LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 21

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 4

Như thế là đã nói về được luật nghi v.v… Về xả luật nghi v.v…

nay tiếp theo sẽ nói.

Thế nào là xả luật nghi biệt giải thoát?

Tụng nêu:

Xả điều phục biệt giải

Do cố xả mạng chung

Và hai hình cùng sinh

Đoạn căn thiện, đêm hết.

Có thuyết do phạm trọng

Thuyết khác, do pháp diệt

Ca-thấp-di-la nói

Phạm hai như nợ của.

Luận nói: Tiếng điều phục là làm rõ về tên khác của luật nghi, vì luật nghi này có thể khiến căn được điều phục. Do năm duyên nên xả bỏ luật nghi biệt giải thoát:

1. Do cố ý xả. Nghĩa là do ý lạc đối với luật nghi không còn mang giữ vui thích, hâm mộ, vì thế đã xả học xứ. Đối với người có hiểu biết, phát khởi biểu nghiệp trái nhau có sai biệt. Không phải chỉ do khởi tâm xả bỏ học xứ, như tâm đắc luật nghi không còn khả năng. Lại ở trong mộng xả bỏ không thành, không phải chỉ do khởi biểu nghiệp có sai biệt. Các thứ xả bỏ như phẫn nộ điên cuồng v.v… là không thành. Không phải chỉ do hai thứ đối nơi bàng sinh v.v… khởi tâm phát biểu xả bỏ đều không thành.

2. Do mạng chung. Nghĩa là chúng đồng phần vì uy lực tăng thượng nên được luật nghi.

3. Do nương dựa nơi hai hình đều cùng sinh. Nghĩa là khi thân biến đổi thì tâm biến đổi theo. Lại, kẻ hai hình không phải là tăng thượng.

4. Do đoạn dứt căn thiện của đối tượng nhân. Nghĩa là tâm đẳng khởi của nghiệp biểu, vô biểu đã đoạn. Là nghĩa nhân duyên của luật nghi này đã đoạn, nên xả bỏ giới suốt đời.

Do bốn duyên trên, riêng luật nghi cận trụ cũng do đêm hết. Nghĩa là giới cận trụ, do bốn duyên trên cùng đêm hết là xả, vì quá kỳ hạn. Đêm hết: Nghĩa là khi tướng ánh sáng xuất hiện. Các Sư quỹ phạm đa phần cùng thừa nhận.

Năm thứ duyên xả bỏ luật nghi như thế, có Sư của bộ khác chấp tùy theo đấy phạm một, thì chiêu cảm trọng tội đọa.

Xả giới xuất gia, có Bộ khác chấp vào thời kỳ chánh pháp diệt, luật nghi biệt giải thoát thảy đều xả, do các học xứ, yết-ma kiết giới nơi Thánh giáo hiện có đều dứt diệt. Các Sư Đối Pháp nói như thế này: Bấy giờ, tuy không được luật nghi chưa được, nhưng luật nghi trước đã được thì không có nghĩa xả.

Sư Tỳ-bà-sa ở nước Ca-thấp-di-la tích tụ lý giáo nơi tâm thì nói: Không phải khi phạm theo một tội căn bản, thì tất cả luật nghi đều có nghĩa xả. Tuy nhiên, người phạm trọng thì có hai thứ tên gọi:

(1) Gọi là đủ Thi la. (2) Gọi là phạm giới.

Nếu đối với giới đã phạm, tức nên có thể ăn năn dứt trừ, phát lộ, sám hối trừ bỏ, thì chỉ gọi là đủ giới. Như người có tài sản, khi mang nợ người khác, gọi là người giàu và kẻ mang nợ. Nếu trả nợ xong, thì chỉ gọi là người giàu. Sự việc này nên cũng như vậy, nên không phải là xả giới.

Hai thứ luật nghi tĩnh lự, vô lậu thì xả như thế nào?

Tụng nêu:

Xả định sinh pháp thiện

Do chuyển địa thoái thất v.v…

Xả các thiện vô lậu

Do đắc quả thoái mất.

Luận nói: Pháp thiện thuộc về các địa của tĩnh lự do hai duyên nên xả: (1) Do địa chuyển đổi. Nghĩa là ở nơi địa trên sinh xuống địa dưới. (2) Do thoái mất. Nghĩa là thoái chuyển định thù thắng.

Khi xả chúng đồng phần và lìa nhiễm thì cũng xả noãn v.v… và thoái chuyển phần định, vì gồm thâu định này, nên lại nói chữ vân vân (Nơi cuối câu tụng thứ hai). Như xả thiện nơi cõi sắc, do chuyển đổi địa thoái thất và lìa nhiễm. Ba định vô sắc cũng như vậy. Xả thiện vô lậu do hai thứ duyên: (1) Do được quả nên xả chung đạo ở trước. (2) Do thoái mất tức xả các đạo hơn hẳn.

Đạo này hoặc là quả, hoặc thuộc về quả hơn hẳn. Ở trong đây tôi nên phân biệt một ít. Nếu xả kiến đạo và đạo loại trí, nên biết chỉ do được quả, không phải là thoái mất. Vì thuộc về quả của đạo loại trí, tất cũng không có thoái chuyển. Nhưng thoái mất căn đã luyện, thì cũng có nghĩa thoái chuyển. Nếu là vô học của pháp bất động, thì đều cùng không có. Vô lậu còn lại thì cùng có đủ hai thứ.

Như vậy là đã nêu bày về xả bỏ các luật nghi. Không luật nghi thì xả bỏ như thế nào?

Tụng nêu:

Xả giới ác do chết

Được giới hai hình sinh.

Luận nói: Các thứ không luật nghi do ba duyên nên xả:

1. Do chết nên xả, tức xả bỏ đối tượng nương dựa, vì trước là do sức của chúng đồng phần nên được luật nghi.

2. Do được giới. Nghĩa là nếu thọ được luật nghi biệt giải thoát. Hoặc do đạt được luật nghi tĩnh lự, thì giới ác liền xả. Do sức đối trị là hơn nên xả bỏ không luật nghi.

3. Do hai hình nối tiếp nhau đều cùng khởi. Bấy giờ, vì đối tượng nương dựa đã biến đổi. Người không luật nghi thọ giới cận trụ, đến phần vị đêm hết, khi xả luật nghi là được không luật nghi, gọi là ở giữa.

Có Sư khác nói: Ý lạc ác thì được không luật nghi, không phải là vĩnh viễn xả. Như sắt nung chảy dừng lại, màu đỏ dứt thì màu xanh sinh

Có Sư khác cho: Nếu không tạo tác lần nữa, thì không có duyên, khiến người kia được không luật nghi.

