LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 20

Phẩm thứ 5: BIỆN VỀ NGHIỆP, phần 3

Nơi thời gian nào thì phát sinh luật nghi cận sự?

Tụng nêu:

Gọi cận sự phát giới

Nói như là Bí-sô.

Luận nói: Khởi tâm tịnh, ân cần, phát lời nói thành khẩn chân thật tự xưng con là Ô-ba-sách-ca, nguyện xin Tôn sư nhớ nghĩ, từ bi hộ niệm.

Bấy giờ, mới là phát sinh luật nghi cận sự. Nói xưng là cận sự v.v…, là mới phát sinh luật nghi. Do kinh lại nói: Con từ hôm nay… cho đến mạng chung, nói giữ gìn sinh mạng. Nếu lìa xưng hiệu, chỉ thọ ba quy thành cận sự, thì câu tự xưng: “Con là cận sự v.v…”, liền vô dụng.

Dựa nơi nghĩa nào để nói câu gìn giữ sinh mạng?

Vì luật nghi biệt giải thoát, do giữ gìn sinh mạng mà được. Hoặc vì để cứu hộ cho chính sinh mạng mình, cũng không hủy phạm giới cấm của Như Lai. Các loại phàm phu sắp thọ luật nghi, cũng có ý lạc kiên cố như thế, cho đến vì để cứu sinh mạng của mình, cũng trọn không thiếu trái với học xứ đã thọ.

Thệ nguyện như vậy hiện đời có thể đạt được. Nhưng có tụng riêng nói: Xả bỏ sinh.

Lời nói này ý cho là xả bỏ sát sinh v.v…, lược bỏ chữ sát v.v…, chỉ nói là xả bỏ sinh. Các phàm phu kia tuy đã được luật nghi cận sự, vì khiến nhận biết rõ về học xứ đã thích ứng, nên lại vì họ thuyết giảng về năm thứ giới tướng như lìa sát sinh v.v…, khiến nhận biết để kiên trì. Như được cụ túc giới của Bí-sô xong, lại thuyết giảng về học xứ, khiến nhận biết rõ để kiên trì. Cần sách cũng vậy. Ở đây cũng nên như thế.

Vì vậy cận sự tất gồm đủ luật nghi, không phải thọ ba quy tức thành cận sự.

Tụng nêu:

Nếu đều đủ luật nghi

Sao nói về một phần

Dựa có thể trì nói.

Luận nói: Trong đây, nghĩa ghét bỏ Đối pháp, tâm không sinh hỷ, lại nêu ra vấn nạn này: Nếu các cận sự đều gồm đủ luật nghi, thì do đâu Đức Thế Tôn nói có bốn thứ: (1) Có thể học một phần. (2) Có thể học ít phần. (3) Có thể học nhiều phần. (4) Có thể học đủ phần.

Há không phải là do đấy tức đã chứng thành, không phải chỉ thọ ba quy liền thành cận sự. Nghĩa là nếu có riêng trường hợp chỉ thọ ba quy, tức thành cận sự.

Cận sự như thế, không phải như trước đã nói. Bốn thứ đã gồm thâu tức nên lại nói có cận sự thứ năm. Cận sự này đối với học xứ hoàn toàn không có chỗ học, nhưng cũng nên nói là một cận sự. Đức Phật quán xét về cận sự là không lìa luật nghi, nên trong Khế kinh chỉ nêu ra bốn thứ. Tuy các cận sự đều gồm đủ luật nghi, nhưng vì căn cứ theo khả năng thọ trì, nên nói có bốn thứ. Nghĩa là tuy thọ đủ năm chi luật nghi nhưng về sau gặp duyên, hoặc liền hủy phạm, thiếu sót.

Trong đó, hoặc có người đối với các học xứ, có thể thọ giữ một phần, cho đến hoặc có người giữ đủ năm chi, nên nói như thế. Có thể thọ trì học xứ đã thọ ở trước, nên nói câu: Có thể học. Không như vậy thì nên nói thọ một phần v.v…, nên bốn thứ này chỉ căn cứ theo khả năng giữ gìn. Nhưng Kinh chủ nói: Căn cứ theo giới trì phạm để nói một phần v.v…, hãy còn không nên hỏi, huống chi là nên vì đấy đáp lại.

Những ai đã có hiểu biết về luật nghi cận sự mà không thể hiểu luật nghi ấy tất gồm đủ năm chi, đối với chỗ học xứ, chỉ thọ trì một, không phải các thứ còn lại. Cho đến thọ trì đủ gọi là một phần v.v… Do hữu tình kia chưa hiểu về luật nghi cận sự, vì thọ lượng có ít nhiều thọ trì, tức nên thưa hỏi.

Thường có bao nhiêu loại Ô-ba-sách-ca có thể học học xứ?

Đáp: Có bốn loại Ô-ba-sách-ca. Nghĩa là có thể học một phần

v.v… Cũng chưa có thể hiểu rõ.

Lại hỏi: Vì sao gọi là có thể học một phần, cho đến nói rộng?

Điều này hoàn toàn vô lý. Vì chỉ có tông Đối pháp đã nói là trong lý tức nên hỏi đáp. Tuy nhận biết cận sự, tất gồm đủ luật nghi, nhưng chưa nhận biết rõ tùy theo đấy phạm một thứ là vượt bỏ tất cả, vì một không phải là khác. Do có nghi này, nên phải thưa hỏi. Các bộ nếu có vị nào chưa thấy văn này, thì ở trong nghĩa ấy đến nay cũng còn tranh luận. Nếu khác với đây thì như kinh Phật thường nói: Ô-ba-sách-ca gồm đủ năm học xứ. Những ai đối với học xứ này đã khéo nhận biết rõ, mà lại còn hoài nghi hỏi thọ trì nhiều ít. Nếu như thừa nhận như thế, thì nghi hỏi là trái nhau. Nghĩa là người kia vốn nghi về lượng thọ trì nhiều ít, nhưng lại hỏi có bao nhiêu có loại có thể học học xứ?

Đáp: Có thể học một phần v.v…

Há lại trừ bỏ chỗ nghi gốc chăng?

