LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 22

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 5

Lại, trong kinh nói: Có ba mâu ni. Lại, trong kinh nói: Có ba thanh tịnh. Đều cùng có thân, ngữ, ý. Tướng của mỗi thứ như thế nào?

Tụng nêu:

Nghiệp thân, ngữ vô học

Tức ý ba mâu ni

Ba thanh tịnh nên biết

Tức các ba hành diệu.

Luận nói: Thân nghiệp vô học gọi là thân mâu ni. Ngữ nghiệp vô học gọi là ngữ mâu ni. Tức ý vô học gọi là ý mâu ni, không phải là ý mâu ni. Ý nghiệp làm thể.

Do đâu chỉ nói trong sắc, thức uẩn có mâu ni này, không phải ở nơi uẩn khác?

Có Sư khác cho: Nêu dẫn loại sau và loại đầu để làm rõ về trung gian là cũng có nghĩa này.

Nghĩa như thật: Tức mâu ni của thắng nghĩa chỉ tâm làm thể. Nên Khế kinh nói: Vì tâm tịch tĩnh nên hữu tình tịch tĩnh. Mâu ni của tâm này do nghiệp thân, ngữ lìa các thứ ác, có thể dùng so sánh để nhận biết ý nghiệp ở đây không có công dụng của chủ thể so sánh, chỉ chủ thể, đối tượng so sánh kết hợp để lập mâu ni.

Vì sao mâu ni chỉ ở nơi vô học?

Vì A-la-hán là mâu ni thật, do các phiền não, nói là đã vĩnh viễn vắng lặng. Ba thứ hành diệu của các thân, ngữ, ý, gọi là ba thứ thanh tịnh của thân, ngữ, ý. Hành diệu vô lậu đã vĩnh viễn lìa phiền não cấu uế của hành ác, nên có thể gọi là thanh tịnh.

Hành diệu hữu lậu cũng còn bị phiền não của hành ác cấu nhiễm, vì sao gọi là thanh tịnh? Vì hành diệu hữu lậu này cũng tạm thời có thể lìa phiền não cấu uế của hành ác, nên được mang tên thanh tịnh. Hoặc vì sức của hành diệu hữu lậu này có khả năng dẫn khởi thanh tịnh của thắng nghĩa vô lậu nên lập tên thanh tịnh.

Nếu cho vì hành diệu hữu lậu này cũng có thể dẫn khởi phiền não cấu uế, nghĩa là tạo đẳng vô gián duyên của phiền não, tức là không nên gọi là thanh tịnh.

Điều ấy cũng phi lý, vì khi tâm thiện khởi, không phải là gia hạnh của tâm nhiễm khởi, nên tâm nhiễm vô gián, vô lậu không sinh. Do tâm thiện hữu lậu có thể dẫn khởi vô lậu, nên thiện hữu lậu được mang tên thanh tịnh, vì thuận với tâm vô lậu tức có thể loại trừ cấu uế. Nên nói hai hành diệu này là dứt bỏ các hữu tình đã chấp về mâu ni tà, thanh tịnh tà.

Lại, trong kinh nói có ba hành ác. Lại, trong kinh nói có ba hành diệu. Đều cùng có thân, ngữ, ý.

Tướng của mỗi thứ như thế nào?

Tụng nêu:

Nghiệp thân, ngữ, ý ác

Gọi là ba hành ác

Cùng tham, sân, tà kiến

Ngược đấy ba hành diệu.

Luận nói: Tất cả gia hạnh hậu khởi của hai nghiệp thân, ngữ bất thiện cùng với căn bản và tư bất thiện, như thứ lớp gọi là hành ác của thân, ngữ, ý. Tuy nhiên, hành ác của ý lại có ba thứ, nghĩa là tham, sân, tà kiến, chúng không phải là ý nghiệp.

Há không phải là Khế kinh cũng nói: Tham v.v… gọi là ý nghiệp, vì sao nay nói tham, sân, tà kiến không phải là ý nghiệp?

Vì là tư lương của nghiệp, nên cũng gọi là nghiệp. Như tư lương của lậu, cũng gọi là lậu v.v…, vì đã bị các Thánh Hiền chê trách, chán bỏ. Lại, có thể chiêu cảm quả phi ái. Vì hành này tức ác nên gọi là hành ác. Ba hành diệu: Tức là trái với đây, nên biết. Nghĩa là tất cả gia hạnh hậu khởi của hai nghiệp thân, ngữ thiện cùng với căn bản và các tư thiện, như thứ lớp, gọi là hành diệu của thân, ngữ, ý. Nhưng hành diệu của ý lại có ba thứ là không tham, không sân và chánh kiến. Chúng không phải là nghiệp. Vì được người trí khen ngợi. Vì đã chiêu cảm quả ái. Vì hành này tức diệu, nên gọi là hành diệu. Chánh kiến, tà kiến tuy không phải tăng ích, tổn giảm người khác, nhưng vì là gốc của ý nghiệp kia, nên cũng thành thiện, ác.

Lại, trong kinh nói. Có mười nghiệp đạo hoặc thiện, hoặc ác. Tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Đã nói mười nghiệp đạo

Gồm trong hành diệu, ác

Phẩm thô là tánh kia

Như hợp thành thiện ác.

Luận nói: Ở trước đã nói trong hành diệu ác, nếu thô rõ dễ nhận biết thì gồm thâu làm mười nghiệp đạo. Như chỗ ứng hợp, nếu thiện thì gồm thâu hành diệu trước. Nghiệp đạo bất thiện thì gồm thâu hành ác trước. Những hành diệu, hành ác nào không gồm thâu?

Là gia hạnh hậu khởi v.v… Vì các thứ kia không phải là thô, rõ. Lại, ở trong mười nghiệp đạo bất thiện, nếu hành ác của thân khiến cho hữu tình khác phải bị mất mạng, mất của cải, mất thê thiếp v.v…, thì nói là nghiệp đạo, là khiến xa lìa. Nếu là hành ác của ngữ, tạo lỗi lầm rất nặng, tức nói là nghiệp đạo, là khiến xa lìa. Nếu là hành ác của ý đã tham, sân v.v… nặng thì nói là nghiệp đạo, là khiến xa lìa. Gia hạnh, hậu khởi và các lỗi khác nhẹ cùng tư bất thiện đều không phải nghiệp đạo.

Ở trong nghiệp đạo thiện thì nghiệp đạo thiện của thân ở nơi hành diệu của thân, không gồm thâu một phần. Nghĩa là gia hạnh, hậu khởi và thân nghiệp thiện khác, tức lìa uống rượu, cắt bỏ cỏ, thí cho v.v… Nghiệp đạo thiện của ngữ đối với hành diệu của ngữ, không gồm thâu một phần. Nghĩa là ái ngữ v.v… Nghiệp đạo thiện của ý đối với hành diệu của ý, không gồm thâu một phần. Nghĩa là các tư thiện. Trong mười nghiệp đạo thì bảy nghiệp đạo trước là đều nhất định có biểu, vô biểu chăng?

