LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 17

 Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ DUYÊN KHỞI, phần 6

Như lượng của khí thế gian bên ngoài là riêng khác, lượng thân cũng như vậy chăng? Cũng như vậy. Vì sao? Tụng nêu:

Lượng người châu Thiệm Bộ

Ba khuỷu rưỡi, bốn khuỷu

Người châu Đông, Tây, Bắc

Tăng dần như thứ lớp.

Trời dục: câu-lô-xá

Bốn phần mỗi mỗi tăng

Trời sắc: du-thiện-na

Bốn đầu, tăng nửa, nửa.

Trên đấy tăng bội bội

Chỉ Vô vân giảm ba.

Luận nói: Người của châu Thiệm Bộ, thân phần nhiều dài ba khuỷu tay rưỡi, trong đó phần ít có thân dài bốn khuỷu tay.

Thân người của châu Đông Thắng Thân dài tám khuỷu tay. Thân người của châu Tây Ngưu Hóa dài mười sáu khuỷu tay.

Thân người của châu Bắc Câu Lô dài ba mươi hai khuỷu tay. Nơi sáu trời thuộc cõi dục lượng thân thấp nhất là một phần tư của một câu-lô-xá.

Như thế, càng về sau mỗi mỗi phần tăng. Đến trời thứ sáu thì lượng thân là một câu-lô-xá rưỡi.

Lượng thân của trời sắc, đầu tiên là trời Phạm chúng, là nửa du-thiện-na. Trời Phạm phụ là toàn một. Trời Đại phạm là một rưỡi. Trời Thiểu quang là hai du-thiện-na.

Các trời còn lại trên đây, đều tăng bội bội, chỉ trời Vô vân là giảm ba du-thiện-na. Nghĩa là trời Vô lượng quang thì tăng gấp hai đến bốn. Cho tới trời Sắc cứu cánh tăng đủ một vạn sáu ngàn du-thiện-na.

Thân lượng đã khác thì thọ mạng có riêng chăng?

Cũng có. Vì sao?

Tụng nêu:

Châu Bắc, định ngàn năm

Tây, Đông, giảm nửa, nửa

Thọ châu này bất định

Sau mười, đầu không lường.

Nhân gian: năm mười năm

Trời dưới: một ngày đêm

Nhân thọ đây năm trăm

Năm trên bội bội tăng

Sắc ngày đêm không khác

Số kiếp bằng lượng thân

Vô sắc, đầu hai vạn

Sau sau, hai hai tăng

Trời trên dưới Thiểu quang

Đại toàn nửa làm kiếp.

Luận nói: Người của châu Bắc Câu Lô quyết định thọ mạng là một ngàn năm. Người của châu Tây Ngưu Hóa thọ mạng là năm trăm năm. Người của châu Đông Thắng Thân thọ mạng là hai trăm năm mươi năm. Người của châu Nam Thiệm Bộ thọ mạng không có hạn định. Sau kiếp tăng giảm, hoặc ít, hoặc nhiều. Ít nhất là mười tuổi, nhiều nhất là tám vạn. Con người ở phần vị kiếp đầu tiên, thọ mạng là không thể lường, vì không phải hàng trăm, ngàn v.v… mà có thể tính đếm.

Đã nói thọ lượng của nhân gian có dài ngắn. Chủ yếu trước hết là kiến lập ngày đêm của trên trời, mới có thể tính kể về thọ mạng của trời có dài, ngắn.

Trên trời kiến lập ngày đêm như thế nào?

Năm mươi năm của con người là một ngày một đêm của trời dưới cùng trong sáu trời thuộc cõi dục.

Nhân theo ngày đêm này: Ba mươi ngày là một tháng, mười hai tháng là một năm, thọ mạng của trời kia là năm trăm năm. Năm trời dục trên đều cùng tăng gấp bội dần. Nghĩa là một trăm năm của con người là một ngày một đêm của trời thứ hai. Nhân theo ngày đêm này thành tháng và năm, thì thọ mạng của trời kia là một ngàn năm. Bốn trời như Dạ ma v.v… tùy theo thứ lớp như con người: hai, bốn, tám trăm, ngàn sáu trăm năm là một ngày đêm. Nhân theo ngày đêm này thành tháng và năm, như thứ lớp các trời kia có thọ mạng là hai, bốn, tám ngàn, một vạn sáu ngàn năm.

Đã nói về thọ lượng dài ngắn của sáu trời thuộc cõi dục. Trời thuộc cõi sắc không có ngày đêm sai biệt, chỉ do số kiếp mà nhận biết thọ lượng dài ngắn. Thọ lượng có dài ngắn của kiếp nơi trời kia so với số của thân lượng là bằng nhau. Nghĩa là nếu thân lượng là nửa duthiện-na, thì thọ lượng là nửa kiếp. Nếu thân lượng của trời kia là một du-thiện-na, thì thọ lượng là một kiếp. Cho đến thân lượng dài một vạn sáu ngàn du-thiện-na thì thọ lượng cũng đồng là một vạn sáu ngàn kiếp.

Đã nói về thọ lượng có dài ngắn của các trời thuộc cõi sắc. Bốn trời thuộc cõi vô sắc, từ trời dưới, như thứ lớp, thọ lượng là hai, bốn, sáu, tám vạn kiếp. Như trên đã nói về kiếp là quyết định dựa vào gì?

Là hoại, là thành, là trung, là đại.

Từ trời Thiểu quang trở lên toàn đại là kiếp.

Các trời từ đấy trở xuống, thì nửa đại là kiếp. Tức do kiếp này nên nói Đại Phạm vương vượt hơn thọ mạng của trời Phạm phụ là một kiếp rưỡi. Kiếp không, thành, trụ, hoại, mỗi kiếp đều là hai mươi trung. Gồm chung tám mươi trung làm một đại kiếp. Lấy thành, trụ, hoại gồm chung sáu mươi trung làm thọ lượng một kiếp rưỡi của Đại Phạm vương. Nên dùng nửa đại kiếp là bốn mươi trung kiếp, làm lượng kiếp nơi thọ mạng của ba trời dưới.

Đã nêu bày về thọ lượng dài, ngắn của nẻo thiện. Nẻo ác thì thế nào?

Tụng nêu:

Đẳng hoạt cùng sáu trên

Thứ lớp theo trời dục

Thọ là một ngày, đêm

Thọ lượng cùng đồng kia.

Cực nhiệt nửa trung kiếp

Trong Vô gián kiếp toàn

Bàng sinh cùng một trung

Quỷ tháng, ngày năm trăm

Thọ lượng Át-bộ-đà

Như một Bà-ha-ma

 Trăm năm trừ một tận

Sau, sau gấp hai mươi.

