CHỈ QUÁN MÔN LUẬN TỤNG
Hán dịch: Tạo luận: Bồ-tát Thế Thân
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

Thấy hình tướng người nữ
Đoan trang và yêu kiều
Người ngu không thấu rõ
Vọng sinh ý dâm nhiễm.
Phật nói nào sình trướng
Xúc trừ tâm dâm dục
Thường theo lời Thế Tôn
Được đạo quả thù thắng.
Nghe, tư duy tịnh giới
Thường tinh tấn tu tập
Buộc tâm quán các cảnh
Nhân giải thoát là đây.
Nếu người có sân nhiễm
Thùy miên và hôn trầm
Trạo cử cùng nghi hoặc
Cả năm, ngăn tu định.
Ít nghe, ít ở chúng
Ưa thích các việc xấu
Ái thân và thọ dụng
Cũng thường ngăn tâm định.
Tâm loạn có năm duyên
Tình (căn) theo cảnh tán loạn
Mê đắm và lăng xăng
Ngã mạn ưa danh tiếng.
Tỳ khưu nương Thánh giáo
Có lỗi phải bỏ ngay
Khéo giữ trụ tâm duyên
Đó là hạnh trước hết.
Tiếp nương nơi vắng lặng
Đều không ngại khó khăn
Sau dứt suy nghĩ tà
Là nghiệp đầu (của) Tỳ kheo.
Phải ở rừng gò mả
Mặc y phục phấn tảo
Thường cầu việc vắng lặng
Đoạn trừ tâm nhiễm dâm.
Khất thực, thấy người nữ
Phải quán là bất tịnh
Khép mắt trừ niệm tà
Chính tâm nhận thức ăn.
Nói nhiều, lo nhiều việc
Cần phải mau xa lìa
Duyên não loạn bức bách
Phải dùng tuệ nhẫn nhục
Phải ơ nơi đồng hoang
Dưới cây, trong hang núi
Lúc quán nên ở đây
Vắng lặng mà tu tâm
Lúc duyên cảnh tu định
Không quá cao, quá thấp
Đừng quá xa, quá gần
Để tương ưng với cảnh
Khéo chọn cảnh sở duyên,
Mà quán xét tường tận
Lúc nhắm mắt trụ tâm
Cũng như mở mắt nhìn
Phải nhiếp phục các căn
Trụ niệm nội tâm lặng
Duyên cảnh trước mắt quán,
Niệm niệm cho liên tục
Tướng hình mạo chọn đó
Mà dụng tâm quán xét
Quán thây nữ sình trướng
Đáng sợ, thật ghê tởm
Giống như nước ao đục
Gió thổi làm chao động,
Thấy hình bóng của cây
Chẳng rõ ràng, chẳng tốt.
Nước phiền não như tâm,
Bị gió loạn tình thổi
Lúc lắng niệm quan sát
Tối tăm chẳng thể còn
Tâm chìm phải giục tỉnh
Nên quán việc thắng diệu
Như đỉa hút máu người
Dội nước khiến tỉnh lại.
Lại phải mau thu giữ,
An tâm trong cảnh cũ
Khiến ý có khả năng
Điều hòa tốt, theo niệm
Nếu tâm kia trạo cử
Phải nghĩ, chán việc ác
Khiến tâm trụ vắng lặng
Như móc buộc đầu voi
Lìa hôn trầm, trạo cử,
Phải bình đẳng vận tâm
Tùy tình mà trụ, xả
Đừng để vướng lỗi lầm
Từ đó dần được trụ
Giữ hình tướng an tâm
Thấy rõ hành Trung đạo,
Đèn chính niệm thường soi.
Lúc này dùng tầm tứ,
Lần lượt nên quán sát.
Bóng định sẽ được sinh
Rõ ràng trụ trước mắt.
Rõ sạch chẳng dao động.
Như hình đại trượng phu,
Nhìn hình này mà quán
Đó là tướng sai biệt
Tướng này đã sinh rồi
Dục, ái liền đoạn dứt
Chính là người buộc tâm
Tướng phương tiện sơ định
Tiếp biết “thể” sân hận
Vốn do tham nhiễm khởi
Dục, ái đã diệt rồi
Sẽ lìa được sân hận
Tiếp dùng niệm tinh cần
Trừ tâm hôn trầm, ngủ
Đã quán tướng sai biệt
Nghi tình sẽ dứt ngay
Kế phải trừ ố tác,
Hạnh thiện (là) đường an ổn.
Vắng lặng không chướng ngại
Thường đề phòng trạo cử.
Phải từ nơi tướng thô
Quán xét tướng của nó
Ảnh hiện ngay trong tâm
Bằng suy tìm tỉ mỉ
Thấy sai khác, tâm vui
Từ đó được khinh an
Kế chứng vui của định
Thứ lớp định như vậy
Đây là định căn bản,
Khéo an được niệm, tâm.
Giống như muốn vào làng
Và vào được làng ấy.
Đã được định căn bản
Lại càng phải tu tiếp
Chứng tha tâm, túc mạng
Thiên nhãn, thiên nhĩ thông
Định lúc này còn tức (suy xét, tìm tòi)
Tâm chưa được trụ yên
Như nước còn gợn sóng
Không phải định địa trên.
Tuy đã được sơ định
Nhưng còn trụ sở duyên.
Kế nương hai tĩnh lự,
Đều dừng hẳn tầm, tứ
Dù trụ được chốn này
Vẫn còn sóng hỷ trội
Lúc vào định thứ ba
Tâm này mới trụ yên
Do tâm này còn lạc (Thiền chi lạc)
Chưa thể khiến niệm trụ,
Chứng tĩnh lự thứ tư
Các lỗi mới điều trừ
Thối phần, thắng tấn phần
Trụ phần, quyết trạch phần
Tĩnh lự bốn loại phần
Người tu định phải biết
Định nếu thuận phiền não,
Đây gọi là thối phần
Sau hơn là Thắng phần.
