thành tựu dựa nơi hữu lậu, như khởi vô lậu, thì tất cả dựa nơi thân của chín địa.

Trong các đẳng chí thì định nào duyên nơi cảnh nào? Tụng nêu:

Vị định duyên tự buộc

Tịnh vô lậu duyên khắp

Căn bản thiện vô sắc

Không duyên hữu lậu dưới.

Luận nói: Vị định chỉ duyên nơi pháp hữu lậu của tự địa, vì pháp hữu lậu là sự của đối tượng trói buộc. Nói đối tượng trói buộc là làm rõ thuộc về ba hữu. Không duyên nơi pháp vô lậu, vì theo hành tướng của ái chuyển. Nếu ái vô lậu, tức nên không phải là phiền não. Không duyên nơi pháp của địa trên, vì địa cõi của ái riêng. Không duyên nơi pháp của địa dưới, vì đã lìa tham của địa ấy. Tịnh và vô lậu đều cùng có thể duyên khắp tự địa, địa trên dưới. Hữu vi, vô vi đều làm cảnh. Có sai biệt: Nghĩa là vô ký, vô vi, không phải là cảnh của vô lậu. Chỉ có đối với pháp nói là có thể duyên khắp, không gì không là đối tượng duyên, vì như trước đã nói. Định vô sắc thiện thuộc về địa căn bản, không duyên nơi các pháp hữu lậu của địa dưới, vì pháp của địa dưới không tĩnh lặng. Còn định vô sắc thiện vốn rất tĩnh lặng. Do lý này nên kinh đối với định vô sắc đều nói siêu vượt tất cả địa dưới. Đối với các tĩnh lự thì không nói như thế, vì vô sắc vốn không duyên nơi hệ thuộc của địa dưới. Thế nên đối với địa dưới nói chữ siêu vượt. Trong các tĩnh lự, vì có trí duyên khắp, nên đối với địa dưới không nói siêu vượt. Đã nói câu siêu vượt tưởng sắc v.v…, nên biết chỉ dựa vào chỗ siêu vượt đối tượng duyên để nói. Nếu siêu vượt này vì làm rõ về việc lìa hệ thuộc, tức nên nói siêu vượt tất cả, không phải chỉ tưởng sắc v.v… Lại trong tĩnh lự nên nói siêu vượt, vì pháp của tự địa, địa trên không gì là không thể duyên. Tuy cũng có thể duyên nơi vô lậu của địa dưới, nhưng chỉ duyên nơi phẩm loại không duyên nơi phẩm pháp, do chỉ có thể duyên nơi tự hoàn toàn đối trị. Pháp không hoàn toàn đối trị như trước đã nói. Lại, đạo của phẩm pháp ở nơi cõi vô sắc tuy có thể đối trị là khách, không phải là chủ, cũng không thể duyên nơi pháp diệt của địa dưới.

Đã ngăn chận định căn bản, vô sắc duyên nơi địa dưới, về nghĩa căn cứ nơi cận phần có duyên nơi địa dưới, vì có thể đạo vô gián kia tất duyên nơi địa dưới.

Trong ba đẳng chí: Vị, tịnh, vô lậu, thì sức của những thứ nào có thể đoạn các phiền não?

Tụng nêu:

Vô lậu đoạn trừ Hoặc

Và các tịnh cận phần.

Luận nói: Các định vô lậu đều có khả năng đoạn trừ Hoặc. Tịnh gốc hãy còn không thể đoạn, huống chi là các nhiễm mà có thể đoạn? Nghĩa là định tịnh căn bản không thể đoạn Hoặc của địa dưới, vì đã lìa nhiễm. Không thể đoạn Hoặc của địa trên, do hơn hẳn mình.

Không thể đoạn Hoặc của tự mình với Hoặc của tự địa, vì đồng một trói buộc. Lại, vì tự đối với tự thì không phải đối trị. Nếu cận phần tịnh thì cũng có thể đoạn Hoặc, do đều có thể đoạn tiếp theo địa dưới. Còn tịnh thuộc về trung gian thì cũng không thể đoạn.

Cận phần có bao nhiêu thứ tương ưng với thọ nào? Đối với ba vị v.v… là đều có đủ chăng?