Do không luật nghi dựa vào biểu mà được, nên thuyết trước là hợp lý. Vì trước khi thọ giới, thì ý lạc ác không phải là đã vĩnh viễn xả bỏ. Dựa vào giới ác của biểu nghiệp trước đã khởi trở lại. Vô biểu của xứ trung (ở giữa) thì xả bỏ lại như thế nào?

Tụng nêu:

Xả trung do cách thọ

Tạo việc thọ căn đoạn.

Luận nói: Vô biểu của xứ trung xả bỏ do sáu duyên:

1. Do tâm thọ đoạn hoại, nên xả. Nghĩa là thệ nguyện thọ trước kia, luôn ở nơi thời gian nào đấy kính lễ tháp miếu và tán dương v.v… Nay khởi niệm này: Về sau thì không làm nữa. Ý lạc kia từ đây liền dứt. Do người kia đã dứt bỏ ý lạc gốc. Hoặc lại tạo riêng thế dụng tăng mạnh, so với sự việc hiện hành ở trước là trái nhau. Ý lạc gốc đã dứt thì vô biểu liền đoạn.

2. Do thế mạnh đã đoạn hoại, nên xả. Nghĩa là do tín tịnh, thế mạnh của phiền não đã dẫn sinh vô biểu. Thế mạnh của hai kỳ hạn kia, nếu khi đoạn hoại, thì vô biểu tức xả. Như mũi tên đã phóng ra và bánh xe quay của thợ gốm. Nên Sư quỹ phạm nói như vầy: Do sức của đẳng khởi đã dẫn phát, nên tuy xả bỏ gia hạnh và ý lạc thì vô biểu hoặc cùng với suốt đời tùy chuyển, cho đến khi phát khởi triền hết sức mãnh liệt. Sự việc đánh đập các loài cầm thú, nên biết cũng như vậy. Hoặc trước đã lập kỳ hạn bằng từng ấy thời gian. Nay thế mạnh của kỳ hạn đã qua, nên vô biểu liền đoạn.

3. Do tác nghiệp đã đoạn hoại, nên xả. Nghĩa là tuy không xả bỏ tâm thọ căn bản, nhưng lại không làm theo tác nghiệp đã thọ. Chỉ trừ người đã quên nhớ nghĩ mà không làm, do gia hạnh có kỳ hạn của vô biểu này sinh. Khi gia hạnh dứt thì vô biểu tức xả.

4. Do sự vật bị đoạn hoại, nên xả. Nghĩa là đối tượng xả là các thứ vườn rừng, tháp miếu đã dâng thí, cùng đối tượng thí cho là sự việc như lưới bay v.v…, vốn do sự việc kia dẫn vô biểu sinh. Khi sự việc kia đã hoại, thì vô biểu liền xả.

5. Do thọ mạng đoạn hoại, nên xả. Nghĩa là đối tượng nương dựa đã có chuyển đổi.

6. Do dựa nơi căn đã bị đoạn hoại, nên xả. Nghĩa là khi khởi gia hạnh để đoạn dứt thiện, ác, đều xả bỏ căn kia đã dẫn khởi vô biểu. Không phải đến khi đoạn thiện, được tĩnh lự mới xả bỏ vô biểu thiện ác của xứ trung. Vì yếu kém nên khi khởi gia hạnh, tức xả bỏ vô biểu thiện ác của xứ trung.

Nói căn: Là chung cho căn thiện ác. Nói đoạn: Là nói đoạn gia hạnh.

Thiện phi sắc của cõi dục và tất cả pháp nhiễm phi sắc khác thì xả như thế nào.

Tụng nêu:

Xả thiện phi sắc dục

Do căn đoạn, sinh trên

Do đạo đối trị sinh

Xả các nhiễm phi sắc.

Luận nói: Tất cả pháp thiện phi sắc của cõi dục xả bỏ do hai duyên: (1) Đoạn căn thiện. (2) Sinh lên cõi trên.

Nên nói phần ít cũng lìa nhiễm là xả. Pháp thiện phi sắc như ưu căn v.v… Tất cả pháp nhiễm phi sắc của ba cõi xả bỏ là do một duyên. Nghĩa là khởi đạo đối trị. Nếu ở phẩm loại này đạo có thể đoạn trừ sinh, tức xả các Hoặc trong phẩm này và phần trợ bạn.

Hữu tình nào có luật nghi thiện, ác?

Tụng nêu:

Người giới ác, trừ Bắc

Hai hoàng môn, hai hình

 Luật nghi cũng ở trời

Chỉ người đủ ba thứ.

Sinh trời dục, cõi sắc

Có luật nghi tĩnh lự

Vô lậu và vô sắc

Trừ trong định vô tưởng.

Luận nói: Chỉ ở nơi nẻo người là có không luật nghi, nhưng trừ châu Bắc, chỉ nơi ba phương là có. Ở trong ba phương, lại trừ Phiếnquắc và Bán-trạch-ca. Người đủ hai hình, luật nghi cũng như vậy. Nghĩa là trong nẻo người thì trừ các thứ trước đã trừ và nơi các trời cũng có, nên ở nơi hai nẻo cùng có luật nghi. Tuy nhiên, chỉ trong nẻo người mới có đủ ba thứ. Nghĩa là biệt giải thoát, tĩnh lự và vô lậu. Nếu sinh nơi trời dục và sinh nơi cõi sắc đều cùng được có luật nghi tĩnh lự, nhưng trời Vô tưởng thì chỉ cùng thành tựu. Sinh nơi cõi vô sắc thì trời kia đều cùng không có. Luật nghi vô lậu cũng ở nơi cõi vô sắc. Nghĩa là nếu sinh trong các trời thuộc cõi dục và sinh trong cõi sắc, trừ trong định vô tưởng, đều cùng được có luật nghi vô lậu. Sinh trong cõi vô sắc thì chỉ được thành tựu, vì vô sắc tất không hiện khởi vô lậu. Sinh lên cõi trên thì được thành tựu luật nghi nơi cõi dưới.

Đã biện về tánh tướng của các nghiệp là không đồng. Sẽ giải thích các nghiệp đã được nêu rõ trong kinh. Lại, trong kinh nói nghiệp có ba thứ: Thiện, bất thiện và vô ký. Tướng của chúng như thế nào? Tụng nêu:

An, không an, phi nghiệp

Gọi thiện, ác, vô ký.

Luận nói: Các nghiệp an ổn, gọi là thiện. Có thể đạt được dị thục đáng yêu thích là Niết-bàn. Vì hai thời gian tạm thời và vĩnh viễn đã cứu vớt mọi thứ khổ.

Nghiệp không an ổn gọi là bất thiện. Do nghiệp này có thể chiêu cảm dị thục phi ái, vì rất có thể ngăn chận đường đi đến Niếtbàn. Không phải hai nghiệp trước là lập danh xưng vô ký, vì không thể ghi nhận là thiện, là bất thiện, là nghĩa phi an ổn, phi bất an ổn.

