LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 12

Phẩm thứ 4: BIỆN VỀ DUYÊN KHỞI, phần 1

Đã dựa nơi ba cõi để biện về các pháp như đắc, tâm v.v… có sai biệt.

Nay nên xét chọn: Ba cõi là những xứ nào, có riêng bao nhiêu thứ? Tụng nêu:

Địa ngục, bàng sinh, quỷ

Người và sáu trời dục

Gọi cõi dục, hai mươi

Do địa ngục, châu khác.

Trên đấy, mười sáu xứ

Gọi cõi sắc, trong ấy

Đầu, hai, hai, ba, ba

Tĩnh lự thứ tư tám.

Cõi vô sắc: không xứ

Do sinh có bốn thứ

Dựa đồng phần cùng mạng

Khiến tâm cùng nối tiếp.

Luận nói: Toàn bộ bốn nẻo dưới như Na-lạc-ca v.v… và một phần trời trong ấy có quyến thuộc và khí thế gian, gọi chung là cõi dục.

Một phần trời: Nghĩa là sáu trời thuộc cõi dục: (1) Trời Bốn đại vương chúng. (2) Trời Ba mươi ba. (3) Trời Dạ ma. (4) Trời Đổ sử đa. (5) Trời Lạc biến hóa. (6) Trời Tha hóa tự tại.

Như thế cõi dục gồm các nẻo như địa ngục v.v… và khí thế gian tổng cộng có mười xứ. Do địa ngục và châu có khác nên phân làm hai mươi. Tám địa ngục lớn gọi là địa ngục có khác: (1) Địa ngục Đẳng họat. (2) Địa ngục Hắc thằng. (3) Địa ngục Chúng hợp. (4) Địa ngục Hào khiếu. (5) Địa ngục Đại khiếu. (6) Địa ngục Viêm nhiệt. (7) Địa ngục Đại nhiệt. (8) Địa ngục Vô gián.

Nói châu khác: Nghĩa là bốn châu lớn: (1) Châu Nam Thiệm bộ. (2) Châu Đông Thắng thân. (3) Châu Tây Ngưu hóa. (4) Châu Bắc Câu lô.

Mười hai xứ như thế và sáu trời dục, xứ bàng sinh, ngạ quỷ là thành hai mươi.

Nếu là hữu tình giới thì từ trời Tự tại đến địa ngục vô gián. Nếu là khí thế giới thì cho đến phong luân đều thuộc về cõi dục.

Đã nói về cõi dục và xứ không đồng. Xứ ở trên cõi dục này có mười sáu. Nghĩa là xứ tĩnh lự thứ nhất có hai. Tĩnh lự thứ hai và thứ ba đều có ba. Tĩnh lự thứ tư riêng có tám. Khí thế giới và hữu tình gọi chung là cõi sắc.

Nói xứ tĩnh lự thứ nhất có hai: (1) Trời Phạm chúng. (2) Trời Phạm phụ.

Xứ tĩnh lự thứ hai có ba: (1) Trời Thiểu quang. (2) Trời Vô lượng quang. (3) Trời Cực quang tịnh.

Xứ tĩnh lự thứ ba có ba: (1) Trời Thiểu tịnh. (2) Trời Vô lượng tịnh. (3) Trời Biến tịnh.

Xứ tĩnh lự thứ tư có tám: (1) Trời Vô vân. (2) Trời Phước sinh.

(3) Trời Quảng quả. Và xứ năm Tịnh cư hợp thành tám: (1) Trời Vô phiền. (2) Trời Vô nhiệt. (3) Trời Thiện hiện. (4) Trời Thiện kiến. (5) Trời Sắc cứu cánh.

Mười sáu xứ này gồm các khí thế gian và các hữu tình, gọi chung là cõi sắc.

Do đâu trời Đại phạm và trời Vô tưởng, thọ lượng là cùng khác nhau mà không kiến lập riêng?

Không nên lập riêng một Đại phạm, vì chủ yếu là dựa nơi đồng phần để lập tên thiên xứ. Không phải một Phạm vương mà có thể gọi là đồng phần. Tuy thọ lượng so với các trời khác là không đồng, nhưng do một thân, nên không thành đồng phần, vì thế cùng với Phạm phụ hợp lập một trời.

Cao thấp tuy khác, nhưng địa thì không riêng biệt. Hữu tình vô tưởng so với trời Quảng quả kia, về thọ thân lượng v.v… là không sai biệt, nhưng cũng không có nhân dị biệt, nên không thể lập làm xứ thứ tư.

Trong cõi vô sắc đều không có phương xứ, vì pháp vô sắc thì khứ lai là vô biểu, đều không có phương sở, lý ấy là quyết định, chỉ do dị thục sinh hơn kém có sai biệt, nên nói có bốn loại: (1) Xứ không vô biên. (2) Xứ thức vô biên. (3) Xứ vô sở hữu. (4) Xứ phi tưởng phi phi tưởng.

Bốn loại như thế gọi là cõi vô sắc. Do dị thục sinh hơn kém, không phải do phương sở.

Do ở nơi xứ này đạt được định kia, mạng chung tức sinh ở nơi xứ này. Lại từ xứ kia mất, khi sinh vào cõi dục, cõi sắc, tức ở trong xứ này có khởi. Do lìa dục dần dần, được dần dần định của xứ kia, và dị thục sinh có hơn kém theo thứ lớp như thế. Tùy theo sức của nhân sinh nên quả có ít nhiều. Ở nơi cõi vô sắc các hữu tình thọ sinh, lấy gì làm chỗ dựa để tâm v.v… cùng nối tiếp?

Do đâu ở đây bỗng dưng lại sinh nghi?

Do trong các pháp đều không có ngã. Tâm tâm sở pháp ở nơi cõi dục, cõi sắc, nương dựa vào sắc thân, có thể nối tiếp chuyển biến. Ở cõi vô sắc đã không có sắc thân, nên tâm v.v… tức không có nghĩa nối tiếp nhau chuyển biến.

Nhằm hiển bày là tâm kia có nương dựa, nên nói: Nương dựa vào đồng phần cùng với mạng khiến tâm v.v… cùng nối tiếp. Tiếng cùng với là gồm thâu hành bất tương ưng còn lại. Nghĩa là đắc và phi đắc, tánh phàm phu, các pháp như sinh v.v…, chuyển biến theo đối tượng nhờ dựa nên gọi là nương dựa. Khi tâm v.v… chuyển chủ yếu là nhờ vào mạng căn kia. Bốn thức như nhãn v.v…, mỗi mỗi đều dùng ý vô gián diệt và sắc căn của chính mình để làm đối tượng nương dựa, cùng làm tánh nương dựa. Do sắc căn của chính mình đã dựa vào thân căn của đại chủng và mạng căn nơi đồng phần của đại chủng, vì đắc v.v…, sinh v.v… chỉ làm tánh nương dựa. Thân thức tức dùng ý và thân căn làm đối tượng nương dựa cho căn kia và làm tánh nương dựa. Chỉ vì thân căn đã dựa vào mạng căn, thuộc đồng phần của đại chủng. Đắc v.v…, sinh v.v… làm tánh nương dựa của thân căn, không phải làm đối tượng nương dựa. Ý thức chỉ dùng ý vô gián diệt làm đối tượng nương dựa cho mình cùng làm tánh nương dựa. Thân căn và mạng căn nơi đồng phần của đại chủng, đắc v.v…, sinh v.v…, chỉ làm tánh nương dựa.