Không phải vậy. Vì sao?

Tụng nêu:

Ác sáu, định vô biểu

Ác tự tạo dâm hai

Thiện bảy, thọ sinh hai

Định sinh chỉ vô biểu.

Luận nói: Trong bảy nghiệp đạo ác, thì sáu thứ nhất định có vô biểu, nghĩa là sát sinh v.v… trừ dục tà hạnh, không phải sáu như thế. Nếu sai bảo người khác làm, đến khi là căn bản, thì có biểu sinh. Nếu tự tạo tác sáu nghiệp đạo kia, thì sáu nghiệp đạo ấy đều có hai là biểu và vô biểu. Nghĩa là lúc khởi biểu thì người kia liền chết v.v… hay về sau mới chết v.v…, thì cùng với sai khiến là đồng. Lúc thành căn bản thì chỉ có vô biểu. Chỉ dục tà hạnh tất gồm đủ hai thứ, chủ yếu là tự thân đã tạo thành xong xuôi, không phải sai khiến người khác làm, như tự mình sinh vui mừng.

Bảy nghiệp đạo thiện, nếu từ thọ sinh, tất đều gồm đủ cả hai, nghĩa là biểu, vô biểu. Vì thọ sinh Thi la, tất dựa vào biểu. Luật nghi thuộc về tĩnh lự vô lậu, gọi là định sinh. Định sinh này chỉ có vô biểu, vì chỉ dựa nơi sức của tâm mà được sinh.

Gia hạnh hậu khởi là như căn bản chăng? Không phải vậy. Vì sao?

Tụng nêu:

Gia hạnh định hữu biểu

Vô biểu hoặc có, không

Hậu khởi cùng trái đây.

Luận nói: Gia hạnh của nghiệp đạo tất định là có biểu. Vô biểu của phần vị này hoặc có, hoặc không có. Nếu triền mãnh liệt với tâm thuần tịnh khởi, thì có vô biểu. Khác với đây thì không có. Hậu khởi thì trái với trước, nên nhất định có vô biểu. Biểu nghiệp của phần vị này hoặc có, hoặc không có. Vô biểu của sát-na thứ hai là bắt đầu, gọi là hậu khởi, nên vô biểu này nhất định là có. Nếu vào bấy giờ, khởi tùy theo nghiệp trước, thì cũng có biểu. Khác với đây tức là không có. Ở trong nghĩa này, kiến lập nghiệp đạo. Còn các tướng khác nhau của gia hạnh, căn bản, hậu khởi như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã biện rộng, nên biết.

Lại, Khế kinh nói: Bí-sô nên biết, sát sinh có ba thứ: (1) Từ tham sinh. (2) Từ sân sinh. (3) Từ si sinh.

Cho đến tà kiến có ba thứ cũng như vậy.

Há không phải các nghiệp đạo vào thời gian cứu cánh đều do ba căn chăng?

Đức Phật nói như vầy: Không phải các nghiệp đạo vào thời gian cứu cánh đều do ba căn, vì gia hạnh có khác.

Thế nào là có khác?

Tụng nêu:

Gia hạnh, ba căn khởi

Vì vô gián kia sinh

Ba căn tham cùng sinh.

Luận nói: Khi gia hạnh của nghiệp đạo bất thiện sinh, thì mỗi mỗi đều do ba căn bất thiện khởi. Vì dựa vào cùng khởi ở trước, nên nói như thế.

Gia hạnh của sát sinh, do tham khởi: Như có kẻ tham các phần thân như răng, tóc của người kia, hoặc vì được của cải, hoặc vì được vui đùa, hoặc vì để cứu giúp bạn thân, tự thân, nên từ tham dẫn khởi gia hạnh của sát sinh.

Từ sân khởi: Như vì để trừ bỏ kẻ oán đối, nên phát sinh tâm giận dữ, khởi gia hạnh của sát sinh.

Từ si khởi: Như người Ba Thích Tư nói như thế này: Cha mẹ già bệnh, nếu khiến mạng chung, tức sinh phước thù thắng, do khiến giải thoát khỏi chúng khổ hiện tại, mới được thân hơn hẳn, căn sáng rõ nhanh nhẹn. Lại cho sát sinh là trong pháp cúng tế. Lại, các vị vua v.v… đã dựa vào pháp luật thế gian, giết kẻ oán địch, loại trừ bỏ đám hung dữ, cho là thành phước lớn, nên khởi gia hạnh sát sinh. Lại, ngoại đạo nói: Rắn, rít, ong v.v… là những thứ độc hại của con người, giết chúng liền được phước. Dê, nai, trâu và các loại cầm thú khác, vốn là để cung cấp thức ăn, nên giết chúng thì không có tội. Lại, nhân nơi tà kiến mà sát hại chúng sinh.

Các gia hạnh này đều từ si khởi. Sáu gia hạnh còn lại từ ba căn sinh, như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã biện rộng về tướng của chúng.

Gia hạnh như tham v.v… vì sao từ ba?

Do từ ba căn vô gián sinh. Nghĩa là từ ba căn bất thiện như tham v.v…, vô gián đều cùng sinh ba nghiệp đạo.

Do đấy đã làm rõ từ tham, sân, si vô gián tương ưng sinh ba gia hạnh, dựa nơi nghĩa vô gián cũng sinh nghiệp đạo.

Đã nêu bày về bất thiện từ ba căn sinh. Còn thiện thì thế nào?

Tụng nêu:

Thiện ở trong ba vị

Đều ba căn thiện khởi.

Luận nói: Gia hạnh căn bản, hậu khởi hiện có của các nghiệp đạo thiện đều từ căn thiện không tham, không sân, không si khởi, do ba phần vị thiện đều là tâm thiện đã cùng khởi. Tâm thiện cùng với ba thứ căn thiện tương ưng chung.

Ba phần vị thiện này tướng của chúng như thế nào?

Nghĩa là xa lìa phần vị của ba bất thiện trước, phần vị của ba thứ hiện có, nên biết là thiện. Lại như khi Cần sách thọ cụ giới, đến vào giới đàn, lễ chúng Bí-sô, chí thành phát ngữ thỉnh Thân giáo sư, cho đến một lần bạch nhị yết-ma, đều gọi là gia hạnh của nghiệp đạo thiện. Bạch yết-ma lần thứ ba xong, biểu nghiệp, vô biểu nghiệp trong một sát-na, gọi là căn bản nghiệp đạo.

Từ đây về sau, cho đến nói về bốn y và phần còn lại, nương theo giới thọ trước cùng nối tiếp tùy chuyển. Biểu nghiệp, vô biểu nghiệp này đều gọi là hậu khởi.