Luận nói: Nẻo ác cũng không có ngày đêm như con người, nhưng về thọ lượng của các nẻo ấy do so sánh nên có thể nhận biết. Thọ mạng của sáu trời thuộc cõi dục như trời Tứ đại vương v.v…, theo thứ lớp kia đó là một ngày một đêm của sáu Nại-lạc-ca như Đẳng hoạt v.v… Thọ lượng như thứ lớp, cũng đồng với các trời kia. Nghĩa là thọ lượng của trời Tứ đại vương là năm trăm năm, tức ở nơi địa ngục Đẳng hoạt là một ngày một đêm. Nhân theo ngày đêm này thành tháng và năm. Do năm như thế, thì thọ mạng của trời kia là năm trăm. Cho đến thọ mạng của trời Tha hóa là một vạn sáu ngàn năm, tức ở nơi địa ngục Viêm nhiệt là một ngày một đêm. Nhân theo ngày đêm này thành tháng và năm, thì thọ mạng của trời kia, như ở đây là một vạn sáu ngàn năm.

Thọ mạng của địa ngục Cực nhiệt là nửa trung kiếp. Thọ mạng của địa ngục Vô gián là một trung kiếp.

Thọ lượng của bàng sinh đa số không có kỳ hạn nhất định. Nếu thọ lượng dài nhất cũng là một trung kiếp. Nghĩa là các đại Long vương như Nan-đà v.v… Nên Đức Thế Tôn nói: Rồng lớn có tám vị, đều trụ nơi một kiếp, có khả năng giữ gìn đại địa.

Quỷ thì lấy một tháng của nhân gian làm một ngày. Nhân theo ngày này thành tháng năm thì thọ lượng là năm trăm năm.

Các Nại-lạc-ca lạnh thì thọ lượng như thế nào?

Đức Thế Tôn mượn dụ để làm rõ về thọ lượng của các địa ngục kia, nói: Hai mươi Khư-lê của nhân gian này thành lượng một Mabà-ha của nước Ma-kiệt-đà, trong ấy đã đặt đầy hạt cự thắng (hạt mè). Nếu như lại có kẻ có thể trong một trăm năm lấy bớt đi một hạt. Như thế số lượng hạt cự thắng kia có dễ kỳ hạn hết nhưng thọ lượng của địa ngục Át-bộ-đà thì khó hết.

Gấp hai mươi lần ở đây là thọ lượng của địa ngục thứ hai. Như vậy càng về sau thì tăng gấp hai mươi lần. Đó gọi là thọ lượng của tám địa ngục lạnh.

Các thọ lượng này có trung yểu chăng?

Tụng nêu:

Các xứ có trung yểu

Trừ châu Bắc Câu Lô.

Luận nói: Thọ lượng của các xứ đều có trung yểu, chỉ Bắc Câu Lô thì thọ lượng cố định là một ngàn năm.

Đây là căn cứ theo xứ để nói, không phải là hữu tình riêng khác, vì có hữu tình riêng khác, không có trung yểu. Như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã nêu dẫn.

Như thế là đã căn cứ theo du-thiện-na v.v… để biện về thân lượng có sai biệt thuộc khí thế gian. Căn cứ theo năm v.v… để biện về thọ lượng có khác. Hai lượng không đồng, tức điều chưa nói nên nói. Kiến lập các lượng này đều dựa vào danh. Hai lượng trước và danh chưa tường về phần ít nhất. Nay, trước nên biện về ba lượng ít nhất. Tụng nêu:

Cực vi chữ, sát-na

Sắc, danh, thời, ít nhất.

Luận nói: Dùng tuệ giác thù thắng để phân tích các sắc, đến một cực vi, nên một cực vi là phần ít nhất của sắc, vì không thể phân tích.

Như thế phân tích các danh và thời gian, đến một chữ, một sátna là phần ít nhất của danh và thời gian.

Một chữ nơi danh: Như nói trạo là danh. Lượng một sát-na, như nơi Luận Thuận Chánh Lý đã nêu.

Như thế là đã biện về ba lượng ít nhất. Hai lượng trước có khác, nay tiếp theo nên biện. Du-thiện-na v.v…, lượng của chúng như thế nào? Tụng nêu:

Cực vi vi kim, thủy

Thố, dương, ngưu khích, trần

Kiến, rận, lúa, ngón, lóng

Sau sau tăng bảy lần

Hai mươi bốn ngón, khuỷu

Bốn khuỷu làm lượng cung

Năm trăm câu-lô-xá

Tám này du-thiện-na.

Luận nói: Cực vi là đầu, ngón tay, lóng đốt là sau. Nên biết càng về sau đều tăng gấp bảy lần. Nghĩa là bảy cực vi là một lượng vi. Chứa vi đến bảy là một kim trần. Chứa bảy kim trần là lượng của thủy trần. Chứa thủy trần đến bảy là một thố mao trần. Chứa bảy thố mao trần là lượng của dương mao trần. Chứa bảy dương mao trần là một ngưu mao trần. Chứa bảy ngưu mao trần là lượng của khích du trần. Bảy khích du trần là lượng của con kiến. Bảy con kiến là lượng của một con rận. Bảy con rận là lượng của hạt lúa mì. Bảy hạt lúa mì là lượng của đốt ngón tay. Ba đốt là lượng của một ngón tay. Thế gian đã cực thành.

Thế nên ở trong tụng không phân biệt riêng. Hai mươi bốn ngón tay sắp đặt theo chiều ngang là lượng của khuỷu tay. Tích tập theo chiều dọc, bốn khuỷu tay là lượng của một cung. Nghĩa là tầm. Tích tập theo chiều dọc năm trăm cung là lượng của một câu-lô-xá.

Tỳ-nại-da nói: Đây là lượng từ thôn xóm đến đường trung gian của A-luyện-nhã. Tám câu-lô-xá là một du-thiện-na.

Đã nói về cực vi, tích tập dần thành vi, cho đến một du-thiệnna. Nhưng thừa nhận cực vi, lược có hai thứ: (1) Thật. (2) Giả.

Tướng của cực vi kia như thế nào?

Thật, nghĩa là tự tướng như sắc v.v… cực thành. Ở nơi phần vị hòa lập thì hiện lượng đã được. Giả, là do phân tích về đối tượng nhận biết của tỷ lượng. Nghĩa là trong tụ sắc dùng tuệ phân tích dần, đến phần vị cuối cùng, sau đó, ở trong ấy biện về các cực vi như sắc, thanh v.v… có sai biệt. Sự phân tích này đã đạt đến, gọi là cực vi giả, vì khiến tuệ tầm tư cực sinh hỷ. Vi này tức cùng cực, nên gọi là cực vi. Cực, nghĩa là trong sắc phân tích đến cuối cùng. Vi, là chỉ cho đối tượng hành của tuệ nhãn. Nên nói cực vi là hiển bày nghĩa tế tột cùng.

Dùng gì làm chứng để nhận biết là có cực vi?

Dùng A-cấp-ma và lý để làm chứng. A-cấp-ma, nghĩa là Khế kinh nói: Các sắc hiện có, hoặc tế, hoặc thô. Tế tức là cực vi, vì không thể phân tích. Sắc khác có đối, gọi là thô. Lại như Già tha nói:

Các sắc như đen, trắng

Đều có tế, có thô

Tế nghĩa là rất nhỏ

Thô, nghĩa là sắc đối.

Do đấy, thành chứng nhất định có cực vi. Lại, Tỳ-nại-da nói như thế này: Bảy cực vi tích tập gọi là một vi v.v…

Như thế gọi là giáo, về lý là thế nào?