Tức trong nghĩa kia không nên hỏi đáp.

Kinh chủ ở đây không tầm tư chính đáng, ở trong lý tranh luận chỉ mang giữ lối chấp của bè nhóm. Nói ngược với nghĩa của Đối pháp đã nói. Hỏi hãy còn không nên, huống chi là nên đáp.

Nếu thiếu luật nghi cũng gọi là cận sự, thì Bí-sô, Cần sách thiếu cũng nên thành. Nhưng Kinh chủ nói: Do đâu không thừa nhận?

Do diệu lực giáo hóa của Phật đã thiết lập không đồng, nên tuy thiếu luật nghi mà vẫn thành cận sự. Bí-sô, Cần sách, tất phải gồm đủ luật nghi. Đây là tuân theo tình mình, vì không có kinh nào nói.

Đức Thế Tôn ở nơi xứ nào nói lìa luật nghi cũng thành cận sự, không phải là Bí-sô v.v…? Từng nghe trong Kinh bộ, có người chấp thế này: Cũng có Cần sách, Bí-sô không có giới.

Lối chấp kia nên đồng với kiến chấp của các ngoại đạo như Bốthích-noa v.v…, không phải là tông chỉ của pháp Phật.

Tất cả phẩm loại v.v… của luật nghi, không phẩm loại nào không cùng có ba phẩm.

Vậy ba phẩm hạ, trung, thượng tùy riêng nơi gì để thành?

Tụng nêu:

Hạ, trung, thượng tùy tâm.

Luận nói: Tám chúng đã thọ trì luật nghi biệt giải thoát, tùy theo sức của tâm thọ mà thành phẩm thượng, trung, hạ. Do lý như thế, nên các A-la-hán hoặc có vị thành tựu luật nghi phẩm hạ, nhưng các phàm phu hoặc có người thành tựu phẩm thượng.

Các hữu tình quy y Phật, Pháp, Tăng là quy y những gì?

Tụng nêu:

Quy y thành Phật, Tăng

Vô học: Hai thứ pháp

Và Niết-bàn trạch diệt

Là nói đủ ba quy.

Luận nói: Như Bản luận nói: Quy y Phật là quy y pháp nào? Nghĩa là nếu các pháp diệu hữu hiện có, do các tưởng như tưởng v.v… thiết lập ngôn thuyết, gọi là Phật-đà, thì quy y Phật này có thể thành tựu pháp vô học của Phật. Nói nghĩa là nếu: Tức là nêu lên chung, tương đương với nghĩa đã nói.

Nói các pháp: Tức là hiển thị về vô ngã tăng trưởng. Nói diệu hữu là làm rõ về tánh diệu hữu hợp. Hiện có tức nêu rõ nghĩa hiện có thể đạt được. Hoặc vì diệu đức hợp, nên gọi là diệu hữu. Hiện có tức hiển bày là tánh của đối tượng nhận biết. Các tưởng như tưởng v.v… là danh có sai biệt. Giác ngộ về hết thảy thứ tướng của tất cả các pháp, không nhờ người khác giáo hóa, nên gọi là Phật-đà. Hoặc thành tựu viên mãn các đức như trí v.v… này và tự nhiên khai giác, nên gọi là Phật-đà. Hoặc danh xưng Phật-đà là hiển bày Phật kia có giác, như vật chất ngại, gọi là có chất ngại. Hoặc danh xưng Phật-đà là chỉ rõ Phật kia có khả năng giảng nói về đối tượng chứng giác của chính mình để mở bày giác ngộ cho người khác, như kinh Bà La Môn Vấn đã nói rộng.

Người có thể thành Phật là hiển bày các pháp kia cùng với Phật đã thiết lập là kiến lập nhân.

Vì sao trong đây, ở nơi vô lượng pháp mà kiến lập chung, chỉ nêu lên một danh xưng Phật.

Như dựa trên rất nhiều người hòa hợp để lập một Tăng bảo, một đối tượng quy y thù thắng. Lại, ở trên rất nhiều đạo vô lậu chỉ lập một đạo uẩn. Tức không có lỗi.

Hoặc như trước đã nói.

Trước đã nói là thế nào?

Nghĩa là các tưởng như tưởng v.v… đã thiết lập ngôn thuyết. Tức Phật cùng nối tiếp trong pháp vô học, đã lập một danh xưng Phật, không có một Phật riêng. Pháp có thể thành Phật là những gì? Nghĩa là tận trí v.v… và quyến thuộc của tận trí kia.

Do đạt được pháp kia là có thể giác ngộ về tất cả. Do pháp kia là thù thắng, nên thân được mang danh xưng Phật, không phải thân như sắc v.v… trước sau là như nhau.

Là quy y một Phật hay tất cả Phật?

Về lý thật tức nên nói là quy y tất cả Phật.

Do tướng đạo của chư Phật là không khác. Tăng già có sai biệt lược có năm loại: (1) Tăng không có xấu hổ. (2) Tăng như loài dê câm. (3) Tăng bè nhóm. (4) Tăng thế tục. (5) Tăng thắng nghĩa.

Tăng không có xấu hổ: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la hủy hoại giới cấm nhưng vẫn mang pháp phục.

Tăng như loài dê câm: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la đối với ba tạng không có thấu đạt. Ví như dê câm, không có công dụng biện minh, thuyết giảng. Hoặc nói người câm là làm rõ không có thuyết pháp. Có thể lại nói chữ dê là hiển bày không có công dụng nghe pháp. Tức chứng tỏ loại Bổ-đặc-già-la này, ở trong ba tạng không có công dụng nghe nói pháp.

Tăng bè nhóm: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la giao du tạp loạn kinh doanh sự việc tranh chấp đấu nhau, dùng phương tiện khéo léo để kết tụ bè nhóm.

Ba loại này phần nhiều tạo nghiệp phi pháp.

Tăng thế tục: Nghĩa là phàm phu thiện. Loại này có thể tạo chung cả nghiệp pháp và phi pháp.