Như trước đã nói, không phải các nghiệp đạo ở nơi phần vị cứu cánh đều do ba căn.

Nên nói do căn nào là cứu cánh nơi nghiệp đạo nào?

Tụng nêu:

Sát, ngữ thô, giận dữ

Cứu cánh đều do giận

Trộm, tà hạnh và tham

Đều do tham cứu cánh

Tà kiến, si cứu cánh

Thuận còn lại do ba.

Luận nói: Trong nghiệp đạo ác, các nghiệp đạo sát sinh, nói lời thô ác, giận dữ thì do giận dữ là cứu cánh, chủ yếu là không có đoái hoài. Khi tâm cực thô ác hiện ở trước, thì ba nghiệp đạo này là thành. Các thứ không cho mà lấy, dục tà hạnh, tham, thì ba nghiệp đạo này do tham là cứu cánh, chủ yếu là có chiếu cố. Khi tâm cực nhiễm ô hiện ở trước, thì ba nghiệp đạo này là thành. Tà kiến là cứu cánh, chủ yếu là do ngu si, do si phẩm thượng hiện ở trước là thành. Ba nghiệp đạo nói lời hư dối, ly gián, uế tạp, mỗi mỗi đều thừa nhận cùng do ba là cứu cánh. Do khi tham, sân v.v… hiện ở trước, mỗi mỗi có thể khiến ba nghiệp đạo này thành.

Các nghiệp đạo ác ở nơi xứ nào khởi?

Tụng nêu:

Hữu tình đủ danh sắc

Xứ như danh thân khởi.

Luận nói: Như trước đã nói về bốn phẩm nghiệp đạo thì ba, ba, một, ba, tùy theo thứ lớp ấy, ở nơi bốn xứ như hữu tình v.v… mà sinh. Nghĩa là ba nghiệp đạo như sát sinh v.v… thì ở nơi xứ hữu tình khởi, chủ yếu chờ đợi hữu tình thì nghiệp đạo này sinh. Nên không phải chỉ chờ đợi vật bên ngoài thì nghiệp đạo này liền sinh.

Há không phải ba nghiệp đạo này cũng ở nơi xứ danh sắc khởi, vì một uẩn, một niệm cũng được mang tên danh sắc.

Ba nghiệp đạo này chủ yếu là dựa chung nơi các uẩn. Ba thứ nghiệp đạo như trộm cắp (không cho mà lấy) v.v… là ở nơi xứ nhiều vật dụng khởi. Do đối với vật đã thọ dụng của hữu tình khác, muốn gồm thâu thuộc về mình, thì nghiệp đạo mới thành. Tuy có chờ đợi hữu tình nhưng nhiều vật dụng là hơn, nên nói ba thứ nhờ vào nhiều vật dụng nên thành. Chỉ có một nghiệp đạo tà kiến là ở nơi xứ danh sắc khởi. Do tà kiến này đã bác bỏ cho không có pháp danh sắc. Tuy tà kiến ấy cũng bác bỏ Niết-bàn cho là không có, nhưng môn danh sắc, bác bỏ cho không có vĩnh viễn diệt, nghĩa là hãy còn không có khổ, huống chi là Niết-bàn khổ. Thế nên chỉ nói ở nơi xứ danh sắc khởi.

Há không phải là tà kiến cũng bác bỏ hữu tình, vì sao chỉ nói ở nơi xứ danh sắc khởi?

Do tà kiến này duyên riêng nơi danh sắc cũng sinh. Nên chỉ bác bỏ danh sắc, là đối tượng nương dựa của hữu tình. Còn bác bỏ chủ thể nương dựa (hữu tình) là giả, không nói tự thành. Lại, trong Thánh giáo, có, không có hữu tình, về lý tất không có danh sắc, cũng không có đồng với hữu tình. Bác bỏ về thật cho là không có, là nặng, nên thành nghiệp đạo. Bác bỏ cho là không có pháp giả, là nhẹ, nên không phải là nghiệp đạo. Thế nên không nói ở nơi xứ hữu tình khởi.

Ba nghiệp đạo như nói lời hư dối v.v… thì ở nơi xứ danh thân v.v… khởi. Vì thể của ngữ tất dựa vào danh v.v… khởi. Ngữ tuy cũng nhờ nơi hữu tình v.v… sinh, nhưng chính là gần gũi dựa vào danh thân v.v… khởi. Lại, lời nói uế tạp không chờ đợi hữu tình, nhưng không có không nhờ dựa nơi danh thân v.v… Hoặc dựa nơi xứ không chung để lập nghiệp đạo thì không lỗi.

Lời nói thô ác tuy dựa vào danh thân v.v… để khởi, nhưng e cho là chỉ dựa nơi bên ngoài, nghiệp đạo này cũng thành, nên nói chỉ dựa vào xứ hữu tình khởi. Lại phát ra lời nói thô ác, là không có nhờ nơi ngôn từ, nên không nói là dựa vào danh thân v.v… để khởi.

Do đâu để kiến lập thành nghiệp đạo sát sinh?

Nghĩa là do gia hạnh và do quả mãn. Đối với hai phần này, theo đấy khi thiếu một, thì không là căn bản của tội sát sinh đã thực hiện.

Từng có kẻ sát sinh khởi gia hạnh sát sinh và khiến quả mãn, nhưng kẻ ấy không bị cho là đã phạm tội sát sinh chăng?

Có. Vì sao?

Tụng nêu:

Cùng chết và chết trước

Không căn, dựa vào riêng.

Luận nói: Nếu người là chủ thể sát hại, khởi gia hạnh sát sinh, quyết định muốn giết người khác, đã cùng với đối tượng bị sát hại giết đều cùng lúc bỏ mạng, hoặc chết ở trước, thì nghiệp đạo của kẻ là chủ thể sát hại kia tức không thành. Vì sao? Vì kẻ của đối tượng bị sát hại mạng chưa đoạn. Do người là chủ thể sát hại, mạng kia đã hết, vì dựa riêng vào phần còn sống. Nghĩa là đối tượng nương dựa của gia hạnh sát hại là thân nay đã đoạn dứt. Tuy có đồng phần của thân thuộc loại riêng sinh, không phải là chỗ dựa của tội, nhưng người này từng chưa khởi gia hạnh sát sinh để thành nghiệp đạo sát sinh. Về lý là không ứng hợp.

Nếu có nhiều người tu tập thành đoàn quân muốn giết kẻ oán địch, hoặc săn bắt thú v.v… Trong ấy tùy theo lúc có một sự việc sát sinh, thì người nào được thành nghiệp đạo sát sinh?

Tụng nêu:

Nếu đồng sự như quân

Đều thành như tác giả.