Tụng nêu:

Cận phần tám xả tịnh

Đầu cũng Thánh Hoặc ba.

Luận nói: Các định cận phần cũng có tám thứ, cùng với tám định căn bản làm cửa vào. Tất cả chỉ tương ưng với một xả thọ. Vì tạo ra công dụng chuyển biến, vì chưa lìa sợ hãi của địa dưới. Tám cận phần này đều thuộc về định tịnh. Chỉ cận phần đầu tiên cũng chung nơi vô lậu đều không có vị, vì là đạo lìa nhiễm. Bảy cận phần trên không có vô lậu, vì đối với pháp của tự địa, không chán bỏ. Chỉ cận phần đầu tiên thì chung nơi vô lậu, vì đối với pháp của tự địa có thể chán bỏ, vì địa này là rất gần gũi, vì là cõi có nhiều tai họa, vì các dục tham do tầm tứ khởi. Địa này cũng có tầm tứ tùy thuộc.

Nếu như vậy thì do đâu Tỳ-bà-sa nói: Các địa cận phần có kiết sinh tâm.

Vì không phải tâm không nhiễm mà có lý kiết sinh, tức nên cận phần có tương ưng vị. Nay ở trong đây, vì ngăn chận có định nhiễm, không ngăn chận sinh nhiễm, nên không trái nhau.

Hoặc có Sư khác nói như thế này: Định cận phần đầu cũng có định nhiễm, vì chưa khởi tĩnh lự căn bản, tức cũng tham nhiễm này. Do vị chí này có đủ ba thứ. Tĩnh lự trung gian so với các cận phần là nghĩa không riêng hay là cũng có khác?

Về nghĩa cũng có khác. Nghĩa là các cận phần là đạo lìa nhiễm, là nhân nhập nơi căn bản. Trung gian thì không như vậy. Lại có nghĩa riêng.

Tụng nêu:

Tĩnh lự trung không tầm

Đủ ba, chỉ xả thọ.

Luận nói: Định cận phần căn bản đầu tiên tương ưng với tầm, tứ. Trong bảy định trên đều không có tầm, tứ, chỉ tĩnh lự trung gian là có tứ, không có tầm, nên tĩnh lự đó là hơn vị chí của thứ nhất và thứ hai. Dựa nơi nghĩa này, nên lập danh xưng trung gian. Do địa trên này không có tĩnh lự trung gian. Vì một địa lên xuống thì không như vậy. Nghĩa là định trung gian là thuộc về tĩnh lự thứ nhất, nhưng có sai biệt. Tức ở đây tầm giảm ở trên lập trung gian. Giảm gì thành khác, nên định trung gian đầu tiên có, trên không có.

Há không phải là Khế kinh nói bảy đẳng chí dựa nơi, đâu thể nhận biết có riêng vị chí, trung gian?

Do có khế kinh và chánh lý. Lại có vị chí như Khế kinh nói: Các hữu tình chưa có thể nhập nơi định thứ nhất v.v…, an trụ đầy đủ nhưng do Thánh tuệ, nên ở trong hiện pháp được các lậu tận.

Nếu không có vị chí, thì Thánh tuệ dựa vào gì? Lại, trong Khế kinh Tô Sử Ma nói: Có tuệ giải thoát không được định căn bản. Há không dựa nơi định mà thành tuệ giải thoát. Do đấy chứng biết có định vị chí. Có định trung gian, như Khế kinh nói: Tam-ma-địa có tầm, tứ v.v… Kinh nói định thứ nhất cùng với tầm, tứ là đều cùng có. Tầm định v.v… thì tầm tứ thứ hai đều dứt.

Nếu không có tĩnh lự trung gian thì tĩnh lự nào có tứ, không có tầm?

Do tâm tâm sở dứt dần dần, tức về lý nên có định có tứ, không có tầm. Lại, Đại Phạm vương là chủ thế giới, lìa định trung gian, thì cái gì làm nhân hơn hẳn?