Tăng thắng nghĩa: Nghĩa là Bổ-đặc-già-la của pháp học, vô học cùng vật dụng do các pháp kia đã nương dựa. Tăng thắng nghĩa này nhất định không chấp nhận tạo nghiệp phi pháp. Trong năm loại thì Tăng này là tối thắng, là đối tượng quy y. Như trong Già tha tán dương quy y nói:

Quy y này tối thắng

Quy y này tối tôn

Tất nhân quy y này

Giải thoát khỏi chúng khổ.

Đối với Bổ-đặc-già-la của pháp như thế trong hai thứ Tăng thắng nghĩa, ý của Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử chỉ dùng pháp làm đối tượng quy y Tăng. Nên trong Bản luận đã nói như thế này: Quy y pháp có thể thành Tăng hữu học, vô học. Tăng có nhiều loại. Nghĩa là người hữu tình, Thanh văn, Phước điền và Thánh tăng v.v… Phật ở trong đây không phải là Thanh văn tăng, có thể là Tăng khác vì tự nhiên giác ngộ. Nay, đối tượng quy y là Tăng Thanh văn, lý thật là quy y chung nơi đệ tử của chư Phật, do tướng đạo của chư Tăng là không khác. Nhưng Khế kinh nói: Đương lai có Tăng, ông nên quy y. Nghĩa là kinh kia chỉ vì hiển bày chỉ rõ về Tăng bảo hiện thấy ở đương lai. Quy y Pháp, nghĩa là quy y nơi Niết-bàn ái tận, lìa diệt.

Như thế, tất cả là phiền não được đoạn, gọi đấy là sai biệt. Hoặc có khi cho vì theo môn chấp trước vị ái chuyển, tức không nên từ bỏ, vì thế nhờ dựa tên ái để hiển bày chung về tất cả phiền não vĩnh viễn diệt tận, vì ái cùng với phiền não khác là đồng một đối trị.

Nói ái tận: Nghĩa là các ái do kiến đạo đoạn đã vĩnh viễn đoạn trừ. Nên người Dự lưu, khi ái này hết, liền tự ghi nhận riêng là các nẻo ác đã hết. Nghĩa là ta đã dứt hết Na-lạc-ca v.v…

Nói lìa: Nghĩa là các tham hiện có trong cõi dục, phần nhiều đã đoạn trừ. Tức là nghĩa tham của cõi dục đã khiến mỏng dần. Diệt, nghĩa là các ái của cõi dục đã hoàn toàn đoạn dứt. Là nghĩa phiền não của địa này chính vào lúc bấy giờ quyết định không còn có thể trói buộc.

Nói Niết-bàn: Nghĩa là các ái của cõi sắc, vô sắc đã vĩnh viễn dứt hết. Do lúc tận này thì các khổ hiện có đều vắng lặng vĩnh viễn. Đây là làm rõ về bốn quả Sa-môn. Hoặc bốn thứ quả này như thứ lớp ấy đã hiển bày ái của ba cõi đã đoạn hết và vĩnh viễn bát Niết-bàn.

Hoặc ái tận: Nghĩa là ái của ba cõi đã đoạn. Nói lìa: Nghĩa là trừ ái, các phiền não còn lại đều đã đoạn. Nói diệt: Nghĩa là làm rõ về cảnh giới bát Niết-bàn hữu dư y. Nói Niết-bàn là chỉ rõ về cảnh giới bát Niết-bàn vô dư y.

Trong đây, pháp nào là đối tượng quy y? Chủ thể quy là gì? Quy y là nghĩa gì?

Đối tượng quy y: Nghĩa là hoàn toàn diệt đế và một phần đạo đế. Trừ công đức vô lậu của học vị Bồ-tát và Độc giác thừa.

Do đâu pháp kia không phải là đối tượng quy y? Vì các pháp đó không thể cứu vớt những thứ sợ hãi của sinh tử. Nghĩa là các Độc giác thì không thể thuyết pháp, dạy khuyên các hữu tình khiến lìa hết sợ hãi của sinh tử. Học vị Bồ-tát thì không khởi tâm kỳ hạn, nên cũng không thể dạy khuyên người khác. Vì vậy pháp học, vô học trong thân của Bồ tát kia, không có khả năng cứu hộ, nên không phải là đối tượng quy y.

Có Sư khác nói: Vì không hòa hợp, vì không hiển bày hiểu rõ, nên như thứ lớp ấy, Độc giác, Bồ-tát không phải là đối tượng quy y. Duyên nơi đối tượng đó cũng sinh ý vô lậu tịnh, nên đối tượng kia cũng thuộc về cảnh chứng tịnh. Ở đây, chủ thể quy y dùng ngữ nghiệp làm thể, tự lập kỳ hạn của thệ nguyện làm tự tánh. Hoặc cùng năm uẩn quyến thuộc làm thể, vì chủ thể quy y là ngôn thuyết hiện có, do tâm cùng khởi, không phải lìa nơi tâm. Như thế quy y là nghĩa cứu giúp.

Thánh pháp của thân người khác và thiện vô vi vì sao có thể là cứu giúp tự thân?

Vì quy y nơi Thánh pháp kia tức có thể dứt hết mọi thứ sợ hãi lớn của vòng khổ sinh tử vô biên.

Ba đối tượng quy y có sai biệt: Nghĩa là Đức Phật chỉ là bậc vô học. Pháp thì cả hai đều cùng không phải. Tăng thì thể là hợp thông cả học cùng với vô học. Lại, thể của Phật là phần ít của mười căn. Tăng thì chung cho mười hai. Thể của Pháp không phải là căn, vì trạch diệt vô vi không phải thuộc về căn.

Lại, quy y Phật: Nghĩa là chỉ quy y một quả Sa-môn hữu vi.

Quy y Pháp: Nghĩa là quy y chung bốn quả Sa-môn vô vi. Quy y Tăng: Nghĩa là quy y chung bốn quả Sa-môn hữu vi và bốn hướng quả. Lại, Đức Phật ví như người dẫn đường có khả năng chỉ rõ. Pháp như nơi chốn an ổn đã hướng đến. Tăng như bạn bè đồng bước đi trên con đường chánh.

Nên tìm nhân sai biệt của ba loại này, tức nên tư duy.

Do đâu đối với xứ luật nghi khác, lập lìa phi phạm hạnh làm đối tượng học của mình?