Luận nói: Ở trong đoàn quân v.v…, nếu tùy theo đấy có một người làm việc sát sinh, như tự mình làm, thì tất cả đều thành nghiệp đạo sát sinh. Do những người ấy đồng thừa nhận làm một sự việc. Như vì một sự việc lần lượt chỉ bảo nhau, nên một người sát sinh, thì những người còn lại đều đắc tội. Nếu có sức của người khác bức bách đưa vào trong đây, thì nhân tức đồng tâm, cũng thành tội sát.

Chỉ trừ nếu có lập lời thề có kỳ hạn cần thiết, tuy là lý do để cứu mạng mình, cũng không hành sát, vì không có tâm giết, nên không đắc tội sát sinh.

Nay nên biện riêng về tướng của mười nghiệp đạo. Nghĩa là ngang với lượng nào thì gọi là sát sinh? Cho đến bằng với gì thì gọi là tà kiến? Lại, trước là phân biệt về tướng của sát sinh. Tụng nêu:

Sát sinh do cố tư

Tưởng khác, không giết lầm.

Luận nói: Chủ yếu do trước hết là phát khởi ý định muốn giết nên suy nghĩ đối với hữu tình khác, tưởng là hữu tình khác, tạo ra gia hạnh sát, không lầm mà sát hại. Nghĩa là chỉ giết kẻ kia, không giết bay nơi kẻ khác. Ngang tới đây gọi là nghiệp đạo sát sinh. Có trường hợp mang tâm do dự gốc cây trụi hay là người. Nếu như lại là người, là người kia hay không phải người kia? Nhân dấy khởi quyết chí: Hoặc đúng, hoặc sai, ta nhất định sẽ giết. Do tâm không có đoái nghĩ, nếu giết hữu tình cũng thành nghiệp đạo.

Nghiệp đạo như thế, hoặc định, hoặc nghi, chỉ gồm đủ duyên sát, đều có lý thành.

Ở nơi sát-na diệt hành sát sinh thì tội vì sao thành?

Do khởi tâm ác, hành gia hạnh sát sinh, khiến kẻ bị sát hại kia khi mạng hiện tại diệt, không thể làm nhân dẫn sinh mạng đồng loại. Vì chướng ngại mạng nên sinh, vì khiến vĩnh viễn không sinh, nên gọi là sát sinh. Do đấy mắc tội.

Đã phân biệt về sát sinh. Sẽ biện về không cho mà lấy. Tụng nêu:

Không cho, lấy vật người

 Sức trộm lấy thuộc mình.

Luận nói: Trước nói không lầm v.v…, như chỗ ứng hợp truyền dẫn đến sau. Nghĩa là chủ yếu trước hết, phát khởi ý định muốn trộm, nên suy nghĩ, ở trong vật dụng của người khác, khởi tưởng là vật của người khác, hoặc dùng sức, hoặc lén lút, khởi gia hạnh trộm cắp, không lầm mà lấy, khiến cho thuộc về thân mình. Ngang tới đây gọi là tội không cho mà lấy. Nếu có kẻ trộm lấy vật của tháp thờ xálợi Phật, thì đắc tội đối với Đức Phật. Phật sắp nhập Niết-bàn đã thọ nhận chung vật dụng dâng cúng của thế gian.

Lấy trộm vật của Tăng đã qua đời, các vật ấy đã tác yết-ma thì đối với Tăng trong giới đắc tội lấy trộm. Yết-ma chưa xong thì đối với tất cả Tăng. Nếu các thứ voi, ngựa v.v… lấy trộm của người khác thì đem ra khỏi trú xứ, nghiệp đạo mới thành.

Đã biện về không cho mà lấy. Sẽ biện về dục tà hạnh. Tụng nêu:

Dục tà hạnh: Bốn thứ

Làm việc không nên làm.

Luận nói: Gồm chung có bốn thứ việc làm không nên làm, đều được gọi là tội dục tà hạnh:

1. Đối với phi cảnh. Nghĩa là người nữ được người khác bảo hộ. Hoặc mẹ, hoặc cha, hoặc cả mẹ cha. Cho đến cảnh hoặc được chồng bảo hộ.

2. Đối với phi đạo. Nghĩa là nếu như nơi miệng và các đạo khác của vợ mình.

3. Đối với phi xứ. Nghĩa 1à ở trong phạm vi tháp chùa nơi chốn xa vắng.

4. Đối với phi thời. Nghĩa là thời kỳ mang thai, thời gian cho con bú, lúc thọ trai giới.

Có thuyết cho: Nếu người chồng đã bằng lòng cho vợ thọ trai giới mà có vi phạm, thì mới gọi là phi thời. Nói đã không lầm cũng chuyển đến đây. Nếu đối với vợ của người khác cho là vợ mình. Hoặc đối với vợ mình cho là vợ của người khác, thì đạo, phi đạo v.v…, chỉ có tâm ngộ nhận, tuy có hành tác, nhưng không phải là nghiệp đạo. Nếu đối với vợ của người khác này, khởi tưởng là vợ của người khác khác là hành phi phạm hạnh.

Có thuyết nói: Cũng thành nghiệp đạo. Vì khi gia hạnh thọ dụng đều ở nơi cảnh của người khác.

Có thuyết nêu: Như gia hạnh của nghiệp đạo sát không thành, vì cảnh trước của thời gian cứu cánh đều riêng khác. Bí-sô-ni v.v… thì như vợ có giới, nếu có xâm phạm cũng thành nghiệp đạo.

Đã biện về dục tà hạnh. Sẽ biện về nói lời hư dối. Tụng nêu:

Nhiễm tưởng khác, phát ngôn

Hiểu nghĩa, ngữ hư dối.

Luận nói: Nói theo sức nghe nên thành nói lời hư dối. Nghĩa là đối với điều đã nói khởi tưởng khác để phát ngôn cùng người bị lừa dối, hiểu được nghĩa đã nói. Tâm nhiễm không lầm mới thành nghiệp đạo, trừ kẻ bị lừa dối chưa hiểu. Như lời nói uế tạp đã thâu nhặt ngôn ngữ gồm nhiều chữ thành. Chủ yếu là ở nơi biểu nghiệp, vô biểu nghiệp của niệm sau cùng mới thành nghiệp đạo. Hoặc tùy nơi đối tượng bị lừa dối, hiểu nghĩa tức thành. Chữ trước đều cùng hành, đều là gia hạnh này.

Trong đây, hiểu nghĩa: Là căn cứ theo người bị lừa dối có thể hiểu, gọi là hiểu, không phải là hiểu đúng nghĩa.

Ngang tới đâu thì gọi là có thể hiểu, hiểu đúng?

Trước nghĩa là người hiểu, khi trụ nơi nhĩ thức. Sau nghĩa là có thể phân biệt đúng về nghĩa kia.

Nếu hiểu đúng nghĩa thì nghĩa do ý thức nhận biết, ngữ biểu, nhĩ thức đều cùng lúc diệt. Nên nghiệp đạo này chỉ có vô biểu thành.