Như thế, tâm v.v… của hữu tình ở cõi dục, cõi sắc, đều nương dựa vào phần cùng nối tiếp như mạng căn v.v…, thuộc đồng phần của sắc. Hữu tình của cõi vô sắc do không có sắc, nên chỉ dựa vào đồng phần và mạng căn v.v…, khiến tâm v.v… cùng nối tiếp, không phải là không có nương dựa.

Nương dựa cùng với đối tượng nương dựa, hai thứ là cùng riêng khác. Chủ yếu là do kia có đây mới được chuyển, không có thì không chuyển. Đó là tướng nương dựa, nhất định có tướng kia và tùy thuận biến chuyển. Đây gọi là tướng nương dựa và đối tượng nương dựa. Tuy các pháp kia được tâm v.v… nương dựa, nhưng hoặc có khi tâm v.v… không chuyển, thì các pháp này do pháp riêng khác làm chướng ngại. Nếu tâm v.v… ở nơi phần vị chuyển tất có chỗ dựa của các pháp kia. Nên các pháp ấy được xem là tướng nương dựa của tâm v.v… Hiện thấy tâm v.v… ở trong thân chết, là hoàn toàn không sinh. Ở nơi thân sống, tuy tạm thời diệt, nhưng nhất định sẽ khởi. Nên các sắc kia v.v… là tướng nương dựa đã cực thành.

Do đấy nên biết, sắc, thanh, hương v.v… đối với tâm tâm sở không thể làm chỗ nương dựa, vì trong các sự việc bên ngoài đều có sắc, thanhv.v…, nhưng vì tâm tâm sở đã từng không chuyển, nên tâm v.v… không tùy theo ý vô gián diệt nhất định có chuyển biến.

Vì sao có thể nói những pháp kia là đối tượng nương dựa?

Phàm nói về tùy thuận biến chuyển. Nghĩa là khiến cho đổi thay, xê dịch. Do ý trước diệt, tâm sau cùng khởi. Vì sao không phải là đối tượng nương dựa?

Do không phải là đồng phần v.v… đã được tâm v.v… nương dựa. Các căn như mắt v.v.. nơi vô gián ý diệt, nên tướng của đối tượng nương dựa so với tướng của chủ thể nương dựa là riêng biệt. Như thế tâm của các hữu tình ở cõi dục, cõi sắc, bốn uẩn đều cùng sinh diệt làm tánh nương dựa, chỉ có sắc uẩn là được làm đối tượng nương dựa: Khi bị rượu v.v… xúc não, tâm tuy có biến chuyển, nhưng không có ý thức nhận biết sắc là đối tượng nương dựa.

Phàm thành tựu đối tượng nương dựa, nhất định có thể sinh biến chuyển. Ý thức không phải nhất định tùy theo sắc chuyển biến mà sinh, do khi không có sắc tâm cũng có. Nên có thể làm tánh nương dựa, không phải làm đối tượng nương dựa.

Thế nên sáu thức ở nơi cõi dục, cõi sắc, được dùng bốn uẩn làm chỗ dựa cho các ý thức câu sinh. Nơi cõi vô sắc, vì ý thức do không có sắc, nên chỗ dựa cho câu sinh kia chỉ chung nơi ba uẩn.

Nếu như thế thì vì sao chỉ nói tâm v.v… của cõi vô sắc đã dựa vào đồng phần và mạng căn? Vì ở đây nói nhất định là đồng, không có nương dựa tạp loạn. Nghĩa là tâm tâm sở tuy đều cùng làm chỗ dựa, nhưng không phải nhất định là đồng vì không tự nương dựa, nên cũng không phải là không có tạp loạn. Ở nơi địa này sinh, tâm tâm sở đã dấy khởi tạp loạn nơi tự tha đồng phần và mạng, là nơi chốn đồng nương dựa của tâm v.v… Lại, địa này sinh tức chỉ có nơi địa này. Dựa vào đấy để thiết lập dấy khởi tâm của địa bất đồng. Do đấy, trở lại khiến tâm của tự địa khởi chỉ dựa vào hai thứ ấy, gọi là địa này sinh, được nghiệp dẫn dắt sinh không gián đoạn. Vì thế nói là đồng, không nương dựa tạp loạn. Tâm v.v… thì không như vậy, nên lược không nói. Nếu không có hai thứ này, thì nơi địa khác khi bốn uẩn hiện ở trước, bấy giờ hữu tình nên gọi là địa khác, không phải là thuộc về địa này, vì nghiệp trước của tự địa đã dẫn dắt quả không cùng nối tiếp, nhưng không phải thừa nhận. Do đó nên biết, như mạng căn nơi thân đồng phần của cõi dục, cõi sắc, là chỗ nương dựa của tâm v.v…, tuy hoặc có khi tâm của địa khác khởi, mà nương dựa nơi thân ở trong sinh này, về sau nhất định sẽ dẫn dắt tâm của tự địa khởi.

Như thế, cõi vô sắc tuy không có thân, nhưng tâm v.v… nhất định nương dựa vào đồng phần và mạng. Nên tụng nói riêng về đồng phần, mạng căn, vì đây là dị thục của nghiệp dẫn dắt, là dị thục khác cùng nối tiếp trụ nơi nhân. Ví như cây rễ, cành v.v… cùng nương dựa an trụ. Hiện thấy các cành, lá, cộng v.v… của cây, tuy đồng chủng loại sinh mà dựa vào rễ để trụ.

Vì thế không nên cho nhãn căn v.v… chỉ dựa vào nghiệp để trụ, không có riêng chỗ dựa. Do đấy đã giải thích, sinh nơi cõi vô sắc là nghiệp sinh tâm v.v…, cần dựa riêng nơi nhân. Nên trong Bản luận không nói: Tâm chuyển tức dùng thọ v.v… làm chỗ dựa. Tức do nhân này nên có đắc, phi đắc v.v… Tiếng cùng (Nơi câu tụng thứ 11 ở đầu quyển) là hiển bày chung, không nói tên riêng. Nghĩa là tâm v.v… kia không phải chỉ do nghiệp sinh. Nếu như nghiệp sinh thì không phải luôn cùng nối tiếp. Do đấy nói chung, gọi là thức duyên, không nói thọ v.v… làm tánh nương dựa của thức.

Vì sao pháp kia làm chỗ nương dựa của tâm v.v…? Nghĩa là pháp kia, nếu không có tâm v.v… của tự địa, tất không sinh, cũng như thân v.v… Hoặc do pháp kia là nhân không tạp loạn. Không phải sinh nơi địa trên thì thành tựu thiện của địa dưới. Lại, không thành tánh phàm phu v.v… của địa khác, nên các pháp kia làm tánh nương dựa, lý ấy là cực thành.