Còn chỉ ở trong một luật nghi của cận sự thì chỉ chế định khiến người cận sự kia lìa dục tà hạnh. Tụng nêu:

Tà hạnh rất đáng trách

Dễ lìa được không tạo.

Luận nói: Chỉ dục tà hạnh rốt cùng là có thể quán xét. Tà hạnh này đều bị người đời chê trách. Vì có thể xâm đoạt vợ v.v… của người khác v.v…, vì chiêu cảm nơi nẻo ác, nên không phải là phi phạm hạnh. Lại, vì dục tà hạnh thì dễ xa lìa. Các người tại gia tham vướng nơi dục, nên lìa phi phạm hạnh là điều khó có thể thọ trì. Đức Phật quán biết người tại gia kia không thể tu học trong thời gian dài, nên không chế định người tại gia kia lìa phi phạm hạnh. Nghĩa là từ vô thủy đến nay, do sức thường hành tập, nên phiền não dâm dục luôn dấy khởi hiện hành. Các người tại gia tùy thuận cảnh dục, thường dễ hòa hợp, vì ức chế là khó, nên Đức Phật đã không chế định hàng tại gia kia khiến họ xa lìa hoàn toàn. Lại, các Thánh giả đối với dục tà hạnh, tất cả nhất định không được tạo luật nghi, vì trải qua cả đời Thánh giả cũng không làm. Lìa phi phạm hạnh thì không như vậy. Nên đối với hàng cận sự đã thọ luật nghi, chỉ vì họ chế lập lìa dục tà hạnh. Nếu khác với đây, thì trải qua cả đời, hàng hữu học tức nên không thể vâng giữ giới tánh của cận sự.

Nếu các cận sự, về sau lại theo thầy, chủ yếu ở nơi kỳ hạn lại thọ lìa phi phạm hạnh, thì có được luật nghi chưa từng được này không?

Có Sư khác nói: Được luật nghi này nhưng không do kỳ hạn ấy mới thành cận sự. Cũng không do kỳ hạn ấy mà mất đi danh xưng cận sự. Cũng không phải ở thời gian trước giới không viên mãn.

Có thuyết cho: Không được luật nghi chưa được, nhưng đạt được danh xưng công đức đầu đà tối thắng, đạt được pháp xa lìa hơn hết. Nghĩa là có thể xa lìa pháp dâm dục. Do đấy, nếu có thể xa lìa vợ con, nhà cửa, tịnh tu phạm hạnh, thì công sức tức không uổng phí. Nếu có người nơi thời gian trước chưa lấy thê thiếp, đối khắp loại hữu tình thọ luật nghi cận sự. Về sau khi lấy vợ thì đâu thể không phải là phạm giới? Nay, vì không phải thuộc về người khác, nên dùng của cải thuộc về mình. Nghĩa là vào thời hiện nay, dùng sức của chú thuật, hoặc vô số các thứ phương tiện như tài sản, lý lẽ v.v… để gồm thâu người kia thuộc về mình, không thuộc về kẻ khác. Vì sao tạo khó khăn khiến người kia phạm giới?

Lại có lý riêng: Nay khi người kia lấy vợ thì đối với luật nghi trước không có vi phạm.

Tụng nêu:

Được luật nghi như thệ

Không chung nơi nối tiếp.

Luận nói: Các người thọ dụng dục, thọ giới cận sự, như thệ nguyện thọ trì từ trước mà được luật nghi. Thệ nguyện thọ từ trước là gì? Nghĩa là lìa dục tà hạnh. Đối với những người nữ thuộc về người khác, đã khởi tưởng thuộc về người khác, mà hành phi pháp. Như vậy mới gọi là phạm dục tà hạnh. Không phải là đối với tất cả hữu tình, cùng nối tiếp thệ nguyện đã lập từ trước: Tôi sẽ đối với người kia lìa phi phạm hạnh mà được luật nghi. Vì sao thời nay có thể gọi là phạm giới?

Đã như thệ nguyện từ trước mà được luật nghi, nay đang hành theo vì sao gọi là phạm?

Trước đã lấy thê thiếp, về sau thọ luật nghi, thì đối với vợ v.v… của mình cũng phát khởi giới này, vì luật nghi biệt giải thoát như cận sự, thì nơi xứ sở của tất cả hữu tình đều được. Nếu khác với đấy, thì đối với thê thiếp của chính mình, phi xứ, phi thời, phi chi, phi lễ, cũng tức nên không phạm giới dục tà hạnh.

Đối với giới cũ đã thọ đã có phạm, thì đối với giới mới được thọ, tức nên có không phạm, tức không nên vì như trước đã tạo khó khăn.

Do đâu ở trong nghiệp đạo của bốn ngữ, lập lìa nói lời hư dối, làm học xứ của cận sự, không phải lập lìa nói lời ly gián v.v… còn lại. Cũng do ba thứ nhân như trước đã nói. Nghĩa là vì nói lời hư dối, thì rất đáng chê trách, vì các người tại gia thì dễ xa lìa, vì tất cả Thánh giả không được tạo tác. Lại có nhân riêng.

Tụng nêu:

Do bày lời hư dối

Liền vượt các học xứ.

Luận nói: Vượt các học xứ, khi bị kiểm vấn. Nếu mở bày nói lời hư dối tức nói: Tôi không làm. Nhân đấy ở nơi giới phần nhiều đã trái vượt. Nên Đức Phật vì muốn cho hàng cận sự kia kiên trì nên đối với tất cả luật nghi đều ngăn chận nói lời hư dối.

Tức là làm sao khiến sức của duyên nơi kẻ kia khi phạm giới tức thì sinh hổ thẹn để như thật tự phát lồ?

Do đâu trong tất cả phần lìa tánh tội, lập bốn thứ làm học xứ của cận sự? Nhưng ở trong tất cả phần lìa già tội, đối với luật nghi của cận sự, chỉ lập già là lìa uống rượu?

Tụng nêu:

Trong già chỉ lìa rượu

Vì được luật nghi khác.