Vì thế về lý là ứng hợp. Người nói nghĩa thiện thì trụ nơi nhĩ thức, trụ nghiệp đạo tức thành, có thể lừa dối thì gồm đủ biểu, vô biểu.

Có người nói: Đối tượng bị lừa dối tùy ở hiểu, không hiểu, chỉ do tưởng khác nói là nghiệp đạo tức thành. Không như vậy thì ở đây là đồng với nói lời ly gián. Nên tùy ở nhẫn, không nhẫn, chủ yếu là hiểu thì mới thành.

Kinh nói: Các thứ lời nói lược có mười sáu. Nghĩa là ở trong các sự việc không thấy, không nghe, không hiểu, không biết, nói là thật thấy v.v… Trong những điều đã thấy v.v…, nói là không thấy v.v… Tám thứ như thế, gọi là không phải lời nói của Thánh. Trong những sự việc không thấy v.v…, nói là không trông thấy v.v… Trong các sự việc đã trông thấy v.v…, nói là thật thấy v.v… Tám thứ như thế, gọi là lời nói của Thánh.

Những gì gọi là các tướng như đã thấy?

Tụng nêu:

Do nhãn, nhĩ, ý thức

Và ba khác đã chứng

Như thứ lớp gọi là

Đã thấy, nghe, biết, hiểu.

Luận nói: Nếu cảnh do mắt, tai, ý theo thức còn lại đã chứng, như thứ lớp gọi là đã thấy v.v… Mũi, lưỡi, thân căn, vì nhận lấy cảnh đến, nên gọi chung là hiểu (giác).

Kinh khác nói quyết định: Vì đối tượng nhận lấy của ba căn là đối tượng hiểu biết (giác).

Kinh nói: Đại mẫu! Ý của ông nghĩ sao? Các sắc hiện có không phải mắt ông đang thấy, không phải ông từng thấy, không phải ông sẽ thấy, không phải mong cầu thấy. Ông có nhân nơi sắc này mà khởi dục, khởi tham, khởi thân, khởi ái, khởi A-lại-da, khởi Ni-diên-để (chấp thủ), khởi tham vướng không?

Không như vậy, bạch Đại đức!

Các thanh hiện có không phải tai ông đang nghe, nói rộng cho đến các pháp hiện có, không phải ý ông đang nhận biết, nói rộng cho đến v.v… Không như vậy, bạch Đại đức!

Đức Phật lại bảo: Đại mẫu! Ở trong đây ông nên biết, đối tượng thấy chỉ có đã thấy. Nên biết đối tượng nghe, đối tượng hiểu, đối tượng biết chỉ có đã nghe, đã hiểu, đã biết.

Kinh này đã ở nơi cảnh của pháp sắc thanh, nói là đối tượng thấy, đối tượng nghe, đối tượng biết.

Căn cứ theo kinh này, tức ở nơi kinh khác, quyết định lập đối tượng hiểu. Nếu không thừa nhận như thế, thì đối tượng hiểu là gì? Lại, ba cảnh như hương v.v… bên ngoài như đã thấy v.v…, đối với ba cảnh kia tức nên không nói khởi.

Đã biện về nói lời hư dối. Sẽ biện về ba thứ còn lại. Tụng nêu:

Tâm nhiễm, hoại ngữ khác

Gọi là ngữ ly gián

Lời thô ác, phi ái

Các ngữ nhiễm tạp uế

Khác nói ba nhiễm khác

Nịnh, ca, các tà luận.

Luận nói: Nếu tâm nhiễm ô phát khởi lời nói hủy hoại người khác. Nếu người khác bị hủy hoại, không bị hủy hoại, đều cùng thành nói lời ly gián. Hiểu nghĩa không lầm, chuyển đến trong đây. Nếu dùng tâm nhiễm phát ra lời nói không yêu thích, hủy báng người khác, gọi là nói lời thô ác. Vì lời nói của tâm nhiễm ở trước đã chuyển đến đây, nên hiểu nghĩa không lầm, cũng đồng với trước. Tất cả tâm nhiễm đã phát khởi các lời nói, gọi là nói lời uế tạp, vì đều xen tạp, cấu uế, nên chỉ có chữ lời nói ở trước, truyền đến trong đây.

Có thuyết nói: Khác với ba lời nói trước, những lời nói còn lại do tâm nhiễm đã phát khởi như ca hát, dua nịnh, tà luận v.v…, mới là lời nói uế tạp thâu nhận. Nịnh, nghĩa là Bí-sô cầu danh lợi bất chánh, phát khởi ái ngữ dua nịnh. Ca, nghĩa là xướng hát, tâm nhiễm muốn làm vui 1òng người khác, nên tạo ra các thứ dua nịnh quanh co. Và tâm nhiễm ô, đọc ngâm, vui đùa với nhau. Tà luận nghĩa là như Thắng, Số, Minh luận v.v… Nếu thuật các ngôn từ ác kiến v.v… nghĩa là tâm nhiễm đã phát ra những lời nói buồn than cùng hý luận. Ngôn ngữ như ca vịnh của Luân vương hiện thời v.v…, là tùy thuận xuất ly, so với nhiễm là trái nhau, nên chúng đều không phải thuộc về ngôn ngữ uế tạp.

Có thuyết cho: Tà luận kia có nói đến các sự việc như cưới, gả v.v…, là lời nói uế tạp thâu nhận, không phải thuộc về nghiệp đạo, vì là loại bạc trần. Không dẫn vô biểu, không phải là không có vô biểu, có thể thuộc về nghiệp đạo.

Đã biện về ba ngữ. Sẽ biện về ý có ba.

Tụng nêu:

Dục ác, tham của người

Ghét, hữu tình: giận dữ

Các kiến bác thiện, ác v.v…

Gọi nghiệp đạo tà kiến.

Luận nói: Đối với vật dụng của cải của người khác khởi tham muốn phi lý, mưu cầu, khiến thuộc về mình. Hoặc dùng sức, hoặc lén lút.

Dục ác như thế, gọi là nghiệp đạo của tham. Đối với loài hữu tình khởi tâm ghét giận, muốn vì họ tạo bức bách, gọi là nghiệp đạo của sân. Đối với các thứ thiện, ác v.v… khởi ác kiến bác bỏ cho là không có, thì kiến này gọi là nghiệp đạo của tà kiến. Nêu lên phần đầu, gồm thâu phần sau, nên nói vân vân (Nơi câu tụng thứ ba). Nêu đầy đủ nên như Khế kinh đã nói. Hủy báng nhân, hủy báng quả, hủy báng cả hai. Đức Thế Tôn đã nêu chung có mười một loại tà kiến không đồng. Nghĩa là cho không có bố thí, cho đến nói rộng.