Có Sư khác nói: Như hầm, hào v.v… tuy không có gió v.v…, nhưng đèn lửa không sinh. Pháp kia nếu không có tâm v.v… thì không khởi. Nên biết tâm v.v… dùng pháp kia làm chỗ nương dựa. Hoặc có môn nhân tạo ra vấn nạn này: Bất tương ưng hành tức nên như sắc thân, vì cũng có thể làm chỗ nương dựa, sinh khởi ý thức v.v… Nên chỉ được nói: Bất tương ưng hành là chỗ nương dựa của tâm v.v… Không phải cõi vô sắc đều cùng sinh bốn uẩn, không có nghĩa cùng nương dựa. Nhưng ở trong ấy, tâm cùng với thọ v.v… làm tánh của đối tượng nương dựa. Không phải thọ kia v.v… làm đối tượng nương dựa của tâm, vì không phải đã tùy thuộc. Chủ yếu là tâm khi nhận biết rõ chung về tướng của cảnh giới, thì thọ v.v… mới có khả năng nhận lấy tướng sai biệt. Nên thọ kia tùy theo tâm, còn tâm thì không tùy theo thọ kia. Nhưng tâm tâm sở được gọi là hỗ tương tùy chuyển. Hỗ tương tùy chuyển là đồng một quả.

Do đâu không nói hai thứ này trong cõi dục, cõi sắc là đã nương dựa nơi tâm v.v… cùng nối tiếp mà chỉ nói tâm kia dựa vào sắc thân?

Vì đồng phần của thân v.v… trong cõi dục, cõi sắc, tuy luôn cùng nối tiếp, đều có thể làm chỗ dựa, nhưng thân thì thô rõ nên nói riêng. Hoặc vì thành lập đồng phần, mạng căn, lìa thân vẫn có riêng, nên nói như thế. Không phải ở cõi vô sắc, hoặc trong địa khác nghiệp đã sinh tâm v.v… luôn hiện tiền. Hoặc làm rõ đồng phần và mạng căn v.v… cũng dựa vào thân chuyển, nên nói như thế. Tuy mạng căn kia cùng với thân hỗ tương nương dựa, nhưng vì thân là hơn, nên nói riêng là chỗ nương dựa.

Há không phải là mạng căn làm tánh nương dựa của thân, cũng là thù thắng. Mạng căn nếu không có, thì các pháp như thân căn v.v… đều không chuyển. Tuy không có mạng căn, thì các pháp kia đều không chuyển. Nhưng thân phần nhiều bị các duyên như tai họa v.v… Mạng v.v… tùy theo thân nên cũng có tổn ích. Tức thân so với mạng căn kia làm chỗ dựa nghĩa ấy là hơn hẳn. Tức do nghĩa này, các Sư Đối pháp nói là trong cõi vô sắc do không có thân, nên đồng phần, mạng căn lại hỗ tương nương dựa.

Như Bản luận nói: Thế nào là cõi dục? Nghĩa là có các pháp dục tham tùy tăng. Cõi sắc, vô sắc cũng lại như thế.

Vì hiển bày các pháp nơi ba cõi hiện hành, không phải đều hệ thuộc dục tham tùy tăng kia, nên nói như vậy. Tuy các phiền não đều là đối tượng tùy tăng, nhưng tham hiện hành nhiều, nên nói riêng một thứ.

Nói dục tham: Nghĩa là tham của cõi dục. Tham của cõi sắc, cõi vô sắc cũng lại như thế. Cõi đã tùy thuộc dục nên gọi là cõi dục.

Như thế so sánh để giải thích về danh xưng của hai cõi trên.

Lại, cõi của dục nên gọi là cõi dục.

Do cõi này có thể nhận giữ dục. Cõi sắc, vô sắc nên biết cũng như vậy.

Nếu cõi có sắc mà không có định, đó gọi là cõi dục. Nếu cõi có sắc cũng có định, thì đó gọi là cõi sắc. Nếu cõi không có sắc mà có định là cõi vô sắc.

Ba cõi là một hay là lại có nhiều?

Ba cõi vô biên, như lượng hư không, nên tuy không có vô lượng vô biên hữu tình khởi trước. Đức Phật đã hưng khởi nơi thế gian, mỗi mỗi hóa độ vô số hữu tình, khiến chứng đắc cảnh giới bát Niết-bàn vô dư, mà không cùng tận, cũng như hư không.

Thế giới nên nói an trụ như thế nào?

Nên nói trụ theo phương bên.

Nên Khế kinh nói: Ví như trời mưa, giọt nước mưa như trục xe, không gián không đoạn, từ nơi không trung rót xuống. Như thế, phương Đông không gián không đoạn, vô lượng thế giới, hoặc hoại, hoặc thành. Như ở nơi phương Đông, thì các phương Nam, Tây, Bắc cũng lại như thế. Không nói phương trên, dưới.

Có thuyết cho: Cũng có hai phương trên, dưới, vì trong bộ kinh khác nói mười phương. Trên trời Sắc cứu cánh lại có cõi dục, ở dưới cõi dục có trời Sắc cứu cánh. Như thế lần lượt thế giới là vô biên. Nếu có khi lìa tham của một nơi ba cõi thì tất cả tham của ba cõi đều lìa, diệt. Khi dựa vào tĩnh lự đầu để khởi thông tuệ, thì thần thông đã phát, chỉ có thể đi đến cõi của mình đã sinh như trời Phạm thế không phải thứ khác. Thông tuệ còn lại nên biết cũng như vậy. Chớ có lỗi thái quá đối với cảnh.

Đã nói về ba cõi. Nẻo (thú) lại là thế nào, là những xứ nào, có bao nhiêu thứ? Tụng nêu:

Ở trong các địa ngục

Tự gọi là năm nẻo

Chỉ vô phú vô ký

Hữu tình không trung hữu.

Luận nói: Ở trong ba cõi tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng nêu rõ có năm nẻo.

Như tự danh đã hiển bày. Nghĩa là trước đã nói: Địa ngục, bàng sinh, quỷ và người, trời, đó gọi là năm nẻo. Chỉ ở nơi cõi dục có bốn nẻo hoàn toàn, ba cõi đều có một phần của nẻo trời.

Vì nhằm làm rõ có cõi không phải thuộc về nẻo, nên trong ba cõi nói có năm nẻo.

Hữu tình, vô tình, thiện, nhiễm, vô ký cùng trung hữu v.v… đều là tánh của cõi. Thể của nẻo chỉ gồm thâu vô phú vô ký cùng với hữu tình mà không phải là trung hữu.

Nói thể của nẻo chỉ gồm thâu vô phú vô ký: Nghĩa là chỉ dị thục sinh làm thể của nẻo.

Do đấy đã giải thích nẻo v.v… Chỉ hữu tình còn trong, vô tình thì không có dị thục sinh, nên thể của nẻo chỉ gồm thâu vô phú vô ký. Như Kinh Thất Hữu, nhất định nên tín thọ. Kinh nói: Bảy hữu, nghĩa là: (1) Địa ngục hữu. (2) Bàng sinh hữu. (3) Ngạ quỷ hữu. (4) Thiên hữu. (5) Nhân hữu. (6) Nghiệp hữu. (7) Trung hữu.

Trong đây, nghiệp hữu là nhân của năm nẻo. Phân biệt với nhân khác của nẻo, thế nên nói riêng.

Kinh này vì hiển bày thể của nẻo, chỉ gồm thâu vô phú vô ký, nên phân biệt với nhân khác, về lý cũng nên như thế.