Lại, trong kinh nói nghiệp có ba thứ: Phước, phi phước v.v… Tướng của chúng thế nào?

Tụng nêu:

Phước, phi phước, bất động

Nghiệp thiện dục gọi phước

Bất thiện gọi phi phước

Thiện, cõi trên bất động

Dựa xứ sở tự địa

Vì quả nghiệp không động.

Luận nói: Nghiệp thiện nơi cõi dục gọi là phước, vì phi phước là cùng trái với việc chiêu cảm quả ái. Các nghiệp bất thiện gọi là phi phước, vì chiêu cảm quả phi ái, là trái với nghiệp phước.

Pháp thiện của hai cõi trên gọi là bất động.

Há không phải là Đức Thế Tôn đã nói ba định dưới đều gọi là có động. Vì Thánh nói trong ấy có tầm, tứ, hỷ thọ, lạc thọ là động. Do ba định dưới có các tai họa như tầm, tứ v.v… chưa dứt trừ, nên lập tên động. Trong kinh nói bất động, là căn cứ vào khả năng chiêu cảm được dị thục không động, nên gọi là bất động.

Vì sao định có động đã chiêu cảm dị thục không động?

Tuy trong định này có tai họa là động, nhưng nghiệp đối với quả không phải như nơi cõi dục có động chuyển. Ở đây lập danh xưng bất động, nghĩa là mãn nghiệp của xứ, nẻo khác trong cõi dục, do sức của duyên riêng, có thể thọ nhận xứ, nẻo khác. Hoặc do có nghiệp có thể chiêu cảm các thứ tài sản, địa vị, hình lượng, sắc lực an lạc trong ngoài. Ở trong các trời, nghiệp này nên thành thục, do sức của duyên riêng đã dẫn dắt chuyển biến. Nên ở trong nẻo người thì thành thục. Nghiệp của xứ, địa khác nơi cõi sắc, vô sắc, không có cùng chuyển biến khiến xứ địa khác thọ nhận. Vì xứ sở của quả nghiệp không có đổi thay, chuyển động, nên đẳng dẫn địa gồm thâu không có tán động.

Dựa nơi nghĩa như thế để lập danh xưng bất động. Nên biết trong đây, do ngu tối đối với nhân quả cùng hệ thuộc, nên tạo nghiệp phi phước, vì nghiệp phi phước thuần là nhiễm ô. Chủ yếu là dựa vào các thứ thô trọng cùng nối tiếp với vô minh. Do vô minh này nơi phần vị hiện ở trước, không thể tin hiểu về nhân quả cùng hệ thuộc. Thế nên phát khởi các hành phi phước. Do ngu tối về nghĩa chân thật, nên tạo nghiệp phước và nghiệp bất động.

Nghĩa chân thật: Nghĩa là bốn Thánh đế. Nếu ngu đối với nghĩa chân thật kia, thì các loại phàm phu ở nơi phần vị tâm thiện cũng được gián cách khởi.

Do thế mạnh này khiến ở nơi ba cõi không nhận biết như thật về tánh của chúng đều là khổ, khởi hành phước bất động làm nhân của hữu sau.

Nếu người đã kiến đế thì không có sự việc ấy, khi nhân nơi sức của hành trước để lìa dần nhiễm, như thứ lớp được sinh nơi cõi dục, cõi sắc, vô sắc.

Lại, trong kinh nói: Nghiệp có ba thứ, như thuận lạc thọ v.v… Tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Thuận lạc, khổ, không hai

Thiện đến ba thuận lạc

Các bất thiện thuận khổ

Thiện trên thuận không hai.

Khác nói dưới cũng có

Do giữa cảm dị thục

Lại, nhận ba nghiệp này

Không trước sau thành thục.

Thuận thọ gồm có năm

Là tự tánh tương ưng

Đối tượng duyên dị thục

Nên hiện tiền sai biệt.

Luận nói: Trong các nghiệp thiện, bắt đầu từ cõi dục đến tĩnh lự thứ ba, gọi là nghiệp thuận lạc thọ, do các lạc thọ chỉ đến tĩnh lự này. Các nghiệp bất thiện được gọi là nghiệp thuận khổ thọ. Nghiệp thiện của tĩnh lự thứ tư và nghiệp thiện của vô sắc gọi là nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ, vì trên đấy đều không có khổ thọ, lạc thọ. Không phải các nghiệp này chỉ chiêu cảm thọ quả, nên biết cũng chiêu cảm thọ tư lương của tĩnh lự kia. Thọ và tư lương, trong đây gọi là thọ. Tùy theo đối tượng hóa độ nơi cõi dục, nên lập chung tên thọ. Trong các địa dưới là cũng thừa nhận có. Còn nghiệp thuận không phải hai thì quyết định là không có.

Có Sư khác cho: Địa dưới cũng có nghiệp thuận không phải hai, do định trung gian đã không có khổ lạc, tức nên không có nghiệp. Lại có dẫn chứng. Nghĩa là Bản luận nói: Từng có ba nghiệp không phải trước, không phải sau, thọ dị thục chăng? Có. Nghĩa là nghiệp thuận lạc thọ là sắc. Nghiệp thuận khổ thọ là tâm tâm sở pháp. Nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ là tâm bất tương ưng hành. Cho đến nói rộng.

Do đấy chứng biết ở địa dưới cũng có nghiệp thuận không phải hai. Không phải lìa cõi dục mà có ba nghiệp này, vì đều cùng thời thành thục. Dẫn chứng ở đây là đều cùng không phải là nhất định. Nhưng ở trong địa dưới, về lý nên nhất định có nghiệp thuận không phải hai (Nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ). Như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã biện rộng, nên biết.

Nghiệp ấy là thiện hay là bất thiện?

Có thuyết nói: Là thiện nhưng yếu kém. Lại không thể chỉ rõ riêng nhưng có thể nói chung. Ở trong các nghiệp thiện, hoặc có một loại có thể chiêu cảm lạc thọ và thọ tư lương. Hoặc có một loại có khả năng chiêu cảm không phải hai (bất khổ bất lạc), nên biết nghiệp này có thể tạo lợi ích cho lạc thọ, gọi là thuận lạc thọ. Như thuận với xứ ngựa. Hoặc lại nghiệp này có thể thọ nhận lạc, gọi là thuận lạc thọ. Như thuận với tắm gội tản mát. Nghiệp thuận thọ khác nên biết cũng như vậy.

Nghiệp này không phải chỉ chiêu cảm dị thục là thọ, vì sao được mang tên chung là nghiệp thuận thọ?