Như thế là đã biện về tướng của mười nghiệp đạo. Dựa vào nghĩa gì để giải thích về tên các nghiệp đạo?

Tụng nêu:

Trong đây ba chỉ đạo

Bảy nghiệp cũng là đạo.

Luận nói: Trong mười nghiệp đạo thì ba nghiệp đạo sau chỉ là đạo. Vì là đạo của nghiệp nên lập tên nghiệp đạo. Vì nghiệp đạo kia tương ưng với tư nên gọi là nghiệp. Vì nghiệp đạo kia chuyển nên chuyển. Vì nghiệp đạo kia hành nên hành.

Như theo thế mạnh của nghiệp đạo kia mà tạo tác. Bảy thứ trước là nghiệp, vì là nghiệp thân ngữ. Cũng là đạo của nghiệp, là đối tượng du hành của tư. Do có thể cùng khởi nghiệp thân, ngữ. Tư đã nhờ dựa nơi nghiệp thân, ngữ làm cảnh chuyển. Vì là nghiệp nơi đạo của nghiệp, nên lập tên nghiệp đạo. Vì thế ở trong đây nói nghiệp đạo: Là hiển bày đủ về nghĩa nghiệp đạo nơi nghiệp đạo của nghiệp. Tuy không đồng loại, nhưng một là khác, tức như trong Luận Thế Ký đã nêu đều cùng cực thành. Hoặc vì là đạo của nghiệp, nên gọi là nghiệp đạo. Vì cũng là nghiệp, cũng là đạo, nên gọi là nghiệp đạo. Đầy đủ tức nên nói là nghiệp đạo của nghiệp đạo. Do một là khác nên chỉ nói nghiệp đạo. Về nghĩa của nghiệp đạo thiện, tức so sánh với đây nên biết.

Gia hạnh hậu khởi nên gọi là nghiệp đạo, vì tư cũng duyên nơi hai thứ kia làm cảnh để chuyển, tức về lý cũng nên nói. Nhưng không nói, vì vốn dựa vào gốc, cảnh kia mới chuyển.

Trước nói phẩm thô là nghiệp đạo, vì trong ngoài tăng giảm là tùy theo căn bản. Tất cả nghiệp đạo ác đều hiện bày là cùng trái với thiện. Đoạn các căn thiện là do nghiệp đạo nào đoạn căn thiện nối tiếp? Sai biệt như thế nào? Tụng nêu:

Chỉ tà kiến đoạn thiện

Chỗ đoạn dục sinh đắc

Bác tất cả nhân quả

Đoạn dần hai cùng bỏ.

Người ba châu, nam, nữ

Kiến hành đoạn, phi đắc

Nối thiện, nghi có kiến

Hiện liền trừ kẻ nghịch.

Luận nói: Trong nghiệp đạo ác, chỉ có tà kiến gồm đủ thuộc phẩm thượng là có thể đoạn căn thiện.

Nếu như vậy thì do đâu trong Bản luận nói: Thế nào là các căn bất thiện phẩm thượng?

Nghĩa là các căn bất thiện có thể đoạn trừ căn thiện. Hoặc lìa phần vị dục đã loại trừ đầu tiên. Do căn bất thiện có thể dẫn sinh tà kiến. Nên kẻ hành theo tà kiến thì suy tìm ở nơi căn bất thiện kia. Như lửa thiêu đốt làng xóm. Lửa là do giặc khởi, nên thế gian nói làng xóm bị giặc thiêu đốt.

Những căn thiện nào bị đoạn dứt do tà kiến này?

Nghĩa là chỉ căn thiện sinh đắc nơi cõi dục, vì thiện của của sắc, vô sắc, trước đã không thành.

Luận Thi Thiết Túc nói: Người đoạn thiện của ba cõi, dựa vào căn thiện trên, được lại xa, nên nói khiến cho căn thiện này cùng nối tiếp, vì không phải là vật chứa của căn thiện kia.

Do đâu chỉ đoạn căn thiện sinh đắc?

Vì gia hạnh nơi căn thiện trước đó đã thoái mất.

Đoạn căn thiện này là do nơi nhân nào, ở nơi phần vị nào?

Nghĩa là có một loại hữu tình đã tạo thành tùy miên của ý lạc cực bạo ác. Về sau gặp sức duyên của bạn ác đã hỗ trợ chuyển biến càng tăng thịnh, nên căn thiện giảm, căn bất thiện tăng. Sau đấy khởi tà kiến bác bỏ nhân, bác bỏ quả, khiến tất cả thiện thảy đều ẩn mất.

Do sự nối tiếp nhau này đã lìa thiện mà trụ. Tức do nhân này, nơi phần vị này là đoạn dứt các căn thiện.

Tà kiến có hai, nghĩa là duyên nơi cõi mình và duyên nơi cõi khác. Hoặc duyên của hữu lậu và duyên của vô lậu.

Những người nào có thể đoạn căn thiện?

Nên nói là tất cả đều có thể đoạn căn thiện.

Chín phẩm căn thiện là có thể đoạn dứt tức khắc, như đối tượng đoạn của kiến do kiến đạo đoạn chăng? Không phải như vậy. Vì sao?

Nghĩa là chín phẩm tà kiến đã đoạn trừ dần chín phẩm căn thiện. Tức thuận nghịch đối nhau đoạn trừ dần dần. Như tu đạo đoạn dứt các Hoặc do tu đoạn.

Đã như tu đạo đoạn các Hoặc của đối tượng đoạn, nên về lý, ở nơi trung gian là chung cho khởi, không khởi.

Quả của các luật nghi có thứ từ gia hạnh, có thứ từ sinh đắc chăng? Từ nơi tâm thiện đã sinh, tùy theo xả nhân kia, tức liền xả quả ấy.

Là ở nơi xứ nào có thể đoạn căn thiện?

Tức ở nơi ba châu thuộc nẻo người, không phải ở nẻo ác. Vì tuệ nhiễm, không nhiễm là không vững chắc, cũng không phải ở nơi nẻo trời, vì hiện thấy quả của các nghiệp thiện, ác.

Nói ba châu, là trừ Bắc Câu Lô, vì châu ấy không có ý lạc cực ác.

Đoạn căn thiện như thế là dựa vào loại thân nào?

Chỉ là thân nam, nữ, vì ý chí nhất định.

Là người của hành nào có thể đoạn căn thiện?

Chỉ là người kiến hành, không phải là người ái hành. Các người kiến hành, ý lạc ác rất sâu chắc, còn các người ái hành thì ý lạc ác rất vội vã tán động.

Do nghĩa lý này tức đã ngăn chận loại Phiến-quắc v.v… Lại, loại người này như nơi nẻo ác.

Căn thiện này đoạn, thể của nó là gì?