Nếu pháp thiện, nhiễm là thể của nẻo, thì nẻo tức nên tạp loạn, vì trong thân của một nẻo có nhiều Hoặc, nghiệp của nẻo, đều có thể hiện khởi cùng tạo thành. Nghiệp như trung hữu đều cùng có nói riêng. Vì là nhân của nẻo, nên nhất định không phải thuộc về nẻo. Không phải như kiến đục loạn. Vì có xứ nói kiến là phiền não. Không có xứ nào nói nghiệp là thể của nẻo, nên không thể đối chiếu. Chỉ dị thục sinh là thể của các nẻo.

Do đâu chứng biết?

Vì Khế kinh nói. Kinh nói: Tôn giả Xá-lợi-tử nói thế này: Các Cụ thọ! Nếu có các lậu của địa ngục hiện tiền, nên tạo tác tăng trưởng, là thuận với nghiệp của địa ngục đã thọ nhận. Tức thân, ngữ ý kia cấu uế, vẩn đục, nên ở trong Na-lạc-ca đã nhận lấy dị thục của năm uẩn. Dị thục khởi xong, gọi là Na-lạc-ca, trừ pháp của năm uẩn, thì Na-lạc-ca kia đều không thể đạt được. Trong đây đã nói, trừ dị thục sinh, thì năm uẩn như sắc v.v… không có địa ngục riêng. Vì dị thục khởi xong, gọi là Na-lạc-ca, nên biết thể của nẻo chỉ là dị thục. Phát khởi nghiệp của địa ngục, gọi là lậu của địa ngục. Chiêu cảm sinh của địa ngục, gọi là nghiệp của địa ngục, không phải nghiệp, lậu này là thể của địa ngục.

Luận nói về năm nẻo, tất cả tùy miên đã tùy tăng, là dựa nơi nẻo và nẻo có khả năng tạo kiết sinh tâm để nói, nên không có lỗi.

Trung hữu không phải là nẻo, do đâu nên biết?

Do Kinh, Luận cùng lý làm định lượng. Lại do Kinh: Nghĩa là Kinh Thất Hữu đã nói riêng về phương tiện nơi nhân của năm nẻo.

Nói do Luận: Nghĩa là Luận Thi Thiết nói: Bốn sinh gồm thâu năm nẻo, không phải năm nẻo gồm thâu bốn sinh. Những gì là không gồm thâu? Đó gọi là trung hữu.

Luận Pháp Uẩn nói: Thế nào là nhãn giới? Nghĩa là sắc tịnh được tạo do bốn đại chủng, là nhãn, nhãn căn, nhãn xứ, nhãn giới, nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ, người, trời, trung hữu do tu thành.

Nói do lý: Nẻo nghĩa là nơi chốn trung hữu đi đến không nên cho là xứ đã đi đến. Do trung hữu này có thể đi đến nẻo của đối tượng đi đến. Lại, trung hữu kia tức ở nơi xứ tử sinh khởi. Vì không phải là xứ đã đi đến, nên không phải thuộc về nẻo.

Nếu như vậy thì cõi vô sắc cũng tức nên không phải là nẻo, vì đấy là xứ tử sinh khởi. Không như vậy. Vì xứ tử của cõi vô sắc tức sinh thì không đi đến xứ khác.

Trung hữu tuy là xứ tử tức sinh, nhưng vì đi đến xứ khác, nên không phải là thể của nẻo.

Nói trung hữu: Nghĩa là hữu quyết định nơi trung gian sinh của địa trung hữu chết.

Sinh hữu vô gián cùng khởi tử hữu, nên không có bản hữu, gọi là trung hữu đi qua. Hoặc thâu nhận trung hữu kia ở nơi hai sinh của loại khác theo trung gian khởi, nên gọi là trung hữu. Vì không thể nói ở tại trung gian của hai nẻo, nên gọi là trung hữu.

Đối với kẻ chấp trung hữu là thuộc về nẻo, thì về tông, nhân là không thành.

Ở trước đã nói trong các cõi, nẻo, như thứ lớp ấy, thì thức trụ có bảy. Bảy thức trụ là nghĩa gì? Tụng nêu:

Thân khác và tưởng khác

Thân khác đồng một tưởng

Trái đây thân tưởng một

Và vô sắc dưới ba

Nên thức trụ có bảy

Khác, không có tổn hoại.

Luận nói: Nghĩa là nếu lược nói, thì người, trời của cõi dục và ba tĩnh lự dưới cùng cõi vô sắc, bảy xứ sinh này là thể của thức trụ. Nếu phân biệt rộng thì nên tùy theo Khế kinh.

Hữu tình có sắc, thân khác, tưởng khác, như nẻo người, một phần trời, là thức trụ thứ nhất.

Một phần trời: Nghĩa là trời thuộc cõi dục và tĩnh lự thứ nhất, trừ kiếp đầu khởi.

Nói hữu tình có sắc: Là nghĩa thành tựu sắc thân.

Nói thân khác: Nghĩa là sắc thân của hữu tình kia có vô số hiển sắc hình sắc nơi trạng mạo khác. Hữu tình kia do thân khác hoặc có thân khác, nên hữu tình ấy nói là thân khác.

Nói tưởng khác: Tức là các tưởng khổ, vui, không khổ không vui của hữu tình kia có sai biệt, do tưởng khác, hoặc có tưởng khác, hoặc tập theo tưởng khác để thành tánh của tưởng đó, nên hữu tình ấy nói là tưởng khác.

Hữu tình có sắc, thân khác, tưởng một, như trời Phạm chúng, nghĩa là kiếp đầu tiên khởi là thức trụ thứ hai. Vì sao? Vì kiếp đầu tiên khởi thì trời Phạm chúng đồng sinh tưởng này: Chúng ta đều là hóa sinh của Đại phạm. Bấy giờ, Đại phạm cũng sinh tưởng này: Các chúng Phạm ấy đều do ta hóa sinh.

Do đâu Phạm chúng đồng sinh tưởng này?

Do nhận thấy xứ sở, hình sắc và thần thông v.v… của Phạm vương đều thù thắng. Lại quán xét Đại phạm nơi thời gian trước đã có, còn mình và trời khác thì về sau mới sinh.

Phạm chúng kia không thể thấy từ nơi địa trên chết, dựa vào tĩnh lự thứ nhất phát sinh túc trụ thông, không thể nhận biết rõ cảnh của địa trên.

Do đâu Đại Phạm kia cũng sinh tưởng này? Vì Đại Phạm kia vừa mới phát tâm, thì chúng ấy liền sinh, cho là mình đã biến hóa, không phải do chết nhanh chóng. Hoặc vì ngu tối về lý nghiệp quả đã chiêu cảm nên đi tới, hoặc nhận thấy hình trạng, uy lực, thọ mạng, oai đức v.v… của thân mình là hơn hẳn chúng khác. Do duyên này, nên Phạm vương, Phạm chúng thân tuy có khác mà sinh một tưởng.

Nói thân khác: Là trong tĩnh lự đầu có các tầm tứ hữu biểu vô biểu khởi nhiều thức, làm nhân chiêu cảm thân có sai biệt, nên an lập thân chúng sinh có khác.

Hữu tình có sắc, thân một, tưởng khác, như trời Cực quang tịnh, là thức trụ thứ ba.

Trong đây nêu dẫn sau để gồm luôn việc thâu tóm phần đầu, nên biết gồm thâu đủ tĩnh lự thứ hai.

Nếu không như vậy thì các trời Thiểu quang, Vô lượng quang kia là thuộc về thức trụ nào?