Nghĩa là như tích tập thân sắc của hữu tình, đến cứu cánh của sắc có lượng rất thô. Căn cứ theo đây cũng nên phân tích các sắc, có xứ cứu cánh gọi là một cực vi.

Làm sao nhận biết như thế?

Vì có thể phân tích pháp, phân tích đến cùng, là cũng có khác. Nghĩa là thế gian hiện thấy, dùng sắc của tụ khác để phân tích sắc của tụ khác, có tụ tế sinh, phân tích phân tích đến cùng, cũng có phần khác, có thể là mắt thấy, lại không thể phân tích.

Xứ của sắc nơi tụ như thế là không thể phân tích. Cũng như tụ thô, có lý có thể phân tích. Nghĩa là sắc của tụ kia có thể dùng tuệ giác để phân tích, như dùng sắc của tụ phân tích tụ đến cùng. Tuệ phân tích đến cùng nên có tồn tại khác, có thể là tuệ thấy, lại không thể phân tích. Tồn tại khác này tức là cực vi. Vì cực vi thể của nó quyết định có. Cực vi này nếu không có, thì sắc của tụ tức nên không có. Sắc của tụ tất do cực vi này tạo thành.

Như vậy là đã nói về du-thiện-na v.v… Nên biện về năm v.v…, lượng ấy là thế nào?

Tụng nêu:

Trăm hai mươi Sát-na

Là lượng Đát-sát-na

Lạp-phược đây sáu mươi

Đây ba mươi tu du.

Đấy ba mươi ngày đêm

Ba mươi ngày đêm: tháng

Mười hai tháng là năm

Trong đó đêm giảm nửa.

Luận nói: Một trăm hai mươi Sát-na là một Đát-sát-na. Sáu mươi Đát-sát-na là một Lạp-phược. Ba mươi Lạp-phược là một Mâu-hô-lật-đa. Ba mươi Mâu-hô-lật-đa là một ngày đêm. Ngày đêm này có lúc tăng, có lúc giảm, có lúc bằng nhau. Ba mươi ngày đêm là một tháng. Gồm chung mười hai tháng là một năm. Trong một năm phân làm ba mùa, nghĩa là mùa lạnh, nóng và mưa, đều có bốn tháng. Trong mười hai tháng thì sáu tháng có đêm giảm, do trong một năm đêm giảm chung là sáu.

Như thế là đã biện minh sát-na, đến năm. Lượng của kiếp không đồng, nay sẽ biện. Tụng nêu:

Nên biết có bốn kiếp

Là hoại, thành, trung, đại

Hoại từ ngục không sinh

Đến khí ngoài đều hết.

Kiếp thành từ gió khởi

Đến địa ngục mới sinh

Trung kiếp từ vô lượng

Giảm đến thọ chỉ mười.

Tiếp tăng, giảm mười tám

Sau tăng đến tám vạn

Như thế thành rồi trụ

Gọi trung hai mươi kiếp.

Thành, hoại, hoại rồi không

Thời gian bằng kiếp trụ

Tám mươi trung, đại kiếp

Đại kiếp ba vô số.

Luận nói: Nói kiếp hoại: Nghĩa là từ hữu tình của địa ngục không còn sinh, đến khí thế gian bên ngoài đều hết. Hoại có hai thứ:

(1) Nẻo (thú) hoại. (2) Cõi (giới) hoại.

Lại có hai thứ: (1) Hữu tình hoại. (2) Khí ngoại hoại.

Nhưng hoại cùng với thành, phân chung bốn phẩm: (1) Đang hoại. (2) Hoại rồi không. (3) Đang thành. (4) Thành xong trụ.

Nói đang hoại: Nghĩa là thế gian này vượt qua hai mươi trung kiếp trụ xong, từ đây lại có hai mươi kiếp hoại, cùng trụ liền đến. Kiếp hoại sắp khởi, thì thọ lượng của con người trụ nơi châu này là tám vạn. Hoặc có khi hữu tình của địa ngục mạng chung, không còn kẻ mới sinh, là kiếp hoại bắt đầu. Cho đến ở địa ngục không có một hữu tình, bấy giờ gọi là địa ngục đã hoại.

Các hữu tình quyết định thọ nghiệp của địa ngục, thì do sức của nghiệp đã dẫn, đặt trong địa ngục của phương khác. Do đấy, so sánh để biết về bàng sinh, nẻo quỷ. Lúc ấy, trong thân người không có các trùng, so với thân Phật là đồng, vì bàng sinh đã hoại.

Có thuyết nói: Hai nẻo đối với người là có ích, thì hoại đều cùng có với con người. Số còn lại thì hoại trước.

Hai thuyết như thế, thuyết trước là tốt. Hoặc khi một người ở châu này thuộc nẻo người, không thầy nhưng do pháp như vậy đạt được tĩnh lự thứ nhất. Từ tĩnh lự khởi, xướng lời như thế này: Ly sinh hỷ lạc, rất vui thích, rất tĩnh lặng. Người khác nghe xong đều nhập tĩnh lự, khi mạng chung đều được sinh trong trời Phạm thế. Cho đến hữu tình của châu này đều hết. Đây gọi là người của châu Thiệm Bộ đã hoại. Hai châu Đông, Tây, so sánh với châu này để nói. Châu Bắc mạng tận, sinh nơi trời thuộc cõi dục, do người châu kia là độn căn không lìa dục. Sinh nơi trời dục xong, tĩnh lự hiện tiền, chuyển được chỗ dựa thù thắng mới có thể lìa dục. Cho đến nẻo người không có một hữu tình, bấy giờ gọi là nẻo người đã hoại.

Hoặc có lúc sáu trời thuộc cõi dục của nẻo trời, tùy nơi một theo pháp như thế đạt được tĩnh lự thứ nhất, cho đến đều được sinh trong trời Phạm thế. Bấy giờ, gọi là cõi dục đã hoại.

Như thế, cõi dục không có một hữu tình, gọi là hữu tình trong cõi dục đã hoại.

Hoặc khi nơi trời Phạm thế, tùy nơi một hữu tình, không thầy nhưng theo pháp như thế đạt được tĩnh lự thứ hai. Từ định kia khởi, xướng lời như thế này: Định sinh hỷ lạc, rất vui thích, rất tĩnh lặng. Trời khác nghe xong, đều nhập tĩnh lự kia, mạng chung đều được sinh nơi trời Cực quang tịnh. Cho đến hữu tình trong trời Phạm thế đều hết.

Như thế gọi là hữu tình thế gian đã hoại. Chỉ còn khí thế gian, trống không mà trụ. Tất cả hữu tình của thế giới thuộc phương khác, chiêu cảm nghiệp của ba ngàn thế giới đã hết. Biên này dần có bảy vầng mặt trời xuất hiện, các biển đều khô cạn, các núi non cháy trụi, rỗng không. Ba luân của châu bãi đều theo đấy cháy hết sạch. Gió thổi, ngọn lửa dữ thiêu đốt các cung trời trên, cho đến cung Phạm không sót, chỉ còn đống tro tàn.