Tự trụ là Trụ phần
Do trước phân biệt tốt
Là nhân quyết trạch đạo
Đây quyết định được kia
Nên gọi Quyết trạch phần
Hiểu rõ tướng vô thường…
Và các hành tạo khởi …
Nếu người đắc định này
Là được đạo phần Noãn v.v…
Đối các tướng bầm, trướng…
Có rất nhiều cách quán
Như Thánh giáo tu hành,
Cần phải biết sai biệt.
Gió thổi thây chết sình
Chảy mủ máu trong huyệt
Toàn thân đều ghê tởm
Đây là quán sình trướng
Chẳng yêu những thân thô
Chỉ ham thân mềm mại
Với người tâm nhiễm ấy
Dạy họ quán như vậy.
Nếu ở phần thây chết
Ít có mủ trắng chảy
Thịt còn lại đều bầm
Đây là quán bầm, trướng
Thấy sắc mà sinh ái
Đây là người mê sắc
Dùng bầm trướng đối trị,
Khiến họ sinh ghê tởm.
Toàn thây đều chảy mủ
Đây là tướng mủ chảy
Đối trị người ưa mùi,
Quán khiến dứt tâm nhiễm
Thây chết đứt ngang lưng
Đây là tướng đoạn hoại
Đối trị yêu toàn thân
Phật dùng đấy đối trị.
Xương cốt rã bừa bãi
Chim rỉa, còn gân tàn
Đối trị yêu da thịt
Nói rõ tướng bị ăn
Xương tay chân, các chi…
Đều phân tán mỗi nơi
Đối trị tham chi phần
Nói quán tướng tạp loạn
Tướng đống xương hỗn tạp,
Dao gậy, đập xẻ rời
Đối trị yêu toàn thân
Khiến họ quán tướng này
Thây xương bị dao chém
Hoặc kích, tên đâm phải
Máu chảy khắp cả thân
Đây là tướng thân máu
Lau sạch, thoa hương thân
Thay áo quần mới, đẹp
Người nhân đây khởi tham
Cho đây làm thuốc quý
Ích kỷ yêu giữ cảnh
Không cho người ngoài xem,
Quán trùng rỉa thây chết,
Khiến trừ bỏ niệm ác
Xương thịt đều tan rã
Chỉ còn xương và răng
Với người tham tướng răng
Khiến quán tướng răng xương
Hoặc thấy người vừa chết
Thức mất, còn thân tàn
Những chúng sinh tham đắm
Khiến quán trừ tham dục
Phẩn tiểu và đờm dãi
Tụ hợp cùng thành thân
Gồm ba mươi hai vật
Túi da, gọi là người
Lông tóc và móng răng
Tướng trong nào gan ruột
Ba trăm xương chống đỡ
Chín trăm gân kết đan
Chí lỗ chảy nước dơ
Ô uế khó nói hết
Xét kỹ, thật đáng ghét
Người trí chẳng nên gần
Quán thân người nữ rồi
Cũng lại xét thân mình
Nơi ấy nhân tham nhiễm
Lý nên thường buộc niệm
Chẳng thoát ngục ba cõi
Đều do tâm dục nhiễm
Do vậy, người trí sáng
Phải khéo xét việc này
Trải bao khổ địa ngục
May mới được làm người
Lẽ nào để tâm cuồng
Chẳng tu hạnh thù thắng?
Dâm tham có nhiều loại
Do vì ái khác nhau
Hễ quán, đều trừ sạch
Gọi là quán xương trắng
Gặp hình dung yêu kiều
Áo quần đẹp, tham đắm
Thuốc nào mà chữa được
Không ngoài quán xương trắng
Trước từ ngón chân cái
Tâm định duyên tướng sưng
Nát ra và chảy mủ
Da thịt đều thối rữa
Rồi quán đến bàn tay
Giống như màu cò trắng
Nó dần dần sưng tấy
Da thịt đều thối rữa
Lần lượt quán như vậy
Toàn thân, thịt thối rữa
Chính niệm thắng giải thành
Chỉ quán khung xương ấy.
Nếu còn lại miếng thịt
Thì gọi là ý loạn
Huống gì tâm phóng túng
Chạy tìm đến các cảnh
Lúc nào cũng buộc niệm
Tự biết thường tru tốt
Dần dần quán người khác
Đều chung, là khung xương
Rộng ra đến biển cả
Chỉ đầy là xương trắng
Thành tựu định này rồi
Xả rộng mà về hẹp
Ban đầu xả từ ngoài
Đến chỉ còn thân, xương
Lại quán đầu ngón chân
Thứ lớp mà tâm định
Có khi xả từng phần
Cho đến xương đỉnh đầu
Phải biết tâm sau cùng
Thâu giữ giữa chặng mày
Nếu tu tập như thế
Thường sinh trong Phạm cung
Chẳng vào ba cõi ác
Sinh về Ngũ Tịnh Cư
Người đời mất tâm thiện
Trôi lại trong sinh tử
Người trí tu tâm định
Như cứu lửa cháy thân
Muốn xả được các duyên
Cần ở nơi rừng vắng
Chớ để vô thường bức
Chết uổng trong tâm loạn
Dùng trí tuệ, tịnh tâm
Chết cũng được quả vui.
Hoặc không cầu thân sau,
Nay, Thắng đạo nên tu.
Cạo tóc, mặc ca sa
Thích nghi tu Thánh đạo
Ngoài ra, việc huyên náo
Đều là nhân sinh tử.