Hai trời kia đã có tướng của thức trụ thứ ba, không do đâu để có thể nói không phải thuộc về thức trụ. Nên biết trong đây dựa vào chỗ nêu dẫn nhằm hiển bày về lý nói các thức trụ. Không phải chỉ như nói: Trong trời kia không có biểu nghiệp v.v… Vì là nhân đã chiêu cảm thân hình sai biệt, nên nói thân một. Đây là làm rõ về thân tướng đồng xứ không có khác, không phải nói xứ có riêng khác.

Vì hai tưởng hỷ, xả của tĩnh lự thứ hai đã hiện tiền có tạp loạn, nên nói là tưởng khác. Do chúng trời kia nhàm chán địa căn bản, hỷ căn đã khởi cùng xả căn của địa cận phần đã hiện ở trước. Lại chán địa cận phần nên xả căn đã khởi cùng hỷ căn của địa căn bản đã hiện ở trước. Ví như có người, đối với các thức ăn uống hoặc chay, hoặc mặn, tưởng ưa thích, nhàm chán cùng tăng.

Hữu tình có sắc, thân một, tưởng một, như trời Biến tịnh, là thức trụ thứ tư.

Nói thân một: Giải thích nghĩa như trước. Chỉ có tưởng vui, nên gọi là tưởng một. Trời Biến tịnh ưa thích tĩnh lặng vi diệu, thường sinh vui thích, không lúc nào khởi nhàm chán.

Thế nên không do nơi cận phần có xen tạp, nên chỉ dựa vào đấy để lập tên tưởng một.

Trong tĩnh lự đầu, do tưởng nhiễm ô, nên nói tưởng một, vì đối với không phải nhân khởi giới cấm thủ chấp làm nhân.

Tĩnh lự thứ hai, do hai tưởng thiện, nên nói tưởng khác. Do sức của đẳng chí, nên hai thọ cùng đan xen hiện tiền.

Tĩnh lự thứ ba, do tưởng vô ký, nên nói tưởng một. Vì thuần một lạc thọ của dị thục tĩnh lặng mà hiện tiền.

Ba vô sắc dưới, gọi riêng như kinh. Tức ba thức trụ, đó gọi là bảy.

Giải thích về ba vô sắc, như nơi Luận Thuận Chánh Lý.

Ở đây, pháp nào gọi là thức trụ?

Nghĩa là năm uẩn, bốn uẩn hệ thuộc nơi các xứ kia, thức ở trong đó đã ưa thích trụ chấp.

Có Sư khác nói: Chỉ có số hữu tình là được mang tên thức trụ.

Vì khế kinh nói. Vì nhằm làm rõ sự việc các thức đã trụ chấp, nên Khế kinh nói tên bảy thức trụ.

Do đấy, ở xứ khác, không phải thuộc về thức trụ. Vì ở nơi xứ kia, thức có tổn hoại, nên thức ở trong ấy không ưa thích trụ chấp.

Xứ khác là những gì?

Nghĩa là các xứ ác, tức tĩnh lự thứ tư và trời Hữu đảnh.

Vì sao ở trong đó thức có tổn hoại?

Vì pháp tổn hoại thức ở trong ấy đã có. Những gì gọi là pháp tổn hoại thức?

Nghĩa là các xứ ác có khổ thọ thô trọng, có thể làm tổn hoại thức: Tĩnh lự thứ tư có định vô tưởng và sự vô tưởng. Trong trời Hữu đảnh có định diệt tận, có thể tổn hoại thức, khiến sự việc cùng nối tiếp bị đoạn dứt.

Lại nói: Nếu hữu tình ở nơi xứ khác, tâm ưa thích đi đến, dừng trụ. Nếu đến xứ này, không còn cầu xuất, thì gọi là thức trụ. Ở các xứ ác, cả hai nghĩa đều cùng không có. Nơi tĩnh lự thứ tư tâm luôn mong cầu xuất. Nghĩa là các phàm phu cầu nhập nơi vô tưởng. Hoặc các Thánh giả ưa thích xứ Tịnh cư v.v… Hoặc trời Tịnh cư ưa thích chứng tịch diệt.

Xứ Hữu đảnh vì mờ tối, yếu kém, nên không phải là thức trụ.

Có thuyết cho: Nếu sức của ái nơi thức đã chấp thọ, an trụ trong đó, gọi là thức trụ. Tất cả xứ ác như trời Tịnh cư v.v…, do sức của nghiệp đã chấp thọ, an trụ trong đó. Hữu tình vô tưởng và xứ Hữu đảnh, do sức của kiến đã chấp thọ, an trụ trong đó, do đấy đều không phải thuộc về thức trụ.

Có Sư khác lại nêu: Chúng sinh có ba: Đó là ưa thích chấp nơi các cảnh, lạc và tưởng. Ưa thích chấp nơi cảnh: Là người và trời cõi dục. Ưa thích chấp nơi lạc: Là ba tĩnh lự dưới. Ưa thích chấp nơi tưởng: Là ba vô sắc dưới. Chỉ ở nơi các xứ này lập tên thức trụ. Ở xứ khác không có ba thứ ấy, nên không phải là thức trụ.

Theo thuyết cùng truyền: Nếu xứ có đủ do kiến đạo, tu đạo đoạn và không đoạn, thì thức được lập tên thức trụ. Khác với đây, tức không phải thuộc về thức trụ. Cõi dục không có định, căn cứ theo chỗ dựa để nói là có thức vô lậu. Phi tưởng có định, căn cứ theo tự tánh để nói là không có thức vô lậu. Hoặc nơi người, trời của cõi dục, một thân cùng có đủ nghĩa của ba thức. Phi tưởng thì không như vậy. Tĩnh lự thứ tư tuy có đủ ba thức, nhưng năm xứ hoàn toàn và phần ít của một xứ, vì không đủ ba thức, nên ít theo nhiều, không lập thức trụ.

Thế nên số của thức trụ chỉ có bảy.

Như vậy là đã giải thích bảy thức trụ xong. Nhân đây lại biện về chín chỗ ở của hữu tình. Chín chỗ ở kia là những gì? Tụng nêu:

Nên biết gồm Hữu đảnh

Và hữu tình vô tưởng

Là chín hữu tình ở

Khác chẳng không ưa trụ.

Luận nói: Bảy thức trụ trước và đệ nhất hữu cùng hữu tình vô tưởng, đó gọi là chín. Các loài hữu tình chỉ ở nơi chín xứ này, vì ưa thích trụ, nên lập làm chỗ ở của hữu tình. Nghĩa là các hữu tình tự vui thích an trụ.