Các nghiệp làm nhân đã chiêu cảm dị thục đều giống với thọ, nên được mang tên thọ. Vì sao? Vì nghiệp kia đều như thọ, làm cho thân tổn giảm tăng ích và bình đẳng. Như nước, lửa v.v…, đối với cây cành v.v…, là có ích, là tổn hại, là bằng nhau, nghĩa ấy đã thành. Lại, thuận với thọ thì có nhiều, lược nói có năm:

1. Tự tánh thuận thọ: Nghĩa là thể của các thọ. Như Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận đối với lạc thọ. Cho đến nói rộng.

2. Tương ưng thuận thọ: Nghĩa là tất cả xúc. Như Khế kinh nói: Thuận với xúc của lạc thọ. Cho đến nói rộng.

3. Đối tượng duyên thuận thọ: Nghĩa là tất cả cảnh. Như Khế kinh nói: Mắt thấy sắc xong, chỉ thọ ở nơi sắc, không thọ sắc tham. Cho đến nói rộng. Do sắc v.v… là đối tượng duyên của thọ.

4. Dị thục thuận thọ: Nghĩa là nghiệp chiêu cảm dị thục. Như Khế kinh nói: Nghiệp thuận lạc thọ. Cho đến nói rộng.

5. Hiện tiền thuận thọ: Nghĩa là thọ hiện hành. Như Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì hai thọ kia liền diệt. Cho đến nói rộng. Không phải khi lạc thọ này hiện ở trước, có thọ khác, có thể thọ nhận lạc thọ này. Chỉ căn cứ nơi tự thể của lạc thọ hiện tiền, tức gọi là thọ nhận ở nơi lạc thọ. Do chỗ thuận với thọ có nhiều thứ, nên tuy dị thục của nghiệp không phải đều là thọ nhưng có thể lập chung danh xưng là nghiệp thuận thọ. Nghĩa là các nghiệp thiện làm nhân đã chiêu cảm sắc bất tương ưng, vì có thể làm đối tượng duyên sinh lạc thọ, vì các lạc thọ này đã nhận lãnh, vì dị thục đáng yêu thích thuận với lạc thọ, nên cũng gọi là lạc thọ. Do nghiệp thiện này đã chiêu cảm các quả. Tuy không phải lạc thọ thuận với lạc thọ, nhưng chiêu cảm nghiệp kia, gọi là nghiệp thuận lạc thọ. Nghiệp thuận khổ thọ, thuận không phải hai, về lý cũng nên như thế.

Ba nghiệp như vậy có định, bất định. Tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Đây có định, bất định

Định ba thuận với hiện

Hoặc nói nghiệp có năm

Sư khác: bốn trường hợp.

Luận nói: Trên đây đã nói về thuận lạc thọ v.v…, nên biết đều có định, bất định khác nhau. Không phải vì nhất định thọ, nên lập danh xưng bất định. Nghĩa là nghiệp thuận lạc không phải tất định thành thục. Nếu thành thục tất nên thọ dị thục lạc. Nghiệp thuận với hai thọ còn lại nói cũng như thế.

Nhất định lại có ba: (1) Thuận hiện pháp thọ. (2) Thuận thứ sinh thọ. (3) Thuận hậu thứ thọ.

Ba định nghiệp này nhất định chiêu cảm dị thục cùng với bất định ở trước gồm thành bốn thứ. Hoặc có người muốn khiến nghiệp bất định thọ, lại có hai thứ: Nghĩa là ở nơi dị thục có định, bất định. Cùng với nghiệp định có ba hợp thành năm thứ.

Phái Thí Dụ nói: Nghiệp có bốn trường hợp:

1. Có nghiệp đối với thời phần thì nhất định, dị thục thì không nhất định. Nghĩa là ba nghiệp như thuận hiện v.v…, không phải nhất định được dị thục.

2. Có nghiệp đối với dị thục thì nhất định, thời phần thì không nhất định. Nghĩa là nghiệp bất định, nhất định được dị thục.

3. Có nghiệp đối với cả hai đều cùng nhất định. Nghĩa là nghiệp thuận hiện v.v… nhất định được dị thục.

4. Có nghiệp đối với cả hai đều cùng bất định. Nghĩa là nghiệp bất định không phải nhất định được dị thục.

Các nghiệp đã nói kia gồm chung thành tám thứ. Nghĩa là thuận hiện thọ có định, bất định. Cho đến bất định cũng có hai thứ. Ở đây đã nói về nghiệp có sai biệt, trong ấy, Tụng nêu:

Bốn thiện cùng đều tạo

Dẫn đồng phần chỉ ba

Các xứ tạo bốn thứ

Địa ngục thiện trừ hiện.

Vững nơi địa lìa nhiễm

Phàm phu không tạo sinh

Thánh không tạo sinh sau

Và dục Hữu đảnh thoái.

Luận nói: Trong đây, chỉ hiển bày về nghiệp thuận lạc v.v… vào thời gian như hiện v.v… có định, bất định. Giải thích kinh đã nói, bốn nghiệp như thuận hiện thọ là khác nhau, nên trong nghiệp định phân làm ba thứ, và hợp với nghiệp bất định thành bốn, đây nói là thiện. Về lý tất không có nghiệp dị thục bất định, thời phần thì định. Thời phần định chỉ là phần vị trong dị thục định có sai biệt. Nên không phải lìa dị thục thì có riêng thể của thời phần.

Vì sao thời phần định không phải là dị thục?

Trong đây chỉ dựa vào dị thục nơi nghiệp định, đạt được quả vị có sai biệt, để lập các nghiệp như thuận hiện v.v…

Từng có bốn nghiệp đều cùng thời tạo tác chăng?

Cùng có. Như sai khiến ba sứ hành tác xong, thì tự mình hành tà dục, đều cùng thời hoàn thành.

Trong bốn thứ nghiệp như thuận hiện thọ v.v… thì bao nhiêu nghiệp có khả năng dẫn chúng đồng phần? Chỉ ba nghiệp là có thể dẫn, trừ nghiệp thuận hiện. Vì nghiệp thuận hiện tất dựa vào đồng phần do nghiệp trước đã dẫn mới được khởi. Tức ở nơi hiện đời tất cho quả.

Cõi nào, nẻo nào có thể tạo bao nhiêu nghiệp?