Luận nói: Các người uống rượu, tâm phần nhiều đều phóng túng, buông lung, không thể giữ gìn các luật nghi khác, tức vì để bảo vệ các giới còn lại kia, nên khiến lìa uống rượu. Nghĩa là uống rượu rồi, ở nơi sự việc tạo ác nói đọa lạc, biệt hối, trong năm bộ tội của tha thắng chúng dư, thì không thể phòng giữ. Hoặc có điều này. Do điều này là đối khắp các biển học xứ tức nhiễm loạn trái vượt. Vì vậy Đức Thế Tôn nhận biết uống các thứ rượu là nhân khiến dấy khởi tất cả tánh tội, có thể tổn hại chánh niệm và chánh trí, có thể dẫn đến ngu si phá giới, phá kiến. Do đấy ở trong tất cả thứ lìa già tội, chỉ nêu rõ đây là học xứ của Cận sự, nên lìa uống rượu tuy thuộc về già giới, mà ở trong tất cả việc lập học xứ so với lìa tánh tội đã cũng tùy thuận để chế định.

Luật nghi biệt giải thoát từ nơi những gì mà được? Lại, từ những gì mà được hai luật nghi còn lại?

Tụng nêu:

Từ tất cả, hai, hiện

Được luật nghi cõi dục

Từ căn bản, hằng thời

Được tĩnh lự, vô lậu.

Luận nói: Luật nghi của cõi dục nghĩa là biệt giải thoát. Biệt giải thoát này từ tất cả nghiệp đạo căn bản và cận phần trước sau mà được.

Từ hai được: Nghĩa là từ hai loại, tức là hữu tình, phi tình, tánh tội, già tội.

Đối với tánh tội của hữu tình, nghĩa là các nghiệp như sát v.v… Già tội nghĩa là đồng với người nữ tá túc qua đêm trong nhà. Tánh tội của phi tình: Nghĩa là trộm cắp tài sản bên ngoài. Già tội: Nghĩa là đào xới đất, cắt đứt cỏ tươi v.v…

Từ hiện được: Nghĩa là từ uẩn, xứ, giới của hiện đời mà được, không phải từ quá khứ, vị lai, do luật nghi này là ở nơi xứ hữu tình chuyển. Vì quá khứ, vị lai không phải là xứ hữu tình. Xứ hữu tình: Nghĩa là các hữu tình và nơi chốn đã nương dựa dừng trụ của các hữu tình hiện bày uẩn, xứ, giới. Trong: Tức là đối tượng nương dựa của hữu tình. Ngoài: Gọi là nơi chốn dừng trụ của hữu tình không phải là quá khứ, vị lai. Nếu được luật nghi tĩnh lự, vô lậu, nên biết là chỉ từ nghiệp đạo căn bản, do trong định chỉ có nghiệp đạo căn bản. Không phải từ cận phần trước sau mà được, vì ở phần vị định chỉ có căn bản. Ở trong phần vị bất định không có luật nghi này. Từ số hữu tình đã phát sinh già tội, hãy còn không được hai thứ luật nghi này, huống chi là từ phi tình phát sinh già tội.

Từ hằng thời: Nghĩa là từ uẩn, xứ, giới của quá khứ, hiện tại, vị lai mà được. Như so với giới này, vì tâm đều cùng có, do đấy không đồng, nên nêu ra bốn trường hợp.

Tức có uẩn, xứ, giới từ ba đời kia chỉ được luật nghi biệt giải thoát, không phải là hai thứ luật nghi còn lại. Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là từ cận phần trước sau của hiện đời và các già tội. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là từ nghiệp đạo căn bản của quá khứ, vị lai. Trường hợp thứ ba: Nghĩa là từ nghiệp đạo căn bản của hiện đời. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là từ cận phần trước sau của khứ lai. Đối với các xứ như nghiệp đạo v.v…, đặt các tiếng như nghiệp đạo, thì dùng tiếng như nghiệp đạo v.v… để nói về nơi chốn nương dựa kia.

Nếu khác với đây tức nên chỉ nói là luật nghi phòng hộ vị lai, chỉ có thể phòng ngăn tội vị lai khiến không khởi. Không phải luật nghi phòng hộ quá khứ, hiện tại đã diệt đã sinh, vì ở nơi luật nghi kia không có công dụng phòng hộ.

Các hữu tình đạt được luật nghi, không luật nghi, từ tất cả nhân của chi hữu tình đều như nhau hay không phải tất cả đều như nhau. Tướng ấy là thế nào?

Tụng nêu:

Luật từ các hữu tình

Chi nhân nói chẳng định

Không luật từ tất cả

Chi hữu tình không nhân.

Luận nói: Luật nghi nhất định do ý lạc điều phục thiện, duyên khắp nơi tất cả hữu tình mới được, vì không phải phần ít duyên tùy theo tâm ác, nên chi nhân là chẳng định. Chi nghĩa là nghiệp đạo. Lại ở trong các luật nghi biệt giải thoát có từ tất cả. Chi, nghĩa là giới Bí-sô có từ bốn chi được. Tức là luật nghi còn lại đã thừa nhận nhân không đồng. Lược có hai thứ: (1) Ba loại căn thiện như không tham v.v… (2) Tâm hạ, trung, thượng cùng khởi riêng.

Căn cứ ở theo nhân đầu tiên để nói tất cả luật nghi, do tất cả nhân nơi một tâm có. Căn cứ nơi nhân sau để nói tất cả luật nghi, gọi là do một nhân, vì phẩm hạ v.v… là không đều cùng khởi. Trong đây lại căn cứ theo ba nhân sau để nói. Hoặc có một loại hữu tình trụ nơi luật nghi, ở nơi tất cả hữu tình được luật nghi, không phải là tất cả chi, không phải là tất cả nhân. Nghĩa là dùng tâm phẩm hạ, hoặc phẩm trung, hoặc phẩm thượng, thọ giới cận sự, cần sách. Hoặc có một loại hữu tình trụ nơi luật nghi, ở nơi tất cả hữu tình được luật nghi, do tất cả chi, không phải là tất cả nhân. Nghĩa là dùng tâm phẩm hạ, hoặc phẩm trung, hoặc phẩm thượng, thọ giới Bí-sô. Hoặc có một loại hữu tình trụ nơi luật nghi, đối với tất cả hữu tình được luật nghi, do tất cả chi và tất cả nhân. Nghĩa là dùng ba tâm thọ giới cận sự, cần sách, Bí-sô. Hoặc có một loại hữu tình trụ nơi luật nghi, đối với tất cả hữu tình được luật nghi, do tất cả nhân, không phải tất cả chi. Nghĩa là dùng ba tâm thọ giới cận sự, cận trụ, cần sách. Không có hữu tình nào không đối khắp các hữu tình mà được luật nghi. Đã nói về nhân, không phải đối với một phần các hữu tình đã thệ nguyện thọ luật nghi, thì tâm ác hoàn toàn thôi dứt. Nay nên xét chọn.