Sắc v.v… của đối tượng nương dựa là vật thật không phải là thứ khác, vì các hữu tình chỉ là giả có. Nhưng các vật thật là chỗ ở của giả, nên nơi chốn cư trú của hữu tình, chỉ là pháp của hữu tình. Do loại hữu tình đối với chính mình, dựa vào thân ái để trụ luôn tăng mạnh, không phải đối với xứ sở. Lại, nếu đối với xứ sở, lập nơi chốn cư trú của hữu tình, thì nơi chốn ấy tức nên thành tạp loạn. Vì nơi chốn cư trú không tạp loạn, chỉ có ở nội thân, nên nơi chốn cư trú kia chỉ là pháp của hữu tình. Đã nói về xứ sinh, gọi là chỗ ở của các hữu tình, nên biết nơi chốn ấy không thâu giữ trung hữu. Lại, các trung hữu không phải đã cư trú lâu, nên các hữu tình không ưa thích an trụ. Lại tất nên như thế. Do Bản luận đã nói: Vì để làm rõ xứ sinh, nên lập ra nơi cư trú của hữu tình. Vì nhằm hiển bày các thức ở trong sinh tử, do ái trụ chấp nên kiến lập thức trụ. Vì nhằm hiển bày các hữu tình đối với chốn nương dựa của chính mình đã yêu thích an trụ, nên lập chỗ ở của hữu tình. Vì thế hai môn này được kiến lập có sai biệt.

Hữu đảnh vô tưởng đã không phải là thức trụ, vì sao có thể nói là chỗ ở của hữu tình?

Vấn nạn này là không đúng, vì nghĩa của hai thứ đều khác. Do hai xứ này có pháp hủy hoại thức, vì thức không ưa thích cư trú, nên không phải là thức trụ. Nhưng hai xứ kia đã hình thành thân hữu tình. Vì hữu tình ưa thích cư trú, nên thuộc về chín nơi cư trú. Nghĩa là nếu có xứ những hữu tình khác vui thích đến cư ngụ, không ưa dời động, là thuộc về chỗ ở của hữu tình. Xứ khác đều không phải vì không ưa thích an trụ.

Nói xứ khác, nghĩa là các xứ ác, là tĩnh lự thứ tư. Trừ trời Vô tưởng, thì xứ ác đều không phải là chỗ ở của hữu tình. Nghĩa là xứ khác không phải có các hữu tình vui thích đến ở. Cũng không có trụ trong ấy, không ưa thích dời động.

Tĩnh lự thứ tư, trừ trời Vô tưởng, số còn lại đều không phải là nơi chốn cư trú của hữu tình. Tuy có hữu tình từ xứ khác vui thích đến ở, nhưng không phải trụ trong ấy không ưa thích dời động. Nghĩa là trời Quảng quả v.v…

Nếu các phàm phu ưa nhập định vô tưởng. Hoặc các Thánh giả ưa thích nhập Tịnh cư, hoặc xứ vô sắc. Hoặc ở xứ Tịnh cư thiên ưa thích nhập Niết-bàn, nên đều không phải thuộc về nơi cư trú của hữu tình.

Nhân nơi bảy thức trụ đã biện về nơi chốn cư trú của hữu tình. Trong Khế kinh khác lại nói về bốn thức trụ. Bốn thức trụ ấy là gì? Tụng nêu:

Bốn thức trụ, nên biết

Bốn uẩn chỉ tự địa

Nói thức riêng không trụ

Hữu lậu thuộc bốn câu.

Luận nói: Như Đức Thế Tôn nói: Thức tùy theo sắc trụ. Nói rộng cho đến thức tùy theo hành trụ. Bốn thức trụ này, thể của chúng là thế nào? Nghĩa là chỉ trừ thức còn lại là bốn uẩn hữu lậu. Lại, bốn uẩn này chỉ ở nơi tự địa, không phải địa khác. Không phải thức ưa thích tùy theo uẩn của địa khác để trụ. Tuy dựa vào uẩn của địa khác, thức cũng hiện tiền, nhưng trong uẩn của địa khác thức không ưa thích trụ. Do hỷ, ái làm thấm nhuần thức, khiến ở trong uẩn đã được tăng trưởng rộng lớn. Nên Khế kinh nói: Không phải ở nơi địa khác trong uẩn như sắc v.v…, do hỷ ái có thể làm thấm nhuần thức khiến tăng trưởng rộng lớn. Nên uẩn của địa khác, không phải thuộc về thức trụ.

Lại, trong tự địa chỉ là số hữu tình, chỉ là tự cùng nối tiếp, mới lập làm thức trụ, không phải số phi tình, không phải trong tha cùng nối tiếp, thức đã tùy thuận ưa thích trụ, như trong tự cùng nối tiếp.

Có Sư khác cho: Nơi phần cùng nối tiếp kia cũng là thức trụ, vì ở trong đó, hỷ, ái đã làm thấm nhuần thức, cũng khiến tăng trưởng và rộng lớn.

Đã dựa nơi tự tông để kiến lập thức trụ. Sẽ nêu bày về nhân duyên kiến lập thức trụ.

Trong đây, thế nào là thức không phải là thức trụ? Lại, thức trụ này, nghĩa ấy là thế nào?

Nghĩa là thức ở trong ấy, do sức của hỷ ái đã gồm thâu làm chỗ trụ cùng làm chỗ chấp trước, là nghĩa của thức trụ. Thức tùy theo sắc trụ để trụ nơi sắc chấp trước sắc. Như Khế kinh nói.

Nếu như vậy thì thức uẩn nên thành thức trụ. Đức Thế Tôn cũng nói: Ở trong thức thực có hỷ, có nhiễm. Vì có hỷ, nhiễm, nên thức trụ ở trong đó. Thức đã nương theo để cai quản, lý nên như thế. Chỉ nói bốn, là khiến ở nơi thức, trừ tâm của ngã kiến, nên ở trong thức không nói thức trụ. Như trong khế Kinh Sa Để nói: Ta thấu rõ giáo pháp của Đức Thế Tôn đã giảng nói. Dong ruổi lưu chuyển nơi sinh tử chỉ là thức không phải thứ khác. Thức, nghĩa là tên gọi khác của ngã, như Đức Thế Tôn đã nói. Vì muốn diệt trừ tâm của ngã kiến kia, nhằm hiển bày thức dựa vào thể khác, không phải là tánh nương dựa của ngã, ngã sở. Không phải cho là chủ thể nương dựa, nên môn thức trụ chỉ nói có bốn. Không phải thức trụ thật sự chỉ là bốn uẩn không phải là thức uẩn. Nay cho Đức Thế Tôn đã nói về thức trụ, chỉ có bốn thứ như sắc v.v… không nói thức. Do chỉ sắc v.v… ở trong ba thời cùng có thức nối tiếp làm trợ bạn. Nghĩa là chỉ sắc v.v… cùng với thức đều cùng sinh. Quá khứ, vị lai cũng có thể làm trợ bạn của thức, khiến liên tục có thức lưu chuyển dong ruổi nơi sinh tử. Thức (trong năm uẩn) thì không như vậy, nên không phải là thức trụ.

Lại, các căn như nhãn v.v… và sắc câu sinh v.v… cùng với thức câu sinh làm đối tượng nương dựa. Chủ thể nương dựa đã diệt, chưa sinh, thì chỉ là cảnh của thức.

Thế nên sắc uẩn ở trong ba thời, đối chiếu với phần nối tiếp có thức, có thể làm trợ bạn. Thọ v.v… của hiện tại cùng với thức đều cùng sinh, làm nhân câu hữu, một phần cùng với thức đồng duyên nơi một cảnh, có công dụng trợ bạn. Đã diệt, chưa sinh đều là cảnh của thức.