Ngọn lửa của tự địa thiêu đốt cung điện của tự địa, không phải tai họa của địa khác, có thể hủy hoại địa khác. Do cùng dẫn khởi, nên nói thế này: Gió thổi, lửa của địa dưới đốt cháy địa trên. Nghĩa là lửa của cõi dục thành ngọn lửa dữ đã bốc lên trên, làm duyên dẫn sinh ngọn lửa của cõi sắc. Các tai họa khác cũng như vậy, như chỗ ứng hợp, nên biết.

Như vậy, bắt đầu từ địa ngục giảm dần, cho đến khí thế gian hết, gọi chung là kiếp hoại.

Nói về kiếp thành, nghĩa là từ gió khởi, cho đến địa ngục bắt đầu có hữu tình sinh. Nghĩa là tai họa của thế gian này đã hoại xong, hai mươi trung kiếp chỉ có trống không. Vượt qua thời kỳ dài này, tiếp theo tức nên lại có hai mươi kiếp thành cùng trụ liền đến. Do sức tăng thượng nơi nghiệp của tất cả hữu tình, nên giữa khoảng không dần có gió vi tế sinh, là tướng hiện trước của khí thế gian sắp hình thành. Gió tăng thịnh dần, thành lập như trước đã nói về phong luân, thủy, kim luân v.v… Nhưng ở đây đầu tiên là thành lập cung điện của trời Đại phạm, cho đến sau cung điện của trời Dạ ma thì khởi phong luân v.v… Đây gọi là thành lập khí thế gian bên ngoài. Khí thế gian có hoại, thành, do sức của hữu tình.

Nếu loài hữu tình tập hợp lâu nơi trời cõi trên, thì khí thế gian này tất nên khởi dần, khiến người phước giảm phải phân tán ở dưới. Nghĩa là hữu tình tập hợp lâu ở trời Cực quang tịnh, thiên chúng đã nhiều mà nơi chốn cư trú thì chật hẹp. Các hữu tình phước giảm phải nên phân tán ở địa dưới.

Khí thế gian này, lý tức nên khởi trước, vì thế ở phần vị kiếp hoại, hữu tình tập hợp ở trên. Vào thời kỳ kiếp thành, thì hữu tình tản mát ở dưới.

Do tội nơi phước giảm và phước nơi tội tăng, nên hữu tình tập hợp, phân tán, cứ xoay vần, lý nên như thế.

Đã thành lập khí thế gian này rồi, đầu tiên một hữu tình ở trời Cực quang tịnh chết, sinh vào nơi cung điện trống không của xứ Đại phạm. Về sau, các hữu tình cũng từ nơi trời kia chết, có người sinh nơi trời Phạm phụ, có người sinh nơi trời Phạm chúng, có người sinh trong cung của trời Tha hóa tự tại. Dần dần sinh xuống dưới cho đến nẻo người nơi bốn châu Câu lô, Ngưu hóa, Thắng thân, Thiệm bộ. Về sau, sinh nơi các nẻo ngạ quỷ, bàng sinh, địa ngục. Pháp như thế tức hoại sau, tất thành sớm nhất. Như đầu tiên một hữu tình sinh vào địa ngục vô gián, hai mươi trung kiếp thành, nên biết là đã mãn. Từ đấy về sau, lại có hai mươi trung kiếp, gọi là thành rồi trụ, theo thứ lớp mà khởi. Nghĩa là từ gió khởi tạo ra khí thế gian, cho đến càng về sau hữu tình trụ dần. Khởi đầu một hữu tình ở nơi trời Cực quang tịnh qua đời, sinh nơi cung điện trời Đại phạm, tức là Đại Phạm vương. Các Đại phạm vương tất thuộc về phàm phu. Do không có Thánh giả nào sinh trở lại cõi dưới. Vì hai cõi trên không nhập kiến đạo. Tức do đấy nên không có nghĩa một hữu tình vô gián hai đời làm Đại phạm.

Đã nói Đại phạm là mạng chung sau cùng nơi trời Cực quang tịnh, thọ lượng tám đại kiếp.

Hai mươi trung kiếp, thế giới trở lại thành.

Vì sao Phạm vương sinh nơi trời Cực quang tịnh chỉ nhận lấy một ít thọ lượng trở lại từ nơi trời kia mất?

Vì tuy nơi trời kia không phải là không có nghĩa trung yểu, nhưng do phước rộng lớn mới được sinh vào trời ấy.

Trong thọ lượng tám đại kiếp, bắt đầu trải qua phần ít, khoảng hai mươi trung kiếp, đâu thể tức mạng chung. Do đấy quán biết là ở nơi cõi khác sinh đến cõi này. Thọ lượng của người ở châu ấy trải qua vô lượng thời gian, đến phần đầu của kiếp trụ thì thọ lượng mới giảm dần. Từ vô lượng giảm đến tột cùng là mười năm. Tức gọi một trung kiếp trụ đầu tiên. Mười tám kiếp sau này đều có tăng giảm. Nghĩa là từ mười năm tăng đến tám vạn. Lại từ tám vạn năm giảm đến mười tuổi, bấy giờ mới gọi là trung kiếp thứ hai. Tiếp theo mười bảy kiếp sau, so sánh đều như thế. Sau mười tám kiếp, từ mười năm tăng đến cùng cực là tám vạn năm, gọi là mười kiếp thứ hai. Tất cả kiếp tăng không quá tám vạn. Tất cả kiếp giảm chỉ tột cùng là mười năm. Trong mười tám kiếp một tăng một giảm, thời lượng mới bằng, vì đầu giảm, sau tăng, nên thời lượng của hai mươi kiếp đều bằng nhau.

Ở đây gọi chung là kiếp thành rồi trụ. Kiếp thành còn lại cùng hoại rồi không. Tuy không có sai biệt giữa hai mươi kiếp giảm tăng, nhưng do thời lượng so với kiếp trụ là đồng. Căn cứ theo trụ đều thành hai mươi trung kiếp, kiếp đầu tiên trong thành, dấy khởi khí thế gian. Hữu tình trụ dần trong mười chín kiếp sau. Kiếp sau trong hoại thì khí thế gian diệt. Hữu tình xả bỏ dần trong mười chín kiếp trước.

Như vậy là đã nói về thành, trụ, hoại, không, đều hai mươi trung kiếp, hợp thành tám mươi. Tám mươi kiếp gồm chung này thành lượng đại kiếp. Các kiếp chỉ dùng năm uẩn làm thể. Trừ thể của thời lượng này, vì không thể đạt được. Kinh nói: Ba kiếp A-tăng-xída, tu hành tinh tấn được thành Phật.

Ở trước đã nói trong bốn thứ kiếp, tích tập đại kiếp thành ba vô số kiếp. Nghĩa là từ đầu tiên, gieo trồng giống đại Bồ-đề, trải qua ba đại kiếp A-tăng-xí-da, mới được thành quả đại Bồ-đề.

Đã gọi là vô số vì sao lại nói ba?

Có thuyết giải thích về lời nói này. Các người khéo tính, dựa vào luận kế toán, tính đếm đến số đầu của phần tận cùng không thể nhận biết, gọi là một vô số.

Như thế, vô số tích tập đến thứ ba.

Thuyết khác lại giải thích cho: Trong sáu mươi số, có riêng một số, lập danh vô số. Nghĩa là có trong kinh nói về sáu mươi số.