Căn thiện bị đoạn, nên biết lấy phi đắc làm thể. Do tà kiến nặng, khi hiện ở trước, có thể khiến căn thiện thành tựu đắc diệt, đắc không thành tựu cùng nối tiếp mà sinh, nên thể của đoạn thiện tức là phi đắc.

Trước đã thành lập phi đắc là có thật, căn thiện đoạn rồi do đâu lại nối tiếp?

Do nghi có kiến. Nghĩa là phần vị thiện nối tiếp, hoặc do sức của nhân, hoặc dựa vào bạn thiện. Có khi đối với nhân quả đột nhiên lại sinh nghi: Dị thục được chiêu cảm nơi đời sau là không có, là có. Có khi đối với nhân quả bỗng nhiên sinh chánh kiến quyết định là có đời sau. Chấp ở trước là tà, bấy giờ, căn thiện được thành tựu trở lại. Khởi đắc không thành tựu tức diệt, gọi là chín phẩm căn thiện nối tiếp. Căn thiện nối tiếp tức khắc, khởi dần dần, như tức khắc.

Trừ khí lực bệnh, tăng dần ở trong hiện thân, có thể nối tiếp thiện được chăng?

Cũng có thể nối tiếp, trừ người tạo tội nghịch.

Có Sư khác nói: Người đoạn kiến tăng, cũng không phải là nơi hiện đời có khả năng nối tiếp căn thiện.

Dựa nơi hai người kia, kinh nói như vầy: Những kẻ kia nhất định ở nơi hiện pháp, không thể nối tiếp căn thiện. Người kia quyết định từ địa ngục sắp mất, hoặc tức khi ở nơi xứ kia sắp thọ sinh, thì có thể nối tiếp căn thiện, không phải ở phần vị khác. Nói ở phần vị sắp sinh, nghĩa là trong trung hữu. Nói khi sắp mất, nghĩa là kẻ kia sắp chết. Nếu do sức của nhân, người kia đoạn căn thiện thì khi sắp chết tức được nối tiếp. Nếu do sức của duyên, khiến người kia đoạn căn thiện, thì khi sắp sinh tức được nối tiếp. Do sức của mình và người khác nên biết cũng như thế. Lại, ý lạc hoại, không phải gia hạnh hoại, tức người đoạn căn thiện nơi hiện đời có thể nối tiếp. Nếu cả hai đều cùng hoại, thì người đoạn căn thiện chủ yếu là sau khi thân hoại mới nối tiếp căn thiện. Kiến giới cùng đối nên biết cũng như vậy. Không phải kiếp sắp hoại và kiếp mới thành thì có đoạn căn thiện, cùng nối tiếp thêm nhiều. Tà kiến đoạn căn thiện có bốn trường hợp sai biệt. Tà kiến đoạn căn thiện, nói dối để phá Tăng, nên biết nhất định chiêu cảm dị thục vô gián.

Đã nhân theo nghĩa, tức biện về đoạn căn thiện. Nay nên lại nêu rõ về nghĩa của nghiệp đạo gốc.

Đã nói trong hai nghiệp đạo thiện, ác, có bao nhiêu thứ đều sinh cùng với tư đều cùng chuyển?

Tụng nêu:

Nghiệp đạo tư cùng chuyển

Bất thiện một đến tám

Thiện chia chung đến mười

Ngăn riêng một, tám, năm.

Luận nói: Ở trong các nghiệp đạo, tư đều cùng chuyển. Lại, bất thiện cùng với tư, từ một chỉ đến tám.

Một đều cùng chuyển: Nghĩa là lìa số còn lại trong ba thứ như tham v.v… tùy theo một hiện khởi. Nếu gia hạnh trước đã tạo nghiệp ác, thì các nhiễm khác như tham v.v… và tâm không nhiễm, khi hiện ở trước, tùy theo một được cứu cánh.

Hai đều cùng chuyển: Nghĩa là hành tà hạnh. Nếu tự hành sát sinh, trộm cắp, nói lời uế tạp, hoặc sai khiến người khác làm thì tùy một phần vị thành, tham, sân, tà kiến tùy một hiện tiền. Nếu gia hạnh trước đã tạo nghiệp ác, thì các nhiễm khác như tham v.v… và tâm không nhiễm, lúc hiện ở trước, tùy theo hai được cứu cánh.

Ba đều cùng chuyển: Nghĩa là gia hạnh trước đã tạo nghiệp ác, thì lúc tham v.v… khởi, tùy theo ba được cứu cánh. Nếu sai bảo một khiến tạo sát sinh v.v…, một tự hành dâm v.v…, thì đều cùng thời đạt cứu cánh. Nếu tự tạo cả hai, thì như lý nên tư duy. Nếu gia hạnh trước đã tạo nghiệp ác, thì các nhiễm khác như tham v.v… và tâm không nhiễm, lúc hiện ở trước, tùy theo ba được cứu cánh.

Nếu khi khởi tham v.v… thì tâm nhiễm còn lại thuộc về nghiệp tự thành. Các thứ nghiệp nói lời ly gián, hư dối v.v…, khiến tạo một v.v…, tức như lý nên tư duy.

Bốn đều cùng chuyển: Nghĩa là muốn phá hoại người khác, nói lời hư dối, hoặc nói lời thô ác, nghiệp đạo của ý một, nghiệp đạo của ngữ ba. Nếu sai khiến hai, khiến tự hành dâm v.v… Nếu gia hạnh trước đã tạo nghiệp ác, thì các nhiễm khác như tham v.v… khởi, tùy theo ba được cứu cánh.

Các loại như thế v.v…, căn cứ theo chỗ so sánh nên tư duy.

Năm sáu bảy đều cùng chuyển, như lý nên nêu bày.

Tám đều cùng chuyển: Nghĩa là gia hạnh trước đã tạo sáu nghiệp ác, thì tự hành tà dục, đều cùng thời được cứu cánh. Phần còn lại nên so sánh tư duy. Vì ba nghiệp đạo sau không cùng có, nên không có chín, mười.

Như thế là đã nói về nghiệp đạo bất thiện cùng với tư đều cùng chuyển, thường có không đồng. Nghiệp đạo thiện cùng với tư chia chung cùng đến mười. Căn cứ riêng nhằm làm rõ cùng ngăn bỏ một, tám, năm. Hai đều cùng chuyển: Nghĩa là năm thức thiện cùng dựa vào vô sắc, khi tận trí, vô sinh trí hiện ở trước, thì thiện không tán động là bảy. Đây là tuệ tương ưng, vì không phải là tánh của kiến. Định vô sắc đều cùng có. Không có luật nghi.

Ba đều cùng chuyển: Nghĩa là khi ý thức cùng với chánh kiến tương ưng hiện ở trước, không có bảy sắc thiện.

Bốn đều cùng chuyển: Nghĩa là tâm ác, vô ký nơi phần vị hiện ở trước, được luật nghi cận trụ, cận sự, cần sách.