Thế nên thọ v.v… cũng ở nơi ba thời, đối chiếu với phần liên tục có thức, có thể làm trợ bạn. Thức tuy ở nơi quá khứ, vị lai, đối chiếu với phần nối tiếp có thức có một ít công năng hỗ trợ. Nhưng trong câu sinh thì hoàn toàn không có sức hỗ trợ, vì không đều cùng khởi. Sắc v.v… đối chiếu với thức, tức có đủ hai công năng hỗ trợ. Vì thức chỉ là đến đi nên không phải là thức trụ.

Thế nên số phi tình và trong thân của chúng sinh khác, bốn uẩn như sắc v.v… cũng không phải là thức trụ. Do bốn uẩn kia đối chiếu với thức, chỉ là đối tượng duyên, vì tác dụng của hai môn trợ bạn là không đủ.

Trụ, gọi là đối tượng trụ, là phần cùng nối tiếp có thức, khi dẫn sinh tự quả, có thể làm nghĩa của chủ thể nương dựa để trụ, hoặc là đối tượng chấp trước. Là phần cùng nối tiếp có thức, khi dẫn sinh tự quả, có thể làm nghĩa của cảnh. Sắc v.v… của tự thân, có thể có cùng với thức đồng nghĩa của một cảnh. Nếu như không đồng cảnh, nhưng có thể làm chỗ nương dựa. Vì đủ hai công năng hỗ trợ, nên lập làm thức trụ. Số phi hữu tình nơi sắc v.v… của thân chúng sinh khác thì không như thế, nên không phải là thức trụ.

Vì sao nhất định nhận biết đạo lý của thức trụ đã an lập như thế?

Vì Khế kinh nói. Như Đức Thế Tôn nói: Có bốn thứ thức trụ nương dựa nhận lấy làm đối tượng duyên. Thức tùy theo sắc trụ, trụ nơi sắc, chấp trước sắc. Thức này cùng với sắc, hoặc đều cùng thời sinh, nương dựa vào sắc trụ, hoặc ở nơi cảnh của sắc đã duyên hợp sinh chấp trước.

Do đâu sinh chấp trước?

Như trước đã nói: Ở trong ấy do hỷ, ái đã làm thấm nhuần.

Như thế cho đến thức tùy theo hành trụ, đều nên nói rộng.

Từng không có nói thức tùy theo thức trụ. Tùy, nghĩa là thân cận nhờ dựa, hoặc nói là gần gũi. Vì là khứ lai, nên nhất định nói là thưa, xa. Sắc v.v… của hiện tại, gần gũi với thức, cùng với thức đều cùng sinh, nên gọi là thức tùy theo để trụ. Nhất định không có thức cùng với thức đều cùng sinh, tức không nên nói thức tùy theo thức trụ. Do kinh này đã nêu: Chỉ bốn uẩn còn lại cùng với phần nối tiếp có thức là trợ bạn, nghĩa đó được thành.

Có bốn thứ nương dựa nhận lấy, như Đức Thế Tôn đã nêu dẫn. Nói nương dựa nhận lấy, nghĩa là bốn uẩn như sắc v.v… làm chỗ dựa của sinh tử, phiền não, đã nhận lấy, hoặc tức là nương dựa, thâu nhận các khổ.

Do đấy, vô lậu không phải là trụ, lý ấy được thành. Chỉ nói về nương dựa nhận lấy là thức trụ. Nên sắc vô lậu v.v… đã diệt bỏ nương dựa nhận lấy. Tức như kinh kia nói: Bí-sô nên biết! Nếu ở nơi cõi sắc đã được lìa tham, thì đối với sắc đã bị tùy thuộc, ý sinh đoạn dứt trói buộc. Vì đoạn dứt trói buộc này, nên tức tức có thể duyên nơi sắc không còn trụ chấp, tăng trưởng rộng lớn.

Nói rộng cho đến thọ v.v… Ba cõi cũng như vậy. Tức do nghĩa của kinh này, căn cứ theo ba đời, bốn uẩn như sắc v.v… đều thuộc về thức trụ.

Vì để hiển bày sắc v.v… cùng với thức là khác, nên tôi (Tác giả) đã nương theo tông tạo ra thuyết như thế này: Nếu pháp cùng với thức có thể đều cùng thời sinh, thì thức đã nhân theo đấy để điều khiển như người ở trong thuyền, thì pháp này có thể nói là thức trụ, không phải là pháp khác.

Như thế điều đã nói, ý là nhằm phân biệt thức trụ so với loại thức là riêng khác. Không phải vì muốn ngăn chận câu nói cho sắc v.v… của khứ lai, không phải là thức trụ. Tuy thừa nhận khứ lai cũng thuộc về thức trụ, nhưng số phi tình không phải do thức trụ gồm thâu. Hiện tại cùng với thức hãy còn là thưa xa, huống chi ở nơi khứ lai có thể gọi là thức trụ.

Sắc v.v… của tự thân tuy ở nơi khứ lai, so với thức là thưa xa, nhưng ở hiện tại cùng với phần nối tiếp có thức thì rất gần gũi với nhau, do chủng loại đồng, cũng gọi là thức trụ. Như đời hiện tại khác với hai phần vị có tâm, không tâm nơi hai uẩn sắc, hành của tự thân. Sắc v.v… của khứ lai, về lý cũng nên như thế. Gồm đủ hai công năng trợ bạn là cùng không mất. Do tự tướng của sắc v.v… này là thuộc về ba đời trong phần cùng nối tiếp, đều được gọi là thức trụ.

Bảy, bốn thức trụ đều chỉ là hữu lậu. Là bảy gồm thâu bốn hay là bốn gồm thâu bảy?

Không phải là cùng gồm thâu khắp, nên có thể nêu ra bốn trường hợp: Có bảy không phải là bốn, cho đến nói rộng: Trường hợp thứ nhất: Nghĩa là thức trong bảy. Trường hợp thứ hai: Nghĩa là các xứ ác. Tĩnh lự thứ tư và trong Hữu đảnh, trừ thức còn lại là uẩn khác. Trường hợp thứ ba: Bốn uẩn trong bảy. Trường hợp thứ tư: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Có thức trong bảy. Không có thức trong bốn. Do hai môn này nên kiến lập khác nhau. Nếu pháp cùng với thức hỗ tương làm nhân quả, thì thức ưa thích tùy chuyển tức lập bảy thức trụ.

Nếu pháp cùng với thức có thể cùng thời sinh, có thể làm trợ bạn, tức lập bốn thức trụ. Do các loài của đối tượng giáo hóa bẩm tánh có sai biệt, nên nói bảy, bốn thức trụ không đồng. Hoặc ưa thích duyên riêng. Hoặc ưa thích phân biệt chung. Hoặc ưa thích phân biệt khắp tự tướng của các pháp. Hoặc đối với tự tướng không ưa thích nhận biết khắp. Hoặc tham đắm chấp trước ái. Hoặc tham đắm chấp trước kiến. Hoặc có sức của phiền não tự tướng mạnh. Hoặc có sức của phiền não cộng tướng mạnh. Hoặc ưa thích cảnh giới. Hoặc ưa thích sinh tử.

Các loại tánh như thế v.v… riêng khác là vô biên.

Đã nói về thức trụ. Ở trước đã nêu trong các cõi nẻo, nên biết về các loài (sinh) kia lược có bốn thứ. Bốn thứ ấy là gì? Tụng nêu:

Trong ấy có bốn sinh

Hữu tình gọi như noãn

Người, bàng sinh đủ bốn

Địa ngục và chư thiên

Trung hữu chỉ hóa sinh

Quỷ chung hai thai, hóa.