Ở đây nói vô số là tương đương với một danh kia. Tích tập số này đến ba, gọi là ba vô số. Không phải là các người tính toán, không thể đếm biết. Bồ-tát đã trải qua ba vô số kiếp này mới chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.

Như thế là đã biện về lượng kiếp có sai biệt. Chư Phật, Độc giác xuất hiện nơi thế gian, là vào thời kỳ kiếp tăng hay là nơi phần vị kiếp giảm?

Tụng nêu:

Giảm tám vạn đến trăm

Chư Phật hiện thế gian

Độc giác thời tăng giảm

Lân giác dụ trăm kiếp.

Luận nói: Từ người của châu này có thọ mạng tám vạn năm giảm dần cho đến thọ mạng tối đa là một trăm năm, ở nơi trung gian ấy, chư Phật xuất hiện.

Do đâu nơi phần vị tăng không có Phật xuất hiện?

Vì dục lạc của hữu tình tăng, khó giáo hóa khiến nhàm chán. Vì đa số hành theo hành diệu, nên ít có hữu tình rơi vào ba đường dữ.

Thời kỳ giảm còn một trăm năm, vì sao không có Phật xuất hiện?

Khi thấy ở nơi thọ lượng ngắn ngủi như thế, thì không thể đủ để thành tựu công việc của Phật. Nghĩa là tất cả Phật xuất hiện nơi thế gian đều quyết định xả bỏ phần thọ lượng thứ năm. Từ định đã khởi mạng hành dựa vào thân, không phải vào lúc bấy giờ, hữu tình của đối tượng được hóa độ vui thích thấy gặp, để nếu như xuất thế, có thể khiến họ làm một ít Phật sự. Nên ở vào thời kỳ ấy Phật không xuất thế.

Kinh chủ ở đây đã đưa ra giải thích này nói: Vì năm thứ ô trược cực tăng nên khó có thể giáo hóa.

Há không phải là người đời nay đã giảm xuống còn một trăm năm?

Năm thứ ô trược tuy tăng, nhưng vẫn có thể hoàn thành sự việc nhập chánh quyết định, lìa dục, đắc quả. Phật chỉ vì điều này nên xuất hiện nơi thế gian. Nên lời Kinh chủ kia đã nói, không phải là cách giải thích tốt. Vì không phải ở phần vị một trăm năm là thời gian Phật xuất thế, tất cả đều có thể tuân thủ, tôn sùng Thánh giáo, nhập chánh quyết định, lìa dục đắc quả. Tức có thể nói là giảm còn một trăm năm, thì một phần không thể hoàn thành Phật sự này, nên không có Phật xuất thế. Tuy nhiên ở nơi thời giảm xuống một trăm năm, nếu như có Phật ra đời, cũng có một phần có thể tuân thủ giáo pháp v.v…, như nơi thời kỳ một trăm năm, vì sao Phật không xuất thế? Nếu cho giảm xuống trăm năm thì hữu tình có thể hóa độ? Do rất ít, nên Phật không xuất thế, tức là nên nói về nhân đã lập ở trước, tức không thể đủ để thành tựu công việc của Phật. Tuy đối với thời kỳ giảm xuống trăm năm, thì năm trược cực tăng, nên không đủ để hoàn thành công việc của Phật.

Do đấy, nên Phật không xuất hiện ở thế gian, vì nhân gần không xuất hiện, không phải như thuyết kia đã nói.

Nói năm trược, tức: (1) Thọ mạng trược. (2) Kiếp trược. (3) Phiền não trược. (4) Kiến trược. (5) Hữu tình trược.

Thế nào là nghĩa của trược?

Là rất thô bỉ, thấp kém, nên từ bỏ, vì như cặn bã cấu uế.

Há không phải là ba thứ thọ mạng trược, kiếp trược, hữu tình trược là cùng không lìa nhau?

Kiến trược tức dùng phiền não làm thể, năm thứ tức nên không thành, lý thật như thế. Chỉ vì theo thứ lớp làm rõ năm thứ suy tổn khi cực tăng thịnh. Năm thứ suy tổn đó là: (1) Thọ mạng suy tổn, vì thời gian rất ngắn ngủi. (2) Của cải vật dụng suy tổn, vì ít ánh sáng thấm nhuần. (3) Phẩm thiện suy tổn, vì ưa thích hành ác. (4) Tĩnh lặng suy tổn, vì lần lượt trái nhau, trở thành tranh chấp, ồn ào. (5) Tự thể suy tổn,vì không phải là vật chứa công đức xuất thế gian.

Vì muốn theo thứ lớp chỉ rõ năm thứ suy tổn này là không đồng, nên phân làm năm trược.

Độc giác xuất hiện thì chung cho kiếp tăng giảm. Nhưng các Độc giác có hai loại khác nhau: (1) Bộ hành. (2) Lân giác dụ.

Độc giác Bộ hành, trước là Thanh văn, khi chứng đắc thắng quả, chuyển gọi là Độc thắng.

Có thuyết khác nói: Độc giác kia trước là phàm phu, đã từng tu thuận phần quyết trạch của Thanh văn, nay tự chứng đạo, được mang tên Độc thắng.

Lân giác dụ: Nghĩa là một mình riêng xuất sinh. Trong hai loại Độc giác, thì Lân giác dụ chủ yếu là trong trăm đại kiếp đã tu tư lương Bồ-đề, sau đấy mới thành Độc giác Lân giác dụ.

Độc giác bộ hành thì thời lượng tu nhân giảm một trăm đại kiếp, thời gian không có hạn lượng nhất định. Nói Độc giác, nghĩa là trong hiện thân đã lìa việc vâng mạng Chí giáo, chỉ tự ngộ đạo, do chỉ có khả năng tự điều phục, không điều phục người khác.

Do đâu nói Độc giác là không điều phục người khác?

Không phải vị Độc giác kia không có khả năng diễn nói chánh pháp, do Độc giác ấy cũng đạt được vô ngại giải. Lại có thể nhớ nghĩ về ngôn từ của chư Phật đã được nghe trong quá khứ để có thể vì người khác giảng nói, vì đã chứng đắc túc trụ trí về cảnh rất xa. Lại không thể nói Độc giác kia không có từ bi, vì đã hiện thần thông để dẫn dắt hữu tình. Lại không thể nói là không có duyên thọ lãnh giáo hóa, vì bấy giờ hữu tình cũng có khả năng dấy khởi đạo đối trị lìa dục thế gian. Tuy có lý này, nhưng nay nên lường xét. Độc giác kia đã nhận biết căn dục của hữu tình lúc ấy, nhưng nhập kiến đế v.v… đã không nhờ nơi sự giáo hóa của người khác, nên không giảng nói pháp để điều phục người khác. Trừ điều này, ngoài ra sự việc dẫn dắt hữu tình không nhọc công nêu đặt giáo pháp, vì hiện thông tức thành. Lại, các Độc giác thiếu lực vô úy, đối với ngã luận thì chấp chặt trong chúng, muốn nói vô ngã tâm liền khiếp nhược, thấp kém, nên không thuyết giáo để điều phục người khác.