Đối với Đức Phật cho đến trên thân một con kiến đã được luật nghi là có riêng khác không?

Nếu có riêng khác thì nẻo là bất định, đối với các hữu tình đã được luật nghi, tức nên có tăng giảm. Nếu không có riêng khác thì do đâu giết người tức phạm tội tha thắng, còn giết phi nhân thì chỉ phạm thô ác?

Nếu giết bàng sinh thì phạm tội đọa lạc. Vì thân cảnh của phi hữu tình có sai biệt, nên khiến giới đã thọ cũng có khác nhau. Nhưng hình phạt nghiệp tội có sai biệt, nên biết chỉ do gia hạnh riêng. Tức gia hạnh của giết người so với giết phi nhân, cho đến giết loài kiến đều có khác nhau.

Do ý lạc chung để kiến lập luật nghi. Nghĩa là đối khắp hữu tình không có sai biệt, khởi ý lạc điều phục thiện để cầu đạt được luật nghi, không phải ở nơi một hữu tình không xả bỏ ý lạc ác mà có thể cầu được luật nghi biệt giải thoát. Thế nên được luật nghi không có sai biệt, do người được luật nghi tất không quán riêng về duyên, thời, xứ của chi Bổ-đặc-già-la. Nghĩa là nhất định không tạo ra quán riêng như thế. Đối với hữu tình kia ta lìa sát v.v…, đối với giới của chi kia ta nhất định có thể thọ trì, đối với phương sở kia ta lìa sát v.v… Ta chỉ ở nơi thời gian một tháng v.v… kia trừ duyên chiến đấu v.v…, có thể lìa sát v.v…

Người thọ như thế là không được luật nghi, chỉ được hành diệu tương tợ với luật nghi. Vì vậy không có, do thân của các hữu tình có sai biệt, nên giới có sai biệt. Lại, đối với tự thân, không được luật nghi biệt giải thoát thuộc về nghiệp đạo căn bản. Chớ cho tư pháp v.v…, do tự sát hại mà thành nghiệp tội thuộc về vô gián v.v…, được quyến thuộc gồm thâu, về lý là không ngăn chận. Nghĩa là lìa tội chúng dư đầu tiên. Lại, luật nghi biệt giải thoát đã thọ này là chung cho tất cả cảnh có thể, không thể được, không phải chỉ đối với cảnh có thể được luật nghi này. Chủ yếu là đối khắp hữu tình khởi ý lạc không tổn não, không riêng biệt mới có thể đạt được.

Nếu cho không như vậy, thì đối với việc ngủ nghỉ, buồn bực v.v… đều không thể sát hại, nên không được luật nghi.

Nếu cho người kia nhận biết được bản tâm rồi, trở lại có thể giết, thì điều này cũng nên như thế. Do không phải đối tượng chủ thể có thể chuyển đổi, vì cảnh của chủ thể đã trở lại có thể giết hại.

Có thuyết nói: Nếu chỉ đối với chủ thể đạt được luật nghi này, tức nên có tăng giảm. Do hai loại hữu tình nơi cảnh của đối tượng chủ thể so với cảnh không phải như thế, là có chuyển đổi. Sự việc này không thành vấn nạn. Khi cảnh chuyển đổi thì không có luật nghi ấy, vì được xả bỏ nhân. Nghĩa là cảnh của đối tượng chủ thể và không phải đối tượng chủ thể, về sau chuyển đổi là cảnh không chủ thể, có chủ thể, vì không có lý khiến người kia xả bỏ được luật nghi, gồm chung ở nơi đối tượng chủ thể là đạt được luật nghi. Nếu tất muốn khiến cảnh của chủ thể, không chủ thể có chuyển đổi, nên giới có xả, được, thì thành lỗi luật nghi có tăng giảm.

Há không phải là có cỏ vốn không có mà sinh. Lại có các hữu tình vĩnh viễn nhập viên tịch.

Do đấy nên có luật nghi xả, được, cũng không lìa lỗi của giới trước có tăng giảm. Thế nên thuyết trước đã nêu, về lý là không có lỗi. Lại, đối với quá khứ, mỗi mỗi Đức Như Lai cùng chúng sinh hóa độ đã nhập viên tịch, về sau Đức Phật đối với các chúng sinh không được luật nghi kia, cho là có lỗi luật nghi sau đã giảm so với luật nghi trước. Luật nghi không phải đối nơi mỗi mỗi hữu tình, đều cùng nối tiếp khác mà phát khởi riêng được. Lại, vì chi giới v.v… của Phật trước sau là như nhau. Nghĩa là các luật nghi tùy nơi không tham v.v… làm nhân có sai biệt, sinh loại chi riêng khác. Mỗi mỗi loại chi đều là một vô biểu, gồm chung nơi tất cả xứ hữu tình được.

Vô biểu như thế đã không phân nhỏ, không thể phân tích thành ít, thành nhiều.

Vì sao nói có lỗi sau giảm so với trước? Lại, tất cả Phật đối khắp hữu tình, gồm đủ tất cả vô biểu của chi luật nghi, do số của chi v.v… không có sai biệt, nên không có lỗi giới của Phật sau giảm so với trước. Lại, công đức của Phật đều bình đẳng, không phải căn cứ nơi hữu lậu. Không như vậy thì phần vị trước sau của một thân là riêng khác, cũng có tăng giảm, huống chi đối chiếu với thân người khác mà không có lỗi tăng giảm.