Do đấy chứng biết có định trung gian. Nhưng Đức Phật không thường nói có vị chí, trung gian, do hai thứ tức thuộc về tĩnh lự thứ nhất. Nói tĩnh lự thứ nhất tức đã nói về hai địa kia. Chỉ cận phần đầu tiên gọi là vị chí, vì muốn phân biệt với cận phần khác. Không phải cận phần này nhân nơi định trước khởi. Lại không phải trụ nơi định này rồi khởi vị ái.

Dựa nơi nghĩa như thế để lập tên gọi vị chí. Không phải biên của định trên, cũng gọi là vị chí, đều nhân nơi uy lực của định trước dẫn sinh, và khi trụ nơi định kia xong là khởi vị.

Tỳ-bà-sa đã nói như thế này: Chưa đến bản địa lập tên vị chí, là nghĩa đức của bản địa chưa hiện tiền. Định trung gian này có đủ ba thứ như vị v.v… (Vị, tịnh, vô lậu), vì hệ thuộc riêng ở một xứ sinh. Nghĩa là người dốc sức tu tập định trung gian, vị lai sẽ sinh ở nơi xứ Đại Phạm, nên cũng đủ ba thứ, như định căn bản. Không phải địa căn bản khởi ái tham địa kia như đối tượng vị có khác nên chủ thể vị cũng riêng lẻ. Vì định này có đức hơn hẳn, vị đáng yêu mến, nên định vô lậu sinh cũng giảm dần. Định này cũng hoàn toàn tương ưng với xả thọ, vì không có ba thức thân, nên không có lạc thọ, không có hỷ thọ, tức là đã không chung với định đầu, nhưng đối với tham của định đầu, thì chưa có thể lìa. Lại, do tự cố gắng tạo dụng để chuyển, do đấy nói là thuộc về khổ thông hành. Không phải là ưu khổ, vì đã xuất ly cõi dục, do đấy hoàn toàn tương ưng với xả thọ. Định này có thể chiêu cảm quả của xứ Đại Phạm. Đa số người tu tập đều làm Đại Phạm.

Đã biện về đẳng chí. Thế nào là đẳng trì?

Kinh nói: Đẳng trì gồm có ba thứ: (1) Tam-ma-địa có tầm có từ. (2) Tam-ma-địa không có tầm chỉ có từ. (3) Tam-ma-địa không tầm không tứ.

Ba thứ như thế khác nhau như thế nào?

Tụng nêu:

Đầu dưới có tầm, tứ

Giữa chỉ tứ, trên không.

Luận nói: Trước nay nhân nơi sự thường biện về ba thứ ấy. Nay ở trong phẩm này lược hiển bày về tướng riêng.

Tam-ma-địa có tầm có tứ: Nghĩa là đẳng trì cùng với tầm, tứ tương ưng. Đẳng trì này thuộc về tĩnh lự thứ nhất và vị chí.

Tam-ma-địa không có tầm chỉ có tứ: Nghĩa là đẳng trì chỉ cùng với tứ tương ưng, đẳng trì này tức thuộc về địa của tĩnh lự trung gian.

Tam-ma-địa không tầm không tứ: Nghĩa là đẳng trì không phải tương ưng với tầm, tứ. Đẳng trì này thuộc về từ cận phần của tĩnh lự thứ hai, cho đến thuộc về phi tưởng phi phi tưởng xứ. Khế kinh lại nói có ba thứ đẳng trì: (1) Tam-ma-địa không. (2) Tam-ma-địa vô nguyện. (3) Tam-ma-địa vô tướng.

Ba thứ như thế khác nhau như thế nào? Tụng nêu:

Không tức không, vô ngã

Vô tướng là diệt bốn

Vô nguyện là mười khác

Hành tướng đế tương ưng

Đây chung tịnh, vô lậu

Vô lậu, ba môn thoát.

Luận nói: Tam-ma-địa không: Nghĩa là đẳng trì tương ưng với hai thứ hành tướng không, vô ngã. Nên nói đẳng trì không là đối trị gần với hữu thân kiến. Thân kiến cũng có hai hành tướng. Nghĩa là hành tướng không thì đối trị gần ngã sở kiến. Hành tướng vô ngã thì đối trị gần ngã kiến.

Quán pháp vô ngã gọi là quán hành tướng vô ngã. Trong đây vô ngã gọi là hành tướng không. Do hành tướng không này đối trị gần ngã sở kiến. Do trong ấy đều không có ngã, nên pháp này không phải là ngã sở.