Luân vương ra đời là ở vào thời kỳ nào? Bao nhiêu loại? Bao nhiêu đều cùng có uy đức nào, hình tướng nào? Tụng nêu:

Luân vương trên tám vạn

Kim, Ngân, Đồng, Thiết luân

Một, hai, ba, bốn châu

Nghịch thứ riêng như Phật.

Khác đón, tự đến phục

Tranh trận hơn không hại

Tướng bất chánh tròn sáng

Nên so Phật không bằng.

Luận nói: Từ người của châu này thọ mạng vô lượng năm, cho đến tám vạn năm, thì có Chuyển luân vương sinh. Vào thời kỳ giảm tám vạn năm, thì thọ mạng, giàu vui của hữu tình tổn giảm, vì không phải là vật chứa của Luân vương. Vương do luân báu chuyển vận, ứng với đạo uy khuất phục tất cả, gọi là Chuyển luân vương. Trong Luận Thi Thiết Túc nói có bốn thứ là Kim, Ngân, Đồng, Thiết luân, nên riêng khác. Như thứ lớp ấy là thắng thượng trung hạ. Ngược thứ lớp ấy tức có thể làm vua thống lĩnh một, hai, ba, bốn châu. Nghĩa là Thiết luân vương làm vua cai trị một châu. Đồng luân vương hai. Ngân luân vương ba. Nếu là Kim luân vương thì làm vua cai trị bốn châu. Khế kinh căn cứ theo chỗ hơn hẳn, chỉ nói Kim luân vương. Khế kinh nói: Nếu vua sinh nơi chủng tộc Sát-đế-lợi, nối ngôi vị quán đảnh, vào ngày mười lăm, khi thọ trai giới, thì tắm gội đầu, thân thọ lãnh trai giới thù thắng, lên cung điện cao, có các quan hợp giúp. Từ phương Đông, bỗng có kim luân báu xuất hiện. Xe kia có ngàn tay hoa, đầy đủ bầu trục, vành bánh. Các tướng đều tròn sạch, không phải do thợ tạo thành, tỏa ánh sáng vi diệu đến ứng với chỗ của vua. Vua này nhất định là Chuyển Kim luân vương. Chuyển luân vương khác nên biết cũng như vậy. Luân vương như Phật không có hai vị cùng sinh. Nên Khế kinh nói: Không xứ, không vị, không phải trước, không phải sau, có hai Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời. Có xứ, có vị, chỉ một Đức Như Lai. Như nói về Như Lai, thì Chuyển luân vương cũng như vậy.

Nên xét chọn kỹ. Ở đây nói chỉ một là căn cứ theo một tam thiên hay là căn cứ nơi tất cả cõi để nói? Nói tất cả cõi là không có sai biệt. Nghĩa là không có kinh nào nói chỉ nơi thế gian này nói. Lại không có kinh nào nói chỉ một thế giới.

Vì sao không nói mà có thể nhất định nhận biết? Vì chỉ căn cứ theo một tam thiên, không phải căn cứ nơi tất cả cõi.

Nếu như vậy thì do đâu nơi Kinh Phạm vương nói: Ta nay ở trong các thế giới của tham thiên đại thiên này luôn được tự tại chuyển?

Vì Đức Phật giảng nói kinh kia là có mật ý. Nghĩa là nếu Đức Thế Tôn không khởi gia hạnh, thì chỉ có thể quán xét tam thiên đại thiên này. Nếu khi Đức Thế Tôn phát khởi gia hạnh, thì vô biên thế giới đều là cảnh của thiên nhãn. Thiên nhĩ thông v.v… thì so sánh với thiên nhãn này nên biết.

Nếu không thừa nhận như thế, thì Đức Phật ở nơi cõi khác, do đâu không có khả năng tự tại hóa độ? Vì thiếu đại bi hay là vì trí có chướng ngại?

Nếu thiếu đại bi thì kinh không nên nói: Tâm bi của Như Lai trùm khắp tất cả.

Nếu trí có chướng ngại thì kinh không nên nói: Không có một cảnh giới nào mà trí Phật không chuyển. Nếu trí bi của Đức Phật hiện bày khắp nơi tất cả đều vô ngại, không thiếu, tức nên nói pháp là có công năng cứu độ khắp tất cả hữu tình. Trong vô biên cõi, Như Lai đều có lực không thể nghĩ bàn có thể hóa độ khắp. Phần quyết định lựa chọn rộng còn lại, như nơi Luận Thuận Chánh Lý.

Như thế là đã nói về uy đức bốn loại Luân vương. An định các phương cũng có sai biệt. Nghĩa là Kim luân vương, thì các tiểu quốc vương đều tự đi đến đón tiếp, nói lời thỉnh cầu như thế này: Quốc độ của chúng tôi rất rộng, phong phú, đa số muôn dân đều sống yên ổn, giàu vui. Xin nguyện Thiên tôn thân hành giáo hóa ban lệnh. Chúng tôi đều là những kẻ luôn phục tùng, hỗ trợ Thiên tôn.

Nếu là Ngân luân vương thì tự mình đi tới quốc độ kia, có đủ oai nghiêm, đến gần vị Chuyển luân vương kia mới bày tỏ sự thần phục.

Nếu là Đồng luân vương thì khi đến nước kia xong, thì nêu uy tranh đức trước đại vương kia rồi mới suy tôn là tối thắng.

Nếu là Thiết luân vương thì cũng đi đến quốc độ kia, thể hiện oai đức, bày bố binh trận, khẳng định thắng lợi thì dừng lại.

Tất cả Luân vương đều không có xâm hại, chỉ khiến hàng phục được thắng lợi, còn mình đều yên định nơi cư trú, khuyên hóa khiến tu mười nghiệp đạo thiện. Nên Luân vương qua đời, phần nhiều được sinh lên các trời. Kinh nói: Luân vương xuất hiện ở đời, tức có bảy báu xuất hiện nơi thế gian.

Như thế, Luân vương không phải chỉ có bảy báu dị biệt so với vua khác, mà cũng có ba mươi hai tướng thù thắng của bậc Đại sĩ.

Nếu như vậy thì Luân vương so với Phật đâu có khác? Tướng Đại sĩ của Phật ở nơi xứ chính đáng, sáng rõ, viên mãn. Tướng của vua thì không như vậy, nên có sai biệt.

Nói xứ chính đáng: Nghĩa là ở nơi thân Phật chúng tướng không thiên lệch, đều đúng vị trí.

Nói sáng rõ: Nghĩa là đối với thân Phật, các tướng đều hết sức phân minh, có thể đạt được ý.

Nói viên mãn: Nghĩa là ở nơi thân Phật, chúng tướng luôn tròn khắp, không có thiếu giảm.

Chúng nhân ở nơi kiếp đầu tiên là có vua hay không có? Tụng nêu:

Kiếp đầu như trời sắc

Sau tăng dần tham vị

Do lười chứa, giặc khởi

Nhằm ngăn thuê giữ ruộng.

Luận nói: Con người nơi thời kiếp đầu tiên đều như cõi sắc. Ở nơi trời Cực quang tịnh mất, sinh đến nhân gian, trải qua thời gian lâu, dần dần có vua xuất hiện. Nên Khế kinh nói: Vào thời kiếp đầu tiên con người có sắc, ý thành, chi thể đầy đủ, các căn không thiếu, hình sắc đoan nghiêm, thân mang theo ánh sáng, bay trên không, ăn uống tự tại, luôn hỷ lạc.