Các cõi, các nẻo hoặc thiện, hoặc ác, tùy vào đối tượng ứng hợp của chúng đều cùng tạo ra bốn, nêu bày chung là như thế. Nếu căn cứ theo chỗ ngăn chận riêng, thì trong Nại-lạc-ca thiện thì trừ thuận hiện, vì không có quả ái, ngoài ra đều được tạo, không thoái mất tên họ, gọi là vững chắc. Người kia ở nơi địa lìa nhiễm, nếu là loại phàm phu thì trừ thuận sinh thọ, có thể tạo ba nghiệp còn lại. Thánh giả thì cùng trừ hai nghiệp thuận sinh thọ, hậu thọ, tức có thể tạo hai nghiệp còn lại. Phàm phu không thoái chuyển, nếu lìa nhiễm của địa kia, thì không cùng ở nơi địa kia vô gián thọ sinh, nên người kia tức trừ nghiệp thuận sinh thọ. Ở cõi trên mất, tất trở lại sinh vào cõi dưới, nên cùng tạo nghiệp thuận hậu thọ kia, Thánh giả không thoái chuyển. Nếu lìa nhiễm của cõi kia, tất không cùng có ở nơi cõi kia sinh nữa, nên Thánh giả kia cùng trừ hai nghiệp thuận sinh, thuận hậu. Tùy nơi địa đã sinh cùng tạo nghiệp thuận hiện thọ. Tạo ra nghiệp bất định thì nơi tất cả xứ không có ngăn chận. Nhưng các Thánh giả nếu ở nơi cõi dục và xứ Hữu đảnh đã được lìa nhiễm, thì tuy có thoái đọa, nhưng cũng không tạo nghiệp thuận sinh thọ, hậu thọ. Từ nơi xứ kia thoái chuyển, tất là thoái chuyển quả. Các quả thoái chuyển xong tất không mạng chung, trở lại được quả gốc.

Trụ nơi phần vị trung hữu cũng tạo nghiệp chăng? cũng tạo. Vì sao?

Tụng nêu:

Trung hữu dục hay tạo

Hai mươi hai thứ nghiệp

Đều thuộc thuận hiện thọ

Vì một loại đồng phần.

Luận nói: Ở trong cõi dục trụ nơi phần vị trung hữu, cùng có thể tạo hai mươi hai nghiệp. Nghĩa là phần vị trung hữu và ở trong thai, xuất thai về sau đều có năm phần vị.

Năm phần vị trong thai: (1) Yết lạt lam. (2) Át bộ đàm. (3) Bế thi. (4) Kiện nam. (5) Bát la xa khư.

Năm phần vị ngoài thai: (1) Hài nhi. (2) Đồng tử. (3) Thiếu niên. (4) Trung niên. (5) Lão niên.

Mười một phần vị này là thuộc về một đời. Trụ nơi phần vị trung hữu, có thể tạo nghiệp định, bất định của trung hữu, cho đến có thể tạo hai nghiệp của thời kỳ già nên biết cũng như vậy. Tức biết mười một thứ nghiệp định do trung hữu đã tạo như thế đều thuộc về nghiệp thuận hiện thọ, do loại đồng phần không có sai biệt. Nghĩa là phần vị trung hữu này cùng với mười phần vị của tự loại là một chúng đồng phần, một nghiệp dẫn khởi. Do đấy, không nói riêng về nghiệp thuận thọ của trung hữu, tức các nghiệp như thuận sinh v.v…

Loại đồng phần: Nghĩa là các loài như người v.v…, không phải nẻo, không phải sinh, do căn cứ theo nẻo, sinh thì trung hữu, sinh hữu đồng phần khác nhau.

Các nghiệp định thọ, tướng của chúng là thế nào?

Tụng nêu:

Do Hoặc trọng tâm tịnh

Cùng là luôn đã tạo

Nơi ruộng công đức khởi

Nghiệp hại cha mẹ định.

Luận nói: Nếu nghiệp đã tạo, do phiền não thô trọng hoặc tâm thuần tịnh, hoặc thường đã làm, hoặc đối với ruộng công đức tăng thượng khởi. Ruộng công đức: Nghĩa là Phật, Pháp, Tăng. Hoặc Bổđặc-già-la hướng lên Tăng già. Nghĩa là chứng đức thế, xuất thế thù thắng, đối với thửa ruộng này, tuy không có Hoặc thô trọng và tâm thuần tịnh, nhưng cũng là hành không phải thường. Nếu các nghiệp thiện, bất thiện đã khởi, hoặc đối với cha mẹ, nếu như khởi triền phẩm hạ, làm các sự việc tổn hại. Như vậy, tất cả đều thuộc về nghiệp định.

Có Sư khác nói: Nếu do ý lạc mãnh liệt đã tạo. Hoặc có người tạo rồi khởi tâm hoan hỷ. Hoặc nơi tất cả thời thường thường tập quen.

Hoặc do sức của sự việc nơi nguyện lực hơn hẳn đã khởi nghiệp, thì đều quyết định là nghiệp của quả hiện pháp. Tướng đó là thế nào?

Tụng nêu:

Do ruộng, ý lạc hơn

Định chiêu cảm dị thục

Lìa vĩnh viễn nghiệp địa

Định tạo quả hiện pháp.

Luận nói: Do ruộng hơn hẳn: Từng nghe có Bí-sô ở trong Tăng chúng tạo ra giọng nói của người nữ. Bí-sô ấy chỉ trong phút chốc chuyển làm người nữ. Những chuyện này được truyền nghe, loại ấy không phải là một.

Do ý lạc hơn hẳn: Nghe nói có sự việc người thuộc loại hoàng môn đã cứu thoát đàn bò sắp bị đem thiến. Người kia chỉ trong giây lát được chuyển thành trượng phu. Những chuyện được truyền nghe ấy cũng không phải là một.

Hoặc có nghiệp khác cũng được hiện quả. Nghĩa là sinh địa này, vĩnh viễn lìa nhiễm của địa này.

Các nghiệp thiện, bất thiện ở trong địa này, tất nên là hiện thọ, vì không còn sinh lại. Như A-la-hán và người Bất hoàn, khi chưa lìa nhiễm đã tạo nghiệp kia. Nay vì lìa nhiễm, nên thành hiện pháp thọ. Thế nghiệp kia là nghiệp gì?

Nghĩa là dị thục nhất định. Nên biết nghiệp đã nói trong đây, là nghiệp có dị thục nhất định, không phải thời phần nhất định. Nếu có phần vị khác là nghiệp thuận định thọ, thì phần vị đó tất định không có nghĩa vĩnh viễn lìa nhiễm, tất ở nơi phần vị khác thọ quả dị thục. Nếu đối với dị thục cũng không nhất định, thì vì đã vĩnh viễn lìa nhiễm nên không thọ dị thục.

Các người Bất hoàn và A-la-hán, đối với dục nơi ba cõi, nếu như thoái chuyển khởi nhiễm, tất không sinh nơi định dưới để bát Niết-bàn. Nên dị thục nơi nghiệp định đều thành hiện thọ. Phần còn lại tùy theo đối tượng thích ứng so sánh với đây sẽ nói.

Ruộng nào khởi nghiệp nhất định tức thọ chăng?

