LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 11

Phẩm thứ 3: BIỆN VỀ SAI BIỆT, phần 7

Nghĩa của duyên so với nhân có sai biệt như thế nào?

Có thuyết nói: Nhân, duyên khác nhau ở chỗ hiện khắp, không hiện khắp. Hai duyên một và bốn thì gồm thâu sáu nhân. Hai duyên hai và ba thì không phải thuộc về nhân.

Thể của bốn duyên, sáu nhân tuy không có riêng khác mà nghĩa thì có khác. Lại, đẳng vô gián duyên và sở duyên duyên đã không phải thuộc về nhân, nên biết nghĩa của hai duyên còn lại cũng có khác. Vì nghĩa của duyên là như nhau, nên so với nhân đều riêng biệt.

Có chỗ đã biện chung về nhân duyên dị biệt.

Nói nhân: Nghĩa là khả năng sinh khởi. Duyên là khả năng nuôi lớn. Cũng như hai người mẹ sinh ra và nuôi lớn có sai biệt. Lại, duyên gồm thâu hỗ trợ thì nhân mới có thể sinh. Sinh xong cùng nối tiếp, so sức của duyên nuôi lớn.

Hoặc có thuyết cho: Nhân chỉ có một, duyên thì rất nhiều. Cũng như hạt giống, phân bón, đất v.v… khác nhau. Lại, nhân không chung, chung là duyên. Như mắt, như sắc. Lại, làm sự việc của mình, gọi là nhân. Nếu làm sự việc của người khác, gọi là duyên. Như hạt giống, phân bón v.v… Lại, khả năng dẫn khởi gọi nhân. Khả năng nhận giữ gọi là duyên. Như hoa như lá. Lại gần gọi là nhân, xa gọi là duyên. Như ngọc báu, như mặt trời. Lại, nhân là khả năng sinh. Duyên là khả năng làm xong. Như lạc xuất sinh tô. Nhân công, vật dùng để khoan, khả năng làm xong. Lại nghĩa đang có gọi là nhân. Có thể hỗ trợ phát khởi, hiện rõ, gọi là duyên. Như giới chữ, duyên chữ, về nghĩa có sai biệt.

Các loại sai biệt như thế v.v… là rất nhiều, thế nên nhân duyên đã lập riêng danh tưởng.

Ở đây ý chung là làm rõ nhân gần, duyên xa, nên trong nhân duyên gần, xa luôn rộng.

Đã tùy thuận lý, giáo, lược biện về các duyên. Các duyên như thế hiển bày pháp có sinh diệt, dùng làm tác dụng. Nên nói duyên gì ở nơi pháp của phần vị nào mà khởi tác dụng? Tụng nêu:

Hai nhân nơi đang diệt

Ba nhân nơi đang sinh

Hai duyên khác trái nhau

Mà khởi lên tác dụng.

Luận nói: Trước đã nói năm nhân là tánh của nhân duyên. Tác dụng của hai nhân ở vào lúc đang diệt. Nói lúc đang diệt là làm rõ về pháp hiện tại. Vì diệt hiện tiền, nên gọi là lúc đang diệt.

Hai nhân câu hữu, tương ưng, ở nơi phần vị hiện tiền của pháp diệt mà tạo tác công năng. Hai nhân của vị này tạo tác công năng: Nghĩa là phẩm câu sinh, tùy thiếu một thì tác dụng đều không có, không thể nhận lấy cảnh ở phần vị hiện tại.

Hai nhân như thế tuy đều cùng một lúc nhận lấy quả, cho quả, nhưng nay chỉ căn cứ theo công năng cho quả.

Đã nói ba nhân ở nơi phần vị đang sinh: Nghĩa là pháp vị lai ở nơi phần vị đang sinh, vì sinh hiện tiền, nên gọi là lúc đang sinh. Ba thứ pháp: Đồng loại, biến hành, dị thục, vì ở phần vị đang sinh mà tạo tác công năng.

Có thuyết nêu: Hai quả đẳng lưu, dị thục, do sức của nhân dẫn dắt khiến sinh đồng loại, biến hành, cùng có quả đẳng lưu vô gián khởi, nên có thể nói quả đẳng lưu kia ở vào lúc đang sinh, nhân khởi tác dụng. Nhân quả dị thục tất nơi thời gian cách xa, nhân kia đã diệt lâu, quả mới đang khởi.

Vì sao tác dụng ở nơi lúc sinh quả, không phải là thời quá khứ có thể có tác dụng?

Ở đây nói tác dụng, ý là hiển bày về công năng. Trong hai tướng riêng khác ấy đã từng xét chọn.

Nhân kia tuy diệt vì đã trải qua vô lượng thời nhưng có công năng khiến cho tự quả khởi, do không chung, nên khi tự quả sinh, tác dụng tuy không có, mà ở nơi tự quả cùng với trên công năng, lập tên gọi tác dụng. Chỉ công năng nhận lấy quả mới gọi là tác dụng đích thực. Ngoài ra gọi là tác dụng đều là giả nói.

Đã nói tác dụng nơi hai thời của nhân duyên. Tác dụng của hai duyên, so với đây là trái nhau. Đẳng vô gián duyên ở nơi phần vị sinh của pháp mà dấy khởi tác dụng. Do khi sinh duyên kia, tâm tâm sở trước đã dẫn dắt mở rộng. Nếu sở duyên duyên thì có thể duyên nơi phần vị diệt mà hưng khởi tác dụng, do tâm tâm sở chủ yếu là ở nơi thời hiện tại mới nhận lấy cảnh.

Pháp của tăng thượng duyên kia ở nơi phần vị sinh diệt đều không có chướng ngại khi trụ, nên tác dụng của duyên kia tất cả đều không ngăn chận. Nay nên xét chọn.

Nhân câu hữu, tương ưng và sở duyên duyên.

Nếu pháp sinh xong mới dấy khởi tác dụng, thì đâu cần phải lập hai nhân, một duyên này?