Tam-ma-địa vô tướng: Nghĩa là đẳng trì duyên nơi diệt đế, tương ưng với bốn thứ hành tướng của diệt đế kia. Vì Niết-bàn lìa các tướng nên gọi là vô tướng. Vì Tam-ma-địa duyên nơi Niết-bàn kia nên được danh xưng vô tướng.

Tướng lược có mười. Nghĩa là năm thứ như sắc v.v…, hai thứ nam, nữ, ba tướng hữu vi. Hoặc lại tướng là tên khác của nhân, vì Niết-bàn không có nhân, nên gọi là vô tướng. Hoặc tướng nghĩa là phẩm thượng, trung, hạ của uẩn thế gian, vì Niết-bàn khác với các tướng kia, nên gọi là vô tướng.

Tam-ma-địa vô nguyện: Nghĩa là đẳng trì duyên nơi các đế còn lại, tương ưng với mười thứ hành tướng. Mười hành tướng là khổ, vô thường, nhân, tập, sinh, duyên, đạo, như, hành, xuất.

Ba Tam-ma-địa như không v.v… như thế, tướng của Tam-mađịa tuy không có sai biệt, nhưng dựa nơi đối trị, ý lạc đối tượng duyên, như thứ lớp ấy để kiến lập ba thứ Tam-ma-địa. Do ý lạc, nên không mong muốn nơi ba hữu, về lý là có thể như vậy, vì có lỗi lầm tai họa. Đâu thể do ý lạc mà không mong muốn nơi Thánh đạo, vì các Thánh đạo nương dựa thuộc về hữu.

Nếu như vậy thì đâu cần tu tập Thánh đạo?

Do Thánh đạo này là nhân có thể hướng đến Niết-bàn, không phải lìa Thánh đạo mà có đạt được Niết-bàn. Vì cầu đạt Niết-bàn, nên tu Thánh đạo. Đạo như thuyền bè, tất nên xả bỏ. Cũng do ý lạc nên không mong muốn nơi Thánh đạo, nhưng duyên nơi hành tướng của đạo, cũng được danh xưng vô nguyện, do tâm vốn kỳ vọng, nhàm chán hữu vi. Tướng không, vô ngã, không phải là đối tượng chán bỏ, vì cùng với tướng của Niết-bàn là tương tợ. Do hai hành tướng này, tuy duyên nơi pháp đáng nhàm chán, nhưng không nhận lấy tướng đáng nhàm chán, thì không được mang tên vô nguyện.

Ba đẳng trì này là chung cho tịnh, vô lậu, vì thuộc về đẳng trì của thế gian, xuất thế gian. Vì thuộc về thế gian, nên chung nơi mười một địa. Vì thuộc về xuất thế gian, nên chỉ chung nơi chín địa. Do biên của bảy định trên không có đức thù thắng. Ở đây, vô lậu gọi là ba môn giải thoát, vì có khả năng cùng với Niết-bàn làm môn nhập vào. Không phải các pháp hữu lậu là môn chân giải thoát, vì tánh trụ nơi thế gian là trái với giải thoát.

Ba Tam-ma-địa duyên nơi cảnh riêng khác. Nghĩa là hoặc không hữu lậu duyên nơi tất cả pháp. Hoặc không vô lậu chỉ duyên nơi khổ đế. Vô nguyện thì có thể duyên nơi khổ, tập, đạo đế. Vô tướng chỉ duyên nơi diệt đế làm cảnh.

Ba Tam-ma-địa cùng với niệm trụ có riêng. Vô tướng chỉ là pháp. Hai thứ còn lại đều chung cho bốn. Khế kinh lại nói có ba lớp đẳng trì: (1) Tam-ma-địa không không. (2) Tam-ma-địa vô nguyện vô nguyện. (3) Tam-ma-địa vô tướng vô tướng.

Ba thứ như thế tướng khác nhau như thế nào? Tụng nêu:

Lớp hai duyên vô học

Lấy tướng không, vô thường

Sau duyên định vô tướng

Phi trạch diệt làm tĩnh

Hữu lậu người bất thời

Lìa bảy cận phần trên.