Tụng nêu:

Nơi Phật, Tăng thượng thủ

Và định diệt vô tránh

Từ, kiến, tu đạo xuất

Nghiệp tổn, ích tức thọ.

Luận nói: Ở trong loại ruộng công đức như thế, tạo nghiệp thiện, ác nhất định tức thọ quả.

Ruộng công đức: Nghĩa là Đức Phật và tăng thượng thủ.

Căn cứ theo Bổ-đặc-già-la có sai biệt thì có năm:

1. Từ nơi định diệt xuất. Nghĩa là trong định này, được tâm tĩnh lặng. Định này vì tĩnh lặng, giống với Niết-bàn. Nếu khi từ định ấy, đầu tiên khởi tâm, thì như người đã nhập Niết-bàn trở lại xuất, là dùng công đức tịch tĩnh thù thắng để trang nghiêm thân mình, là xứ nương dựa của tâm tịnh ân cần sinh trưởng.

2. Từ nơi vô tránh xuất. Nghĩa là trong định này, đã có thể vĩnh viễn nhổ sạch tai họa của tất cả phiền não cùng nối tiếp. Có duyên nơi tất cả hữu tình làm cảnh, đã khởi vô biên ý lạc tăng thượng, dùng công đức vô tránh chứa nhóm huân tập thân. Khi từ định này xuất, thì tâm kia cùng nối tiếp, không bị các thứ tâm định và tâm bất định của tất cả thế gian chế phục vượt hơn, là ruộng phước phi phước thù thắng đã đến gần quả.

3. Từ nơi định từ xuất. Nghĩa là trong định này, có duyên nơi vô lượng hữu tình làm cảnh, ý lạc tăng thượng tạo lợi ích an vui, đã chứa nhóm huân tập thân. Khi xuất định này là có vô lượng công đức tối thắng đã huân tu thân cùng nối tiếp mà chuyển, có thể sinh khởi nghiệp hơn hết.

4. Từ nơi kiến đạo xuất. Nghĩa là trong đạo này đã có thể vượt qua một phần căn bản của sinh tử luân hồi trong ba cõi mà từ vô thủy lưu chuyển đã không thể vượt qua. Từ đạo này xuất, có thân tịnh thắng cùng nối tiếp mà sinh, có thể sinh khởi nghiệp hơn hết.

5. Từ nơi tu đạo xuất. Nghĩa là trong đạo này đã có thể vượt qua một phần căn bản của sinh tử. Ngoài ra, như trước đã nói.

Từ nơi mỗi mỗi định, đạo như thế, trong phần vị xuất đầu tiên, nhân theo thế tâm ở trước đã tu công đức thù thắng, cũng lại chiếu cố chuyên niệm không xả. Các căn tĩnh lặng, đặc biệt khác thường. Phước định, bất định của thế gian, xuất thế gian, không thể chế phục vượt hơn hay lấn đoạt công đức kia, nên nói năm thứ ấy gọi là ruộng công đức.

Trong ấy nếu có nghiệp làm tổn giảm, tăng ích, thì nghiệp này tất định có thể chiêu cảm quả tức thì. Nếu khi từ định khác, quả khác xuất, do định đã tu trước không phải là thù thắng, và Hoặc do tu đạo đoạn, chưa hoàn toàn hết, nên hoặc kia cùng nối tiếp, nhưng không phải là ruộng phước thù thắng.

Trong quả dị thục thì thọ là hơn hết. Nay nên xét chọn.

Ở trong các nghiệp, từng có nghiệp chỉ chiêu cảm dị thục do tâm thọ, hoặc chiêu cảm thân thọ, không phải là tâm thọ chăng?

Cũng có. Vì sao?

Tụng nêu:

Các nghiệp thiện không tầm

Nhân chỉ cảm tâm thọ

Ác chỉ cảm thân thọ

Là nghiệp cảm thọ khác.

Luận nói: Nghiệp thiện không có tầm, nghĩa là nghiệp thiện hiện có từ định trung gian cho đến xứ Hữu đảnh, trong ấy có thể chiêu cảm dị thục của thọ, nên biết chỉ chiêu cảm tâm thọ, không phải là thân, vì ở trong địa kia không có thân thọ. Nên thân thọ tất định cùng với tầm tương ưng. Chẳng phải nghiệp không có tầm chiêu cảm quả có tầm. Các nghiệp bất thiện có thể chiêu cảm thọ, nên biết chỉ chiêu cảm thân thọ, không phải là tâm, do nhân bất thiện, thì khổ thọ là quả. Khổ thọ của ý địa quyết định gọi là ưu. Ưu thọ tất không phải thuộc về quả dị thục, nên nghiệp bất thiện chỉ chiêu cảm thân thọ. Nếu chấp ưu căn nhất định không phải là dị thục, thì các loại hữu tình đã phát khởi tâm cuồng, tâm này ở trong thức nào? Nhân nào đã chiêu cảm? Dựa vào đâu khởi? Không phải là dị thục chăng?

Tụng nêu:

Tâm cuồng chỉ ý thức

Do nghiệp dị thục sinh

Cùng sợ, hại trái ưu

Trừ châu Bắc tại dục.

Luận nói: Tâm cuồng của hữu tình chỉ ở nơi ý thức. Nếu ở nơi năm thức, tất không có tâm cuồng, do năm thức thân thì không phân biệt.

Do nhân nào nên hữu tình có tâm cuồng?

Do dị thục nơi nghiệp của các hữu tình khởi. Do dị thục của những nghiệp nào khởi? Nghĩa là do hữu tình kia đã dùng vật thuốc, chú thuật để khiến tâm người khác cuồng loạn. Hoặc lại khiến người khác uống các thứ không phải họ muốn như thuốc độc, hoặc rượu. Hoặc hiện bày oai nghiêm khủng bố cầm thú v.v… Hoặc phóng lửa đốt cháy núi đầm. Hoặc đào hầm bới hố để hãm hại chúng sinh rơi vào đấy. Hoặc các sự việc khác khiến nhiều kẻ khác mất niệm.

Do nhân của nghiệp này, nên ở đời vị lai đã chiêu cảm được dị thục của loại đại chủng khác. Do thế mạnh của dị thục kia khiến tâm của hữu tình ấy phát cuồng.

Do thể của tâm cuồng này không phải là dị thục, vì tâm thiện, ác v.v… đều cùng có cuồng. Do đấy chỉ nói là từ dị thục của nghiệp sinh. Nghĩa là nhân của nghiệp ác đã chiêu cảm dị thục nơi đại chủng không bình đẳng. Dựa vào đại chủng này, tâm liền mất niệm nên nói là cuồng.