Đã nói từ các pháp kia được các luật nghi. Được không luật nghi nhất định là từ nghiệp đạo của tất cả hữu tình, không có cảnh của phần ít và không luật nghi của chi không đủ. Không luật nghi này nhất định không có, do tâm của phẩm hạ v.v… nơi tất cả nhân không đều cùng khởi. Nếu có một loại do tâm phẩm hạ được không luật nghi, về sau ở nơi thời gian khác, do tâm phẩm thượng đoạn dứt mạng chúng sinh, thì người kia chỉ tạo thành không luật nghi phẩm hạ cũng thành tựu biểu v.v… của sát sinh phẩm thượng.

Phẩm trung, phẩm thượng, so sánh với phẩm hạ này, nên biết. Trong đây, nên suy xét về các sự việc của kẻ giết mổ dê v.v… Có kẻ chỉ thọ một mà được không luật nghi, tức không nên nói cũng có kẻ thọ một sự mà được.

Nếu như vậy thì vì sao không từ tất cả nhân được không luật nghi?

Như người được luật nghi, tuy ở trong biểu có sai biệt như sát v.v…, trước đã thọ một, về sau lại thọ riêng, nhưng không luật nghi chẳng phải là mới được. Nghĩa là trước tức đối chiếu chung nơi tất cả hữu tình, khởi ý lạc không có đối tượng ngăn chận tổn hại. Vì mạng sống nên thọ không luật nghi. Người kia ở nơi thời nay còn được thọ gì? Thế nên ở đây không có từ tất cả nhân. Tuy nhiên trong luật nghi, có khi từ cận sự thọ giới cần sách. Cần sách lại thọ luật nghi Bí-sô. Khi thọ riêng biệt, vì quyến thuộc của nghiệp đạo đã thọ là dị biệt, nên tùy ở kỳ hạn cần thiết khác, được thứ trước chưa được. Do đấy, có thể đạt được từ tất cả nhân.

Trong đây những gì gọi là không luật nghi?

Nghĩa là những kẻ giết mổ dê, gà, heo, bắt chim, bắt cá, săn bắn thú rừng, trộm cướp, hàng làm nem thịt, cai ngục, trói giết rồng, nấu thịt chó, giăng lưới v.v… Nói vân vân là để làm rõ về các loại người gièm pha, xúi giục, chê bai, đâm thọc, dò tìm lỗi của kẻ khác, thích thú nói về những sai trái của kẻ khác, theo đuổi làm việc phi pháp để sinh sống. Cùng những người trông coi về luật pháp của vua, dùng hình phạt, đoán tội, hạch tội các quan, chỉ luôn có tâm mưu hại, gọi là không luật nghi.

Do chủng loại như thế, trụ nơi không luật nghi, vì có không luật nghi, vì hành không luật nghi, vì khéo tạo không luật nghi, vì thường tập không luật nghi, nên gọi là không luật nghi. Nói kẻ giết mổ dê: Nghĩa là vì để sinh sống, chủ yếu là có kỳ hạn hoặc suốt đời, luôn muốn giết hại dê. Các thứ giết mổ khác, tùy theo đối tượng thích hợp, nên biết cũng như vậy. Các kẻ giết mổ dê, chỉ đối với các loài dê là có tâm tổn hại, không phải đối với các loài khác. Đâu thể đối với tất cả để được không luật nghi? Vì phải đối khắp nơi cảnh giới của hữu tình mới được các luật nghi. Lý ấy có thể là như vậy. Do ý lạc thù thắng muốn đem lại lợi lạc rộng khắp mà thọ được, nên không phải là người giết mổ dê v.v…, không phải là người không luật nghi, đối với kẻ rất thân của mình có ý gây tổn hại, cho đến trường hợp vì để cứu giúp thân mạng mình, cũng không muốn giết. Vì sao có thể nói là đối khắp tất cả mới được không luật nghi? Sự việc này cũng có thể như thế.

Người không luật nghi, đối khắp nơi cảnh của các hữu tình, ý lạc thiện đã hoại, nên tuy không có sự việc này mà giả nêu để nói: Nếu như các hữu tình và cha mẹ v.v…, tất cả đều làm hình tượng dê hiện tiền, thì người giết mổ dê khi duyên khắp đều có ý sát hại. Nghĩa là kẻ giết mổ dê kia từ lâu đã hành tập tâm không luật nghi, cho đến người thân của mình cũng không đoái hoài, vì chỉ nhằm nuôi sống mình. Nếu như người chí thân của mình hiện biến làm dê, hãy còn có ý giết hại, huống chi là sau mạng chung, thật sự thọ nhận thân dê. Đối với kẻ giết mổ dê kia có thể không có ý lạc sát hại.

Người không luật nghi, khi thọ nhận giới ác, tất khởi lên ý lạc hung dữ như đây. Nếu như thân mẹ ta v.v… tức là dê, ta cũng sẽ giết, huống chi là sinh loại khác. Do ý lạc này nên được không luật nghi. Khác với đây chỉ nên được tội ở giữa. Do đấy, tuy biết rõ người thân hiện không phải là dê, nhưng cũng có tâm giết hại, nên được khắp giới ác. Tuy không có Thánh giả sẽ làm thân dê, nhưng đồng với người chí thân cũng có ý hại.

Ở đây, Kinh chủ đã nêu so sánh này nói: Nếu quan sát về tự thể như dê v.v… ở vị lai, thì đối với người thân v.v… của hiện tại, được không luật nghi. Dê v.v… nơi vị lai có Thể như người thân v.v… Tức ở nơi thể của người thân đó, không có tâm tổn hại. Nên quán về thể của người chí thân ở vị lai, đối với dê v.v… của hiện tại là không được giới ác.