Luận nói: Ba đẳng trì này duyên nơi không v.v…, ở trước nhận lấy các tướng như không v.v…, nên lập tên như không không v.v… Đẳng trì không không duyên nơi Tam-ma-địa không vô học ở trước, nhận lấy tướng không kia. Tướng không thuận với nhàm chán, là hơn vô ngã. Nghĩa là hành giả kia trước khởi đẳng trì vô học, ở nơi năm thủ uẩn tư duy về tướng không. Từ đấy về sau khởi đẳng trì tương ưng với căn thiện thù thắng, duyên nơi Tam-ma-địa không vô học ở trước, tư duy về tướng không, ở nơi không nhận lấy không, nên gọi là không không. Như hỏa thiêu tử thi, dùng gậy để xoay chuyển. Tử thi đã cháy hết thì gậy cũng nên đốt.

Như thế do không thiêu đốt phiền não xong, lại khởi định không để chán bỏ không trước. Lập lại hành tướng không của đẳng trì không. Sau khởi tức trở lại cùng với hành tướng không tương ưng. Chỉ hành tướng không này là hoàn toàn có thể thuận với tưởng chán bỏ. Hành tướng vô ngã thì không như thế.

Người kiến vô ngã: Đối với các pháp hữu vi khởi tâm chán bỏ, không như kiến không. Nên các hữu tình đã thấy các pháp là vô ngã, nhưng ở nơi các hữu cũng sinh ưa thích, vì ở trong các hành, không xét kỹ về kiến không. Do định không này tuy cả hai hành tướng đều cùng có, nhưng chỉ gọi là không, không nói là vô ngã, vì không đối với sự việc chán bỏ là hoàn toàn tùy thuận.

Đẳng trì vô nguyện, vô nguyện duyên nơi vô nguyện vô học ở trước, nhận lấy tướng vô thường. Nghĩa là hành giả kia trước khởi đẳng trì vô học, ở trong năm thủ uẩn tư duy về tướng vô thường. Từ đấy về sau khởi đẳng trì tương ưng với căn thiện thù thắng, duyên nơi Tam-ma-địa vô nguyện vô học ở trước, tư duy về tướng vô thường. Ở nơi vô nguyện không nguyện mong, gọi là vô nguyện vô nguyện. Tức nêu lên dụ để hiển thị như trước nên biết.

Lập lại hành tướng vô thường của đẳng trì vô nguyện, về sau khởi tức trở lại cùng với hành tướng vô thường tương ưng, chỉ vì hành tướng này, có khả năng duyên nơi đạo nhàm chán. Không phải hành tướng khổ có thể duyên nơi Thánh đạo, vì Thánh đạo không phải là khổ mà chỉ là hướng đến diệt khổ. Pháp khổ không thể hướng đến khổ tịch diệt, cũng không phải là bốn thứ như nhân v.v… có thể duyên nơi Thánh đạo, vì Thánh đạo không thể khiến cho khổ nối tiếp.

Bốn thứ như phi đạo v.v… thì đây là đạo chán bỏ, nên không phải hành tướng ưa thích có thể khiến chán bỏ.

Há không phải như vô nguyện, không nguyện mong nơi Thánh đạo mà tạo ra bốn thứ như đạo v.v…, đạo chán lìa này cũng nên như vậy?

So sánh này là không đúng. Vì vô nguyện chính là nhàm chán nơi hữu gồm luôn ở nơi Thánh đạo khởi tâm không mong muốn.

Nghĩa là vô nguyện trước chính là nhàm chán nơi hữu. Vì Thánh đạo dựa vào hữu, nên gồm luôn không mong muốn. Tuy ý lạc của Thánh nói không mong muốn nơi đạo. Nhưng đối với Thánh đạo, không phải là đang chán ghét, nên cũng có thể tạo ra bốn thứ như đạo v.v… Vô nguyện, vô nguyện chính là đạo chán ghét, nên dùng vô thường để quán lỗi lầm của đạo. Hành tướng như đạo v.v… không cùng có chán đạo. Thế nên ở đây không tạo ra bốn thứ kia.