Nếu chấp nhân duyên, cần có tác dụng, mới thừa nhận lập làm tánh của nhân duyên, thì đời vị lai tức nên không có nhân duyên. Nhưng tông đã thừa nhận, thì không nên nêu vấn nạn. Nếu như vậy thì vì sao nói có tác dụng? Nếu lìa hai nhân, một duyên như thế, thì các pháp đã dẫn trong phần vị đang diệt không có công năng của tác dụng nhận lấy cảnh. Nếu tác dụng không có cũng gọi là duyên, thì các tâm sau cùng của A-la-hán cũng nên có thể lập đẳng vô gián duyên. Vấn nạn này là phi lý, vì trước đã biện rõ. Nói sở duyên duyên không phải chủ yếu do có tác dụng mới lập. Vậy do mối tương quan nào mà đem so sánh với đẳng vô gián duyên kia? Duyên kia chủ yếu là do mở rộng dẫn dắt. Nên chỉ nơi hiện tại là chính thức có thể an lập. Ở đời vị lai nhất định không có duyên kia. Vì ở vào thời hiện tại mới từng có tác dụng, nên tuy quá khứ cũng có thể an lập. Vì sở duyên duyên kia không phải chỉ là hiện tại. Chỉ có thể tánh đều có thể thành duyên, không cần thiết phải do tác dụng mà lập. Chỉ đối với phần ít, phần ít thành duyên, được tên gọi tác dụng, không phải đối với tất cả.

Vì sao nhận biết có Thể mới được thành duyên?

Vì Thể của đối tượng duyên, nếu không nhận biết thì không sinh.

Nếu sở duyên duyên, chủ yếu có tác dụng, thì vô vi của pháp sau tức nên có quả trước?

Hoặc tác dụng này không phải căn cứ theo sinh gần các quả mà lập, chỉ căn cứ theo các pháp đã khởi dụng nơi đối tượng nhờ dựa, nói là tác dụng, nên vô vi sau, không có lỗi của quả trước.

Nên nói pháp nào do bao nhiêu duyên sinh? Tụng nêu:

Tâm tâm sở do bốn

Hai định, chỉ do ba

Khác do hai duyên sinh

Không phải thứ lớp trời.

Luận nói: Trong đây, nói do là để làm rõ về nghĩa cũ, tức là tâm tâm sở, vì bốn duyên nên sinh. Sở duyên duyên kia, trừ sinh tâm v.v…, không có riêng tác dụng. Nghĩa là sáu thức thân và pháp tương ưng, tùy đối tượng ứng hợp của chúng, dùng năm cảnh như sắc v.v… và tất cả pháp làm sở duyên duyên. Tâm v.v… nơi nhân duyên là gồm đủ tánh của năm nhân, trước sinh tự loại, mở rộng dẫn phát, đó gọi là tâm v.v… Đẳng vô gián duyên và tăng thượng duyên này, tức tất cả pháp đều trừ tự tánh, tùy theo đối tượng ứng hợp của chúng.

Há không phải là tác dụng của một duyên, hai nhân, không phải ở nơi pháp kia lúc sinh tức có. Vì sao như tâm v.v… do bốn duyên v.v… nên sinh? Vì sao nhân duyên gồm đủ tánh của năm nhân?

Tuy ở nơi phần vị diệt của pháp, thì tác dụng mới thành, nhưng lúc pháp sinh, không phải là không có công sức. Nếu lìa công sức này, thì pháp kia tất không sinh, vì tâm tâm sở tất nhờ nơi đối tượng duyên và dựa vào hai nhân mới được sinh.

Nếu pháp này cùng với pháp kia làm đối tượng duyên, hoặc nhân không tạm thời, thì không phải là Bản luận đã nói. Tức hai định không tâm do ba duyên nên sinh, trừ sở duyên duyên, vì không phải là chủ thể duyên.

Nhân duyên này chỉ có hai nhân: (1) Nhân câu hữu. Nghĩa là các tướng như sinh v.v… trên hai định. (2) Nhân đồng loại. Nghĩa là trước đã sinh pháp thiện của tự địa.

Đẳng vô gián duyên: Tức là tâm nhập định và pháp tương ưng. Tăng thượng duyên: Nghĩa là như trước đã nói.

Há không phải là vô tưởng cũng do ba duyên sinh?

Vì là đẳng vô gián của tâm tâm sở, cũng nên nói là đẳng vô gián của tâm. Chỉ không phải là gia hạnh của tâm v.v… đã dẫn sinh. Nên ở trong đây đã bỏ không nói. Hoặc vô tưởng này chỉ do âm thanh đã hiển bày, không phải như hai định vì cùng đối nên lập.

Hai định do đâu là đẳng vô gián của tâm mà không nói là đẳng vô gián duyên của tâm, do sức của tâm v.v… đã dẫn sinh? Như tâm tâm sở sinh, tất hệ thuộc nơi tâm trước đã diệt, không phải như sắc pháp có thể cùng với tâm khác cùng thời chuyển. Không phải như đắc v.v… có thể có tạp loạn đều cùng hiện tiền. Không phải như sinh v.v…, vì là bạn khác. Nhưng vì tâm theo phương tiện gia hạnh dẫn sinh, nên có thể nói là tâm đẳng vô gián cùng với tâm cùng khởi nhất định là cùng trái hại, nên không phải là đẳng vô gián duyên của tâm v.v… Lại, vì duyên này là cỳng trái với lý. Nghĩa là người tu hành nhàm chán việc ác, tâm tâm sở pháp hiện hành, nhập định không tâm. Nếu định không tâm lại vì duyên này dẫn sinh tâm tâm sở, thì người tu hành tức nên đối với định này, không có tâm ưa thích dấy khởi. Vì lìa tâm tâm sở pháp hiện hành, nhập định không tâm, định không tâm ấy lại dẫn sinh tâm tâm sở pháp, là không hợp với chánh lý, nên không phải là đẳng vô gián duyên của tâm v.v… Sát-na của hai định trước đối với sau, do đâu không lập đẳng vô gián duyên?

Vì các niệm đều do tâm cùng dẫn, không phải do niệm trước dẫn đến niệm sau khiến khởi.

Nếu niệm trước có thể dẫn niệm sau thì sau cùng tức nên không có quả, cũng không thể nói niệm này dẫn sinh tâm xuất.

Đã nói là trái với tâm, vì không phải là duyên của tâm. Lại, tâm xuất định vì là quả của tâm nhập. Tâm nhập vô gián, tâm xuất chưa sinh, vì sao nói pháp kia là đẳng vô gián?

Không có đẳng vô gián duyên, vì trong ấy bị ngăn cách, nên vô gián và đẳng vô gián, hai nghĩa có sai biệt.

Sức của tâm v.v… trước dẫn pháp sau sinh, pháp sau gọi là đẳng vô gián của trước. Sát-na không có ngăn cách, lập tên vô gián.

Thế nên hai câu nói, nghĩa của chúng đều riêng khác, nên nêu bày như thế.

Nếu pháp cùng với tâm làm đẳng vô gián, thì pháp đó cũng là vô gián của tâm chăng?

Nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Nghĩa là định không tâm, xuất sinh tâm tâm sở và sát-na của các định như thứ hai v.v… (2) Nghĩa là sát-na của các định đã khởi đầu tiên và các tâm tâm sở của phần vị có tâm đã sinh, trụ, dị, diệt. (3) Nghĩa là sát-na của các định đã khởi đầu tiên và tâm tâm sở pháp của phần vị có tâm. (4) Nghĩa là sát-na của các định như thứ hai v.v… và định không tâm xuất sinh tâm tâm sở đã sinh, trụ, dị, diệt.

Nếu pháp cùng với tâm làm đẳng vô gián, thì cùng với định không tâm làm vô gián chăng?

Nên nêu ra bốn trường hợp: Nghĩa là trường hợp thứ ba, thứ tư ở trước là trường hợp thứ nhất, thứ hai hiện nay. Trường hợp thứ nhất, thứ hai ở trước là trường hợp thứ ba, thứ tư hiện nay. Ngoài ra bất tương ưng và các sắc pháp đều nhân nơi hai duyên tăng thượng sinh khởi.

Lại vì sao nhận biết các pháp của thế gian, chỉ như trên đã nói, là do nhân duyên sinh, không phải do một nhân như trời Tự tại, ngã, thắng tánh v.v… khởi?

Do nơi thứ lớp. Nghĩa là các thế gian, nếu do một nhân như trời Tự tại v.v… sinh, tức nên tất cả đều cùng thời mà sinh, không phải theo thứ lớp khởi, vì nhân hiện có.

Vậy pháp nào làm chướng ngại khiến không đều cùng sinh?

Vì hiện thấy các pháp theo thứ lớp mà khởi, nên biết chúng không phải chỉ do một nhân sinh ra. Nếu chấp thế gian tùy nơi Tự Tại muốn trước sau có sai biệt, nên không phải khởi tức khắc, tức là nên thừa nhận, không phải do một nhân sinh. Cũng thừa nhận muốn làm nhân sinh của pháp, nên Tự Tại này muốn sinh diệt trước sau có sai biệt, thì lý cũng không thành, vì nhân không có khác. Không phải nhân không khác mà quả có sai biệt. Chủ yếu là phải chờ đợi nhân khác thì quả mới dị biệt. Hoặc vì sai biệt, nên thừa nhận sinh khởi tức khắc, vì nhân đã hiện trước sau không có sai biệt, tức là các pháp cũng nên sinh khởi tức khắc.

Cái gì có thể làm chướng ngại khiến không khởi ngay tức khắc?

Nếu Tự Tại muốn lại chờ đợi nhân khác, theo thứ lớp trước sau sai biệt sinh ra, tức nên pháp của nhân đã có lại phải chờ đợi nhân khác, thì nhân được chờ đợi nên không có biên vực. Vì nhân vô biên, nên nghĩa vô thủy thành, không vượt qua môn nhân duyên đã giải thích nơi Luận Chánh Lý. Không có tên khác nói Tự Tại làm nhân.

Lại vì vô dụng, tức không nên vọng chấp các pháp của thế gian do Tự Tại làm nhân, vì không phải trời Tự Tại tạo ra công sức lớn, sinh ra pháp thế gian có một ít tác dụng, vì thế không nên cho Tự Tại làm nhân.

Nếu vì phát sinh phần hoan hỷ của chính mình, thì chỉ nên phát khởi hoan hỷ, đâu dùng đến sinh khác. Nếu hoan hỷ lìa phương tiện khác nên không phát khởi, tức là hoan hỷ kia do phương tiện khác sinh, Tự tại ở đây, tức nên không phải Tự tại, vì đối với hoan hỷ đã như vậy, thì pháp khác cũng nên như thế. Do nhân duyên sai biệt, không thể đạt được. Hoặc phương tiện khác sinh, nên từ phương tiện khác sinh đâu dùng đến chấp từ trời Tự tại đã khởi? Nếu phương tiện khác lìa phương tiện khác, sinh hoan hỷ, tức cũng nên không phải do phương tiện khác đã khởi. Hoặc sinh các vật dụng tạo khổ bức hại hữu tình, làm phát khởi sự vui mừng của chính mình thì đâu cần phải phụng sự Tự Tại thiên bạo ác này làm gì? Lại, tin thế gian chỉ từ một nhân là Tự Tại đã sinh khởi, tức là bác bỏ các quả sĩ dụng về tội phước hiện thấy của thế gian. Nếu nói Tự Tại chờ đợi tội phước khác để hỗ trợ phát ra công năng mới thành nhân, thì chỉ là lời nói bè bạn kính trọng Tự tại thiên.

Vì lìa nhân duyên còn lại thì không thấy có tác dụng riêng khác. Nên vô số nhân duyên như thời gian, đất, nước v.v…, đối với mầm v.v… sinh, tức hiện thấy có công sức. Mầm v.v… tùy vào công sức của nhân duyên kia để thành có, không có. Nên ở nơi mầm v.v… sinh, trừ công sức kia, thì không thấy có tác dụng riêng. Do vậy, không nên chấp pháp thế gian sinh khởi do Tự tại làm nhân.

Tự tại đã như vậy, thì ngã, thắng tánh v.v… cũng nên căn cứ theo đấy để xét chọn. Vì thế không có pháp nào chỉ do một nhân sinh, chỉ từ vô số nhân duyên như trước đã nói mà khởi, lý ấy là cực thành.

Đã nói nhân của sắc pháp và hai duyên tăng thượng đã sinh. Đại chủng được tạo gọi chung là sắc. Trong ấy, thế nào là đại chủng được tạo? Là tự tha đối nhau hỗ tương làm nhân duyên. Tụng nêu:

Đại là hai nhân đại

Là năm thứ được tạo

Tạo là tạo ba thứ

Vì đại chỉ một nhân.

Luận nói: Đầu tiên nói đại là hai nhân đại: Các đại chủng này lại cùng đối chiếu nhau, chỉ là nghĩa của nhân đồng loại và nhân câu hữu cùng khởi, vì sinh trước làm nhân riêng. Nghĩa là tùy theo đấy thiếu một thì pháp khác không sinh. Lại cùng đối chiếu là có nhân câu hữu. Loại tánh tuy riêng biệt, nhưng đồng một sự, lại vì thuận với nhau, nên có nhân đồng loại. Đại đối với pháp được tạo có thể làm năm nhân. Những gì là năm? Là sinh khởi, nương dựa, an lập, giữ gìn, nuôi dưỡng có sai biệt. Tuy đồng thời sinh, nhưng vì tùy chuyển, nên như hỗ tương khởi bóng, ngọn đèn, ánh lửa phát sáng. Đại ở nơi nghĩa của nhân được thành của pháp đã tạo.