Tâm cuồng như thế đối chiếu với tâm loạn, nên tạo ra bốn trường hợp: (1) Cuồng không phải là loạn: Nghĩa là các người cuồng có tâm không nhiễm ô. (2) Loạn không phải là cuồng: Nghĩa là người không cuồng có các tâm nhiễm ô. (3) Cuồng cũng là loạn: Nghĩa là các người cuồng có các tâm nhiễm ô. (4) Không phải là cuồng loạn: Nghĩa là người không cuồng có tâm không nhiễm ô.

Tâm cuồng của hữu tình là chỉ do các thứ ấy hay lại do bốn thứ?

Bốn thứ ấy là gì?

1. Do kinh sợ. Nghĩa là các loài phi nhân v.v… hiện ra hình tướng đáng sợ đi đến cùng bức bách, hữu tình kia nhìn thấy tức dẫn đến tâm cuồng.

2. Do bị tổn hại. Nghĩa là nhân nơi sự việc kẻ kia đã xúc não hàng phi nhân v.v… Do các phi nhân giận dữ, nên đã làm tổn thương các chi tiết v.v… nơi thân kẻ kia, liền dẫn đến tâm cuồng. Trong thân hữu tình có những chi tiết riêng, nếu bị đánh đập, chạm xúc, tâm tức phát cuồng.

3. Do chống trái. Nghĩa là do các giới đàm phong nhiệt trong thân đã cùng chống trái, vì đại chủng trái hợp, nên gây ra tâm cuồng.

4. Do ưu sầu. Nghĩa là nhân các sự việc như chết mất người thân yêu v.v…, sầu độc buộc giữ tâm liền phát cuồng. Như Bà tư v.v…

Loại hữu tình nào có tâm cuồng này?

Trừ châu Bắc câu lô, phần còn lại nơi cõi dục, thì các loại hữu tình đều cùng có tâm cuồng. Nghĩa là tâm của các trời thuộc cõi dục hãy còn có cuồng, huống chi là nơi nẻo người, nẻo ác mà có thể lìa tâm cuồng. Địa ngục thì luôn cuồng, vì các thứ khổ bức bách. Các Thánh thuộc cõi dục, chỉ trừ chư Phật, còn lại khi đại chủng trái hợp, thì cùng có tâm cuồng. Tất cả Như Lai tâm không có cuồng loạn, không có xả bỏ mạng dần, không có âm thanh bị vỡ. Cũng không có các sự việc như tóc bạc, da mặt nhăn nheo v.v… Do từ nghiệp thuần tịnh diệu cùng tột sinh ra.

Lại, trong kinh nói: Nghiệp có ba thứ, nghĩa là cong, uế, đục.

Tướng của chúng thì thế nào?

Tụng nêu:

Nói nghiệp cong, uế, đục

Dua nịnh, giận, tham sinh.

Luận nói: Ba thứ thân, ngữ, ý đều có ba loại, nghĩa là cong, uế và đục. Như thứ lớp ấy nên biết là đã dựa vào dua nịnh, giận dữ, tham lam sinh khởi. Nghĩa là dựa vào dua nịnh sinh khởi nghiệp thân, ngữ, ý, gọi là nghiệp cong, vì là loại dua nịnh tà vạy. Thật sự thì cong vạy nghĩa là kiến, nên Khế kinh nói: Thật sự thì cong vạy là gì? Nghĩa là các ác kiến. Dua nịnh là loại kiến ấy, nên được mang tên cong vạy. Từ dua nịnh đã sinh khởi nghiệp thân, ngữ, ý, vì cong vạy làm nhân, quả nhận lấy tên nhân, thế nên Đức Thế Tôn nói nghiệp kia là cong.

Nếu giận dữ kia sinh khởi nghiệp thân, ngữ, ý, thì gọi là nghiệp uế, vì giận là loại cấu uế. Giận dữ gọi là uế: Nghĩa là giận dữ hiện tiền, tức như viên sắt nóng rực lửa, tùy theo nơi chốn ném vào, liền có thể thiêu đốt tàn hại thân tâm của chính mình lẫn người khác. Vì giận dữ là lỗi rất nặng trong các phiền não, nên Đức Bạc-già-phạm đã lại lập tên uế, vì là rất uế tạp trong các thứ cấu uế. Từ giận dữ sinh ra nghiệp thân, ngữ, ý, do cấu uế làm nhân quả thọ nhận tên nhân, thế nên Đức Thế Tôn nói giận dữ kia là uế.

Nếu dựa vào tham lam sinh ra nghiệp thân, ngữ, ý, thì gọi là nghiệp đục, vì tham là loại vẩn đục. Tham gọi là đục: Nghĩa là tham hiện tiền, thì nhiễm vướng nơi đối tượng duyên, vì là tánh nhiễm. Từ tham kia sinh v.v…, căn cứ theo trước nên giải thích. Lại, đạo chân trực nghĩa tám Thánh chi. Ba nghiệp có thể làm chướng ngại tám Thánh chi kia sinh, gọi là cong vạy. Chân thật không bệnh, nghĩa là cầu đạt Niết-bàn. Ba nghiệp là nhân gây chướng ngại cho việc chứng Niết-bàn kia, gọi là cấu uế. Dựa vào kiến chấp của ngoại đạo, ở trong giáo pháp Phật, làm chướng ngại tâm tịnh tín, không tin, gọi là uế, vì có thể khuấy đục tâm tịnh tín. Từ kiến chấp kia đã khởi ba nghiệp, gọi là vẩn đục. Lại, rơi vào biên kiến đoạn, thường, trái với hành xứ trung. Từ biên kiến kia đã khởi nghiệp thân, ngữ, ý, trái với nghĩa của đạo chánh trực, nên lập tên cong vạy, do tổn giảm. Từ kiến đã khởi các nghiệp, có thể làm cấu uế pháp tịnh, nên lập tên uế. Tên uế tất dựa vào nghĩa rất uế tạp. Tát-ca-da-kiến đã khởi các nghiệp, có thể làm chướng ngại kiến vô ngã chân thật thanh tịnh. Do dựa vào nghĩa chướng ngại tịnh, nên lập tên vẩn đục.

Lại trong kinh nói: Nghiệp có bốn thứ. Nghĩa là hoặc có nghiệp đen dị thục đen. Hoặc lại có nghiệp trắng dị thục trắng. Hoặc lại có nghiệp đen trắng dị thục đen trắng. Hoặc lại có nghiệp không phải đen, không phải trắng, không có dị thục có thể đoạn trừ hết các nghiệp.

Kinh tuy lược chỉ rõ, nhưng không giải thích rộng. Nay nên giải thích về các nghiệp kia. Tướng của chúng như thế nào?

Tụng nêu:

Dựa đen, đen cùng khác

Đã nói bốn thứ nghiệp

Sắc ác cõi dục thiện

Hay tận vô lậu kia

Nên biết như thứ lớp

Gọi đen, trắng cùng không.