Sáu đều cùng chuyển: Nghĩa là khi năm thức thiện hiện ở trước, tức được ba thứ giới nêu trên.

Bảy đều cùng chuyển: Nghĩa là ý thức thiện, không tùy chuyển nơi sắc, khi chánh kiến tương ưng hiện ở trước, tức được ba thứ giới nêu trên. Hoặc khi tâm ác vô ký hiện ở trước thì được giới Bí-sô.

Chín đều cùng chuyển: Nghĩa là năm thức thiện và dựa nơi vô sắc, khi tận trí vô sinh trí hiện ở trước, thì được giới Bí-sô. Hoặc tĩnh lự gồm thâu tận trí, vô sinh trí, khi tương ưng với ý thức hiện ở trước.

Mười đều cùng chuyển: Nghĩa là ý thức thiện, không tùy chuyển nơi sắc, khi tương ưng với chánh kiến hiện ở trước, tức được giới Bí-sô. Các sự thừa nhận cũng dùng tâm thiện của gia hạnh, thọ luật nghi phân tán, tạo ra thuyết chung này. Hoặc tất cả thức khác có tùy chuyển nơi sắc, ở phần vị tâm tương ưng với chánh kiến đang khởi. Căn cứ riêng là nhằm chỉ rõ cùng đã ngăn chận như thế. Căn cứ chung nơi ẩn hiển thì không có ngăn chận. Nghĩa là lìa luật nghi có một, tám, năm.

Một đều cùng chuyển: Nghĩa là tâm ác vô ký khi hiện ở trước, được một chi xa lìa.

Năm đều cùng chuyển: Nghĩa là ý thức thiện, không tùy chuyển nơi sắc, khi tương ưng với chánh kiến, hiện ở trước thì được hai chi v.v…

Tám đều cùng chuyển: Nghĩa là ý thức này khi hiện ở trước, được nghiệp đạo thiện ác như năm chi v.v…

Ở nơi xứ, nẻo, cõi nào có bao nhiêu thứ chỉ thành tựu? Bao nhiêu thứ cũng chung cho hiện hành?

Tụng nêu:

Bất thiện trong địa ngục

Sân thô tạp chung hai

Tham, tà kiến tạo thành

Châu Bắc thành ba sau.

Ngữ tạp chung hiện thành

Dục khác, mười chung hai

Thiện ở tất cả xứ

Ba sau chung hiện thành.

Vô sắc, Vô tưởng thiên

Bảy trước chỉ thành tựu

Xứ khác chung thành hiện

Trừ địa ngục, châu Bắc.

Luận nói: Lại ở trong mười nghiệp đạo bất thiện nơi Nại-lạc-ca có ba thứ chung nơi hai. Nghĩa là nói lời thô ác, nói lời uế tạp và sân, ba thứ đều chung nơi hiện hành, thành tựu. Vì khổ bức bách cùng mắng nhiếc, nên có nói lời thô ác. Vì oán than, buồn bã, kêu gào, nên có nói lời uế tạp. Thân tâm thô mạnh, dữ tợn, không điều thuận, do đều cùng oán ghét, nên có sân hận, tham và tà kiến. Chỉ thành mà không hành, vì không có cảnh đáng yêu mến. Vì hiện thấy quả của nghiệp, không có pháp hại nhau, nên không có sát sinh. Nghĩa là hữu tình kia đều cùng do nghiệp hết nên chết. Không có gồm thâu của cải, người nữ, nên không có trộm cắp, dâm. Do không có công dụng, nên không có nói lời hư dối. Hoặc nói lời hư dối khiến người khác có tưởng điên đảo. Vì tưởng của người kia thường điên đảo, nên không có nói lời hư dối. Vì người kia thường lìa, hoặc vì không có công dụng, nên không có nói lời ly gián.

Châu Bắc Câu Lô, tham, sân, tà kiến đều nhất định thành tựu mà không hiện hành. Vì không gồm thâu ngã sở. Vì thân tâm mềm mại, vì không có sự việc não hại, nên không có ý lạc ác. Chỉ có nói lời uế tạp, tức người châu kia chung nơi hiện thành, do họ có lúc theo tâm nhiễm ca vịnh. Vì thọ lượng nhất định, nên không có sát sinh. Không có gồm thâu của cải, vật dụng và người nữ, nên không có không cho mà lấy cùng dục tà hạnh. Không có tâm lừa dối, nên không có nói lời hư dối. Hoặc vì vô dụng, vì thường hòa thuận, nên không có nói lời ly gián. Do nói lời thanh nhã, tốt đẹp, nên không có nói lời thô ác.

Trừ địa ngục, châu Bắc Câu Lô nêu trước, phần còn lại trong cõi dục, mười thứ nghiệp đạo đều chung nơi hai. Nghĩa là trời thuộc cõi dục, quỷ, bàng sinh và ba châu của nẻo người, mười nghiệp đạo ác đều chung nơi thành hiện. Nhưng có sai biệt. Nghĩa là trời, quỷ, bàng sinh, bảy nghiệp đạo trước chỉ có thuộc về xứ trung, không có không luật nghi. Trong ba châu của nẻo người thì hai thứ đều cùng có.

Đã nói về bất thiện. Trong nghiệp đạo thiện, thì ba thứ như không tham v.v… ở nơi ba cõi, năm nẻo đều chung cả hai thứ, nghĩa là thành tựu và hiện hành. Bảy chi thân ngữ nơi vô sắc, vô tưởng, chỉ cùng thành tựu, tất không hiện hành. Nghĩa là Thánh, hữu tình sinh nơi cõi vô sắc, thành tựu luật nghi vô lậu nơi quá khứ, vị lai. Hữu tình vô tưởng tất thành tựu luật nghi tĩnh lự của tĩnh lự thứ tư thuộc quá khứ, vị lai. Nhưng Thánh thì tùy nơi nương dựa.

Nơi địa của tĩnh lự nào từng khởi từng diệt Thi la vô lậu? Khi sinh nơi vô sắc thì thành tựu quá khứ kia. Nếu là đời vị lai thì sáu địa đều thành, hai xứ đều không có nghĩa hiện khởi. Vì cõi vô sắc chỉ có tánh của bốn uẩn. Hữu tình vô tưởng không có tâm định, nên luật nghi tất nhờ vào tâm định của đại chủng. Vì hai xứ cùng không có, nên không hiện khởi. Ở nơi xứ, nẻo, cõi còn lại, trừ địa ngục và châu Bắc, bảy thiện đều chung cho hiện hành và thành tựu. Nhưng có sai biệt. Nghĩa là quỷ, bàng sinh, có lìa luật nghi. Nghiệp đạo của xứ trung, nếu ở cõi sắc chỉ có luật nghi. Ba châu và trời thuộc cõi dục đều đủ hai thứ.

HẾT – QUYỂN 22