Năm nhân như thế chỉ là sự sai biệt của nhân năng tác. Đại đối chiếu với pháp được tạo làm năm nhân khác, vì lý không thành. Vì không phải là một quả, nên không phải là nhân câu hữu. Không phải là nhân tương ưng, vì không tương ưng. Vì không phải là nhiễm ô, nên không phải là nhân biến hành. Không phải là nhân dị thục, vì tánh vô ký. Vì không phải là đồng loại, nên không phải là nhân đồng loại.

Hỏi đáp quyết định lựa chọn, như nơi Luận Thuận Chánh Lý. Lại trong Bản luận cũng có văn chứng minh. Đại đối với sắc được tạo không có năm thứ nhân. Như nói: Có sắc xứ, không phải do vô ký làm nhân. Cũng không phải là vô ký, nghĩa là sắc xứ thiện.

Nếu như vậy thì so với Kinh, Luận là trái nhau. Như Khế kinh nói: Nhân nơi bốn đại chủng để thiết lập sắc uẩn. Bản luận cũng nói: Bốn đại được tạo nhân nơi tăng thượng v.v… đều cùng không trái nhau.

Vì căn cứ theo năm nhân như nhân sinh khởi v.v… để nói. Đại cùng với pháp được tạo làm nhân sinh khởi. Nghĩa là từ nơi đại kia khởi. Như mẹ sinh con, làm nhân nương dựa. Nghĩa là tùy theo đại kia chuyển. Như quan dựa vào vua, làm nhân an lập. Vì có thể nhận giữ, như đất giữ gìn vật, làm nhân giữ gìn. Nghĩa là do sức của đại chủng kia giữ gìn, khiến không đoạn dứt. Như thức ăn giữ gìn thân mạng, làm nhân nuôi dưỡng. Nghĩa là có thể tăng trưởng, ví như rễ cây được nước tưới rót thấm ướt.

Như thế tức hiển bày đại cùng với pháp được tạo làm tánh của nhân sinh khởi, biến đổi, giữ gìn, an trụ, nuôi lớn. Hoặc là nhân sinh khởi: Nghĩa là tất cả đại chủng sinh khởi sắc được tạo, không phải lìa các đại chủng mà có sắc được tạo sinh. Nên sắc được tạo sinh xong, đồng loại nối tiếp nhau trong phần vị không đoạn. Lửa làm nhân nương dựa, có thể khiến cho khô ráo, không bị vỡ nát, hư hoại. Nước làm nhân an lập, tức có thể làm thấm nhuần, khiến không tan rã. Đất làm nhân giữ gìn, vì có thể nhận giữ sắc được tạo kia, khiến không rơi đổ. Gió làm nhân nuôi dưỡng, do có thể dẫn phát sắc được tạo kia khiến tăng trưởng.

Đại chủng như thế, tuy so với pháp được tạo, không có nghĩa của năm thứ nhân như câu hữu v.v… mà có năm thứ nhân riêng khác như sinh khởi v.v…, nên so với Kinh, Luận không có lỗi trái nhau. Các sắc được tạo tự cùng đối chiếu chỉ có ba nhân là câu hữu, đồng loại và dị thục. Căn cứ theo loại được tạo thì cùng có ba nhân, không phải là tất cả.

1. Nhân câu hữu. Nghĩa là tùy tâm chuyển, bảy chi của hai nghiệp thân, ngữ đối chiếu nhau, lần lượt làm nhân.

2. Nhân đồng loại. Nghĩa là tất cả sinh trước đối với sau là đồng loại.

3. Nhân dị thục. Nghĩa là các thứ bất thiện và thiện hữu lậu nơi hai nghiệp thân, ngữ có thể chiêu cảm dị thục như mắt v.v… như sắc v.v… được tạo đối với đại, chỉ là một nhân, tức là nhân dị thục. Hai nghiệp thân, ngữ có thể chiêu cảm dị thục là bốn đại chủng, nên đã biện về các pháp với từng ấy duyên sinh, sẽ tùy thuận tông để biện về nghĩa của đẳng vô gián duyên.

Trước tuy nói chung về các tâm tâm sở đã sinh, trừ sau cùng là đẳng vô gián duyên. Nhưng chưa quyết định nói về tâm nào là vô gián, có bao nhiêu tâm sinh? Lại từ bao nhiêu tâm có, tâm nào khởi?

Nay sẽ quyết định nói về tâm có nhiều thứ. Vì sao dựa vào tâm kia để có thể quyết định nêu bày?

Lại, lược nói tâm có mười hai thứ. Những gì là mười hai? Tụng nêu:

Cõi dục có bốn tâm

Thiện, ác, phú, vô phú

Sắc, vô sắc trừ ác

Vô lậu có hai tâm.

Luận nói: Lại, ở cõi dục có bốn thứ tâm, nghĩa là thiện, bất thiện, hữu phú vô ký và vô phú vô ký.

Ở cõi sắc, cõi vô sắc đều có ba tâm: Tức trừ bất thiện, số còn lại như trên đã nói.

Mười thứ như thế nói là tâm hữu lậu. Nếu là tâm vô lậu, thì chỉ có hai thứ là học, vô học, hợp thành mười hai. Mười hai tâm này lại hỗ tương sinh khởi. Tụng nêu:

Cõi dục, thiện sinh chín

Đây lại từ tám sinh

Nhiễm từ mười sinh bốn

Khác từ năm sinh bảy.

Sắc, thiện sinh mười một

Đây lại từ chín sinh

Hữu phú từ tám sinh

Đây lại sinh nơi sáu.

Vô phú từ ba sinh

Đây lại hay sinh sáu

Vô sắc, thiện sinh chín

Đây lại từ sáu sinh.

Hữu phú sinh từ bảy

Vô phú như sắc nêu

Học từ bốn sinh năm

Còn từ năm sinh bốn.

Luận nói: Ở cõi dục, tâm thiện vô gián sinh chín. Nghĩa là tự cõi bốn, cõi sắc hai tâm. Nơi lúc nhập định và ở phần vị nối tiếp sinh, như thứ lớp ấy, sinh tâm thiện, nhiễm.

Sinh tâm thiện nào? Lại thuộc về địa nào?

Ở phần vị đầu tiên này, sinh tâm gia hạnh. Nếu ở vào thời gian sau, thì sinh lìa dục đắc. Vì tùy thuận trụ, nên không cùng khởi tâm gia hạnh kia. Tâm thiện sinh đắc sinh tại thời gian này, vì không thể khiến tâm kia khởi hiện tiền.

Có thuyết nói: Tâm kia thuộc về địa vị chí.

Có thuyết cho: Cũng gồm thâu ở tĩnh lự đầu.

Có thuyết nêu: Cũng ở tại tĩnh lự trung gian.