Luận nói: Trước đã nói về cõi là chung cho tình, phi tình. Nẻo thì chỉ là hữu tình, nhưng không phải gồm thâu khắp. Sinh (Loài) chỉ gồm thâu khắp, nên nói hữu tình, không có phi hữu tình, gọi là chúng sinh. Nhưng loài hữu tình là noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh. Đó gọi là bốn. Sinh nghĩa là loại sinh. Trong các hữu tình, tuy có loại khác xen tạp, nhưng loại sinh là như nhau.

Nói loại sinh, là nghĩa chúng sinh.

Nếu như vậy thì cõi, nẻo cũng nên gọi là sinh? Không phải thế. Vì cõi là chung cho hữu tình, phi tình. Nẻo chỉ là hữu tình, nhưng không phải là gồm khắp. Ở đây chỉ là hữu tình gồm thâu khắp, nên lập riêng tên sinh (Loài). Các Sư đã thừa nhận đều nêu ra giải thích này: Vì nghiệp duyên hợp khởi, nên nói là sinh. Nghĩa là các hữu tình có ba loại noãn, thai, thấp, duyên hòa hợp riêng biệt mà sinh. Có khi không duyên riêng, chỉ do nghiệp lực hợp với năm uẩn, bốn uẩn như chỗ thích ứng sinh khởi tức khắc. Nghiệp lực kia mạnh nên không chờ đợi duyên. Nay giải thích: Tất cả đều do nghiệp hợp sinh.

Đức Phật nói: Hữu tình do nghiệp sinh. Có nghiệp sinh quả, chờ đợi các duyên như noãn v.v… mới có sai biệt. Có nghiệp sinh quả, không chờ đợi duyên ngoài, tự có sai biệt.

Nếu nói tất cả đều do nghiệp hợp sinh, thì vì sao nói là noãn, thai sinh v.v…, không thể cho noãn v.v… từ nghiệp hợp sinh, gọi là các sinh như noãn v.v…? Vì phi tình kia nên không nói tất cả chỉ do nghiệp hợp sinh. Không nói thể của noãn v.v… sinh do nghiệp. Chỉ nói tất cả đều do nghiệp hợp sinh. Khi nghiệp hợp sinh, có duyên nơi noãn v.v… Từ duyên nêu lên phần riêng gọi là sinh như noãn v.v… Nếu nói chỉ mỗi nghiệp sinh thì tên gọi tức nên không phải riêng khác.

Nói noãn sinh: Nghĩa là các hữu tình sinh ra từ trứng, như ngỗng, nhạn v.v…

Nói thai sinh: Nghĩa là các hữu tình sinh ra từ bào thai, như voi, ngựa v.v…

Nói thấp sinh: Nghĩa là các hữu tình sinh ra từ da, thịt, xương, phân bò, cặn dầu, nước v.v… hòa hợp với hơi ấm, thấm ướt sinh, như trùng, ngài bay, muỗi, sâu bọ v.v…

Nói hóa sinh: Nghĩa là các hữu tình không chờ đợi ba duyên, không có mà bỗng nhiên có, gồm đủ căn, không thiếu chi phần, sinh khởi tức khắc, như Na-lạc-ca, trời, trung hữu v.v… Thể của hóa sinh gồm luôn năm, bốn uẩn. Ba loài còn lại chỉ dùng năm uẩn làm thể.

Có thuyết nói: Đều chung cho dị thục, được nuôi lớn.

Có thuyết cho: Tất cả thể chỉ là dị thục.

Tùy ở nẻo nào đều gồm đủ bao nhiêu sinh (loài)?

Nẻo người và bàng sinh thì đều đủ bốn thứ (Thai, noãn, thấp, hóa).

Người do noãn sinh: Nghĩa là như Thế-la, Ô-ba-thế-la sinh từ trứng ngỗng trời. Lộc mẫu đã sinh ra ba mươi hai con. Con gái của trưởng giả Cấp-cô-độc sinh hai mươi lăm con. Vua Bàn-già-la sinh năm trăm con v.v…

Người do thai sinh: Như người đời nay.

Người do thấp sinh: Như Mạn-đà-đa-già-lô, Ô-ba-già-lô-cápman, Am-la-vệ v.v…

Người do hóa sinh: Chỉ con người của thời kiếp sơ.

Người của bốn sinh này đều có thể chứng đắc Thánh. Chứng đắc Thánh thì không thọ nhận hai loài noãn, thấp. Do Thánh đều ưa thích trí kiến thù thắng. Tánh của loại noãn sinh, thấp sinh thì nhiều ngu si. Hoặc các loài noãn sinh, khi sinh đều sinh trở lại, nên loài chim bay v.v…, thế gian gọi là tái sinh. Là nghĩa Thánh sợ sinh nhiều, nên không thọ nhận. Thấp sinh thì phần nhiều cùng tụ tập đồng sinh. Vì Thánh sợ cư trú xen tạp, nên cũng không thọ nhận.

Ba thứ (Thai, noãn, thấp) của nẻo bàng sinh hiện đã được nhận biết chung.

Bàng sinh do hóa sinh như rồng, chim Diệu-sí v.v…

Tất cả địa ngục, chư thiên và trung hữu đều chỉ là hóa sinh.

Có thuyết nói: Ngạ quỷ chỉ thuộc về hóa sinh.

Có thuyết cho: Ngạ quỷ cũng có do thai sinh. Như nữ ngạ quỷ thưa với Tôn giả Mục Liên:

Ta đêm sinh năm con

Tùy sinh đều tự ăn

Ngày sinh năm cũng vậy

Tuy ăn hết, không no.

Ở trong bốn sinh (Loài), sinh nào nhiều nhất?

Có thuyết nêu: Thấp sinh. Vì hiện thấy nhiều. Nếu như có đống thịt rộng vô biên, dưới thì vượt ba luân, ở trên quá năm Tịnh cư, cùng hiện khắp khối lượng thịt đó, biến hóa tức khắc thành trùng. Thế nên thấp sinh là nhiều so với ba loài còn lại.

Có Sư khác cho: Hóa sinh rất nhiều. Nghĩa là hai nẻo hoàn toàn cùng phần ít của ba nẻo và các trung hữu đều là hóa sinh.

Trong tất cả sinh (loài), sinh nào là tối thắng? Nên nói tối thắng chỉ là hóa sinh. Các căn của chi phần thì tròn đủ, mạnh mẽ, nhanh nhẹn. Thân hình vi diệu, nên là hơn so với loài khác.

Nếu như vậy thì do đâu Bồ-tát thân sau được sinh tự tại, không thọ hóa sinh, thấy thọ thai sinh? Vì có lợi lớn. Nghĩa là dẫn dắt hàng thân thuộc nhập nơi chánh pháp. Vì khiến chúng sinh được hóa độ luyện tập tu sửa tâm. Vì khiến tộc loại khác sinh tôn kính. Vì để dứt trừ sự việc các ngoại đạo đã hủy báng, là huyễn hoặc. Vì nhằm lưu lại thân ở cõi, tạo lợi ích cho người khác. Lại, so với hóa sinh thì thời gian không đồng. Phần hỏi đáp quyết định lựa chọn như nơi Luận Thuận Chánh Lý.

HẾT – QUYỂN 12