Tam-ma-địa vô tướng, vô tướng tức duyên nơi vô tướng vô học, dùng phi trạch diệt làm cảnh, do pháp vô lậu không có trạch diệt, nên chỉ nhận lấy tướng tĩnh, không phải diệt, diệu ly. Nghĩa là hành giả kia trước khởi đẳng trì vô học, ở trong trạch diệt tư duy về tướng tĩnh. Từ đấy về sau khởi đẳng trì tương ưng với căn thiện thù thắng. Tức duyên nơi Tam-ma-địa vô tướng vô học, dùng phi trạch diệt làm cảnh, tư duy về tướng tĩnh, ở nơi vô tướng diệt, lại quán là vô tướng, gọi là vô tướng vô tướng. tức nêu lên dụ để hiển thị như trước nên biết.

Lập lại hành tướng tĩnh của đẳng trì vô tướng v.v…, về sau khởi tức trở lại cùng với hành tướng tĩnh tương ưng. Chỉ hành tướng này là có thể quán về phi trạch diệt, không phải là cảnh của hành tướng diệu, vì là vô ký. Không phải là hành tướng ly, vì tuy chứng đắc phi trạch diệt kia, nhưng cũng còn thuận theo trói buộc. Không phải là hành tướng diệt, do phi trạch diệt không phải giải thoát vĩnh viễn hết thảy khổ. Lại, nếu quán diệt thì có thể lẫn lộn với vô thường.

Nói tĩnh chỉ là làm rõ về thôi dứt, nên phi trạch diệt có được tướng tĩnh. Do tu Thánh đạo trải qua thời gian lâu khó nhọc, ở trong chỗ nghỉ ngơi kia, liền sinh tưởng lạc, nên lập lại vô tướng, nhận lấy tĩnh, không phải thứ khác. Ba đẳng trì lập lại chỉ là hữu lậu, do ở nơi Thánh đạo sinh chán bỏ, không phải định vô lậu chán bỏ Thánh đạo.

Hai thứ kia duyên nơi Thánh đạo, nhận lấy không, vô thường, về lý có thể gọi là chán bỏ Thánh đạo, vô tướng vô tướng chỉ duyên nơi vô vi, tạo ra hành tướng tĩnh. Vì sao gọi là chán đạo?

Vì hành giả này ưa thích đẳng trì vô tướng vô học, không nhân nơi đấy chuyển nên gọi là chán đạo. Nghĩa là nghĩa khởi của định kia, nói thế này: Đẳng trì vô tướng không sinh là tốt.

Hành giả này đã vui thích tán thán Thánh đạo không sinh, vì sao không gọi là chán bỏ Thánh đạo?

Định vô tướng trước không phải là đối tượng duyên của định này, vì sao định này gọi là vô tướng, vô tướng?

Hoặc nên thừa nhận định này không duyên nơi phi trạch diệt, chỉ duyên nơi vô tướng vô học không sinh. Giải thích này cũng không đúng. Nên căn cứ theo giải thích trước. Nghĩa là duyên nơi phi trạch diệt của vô tướng. Phi trạch diệt này cũng lìa các tướng, vì duyên nơi vô tướng, vô tướng, nên được danh xưng vô tướng vô tướng. Duyên nơi cảnh của vô tướng tạo ra hành tướng tĩnh. Thế nên định ấy từ cảnh lập danh.

Chỉ người của ba châu có thể khởi định này, dựa chung nơi nam nữ. Do dựa nơi thân nữ cũng có thể đạt được thọ mạng dài, ngắn tự tại. Chỉ vị vô học, do người hữu học chỉ ưa thích Thánh đạo, chưa có thể nhàm chán. Điều này cũng không phải là tất cả, chỉ là bất thời giải thoát, do thời giải thoát thì yêu thích Thánh đạo. Dựa nơi mười một địa, trừ biên của bảy địa trên, do biên của bảy địa trên không có đức hơn hẳn. Nếu ở nơi cõi dục thì từ vị chí gồm thâu, sau Thánh đạo khởi. Nếu ở nơi xứ Hữu đảnh thì vô sở hữu xứ gồm thâu sau Thánh đạo sinh. Địa khác thì đều sau Thánh đạo của tự địa khởi. Căn cứ nơi loại chung để nói, định này từ bốn trí pháp, loại, khổ, diệt vô gián mà sinh. Nếu căn cứ theo riêng để nói, thì người thuộc cõi dục, không phải sau loại sinh. Người thuộc về cõi trên không phải sau pháp khởi. Hai thứ trước không phải sau diệt khởi. Thứ ba không phải là sau khổ sinh. Hành tướng khác thì khởi sau định này. Nên được định này đều là thời gian có tận trí.