Tôn giả Cù Sa nói như thế này: Cho đến cũng ở nơi tĩnh lự thứ hai. Như lúc khởi định thì lìa cách địa mà khởi.

Có thuyết nói: Không phải là tâm đẳng dẫn, nên không sức để có thể dẫn dắt cách địa, tâm khởi.

Thế nên thuyết kia, về lý nhất định không đúng. Và vô sắc, một tâm ở nơi phần vị nối tiếp sinh. Ở cõi dục, tâm thiện vô gián sinh tâm nhiễm kia. Cùng học, vô học, tùy thuận trụ, nên ở cõi dục, tâm thiện vô gián tất định không sinh. Ở cõi sắc, vô sắc, là triền vô phú vô ký, vì các tâm kia đều hệ thuộc tâm của tự cõi, nên cũng nhất định không sinh thiện của cõi vô sắc. Do cõi kia đối với đây có bốn thứ xa: (1) Đối tượng nương dựa xa. (2) Hành tướng xa. (3) Đối tượng duyên xa. (4) Đối trị xa.

Tức bốn thứ xa này lại từ tám vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bốn, cõi sắc hai tâm. Vào lúc xuất định, từ nơi định kia tâm thiện khởi. Khi bị tâm nhiễm của tĩnh lự đầu nhất định xúc não, thì từ tâm nhiễm đó, sinh nơi tâm thiện của cõi dục, cầu dựa vào thiện của cõi dưới, nhằm đề phòng thoái chuyển. Và học, vô học. Nghĩa là khi xuất quán. Nhiễm, nghĩa là bất thiện, hữu phú vô ký. Cả hai đều từ mười vô gián mà sinh. Nghĩa là tự cõi bốn, cõi sắc, vô sắc sáu. Sáu tâm nơi cõi trên của phần vị nối tiếp sinh, đều có thể mạng chung, sinh hai nhiễm của cõi dục, tất không có tâm nhiễm ô do vô lậu sinh, nên tâm này không phải từ học, vô học khởi. Tức vô gián này có thể sinh bốn tâm. Nghĩa là tự cõi bốn, cõi khác không có lý sinh. Tất không có tâm nhiễm của địa dưới vô gián có thể sinh lên địa trên và tâm vô lậu. Pháp khác, nghĩa là triền của cõi dục, vô phú vô ký. Tâm này từ năm vô gián sinh. Tức tự cõi bốn và thiện của cõi sắc. Tâm hóa nơi cõi dục từ cõi sắc kia sinh. Tức vô gián này có thể sinh bảy tâm. Nghĩa là tự cõi bốn và cõi sắc hai là thiện cùng với nhiễm ô. Vào thời gian nhập định, tâm hóa của cõi dục trở lại sinh tâm thiện kia.

Ở nơi phần vị nối tiếp sinh tâm vô phú của cõi dục, đã sinh tâm nhiễm kia và cõi vô sắc một, đối với phần vị nối tiếp nhau sinh, tâm vô phú này có thể sinh tâm nhiễm kia.

Như thế là đã biện về bốn tâm của cõi dục vô gián, từ đấy sinh có thể quyết định sinh.

Tâm thiện của cõi sắc vô gián sinh mười một. Nghĩa là trừ tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc, tâm dị thục sinh thuộc về tự cõi, tức tâm này lại từ chín vô gián khởi. Nghĩa là trừ hai tâm nhiễm ô của cõi dục và trừ tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc. Hữu phú từ tám vô gián mà sinh, tức trừ hai tâm nhiễm của cõi dục, học và vô học. Từ vô gián này có thể sinh sáu tâm. Nghĩa là tự cõi ba cùng tâm thiện, bất thiện, hữu phú vô ký của cõi dục. Vô phú từ ba vô gián khởi. Nghĩa là chỉ nơi tự cõi, cõi khác không có lý sinh. Tức vô gián này có thể sinh sáu tâm. Nghĩa là tự cõi ba cùng tâm nhiễm của cõi vô sắc, cõi dục.

Đã biện về tướng của ba tâm nơi cõi sắc sinh. Tâm thiện của cõi vô sắc vô gián sinh chín. Nghĩa là trừ thiện của cõi dục, vô phú của cõi dục, cõi sắc. Tức thiện này từ sáu vô gián sinh. Nghĩa là tự cõi ba và thiện của cõi sắc cùng học, vô học. Hữu phú vô gián có thể sinh bảy tâm. Nghĩa là tự cõi ba và thiện của cõi sắc, nhiễm của cõi dục, cõi sắc. Tức tâm này cũng từ bảy vô gián khởi. Nghĩa là trừ tâm nhiễm của cõi dục, cõi sắc và tâm học, vô học. Vô phú như nói về sắc, là từ ba vô gián sinh. Nghĩa là tự cõi ba, cõi khác đều không có lý sinh. Tức vô gián này có thể sinh sáu tâm. Nghĩa là tự cõi ba và nhiễm của cõi dục, cõi sắc.

Đã biện về tướng của ba tâm nơi cõi vô sắc sinh. Tâm học từ bốn vô gián sinh. Nghĩa là tức tâm học và tâm thiện của ba cõi.

Tức vô gián này có thể sinh năm tâm. Nghĩa là bốn tâm trước và một tâm vô học. Không phải nhiễm của ba cõi vì cùng trái nhau. Không phải là các vô phú, vì không sáng rõ, nhanh nhẹn. Pháp khác, nghĩa là vô học, từ năm vô gián sinh. Tức tâm thiện của ba cõi và hai học, vô học. Tức vô gián này có thể sinh bốn tâm. Nghĩa là tâm thiện của ba cõi và vô học một. Không sinh tâm học, vì học kia không phải là quả. Không phải là nhiễm, vô phú như trước đã nói.

Nói mười hai tâm hỗ tương sinh xong, vì sao phân mười hai tâm này thành hai mươi tâm?

Tụng nêu:

Mười hai làm hai mươi

Tức tâm thiện ba cõi

Phân gia hạnh, sinh đắc

Vô phú dục phân bốn.

Dị thục, đường oai nghi

Xứ công xảo, thông quả

Cõi sắc trừ công xảo

Số còn như trước nói.

Luận nói: Tâm thiện của ba cõi đều phân làm hai thứ. Nghĩa là gia hạnh đắc, sinh đắc riêng biệt. Vô phú của cõi dục được phân làm bốn tâm: (1) Dị thục sinh. (2) Đường oai nghi. (3) Xứ công xảo. (4) Tâm thông quả.