Cư trú lâu trong thời gian dài, có loại vị đất như thế sinh dần, vị vừa ngọt vừa ngon, hương thơm phức. Bấy giờ, có một người bẩm tánh tham vị, ngửi hương khởi ái, lượm lên nếm thử bèn ăn. Người khác bắt chước theo tranh nhau nhặt lấy ăn. Lúc ấy mới gọi là đầu tiên thọ dụng đoạn thực. Nhờ ở đoạn thực này, nên thân dần cứng chắc, nặng thêm, ánh sáng mất hẳn, tối tăm liền sinh. Mặt trời, mặt trăng, các vì sao từ đấy xuất hiện. Do tham đắm dần vị nên vị đất liền ẩn. Tiếp sau lại có bánh da đất xuất sinh, đua nhau thâu dụng nên bánh da đất lại ẩn. Bấy giờ lại có loại dây leo rừng hiện ra. Vì cùng giành nhau hái lấy ăn, nên loại dây leo này lại mất. Có giống lúa thơm, không phải do cày cấy mà tự mọc lên, mọi người cùng nhau nhặt lấy dùng làm thức ăn thường xuyên. Vì thức ăn này thô, nên chất cấu cặn đọng lại ở thân. Nhằm để trừ bỏ nên sinh ra hai đường, nhân đấy bèn có nam căn, nữ căn sinh. Do hai căn khác, nên hình tướng cũng khác. Vì sức tích tập của đời trước, nên nhìn nhau liền sinh tác ý phi lý, hành phi phạm hạnh. Quỷ dục trong con người đầu tiên phát sinh vào thời kỳ này.

Bấy giờ, các người tùy vào sự việc ăn uống, sáng chiều theo đấy nhặt lấy lúa thơm, không có dự trữ, chất chứa. Thời gian sau có người vì tánh vốn lười biếng, lấy nhiều lúa thơm dự trữ để dành ăn lâu dài về sau. Người khác bắt chước, tích trữ nhiều dần. Do đấy, đối với lúa thơm dấy sinh tâm ngã sở, đều buông theo tình tham, nhặt lấy nhiều không chán, nên tùy nơi xứ đã nhặt lấy, lúa thơm kia không còn mọc lại nữa. Vậy là cùng nhau phân chia ruộng, lo phòng xa sẽ hết. Nơi phần ruộng của mình thì sinh tâm keo kiệt, bảo vệ. Đối với phần ruộng đã chia cho người khác, thì có tâm ý muốn xâm đoạt. Lỗi lầm trộm cướp khởi đầu từ thời này. Vì muốn ngăn chận phòng giữ họ cùng nhóm họp để bàn bạc, cân nhắc, chọn trong chúng một người có đức, đều dùng một phần sáu số lúa đã thu được để trả công cho người kia trông coi, phong làm chủ ruộng. Nhân đấy nên lập tên Sát-đế-lợi. Đại chúng kính vâng, ân truyền theo đất, nên lại gọi là Đại tam mạt đa vương.

Từ đó về sau, các vua xem vị vua này là đứng đầu. Người thời bấy giờ, hoặc có hữu tình chán việc cư trú nơi nhà, ưa thích ở chốn thanh vắng, chuyên tu giới hạnh, nhân đấy nên được mang tên Bà-la-môn. Thời gian sau có vua quá tham lam đối với của cải vật dụng, vì không thể cấp chia đều cho dân chúng cả nước, nên số người nghèo thiếu, phần nhiều làm việc trộm cắp. Vua vì cấm ngăn, nên ban hành hình phạt nhẹ nặng. Tức nghiệp sát hại bắt đầu vào thời này.

Thời ấy, người có tội, tâm sợ bị hình phạt, bèn che giấu tội kia, khởi tưởng khác để thưa nêu. Nói lời hư dối sinh khởi vào lúc này là hàng đầu.

Ở phần vị kiếp giảm có ba tai họa nhỏ. Tướng của chúng như thế nào? Tụng nêu:

Nghiệp đạo tăng, thọ giảm

Đến mười ba họa hiện

Đao, bệnh, đói như thế

Bảy ngày, tháng, năm dứt.

Luận nói: Từ khi các hữu tình khởi lời nói hư dối, thì các đạo nghiệp ác càng về sau tức chuyển tăng, nên thọ lượng của con người nơi châu này giảm dần, cho đến sau cùng là mười năm, thì có ba tai họa nhỏ xuất hiện. Nên các tai họa do hai pháp làm gốc: (1) Tham ăn ngon. (2) Tánh biếng trễ.

Ba tai họa nhỏ này thì khởi vào cuối trung kiếp. Ba tai họa là: (1) Đao binh. (2) Bệnh dịch. (3) Đói khát.

Nghĩa là vào cuối trung kiếp, con người nơi thời kỳ thọ lượng chỉ còn mười năm, vì tham phi pháp, nhiễm ô cùng nối tiếp, bị ái không bình đẳng che lấp tâm, pháp tà trói buộc, sân hận tăng thượng, thấy nhau liền khởi tâm hại mãnh liệt, như hiện nay người thợ săn vừa trông thấy các loài cầm thú hoang dã. Theo tay đã cầm nắm đều thành đao bén, đều cùng ùa đến, hung dữ, điên cuồng, tàn hại nhau.

Lại, vào cuối trung kiếp, con người của thời kỳ thọ mạng chỉ còn mười tuổi, do có đủ các lỗi lầm như trước, nên hàng phi nhân nôn ra chất độc, bệnh dịch lan tràn, hễ gặp phải liền mạng chung, khó có thể cứu chữa.

Lại, vào cuối trung kiếp, con người của thời kỳ như đã nêu, vì cũng gồm đủ các lỗi lầm như trước, nên trời, rồng giận trách, không mưa xuống nước ngọt. Do đấy thế gian từ lâu gặp phải đói khát. Đã không có cứu giúp, nên phần nhiều mạng chung. Nếu có người có thể trong một ngày một đêm giữ giới không sát hại, dùng một vật thuốc, khởi tâm ân cần thanh tịnh, phụng thí Tăng chúng. Hoặc dùng một nắm thức ăn dâng cúng Tăng chúng thì quyết định không gặp ba tai họa này khởi.

Ba tai họa này khởi đều trải qua thời gian bao lâu?

Tai họa đao binh khởi tối đa chỉ bảy ngày. Tai họa bệnh dịch khởi bảy tháng, bảy ngày. Tai họa đói khát khởi bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Qua thời gian ấy là dứt. Thọ mạng của con người tăng dần.

Hai châu Đông, Tây có tai họa tương tợ khởi. Nghĩa là sân hận tăng thịnh, sức thân ốm yếu, thường thêm đói khát. Châu Bắc hoàn toàn không có.

Những gì gọi là tướng của ba tai họa lớn? Tụng nêu:

Ba tai: lửa, nước, gió

Trên ba định là đỉnh

Như thứ lớp họa trong

Bốn không do không động.