Luận nói: Đức Phật dựa vào loại tánh nơi quả của nghiệp không đồng, đối tượng đối trị, chủ thể đối trị khác nhau để nói bốn thứ nghiệp như đen, đen v.v… Một câu các nghiệp bất thiện, gọi là đen, do gồm đủ đen của nhiễm ô và đen của không vừa ý. Dị thục cũng đen, vì không vừa ý. Nghiệp thiện của cõi sắc hoàn toàn gọi là trắng, vì không bị tất cả phiền não bất thiện cùng nghiệp bất thiện lấn áp lẫn lộn. Dị thục cũng trắng, vì là vừa ý, vì không phải là vô sắc có nhiều thiếu, giảm. Nghiệp thiện của cõi dục gọi là đen trắng, vì có ác xen tạp. Dị thục cũng đen trắng, vì có quả phi ái lẫn lộn. Tên gọi trắng đen này là dựa vào sự tương tục để lập, không phải căn cứ nơi tự thể cùng trái nhau. Do ác ở nơi cõi dục thì mạnh, không phải là thiện đã lấn át xen tạp. Nên quả của nghiệp ác được mang tên thuần đen. Các nghiệp vô lậu có khả năng vĩnh viễn đoạn trừ hết ba nghiệp trước, gọi là nghiệp thứ tư. Nghiệp này là vô lậu vì không phải là nhiễm ô. Được mang tên không phải là đen, vì không phải thuận với ái. Lại, vì không thể chiêu cảm dị thục trắng, nên gọi là không phải trắng. Nhưng Kinh Đại Không nói: Pháp vô học là thuần trắng. Do pháp vô học đã vượt qua đối với các thứ nhiễm, trong thân có thể được. Không phải như pháp học, không vượt qua các thứ nhiễm, trong thân có thể được. Các nghiệp vô lậu là đều có thể dứt hết ba nghiệp trước không? Không phải vậy. Vì sao? Tụng nêu:

Bốn pháp nhẫn lìa dục

Tám trước vô gián cùng

Mười hai vô lậu tư

Chỉ tận nghiệp thuần đen.

Lìa dục bốn tĩnh lự

Vô gián thứ chín, tư

Một tận tạp, thuần đen

Bốn khiến thuần trắng hết.

Luận nói: Ở trong kiến đạo có bốn pháp trí nhẫn cùng phần vị lìa dục nhiễm ở nơi tu đạo. Tám Thánh đạo vô gián trước đều cùng hiện hành, có mười hai tư, chỉ dứt hết nghiệp thuần đen. Lìa nhiễm cõi dục, Thánh đạo vô gián thứ chín đều cùng hiện hành, có một tư vô lậu, cùng khiến đen trắng và thuần đen dứt hết. Lúc này là đoạn chung. Vì là thiện của cõi dục nên cũng đoạn do Thánh đạo vô gián thứ chín. Vì là nghiệp bất thiện nên lìa nhiễm nơi mỗi mỗi địa của bốn tĩnh lự. Đạo vô gián thứ chín cùng hiện hành với tư vô lậu.

Bốn thứ này chỉ khiến cho nghiệp thuần trắng hết. Các nghiệp còn lại vì không có dị thục, vì không phải phải đối tượng được nêu rõ, nên ở đây không luận. Vì vậy trong đây chỉ nói mười bảy thứ cùng với đạo vô gián đều cùng hiện hành. Thánh tư có thể vĩnh viễn dứt hết ba nghiệp hữu lậu trước. Tuy đoạn hết các nghiệp là công năng của Thánh tuệ, nhưng ở trong đây là nói về đối trị gần. Tuy nghiệp thân, ngữ cũng là đối trị gần cả ba vì không tương ưng với tuệ, nên ở đây không nói.

Do đâu nghiệp thiện hữu lậu của các địa chỉ do đạo sau cùng có thể đoạn, không phải là đạo khác? Vì các pháp thiện không phải là tự tánh đoạn, vì đã đoạn hữu cùng hiện ở trước, nhưng do khi duyên nơi phiền não kia đã dứt hết, mới gọi là đoạn pháp thiện. Bấy giờ, pháp thiện được lìa trói buộc. Do đấy cho đến duyên nơi một phẩm còn lại của phiền não kia, thì ở nơi nghĩa đoạn là không thành. Lúc này pháp thiện cũng bị trói buộc.

Tụng nêu:

Có thuyết: Thọ địa ngục

Nghiệp dục khác, đen tạp

Có thuyết: Dục kiến diệt

Dục khác nghiệp đen cùng.

Luận nói: Thứ nhất, thứ ba, đều có thuyết khác.

Có Sư khác nói: Thuận địa ngục thọ và nghiệp thuận khác trong cõi dục, như thứ lớp, gọi là nghiệp thuần đen xen tạp. Nghĩa là dị thục của địa ngục chỉ do nghiệp bất thiện chiêu cảm, nên thuận với thọ của địa ngục kia, gọi là nghiệp thuần đen. Chỉ trừ địa ngục, dị thục trong cõi dục còn lại, đều chung do nghiệp thiện, ác chiêu cảm, nên thuận với thọ kia, gọi là nghiệp đen trắng.

Như thế đã nói về phần trước đã ngăn chận loại bỏ. Nghĩa là thiện không thể xen tạp nơi bất thiện.

Có Sư khác cho: Kiến đạo đoạn thuộc cõi dục và nghiệp khác hiện có trong cõi dục, như thứ lớp gọi là nghiệp thuần đen đều cùng có. Nghĩa là do kiến đạo đoạn, vì không có thiện xen lẫn, nên gọi là nghiệp thuần đen. Do tu đạo đoạn thuộc cõi dục có thiện, bất thiện, nên gọi là nghiệp đều cùng có. Điều này cũng phi lý, vì trong hai thứ đoạn, nghiệp đều cùng có, không thể chiêu cảm quả dị thục.

Nếu cho ba nghiệp đã nói trong đây là căn cứ theo phần có dị thục để nói, không phải là không có dị thục, tức không nên phân biệt nói kiến của cõi dục đã diệt. Lại, nghiệp của lực mạnh, về lý tất không hợp, vì lực nơi người yếu kém đã bị lấn át xen tạp, vì thế không nên nói là các nghiệp bất thiện do tu đạo đoạn, cũng được mang tên xen tạp. Cũng không nên nói ở cõi dục có sức của thiện vượt hơn bất thiện, vì chế phục vượt bỏ nghiệp ác, không phải là đã thừa nhận. Vì sao? Vì thiện của cõi dục không phải là thường hành, nên không có khả năng chiêu cảm quả của một kiếp.

HẾT – QUYỂN 21