Tâm vô phú của cõi sắc phân làm ba thứ, trừ xứ công xảo. Do cõi trên đều không có tạo tác vô số sự việc công xảo. Cõi vô sắc không có các sự việc như hành v.v… Không có đường oai nghi, vì không có thâu nhận chi Tam-ma-địa v.v…, cũng không có thông quả. Dựa vào lý như thế, cõi dục có tám, cõi sắc có sáu, cõi vô sắc có bốn cùng tâm học, vô học hợp làm hai mươi.

Hai mươi tâm như thế lại hỗ tương sinh khởi. Lại nói trong tám thứ tâm nơi cõi dục thì tâm thiện gia hạnh vô gián sinh mười. Nghĩa là tự cõi bảy, trừ tâm thông quả, vì từ loại định tĩnh vô gián sinh, và một tâm thiện gia hạnh của cõi sắc cùng học, vô học. Tức tâm này lại từ tám vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bốn, tức hai thiện, hai nhiễm và hai gia hạnh hữu phú của cõi sắc cùng học, vô học. Tâm thiện sinh đắc, vô gián sinh chín. Nghĩa là tự cõi bảy, trừ tâm thông quả và hữu phú vô ký của cõi sắc, cõi vô sắc. Tức tâm này lại từ mười một tâm khởi. Nghĩa là tự cõi bảy, trừ tâm thông quả và hai gia hạnh hữu phú của cõi sắc cùng học, vô học.

Hai tâm nhiễm ô vô gián sinh bảy. Nghĩa là tự cõi bảy, trừ tâm thông quả. Tức tâm này lại từ mười bốn tâm khởi. Nghĩa là tự cõi bảy, trừ tâm thông quả và cõi sắc bốn, trừ tâm thiện gia hạnh cùng với tâm thông quả, cùng cõi vô sắc ba, trừ tâm thiện gia hạnh. Dị thục, oai nghi vô gián sinh tám. Nghĩa là tự cõi sáu, trừ tâm thiện gia hạnh cùng với tâm thông quả và hữu phú vô ký của cõi sắc, vô sắc. Tức tâm này lại từ bảy vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bảy, trừ tâm thông quả. Tâm xứ công xảo vô gián sinh sáu. Nghĩa là tự cõi sáu, trừ tâm thiện gia hạnh cùng với tâm thông quả. Tâm thông quả này lại từ bảy vô gián khởi, tức trừ tâm thông quả. Từ tâm thông quả vô gián sinh hai. Nghĩa là tự cõi một, tức tâm thông quả, và cõi sắc một, tức tâm thiện gia hạnh. Tức tâm này cũng từ hai vô gián khởi. Nghĩa là tức trước nói hai tâm của tự sắc.

Nói về tâm nơi cõi dục hỗ tương sinh xong. Tiếp theo là nói về cõi sắc. Trong sáu thứ tâm nơi cõi ấy, từ tâm thiện gia hạnh vô gián sinh mười hai. Nghĩa là tự cõi sáu và cõi dục ba, là gia hạnh, sinh đắc cùng với tâm thông quả, và cõi vô sắc một là tâm thiện gia hạnh, cùng tâm học, vô học. Tức tâm này lại từ mười vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bốn, trừ đường oai nghi cùng với dị thục sinh, và hai tâm của cõi dục là gia hạnh thông quả. Và hai tâm gia hạnh hữu phú của cõi vô sắc, cùng tâm học, vô học. Tâm thiện sinh đắc vô gián sinh tám. Nghĩa là tự cõi năm, trừ tâm thông quả và hai tâm bất thiện, hữu phú của cõi dục và một tâm hữu phú vô ký của cõi sắc. Tức tâm này lại từ năm vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi năm, trừ tâm thông quả. Hữu phú vô ký vô gián sinh chín. Nghĩa là tự cõi năm, trừ tâm thông quả. Và cõi dục có bốn là hai thiện, hai nhiễm. Tức tâm này lại từ mười một tâm khởi. Nghĩa là tự cõi năm, trừ tâm thông quả. Và cõi dục ba là tâm thiện sinh đắc, oai nghi, dị thục, cùng cõi vô sắc ba là trừ tâm thiện gia hạnh.

Dị thục, oai nghi vô gián sinh bảy. Nghĩa là tự cõi bốn, trừ tâm thiện gia hạnh cùng với tâm thông quả, và cõi dục hai là bất thiện, hữu phú, cùng cõi vô sắc một là tâm hữu phú vô ký. Tức tâm này lại từ năm vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi năm, trừ tâm thông quả. Từ tâm thông quả vô gián sinh hai. Nghĩa là tự cõi hai là gia hạnh và thông quả. Tức tâm này cũng từ hai vô gián khởi. Nghĩa là tức trước nói hai tâm nơi tự cõi.

Đã nêu bày về tâm nơi cõi sắc hỗ tương sinh xong. Tiếp theo là nói về cõi sắc. Trong bốn thứ tâm của cõi vô sắc, thì tâm thiện gia hạnh vô gián sinh bảy. Nghĩa là tự cõi bốn và cõi sắc một là tâm thiện gia hạnh cùng học, vô học. Tức tâm này lại từ sáu vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi ba, chỉ trừ dị thục và cõi sắc một là tâm thiện gia hạnh cùng học, vô học. Tâm thiện sinh đắc và vô gián sinh bảy. Nghĩa là tự cõi bốn và cõi sắc một là hữu phú vô ký cùng cõi dục hai là hữu phú, bất thiện. Tức tâm này lại từ bốn vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bốn. Hữu phú vô ký vô gián sinh tám. Nghĩa là tự cõi bốn và cõi sắc hai là gia hạnh, hữu phú cùng cõi dục hai là hữu phú, bất thiện. Tức tâm này lại từ mười vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bốn và cõi sắc ba là sinh đắc, dị thục, đường oai nghi cùng cõi dục có ba, danh xưng như nói về cõi sắc. Tâm dị thục sinh vô gián sinh sáu. Nghĩa là tự cõi ba, trừ thiện gia hạnh và cõi sắc một là hữu phú vô ký cùng cõi dục có hai là hữu phú, bất thiện. Tức tâm này lại từ bốn vô gián khởi. Nghĩa là tự cõi bốn.

Nói về tâm của cõi vô sắc hỗ tương sinh xong, tiếp theo là nói về tâm vô lậu. Trong hai thứ tâm vô lậu, thì từ tâm hữu học vô gián sinh sáu. Nghĩa là chung cho tâm thiện gia hạnh của ba cõi và sinh đắc của cõi dục, cùng học, vô học. Tức tâm này lại từ bốn vô gián khởi. Nghĩa là ba gia hạnh và tâm hữu học.