Do lìa nhiễm đắc, về sau do gia hạnh mới khởi hiện tiền. Chỉ Đức Thế Tôn là không do gia hạnh. Thuận hướng đến giải thoát khởi định này hiện tiền, đối với đạo hãy còn chán, há ưa thích các hữu. Sau đấy cũng khởi Thánh đạo hiện tiền, nhưng vì chán đạo, nên không phải vô gián khởi.

Người thuộc cõi dục là do tư tạo thành. Số còn lại do tu tạo thành, dựa nơi định khởi. Khế kinh lại nói: Có bốn thứ tu đẳng trì: (1) trụ nơi hiện pháp lạc, tu Tam-ma-địa. (2) Vì được tri kiến thù thắng tu Tam-ma-địa. (3) Vì được tuệ phân biệt tu Tam-ma-địa. (4) Vì các lậu vĩnh viễn dứt hết tu Tam-ma-địa. Bốn thứ như thế, tướng có khác nhau như thế nào? Tụng nêu:

Vì được hiện pháp lạc

Tu các tĩnh lự thiện

Vì được tri kiến hơn

Tu thiên nhãn thông tịnh.

Vì được tuệ phân biệt

Tu các gia hạnh thiện

Vì đắc các lậu tận

Tu định kim cương dụ.

Luận nói: Như Khế kinh nói: Có tu đẳng trì, hoặc tập hoặc tu, hoặc hành tác nhiều, được hiện lạc trụ, cho đến nói rộng.

Nói thiện là gồm thâu chung tịnh và vô lậu. Tu các tĩnh lự thiện được trụ nơi hiện pháp lạc. Nhưng kinh chỉ nói tĩnh lự thứ nhất, vì ở trong đó tưởng lạc rất tăng thịnh. Nghĩa là vượt qua rất nhiều lỗi lầm của cõi dục, nên ở trong đây tưởng lạc tăng nhiều. Như đi qua vùng sa mạc nóng bức, mỏi mệt, khát nước mới uống nước đục, cũng sinh vui hơn. Hoặc lạc của Thánh đạo, ở đây có đủ. Nghĩa là đủ tất cả pháp Bồ-đề phần, bốn quả Sa-môn, chín đoạn nhận biết khắp đối trị ba cõi. Lại, nhân lạc của các định là đứng đầu của các định, thế nên nói riêng.

Há không phải là kinh đã nói: Bí-sô như thế trụ nơi Thánh đạo này, trước thọ ly sinh hỷ lạc, sau sinh nơi trời Phạm chúng, thọ nhận lạc đồng với đây. Vì sao không nói trụ nơi pháp lạc sau?

Rõ ràng ở đây chỉ nói về hiện pháp lạc, vì khiến dứt bỏ lạc hiện có là dục lạc, nói lạc của định hiện có để cho hành giả kia ưa thích. Hoặc hiện lạc trụ là chỗ dựa của lạc sau, chỉ nói đối tượng nương dựa, thì chủ thể nương dựa đã hiển bày. Như Khế kinh nói: Trước trụ trong khoảng này, nhập các đẳng chí. Về sau mới sinh nơi xứ kia. Hoặc hiện pháp lạc, ba thừa đều trụ, lạc sau thì không nhất định, thế nên không nói. Nghĩa là hoặc thoái mất, hoặc thọ sinh ở địa trên, hoặc bát Niết-bàn tức không trụ. Tuy các tĩnh lự tức là hiện pháp lạc, vì dựa vào cận phần, nên nói từ là được, vì sức của tu cận phần, đạt được căn bản. Hoặc tức dựa nơi hiện lạc để nói chữ là được. Như nói thể của thân tử, nên không có lỗi.