So sánh như thế v.v…, về lý là không tương xứng, vì không có ý lạc thiện, vì chỉ có ý lạc ác. Nghĩa là kẻ kia khi đang thọ nhận không luật nghi, tức không có chánh tư duy, không có ý lạc điều phục thiện:

Ta sẽ không hại tất cả hữu tình. Có tà tư duy cùng ý lạc hung dữ. Ta sẽ hại khắp tất cả hữu tình. Về sự tuy là chủ dê mà tâm thì rộng khắp. Thế nên cùng có quán xét về dê của vị lai, đối với người thân của Thánh hiện tại cũng phát khởi giới ác. Không phải quán xét Thánh của người chí thân của đời vị lai, đối với thân dê hiện tại không phát sinh giới ác. Hoặc không nhọc sức tranh luận, về lý nên đồng thừa nhận. Lại như có một người thọ nhận làm việc giết mổ dê, tuy trong một đời không cho, không lấy. Đối với thê thiếp của mình, tâm trụ nơi biết đủ. Vì câm không thể nói, nên không có bốn lỗi của ngữ nghiệp. Nhưng nhân nơi dê đã hủy hoại ý lạc thiện được đủ bảy chi tội không luật nghi.

Như thế, đối với người thân v.v… tuy không có tâm hại, nhưng ý lạc thiện đã nhân nơi dê mà hủy hoại, nên đối khắp cảnh giới hữu tình được không luật nghi. Nếu trước chủ yếu theo kỳ hạn thọ học xứ thiện, sau không hoàn toàn làm tổn hại ý lạc thiện. Do gặp duyên riêng, chỉ thọ nhận làm người sát sinh, thì đắc tội ở giữa, không phải không luật nghi. Chỉ được không luật nghi tất nên hoàn toàn tổn hại ý lạc thiện, vì thế được đủ bảy chi. Nếu có lời nói so sánh, như thọ giới thiện, có khi chi không đủ. Không luật nghi này cũng nên như thế. Nghĩa là như có người thọ luật nghi cận sự, cận trụ, cần sách, tuy chi không đủ, nhưng cũng được giới thuộc về chi thiếu kia. Người thọ nhận không luật nghi cũng nên như thế. So sánh này không phải là như nhau. Vì luật nghi, không luật nghi dụng công, không dụng công đạt được là có khác. Nghĩa là các giới thiện chủ yếu là nhờ vào dụng công thì ý lạc thiện mới có thể thọ được. Do khó đạt được, nên về lý thường tất như thế. Không phải thọ một lúc thì được chung tất cả.

Nếu các giới ác không nhờ dụng công, thì ý lạc ác tức có thể thọ được, vì không phải khó đạt được, nên về lý thường tất như thế, tùy thuận thọ một thời đều được chung tất cả. Do sức bất thiện ở nơi cõi dục là mạnh, ý lạc ác tự nhiên mà khởi, tạo các ác nặng, không chờ đợi dụng công. Vì ý lạc thiện dễ bị hủy hoại, nên tùy thuận thọ một thứ, liền được chung các thứ còn lại. Vì thiện thì không như vậy, nên so sánh ấy không phải là cân xứng. Hiện thấy cỏ dại không dụng công mà sinh. Còn chủ yếu phải tạo tác khó nhọc, thì mầm mạ tốt tươi mới khởi. Lại, như có người thọ nhận không luật nghi, tạo ra kỳ hạn cần thiết này: Tôi ở nơi suốt đời, mỗi ngày, hoặc đêm, nửa tháng, một tháng v.v…, một lượt giết mổ dê v.v… cũng được không luật nghi. Do không luật nghi dễ thọ được, do sức bất thiện ở nơi cõi dục mạnh, nên tuy không thường làm mà được giới ác. Các hữu tình muốn thọ luật nghi xuất gia, nếu tạo ra kỳ hạn cần thiết: Tôi ở nơi suốt đời, mỗi ngày, hoặc đêm, nửa tháng, một tháng v.v… thì một lần lìa sát v.v…, không được luật nghi thiện. Do luật nghi thiện khó thọ được, do sức của pháp thiện ở nơi cõi dục là yếu kém. Nếu không luôn thọ trì, thì không được giới thiện. Ở đây cũng nên như vậy, vì so sánh không cân xứng.

Đã nêu là từ các pháp kia được không luật nghi. Được không luật nghi và vô biểu còn lại, như phương tiện nào chưa nói tức sẽ nói.

Tụng nêu:

Người được không luật nghi

Do tạo và thề thọ

Được vô biểu còn lại

Do ruộng thọ hành trọng.

Luận nói: Người không luật nghi gồm có hai loại: (1) Sinh nơi nhà không luật nghi. (2) Sinh vào nhà khác, về sau thọ nghiệp này.

Các hữu tình sinh nơi nhà không luật nghi, nếu đầu tiên hiện hành gia hạnh như sát sinh v.v…, thì người này do tạo tác được không luật nghi. Nếu sinh vào nhà khác, về sau mới lập lời thề: Nghĩa là tôi sẽ tạo nên sự việc như thế để mưu cầu của cải vật dụng nuôi sống thân mình. Khi đầu tiên lập thệ, tức là phát khởi giới ác, thì người này do thọ được không luật nghi.

Do ba thứ nhân nên được vô biểu còn lại.

Vô biểu khác: Nghĩa là không phải là luật nghi, không phải là không luật nghi (Phi luật nghi phi bất luật nghi).

Do ba nhân là:

1. Do ruộng. Nghĩa là đối với thửa ruộng có đức như thế, đầu tiên dâng thí vườn rừng v.v…, thì vô biểu thiện liền sinh. Như nói có dựa vào các sự phước của nghiệp.

2. Do thọ. Nghĩa là tự nêu bày kỳ hạn cần thiết nói: Tôi từ nay nếu không cúng dường Phật và Tăng chúng, thì không ăn trước v.v… Hoặc lập thệ nguyện có kỳ hạn, vào ngày trai giới nơi tháng, nửa tháng, mỗi năm, thường bố thí thức ăn v.v… Do đấy, có vô biểu thiện nối tiếp sinh.

3. Do hành trọng. Nghĩa là khởi tác ý ân cần tôn trọng như thế để hành thiện, hành ác. Nghĩa là tín thuần tịnh. Hoặc khi triền mạnh mẽ, nhanh nhẹn, tạo thiện ác, có thể phát khởi vô biểu cùng nối tiếp trong thời gian dài, cho đến thế mạnh của triền trói buộc tín, sau cùng dứt hết, như trước đã nói.

HẾT – QUYỂN 20