Từ tâm vô học vô gián sinh năm. Nghĩa là hữu học ở trước đã sinh sáu tâm, trong ấy trừ một tâm hữu học. Tức tâm này lại từ năm vô gián khởi. Nghĩa là ba gia hạnh và tâm học, vô học.

Lại có do đâu gia hạnh vô gián có thể sinh dị thục, công xảo, oai nghi?

Không phải vô gián kia sinh tâm thiện gia hạnh. Lại, dị thục sinh do sức của nghiệp trước đã dẫn phát, nên uy lực yếu kém, không phải đã tạo ra công dụng dẫn khởi, nên không thể dẫn sinh tâm thiện gia hạnh.

Vì thế vô gián kia không thể sinh tâm thiện gia hạnh, vì tâm xuất không do công dụng chuyển. Gia hạnh vô gián sinh gia hạnh kia là không trái, vì uy lực của oai nghi, công xảo thì yếu kém. Ưa thích tạo ra công dụng dẫn phát công xảo và oai nghi, tức không thể dẫn khởi tâm thiện gia hạnh, vì tâm xuất không do công dụng chuyển, nên gia hạnh vô gián sinh gia hạnh kia là không trái.

Nếu như vậy thì tâm nhiễm không nên vô gián sinh tâm thiện gia hạnh?

Vì nhiễm đắm nơi cảnh giới là trái hẳn với thiện, vì uy lực yếu kém, nên không có lỗi lầm này. Nhàm chán, mệt mỏi đối với phiền não thường xuyên hiện tiền, nên có tư duy ấy. Nói theo phương tiện nào khiến tụ vô nghĩa ngừng dứt, không hành. Tức nhận biết như thật dấy khởi cảnh giới lỗi lầm có thể sinh khởi công đức, thoát khỏi tâm: Ta sẽ khởi phiền não hiện tiền. Lại nhận biết rõ, khởi thiện đề phòng giữ. Do nguyện lực này, nên có thể khởi gia hạnh. Từ vô thủy đến nay, vì thường tập nhiễm, vì thế mạnh của tập nhiễm không suy kém, nên từ nhiễm vô gián sinh thiện gia hạnh. Hành tướng sinh đắc của cõi dục thì sáng rõ, nhanh nhẹn, không phải là đối tượng dẫn phát của công dụng vượt hơn. Do sáng rõ nhanh nhẹn, nên có thể có từ sinh đắc. Tâm học, vô học, do gia hạnh của cõi sắc vô gián mà khởi, không phải là đối tượng dẫn phát của công dụng thù thắng, nên không thể từ sinh đắc này dẫn sinh tâm học, vô học kia. Tâm thiện sinh đắc của cõi sắc, cõi vô sắc vì không sáng rõ, nhanh nhẹn, vì không phải là đối tượng dẫn phát của công dụng vượt hơn, nên phi học phi vô học do gia hạnh của cõi khác vô gián mà khởi, cũng không phải từ tâm này dẫn sinh tâm kia. Lại, sinh đắc của cõi dục, do sáng rõ nhanh nhẹn, nên có thể từ tâm nhiễm của cõi sắc vô gián sinh, có thể làm sự việc phòng hộ sinh đắc của cõi sắc không sáng rõ, nhanh nhẹn, nên không phải do nhiễm của cõi vô sắc vô gián mà khởi.

Tác ý có ba. Nghĩa là tác ý, tự tướng, cộng tướng và thắng giải có sai biệt.

Thế nào gọi là tác ý tự tướng?

Nghĩa là quán các sắc có biến đổi, ngăn ngại làm tướng. Cho đến quán thức có phân biệt nhận biết làm tướng. Các thứ quán như thế v.v… tương ưng với tác ý.

Thế nào gọi là tác ý cộng tướng?

Nghĩa là mười sáu hành tương ưng với tác ý.

Thế nào gọi là tác ý thắng giải?

Nghĩa là quán bất tịnh và bốn vô lượng, giải thoát hữu sắc, thắng xứ, biến xứ.

Những thứ quán như thế v.v… tương ưng với tác ý.

Ba thứ tác ý như thế vô gián khiến Thánh đạo hiện tiền. Thánh đạo vô gián cũng có thể khởi đủ ba thứ tác ý. Nếu nói như thế tức là thuận với câu nói: Quán bất tịnh đều cùng hành với tu các giác phần như niệm v.v…

Có Sư khác cho: Chỉ từ tác ý cộng tướng vô gián thì Thánh đạo hiện tiền, Thánh đạo vô gián mới có thể khởi đủ ba thứ tác ý.

Nếu như vậy thì do đâu trong Khế kinh nói: Quán bất tịnh đều cùng hành với tu các giác phần như niệm v.v…

Do quán bất tịnh, điều phục tâm rồi, mới có khả năng dẫn sinh tác ý cộng tướng. Từ đấy vô gián thì Thánh đạo hiện tiền. Dựa vào Thánh đạo này, lần lượt mật ý mà nói, nên không có lỗi.

Có thuyết khác lại nêu: Chỉ từ tác ý cộng tướng vô gián thì Thánh đạo hiện tiền. Thánh đạo vô gián cũng chỉ có thể khởi tác ý cộng tướng.

Lời nói này có lỗi. Vì sao? Vì dựa nơi ba địa như vị chí v.v…, chứng nhập chánh tánh ly sinh. Thánh đạo vô gián có thể sinh khởi tác ý cộng tướng của cõi dục. Do tác ý cộng tướng trong cõi dục cách Thánh đạo kia không phải là rất xa.

Nếu dựa vào tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư, chứng nhập chánh tánh ly sinh, thì Thánh đạo vô gián khởi tác ý nào? Không phải khởi tác ý cộng tướng của cõi dục, do rất xa. Lại, ở nơi địa của tĩnh lự kia là không cùng có. Vì không phải nơi địa của tĩnh lự kia đã từng có được tác ý cộng tướng khác với từng được thuận phần quyết trạch. Không phải các Thánh giả thuận phần quyết trạch, có thể lại hiện tiền. Không phải được quả rồi có thể phát sinh lại đạo gia hạnh.

Thuyết kia nay nên nói: Sau Thánh đạo này khởi tác ý cộng tướng nào hiện tiền.

Há không phải là hệ thuộc theo thuận phần quyết trạch, cũng tu tác ý cộng tướng, giống với Thánh đạo kia. Như quán các hành đều là vô thường. Quán tất cả pháp đều vô ngã. Niết-bàn tĩnh lặng. Thánh đạo vô gián dẫn sinh tác ý cộng tướng kia hiện tiền.