Nhưng thứ kia phi thường

Tình đều cùng sinh diệt

Chính bảy lửa, một nước

Bảy nước, lửa, gió sau.

Luận nói: Ba tai họa lớn này bức bách loài hữu tình, khiến bỏ địa dưới, tập hợp trong trời trên.

Đầu tiên, hỏa tai khởi, do bảy mặt trời hiện ra.

Có thuyết nói: Bảy vầng mặt trời vận hành như vậy, cũng như chim nhạn bay đi phân đường xoay vần.

Có thuyết cho: Bảy vầng mặt trời như thế vận hành trên dưới thành hàng, phân đường xoay vần, trung gian đều cách nhau năm ngàn du-thiện-na.

Tiếp theo, thủy tai khởi, do mưa trút nước dốc xuống.

Có thuyết nêu: Từ nơi biên của ba định trong không, bỗng nhiên mưa xuống nước tro nóng.

Có thuyết khác lại nói: Từ bên dưới thủy luân khởi nước sôi vọt lên trên, trôi nổi ngâm thấm.

Nghĩa như thật: Tức nơi biên này sinh, sau thì phong tai khởi, do gió đập vỗ vào nhau.

Có thuyết cho: Từ nơi biên của bốn định, trong không bỗng nhiên gió cuốn đập vỗ khởi lên.

Có thuyết khác lại nêu: Từ bên dưới phong luân khởi, gió thổi mạnh đập vỗ dữ dội, bay ào lên trên.

Nghĩa như thật này căn cứ theo trước nên biết.

Nếu ba tai họa này hủy hoại khí thế gian, cho đến không có phần nhỏ nào còn lại, thì về sau vật thô sinh, cái gì làm hạt giống? Há không phải tức do gió nơi đỉnh của tai họa trước làm duyên dẫn sinh gió làm hạt giống? Hoặc trước đã nói: Do nghiệp của các hữu tình đã sinh ra gió, có thể làm hạt giống. Trong gió có đủ vô số thứ vật tế, làm nhân đồng loại dẫn vật thô khởi. Hoặc các thế giới đã bị hủy hoại, không phải trong một thời gian. Có gió phương khác gồm đủ vô số thứ đức, thổi đến đây làm hạt giống, tức cũng không có lỗi. Nên trong Khế kinh của Hóa địa bộ nói: Gió từ phương khác thổi các thứ hạt giống đến đây. Như trước đã nói: Gió nơi đỉnh của tai họa trước. Trong đây là tai họa nào? Dùng gì làm đỉnh? Lửa, nước, gió, như thứ tự dùng ba định trên làm đỉnh. Nên Đức Thế Tôn nói: Đỉnh của tai họa có ba.

Nếu khi hỏa tai thiêu đốt thế giới, thì dùng trời Cực quang tịnh làm đỉnh của tai họa này.

Hoặc khi thủy tai ngâm thấm, làm tan hoại thế giới, tức dùng trời Biến tịnh làm đỉnh của tai họa này.

Hoặc khi phong tai thổi tan thế giới, thì dùng trời Quảng quả làm đỉnh của tai họa này. Tùy theo sức mạnh của tai họa nào, đối với xứ không đạt tới, tức gọi xứ ấy là đỉnh của tai họa này.

Do đâu ba định dưới đã gặp phải ba tai họa lửa nước gió? Vì trong ba định một hai ba có tai họa nội là bằng với các định kia. Nghĩa là tầm tứ của tĩnh lự thứ nhất, là tai họa nội có thể thiêu đốt não hại tâm bằng với hỏa tai bên ngoài.

Nên hỷ thọ của tĩnh lự thứ hai là tai họa nội, cùng với khinh an đều cùng có thấm nhuần như nước, nên các thứ thô nặng khắp thân do đấy đều dứt trừ. Kinh nói khổ căn ở nơi tĩnh lự thứ hai diệt. Do nói nội tâm hoan hỷ, vì được thân khinh an. Hỷ của địa này thịnh, địa khác không có, nên thủy tai bên ngoài, cuối cùng chỉ đến nơi đây. Hơi thở động của tĩnh lự thứ ba là tai họa nội. Hơi thở cũng là gió, bằng với phong tai bên ngoài. Nên nếu nhập tĩnh lự này, thì có tai họa nội như thế sinh. Trong tĩnh lự ấy, vì gặp phải tai họa bên ngoài này hủy hoại.

Nên bên trong tĩnh lự thứ nhất có đủ cả ba tai họa, ngoài cũng gặp đủ ba tai họa hủy hoại.

Bên trong tĩnh lự thứ hai, vì có hai tai họa, nên bên ngoài cũng gặp phải hai tai họa hủy hoại.

Bên trong tĩnh lự thứ ba, vì chỉ có một tai họa, nên bên ngoài chỉ gặp một tai họa hủy hoại.

Tĩnh lự thứ tư không có tai họa bên ngoài, vì định kia không có tai họa bên trong. Do đấy, Đức Phật nói: Định kia gọi là bất động, vì ba tai họa trong ngoài đã không đạt tới.

Nếu như vậy thì khí thế gian của địa nơi tĩnh lự kia nên là thường chăng? Không phải thế. Vì cùng với hữu tình là đều cùng sinh, đều cùng diệt. Nghĩa là nơi xứ trời kia không có địa hình chung, chỉ như nơi chốn cư trú của các vì sao đều riêng. Hữu tình nơi xứ trời kia lúc sinh, lúc chết, đều ở tại cung trời, tùy khởi tùy diệt. Thế nên thể của khí thế gian nơi trời kia cũng là vô thường.

Thế nào là thứ lớp của ba tai họa đã nêu bày?

Chủ yếu trước là vô gián khởi bảy hỏa tai, tiếp theo nhất định nên một thủy tai khởi. Sau đấy vô gián lại có bảy hỏa tai. Qua bảy hỏa tai, trở lại có một thủy tai.

Như thế cho đến đủ bảy thủy tai. Lại, sau bảy hỏa tai thì phong tai nổi lên.

Như vậy gồm có tám lượt bảy hỏa tai, một lượt bảy thủy tai, thì một phong tai nổi lên. Thủy tai phong tai khởi đều từ hỏa tai. Từ thủy tai, phong tai tất hỏa tai khởi, nên thứ lớp của tai họa, lý tất nên như thế.

Do đâu bảy hỏa tai mới một thủy tai?

Vì uy lực của thọ mạng nơi trời Cực quang tịnh. Nghĩa là thọ lượng của trời kia cùng tột là tám đại kiếp. Nên đến đại kiếp thứ tám mới có một thủy tai.

Do đấy nên biết, chủ yếu là vượt qua bảy thủy tai, sau tám lượt bảy hỏa tai là một phong tai. Do uy lực nơi thọ lượng của trời Biến tịnh. Nghĩa là thọ lượng của trời kia là sáu mươi bốn kiếp, nên đến hỏa tai thứ tám mới có một phong tai. Như các hữu tình tu định dần dần thù thắng, đã chiêu cảm thọ lượng nơi thân dị thục lớn dần. Vì vậy nơi chốn cư trú cũng trụ lâu dần. Ngoài do trong chiêu cảm, lý tất nên như thế.

HẾT – QUYỂN 17