Có thuyết cho: Định này Đức Phật dựa vào Tự thuyết. Như nói: Bồ-tát ở nơi rừng Thiệm Bộ, đầu tiên khởi tưởng thế gian, dựa nơi định vô lậu có thể dẫn sinh lạc chung của tất cả hữu tình. Do đấy không nói pháp lạc trụ sau. Tức do đấy nên cũng chỉ nói là đầu tiên. Bồ-tát bấy giờ chỉ được đầu tiên. Nếu dựa nơi các định, tu thiên nhãn thông, liền có thể đạt được tri kiến thù thắng.

Ở đây dựa nơi nghĩa nào để lập danh xưng tri kiến?

Trong tĩnh lự căn bản, có trí biến chiếu. Vì sự chiếu khắp này, nên dùng lập tên gọi kiến. Thể của kiến tức tri (nhận biết), nên gọi là tri kiến. Nhãn căn gọi kiến thế gian đã cực thành. Vì phân biệt khác với kiến kia, nên dùng tri để nêu rõ kiến. Hoặc tức kiến này, vì quyết đoán về đối tượng duyên, nên gọi là tri. Tức cũng gọi là kiến. Nghĩa là tĩnh lự căn bản là đạo lạc hành, không nhiều khó nhọc mà được hiện tiền. Vì không khó nhọc, nên thể kia rất vững chắc. Do thể vững chắc nên dụng quyết định. Vì dụng quyết định nên dùng lập tên gọi tri. Nghĩa của kiến như trước nên gọi là tri kiến, vì tri là kiến. Tu đẳng trì này tức là vì cầu nghĩa soi chiếu quyết định. Đẳng trì này cũng là do Đức Thiện Thệ dựa vào tự mình để giảng nói. Nghĩa là vì nhằm hiển bày Đức Phật dùng thiên nhãn thông quán xét về các hữu tình nơi chốn hiểm nạn sinh tử, mới vì họ cứu độ, nên khởi tĩnh lự v.v… Tức vì tri kiến nên tu thiên nhãn thông.

Có Sư khác nói: Vì muốn chế phục thắng các tùy phiền não nên khởi tri kiến thù thắng. Khởi tri kiến thù thắng này không lìa tưởng ánh sáng. Tưởng ánh sáng ấy dẫn sinh thiên nhãn thông. Do thiên nhãn thông nên được tri kiến thù thắng . Nếu tu các gia hạnh thiện và vô lậu thiện của ba cõi thì được tuệ phân biệt. Nghĩa là từ cõi dục cho đến xứ Hữu đảnh. Các pháp thiện do văn, tư, tu tạo thành và tất cả hữu vi, vô lậu khác, nói chung gọi là pháp thiện gia hạnh. Tu pháp thiện này có thể dẫn tuệ sinh, vì ở trong các cảnh có sai biệt mà chuyển, nên nói tu pháp thiện này được tuệ phân biệt. Như nói Đức Thiện Thệ trụ nơi hai tầm, tư, có thể nhận biết như thật các thọ khởi v.v… Đây là làm rõ do tu thiện nên được tuệ phân biệt. Nói hai chữ gia hạnh là để phân biệt với sinh đắc, không phải tu tập sinh đắc, vì được pháp chưa từng được. Nếu tu định kim cương dụ, tức được các lậu vĩnh viễn dứt hết. Nghĩa là nếu tu tập định kim cương dụ và pháp tùy chuyển của tĩnh lự thứ tư, tức có thể đạt được các lậu vĩnh viễn dứt hết.

Tĩnh lự thứ tư là xứ Đức Phật đã nương dựa để tự thuyết. Vì Bồ-đề vô thượng dựa vào tĩnh lự này mà chứng đắc. Nên định kim cương dụ tức khắc chứng đắc lậu tận, dẫn tận trí sinh.

Có thuyết cho: Tất cả các thứ đối trị đoạn của xứ Hữu đảnh, tĩnh lự thứ tư đều đã gồm thâu chúng. Kinh này đã nói: Hoặc tập, hoặc tu, hoặc nhiều hành tác, về nghĩa sai biệt, là muốn hiển thị về tu tập, tu đắc, đối tượng đối trị lại xa, như thứ lớp ấy.

HẾT – QUYỂN 39