Biện hộ giúp này là phi lý, vì tác ý đã tu là hệ thuộc gia hạnh. Không phải sau khi được quả là có thể dẫn sinh hiện tiền, vì là giống với quả kia. Tức như trước đã nói: Thánh đạo vô gián là chung cho ba tác ý hiện tiền, về lý là tốt. Nếu dựa vào định vị chí đắc quả A-la-hán, thì tâm xuất quán sau, hoặc tức là địa của tĩnh lự kia, hoặc là cõi dục. Dựa vào vô sở hữu xứ, đắc quả A-la-hán, thì tâm xuất quán sau, hoặc tức là địa của tĩnh lự kia, hoặc là xứ Hữu đảnh.

Nếu dựa vào địa khác đắc quả A-la-hán, thì tâm xuất quán sau, chỉ là tự địa không phải là địa khác. Ở trong cõi dục có ba tác ý: (1) Văn tạo thành. (2) Tư tạo thành. (3) Sinh đã đắc.

Nơi cõi sắc cũng có ba thứ tác ý: (1) Văn tạo thành (2) Tu tạo thành (3) Sinh đã đắc.

Không có tư tạo thành, vì khi khởi tâm tư duy, tức nhập định. Cõi vô sắc chỉ có hai thứ tác ý: (1) Tu tạo thành (2) Sinh đã đắc.

Tác ý văn, tư của cõi dục vô gián thì Thánh đạo hiện tiền. Thánh đạo vô gián thì khởi đủ ba thứ tác ý hiện tiền. Do các Thánh đạo khởi, tất hệ thuộc nơi đạo gia hạnh. Không phải tác ý của tâm thiện sinh đắc vô gián thì Thánh đạo hiện tiền. Tác ý văn, tu của cõi sắc vô gián thì Thánh đạo hiện tiền. Thánh đạo vô gián thì cũng chỉ khởi hai loại tác ý kia. Chỉ tác ý tu của cõi vô sắc vô gián thì Thánh đạo hiện tiền. Thánh đạo vô gián thì cũng chỉ khởi tu, không khởi sinh đắc.

Nếu sinh nơi tĩnh lự thứ hai trở lên, thì khi khởi ba thức thân của tĩnh lự đầu, các hữu tình chưa lìa nhiễm của tự địa, thì hữu tình kia, từ tác ý thiện, nhiễm, vô ký của tự địa vô gián tức ba thức hiện tiền. Ba thức vô gián trở lại sinh ba thứ tác ý của tự địa. Các hữu tình đã lìa nhiễm của tự địa, thì trừ tác ý nhiễm, chỉ tác ý thiện, vô ký vô gián thì ba thức hiện tiền. Ba thức vô gián thì cũng chỉ khởi hai thứ tác ý này.

Ở trước đã nói về mười hai tâm, trong ấy tâm nào hiện tiền? Bao nhiêu tâm có thể đạt được?

Tụng nêu:

Nhiễm ba cõi như tiếp

Được bảy, sáu, hai thứ

Thiện sắc hai, học ba

Hai trọn vẹn tự đắc.

Luận nói: Tâm nhiễm của cõi dục nơi phần vị đang hiện tiền trong mười hai tâm cùng đạt được bảy tâm. Tâm nhiễm của cõi sắc nơi phần vị đang hiện tiền trong mười hai tâm cùng có được sáu tâm. Tâm nhiễm của cõi vô sắc nơi phần vị đang hiện tiền trong mười hai tâm cùng có được hai tâm. Vì một sát-na nên nói không như vậy. Nghĩa là khi khởi tâm nhiễm ô của cõi dục, hoặc cõi thoái chuyển trở lại, hoặc nối tiếp gốc thiện, hoặc thoái mất đức thù thắng. Đối với ba phần vị này, tùy cùng số có, gồm chung được bảy tâm, khi cõi thoái chuyển trở lại, được nơi tự cõi bốn, và tâm nhiễm của cõi sắc, cũng cùng có thể đạt được. Nơi phần vị nối tiếp gốc thiện, được tâm thiện của tự mình, do căn thiện cùng nối tiếp trong tâm nghi. Nơi phần vị thoái mất đức thù thắng, tâm nhiễm của ba cõi và tâm hữu học, đều cùng có thể đạt được. Nếu khi khởi tâm nhiễm ô của cõi sắc, hoặc cõi thoái chuyển trở lại, hoặc thoái mất đức thù thắng, tùy theo số lượng gồm được sáu tâm. Khi cõi thoái chuyển trở lại, thì được ba thứ của tự mình và được tâm vô phú vô ký của cõi dục.

Nghĩa là tâm thông quả nơi phần vị thoái mất đức thù thắng. Tâm nhiễm ô của hai cõi sắc, vô sắc và tâm hữu học đều cùng có thể đạt được. Nếu lúc khởi tâm nhiễm ô của cõi vô sắc, thì tức khắc được hai tâm. Nghĩa là tâm nhiễm, tâm học của chính mình. Trong đây, chỉ có phần vị thoái mất đức thù thắng. Tâm thiện của cõi sắc ở phần vị đang hiện tiền trong mười hai tâm cùng được hai tâm. Nghĩa là tự tâm thiện và tâm vô phú vô ký, do thăng tiến. Nếu tâm hữu học nơi phần vị đang hiện tiền. thì trong mười hai tâm cùng được ba tâm. Nghĩa là tâm hữu học và vô phú của cõi sắc, thiện của cõi vô sắc. Nếu đầu tiên chứng nhập chánh tánh ly sinh, bấy giờ tâm học tức gọi là đắc. Nếu dùng Thánh đạo lìa nhiễm của cõi dục, nơi thời gian sau cùng đã khởi đạo giải thoát, thì được vô phú của cõi sắc. Nếu dùng Thánh đạo lìa nhiễm của cõi sắc, thì được thiện của cõi vô sắc. Trong đây, nói lìa không phải là lìa rốt ráo, vì nhiễm ở cõi sắc, khi chưa lìa hoàn toàn, thì tâm thiện của cõi vô sắc đã có thể đạt được. Hai nghĩa là tâm vô phú vô ký của cõi dục, cõi sắc. Trong hai tâm này đều không có chỗ đắc. Khác nghĩa là các tâm như nhiễm v.v… ở trước đã nói. Còn lại nghĩa là tâm vô phú vô ký của cõi vô sắc.

Tâm thiện của cõi dục, cõi vô sắc và tâm vô học, không nói tâm kia nơi phần vị đang hiện tiền được tâm có sai biệt. Nên biết tâm vô học kia ở phần vị đang hiện tiền, chỉ tự có thể đạt được các đắc đã nói.

Căn cứ theo tâm của loại này, trước đã không được thành, nay mới đạt được.

HẾT – QUYỂN 11