Kim Cương Luân Bồ Tát Ấn
tụng Chân Ngôn để vào Mạn Trà La (Maṇḍala: Đạo Trường), nhận được Luật Nghi (Saṃvaraḥ) của Tam
Thế Vô chướng ngại Tam Chủng Bồ Tát (3 loại Bồ Tát không có chướng ngại trong 3 đời)
Do vào Mạn Trà La (Maṇḍala) thì Thân Tâm đầy đủ Tam Ma Gia (Samaya) nhiều như số bụi nhỏ trong mười cõi Thế Giới nhiều như bụi nhỏ của Phật, không có làm Cấm Giới (Saṃvaraḥ).
Nhân co duỗi, cúi đầu, ngửa cổ, phát ngôn, nhả hơi, khởi Tâm động niệm, bỏ quên Tâm Bồ Đề, lùi mất căn lành. Dùng phương tiện thù thắng của Ấn Khế, Chân Ngôn này, tụng trì tác ý thì hay trừ tội lỗi vi phạm.
Tam Muội Gia như cũ, tăng thêm gấp bội Quang Hiển (hiện ánh sáng), hay tịnh Thân Khẩu Ý liền thành nhập tất cả Mạn Trà la, được Quán Đỉnh Tam Ma Gia.
Liền nên kết Khế: Hai tay cài chéo nhau bên trong, kèm duỗi thẳng Tiến Lực (2 ngón trỏ), Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) quấn quanh và ló ra phía trước lóng đầu của Tiến Lực (2 ngón trỏ), đều dùng tướng đứng của ngọn núi, kèm Thiền Trí (2 ngón cái) duỗi thẳng, để ở trái tim, tụng Chân Ngôn 7 biến.
Chân Ngôn là :
“Nẵng mạc tất- để-lý-dã địa -vĩ ca nam, đát tha nghiệt đa nam. Ám, vĩ la nhĩ, vĩ la nhĩ, ma ha chước-yết la phộc nhật-la, sa đá sa đá, sa la đế, sa la đế, đátla dĩ, đát-la dĩ, vĩ đà ma nhĩ, tam bạn nhạ nễ, đát-la ma để, tất đà nghĩ-lý đátlam, sa phộc hạ”
Lúc tụng Chân Ngôn này thời tác quán niệm này: “Chúng Hữu Tình thuộc sáu nẻo sinh tử trong ba cõi, khắp cả Pháp Giới, cùng tận cõi Hư Không… mau được vào Kim Cương Giới Đại Mạn Trà La (Vajra-dhātu-mahā-maṇḍala), ngang đồng với Kim Cương Tát Đỏa Đại Bồ Tát.